Local Church
Giáo hội địa phương. Là giáo xứ hoặc một cụm giáo xứ trong một giáo phận, hoặc nói chung là bất cứ một địa phương nào trong Giáo hội Công giáo, trái với tòan thể Giáo hội hoàn vũ trên khắp thế giới.
Local Congregation
Cộng đòan địa phương. Là các thành viên của một cộng đồng giáo xứ riêng, để phân biệt với giáo phận hoặc Giáo hội hòan vũ.
Locus Classicus
Locus Classicus, nguồn cổ điển. Là một nguồn sách cổ điển, thường được lấy từ các đoạn Kinh thánh và được huấn quyền Giáo hội trích dẫn như là nền tảng trong Mặc khải cho một số tín lý Công giáo. Do đó, câu “Anh là Phê-rô," của Chúa Kitô nói với Simon Peter (Si-môn Phê-rô), là nguồn cổ điển cho tối thượng quyền của Giáo hòang (Mt 16:18).
Locution
Thần ngôn, kiểu nói. Là một sự giao tiếp siêu nhiên vào tai, trí tưởng tượng hoặc trực tiếp cho trí tuệ một người. Thần ngôn là siêu nhiên trong cách thức giao tiếp, nghĩa là vượt quá luật bình thường của tự nhiên. Thần ngôn giả có thể đến từ ma quỷ và có thể được nhận biết do thiếu sự mạch lạc hoặc sáng tỏ, sự băn khoăn lo lắng mà chúng gây ra nơi người đón nhận, và ảnh hưởng xấu mà chúng tạo ra nơi người lắng nghe chúng. (Từ nguyên La tinh locutio, nói, lời nói, bài nói; từ chữ loqui, nói.)
Logia
Logia, Tập đỏan ngôn Chúa Giêsu. Là những câu nói của Chúa Giêsu không được ghi lại trong Kinh thánh. Tin mừng theo thánh Tôma, được phát hiện năm 1945, ghi lại một số câu nói này.
Logic
Luận lý học. Là nghệ thuật hoặc khoa học về luận lý của con người. Là nghệ thuật, luận lý học là kỹ năng học hỏi trong luận lý với sự trật tự và chính xác, một cách dễ dàng và không sai lầm. Là một khoa học, luận lý học nghiên cứu các nguyên tắc sơ khởi của sự hiểu biết, qua kết luận qui nạp và diễn dịch, và nghiên cứu các qui tắc suy nghĩ rõ ràng, vốn dẫn đến sự chắc chắn vững vàng.
Logical Method
Phương pháp luận lý. Là quy cách suy nghĩ trong tâm trí để đạt tới sự thật về bất cứ vấn đề gì đang xem xét.
Logos
Logos, Lời, Ngôi Lời. Là tên mà thánh Gioan gọi Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, là Ngôi Lời Thiên Chúa. (Từ nguyên Hi Lạp logos, lời, lời nói, lý lẽ.)
Lollards
Tôn phái Lollard. Là những người theo phái của ông John Wyclif (1324-84), phát triển mạnh tại Anh trong các thế kỷ 14 và 15, mặc dầu tên gọi được áp dụng cho một số người lạc giáo tại Flanders trước khi được sử dụng tại Anh. Lập trường chính chống Công giáo của phái Lollard là chối bỏ quyền bính của Giáo hội và sự biến thể trong Bí tích Thánh thể. Họ cũng chọn thuyết ưu thế, vốn cho rằng tính hiệu lực của một bí tích tùy thuộc vào giá trị của người ban bí tích ấy. Các ý tưởng này được các “Linh mục nghèo” của Wyclif phổ biến, và sự khắc khổ của các linh mục này là khác hẳn với đời sống xa hoa của nhiều giáo sĩ thời ấy. Giáo hội và Nhà nước đã có nhiều biện pháp cứng rắn với phái Lollard, là những người tiên phong của cuộc Cải cách tại Anh, trong một nghĩa nào đó.
Longanimity
Bao dung, khoan thứ, nhẫn nhục. Sự kiên nhẫn hết sức trước sự gây hấn hoặc thử thách. Còn gọi là sự đau khổ kéo dài. Đây là một trong các hoa trái của Chúa Thánh Thần. Nó bao gồm sự kiên nhẫn chịu đựng, chịu đau khổ kéo dài, và kềm chế diễn tả tình cảm hoặc kềm chế đòi hỏi sự trừng phạt hay lẽ phải cho mình. Sự khoan thứ nhẫn nhục gợi ý sự khoan dung, được tác động bởi tình thương và mong muốn hòa bình, cho điều đau khổ vốn đáng bị từ chối hoặc phản đối. (Từ nguyên La tinh longus, long + animus, linh hồn, tinh thần: longanimitas, chịu đựng bền bĩ, nhẫn nại, kiên nhẫn.)
Longinus
Ông Longinus. Theo truyền thuyết, đây là người lính đã đâm cạnh sườn Chúa Kitô với một cái giáo (Ga 19:34). Người ta nói rằng sau khi trở lại đạo, ông trở về Cappadocia, nơi ông bị kết án tử hình theo lệnh của quan Pontius Pilate (Phon-xi-ô Phi-la-tô). Di hài của Longinus được lưu giữ trong Nhà thờ thánh Âu Tinh, Roma. Sách tiểu sử các thánh tử vì đạo nêu ngày lễ kính Longinus là ngày 15-3 hàng năm.
Lord
Chúa, Đức Chúa. Tước hiệu thường dùng để nói về Chúa trong Cựu Ước (Adonai), và thường áp dụng cho Chúa Kitô trong Tân Ước (Kyrios). Trong Kinh thánh bản dịch Phổ thông, chữ Chúa được dùng thay cho Yahweh (Đức Chúa). Cách thức liên tục mà thánh Phaolô và các tác giả Tân Ước khác sử dụng từ ngữ Kitô chứng tỏ rằng các vị xem Ngài là Chúa.
Lord'S Prayer (Mass)
Kinh Lạy Cha trong Thánh lễ. Là việc đọc phụng vụ Kinh Lạy Cha (Pater Noster) trong Thánh lễ. Trở về với một tập tục cũ, Kinh Lạy Cha trong Thánh lễ hiện nay có năm phần: lời mời gọi của linh mục; kinh Lạy Cha, hát hay đọc chung trong cộng đòan; kinh khẩn xin, nói rộng về lời cầu cuối cùng của kinh Lạy Cha; vinh tụng ca; và lời tung hô kết thúc của tín hữu.
Loreto, House Of
Nhà Đức Mẹ Loreto. Là đền thánh dâng kính Đức Mẹ tại Loreto, miền trung đông nước Ý gần biển Adriatic Sea. Được biết rằng nằm 1253 vua thánh Louis của Pháp đã dự Thánh lễ tại Nazareth, trong ngôi nhà tương truyền là nơi Đức Mẹ được Truyền tin. Truyền thuyết nói rằng 38 năm sau các mục đồng thành Dalmatia nhìn thấy một ngôi nhà lạ xuất hiện trên cánh đồng ban đêm. Thị trưởng thành phố Dalmatia cho người qua Nazareth kiểm tra độ chính xác của câu chuyện, và biết rằng ngôi nhà thánh đã biến mất ở đó. Qua xem xét, người ta thấy rằng ngôi nhà ở Dalmatia được xây dựng bằng đá vôi, vữa và gỗ tuyết tùng, tất cả những thứ này chỉ tìm thấy ở Nazareth chứ không hề có ở Dalmatia. Người ta nói rằng ngôi nhà đã dời đi nhiều chỗ, và cuối cùng đến gần làng lớn Recanati, thôn Loreto. Đức Giáo hòang Boniface VIII tuyên bố rằng các truyền thuyết liên quan ngôi nhà thánh này là đáng tin cậy. Ngày 10-12 được chỉ định là ngày lễ Chuyển dời Nhà. Kể từ năm 1294 khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đổ xô về Loreto, trong đó có nhiều Đức Giáo hòang đã đến quỳ gối cầu nguyện. Người Pháp trong cuộc Cách mạng Pháp đã đưa tượng Đức Mẹ ra khỏi nhà và đem về Paris, nhưng hòang đế Napoleon đã trao trả lại, và Đức Giáo hòang Piô VII đưa tượng về Loreto 1802 sau khi gìn giữ tượng một thời gian ngắn ở Dinh thự Giáo hòang tại Quirinal. Tượng nguyên thủy đã tình cờ bị phá hủy năm 1921 và một tượng mới được khắc từ gỗ cây tuyết tùng mọc trong Vườn Vatican. Đức Giáo hòang Piô XI đã làm phép tượng Đức Bà Loreto năm 1924 trong nhà nguyện Sistine, long trọng đội triều thiên cho tượng, và chầu tượng Đức Mẹ trọng thể một ngày ở nhà thờ Santa Maria Maggiore, rồi sau đó đưa tượng về Loreto. Nhà Đức Mẹ Loreto dựng trên nền đất, không có móng nhà, nhưng chưa hề có chút hư hỏng nào. Nhiều khía cạnh nổi bật góp phần vào việc gìn giữ ngôi nhà. Làng Loreto bị bom tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng ngôi nhà thờ lớn bao trùm Nhà Đức Mẹ bên trong, với chỉ một cửa lớn, một cửa sổ và một lò sưởi, đứng vững và không hề suy suyển. Đức Giáo hòang Gioan XXIII đi hành hương đến Loreto ngày 4-10-1962.
Lot
Lot, ông Lót. Là con trai ông Haran (Ha-ran) và cháu họ của ông Abraham (Áp-ra-ham). Thời kỳ có ý nghĩa nhất của cuộc đời ông Lot là thời gian sống với bác Abraham. Ông cùng đi với Abraham từ thành Ur (Ua) đến Haran, sau đó đến Canaan (Ca-na-an, St 11:31). Cả hai người đều có của cải phồn vinh. Rồi họ chia tay. Lot định cư tại Sodom (Xơ-đôm) trên bình nguyên phì nhiêu Jordan (Gio-đan, St 13). Ông đối diện với thảm họa khi ông bị các vua địch bắt giữ và tài sản bị tịch thu, nhưng Abraham tập hợp lực lượng của mình và cứu cháu trai, cùng lấy lại tài sản cho ông Lot (St 14). Một khủng hoảng mới phát sinh khi Đức Chúa quyết định tiêu diệt thành Sodom và thành Gomorrah (Gô-mô-ra), do đời sống tội lỗi của cư dân ở đó. Ngoài việc đoái thương Abraham, Đức Chúa sai hai thiên thần đến gặp ông Lot và thúc giục ông rời bỏ ngay thành Sodom, cùng với vợ và hai con gái, trước khi mưa diêm sinh và lửa từ trời xuống thiêu đốt hai thành tội lỗi. Vợ ông Lot không nghe lời thiên thần cảnh báo là không được ngoái lại nhìn đàng sau, và bà đã bị biến thành (St 19:15-29). Nhiều thế kỷ sau đó, Chúa Giêsu nhắc đến các sự kiện này khi Chúa cảnh báo với các người nghe rằng “ngày của Con Người” sẽ đến, khi người lành được cứu độ còn người tội lỗi bị tiêu diệt (Lc 17:26-37). Lot và hai con gái ông chịu trách nhiệm về việc sinh ra các con trai, sau trở thành ông tổ của người Moabite (Mô-áp) và người Ammonite (Am-mon). Đôi khi những người này được nhắc đến như là “dòng giống của ông Lót” (St 19:31-38).
Lough Derg
Đền thánh Lough Derg. Là một đền thánh trên đảo nhỏ ở hồ Hạt Donegal, miền tây bắc Ireland, một địa điểm hành hương từ thời đầu Kitô giáo. Tòa nhà chính là Vương cung thánh đường thánh Patrick, gần một cái hang được gọi là Luyện ngục của thánh Patrick, nơi để đáp trả lời cầu nguyện của thánh nhân, người không tin tưởng sẽ cảm nghiệm phần nào nỗi khổ của lửa hỏa ngục. Luật hình sự của chính phủ Anh bị bãi bỏ năm 1871, do đó hiện nay hàng ngàn người đến viếng đền thánh, nhất là khoảng thời gian từ ngày 1-6 đến ngày 15-8. Theo tục lệ, người hành hương ở lại đó ba ngày, làm việc đền tội và cầu nguyện. Mỗi ngày họ chỉ ăn một bữa bằng bánh mì và nước hoặc trà đường. Họ cởi giày và di chuyển từ chặng này qua chặng khác, đọc các kinh qui định. Họ nhận lãnh các bí tích và toàn bộ cuộc hành hương là có ý hướng đền tội, nên thu hút người của đủ mọi tầng lớp xã hội.
Love
Tình yêu, tình thương, lòng mến. Là muốn điều tốt cho người khác. Cũng là làm hài lòng người khác, hoặc là chia sẻ cho người ấy cái gì mình có hoặc là làm điều người ấy muốn. Xét về cơ bản có hai loại tình yêu. Tình yêu dục vọng, tức tình yêu có tính tư lợi, nghĩa là người khác được yêu vì lợi cho mình, như là cái gì hữu ích hoặc làm vui lòng cho người yêu. Tình yêu bằng hữu có nghĩa là yêu thương người khác cách vị tha vì lợi ích của người ấy, vì sự tốt lành của người ấy, để làm vui lòng người ấy; đây là tình yêu của lòng nhân từ.
Love Of Enemies
Yêu thương kẻ thù. Là mệnh lệnh của Chúa Kitô về tình yêu khoan dung, đặc biệt được tỏ ra khi yêu thương người không dễ thương chút nào. Kẻ thù được Chúa Kitô nói đến là “những kẻ ngược đãi anh em" (Mt 5:44), “kẻ nguyền rủa anh em…kẻ vu khống anh em” (Lc 6:28). Đây là trắc nghiệm cao nhất và đích thực nhất về tình yêu vị tha, là “hãy làm ơn…hãy chúc lành…cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em" (Lc 6:28).
Low Mass
Lễ đọc, lễ thường. Là từ ngữ trước đây được dùng để chỉ một Thánh lễ không có âm nhạc. Linh mục đọc, thay vì hát, mọi kinh nguyện của Thánh lễ. Chưa được biết đến trong thời Giáo hội sơ khai, lễ thường còn gọi là lễ riêng (vì không có người tham dự.)
Low Sunday
Chủ nhật thứ nhất sau Phục Sinh, Chủ nhật Hạ. Là chủ nhật thứ nhất sau Phục sinh, trái với đỉnh cao là lễ Phục sinh một tuần trước đó. Trong tiếng Latinh, chủ nhật này gọi là Dominica in albis (Chủ nhật áo trắng), bởi vì các người mới được rửa tội tuần trước đó mang áo trắng rửa tội của họ trong ngày này.
Loyalty
Trung thành, trung thực, trung nghĩa, tận tụy. Là sự bền chí trung thành với Chúa hay với các lời của Chúa; là sự trung nghĩa với một người hay một chính nghĩa, tổ chức hoặc sự nghiệp. Mặc nhiên trong sự trung thành là lòng yêu mến mạnh, dựa vào xác tín vững chắc rằng đối tượng của sự trung thành là đáng được trung thành. (Từ nguyên La tinh legalis, của hoặc thuộc về luật, hợp pháp.)
L.S.
L.S., Loco sigilli – nơi đóng niêm ấn, nơi đóng dấu.
Lucifer
Lucifer, Satan, quỷ vương Lucifer. Tên này đôi khi được áp dụng cho một vua Babylon (Ba-by-lon, Is 14:12), nhưng các Giáo phụ thường đồng hóa Lucifer với Satan, thủ lĩnh các thiên thần sa ngã. Trong các bài viết của Giáo hội, tên này là đồng nghĩa với Quỷ dữ, ông Hòang Bóng Tối, kẻ trước khi sa ngã là một thiên thần sáng láng. Trong Kinh thánh, Chúa Kitô cũng được gọi là Phosphoros – Người mang Ánh sáng (II Pr 1:19). (Từ nguyên La tinh lucifer, người mang ánh sáng.)
Luciferians
Người thờ Ma quỷ. Là các phái thờ ma quỷ và làm sống lại các nguyên tắc của Ngộ đạo thuyết và Nhị nguyên thuyết. Họ được gọi là Luciferite (thờ Satan) hoặc Stedinger trong thế kỷ 13 ở miền bắc nước Đức. Một phái lạc giáo khác ở Áo trong thế kỷ 14 cũng được gọi tên là “phái thờ ma quỷ.”
Luján, Our Lady Of
Đền thánh Đức Mẹ Luján. Là đền thánh dâng kính Đức Mẹ ở Argentina, cách Buenos Aires khỏang 40 dặm 64km) về phía tây. Đối tượng tôn kính chính ở đây là một tượng Đức Nữ Trinh nhỏ trông như một búp bê; đầu Đức Mẹ có vòng hào quang vàng và vương miện với hàng trăm viên kim cương và đá quý khác. Vương cung thánh đường Đức Mẹ Luján là trung tâm hành hương quan trọng nhất ở Argentina. Theo truyền thuyết, năm 1639 một nông dân ở Cordova, khi mong ước hâm nóng lại “đức tin thuở đầu” của các người hàng xóm, đã đặt mua hai tượng từ Brazil, một tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm và một tượng Đức Trinh Nữ ẵm Chúa Hài Đồng. Khi xe chở tượng chạy gần đến một trang trại bên ngòai Luján, người nài ngựa không thể thúc giục ngựa chạy thêm cho đến khi tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm được lấy ra khỏi xe, chứng tỏ rằng Đức Mẹ chọn nơi Ngài muốn xây đền thánh. Tượng quý giá này được luân chuyển ở các nhà trong khu vực. Một người da đen sống từ nhỏ đến lớn ở đây đã bảo vệ tượng thời đầu trong một nhà nguyện nhỏ, sau đó trong một nhà thờ và cuối cùng trong một tòa nhà lớn hơn. Do các phép lạ tăng nhiều, số người đến hành hương cũng tăng lên nhiều. Năm 1910 một nhà thờ chính tòa lớn được xây dựng xong, và ngày nay đó là một trong các đền thánh nổi tiếng nhất dâng kính Đức Mẹ và được Đức Giáo hòang làm lễ gia miện cho tượng. Kể từ năm 1930 nhà thờ chính tòa được nâng lên hàng Vương cung thánh đường. Các nước Argentina, Uruguay, và Paraguay đều gọi Đức Mẹ Luján là Đấng Bảo vệ chính thức của mình.
Luke
Thánh Luca. Ngài được mô tả trong một thư của thánh Phaolô như là “Anh Lu-ca, thầy thuốc yêu quý" (Cl 4:14). Luca đã đi với thánh Phaolô trong nhiều chuyến đi truyền giáo, dùng ngôi thứ nhất số nhiều (chúng tôi) trong các trình thuật. Một chuyến đi là trẩy thuyền đi từ Troas đến Samothrace và cũng đến Phoenicia (Phê-ni-xi). Một chuyến đi khác là từ Phoenicia đến Jerusalem (Giê-ru-sa-lem). Sau đó hai vị cùng đi Roma. Các học giả cho rằng phần các các trước tác của Luca được viết vào khỏang năm 70. Rõ ràng rằng ngài là một người ngọai Hi Lạp trở lại, viết sứ điệp cho Kitô hữu gốc dân ngọai. Trong hai năm thánh Phaolô bị cầm tù tại Caesarea (Xê-da-rê), Luca dành nhiều thời gian và cơ hội thu thập tài liệu và viết các phần đóng góp cho Tân Ước (Cv 20, 21). Ngài mang ơn thánh Marcô vì nhiều phần Tin mừng của Marcô xuất hiện trong Tin mừng của ngài. (Từ nguyên La tinh Lucas, từ ngữ Hi Lạp Loukas.)
Lumen Gentium
Hiến chế tín lý Lumen Gentium. Là hiến chế tín lý “Ánh sáng muôn dân” về Giáo hội, của Công đồng chung Vatican II. Mục đích được tuyên bố có hai phần: giải thích bản tính của Giáo hội “như dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại," và sáng tỏ bản tính và sứ mệnh phổ quát của mình cho tín hữu và toàn thế giới như là bí tích cứu độ nhân lọai. Đặc điểm độc đáo của hiến chế là Chú thích Sơ khởi, được đưa thêm vào văn kiện của công đồng theo lệnh của Đức Giáo hòang Phaolô VI, để làm sáng tỏ ý nghĩa của cộng đòan tính hàng Giám mục, nói rằng cộng đòan các Giám mục không có quyền bính mà không tùy thuộc và hiệp thông với Giám mục Roma (ngày 21-11-1964).
Lumen Gloriae
Lumen Gloriae, ánh sáng vinh quang, thiên quang. Là ánh sáng vinh quang, qua đó tâm trí có thể cảm nghiệm vĩnh viễn thị kiến về Chúa. Đây là một tập quán họat động siêu nhiên được ban cho trí tuệ để thay thế và hoàn thiện nhân đức tin. Do đó, trên thiên đàng ánh sáng này ban quyền nhìn ngắm Chúa, cũng như đức tin ở trần gian này ban quyền tin vào Chúa.
Luminous Rays
Tia sáng. Đó là hiện tượng ánh sáng đôi khi đi kèm sự xuất thần. Tia sáng xuất hiện dưới nhiều hình thức, chẳng hạn một quầng sáng trên đầu hoặc sự phát sáng bao quanh tòan thân thể. Các qui định được đặt ra để xác minh tính chất siêu nhiên của luồng sáng ấy, bắt đầu bằng việc xác minh liệu vầng sáng ấy có thể được giải thích bằng các nguyên nhân tự nhiên hay không. Nói cụ thể, có thể mở cuộc điều tra để xem liệu hiện tượng xảy ra ban ngày hay ban đêm, và nếu ban đêm, xem liệu ánh sáng là sáng hơn nguồn sáng khác hay không; rồi xem liệu đó chỉ là chớp sáng hay ánh sáng kéo dài trong thời gian lâu dài hay không; rồi xem liệu ánh sáng xảy ra trong một việc đạo đức, chẳng hạn lúc cầu nguyện, nghe giảng, tại bàn thờ hay không; xem liệu có các hiệu quả rõ ràng của ân sủng đi kèm hay không, chẳng hạn các hóan cải lâu dài; và trên hết, xem liệu người có vầng sáng phát ra có nổi tiếng là thánh thiện và nhân đức hay không.
Luna
Mặt nguyệt. Là một vật chứa tròn, có hai mặt kiếng, bằng kim lọai có đường vàng chạy vòng, hoặc kim lọai mạ vàng, để chứa Mình Thánh Chúa đặt trong mặt nhật (hào quang). Đây là một vật thánh, đuợc linh mục làm phép. Đôi khi nó cũng được gọi là lunette (mặt nguyệt). (Từ nguyên La tinh luna, mặt trăng.)
Lust
Tham dục, nhục dục, dâm ô, lòng tham. Là sự thèm khát quá quắt hoặc vui hưởng lạc thú nhục dục. Sự thèm muốn hay hành động là quá quắt khi chúng không thừa nhận trật tự Chúa muốn về lạc thú nhục dục, vốn nhằm củng cố tình yêu song phương giữa vợ và chồng và, theo sự xếp đạt của Chúa quan phòng, nhằm sinh con cái và giáo dục con cái. (Từ nguyên Anglo-Saxon lut, lạc thú.)
Lux In Tenebris
Lux In Tenebris, Ánh sáng trong đêm đen, Ánh sáng trong bóng tối. Là tước hiệu của Chúa Kitô, dựa vào phần mở đầu của Tin mừng theo thánh Gioan, và thường được dùng như một khẩu hiệu trong nghệ thuật và kiến trúc Kitô giáo.
Lux Mundi
Lux Mundi, Ánh sáng thế gian. Là tước hiệu của Chúa Kitô, được chính Chúa sử dụng, và được ghi nhiều trên các đài kỷ niệm từ thời đầu Kitô giáo.
Luxury
Xa hoa, xa xỉ, lộng lẫy. Là sự sở hữu và vui hưởng vật gì làm vui thích giác quan, nhưng không thật sự hữu ích và cần thiết. Mặc dầu tự thân là không có tội, sự xa hoa dễ dẫn đến tội lỗi, hoặc có thể là kết quả của bất công hay thiếu bác ái. Cũng như sự thèm muốn, nó là ham mê tội lỗi về lạc thú nhục dục. (Từ nguyên La tinh luxuria, xa xỉ, ham mê xác thịt.)
Lxx
Lxx, Septuagint, Bản Kinh thánh Bảy Mươi.
Lydia
Lydia, bà Ly-đi-a. Một phụ nữ buôn bán vải điều ở Philippi (Phi-líp-phê), quê ở Thyatira (Thy-a-ti-ra), Tiểu Á. Bà được lời giảng của thánh Phaolô đánh động sâu sắc, nên bà và gia đình được rửa tội. Lòng biết ơn thúc giục bà mời thánh Phaolô và những người đi theo ngài nghỉ lại ở nhà bà, và hưởng sự đón tiếp hiếu khách của bà. Lẽ tất nhiên bà là người thuyết phục giỏi đến nỗi thánh Luca nói rằng “bà ép chúng tôi phải nhận lời” (Cv 16:14-15).
Lying
Nói dối. Là nói trái với điều tâm trí mình nghĩ. Nói là chuyển giao ý tưởng với người khác, và có thể được thực hiện bằng chữ, viết hoặc nói, và bằng cử chỉ. Nói năng thận trọng có nghĩa là người nói phải nghĩ điều mình đang nói; đây không phải là một vấn đề không biết hoặc nói sai. Còn khi một người nói dối, người ấy nói điều trái với điều suy nghĩ trong tâm trí mình; có một sự đối nghịch thật sự giữa điều được nói và điều được suy nghĩ trong đầu.
Lyre
Đàn lia, thất huyền cầm. Là một biểu tượng ngọai giáo chỉ sự hài hòa, được Clement thành Alexandria chọn đưa vào nghệ thuật Kitô giáo từ các hang tọai đạo. Nó được xem như một biểu tượng của Vua David (Đa-vít) và thường xuất hiện trong các tranh vẽ thiên thần. Do nó tượng trưng cho việc ca hát chúc tụng Chúa trong tâm hồn, thánh nữ Cecilia đôi khi được vẽ đang cầm đàn lia, mặc dầu đàn organ thường được xem là biểu tượng của ngài, nhưng không chính xác. Một thất huyền cầm tượng trưng cho thánh Dunstan ở Anh Quốc, bổn mạng các nhạc sĩ, cũng như là biểu tượng của thánh Gregory Cả, vị sáng lập Roma schola cantorum (trường thánh nhạc Roma) nổi tiếng. Đàn hạc (harp), cộng thêm thất huyền cầm, là một biểu tượng của thánh Patrick.