“Giáo Hội hoàn vũ liên kết cách thiêng liêng với những kẻ than khóc”.

VATICAN (Zenit.org). Văn bản bài huấn từ tiếng Anh Đức Biển Đức XVI đọc trước các giám mục Myanmar hôm thứ Sáu 30/5, trong cuộc thăm viếng của các ngài tại Roma theo Giáo Luật, thông lệ năm năm một lần.

* * *

Các anh em Giám Mục thân yêu của tôi,

Tôi vui mừng đón tiếp anh em, các giám Mục Myanmar, anh em đã đến Thành Phố Roma kính viếng những ngôi mộ các thánh Tông Đồ và thắc chặt sự hiệp thông của anh em với người Kế Vị Phêrô. Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay minh chứng cho sự hiệp nhất, đức bác ái và sự bình an kết hợp chúng ta với nhau và làm sinh động sứ vụ chúng ta là dạy dỗ, hướng dẫn và thánh hoá dân Chúa (x. Lumen Gentium, 22) Tôi xin cám ơn những lời chào tử tế và sự bảo đảm về những kinh nguyện mà Tổng Giám Mục Paul Grawng đã bày tỏ cho tôi nhân danh anh em va nhân danh hàng giáo sĩ, các Tu Sĩ và hàng giáo dân các giáo phận của anh em. Tôi muốn đáp lại bằng những lời chào chân tình của tôi và kinh nguyện chân thành của tôi, xin Chúa ban cho anh em sự bình an trong mọi lúc và về mọi phương diện (x.2 Thessalonians 3:16)

Giáo Hội tại Myanmar được biết và được khâm phục vì tính liên đới của Giáo Hối đối với những người nghèo và những kẻ túng thiếu. Điều này rõ ràng đặc biệt trong sự quan tâm anh em đã chứng tỏ trong hoàn cảnh hậu cơn bão Nargis. Nhiều cơ quan và hiệp hội Công Giáo trong phần đất của anh em cho biết dân chúng dưới quyền chăm sóc của anh em đã chú ý đến lời khuyên của tiếng Kêu Gioan tẩy Giả: “Ai có hai áo thì chia cho những người không có; ai có gì ăn thì cũng làm như vậy!” (Lc 3:11). Tôi tin rằng dưới sự hướng dẫn của anh em, các tín hữu sẽ tiếp tục chứng tỏ khả năng thiết lập “một sự liên kết giữa việc rao giảng Tin Mừng và những công việc bác ái (Deus Caritas est, 30), ngõ hầu những kẻ khác sẽ “cảm nghiệm sự phong phú của nhân tính họ” và “Thiên Chúa có thể được tôn vinh qua Chúa Giêsu kitô” (ibid.,31; x. 1Pt 4:8-11).

Trong những ngày khó khăn này, tôi biết nhân dân Miến Điện biết ơn nhiều đối với những cố gắng của Giáo Hội cung cấp nơi trú, thức ăn, nước uống, và thuốc men cho những người còn trong cảnh cùng quẫn. Tôi hy vọng rằng, theo sự thỏa thuận mới đạt được về sự cung cấp trợ giúp do cộng đồng quốc tế, tất cả những ai sẵn sàng giúp sẽ có khả năng trang bị kiểu giúp được đòi hỏi và được dễ dàng tới những nơi cần trợ giúp nhất.

Tại thời gian khủng hoảng này, tôi tạ ơn Thiên Chúa Toàn Năng đã đưa chúng ta “giáp mặt nhau” (1Thess 2:17), vì điều này cho tôi dịp bảo đảm anh em rằng Giáo Hội hoàn vũ liên kết cách thiêng liêng với những kẻ khóc vì mất những người thân (x. Rm 12:15), khi Giáo Hội đưa ra cho họ lời hứa của Chúa sẽ giúp đỡ và an ủi(x.Mt 5:4). Xin Chúa mở lòng mọi người hầu một sự nỗ lực có phối hơp được thực thi đễ dễ dàng hóa và phối hợp sự cố gắng đang tiến hành hầu mang lạ sự giảm nhẹ cho nỗi đau khổ và tái thiết hạ tầng của xứ sở.

Sứ vụ bác ái của Giáo Hội sáng chói cách đặc biệt qua đời sống Tu Sĩ, qua nếp sống này những người nam và người nữ hiến mình “tập trung “ hoàn toàn vào việc phục vụ Thiên Chúa và anh em thân cận (x. 1 Cor 7:34; x. Vita Consecrata, 3). Tôi vui mừng ghi nhận rằng một số ngày càng tăng những người nữ đáp ứng với tiếng gọi sống đời sống thánh hiến trong xứ sở anh em.

Tôi cầu xin cho sự họ chấp nhận tự do và triệt để các lời khuyên Tin Mừng, sẽ linh hứng những kẻ khác chấp nhận nếp sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời vì Vương Quốc. Việc chuẩn bị những ứng viên cho việc phục vụ cầu nguyện và công tác tông đồ này đòi hỏi một sự đầu tư thời gian và tiền của. Những lớp đào tạo do Hội Nghị Tu Sĩ Công Giáo Myanmar chứng tỏ sự hợp tác có thể giữa các cộng đồng tu sĩ khác nhau với sự tôn trọng đặc sủng riêng biệt của mỗi cộng đồng, và nhắm tới nhu cầu cho việc đào tạo thiêng liêng và nhân bản, học giả lành mạnh.

Những dấu tương tự hy vọng được thấy trong con số ngày càng tăng các ơn gọi tới chức linh mục. Những người này được “tập hợp” và “ được sai di rao giảng” (x.Lc 9:1-2) để nên gương trung thành và thánh thiện cho Dân Chúa. Được tràn đầy Chúa Thánh Thần và được hướng dẫn bởi sự chăm sóc phụ tử của anh em, nhiều linh mục thực hành những nhiệm vụ thánh thiện của họ trong đức khiêm nhượng, đơn sơ và vâng lời (x. Presbyterorum Ordinis, 15). Như anh em biết, điều này đòi hỏi một sự đào tạo thấu đáo thích hợp với phẩm giá chức vụ linh mục của họ. Do đó tôi khuyến khích anh em tiếp tục thực hiện những hy sinh cần thiết để bảo đảm rằng các chủng sinh nhận lãnh sự đào tạo nguyên vẹn cho phép họ trở thành những sứ giả đích thực của việc Tân Phúc Âm Hóa (x. Pastored dabo Vobis, 2).

Anh em thân yêu của tôi, sứ vụ Giáo Hội rao giảng Tin Mừng tùy thuộc một sự đáp ứng quảng đại và mau chóng từ hàng tín hữu giáo dân để trở thành những lao công trong vườn nho (x.Mt 20: 1-16; 9:37-38) Họ cũng cần một sự đào tạo hùng mạnh và động lực, linh hứng họ mang sứ điệp Tin Mừng tới những nơi làm việc của họ, các gia đình, và tới xã hội nói chung (x. Eccclesia in Asia, 22). Những báo cáo của anh em ám chỉ sự nhiệt thành thúc đẩy người giáo dân tổ chức nhiều sáng kiến mới giáo lý và thiêng liêng, thường bao hàm những số lớn giới trẻ.

Vì anh em nuôi dưỡng và kiểm tra những sinh hoạt này, tôi khuyến khích anh em nhắc những kẻ ở dưới sự chăm sóc của anh em luôn quay về sự nuôi dưỡng của Thánh Thể qua sự tham gia trong phụng vụ và chiêm niệm thinh lặng (x. Ecclesia de Eucharistia,6). Những chương trình hiệu nghiệm về việc rao giảng Tin Mừng và việc dạy giáo lý, cũng đòi hỏi viêc lên chương trình và tổ chức rõ rệt nếu chúng phải hoàn thành mục đích ao ước của việc dạy chân lý Kitô Giáo và đưa dân chúng tới tình yêu Chúa kitô. Điều đáng ước mong là họ sử dụng những sự giúp đỡ thích hợp, gòm có những sách nhỏ và những vật dụng thính thị, hầu bổ sung việc dạy nói và cung cấp những điểm chung qui chiếu về giáo lý Công Giáo đích thực. Tôi chắc rằng những Giáo Hội địa phương khác khắp thế giới sẽ làm điều gì họ có thể để cung ứng những vật liệu khi nào có thể.

Sự tham gia tích cực của anh em trong Đại hội Sứ Vụ châu Á lần tứ nhất đã dẫn tới những sáng kiến mới cho sự cổ võ thiện chí với các Phật tử trong xứ sở anh em. Về phương diện này, Tôi khuyến khích anh em phát triển những tương quan tốt hơn nữa với các Phật tử vì lợi ích của những cộng đồng cá biệt anh em và của toàn thể quốc gia.

Sau cùng, anh em thân yêu của tôi, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn chân tình của tôi đối với thừa tác vụ trung thành của anh em giữa những hoàn cảnh khó khăn và những trở lực thường vượt quá sự kiểm soát của anh em. Tháng tới, Giáo Hội khai mạc Năm Thánh đặc biệt suy tôn Thánh Phaolô.

“Vị Tông Đồ Dân ngoại này” đã được khâm phục qua bao thế kỷ vì sự kiên nhẫn dũng cảm của ngài trong những cơn thử thách và những nỗi khổ cực được tường thuật cách sống động trong những Thư của ngài và trong sách Tông Đồ Công Vụ (x. 2 Tim 1:8-13; Cv 27:13-44). Phaolô khuyên chúng ta nhìn lên vinh quang chờ đợi chúng ta ngõ hầu không bao giờ ngã lòng trong đau đớn và những đau khổ ngày nay. Ân huệ hy vọng chúng ta đã lãnh nhận- và trong đó chúng ta được cứu độ (x. Rom 8:24)- ban ân sủng và biến đổi cách sống của chúng ta (x. Spe Salvi,3). Được Chúa Thánh thần soi sáng, tôi mời anh em kết hợp với Thánh Phaolô trong sự tin cẩn chắc chắn rằng không sự gì-dầu là gian truân, hay bắt bớ, hay đói rách, hay hiện tại hay tương lai, không thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta. (x. Rom 8:35-39).

Khi phó thác anh em cho sự cầu bàu của Đức Maria, Nữ Vương các Tông Đồ, tôi sẵn sàng ban Phép lành Tông Toà của tôi cho anh em và cho hàng giáo sĩ, các Tu Sĩ và hàng giáo dân của anh em.