THÔNG ĐIỆP

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

CỦA ĐỨC THÁNH CHA

BÊNÊĐÍCTÔ XVI

GỞI CÁC ĐỨC GIÁM MỤC

CÁC LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ

CÁC TU SĨ NAM NỮ

VÀ TẤT CẢ CÁC TÍN HỮU

VỀ ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO


DẪN NHẬP


1. "Thiên Chúa là tình yêu, và hễ ai ở trong tình yêu thì ở trong Chúa, và Chúa ở trong người ấy"(1 Ga 4:16). Những lời này trích từ thư Thứ Nhất của Thánh Gioan diễn tả rất rõ ràng trọng tâm của đức tin Kitô: hình ảnh Thiên Chúa theo Kitô Giáo, hình ảnh con người và con đường của họ rút ra từ đó. Cũng trong thư này, Thánh Gioan cũng đưa ra một dạng tổng kết về đời sống Kitô Giáo: "Chúng ta đã nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta".

Chúng ta đã tin vào tình yêu Thiên Chúa: người Kitô hữu có thể diễn tả quyết định căn bản của đời mình như thế. Là Kitô hữu không phải là hệ quả của một lựa chọn luân lý hay một lý tưởng cao quý, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, một người; một cuộc gặp gỡ trao ban cho cuộc sống một chân trời mới và qua đó là một hướng đi có tính chất quyết định. Phúc Âm Thánh Gioan mô tả biến cố này trong những từ sau: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì... được sống muôn đời."(Ga 3:16). Khi nhìn nhận vị thế trung tâm của tình yêu, đức tin Kitô giữ lại phần nòng cốt của niềm tin Do Thái, đồng thời cho đức tin này một chiều sâu và một chiều rộng mới. Những tín hữu Do Thái Giáo nhiệt thành thường cầu nguyện hàng ngày với những lời trong sách Đệ Nhị Luật diễn tả trọng tâm cuộc sống của họ: "Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em." Chúa Giêsu đã kết hiệp vào một giáo huấn duy nhất lề luật mến Chúa và yêu người được tìm thấy trong sách Lê Vi "Ngươi phải yêu tha nhân như chính mình"(Lv 19:18; x Mc 12:29-31). Vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (x Ga 4:10), tình yêu giờ đây không chỉ là một "giới răn"; nhưng là lời đáp trả cho hồng ân tình yêu qua đó Thiên Chúa gần gũi với chúng ta.

Trong một thế giới nơi danh thánh Thiên Chúa đôi khi lại được gán ghép với sự báo thù hay ngay cả nghĩa vụ phải căm ghét và bạo lực, điều nói trên vừa hợp thời vừa cụ thể. Vì thế, trong thông điệp đầu tiên của mình, tôi muốn đề cập đến tình yêu Thiên Chúa trao ban hào phóng trên chúng ta và đến lượt chúng ta phải thông truyền cho người khác. Về cơ bản, đó là điều mà hai phần chính của Thông Điệp này đề cập đến, và chúng liên hệ hỗ tương với nhau cách sâu xa. Phần đầu tiên có tính chất lý thuyết nhiều hơn vì tôi muốn lúc này đây – buổi đầu triều đại Giáo Hoàng của mình – xác định rõ một số dữ kiện thiết yếu liên quan đến tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại cách huyền nhiệm và nhưng không, cùng với mối liên hệ nội tại giữa Tình Yêu đó và thực tại của tình yêu nhân loại. Phần thứ hai có tính chất cụ thể hơn vì nó bàn đến đến việc thực hành giới răn yêu thương tha nhân của Giáo Hội. Lý lẽ dẫn đến những hệ quả rộng lớn, nhưng một sự bàn cãi dài dòng sẽ đi quá phạm vi của Thông Điệp này. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến một số yếu tố căn bản để khơi dậy trong thế giới một năng động mới mẻ cho sự dấn thân của con người đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa.

PHẦN I

TÍNH ĐƠN NHẤT CỦA TÌNH YÊU TRONG TẠO VẬT VÀ TRONG LỊCH SỬ CỨU CHUỘC


Một vấn nạn ngôn ngữ

2. Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta là một vấn đề căn bản đối với cuộc sống và đặt ra những câu hỏi quan trọng: Thiên Chúa là ai và chúng ta là ai. Khi suy tư về điều này, chúng ta lập tức thấy mình bị ngăn trở bởi một vấn nạn ngôn ngữ. Ngày nay, thuật ngữ "tình yêu" đã trở thành một trong những từ được dùng cũng như bị lạm dụng thường xuyên nhất, một từ chúng ta gán cho nhiều ý nghĩa khác nhau. Dù Thông Điệp này sẽ bàn chủ yếu về nhận thức và thực hành của tình yêu trong Thánh Kinh và trong Truyền Thống của Giáo Hội, chúng ta không thể đơn giản bỏ qua không nói đến ý nghĩa của từ này trong các nền văn hóa khác nhau và trong ngôn ngữ thường dùng hiện nay.

Trước hết, chúng ta hãy bàn về phạm vi ngữ học rộng lớn của từ "tình yêu": chúng ta nói về lòng yêu nước, yêu nghề, tình yêu bè bạn, sự yêu thích công việc, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, tình yêu giữa các thành viên trong gia đình, tình yêu người và lòng mến Chúa. Tuy nhiên, giữa cơ man những ngữ nghĩa này, có một điều nổi bật lên: đó là tình yêu giữa một người nam và một người nữ, trong đó xác hồn được kết hiệp bất phân ly và mở ra cho nhân loại thấy thấp thoáng lời hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được. Tình yêu này có lẽ là kiểu mẫu của tình yêu; tất cả các dạng thức yêu thương khác tức khắc tỏ ra mờ nhạt khi so sánh với thứ tình yêu này. Vì thế, một vấn đề được nêu lên: có phải tất cả những dạng thức của tình yêu về cơ bản chỉ là một, cho nên tình yêu, trong những biểu thị đa dạng của nó, tối hậu chỉ là một thực tại duy nhất; hay đơn giản là chúng ta dùng một từ để chỉ định nhiều thực tại hoàn toàn khác biệt?

Eros” ("Tình ái") và “Agape” ("tình bác ái") – sự khác biệt và đồng nhất

3. Tình yêu giữa một người nam và một người nữ, thứ tình không bị an bài trước và cũng chẳng bị bắt buộc, nhưng cách nào đó tự xảy đến trên con người, được gọi là eros (tình ái) trong tiếng Hy Lạp cổ. Chúng ta ghi nhận tức khắc nơi đây rằng Bản Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp nhắc đến từ eros chỉ hai lần, trong khi bản Tân Ước không hề dùng đến từ này: trong ba từ Hy Lạp nói về tình yêu là eros, philia (tình bằng hữu) và agape (tình bác ái), các tác giả Tân Ước thích dùng từ sau cùng hơn, là từ ít được dùng trong tiếng Hy Lạp. Từ philia, tình bằng hữu, được dùng với ý nghĩa sâu xa hơn trong Tin Mừng của Thánh Gioan để diễn tả quan hệ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài. Khuynh hướng tránh dùng từ eros, cùng với viễn ảnh của tình yêu được diễn tả qua từ agape, chắc chắn nói lên ra một điều gì đó mới mẻ và phân biệt trong nhận thức Kitô Giáo về tình yêu. Trong trào lưu chỉ trích Kitô Giáo, bắt đầu từ thời Triết Học Ánh Sáng và càng ngày càng quá khích, quan niệm của Kitô Giáo về tình yêu thường được xem là điều gì đó rất tiêu cực. Theo Friedrich Nietzsche, Kitô Giáo đã đầu độc từ eros, và về phần mình, trong khi không hoàn toàn từ bỏ từ này đã dần dà đưa nó xuống hàng thứ yếu. [1] Ở đây, triết gia Đức mô tả một quan niệm rất phổ biến: chẳng phải là Giáo Hội, với tất cả những lề luật và cấm đoán của mình, đang biến thứ quý nhất trong cuộc đời thành ra một điều cay đắng đó sao? Chẳng phải Giáo Hội đang thổi còi chặn lại khi niềm hoan lạc, một hồng ân do Tạo Hóa trù định, đang mang đến cho chúng ta một niềm hạnh phúc như một nếm thử nhất định về Thiên Chúa đó sao?

4. Nhưng có đúng thế không? Có thực Kitô Giáo đã hủy diệt từ eros? Chúng ta hãy hướng một cái nhìn về thế giới thời tiền Kitô Giáo. Văn hóa Hy Lạp – không khác gì những nền văn hóa khác – xem eros chủ yếu như một trạng thái say đắm, một tình trạng lý trí bị đè bẹp bởi một thứ "điên dại thần bí" lôi kéo con người khỏi cuộc sống hạn hẹp phàm nhân của mình và cho phép con người, trong chính tiến trình bị say đắm bởi lực thần bí ấy, hưởng được một niềm hạnh phúc cao độ. Tất cả những quyền lực khác trên trời dưới đất đều tỏ ra là thứ yếu “Omnia vincit amor” (Tình yêu chinh phục mọi thứ) Người Trinh Nữ đã nói thế trong vở Bucolics – và chàng đáp lại “et nos cedamus amori ” – (cả chúng ta cũng hãy chịu khuất phục tình yêu). [2] Trong các tôn giáo, thái độ này tìm được thấy trong các giáo phái tôn thờ khả năng sinh sản, chẳng hạn như tục mại dâm "linh thiêng" nở rộ trong nhiều đền thờ. Eros, vì thế, được thờ như một thứ quyền năng thiêng liêng, đồng hàng với Thiên Chúa.

Cựu Ước mạnh mẽ chống lại thứ hình thái tôn giáo này, coi đó là tiêu biểu cho một cám dỗ mạnh mẽ chống lại đức tin độc thần, và chiến đấu chống lại nó như một hình thái sa đọa của tôn giáo. Tuy nhiên, Cựu Ước đã không hề loại bỏ eros đúng nghĩa; nhưng chỉ tuyên chiến đối với hình thái băng hoại của nó vì sự thần thánh hóa giả tạo eros thực ra tước đi mất thế giá của nó và khiến con người bị hạ giá. Thực vậy, những gái điếm trong các đền thờ, những người phải cúi đầu trước trạng thái say sưa thần bí này đã không được đối xử như con người và như những cá nhân, nhưng đơn giản được dùng như một phương tiện khơi dậy "cơn điên thần bí": chẳng những không hề được coi là những nữ thần, họ là những con người trần tục bị lợi dụng. Thứ tình ái mất lý trí và bừa bãi không là một sự thăng hoa "xuất thần" hướng về Thiên Chúa, nhưng là một sự sa ngã, một bước thụt lùi của con người. Hiển nhiên. eros cần được uốn nắn và thanh luyện nếu nó muốn đem đến không chỉ niềm hoan lạc chóng qua, mà cả một nếm thử trước cho tột đỉnh cuộc sống chúng ta, của phúc thật mà toàn thể loài người trông đợi.

5. Có hai khía cạnh xuất hiện thật rõ rệt từ tổng kết chớp nhoáng về khái niệm eros xưa và nay này. Trước hết, có liên hệ nhất định giữa tình yêu và Thiên Chúa: tình yêu hứa hẹn sự vô biên, vĩnh hằng – một thực tại xa hơn và khác biệt hoàn toàn với cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy rằng con đường đạt đến mục tiêu này không phải chỉ đơn thuần là tùng phục theo bản năng. Sự thanh luyện và thăng tiến trong sự trưởng thành là cần thiết; và những điều này cũng phải trải qua con đường từ bỏ mình. Không những không từ khước hay "đầu độc" eros, những điều này chữa lành nó và khôi phục lại sự cao cả đích thực của nó.

Điều này trước hết và trên hết là do bởi sự kiện con người được tạo dựng cả xác lẫn hồn. Con người thật sự là chính mình khi xác hồn được kết hiệp mật thiết; thách đố của eros có thể nói là thực sự được vượt qua khi sự kết hiệp này được đạt đến. Nếu một người chỉ mong được thanh thoát tinh thần và khước từ thể xác coi thân xác mình như gia sản của một động vật mà thôi, thì khi đó cả hồn lẫn xác đều đánh mất đi vị thế của chúng. Ngược lại, nếu người ấy từ khước phần hồn và coi trọng phần xác như thực tại duy nhất, người ấy cũng đánh mất đi sự cao trọng của mình. Triết gia theo chủ nghĩa hưởng lạc Gassendi thường chào Descartes với lời chào hóm hỉnh: "Hồn Ơi!" và Descartes thường đáp lại "Xác Ơi!". [3] Khi yêu không chỉ có hồn yêu hay xác yêu mà thôi, song chính là con người, một nhân vị, một tạo vật hiệp nhất gồm cả thể xác và linh hồn. Chỉ khi nào cả hai chiều kích thật sự được kết hiệp, lúc đó con người mới đạt đến tầm vóc đúng mức của mình. Chỉ khi đó tình yêu – eros – mới có thể trưởng thành và đạt đến sự cao cả đích thật của nó.

Ngày nay, Kitô Giáo trong quá khứ thường bị chỉ trích là đối nghịch với thân xác; và cũng đúng là những khuynh hướng như thế đã từng xảy ra. Tuy nhiên, cái lối tôn sùng thân xác thời nay là lầm lạc. Eros, bị giản lược thành "tính dục" thuần tuý, đã trở nên một thứ hàng hóa, đơn giản là "đồ vật" mua bán, hay hơn thế nữa chính con người trở thành một thứ hàng hóa. Điều này khó mà là một sự đề cao của con người đối với thân xác. Trái lại, từ nay con người xem thân xác mình và tính dục của mình thuần tuý là phần chất thể của chính mình, được dùng và bị lợi dụng tùy ý. Con người cũng không coi thân xác là một nơi để thực thi quyền tự do của mình, nhưng chỉ như một thứ để cố làm cho thoải mái và vô hại. Ở đây, chúng ta thực sự phải đương đầu với sự hạ giá thân xác con người: thân xác không còn được hội nhập vào sự tự do hiện sinh tổng thể của chúng ta; cũng không còn là biểu hiệu sinh động của toàn thể con người chúng ta nữa, nhưng hầu như bị đóng khung hoàn toàn trong lãnh vực thuần tuý sinh lý. Thái độ có vẻ suy tôn thân xác như thế có thể nhanh chóng biến thành sự thù nghịch đối với thể xác. Niềm tin Kitô, ngược lại, luôn xem con người là một thể thống nhất gồm hai phần, một thực tại trong đó tinh thần và thể chất kết hiệp lại, và trong đó cả hồn lẫn xác được nâng lên một thế giá mới. Eros chân chính có khuynh hướng đưa con người hướng đến Thiên Chúa "trong sự ngất trí", dẫn đưa chúng ta vượt qua chính mình; tuy nhiên chính vì lý do này, nó đòi hỏi con đường hướng thượng, từ bỏ, thanh luyện và chữa lành.

6. Một cách cụ thể, con đường hướng thượng và thanh luyện này đưa ta đến đâu? Tình yêu phải được cảm nhận thế nào để có thể hoàn toàn nhận ra hứa hẹn trần tục và thiêng liêng của nó? Ở đây, chúng ta có thể tìm ra một chỉ dẫn đầu tiên và quan trọng trong Sách Diễm Ca, một sách trong Cựu Ước rất quen thuộc với những nhà thần bí. Theo cách hiểu của nhiều người, những bài thơ trong sách này thoạt đầu là những bài tình ca, có lẽ dành cho một lễ cưới Do Thái và có dụng ý ca ngợi tình yêu hôn nhân. Trong bối cảnh này, điều đáng ghi nhận là trong suốt cuốn sách, có hai từ Hêbrơ đã được dùng để nói về "tình yêu". Trước tiên là từ dodim, một dạng số nhiều nói lên một tình yêu không chắc chắn, chưa quyết định dứt khoát và còn đang kiếm tìm. Từ này rồi ra được thay bằng từ ahab, mà bản dịch Cựu Ước sang tiếng Hy Lạp chuyển sang thành một từ đồng âm agape, mà như chúng ta thấy, trở nên thành ngữ tiêu biểu cho ý niệm tình yêu trong Thánh Kinh. Tương phản với một tình yêu chưa quyết, "đang tìm kiếm", từ này diễn tả cảm nhận của một tình yêu trong đó có sự khám phá đích thực lẫn nhau, vượt qua tính chất ích kỷ bao trùm trước đó. Tình yêu giờ đây trở thành mối quan tâm và lo lắng cho người khác. Nó không còn là tìm kiếm chính mình, hay một mê say hạnh phúc; thay vào đó nó tìm kiếm điều thiện cho người mình yêu: nó trở thành sự từ bỏ chính mình và sẵn sàng chấp nhận cả hy sinh nếu cần.

Đó là một phần trong sự vươn lên đến những cấp độ cao hơn của tình yêu, và trong sự thanh luyện bên trong mà tình yêu giờ đây đang tìm kiếm hầu trở nên một chọn lựa dứt khoát, trong một ý thức gồm hai mặt: cả tính độc quyền (chỉ một người cụ thể mà thôi) lẫn sự "vĩnh viễn". Tình yêu bao gồm toàn bộ hiện thực của cuộc sống trong mỗi chiều kích của nó, kể cả thời gian. Khó mà khác đi được, vì hứa hẹn của tình yêu hướng đến một mục tiêu chung cuộc: tình yêu nhắm đến sự vĩnh viễn. Tình yêu thật sự là "một trạng thái ngây ngất", không phải trong ý nghĩa của một thoáng mê say, nhưng hơn thế nó như là một cuộc hành trình, một cuộc xuất hành ra khỏi cái tôi đóng kín hướng vào bên trong để vươn tới sự tự do qua việc cho đi chính mình, và như thế hướng đến sự khám phá đích thật chính mình và chung cuộc là sự khám phá về Thiên Chúa: "Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống"(Lc 17:33), như Chúa Giêsu đã nói trong suốt các sách Tin Mừng (x. Mt 10:39; 16:25; Mc 8:35; Lc 9:24; Ga 12:25). Trong những lời này, Chúa Giêsu vẽ ra con đường của chính Ngài, qua Thập Giá dẫn đến Phục Sinh: con đường của hạt lúa rơi xuống đất và chết đi, để sinh nhiều hoa trái. Bắt đầu từ những chiều kích thâm sâu trong lễ hy sinh của Ngài và trong tình yêu đạt đến mức viên mãn sau đó, Ngài vẽ ra cho chúng ta thấy qua những lời này đâu là yếu tính của tình yêu và thực sự đâu là yếu tính của chính cuộc sống.

7. Luận lý nội tại của những suy tư sơ khởi có chút triết lý về yếu tính của tình yêu này dẫn đưa chúng ta đến trước thềm của niềm tin trong Thánh Kinh. Chúng ta bắt đầu đưa ra câu hỏi liệu rằng những ý nghĩa khác biệt, đôi khi ngay cả trái ngược với nhau, của từ "tình yêu" có nói lên điều gì đồng nhất sâu xa bên dưới, hay trái lại chúng mãi mãi không liên quan với nhau, và tồn tại song song với nhau. Đáng kể hơn, chúng ta đặt vấn đề không biết sứ điệp tình yêu mà Thánh Kinh và Truyền Thống Giáo Hội công bố cho chúng ta có những điểm nào chung với cảm nhận tình yêu thông thường của nhân loại, hay nó đối nghịch với cảm nhận này. Điều này lại đưa chúng ta đến sự xem xét hai từ nền tảng: eros, như là thuật ngữ để chỉ tình yêu "trần thế" và agape, chỉ tình yêu được đặt cơ sở và hình thành bởi đức tin. Hai ý niệm này thường được tương phản như tình yêu "nhận về" và tình yêu "cho đi". Có những cách phân loại khác tương tự như vậy, chẳng hạn như sự phân biệt giữa tình yêu chiếm hữu và tình yêu vị tha (amor concupiscentiae – amor benevolentiae), đôi khi người ta cũng thêm vào trong cách phân loại này thứ tình yêu lợi dụng.

Trong bàn thảo triết học và thần học, những phân biệt này thường được đẩy xa đến độ hình thành nên một số đối nghịch rõ rệt giữa chúng: tình yêu cho đi hay vị tha - agape là kiểu tình yêu Kitô Giáo, trong khi tình yêu nhận về, chiếm hữu hay ham muốn là thứ tình không Kitô Giáo, và đặc biệt là tình yêu trong văn hóa Hy Lạp. Nếu đối nghịch này đi đến mức cực đoan, tinh thần Kitô Giáo sẽ bị bứng khỏi những liên hệ thiết yếu với hiện thực căn bản của loài người, và sẽ trở nên xa lìa với thế giới, có thể là đáng ngưỡng mộ đấy, nhưng dứt khoát tách ly khỏi cấu trúc phức hợp của cuộc sống con người. Tuy nhiên, erosagape - tình yêu nhận về và cho đi – không bao giờ có thể hoàn toàn tách rời. Hai thứ tình này, trong những khía cạnh khác nhau của chúng, càng tìm được sự tương đồng thích đáng trong cùng một thực tại tình yêu thì bản chất thực sự của tình yêu càng thường được nhận ra rõ ràng. Dù cho eros lúc đầu chủ yếu là ham muốn và đòi hỏi, trước quyến rũ của hứa hẹn hạnh phúc được cận kề bên nhau, người ta càng ngày càng bớt chú ý đến chính mình, gia tăng tìm kiếm hạnh phúc cho người kia, lo lắng cho người yêu, cho đi chính mình và muốn "hiện diện" cho người kia. Yếu tố agape vì thế bước vào tình yêu, nếu không eros nghèo nàn và ngay cả đánh mất đi bản chất của chính nó. Mặt khác, người ta không thể chỉ sống bằng tình yêu vị tha, và cho đi. Ai muốn trao ra tình yêu thì cũng muốn được nhận lại tình yêu như một quà tặng. Chắc chắn, như Thiên Chúa nói với chúng ta, ta có thể trở thành nguồn mạch tuôn chảy những dòng nước hằng sống (x Ga 7:37-38). Nhưng để trở nên một nguồn mạch như thế, ta phải thường xuyên uống mãi từ nguồn nguyên thủy là Chúa Giêsu Kitô, Đấng từ trái tim bị lưỡi đòng đâm thấu của Ngài tuôn đổ tình yêu của Thiên Chúa (x Ga 19:34).

Trong trình thuật cây thang của Tổ Phụ Giacóp, các Nghị Phụ của Giáo Hội thấy mối liên hệ không thể tách rời giữa tình yêu nhận về và tình yêu cho đi, giữa eros tìm kiếm Thiên Chúa và agape trao đi hồng ân nhận được, biểu trưng bằng nhiều cách khác nhau. Trong đoạn Thánh Kinh này, chúng ta đọc được Tổ Phụ Giacóp thấy như thế nào trong một giấc mơ: trên tảng đá dùng làm chỗ gối đầu của ngài, có một cái thang bắc lên trời, trên đó các thiên thần đang lên xuống (x. St 28:12; Ga 1:51). Một lối diễn dịch đánh động đặc biệt về thị kiến này được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đưa ra trong thông điệp Pastoral Rule (Quy tắc Mục Vụ). Ngài nói với chúng ta rằng người mục tử tốt lành phải đâm rễ trong chiêm niệm. Chỉ bằng cách đó, người mục tử mới có thể đặt lên vai mình những nhu cầu của tha nhân và coi đó là nhu cầu của mình: “per pietatis viscera in se infirmitatem caeterorum transferat ” .[ 4 ] Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô nói trong bối cảnh của Thánh Phaolô, người đã được nhấc lên cao với những mầu nhiệm cao cả nhất của Thiên Chúa, và từ đó, khi hạ xuống, ngài đã có thể trở nên tất cả cho mọi người (x. 2 Cor 12:2-4; 1 Cor 9:22). Ngài cũng chỉ ra gương của ông Môisê, người đã vào lều Tạm và cũng ở lại trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa để khi ra khỏi lều Tạm ông đã có thể phục phụ dân mình. "Trong [lều Tạm] ông đã được nhấc lên cao nhờ chiêm niệm, để khi ra ngoài ông hoàn toàn dâng mình cho việc trợ giúp những ai đau khổ: intus in contemplationem rapitur, foris infirmantium negotiis urgetur. ”[ 5 ]

8. Như thế chúng ta đã đi đến một đáp giải sơ khởi, dù còn đại cương, cho hai câu hỏi nêu ra ở trên. Về căn bản, "tình yêu" là một thực tại duy nhất nhưng với nhiều chiều kích khác nhau; ở những thời điểm khác nhau, chiều kích này có thể xuất hiện rõ hơn chiều kích khác. Tuy nhiên khi hai chiều kích hoàn toàn tách biệt khỏi nhau, hệ quả là một bức hí họa của tình yêu hay ít nhất cũng là một dạng thức nghèo nàn của tình yêu. Và chúng ta cũng đã thấy một cách tổng hợp, đức tin Thánh Kinh không hề dựng nên một vũ trụ song song, hay chống lại một hiện tượng thiết yếu của con người gọi là tình yêu, nhưng trái lại đức tin chấp nhận toàn thể con người; can thiệp vào cuộc tìm kiếm tình yêu của con người hầu thanh luyện tình yêu và mở ra những chiều kích mới cho tình yêu. Tính mới mẻ của đức tin Thánh Kinh biểu lộ chủ yếu ở hai yếu tố đáng được nêu bật: hình ảnh của Thiên Chúa và hình ảnh của con người.

Sự mới mẻ của đức tin Thánh Kinh

9. Trước hết, thế giới của Thánh Kinh trình bày với chúng ta một hình ảnh mới của Thiên Chúa. Trong các nền văn hóa chung quanh, hình ảnh của Thiên Chúa và của các thần linh luôn mơ hồ và trái nghịch. Tuy nhiên, theo đà phát triển của đức tin Thánh Kinh, nội dung của kinh Shema, lời nguyện cơ bản đối với người Do Thái, đã trở nên càng ngày càng rõ ràng và hùng hồn. " Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất"(Đnl 6:4). Chỉ có một Chúa duy nhất, Đấng dựng nên trời đất, Đấng do đó là chủ tể muôn loài. Có hai sự kiện hệ trọng liên quan đến khẳng định này: tất cả các thần linh khác không phải là Chúa, và vũ trụ trong đó chúng ta sống xuất phát tự nơi Thiên Chúa và được Thiên Chúa tạo thành. Chắc chắn là ý niệm tạo dựng có thể được tìm thấy đâu đó nữa, nhưng ở đây ý niệm này trở nên tuyệt đối rõ rệt rằng không có chuyện một thần linh giữa các thần linh, nhưng chỉ có một Thiên Chúa thật duy nhất, Đấng là nguồn mạch của mọi loài thọ sinh; toàn thể thế giới này hiện hữu bởi quyền năng của Lời sáng tạo. Hệ quả là tạo vật của Ngài là điều rất thân thiết với Ngài, vì nó được an bài và "dựng" nên bởi Ngài. Yếu tố quan trọng thứ hai giờ đây lộ ra: Thiên Chúa này yêu thương con người. Quyền thần mà Aristotle ở đỉnh cao của triết học Hy Lạp tìm cách nắm bắt qua những suy tư thực ra là một đối tượng khiến cho mọi người khao khát và yêu mến – và như đối tượng của tình yêu, quyền thần này đảo lộn thế giới[6] – nhưng tự bên trong quyền thần này không thiếu thứ gì và không hề yêu ai: nó chỉ là đối tượng để cho người ta yêu. Ngược lại, Thiên Chúa mà dân Israel tin thờ lại yêu với một tình yêu cá vị. Tình yêu của Ngài, hơn thế nữa, là một tình yêu có chọn lọc: giữa tất cả các dân nước, Ngài đã chọn Israel và yêu dân này – nhưng Ngài làm thế với viễn ảnh chữa lành toàn thể nhân loại. Thiên Chúa yêu và tình yêu Ngài chắc chắn có thể gọi là eros nhưng tình yêu đó cũng hoàn toàn là agape. [7]

Các tiên tri, đặc biệt là tiên tri Hôsê và Êdêkien, đã mô tả xúc cảm của Thiên Chúa dành cho dân Ngài với những hình ảnh khơi gợi táo bạo. Quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Israel được mô tả với những liên tưởng về giao ước và hôn nhân; việc thờ ngẫu tượng do đó được coi là ngoại tình và mại dâm. Ở đây chúng ta thấy - như đã từng thấy - một tham chiếu đặc biệt đến các giáo phái tôn thờ sinh sản và sự lạm dụng eros của họ, nhưng cũng đồng thời thấy một mô tả về quan hệ trung tín giữa Israel và Thiên Chúa. Lịch sử quan hệ ái tình giữa Thiên Chúa và Israel, ở mức thâm sâu nhất, bao gồm trong sự kiện là Ngài đã ban cho Israel Torah (Lề Luật), qua đó mở mắt cho dân Israel thấy bản chất thật sự của con người, và chỉ cho dân Người thấy con đường dẫn đến chủ nghĩa nhân bản đích thật. Quan hệ này chứa đựng trong sự kiện là con người qua cuộc sống trung tín với Thiên Chúa duy nhất, sẽ tự cảm nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương, và khám phá ra những niềm vui trong sự thật và trong sự công chính – đó là niềm vui nơi Thiên Chúa mà rồi ra sẽ trở nên hạnh phúc thiết yếu của con người: "Con còn ai chốn trời xanh? Bên Ngài thế sự thật tình chẳng ham... Còn hạnh phúc của con là ở kề bên Chúa"(Tv 73 [72]:25, 28).

10. Chúng ta đã thấy rằng eros của Thiên Chúa dành cho loài người cũng hoàn toàn là agape. Điều này không chỉ vì tình yêu này được trao ban một cách rất hào phóng, nhưng không, nhưng còn vì đó là một tình yêu tha thứ. Trên tất cả, Hôsê chỉ cho chúng ta thấy rằng chiều kích agape này của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người vượt xa khía cạnh hào phóng. Israel tiếp tục "ngoại tình" và vi phạm giao ước; Thiên Chúa lẽ ra phải phán xét và trừng phạt Israel. Chính trong điểm này Thiên Chúa mạc khải với ta Thiên Chúa là Thiên Chúa, không phải con người:"Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành!... Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận, sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh"(Hos 11:8-9). Tình yêu nhiệt thành của Chúa dành cho dân Người – cho nhân loại – đồng thời là một tình yêu thứ tha. Tình yêu ấy lớn lao đến độ làm Thiên Chúa quay ra đối nghịch lại với chính Ngài, tình yêu của Ngài nghịch lại với công lý của Ngài. Ở đây, người Kitô Giáo có thể thấy một tiên báo lờ mờ về mầu nhiệm Thánh Giá: tình yêu Thiên Chúa dành cho con người cao cả đến mức Ngài đã hóa thành con người để theo đuổi con người đến tận cái chết và qua đó hòa giải công lý và tình yêu.

Chiều kích triết học đáng nêu ra trong hình ảnh Thánh Kinh này, và tầm quan trọng từ quan điểm lịch sử các tôn giáo, là một mặt chúng ta thấy mình đứng trước một hình ảnh rất siêu hình của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối và là nguồn mạch của mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này - Logos, Đấng thượng trí – lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thật sự. Eros vì thế đã nên tột cùng cao quý, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với agape. Chúng ta có thể thấy việc đưa sách Diễm Ca vào phạm vi Sách Thánh đã sớm được giải thích bởi ý tưởng là những bài tình ca này chung cuộc diễn tả quan hệ giữa Thiên Chúa và con người và quan hệ giữa con người với Thiên Chúa. Vì thế, trong cả văn chương Kitô Giáo và Do Thái Giáo, sách Diễm Ca đã trở thành nguồn mạch cho những kiến thức và cảm nhận huyền nhiệm, trở thành một diễn tả yếu tính của đức tin Thánh Kinh theo đó con người có thể thực sự tiến vào sự hiệp thông với Thiên Chúa – khát vọng nguyên thủy của con người. Nhưng sự hiệp thông này không chỉ đơn thuần là một tổng hợp, một nhúng chìm trong biển cả không tên của Thần Tính; đó là một sự hiệp nhất tạo ra tình yêu, một sự hiệp nhất trong đó cả Thiên Chúa và con người giữ nguyên chính mình nhưng lại trở nên một. Như Thánh Phaolô nói: "Ai kết hiệp với Chúa thì trở nên cùng một thần trí với Ngài" (1 Cr 6:17).

11. Tính chất mới mẻ đầu tiên của đức tin Thánh Kinh, như chúng ta thấy ở trên, bao gồm hình ảnh về Thiên Chúa. Tính chất mới mẻ thứ hai, liên quan chặt chẽ với điều này, được tìm thấy nơi hình ảnh con người. Trình thuật sáng thế trong Thánh Kinh đề cập đến sự cô đơn của Adong, con người đầu tiên, và quyết định của Thiên Chúa ban cho ông một trợ tá. Tất cả các tạo vật khác, không tạo vật nào có thể trở thành người trợ tá mà con người này cần, dù cho con người đã đặt tên cho tất cả mọi súc vật hoang dã và chim muông và qua đó biến chúng hoàn toàn trở nên một một phần đời sống của mình. Vì thế, Thiên Chúa dựng nên người nữ từ xương sườn của người nam. Giờ đây Adong tìm được người trợ tá mà ông cần: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!" (St 2:23). Ở đây, ta có thể tìm thấy những ý tưởng tương tự có thể tìm thấy, chẳng hạn, trong huyền thoại được Plato nhắc đến, theo đó con người tự nguyên thủy là đóng kín, vì con người hoàn chỉnh và tự mình đầy đủ. Nhưng con người bị thần Zeus tách làm đôi để trừng phạt tội kiêu ngạo, vì thế từ nay con người ngóng trông nửa còn lại của mình, gắng toàn bộ sức mình để dành lấy nửa ấy hầu khôi phục lại sự toàn vẹn của mình. [8] Trong khi trình thuật Thánh Kinh không đề cập đến sự trừng phạt, có một ý tưởng bàng bạc rằng con người cách nào đó là khiếm khuyết, theo bản năng tìm kiếm nơi người khác phần bổ sung để con người nên trọn vẹn; có một ý tưởng theo đó chỉ trong sự hiệp thông với người khác phái con người mới có thể trở nên "hoàn chỉnh". Trình thuật Thánh Kinh từ đó kết luận với một lời tiên tri của Adong: "Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt." (St 2:24).

Có hai khía cạnh rất quan trọng của điều này. Đầu tiên, eros cách nào đó đâm rễ trong chính bản chất con người: Adong là một người tìm kiếm, người "đã bỏ mẹ và cha mình" để tìm người nữ; phải có hai người cùng nhau mới tiêu biểu được cho một nhân loại hoàn chỉnh và trở nên "cùng một xương một thịt". Khía cạnh thứ hai cũng quan trọng không kém. Từ quan điểm của lịch sử sáng thế, eros hướng dẫn con người đến với hôn nhân, đến với một ràng buộc độc nhất và dứt khoát; chỉ như thế mục đích sâu xa nhất của nó mới được nên trọn. Tương ứng với hình ảnh của một Thiên Chúa độc thần là một hôn nhân đơn hôn [một vợ một chồng]. Hôn nhân dựa trên tình yêu độc quyền và dứt khoát trở nên hình ảnh mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Người và ngược lại. Đường lối yêu thương của Thiên Chúa trở thành thước đo cho tình yêu nhân loại. Sự liên hệ gần gũi này giữa eros và hôn nhân trong Thánh Kinh trong thực tế không có một tương đương nào trong các văn chương khác.

Chúa Giêsu Kitô – hiện thân của tình yêu Thiên Chúa

12. Dù đến nay, chúng ta đề cập chủ yếu đến Cựu Ước, tuy nhiên, sự kết hiệp bổ sung sâu xa giữa hai Giao Ước như một Thánh Kinh duy nhất của đức tin Kitô đã trở nên hiển nhiên. Tính chất mới mẻ thật sự của Tân Ước không hệ tại nhiều ở những ý tưởng mới cho bằng trong chính hình ảnh của Chúa Kitô, Đấng trao ban mình và máu Ngài cho những ý tưởng đó – một chủ nghĩa hiện thực chưa từng có. Trong Cựu Ước, tính chất mới mẻ của Thánh Kinh không chỉ ở những khái niệm trừu tượng nhưng còn ở hành động không tiên liệu trước được của Thiên Chúa và trong một nghĩa nào đó là chưa từng có. Hành động của Thiên Chúa giờ đây mang lấy một hình thái gây ấn tượng mạnh hơn nữa khi trong Chúa Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa là Đấng đi tìm "những con chiên lạc", là nhân loại khổ đau và lầm lạc. Khi Chúa Giêsu nói trong các dụ ngôn của Ngài về người mục tử đi tìm chiên lạc, về người đàn bà tìm đồng tiền đánh rơi, hay về người cha gặp gỡ và ôm vào lòng đứa con hoang đàng, những lời này không chỉ đơn thuần như thế: chúng cấu thành lời giải thích cho chính Ngài và hành động của Ngài. Cái chết của Ngài trên thánh giá là tột đỉnh của việc Thiên Chúa quay ra đối nghịch lại với chính Ngài, trong đó, Ngài trao ban chính mình để nâng con người dậy và cứu rỗi con người. Đây là tình yêu ở dạng thức cao nhất. Khi chiêm niệm cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu của Chúa Kitô (x 19:37) , chúng ta có thể hiểu được điểm khởi hành của Thông Điệp này "Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4:8). Chính đó là điểm để chiêm niệm chân lý này. Định nghĩa tình yêu của chúng ta cần phải bắt đầu từ đó. Trong chiêm niệm này, người Kitô hữu khám phá ra con đường theo đó cuộc sống và tình yêu của mình phải dõi bước theo.

13. Chúa Giêsu làm cho hành vi trao đi này tồn tại lâu dài qua việc thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Ngài tiên báo cái chết và sự phục sinh của Ngài bằng cách trao cho các môn đệ chính Ngài trong hình bánh và rượu, là mình và máu Ngài như manna mới ( x Ga 6:31-33). Thế giới xưa đã lờ mờ nhận ra rằng của ăn đích thực của nhân loại – cái thực sự nuôi dưỡng họ như con người – trên hết là Logos, thượng trí vĩnh hằng: chính Logos này nay thực sự là của ăn cho họ - vì tình yêu. Bí tích Thánh Thể đưa chúng ta vào trong hành động tự cho đi của Chúa Giêsu. Hình ảnh cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa và Israel giờ đây được nhận ra trong cách thế chưa từng được nghĩ đến: hôn nhân này trước đây được hiểu là được hiện diện trước mặt Thiên Chúa, nhưng nay nó trở thành sự hiệp nhất với Thiên Chúa qua việc chia sẻ trong hồng ân tự hiến của Chúa Giêsu, chia sẻ mình và máu Ngài. "Huyền nhiệm" có tính cách bí tích này đặt cơ sở trên sự hạ mình của Thiên Chúa xuống chúng ta, hoạt động ở mức độ rất khác biệt và đưa chúng ta đến những đỉnh cao hơn bất cứ điều gì phù phép nâng mình lên của nhân loại có thể đạt đến.

14. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta cần quan tâm đến một khía cạnh khác: "huyền nhiệm" bí tích này có một tính cách xã hội, vì trong bí tích hiệp thông tôi trở nên một với Chúa, như tất cả những người hiệp thông khác. Như Thánh Phaolô nói, "Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể." (1 Cor 10:17) Hiệp thông với Chúa Kitô cũng là hiệp thông với tất cả những ai Ngài đã hiến mình cho họ. Tôi không thể giữ Chúa Kitô chỉ cho riêng mình; tôi chỉ có thể thuộc về Ngài trong sự hiệp thông với những ai đã và sẽ trở thành của Ngài. Sự hiệp thông đưa tôi ra khỏi chính mình để hướng về Ngài, và vì thế cũng hướng về sự hiệp nhất với tất cả các Kitô hữu. Chúng ta trở nên "một thân thể", hoàn toàn được liên kết trong một sự hiện hữu duy nhất. Tình yêu của Thiên Chúa, và tình yêu tha nhân giờ đây thực sự được kết hiệp: Thiên Chúa nhập thể đưa tất cả chúng ta lại với chính Ngài. Vì thế, chúng ta hiểu được tại sao agape cũng trở nên một thuật ngữ dành cho bí tích Thánh Thể: nơi đó agape của chính Thiên Chúa đến với chúng ta bằng xương bằng thịt để tiếp tục kỳ công của Ngài trong chúng ta và qua chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta ghi nhớ trong đầu mình căn bản Kitô học và bí tích học này chúng ta mới có thể hiểu đúng được giáo huấn của Chúa Giêsu về tình yêu. Sự chuyển dịch Ngài đã thực hiện từ Lề Luật và từ các Tiên Tri đến giới răn gồm hai mặt là mến Chúa và yêu người, và việc đặt cơ sở của toàn bộ đời sống đức tin trên giáo huấn trung tâm này không chỉ đơn giản là vấn đề luân lý – một điều gì đó có thể tồn tại tách biệt và song song với đức tin nơi Chúa Kitô và sự tái hiện thực hóa cách bí tích (sacramental re-actualization) của đức tin này. Đức tin, sự thờ phượng và eros đan quyện vào nhau như một thực tại duy nhất hình thành trong cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với agape của Thiên Chúa. Ở đây sự đối kháng thông thường giữa thờ phượng và đạo đức vỡ vụn từng mảng. "Sự thờ phượng", sự hiệp thông trong bí tích Thánh Thể, tự nó bao gồm thực tại của cả tình trạng được yêu và yêu thương ngược lại. Sự hiệp thông Thánh Thể nếu không được nối tiếp bằng sự thực hành yêu thương cụ thể thì tự bên trong đã là chắp vá. Ngược lại, như chúng ta sẽ đi sâu vào chi tiết dưới đây, "lề luật" yêu thương chỉ có thể thực hiện được vì nó cao hơn là một yêu cầu. Tình yêu chỉ có thể bị "bó buộc" nếu nó đã được trao ra trước.

15. Nguyên tắc này là điểm khởi hành để hiểu những dụ ngôn lớn của Chúa Giêsu. Người nhà giàu (x Lc 16:19-31) van xin từ chốn ngục hình của mình để anh em ông được biết về những gì xảy đến cho những ai bỏ mặc người nghèo trong cùng bách. Chúa Giêsu xem lời kêu cầu này như một lời cảnh cáo để giúp chúng ta quay về chính lộ. Dụ ngôn người Samaritanô Nhân Lành (x Lc 10:25-37) đưa ra hai điều minh bạch hóa hết sức quan trọng. Cho đến lúc đó, khái niệm "anh em" được hiểu là ám chỉ đặc biệt đến những người đồng hương và những khách ngoại kiều cư trú trên đất Israel; nói cách khác, đến một cộng đoàn khép kín của một đất nước hay một dân tộc chuyên biệt. Giới hạn này giờ đây bị hủy bỏ. Bất cứ ai cần đến tôi và bất cứ ai tôi có thể giúp đều là anh em tôi. Khái niệm "anh em" giờ đây được hoàn vũ hóa, tuy thế nó vẫn giữ nguyên tính cụ thể. Dù được nới rộng ra tới toàn nhân loại, nó không bị giản lược thành một biểu thị tình yêu khái quát, trừu tượng và không đòi hỏi, nhưng là những lời mời gọi cho dấn thân thực tiễn của tôi ở đây và ngay bây giờ. Giáo Hội có nghĩa vụ diễn dịch luôn mới mẻ quan hệ này trong mối tương quan với đời sống của các tín hữu ở mọi nơi mọi lúc. Cuối cùng, chúng ta phải đặc biệt nhắc đến dụ ngôn Ngày Phán Xét Sau Cùng ( Mt 25:31-46), trong đó tình yêu trở thành tiêu chuẩn cho quyết định chung cuộc xem cuộc sống của một con người là xứng đáng hay không. Chúa Giêsu đồng hóa mình với những người cùng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những kẻ trần truồng, đau yếu và những người đang trong vòng lao lý. "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25:40) Mến Chúa và yêu người đã trở thành một: trong những người anh em bé nhỏ nhất, chúng ta tìm thấy chính Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu chúng ta gặp được Thiên Chúa.

Mến Chúa và yêu người

16. Sau khi đã suy tư về bản chất của tình yêu, và ý nghĩa của nó trong niềm tin Thánh Kinh, chúng ta còn hai câu hỏi liên quan đến thái độ của chính mình: chúng ta có thể yêu Chúa mà không thấy Ngài không? Và tình yêu có thể bị bắt buộc không? Đối kháng với giới răn kép của yêu thương, những câu hỏi này đưa ra một chống đối kép. Chưa ai đã từng nhìn thấy Thiên Chúa, như thế làm sao chúng ta có thể yêu Ngài? Hơn thế nữa, tình yêu không thể bị bắt buộc; nói cho cùng đó là một cảm giác hoặc là có hoặc là không, chẳng cố mà có, cũng chẳng muốn mà được. Thánh Kinh xem ra có vẻ củng cố chống đối thứ nhất khi tuyên bố rằng: "Nếu ai nói: 'Tôi yêu mến Thiên Chúa' mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối;vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy,

thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy." (1 Ga 4:20). Nhưng đoạn văn này không loại trừ tình yêu Thiên Chúa coi đó như là điều không thể được. Trái lại, toàn bộ bối cảnh của đoạn văn trích từ Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan cho thấy một tình yêu như thế là một đòi buộc rõ rệt. Mối liên kết không thể bị bẻ gãy giữa mến Chúa và yêu người được nhấn mạnh. Ta được liên kết thân mật với người khác đến nỗi nói rằng yêu Chúa là nói dối nếu ta dóng kín với tha nhân hay thậm chí thù ghét họ. Những lời của Thánh Gioan nên được hiểu như thế này: yêu người là con đường dẫn đến sự gặp gỡ với Chúa, và ngoảnh mặt với anh em là ngoảnh mặt đi với Chúa.

17. Đúng thế, chưa ai đã từng thấy Thiên Chúa đúng nghĩa. Nhưng tuy Thiên Chúa là vô hình đối với chúng ta; Ngài không phải là mãi mãi không thể tiếp cận. Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước như trong Thư của Thánh Gioan đã được trích dẫn ở trên (x 4:10) , và tình yêu này của Thiên Chúa đã xuất hiện giữa chúng ta. Ngài đã trở nên hữu hình đến mức Ngài "đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống" (1 Ga 4:9). Thiên Chúa đã tự hóa thành hữu hình: trong Chúa Giêsu chúng ta có thể thấy được Chúa Cha (x Ga 14:9). Thật vậy, Thiên Chúa hữu hình trong nhiều cách thế. Trong câu chuyện tình được Thánh Kinh tường thuật, Ngài đến với chúng ta, Ngài tìm cách chinh phục con tim chúng ta, đến tận cùng bữa Tiệc Ly, đến cạnh sườn bị lưỡi đòng thâu qua, đến những lần hiện ra sau Phục Sinh và đến những kỳ công cao cả qua đó, thông qua hoạt động của các thánh Tông Đồ, Ngài hướng dẫn Giáo Hội sơ khai trên những nẻo đường. Chúa đã không vắng mặt trong lịch sử tiếp theo của Giáo Hội: Ngài gặp gỡ chúng ta luôn mãi nơi những người nam nữ chiêm ngắm sự hiện diện của Ngài trong lời Ngài, trong các phép bí tích, và đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Trong Phụng Vụ của Giáo Hội, trong lời kinh của Giáo Hội, trong những cộng đoàn tín hữu sống động, chúng ta cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta cảm nhận được sự hiện diện của Ngài và qua đó chúng ta học biết cách nhận ra sự hiện diện của Ngài trong đời sống hàng ngày. Ngài đã yêu chúng ta trước và Ngài còn tiếp tục yêu thương chúng ta; cả chúng ta, do đó, cũng có thể đáp lại với tình yêu. Thiên Chúa không đòi nơi chúng ta một cảm giác mà chúng ta không sao tạo ra nổi. Ngài yêu chúng ta, Ngài làm cho chúng ta thấy và cảm nhận được tình yêu của Ngài, và vì "Ngài đã yêu thương chúng ta trước", tình yêu có thể nở hoa như là một lời đáp trả bên trong chúng ta.

Cuộc gặp gỡ này dần hé mở ra mạc khải theo đó tình yêu không chỉ là một cảm xúc. Cảm xúc đến rồi đi. Một cảm xúc có thể là một tia sáng loé lên huy hoàng lúc đầu, nhưng nó không phải là sự viên mãn của tình yêu. Trước đó, chúng ta đã đề cập đến tiến trình thanh luyện và trưởng thành, qua đó eros trở nên viên mãn trong chính nó, trở nên tình yêu trong ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đặc trưng của tình yêu trưởng thành là nó huy động mọi tiềm năng của con người; nó lôi cuốn toàn thể con người, có thể nói như vậy. Sự tiếp xúc với những biểu thị hữu hình của tình yêu Thiên Chúa có thể đánh thức trong chúng ta một cảm giác hân hoan xuất phát từ cảm nhận mình đang được yêu. Nhưng cuộc gặp gỡ này cũng thu hút cả ý chí và trí tuệ của chúng ta. Nhìn nhận Thiên Chúa hằng sống là một con đường hướng đến tình yêu, và lời "xin vâng" của ý chí chúng ta trước thánh ý Ngài sẽ kết hiệp trí tuệ chúng ta, ý chí chúng ta và những tình cảm của chúng ta lại trong hành vi ôm trọn tất cả của tình yêu. Nhưng tiến trình này luôn luôn bất tận; tình yêu không bao giờ "hoàn tất" và hoàn toàn; suốt đời, tình yêu thay đổi và trưởng thành, và qua đó luôn trung tín với chính mình. Idem velle atque idem nolle [9] – ao ước cùng một điều và chê ghét cùng một điều - được người xưa nhìn nhận như là nội dung chân thật của tình yêu: đàng này trở thành tương tự với đàng kia, và điều đó dẫn đến một cộng đồng ý chí và tư duy. Chuyện tình giữa Thiên Chúa và con người chứa đựng trong chính sự kiện là sự hiệp thông ý chí này tăng trưởng trong sự hiệp thông ý nghĩ và tình cảm, qua đó ý chí chúng ta và thánh ý Thiên Chúa càng ngày càng trùng hợp: Thánh ý Chúa không còn là một ý chí xa lạ đối với tôi, là điều gì đó áp đặt trên tôi từ bên ngoài bởi các giới răn, nhưng giờ đây đó là ý của tôi, với nhận thức rằng Thiên Chúa hiện diện trong tôi còn sâu xa hơn chính cái tôi của mình. [10] Từ đó sự từ bỏ mình để hướng đến Thiên Chúa gia tăng và Thiên Chúa trở thành niềm vui của chúng ta (x. Tv 73 [72]:23-28) .

18. Yêu tha nhân vì thế được chứng minh là có thể trong cách thế mà Thánh Kinh và Chúa Giêsu đã chỉ ra. Nó được chứa đựng trong chính sự kiện này là trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa, tôi yêu cả những người tôi không thích hay thậm chí không biết người ấy. Điều này chỉ có thể xảy ra trên cơ sở của một cuộc gặp gỡ thân mật với Chúa Giêsu, một cuộc gặp gỡ đã trở nên một sự hiệp thông ý chí, một cuộc gặp gỡ ảnh hưởng đến cả cảm xúc của tôi. Từ đó, tôi nhìn tha nhân này không chỉ với đôi mắt và cảm xúc của mình nhưng từ quan điểm của Chúa Giêsu Kitô. Bạn Ngài là bạn tôi. Vượt qua dáng vẻ bề ngoài, tôi cảm nhận nơi tha nhân một ao ước bên trong muốn thấy một dấu chỉ của tình yêu, của quan tâm. Tôi có thể trao cho họ dấu chỉ này không chỉ thông qua các tổ chức được hình thành cho những nhu cầu như thế, những tổ chức được chấp nhận có lẽ như một nhu cầu chính trị. Khi nhìn với đôi mắt của Chúa Kitô, tôi có thể trao cho tha nhân nhiều hơn những nhu cầu bề ngoài của họ; tôi có thể trao cho họ ánh mắt yêu thương mà họ thèm khát. Ở đây chúng ta thấy sự tương tác cần thiết giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân mà Thư Thánh Gioan đã đề cập với một sự nhấn mạnh như vậy. Nếu tôi chẳng có chút liên hệ nào với Thiên Chúa trong đời tôi, tôi không thể thấy nơi tha nhân những gì nhiều hơn là họ, và tôi không thể thấy nơi họ hình bóng của Thiên Chúa. Nhưng nếu trong cuộc đời, tôi hoàn toàn chẳng bao giờ chú ý đến ai, tình nghĩa với Chúa sẽ trở nên khô cằn nếu nó xuất phát thuần tuý từ ước muốn được trở nên "sốt sắng" và muốn thi hành "bổn phận tôn giáo" của mình. Tình nghĩa ấy chỉ có thể trở thành "đúng cách", chứ không hề có tình yêu trong đó. Chỉ sự sẵn sàng gặp gỡ người anh em tôi và chứng tỏ cho người ấy thấy tình yêu của mình, mới làm cho tôi cũng nhạy cảm với Thiên Chúa. Chỉ khi tôi phục vụ người anh em tôi, mắt tôi mới mở ra cho tôi thấy những gì Thiên Chúa đã làm cho tôi và Ngài yêu tôi biết dường nào. Các thánh – hãy xem thí dụ Chân Phước Têrêxa thành Calcutta – thường xuyên canh tân khả năng yêu thương tha nhân của họ từ sự gặp gỡ với Chúa Thánh Thể, và ngược lại sự gặp gỡ này đạt được hiện thực và chiều sâu của nó trong sự phục vụ tha nhân. Tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu tha nhân vì thế là không thể tách rời, chúng hình thành một giới răn duy nhất. Nhưng cả hai sống từ tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước. Nó không còn là vấn đề một "lệnh truyền" áp đặt từ bên ngoài và đòi hỏi một điều bất khả thi nữa, nhưng là một kinh nghiệm yêu đương, tự do cho đi từ bên trong, một tình yêu tự bản chất cần phải được chia sẻ với những người khác. Tình yêu triển nở qua tình yêu. Tình yêu là "thần thánh" vì nó đến từ Thiên Chúa và kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa; qua tiến trình hiệp nhất này tình yêu biến chúng ta thành một "chúng tôi", vượt qua sự chia rẽ của chúng ta và làm cho chúng ta nên một, cho đến khi Thiên Chúa là "tất cả trong mọi sự" (1 Cor 15:28).

Chú Thích:

[1] Xem Jenseits von Gut und Böse, IV, 168.

[2] X, 69.

[3] Xem R. Descartes, Œuvres, ed. V. Cousin, vol. 12, Paris 1824, pp. 95ff.

[4] II, 5: SCh 381, 196.

[5] Ibid., 198.

[6] Xem Metaphysics, XII, 7.

[7] Xem Ps.-Dionysius the Areopagite, who in his treatise The Divine Names, IV, 12-14: PG 3, 709-713 calls God both eros and agape.

[8] Plato, Symposium, XIV-XV, 189c-192d.

[9] Sallust, De coniuratione Catilinae, XX, 4.

[10] Xem Saint Augustine, Confessions, III, 6, 11: CCL 27, 32.