Công bằng và Bác ái

26. Kể từ thế kỷ XIX, đã nổi lên sự chống đối hoạt động bác ái của Hội Thánh, sự chống đối này sau đã phát triển với sự nhấn mạnh đặc biệt của thuyết Mácxít: người ta nói rằng người nghèo không cần đến bác ái nhưng cần công bằng. Những công việc bác ái—bố thí—quả là một cách thức để người giàu lẩn tránh bổn phận hành động theo công bằng và một phương thế để xoa dịu lương tâm, trong khi vẫn củng cố địa vị của họ và tước đi quyền lợi của kẻ nghèo. Thay vì góp phần vào việc bảo vệ nguyên trạng (status quo) qua những công việc bác ái cá nhân, chúng ta cần xây dựng một trật tự xã hội công bằng trong đó tất cả mọi người lãnh phần của mình trong số những của cải trần gian và không còn lệ thuộc vào bác ái nữa. Phải thừa nhận là có một vài chân lý trong luận cứ này, nhưng cũng có rất nhiều điều sai lầm. Quả thật là việc theo đuổi công bằng phải là một quy tắc nền tảng của Quốc gia và mục tiêu của một trật tự xã hội công bằng là bảo đảm cho mỗi người, theo nguyên tắc phụ đới, có được phần của mình trong số của cải của cộng đoàn. Điều này luôn được giáo huấn kitô giáo về Quốc gia và giáo huấn xã hội của Hội Thánh nhấn mạnh. Xét theo lịch sử, vấn đề tổ chức công bằng tài sản chung đã mang lại một chiều kích mới cùng với việc kỹ nghệ hoá của xã hội vào thế kỷ XIX. Sự xuất hiện của kỹ nghệ tân tiến đã làm cho các cơ cấu của xã hội cũ bị sụp đổ, đang khi sự lớn mạnh của một giao cấp công nhân được trả lương gây ra sự thay đổi triệt để trong cấu trúc xã hội. Mối tương quan giữa tiền vốn và lao động giờ đây trở thành một vấn đề quyết định—một vấn đề trong hình thức ấy cho tới nay không hề được biết đến. Tiền vốn và các phương tiện sản xuất giờ đây là những nguồn sức mạnh mới mà một khi được tập trung trong tay của một số ít người, đã dẫn đến việc hủy bỏ các quyền lợi của giai cấp lao động, điều ấy cần phải chống lại.

27. Cần phải thừa nhận rằng sự lãnh đạo của Hội Thánh đã chậm trễ trong việc nhận thức rằng vấn đề tổ chức công bằng cơ cấu của xã hội cần phải được tiếp cận theo một cách thức mới mẻ. Đã có những vị đi tiên phong như Giám mục Ketteler ở Mainz († 1877), và đáp lại những nhu cầu cụ thể, đã nảy sinh những nhóm, hiệp hội, phong trào, liên hiệp và đặc biệt, những dòng tu mới được thành lập trong thế kỷ XIX để chống lại sự nghèo đói, các tệ nạn và tình trạng bất cập trong việc giáo dục. Vào năm 1891, quyền giáo huấn của giáo hoàng đã can thiệp qua Thông điệp Rerum Novarum của Đức Lêô XIII. Tiếp theo là Thông điệp Quadragesimo Anno của Đức Piô XI năm 1931. Vào năm 1961 Chân phước Gioan XXIII ban hành Thông điệp Mater et Magistra, trong khi đó Đức Phaolô VI, trong Thông điệp Populorum Progressio (1967) và Tông thư Octogesima Adveniens (1971), đề cập cách mạnh mẽ đến vấn đề xã hội, lúc ấy đã trở nên đặc biệt nóng bỏng tại Châu Mỹ La Tinh. Vị Tiền nhiệm vĩ đại của tôi, Đức Gioan-Phaolô II đã để lại cho chúng ta một bộ ba Thông điệp xã hội: Laborem Exercens (1981), Sollicitudo Rei Socialis (1987) và cuối cùng Centesimus Annus (1991). Đối diện với những hoàn cảnh và những vấn đề mới, giáo huấn xã hội của Công giáo đã phát triển dần dần, và giờ đây đã có một trình bày dễ hiểu trong Cuốn Tóm lược giáo huấn xã hội của Hội Thánh do Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình xuất bản năm 2004. Thuyết Mácxít đã xem cách mạng thế giới và các biện pháp sơ bộ như là thuốc chữa kỳ diệu cho vấn đề xã hội: cách mạng và tập thể hoá các phương tiện sản xuất đến theo sau, như đã được khẳng định, sẽ lập tức biến đổi sự việc cho tốt hơn. Ao tưởng này đã tan biến. Trong hoàn cảnh phức tạp của ngày hôm nay, cũng vì sự tăng trưởng của một kinh tế toàn cầu hoá, giáo huấn xã hội của Hội Thánh đã trở nên một quy chiếu nền tảng, khi đề nghị những định hướng có giá trị vượt quá ranh giới của Hội Thánh: đối diện với sự phát triển liên tục, những nguyên tắc chỉ đạo này cần được đề cập đến trong bối cảnh đối thoại với tất cả những ai thật sự quan tâm đến nhân loại và thế giới chúng ta đang sống.

28. Để xác định chính xác hơn mối tương quan giữa việc dấn thân cần thiết cho công bằng và thừa tác vụ bác ái, hai hoàn cảnh nền tảng cần được xem xét:

a) Tổ chức đúng đắn cho xã hội và Quốc gia là một trách nhiệm cốt yếu của chính trị. Như thánh Augustinô đã từng nói, một Quốc gia không được cai trị theo công bằng chỉ có thể là một bầy trộm cướp: “Remota itaque iustitia quid sunt regna nisi magna latrocinia?”[18] Sự phân biệt giữa cái gì thuộc về Xêda và cái gì thuộc về Thiên Chúa (x. Mt 22,21) là nền tảng đối với kitô giáo, nói cách khác, sự phân biệt giữa Hội Thánh và Quốc gia, hoặc, như Công đồng Vatican II diễn đạt, sự độc lập của lãnh vực trần thế.[19] Chính quyền không thể áp lực trên tôn giáo, tuy nhiên nó phải bảo đảm quyền tự do tôn giáo và sự hoà hợp giữa những người theo các tôn giáo khác nhau. Về phần mình, Hội Thánh, như một diễn tả về phương diện xã hội của đức tin kitô giáo, có một sự độc lập riêng và được tổ chức trên nền tảng của đức tin như một cộng đoàn mà Chính quyền phải nhìn nhận. Hai lãnh vực phân biệt lẫn nhau, tuy vậy luôn có quan hệ lẫn nhau.

Công bằng vừa là mục tiêu và tiêu chuẩn nội tại của mọi quyền lực chính trị. Chính trị còn hơn là một cơ chế để xác định luật lệ cho đời sống công cộng: nguồn gốc và mục đích của nó được tìm thấy trong công bằng, và nó thuộc về lãnh vực đạo đức. Chính quyền không thể không đối diện với câu hỏi: làm thế nào để công bằng có thể được thực hiện nơi đây và lúc này. Nhưng câu hỏi đó bao hàm một câu hỏi triệt để hơn nữa: công bằng là gì? Đây là một vấn đề liên quan đến lý trí thực hành; nhưng để có thể được sử dụng cách đúng đắn, lý trí cần phải trải qua sự thanh luyện thường xuyên, bởi vì lý trí không bao giờ có thể được hoàn toàn giải thoát khỏi nguy cơ của một thứ mù quáng về phương diện đạo đức, gây ra bởi tác dụng chói chang của quyền lực và lợi ích.

Tại điểm này, chính trị và đức tin gặp nhau. Đức tin do bởi bản tính riêng là một sự gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống—một cuộc gặp gỡ mở ra những chân trời mới vượt khỏi lãnh vực của lý trí. Nhưng đồng thời nó là một sức mạnh có sức thanh luyện chính lý trí. Khởi từ viễn ảnh của Thiên Chúa, đức tin giải thoát lý trí khỏi sự mù quáng và vì thế giúp lý trí trở nên hoàn thiện hơn. Đức tin giúp lý trí chu toàn công việc cách hiệu quả hơn và thấy mục tiêu riêng rõ hơn. Giáo thuyết xã hội của Công giáo đặt mình vào chỗ ấy: nó không nhắm đem lại cho Hội Thánh quyền lực trên Chính quyền. Nó càng lại không muốn áp đặt trên những người không chia sẻ cùng một đức tin lối suy nghĩ và cách hành động riêng của mình. Nó chỉ muốn giúp thanh luyện lý trí và góp phần vào sự hiểu biết và đạt tới điều gì là công bình, nơi này và lúc này.

Giáo huấn xã hội của Hội Thánh biện luận trên nền tảng của lý trí và luật tự nhiên, nghĩa là, trên nền tảng của cái gì tương hợp với bản tính của nhân loại. Hội Thánh nhìn nhận rằng không phải trách nhiệm của mình là làm cho giáo huấn này chiếm ưu thế trong lãnh vực chính trị. Đúng hơn, Hội Thánh muốn giúp đào tạo lương tâm trong lãnh vực chính trị và kích thích sự hiểu biết rõ ràng hơn những đòi hỏi đích thực của sự công bằng cũng như sự sẵn sàng lớn hơn để hành động cho phù hợp, cho dù nó có thể gây nên xung đột với những hoàn cảnh của lợi ích riêng tư. Xây dựng một xã hội công bằng và trật tự dân sự, nơi ấy mỗi người lãnh nhận điều thuộc về họ, là một nhiệm vụ cốt yếu mà mọi thế hệ phải luôn mãi quan tâm. Vì là một nhiệm vụ chính trị, nó không thể là trách nhiệm trực tiếp của Hội Thánh. Tuy nhiên, bởi vì đây cũng là một trách nhiệm quan trọng nhất của nhân loại, Hội Thánh buộc lòng phải trao tặng một sự đóng góp riêng, qua việc thanh tẩy lý trí và qua việc huấn luyện đạo đức, để hiểu biết và chu toàn những đòi hỏi của công bằng trong lãnh vực chính trị.

Hội Thánh không thể và không phải gánh lấy cho mình cuộc chiến chính trị để đem lại một xã hội công bằng nhất. Hội Thánh không thể và không phải thay thế Chính quyền. Tuy nhiên đồng thời Hội Thánh không thể và không phải ở bên lề trong cuộc đấu tranh cho công bằng. Hội Thánh cần đóng vai trò của mình qua việc biện luận thuần lý và phải thức tỉnh năng lực thiêng liêng mà nếu thiếu, công bằng vốn luôn đòi hỏi sự hy sinh, sẽ không thắng thế và tăng trưởng. Một xã hội công bằng phải là thành quả của chính trị, chứ không phải của Hội Thánh. Tuy nhiên cổ võ cho công bằng qua những nỗ lực nhằm đem lại sự cởi mở của tâm trí và ước muốn theo những đòi hỏi của ích chung, là điều gì can hệ đến Hội Thánh cách sâu xa.

b) Tình yêu—caritas—sẽ luôn cần thiết, dù trong một xã hội công bằng nhất. Không hề có một tổ chức Quốc gia đúng đắn đến độ có thể xem công việc phục vụ của tình yêu là thừa thãi. Ai muốn loại trừ tình yêu thì cũng đang chuẩn bị loại trừ con người. Sẽ luôn có những đau khổ đang kêu cầu sự an ủi và giúp đỡ. Sẽ luôn có sự cô đơn. Sẽ luôn có những hoàn cảnh thiếu thốn vật chất nơi mà sự giúp đỡ dưới hình thức của tình yêu cụ thể đối với tha nhân là cần thiết. Quốc gia muốn cung cấp mọi sự, muốn thâu tóm mọi sự, cuối cùng sẽ trở nên một bộ máy quan liêu không thể bảo đảm cái cốt yếu mà con người đang đau khổ—mọi con người—cần đến: nghĩa là, sự quan tâm của một cá nhân biết yêu thương. Chúng ta không cần một Chính quyền điều phối và kiểm soát mọi sự, nhưng một Chính quyền, tuân theo nguyên tắc phụ đới, hiểu biết và nâng đỡ cách quảng đại những sáng kiến nảy sinh từ các lực lượng xã hội khác nhau và phối hợp cách bộc phát và gần gũi với những ai đang thiếu thốn. Hội Thánh là một trong những lực lượng sống động ấy: Hội Thánh sống động với tình yêu mà Thần Khí Đức Kitô nhóm lên. Tình yêu ấy không chỉ ban tặng cho con người sự trợ giúp vật chất, nhưng còn là sự tĩnh dưỡng và chăm sóc cho linh hồn, vốn là những điều thường còn cần thiết hơn những trợ giúp vật chất. Cuối cùng, luận điệu cho rằng những cơ cấu xã hội công bằng sẽ làm cho những công việc bác ái trở nên thừa thãi che dấu một quan niệm duy vật về con người: khái niệm sai lầm là con người có thể sống chỉ “bằng cơm bánh” (Mt 4,4; x. Dt 8,3)—một xác tín làm hạ giá con người và cuối cùng coi thường tất cả những gì là nhân tính.

29. Giờ đây chúng ta có thể xác định chính xác hơn, trong đời sống của Hội Thánh, mối tương quan giữa sự dấn thân tổ chức Quốc gia và xã hội cho công bằng một mặt, và tổ chức hoạt động bác ái mặt khác. Chúng ta đã thấy rằng việc hình thành các cơ cấu công bình không trực tiếp là nhiệm vụ của Hội Thánh, nhưng thuộc lãnh vực chính trị, lãnh vực sử dụng lý trí cách độc lập. Hội Thánh có một trách nhiệm gián tiếp nơi đây, trong sự đóng góp vào việc thanh tẩy lý trí và thức tỉnh những sức mạnh luân lý mà nếu không có thì các cơ cấu công bình không được thiết lập và có hiệu quả lâu dài.

Mặt khác, nhiệm vụ hành động cho một trật tự công bình của xã hội thuộc về người tín hữu giáo dân. Là công dân của một Quốc gia, họ được kêu gọi tham gia trong tư cách cá nhân vào đời sống công cộng. Vì thế họ không thể từ chối tham gia vào “những hoạt động đa dạng về kinh tế, xã hội, luật pháp, hành chánh, văn hóa, có mục đích cổ võ công ích một cách có tổ chức và qua các định chế.” [21] Vì thế sứ mạng của người kitô hữu giáo dân là định hình đời sống xã hội cách đúng đắn, bằng cách tôn trọng sự độc lập chính đáng của nó và cộng tác với các công dân khác, tùy theo khả năng của mỗi người và chu toàn trách nhiệm riêng của mình.[22] Dù những diễn tả riêng của đức ái Hội Thánh không bao giờ có thể bị lẫn lộn với hoạt động của Chính quyền, vẫn đúng là đức ái phải linh hoạt toàn thể đời sống của người kitô hữu giáo dân và do đó hoạt động chính trị của họ nữa, được sống như là “đức ái xã hội”.[23]

Mặt khác, các tổ chức bác ái của Hội Thánh làm thành opus proprium (công việc riêng), một nhiệm vụ phù hợp với mình, trong đó Hội Thánh không cộng tác cách bên lề, nhưng hành động như một chủ thể với trách nhiệm trực tiếp, khi làm điều phù hợp với bản tính của mình. Hội Thánh không bao giờ có thể được miễn trừ khỏi việc thực thi bác ái như một hoạt động có tổ chức của các tín hữu, và mặt khác, sẽ không có một hoàn cảnh nào mà bác ái của mỗi cá nhân kitô hữu là không cần thiết, bởi vì ngoài sự công bằng, con người cần đến, và sẽ luôn cần đến tình yêu.