Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành sáng kiến “24 giờ cho Chúa”, vào lúc 4g30 chiều thứ Sáu, 17 tháng Ba, tại giáo xứ “Đức Mẹ Ân Phúc” ở khu vực Trionfale, gần Vatican. Đây là một sáng kiến của Hội Đồng Tòa Thánh Tái Truyền Giảng Tin Mừng diễn ra hàng năm vào Thứ Sáu và Thứ Bảy trước Chúa Nhật thứ Tư Mùa Chay.

Năm nay là năm thứ chín, và chủ đề cho chương trình 24 giờ cho Chúa năm nay là “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18:13), lấy ý từ đoạn Phúc Âm dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế.

Đức Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 18:9-14)

Cử hành này được đánh dấu bởi việc Chầu Thánh Thể, suy tư cá nhân và lời mời hoán cải cá nhân. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong Tông Thư Misericordia et Misera (Lòng Thương Xót và Nỗi Khốn Cùng): “Bí tích Hòa giải cần được tái khám phá và được đặt ở vị trí trung tâm trong đời sống Kitô hữu. Một dịp thuận lợi cho việc này có thể là sáng kiến 24 giờ cho Chúa, một cử hành được tổ chức vào gần Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay. Sáng kiến này, đã có tại nhiều giáo phận, có giá trị mục vụ rất lớn trong việc khuyến khích một kinh nghiệm nhiệt thành hơn về Bí tích Hòa giải.”

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:

“Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi” (Pl 3:7). Đó là điều mà Thánh Phaolô nói với chúng ta trong bài đọc thứ nhất. Và nếu chúng ta tự hỏi đâu là những thứ mà thánh nhân không còn coi là quan trọng trong cuộc sống của mình, và thậm chí sẵn sàng đánh mất để tìm thấy Chúa Kitô, thì chúng ta nhận ra rằng đó không phải là của cải vật chất, mà là một quỹ tài sản “tôn giáo”. Phaolô là người mộ đạo và sốt sắng, công bình và có trách nhiệm (xem các câu 5-6). Tuy nhiên, chính sự mộ đạo này, vốn có thể là nguồn gốc của niềm tự hào và công đức, lại là một trở ngại đối với ngài. Thánh Phaolô nói tiếp rằng: “Tôi đành chịu mất tất cả, coi chúng như rơm rác, để được Chúa Kitô” (c. 8). Mọi thứ đã cho ngài một uy tín nào đó, một danh tiếng nào đó... hãy quên đi, vì đối với tôi, Chúa Kitô quan trọng hơn”.

Những người cực kỳ giàu có về trí óc, và tự hào về những thành tựu tôn giáo của mình, thường tự cho mình là tốt hơn những người khác – điều này xảy ra thường xuyên như thế nào trong một giáo xứ: “Tôi đến từ Công Giáo Tiến hành; Tôi thường xuyên giúp các linh mục; Tôi quyên góp... tất cả là về tôi, tôi, tôi”; quá thường biết bao là mọi người tin rằng mình tốt hơn những người khác; mỗi chúng ta, trong thâm tâm, nên suy ngẫm xem điều này đã từng xảy ra chưa – họ cảm thấy hài lòng vì họ đã tạo được một hình ảnh tốt về mình. Họ cảm thấy thoải mái, nhưng họ không có chỗ cho Chúa vì họ cảm thấy không cần đến Ngài. Và nhiều khi “người Công Giáo tốt”, những người cảm thấy ngay thẳng vì họ tham gia giáo xứ, đi lễ Chúa nhật và khoe mình là người công chính, nói: “Không, tôi không cần gì cả, Chúa đã cứu tôi rồi”. Chuyện gì xảy ra vậy? Họ đã thay thế Thiên Chúa bằng cái tôi của chính họ, và mặc dù họ đọc kinh và thực hiện các việc đạo đức, nhưng họ chưa bao giờ thực sự đối thoại với Thiên Chúa. Họ độc thoại thay cho đối thoại và cầu nguyện. Kinh thánh nói với chúng ta rằng chỉ có “lời cầu nguyện của những người khiêm nhường mới thấu đến các tầng mây” (Hc 35:1), bởi vì chỉ những ai có tâm hồn nghèo khó, và ý thức mình cần được cứu độ và tha thứ, mới được vào diện kiến Thiên Chúa; họ đến trước mặt Ngài mà không khoe khoang công lao của mình, không giả vờ hay tự phụ. Vì không có gì nên họ tìm được tất cả, vì họ tìm thấy Chúa.

Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta giáo huấn này trong dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe (x. Lc 18:9-14). Đó là câu chuyện về hai người đàn ông, một người Pharisêu và một người thu thuế, cả hai đều lên Đền thờ để cầu nguyện, nhưng chỉ một người đạt đến trái tim của Thiên Chúa. Ngay cả trước khi họ làm bất cứ điều gì, thái độ thể lý của họ rất hùng hồn: Tin Mừng cho chúng ta biết rằng người Pharisêu cầu nguyện “một mình” ngay phía trước, trong khi người thu thuế “đứng đằng xa, thậm chí không dám ngước mắt lên trời” ( câu 13), vì xấu hổ. Chúng ta hãy suy nghĩ một chút về những thái độ này.

Người Pharisêu đứng một mình. Anh ta chắc chắn về bản thân, đứng thẳng một cách kiêu hãnh, giống như một người được tôn trọng vì những thành tựu của mình, giống như một hình mẫu. Với thái độ này, anh ta cầu nguyện với Chúa, nhưng thực ra anh ta tự cử mừng chính mình. Tôi đến đền thờ, tôi giữ Luật, tôi bố thí… Hình thức, và lời cầu nguyện của anh ấy là hoàn hảo; công khai, anh ta tỏ ra ngoan đạo và mộ đạo, nhưng thay vì mở lòng với Chúa, anh ta lại che đậy những điểm yếu của mình bằng thói đạo đức giả. Quá thường biết bao là chúng ta tạo ra một mặt tiền cho cuộc sống của mình. Người Pharisêu này không chờ đợi sự cứu rỗi của Chúa như một món quà nhưng không, nhưng trên thực tế anh ta đòi hỏi ơn cứu độ như một phần thưởng cho công trạng của mình. “Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, bây giờ tôi yêu cầu phần thưởng của mình”. Người đàn ông này sải bước thẳng đến bàn thờ của Thiên Chúa và ngồi ở hàng ghế đầu, nhưng cuối cùng anh ta đã đi quá xa và đặt mình lên trước cả Thiên Chúa!

Trái lại, người thu thuế đứng xa. Anh ấy không đẩy mình lên phía trước; anh ấy ở lại phía sau. Tuy nhiên, khoảng cách đó, vốn diễn tả tình trạng tội lỗi của anh ấy trước sự thánh thiện của Thiên Chúa, lại giúp anh cảm nghiệm được vòng tay yêu thương và đầy lòng thương xót của Chúa Cha. Chúa có thể đến với anh chính là vì, bằng cách đứng xa, anh đã nhường chỗ cho Chúa. Anh ta không nói gì về mình, anh ta nói với Chúa và cầu xin sự tha thứ. Điều này đúng biết bao, cũng như đối với các mối quan hệ của chúng ta trong gia đình, trong xã hội và trong Giáo hội! Đối thoại thực sự diễn ra khi chúng ta có thể duy trì một khoảng không gian nhất định giữa mình và người khác, một không gian lành mạnh cho phép mỗi người hít thở mà không bị hút vào hoặc choáng ngợp. Chỉ khi đó, đối thoại và gặp gỡ mới có thể thu hẹp khoảng cách và tạo ra sự gần gũi. Điều đó xảy ra trong cuộc đời của người thu thuế: đứng ở phía sau Đền thờ, anh ta nhận ra sự thật rằng anh ta, một kẻ tội lỗi, đứng trước mặt Thiên Chúa như thế nào. “Xa xa”, và bằng cách này, Thiên Chúa có thể đến gần anh ta.

Thưa anh chị em, chúng ta hãy nhớ điều này: Chúa đến với chúng ta khi chúng ta lùi bước khỏi cái tôi tự phụ của mình. Chúng ta hãy suy ngẫm: Tôi có tự phụ không? Tôi có nghĩ rằng tôi tốt hơn những người khác không? Tôi có nhìn ai đó với một chút khinh thường không? “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa đã cứu con và con không giống như những người không hiểu biết; Con đi nhà thờ, con tham dự thánh lễ; Con đã kết hôn, kết hôn trong nhà thờ, trong khi họ là những kẻ tội lỗi đã ly hôn…”: trái tim anh chị em có như thế này không? Đó là con đường dẫn đến diệt vong. Tuy nhiên, để đến gần Chúa hơn, chúng ta phải nói với Chúa: “Con là kẻ tội lỗi nhất, và nếu con không sa vào ô uế tồi tệ nhất, đó là vì lòng thương xót của Chúa đã nắm lấy tay con. Nhờ Chúa, con còn sống; Nhờ Chúa, con đã không tự hủy diệt mình vì tội lỗi”. Thiên Chúa có thể rút ngắn khoảng cách bất cứ khi nào, với sự trung thực và chân thành, chúng ta trình bày những yếu kém của mình trước mặt Ngài. Chúa đưa tay ra và nâng chúng tôi lên bất cứ khi nào chúng ta nhận ra mình đang “chạm đáy” và chúng ta quay lại với Ngài với tấm lòng chân thành. Chúa là như vậy. Ngài đang chờ đợi chúng ta, trong thâm tâm, vì trong Chúa Giêsu, Ngài đã chọn “xuống vực sâu” bởi vì Ngài không sợ đi xuống ngay cả những vực thẳm nội tâm của chúng ta, chạm đến những vết thương trên xác thịt của chúng ta, ôm lấy sự nghèo khó của chúng ta, chấp nhận những thất bại của chúng ta trong cuộc sống và những sai lầm chúng ta mắc phải do yếu đuối và cẩu thả, mà tất cả chúng ta đều đã mắc phải. Ở đó, trong thâm tâm, Thiên Chúa chờ đợi chúng ta, và Ngài chờ đợi chúng ta cách đặc biệt trong bí tích Sám Hối, khi chúng ta hết sức khiêm tốn đi xin ơn tha thứ, như chúng ta làm hôm nay. Chúa đang đợi chúng ta ở đó.

Thưa anh chị em, hôm nay mỗi người chúng ta hãy xét mình, vì người Pharisêu và người thu thuế đều ở sâu trong chúng ta. Chúng ta đừng trốn đằng sau vẻ giả hình bề ngoài, nhưng hãy phó thác cho lòng thương xót của Chúa bóng tối, lỗi lầm của chúng ta. Chúng ta hãy suy nghĩ về những khốn khổ, những lỗi lầm của chúng ta, cả những điều mà chúng ta cảm thấy không thể chia sẻ vì xấu hổ, điều đó không sao cả, nhưng với Chúa, chúng phải lộ diện. Khi đi xưng tội, chúng ta đứng “xa”, ở phía sau, giống như người thu thuế, để nhìn nhận khoảng cách giữa ước mơ của Thiên Chúa dành cho cuộc đời chúng ta và thực tế chúng ta là ai trong cuộc sống hàng ngày: chúng ta là những người tội lỗi đáng thương. Vào lúc đó, Chúa đến gần chúng ta; Ngài thu hẹp khoảng cách và đặt chúng ta trở lại trên đôi chân của mình. Vào lúc đó, khi chúng ta nhận ra mình lõa lồ, Người sẽ mặc cho chúng ta bộ lễ phục. Đó là, và đó phải là, ý nghĩa của bí tích Hòa giải: một cuộc gặp gỡ lễ hội chữa lành trái tim và để lại cho chúng ta sự bình an nội tâm. Không phải là tòa án của con người để tiếp cận với sự sợ hãi, mà là vòng tay thiêng liêng để tìm thấy sự an ủi.

Một trong những khía cạnh đẹp đẽ nhất của cách Chúa chào đón chúng ta là cái ôm dịu dàng của Ngài. Nếu chúng ta đọc câu chuyện khi người con hoang đàng trở về nhà (x. Lc 15:20-22) và bắt đầu ấp úng nói, người cha không cho phép nói, ông ôm lấy anh ta khiến anh ta không thể nói được. Một cái ôm nhân từ. Ở đây, tôi ngỏ lời với các anh em giải tội của tôi: xin anh em tha thứ mọi sự, luôn luôn tha thứ, không đè nặng lên lương tâm con người; hãy để họ nói về chính họ và chào đón họ như Chúa Giêsu, với cái nhìn âu yếm của anh em, với sự thấu hiểu thầm lặng. Hãy nhớ rằng, bí tích Sám Hối không phải để hành hạ nhưng để ban bình an. Hãy tha thứ tất cả, vì Chúa sẽ tha thứ cho anh em tất cả. Mọi thứ, mọi thứ, mọi thứ.

Trong Mùa Chay này, với tâm hồn thống hối, chúng ta hãy lặng lẽ nói như người thu thuế: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi!” (câu 13). Chúng ta hãy cùng nhau làm như vậy: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi! Lạy Chúa, khi con quên Chúa hay thờ ơ với Chúa, khi con thích lời của con và của thế gian hơn lời của Chúa, khi con tự cho mình là công chính và khinh thường người khác, khi con nói xấu người khác, xin Chúa thương xót con, một kẻ tội lỗi! Khi con không quan tâm đến những người xung quanh, khi con dửng dưng trước người nghèo và người đau khổ, kẻ yếu đuối và bị ruồng bỏ, xin Chúa thương xót con là kẻ tội lỗi! Vì những tội lỗi của con chống lại sự sống, vì gương xấu của con đã làm hoen ố khuôn mặt đáng yêu của Mẹ Giáo hội, vì tội lỗi của con chống lại tạo vật, Chúa ơi, xin thương xót con, một kẻ tội lỗi! Vì sự giả dối của con, sự hai lòng của con, sự thiếu trung thực và chính trực của con, Lạy Chúa, xin thương xót con, một kẻ tội lỗi! Vì những tội lỗi thầm kín của con, mà không ai biết, vì những cách mà con đã vô tình làm hại người khác, và vì những điều tốt lành con có thể làm nhưng lại không làm, Chúa ơi, xin thương xót con, một kẻ tội lỗi!

Trong thinh lặng, chúng ta hãy lặp lại những lời này trong giây lát, với tâm hồn sám hối và tín thác: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi! Và trong hành động sám hối và tín thác này, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận niềm vui của một ân sủng thậm chí còn lớn hơn: đó là lòng thương xót của Thiên Chúa.
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana