1. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI yêu mến Giáo hội đến mức có thể đưa ra một quyết định khó khăn và đau đớn

Cha Roger J. Landry là một linh mục trong Phái bộ Quan sát viên Thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hợp Quốc ở New York. Ngài nguyên là linh mục của Giáo phận Fall River, Massachusetts, và từng là cha chính xứ của Giáo xứ St. Bernadette ở Fall River, Massachusetts, và trước đó là chính xứ St. Anthony Padua ở New Bedford, Massachusetts.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân sinh học tại Đại học Harvard, ngài đã theo đuổi con đường tiến đến chức tư tế ở Maryland, Toronto và Rôma. Sau khi được Đức Cha Sean O'Malley, OFM Cap (nay là Hồng Y) truyền chức linh mục tại Giáo phận Fall River vào ngày 26 tháng 6 năm 1999, ngài trở lại Rôma để hoàn thành chương trình sau đại học về Thần học luân lý và đạo đức sinh học tại Viện Hôn nhân và Gia đình Gioan Phaolô II.

Cha Landry cũng là một nhà văn. Ngài viết cho nhiều tờ báo Công Giáo, bao gồm National Catholic Register và The Anchor, là tờ báo hàng tuần của Giáo phận Fall River, mà ngài là chủ nhiệm kiêm chủ bút từ năm 2005 đến 2012. Một trong những cuốn sách nổi tiếng của ngài là cuốn “Plan of Life: Habits to Help You Grow Closer to God” – “Kế hoạch cho cuộc sống: Những thói quen giúp bạn đến gần Chúa hơn” (Pauline Books and Media 2018).

Ngài vừa có bài viết “Pope Benedict XVI Loved the Church Enough to Make a Difficult and Painful Decision”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI yêu mến Giáo hội đến mức có thể đưa ra một quyết định khó khăn và đau đớn”, trong đó, ngài lý giải rằng việc xem xét kỹ hơn các lý do dẫn đến quyết định thoái vị của Đức Bênêđictô có thể giúp chúng ta thấy tại sao đó là một quyết định can đảm chứ không phải là hèn nhát.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.



Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI là nhà thần học vĩ đại nhất đảm nhiệm Ngai Tòa Thánh Phêrô kể từ thời Thánh Giáo Hoàng Lêô Cả, cai quản Hội Thánh từ năm 440 đến 461. Giáo Hội Công Giáo trong các thế kỷ tương lai có thể nhận thấy những đóng góp của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thậm chí còn lớn hơn cả những đóng góp của Thánh Giáo Hoàng Leô Cả, là người có các tác phẩm về Nhập thể vẫn được nhắc đến vào mỗi dịp Giáng Sinh và lá thư của ngài đã đưa các tranh luận về Kitô học của thế kỷ thứ tư và thứ năm đến hồi kết thúc.

Tuy nhiên, trừ khi việc thoái vị của các vị giáo hoàng trở thành thông lệ, nếu không thì các thế kỷ tương lai có thể ít nhớ đến Đức Bênêđíctô như một vị là tiến sĩ giáo hoàng của Giáo hội như Thánh Lêô và Thánh Grêgôriô Cả, cho bằng một vị Giáo Hoàng đã thoái vị như Đức Cêlestinô Đệ Ngũ và Đức Grêgôriô 12.

Danh xưng thứ nhất, tiến sĩ giáo hoàng, chắc chắn là một trong những vinh dự lớn. Danh xưng thứ hai thường được coi là một trong những điều đáng xấu hổ. Trừ khi việc thoái vị được thực hiện theo nguyên tắc phản đối cái ác, nền văn hóa của chúng ta thường coi việc thoái vị như là một sự bỏ cuộc hoặc thất bại, cả hai điều này thường đi kèm với sự xấu hổ.

Trong trường hợp của Đức Bênêđíctô, sau khi Thánh Gioan Phaolô II đã dũng cảm hoàn thành sứ vụ giáo hoàng của mình, mà như ngài nói, là được linh hứng, bởi vì Chúa Kitô không xuống khỏi thập giá; thì sự từ bỏ của Đức Bênêđictô có vẻ bất trung và hèn nhát.

Do bản chất của quan hệ cha con thiêng liêng gắn liền với chức vụ giáo hoàng, việc thoái vị cũng có vẻ giống như việc một người cha từ bỏ thiên chức và cam kết gia đình của mình một cách bất chính.

Hơn nữa, một số người Công Giáo quan tâm đến những diễn biến khác nhau trong triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ sự phẫn nộ đối với Đức Bênêđíctô - thậm chí đi xa đến mức đổ lỗi cho Đức Bênêđíctô; bởi vì, họ lập luận, nếu Đức Bênêđíctô đã không thoái vị, và có lẽ đã phục vụ trong khoảng thời gian hóa ra gần như là một thập kỷ nữa của cuộc đời, thì những phát triển đó sẽ không bao giờ thành hiện thực.

Vì vậy, việc thoái vị của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô đã trở thành một trở ngại thực sự đối với việc đánh giá di sản của ngài, cả trong số những người đã bị thuyết phục về sự thánh thiện và tầm quan trọng lịch sử của ngài trước khi xảy ra các sự kiện đầu năm 2013.

Nhưng việc xem xét sâu hơn những lý do Đức Bênêđictô đưa ra để thoái vị có thể giúp chúng ta thấy tại sao đó là sự can đảm, chứ không phải hèn nhát, trung thành chứ không phải bất trung, và là một sự xác nhận chứ không phải là mâu thuẫn về tính cách mà nhiều người đã kính trọng một cách đúng đắn.

Khi Đức Bênêđíctô gây sửng sốt cho các Hồng Y tại Hội trường của Công nghị vào ngày 11 tháng 2 năm 2013, bằng cách tuyên bố bằng tiếng Latinh rằng 17 ngày sau, ngài sẽ rời Tòa thánh Phêrô, ngài nhấn mạnh: “Sau khi đã nhiều lần kiểm điểm lương tâm của mình trước mặt Chúa, tôi chắc chắn rằng sức lực của tôi, do tuổi cao, không còn phù hợp để thi hành đầy đủ thừa tác vụ của thánh Phêrô nữa.”

Từ lâu, Đức Bênêđictô XVI đã gọi lương tâm là “cơ quan nhạy cảm bên trong” đối với tiếng nói của Thiên Chúa, chỉ cho chúng ta biết điều gì nên làm hay nên tránh. Mặc dù sự phán xét của lương tâm có thể sai lầm, nhưng ngài đã điều chỉnh “cơ quan” của mình và chiến đấu chống lại những ý tưởng sai lầm của lương tâm trong một thời gian dài đến nỗi rất khó có khả năng ngài đã nhầm lẫn nghe Chúa phán: “hãy dừng lại” trong khi thực tế là Chúa đang nhấn mạnh rằng “hãy tiếp tục.”

Do đó, quyết định thoái vị của ngài không phải là lời nói “Không” của một người chỉ muốn trút bỏ gánh nặng của ngôi vị giáo hoàng, mà là một lời “Xin vâng” nữa trong cả cuộc đời trung thành tuân theo những gì Chúa đã yêu cầu ngài.

Đến thời điểm đó, ngài đã thấy rõ rằng mình thiếu những gì mà ngài biết rằng chức vụ giáo hoàng đòi hỏi.

Trong buổi tiếp kiến chung cuối cùng của mình, vào ngày 27 tháng 2, một ngày trước khi lên trực thăng để đến Castel Gandolfo, ngài nói: “Trong những tháng gần đây, tôi cảm thấy sức lực của mình suy giảm, và tôi đã khẩn thiết cầu xin Chúa ban cho tôi sức mạnh của Ngài, ánh sáng và giúp tôi đưa ra quyết định đúng đắn, không phải vì lợi ích của riêng tôi, mà vì lợi ích của Giáo Hội. Tôi đã thực hiện bước này với nhận thức đầy đủ về sự nghiêm trọng của nó và thậm chí cả tính mới mẻ của nó, nhưng với sự thanh thản nội tâm sâu sắc.”

Trong cuộc phỏng vấn dài thành cuốn sách năm 2016 với Peter Seewald, ngài nói rằng ngài đã nói về điều này “một cách rộng rãi với Chúa yêu thương” bởi vì “trách nhiệm và sự nghiêm trọng của sứ vụ giáo hoàng đòi hỏi phải xem xét kỹ lưỡng nhất, hết lần này đến lần khác phải tự kiểm điểm trước mặt Chúa và trước mặt bản thân mình.”

“Bạn phải trình bày mọi công việc của mình trước mặt Chúa càng rõ ràng càng tốt và cố gắng không chỉ nhìn mọi thứ theo khía cạnh hiệu quả hoặc các tiêu chí khác để thoái vị, mà hãy nhìn mọi việc bằng đức tin. Chính từ quan điểm này mà tôi tin chắc rằng nhiệm vụ của Thánh Phêrô đòi hỏi ở tôi những quyết định cụ thể, những hiểu biết sâu sắc. … Tôi không thể trao ra rất nhiều nữa. … Giáo hoàng không phải là Siêu nhân, và sự hiện diện đơn thuần của ngài không đủ để thực hiện vai trò của mình.”

Ngài nói với Seewald rằng bác sĩ của ngài đã thông báo với ngài sau chuyến đi Mễ Tây Cơ và Cuba năm 2012 rằng ngài không đủ sức khỏe để bay qua Đại Tây Dương một lần nữa, như ngài đã lên kế hoạch cho Ngày Giới trẻ Thế giới ở Rio năm 2013. Ngài cũng nói rằng “Giáo hoàng phải làm những việc cụ thể,” chẳng hạn như “tiếp các nguyên thủ quốc gia, tiếp các giám mục mà người ta phải có thể trò chuyện thân mật sâu sắc, và đưa ra các quyết định mỗi ngày. Ngay cả khi bạn nói rằng một vài trong số những điều này có thể bị loại bỏ, thì vẫn còn rất nhiều điều cần thiết, đến nỗi, nếu khả năng thực hiện chúng không còn nữa… thì bây giờ là lúc để giải phóng chiếc ghế đó cho người khác.”

Trong khi ngài vẫn còn tâm trí và trí tuệ để phục vụ, thì ngài không còn sức lực, sức chịu đựng và nghị lực nữa. Nếu hầu hết các mục tử gặp khó khăn về thể chất để quản lý một giáo xứ bận rộn vào giữa những năm 80, thì việc cai quản một Giáo hội hơn 1 tỷ người và thực hiện lịch trình phụng vụ kéo dài, các cuộc họp và bài phát biểu cấp cao liên tục của giáo hoàng còn đòi hỏi nhiều hơn thế, bên cạnh đó còn có các chuyến tông du quốc tế mệt mỏi.

Và vào thời điểm thoái vị, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô đã hai lần bị đột quỵ, đeo máy điều hòa nhịp tim trong 20 năm, các vấn đề về tuyến tiền liệt, bệnh thoái hóa khớp và một mắt nhìn không rõ nữa.

Vì vậy, “người làm việc giản dị và khiêm tốn trong vườn nho của Chúa,” như ngài đã tự giới thiệu khi bắt đầu sứ vụ giáo hoàng của mình, đã quyết định thoái vị một cách khiêm nhường và can đảm để trở thành vị giáo hoàng thoái vị đầu tiên sau 598 năm.

Trong buổi tiếp kiến chung cuối cùng, ngài nói : “Yêu mến Giáo hội cũng có nghĩa là can đảm đưa ra những quyết định khó khăn, đau đớn, luôn hướng tới lợi ích của Giáo hội chứ không phải của bản thân. … Tôi không từ bỏ thập tự giá, mà ở lại theo một cách mới ở bên cạnh Chúa Chịu Đóng Đinh. Tôi không còn nắm quyền điều hành Giáo hội nữa, nhưng khi phục vụ việc cầu nguyện, có thể nói, tôi vẫn ở trong vòng rào của Thánh Phêrô. … Tôi sẽ tiếp tục đồng hành với hành trình của Giáo hội bằng lời cầu nguyện và suy tư, với lòng tận tụy đối với Chúa và Hiền Thê của Người mà cho đến nay tôi vẫn cố gắng thực hành hàng ngày và là điều mà tôi luôn muốn thực hành.”

Mặc dù quyết định của ngài là khó khăn và đau đớn cho ngài và cho Giáo hội, nhưng ngài phải làm điều đó và chuyển trách nhiệm của mình sang việc cầu nguyện, là điều mà ngài luôn dạy là điều quan trọng nhất mà các môn đệ có thể làm. Khi thoái vị giáo hoàng để tiếp tục phục vụ Giáo hội qua lời cầu nguyện, ngài nhắc lại rằng công việc cầu nguyện còn quan trọng hơn thừa tác vụ của giáo hoàng.

Cầu nguyện sẽ là cách ngài tiếp tục công việc của mình với tư cách là một người cha thánh thiện.

“Ngay cả vai trò của một người cha cũng có lúc phải dừng lại,” ngài nói với Seewald. “Một người cha không bao giờ ngừng là một người cha, nhưng đến một lúc nào đó, người ấy được trút bỏ trách nhiệm cụ thể. Người ấy vẫn là một người cha theo nghĩa sâu sắc, hướng nội, trong một mối quan hệ cụ thể có trách nhiệm, nhưng không phải với những công việc hàng ngày.”

Khi Seewald hỏi liệu ngài có hối hận về quyết định của mình không, Đức Bênêđíctô nói: “Không! Không! Không!” ba lần và nói thêm: “Mỗi ngày tôi đều thấy rằng điều đó là đúng. … Quyết định đã được coi là chín chắn và được thưa với Chúa.”

Đức Bênêđictô đến cùng đã bị thuyết phục rằng mình đã có một quyết định đúng đắn theo lương tâm. Những người ngưỡng mộ những ân sủng to lớn mà Chúa ban cho đức tin, sự khôn ngoan, lòng can đảm và tình yêu dành cho sự thật mà ngài đã thể hiện trong suốt 85 năm đầu tiên của mình nên tin tưởng vào cách ngài sử dụng chúng trong quyết định lớn nhất của triều đại giáo hoàng và cuộc đời ngài.

Và chúng ta hãy cầu nguyện rằng công việc quan trọng trong tình yêu của Giáo hội mà ngài đã bắt đầu lúc 8:01 tối ngày 28 tháng 2 năm 2013, vẫn tiếp tục trong nhà của Cha.
Source:National Catholic Register

2. Tiến sĩ George Weigel: Joseph Ratzinger, Tiến Sĩ Hội Thánh

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Joseph Ratzinger, Doctor of the Church?”, nghĩa là “Joseph Ratzinger, Tiến Sĩ Hội Thánh?”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Sau khi ngài qua đời vào ngày 31 tháng 12, một số nhà bình luận đã bày tỏ hy vọng rằng Đức Joseph Ratzinger, sau này là Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI và sau đó là Đức Giáo Hoàng Danh dự, cuối cùng sẽ được phong là Tiến Sĩ Hội Thánh. Dưới ánh sáng của những hy vọng đó, tôi nghĩ sẽ rất thú vị khi xem lại cuộc trò chuyện giữa tôi với Đức Hồng Y Ratzinger, lúc bấy giờ là Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, khi tôi đang chuẩn bị cho cuốn sách Chứng nhân Hy vọng, là tập đầu tiên của hai tác phẩm của tôi về tiểu sử của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Đó là ngày 20 tháng 9 năm 1997, và chúng tôi nói chuyện, như thường lệ, trong văn phòng của Đức Hồng Y ở Palazzo Sant'Ufficio. Như mọi khi, Đức Hồng Y ăn mặc đơn giản trong chiếc áo chùng thâm màu đen không có thánh giá trước ngực. Sau khi thảo luận một số vấn đề khác, tôi hỏi ngài về quyết định gần đây của Đức Gioan Phaolô II phong Thánh Têrêsa thành Lisieux, Bông Hoa Nhỏ, là Tiến Sĩ Hội Thánh, sau khi đã nhận được đơn xin như vậy từ hơn hai ngàn giám mục, nếu tôi nhớ không nhầm, trong một chiến dịch do Đức Giám Mục Phụ Tá đã nghỉ hưu của New York, là Đức Cha Patrick Ahern, lãnh đạo. Quyết định này đã gây ra một số tranh cãi, vì danh hiệu hiếm hoi đó thường được trao cho các nhà thần học lỗi lạc.

Khi tôi hỏi thẳng Đức Hồng Y Ratzinger, “Tại sao Thánh Têrêsa thành Lisieux lại là Tiến Sĩ Hội Thánh,” vị Hồng Y cười (là điều mà ngài đã làm một cách dễ dàng, mặc dù có những xuyên tạc về tính cách của ngài, cho rằng ngài khó tính). Không bình luận gì về sự thẳng thừng, thậm chí là xấc xược trong câu hỏi của tôi, ngài nói và trình bày một cách hoàn chỉnh, như thói quen của ngài. Sau đây là bản chép lại trực tiếp câu trả lời của ngài, mà tôi nghĩ làm sáng tỏ quan niệm về sự thánh thiện của chính ngài và nhiều cách diễn đạt của sự thánh thiện:

Chúng ta đã có những hình thức Tiến Sĩ Hội Thánh khác nhau, thậm chí trước cả Thánh Antôn thành Padua. Một mặt, chúng ta có các Tiến sĩ kinh viện vĩ đại, như Thánh Bonaventura và Thánh Thomas Aquinas, là những giáo sư, viện sĩ và Tiến sĩ vĩ đại theo nghĩa khoa học; trong thời các giáo phụ, chúng ta có những nhà thuyết giảng vĩ đại, những người đã phát triển tín lý không phải trong cuộc thảo luận thần học mà là qua thuyết giảng, qua các bài giảng; chúng ta cũng có Ephraim, người đã phát triển thần học của mình về cơ bản là thánh ca và âm nhạc. Giờ đây, trong thời đại này, chúng ta có những hình thức Tiến sĩ mới và điều quan trọng là phải nâng cao sự phong phú của các phương tiện giảng dạy khác nhau trong Giáo hội. Chúng ta có Thánh Têrêsa thành Avila với những kinh nghiệm thần bí và những diễn giải của bà về sự hiện diện của Thiên Chúa trong kinh nghiệm thần bí. Chúng ta có Thánh Catêrina thành Siena với nền thần học kinh nghiệm. Và bây giờ chúng ta có Thánh Têrêsa thành Lisieux, người đã tạo ra theo một…cách khác một nền thần học về kinh nghiệm.

Điều quan trọng, trong xã hội có đầu óc khoa học của chúng ta, là có thông điệp về một kinh nghiệm đơn giản và sâu sắc về Thiên Chúa, và một giáo huấn về sự đơn giản trong việc trở thành một vị thánh: trong thời gian này, với cách tiếp cận cực kỳ định hướng hành động, trong đó dạy rằng để trở thành một vị thánh không nhất thiết phải là vấn đề của những hành động vĩ đại, mà là để Chúa hành động trong chúng ta.

Điều này cũng thú vị cho cuộc đối thoại đại kết. Học thuyết về sự công chính hóa của Luther đã được khơi dậy bởi sự khó hiểu của ông trong việc hiểu chính mình làm thế nào để được công chính hóa và cứu chuộc thông qua các cấu trúc phức tạp của Giáo hội thời trung cổ. Ân sủng đã không đến với tâm hồn ông ấy và chúng ta phải hiểu sự bùng nổ của 'sola fide', hay ‘công chính hóa chỉ nhờ đức tin’, trong bối cảnh này: rằng cuối cùng ông khám phá ra rằng ông chỉ cần trao phó niềm tin, tín thác cho Chúa, phó mình trong tay Chúa. —và được cứu chuộc. Tôi nghĩ theo một cách rất Công Giáo, điều này đã trở lại nơi Thánh Têrêsa thành Lisieux: Bạn không cần phải làm những điều vĩ đại. Tôi nghèo về tinh thần và vật chất; và phó mình trong tay Chúa Giêsu là đủ. Đây là một cách giải thích thực sự về ý nghĩa của việc được cứu chuộc; chúng ta không cần phải làm những điều vĩ đại, chúng ta phải tín thác, và trong tự do của sự tín thác ấy, chúng ta có thể theo Chúa Giêsu và thực hiện một đời sống Kitô hữu. Đây không chỉ là một đóng góp quan trọng cho cuộc đối thoại đại kết mà còn cho câu hỏi chung của chúng ta – làm thế nào tôi có thể được cứu chuộc, làm thế nào tôi được công chính hóa? “Con đường nhỏ” của Thánh Têrêsa là một tái khám phá rất sâu sắc về trung tâm của đời sống Kitô hữu.

Một khái niệm khác là từ một dòng kín, cách xa thế giới, người ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới. Hiệp thông với Chúa Kitô là hiện diện với các Kitô hữu trên toàn thế giới. Mọi người đều có thể có “hiệu quả” cho Giáo hội hoàn vũ trong thời đại ngày nay. Đây cũng là một định nghĩa mới về “tính hiệu quả” trong Giáo hội. Chúng ta có rất nhiều hành động, và chúng ta phải khám phá ra rằng “hiệu quả” bắt đầu bằng sự hiệp thông với Chúa. Ý tưởng này, rằng trái tim của Giáo hội hiện diện trong tất cả các bộ phận của cơ thể, là một sự điều chỉnh tốt đối với một Giáo hội đơn thuần thực dụng, một Giáo hội “hiệu quả” theo nghĩa bên ngoài. Đó là sự tái khám phá cội nguồn của mọi hành động Kitô giáo.

Thánh Têrêsa cũng có một ý tưởng mới về thiên đường, về mối quan hệ giữa vĩnh cửu và thời gian. Có mặt trên trái đất và làm điều thiện trên trái đất này là thiên đường của tôi. Chúng ta có một mối quan hệ mới giữa vĩnh cửu và thời gian: thiên đàng không vắng mặt trên trái đất, nhưng là một sự hiện diện mới và mạnh mẽ hơn. Sự vĩnh cửu hiện diện trong thời gian, và sống cho sự vĩnh cửu là sống trong và cho thời điểm hiện tại. Bằng cách sống đời sống Kitô hữu, chúng ta hiện diện nhiều hơn trên trái đất, chúng ta đang thay đổi trái đất; chúng ta có thể nói về một cánh chung luận mới ở đây, đó là một học thuyết quan trọng.

Phép biện chứng của sự hiện diện và sự vắng mặt này là một học thuyết rất vĩ đại. Sự tinh tế của Têrêsa cũng thật tuyệt vời khi giải quyết một số đòi hỏi đối với các tín điều mới về Đức Mẹ. Thánh nữ viết, “Đừng luôn nói về những đặc ân của Đức Maria, hãy nói về Đức Mẹ như một hữu thể như chúng ta.” Có một số văn bản tuyệt vời theo đường hướng này và đây là những sửa đổi rất hữu ích chống lại những khuynh hướng siêu Thánh Mẫu Học [hyper-Marian].

Đó là Đức Joseph Ratzinger, hai mươi lăm năm trước, về ơn gọi nên thánh và nhiều hình thức và phương thức nên thánh trong Giáo hội; về thời gian và vĩnh cửu; về sự phó thác chính mình cho Chúa; về tính qui hướng về Chúa Kitô không thể giản lược của đời sống Kitô hữu. Khi nhớ lại cuộc trò chuyện cách đây một phần tư thế kỷ, tôi không thể không nghĩ rằng Đức Ratzinger đang cho tôi thoáng nhìn vào cuộc sống nội tâm sâu thẳm của chính ngài: cuộc đời của một người được Đức Hồng Y Joachim Meisner mô tả một cách khéo léo là có “tâm trí của mười hai giáo sư” và có lòng đạo đức rõ ràng của một đứa trẻ rước lễ lần đầu.
Source:First Things