Hôm 24 tháng 11, Giáo Hội trên toàn thế giới đã tưởng niệm hàng trăm ngàn Kitô hữu tử đạo tại Việt Nam. Nhân dịp này, Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, có bài tường trình nhan đề “Remembering the hundreds of thousands of Christians martyred in Vietnam”, nghĩa là “Tưởng niệm hàng trăm ngàn Kitô hữu tử đạo tại Việt Nam”.

Kitô giáo đến Việt Nam năm 1533, và nhiều Kitô hữu Việt Nam đã trở thành thánh và các vị tử đạo trong các đợt bách hại khác nhau. Những người đã được biết đến và đông đảo những người chưa được biết đến đã chết cho Chúa Giêsu Kitô cùng được vinh danh vào ngày 24 tháng 11, hàng năm lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.

Từ năm 1630 đến năm 1886, khoảng 130,000 đến 300,000 Kitô hữu chịu tử vì đạo ở Việt Nam, thường là sau khi bị giam giữ và tra tấn dã man. Những người khác buộc phải trốn vào rừng núi hoặc bị lưu đày sang các nước khác.

Các cuộc đàn áp thường xảy ra trong bối cảnh có những thay đổi chính trị và căng thẳng xã hội, đặc biệt là dưới thời các hoàng đế áp dụng các chính sách bài Kitô giáo vì sợ ảnh hưởng của nước ngoài.

Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tôn vinh những vị tử đạo vô danh này, tiêu biểu là 117 vị tử đạo đã chết vì đức tin Công Giáo tại Việt Nam vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19.

Trong số các ngài có 96 người Việt Nam, 11 người Tây Ban Nha và 10 người Pháp. Tám người trong nhóm là các giám mục, 50 linh mục và 59 giáo dân Công Giáo. Các thánh giáo dân bao gồm một em bé 9 tuổi và thánh Anê Lê Thị Thành, một bà mẹ sáu con.

Một số linh mục là tu sĩ Đa Minh, những người khác là linh mục giáo phận thuộc Hội Thừa sai Paris.

Các vị tử đạo cũng được nhóm thành “Thánh Anrê Dũng-Lạc và các bạn đồng hành tử đạo.” Thánh Anrê Dũng Lạc sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha mẹ không theo đạo Thiên Chúa, cha mẹ ngài đã giao phó ngài cho một người giám hộ là một giáo lý viên Công Giáo. Ngài được rửa tội và sau đó được thụ phong linh mục vào năm 1823. Ngài phục vụ với tư cách là cha sở và nhà truyền giáo trên khắp Việt Nam. Ngài đã hơn một lần bị bỏ tù và được các tín hữu Công Giáo chuộc mạng.

Ngài bị xử trảm tại Hà Nội vào ngày 21 tháng 12 năm 1839.

Các nhóm tử đạo Việt Nam đã được phong chân phước bởi nhiều vị giáo hoàng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho 117 vị tử đạo vào ngày 19 tháng 6 năm 1988, và hết lời ca ngợi chứng tá của các ngài.

“Làm sao để nhớ hết? Ngay cả khi chúng ta giới hạn bản thân mình với những người được phong thánh hôm nay, thì chúng ta cũng không thể tập trung vào từng người trong số họ,” Đức Thánh Cha suy tư trong bài giảng Thánh lễ phong thánh. Ngài so sánh những cuộc bách hại ở Việt Nam với những cuộc bách hại mà các thánh tông đồ và các Kitô hữu sơ khai phải đối mặt.

“Một lần nữa chúng ta có thể nói rằng máu của các vị tử đạo là dành cho anh chị em, những người Kitô hữu của Việt Nam, là nguồn ân sủng để tiến triển trong đức tin. Ở nơi anh chị em, niềm tin của cha ông tiếp tục được truyền cho các thế hệ mới. Đức tin này vẫn là nền tảng cho sự bền đỗ của tất cả những ai cảm thấy mình là người Việt Nam đích thực, trung thành với mảnh đất của mình, đồng thời muốn tiếp tục là môn đệ đích thực của Chúa Kitô.”

Ngài nói thêm: “Từ hàng dài các vị tử đạo, những đau khổ, nước mắt của họ là 'thu hoạch của Chúa'. Chính họ, những người thầy của chúng ta, đã cho tôi cơ hội tuyệt vời để trình bày với toàn thể Giáo hội về sức sống và sự vĩ đại của Giáo hội Việt Nam, sức mạnh, sự kiên nhẫn, khả năng đối mặt với mọi khó khăn và loan báo Chúa Kitô. Chúng ta tạ ơn Chúa vì những gì Thánh Thần sinh sôi dồi dào giữa chúng ta!”

“Tất cả các Kitô hữu đều biết rằng Tin Mừng yêu cầu chúng ta phục tùng các thể chế của con người vì tình yêu dành cho Chúa, để làm điều tốt, cư xử như những người tự do, tôn trọng mọi người, yêu thương anh em của chúng ta, kính sợ Thiên Chúa, tôn trọng chính quyền và các thể chế công cộng,” Đức Thánh Cha nói.

Đức Gioan Phaolô II cho biết các vị tử đạo Việt Nam đã bắt đầu “một cuộc đối thoại sâu sắc và tự do” với người dân và nền văn hóa Việt Nam. Họ tuyên bố “sự thật và tính phổ quát của niềm tin vào Chúa” và đề xuất “một hệ thống các giá trị và nghĩa vụ đặc biệt phù hợp với văn hóa tôn giáo của toàn thế giới phương Đông”.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị nói tiếp rằng “Dưới sự hướng dẫn của cuốn giáo lý đầu tiên của người Việt Nam, họ đã làm chứng rằng chỉ phải tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, là Thiên Chúa duy nhất đã tạo dựng trời đất. Đối mặt với các biện pháp cưỡng chế của chính quyền liên quan đến việc thực hành đức tin, họ khẳng định quyền tự do tín ngưỡng của mình, lập luận với lòng can đảm khiêm tốn rằng Kitô giáo là điều duy nhất họ không thể từ bỏ, vì họ không thể bất tuân với Chúa tể tối cao là Chúa Trời Đất”.

“Hơn nữa, họ mạnh mẽ tuyên bố ý chí trung thành với chính quyền của đất nước, không làm trái những gì chính đáng và trung thực; họ đã dạy phải kính trọng và tôn kính tổ tiên của họ, theo phong tục của vùng đất của họ, dưới ánh sáng của mầu nhiệm phục sinh”

“Giáo hội Việt Nam, với các vị tử đạo và qua chứng tá của mình, đã có thể tuyên bố cam kết và ý chí không bác bỏ truyền thống văn hóa và thể chế luật pháp của đất nước; ngược lại, Giáo Hội đã tuyên bố và chứng tỏ rằng Giáo Hội muốn được nhập thể ở đất nước này, trung thành đóng góp vào sự phát triển thực sự của quê hương”

Đức Thánh Cha đã viện dẫn câu nói của Kitô hữu cổ xưa rằng “máu của các vị tử đạo là hạt giống của Giáo hội.” Ngài cũng lưu ý rằng những người Công Giáo Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với sự bách hại trong thời đại ngày nay.

“Ngoài hàng ngàn tín hữu, trong các thế kỷ trước, đã bước theo dấu chân của Chúa Kitô, ngày nay vẫn còn có những người làm việc, đôi khi trong đau khổ và từ bỏ chính mình, với khát vọng duy nhất là có thể kiên trì trong vườn nho của Chúa với tư cách là người trung thành, như những người hiểu biết về những điều tốt đẹp của vương quốc Thiên Chúa.”

Đức Thánh Cha nói, bổn phận làm việc và cầu nguyện cho Nước Chúa trị đến là một “hoạt động nội tâm liên tục và nghiêm ngặt”, “đòi hỏi sự kiên nhẫn và niềm trông đợi tin tưởng của những người biết rằng sự quan phòng của Thiên Chúa đang làm việc với họ để thực hiện sứ mệnh của mình. Những nỗ lực và cả sự đau khổ của họ đều có hiệu quả.”
Source:Catholic News Agency