Nước Mỹ Sau Khi Việt Nam Công Hòa Chết 12

(Tiếp theo 11)

Sáng mùng một Tết Quí Mão (1963), các Ðại sứ thành viên Ngoại giao đoàn có nhiệm sở tại Sài gòn khi đến Dinh Tổng thống để chúc Năm Mới, đã lưu ý đến một cành đào thật lớn có đính danh thiếp ghi ‘Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh tặng Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm’. Cành đào này được gởi qua trung gian Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Ðình chiến và được nhận về bởi Ðại úy Lê Châu Lộc, tùy viên Tổng thống. Tại sao Hồ chí Minh đã tỏ thiện chí như vậy?

I.- CƯƠNG QUYẾT BẢO VỆ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA.

Xin nhắc lại, ngày 09.05.1961, Phó Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã gặp Tổng thống Ngô Đình Diệm để yêu cầu Tổng thống chấp nhận việc gửi Quân đội tác chiến Hoa kỳ đến Việt Nam, ông Diệm nhất quyết từ chối : « Nếu quý Vị mang Quân đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với đồng bào tôi? Với người Việt, hình ảnh hãi hùng của Quân đội Viễn chinh Pháp còn ghi sâu trong tâm trí họ ».

Tháng 11/1961, Ðại sứ Frederick Nolting nhận được yêu cầu từ Bạch ốc phải gặp Tổng thống Diệm về vấn đề quân chiến đấu Mỹ (được xem như ‘chia sẽ trách nhiệm’). Nhưng, ông Diệm trả lời : « Chắc Ðại sứ cũng hiểu, những đề nghị ấy đụng chạm tới vấn đề trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam, Việt Nam không muốn là một nước bị bảo hộ (Vietnam does not want to be a protectorate) ».

A./ Tổng Thống Diệm có biết trước việc đảo chánh sẽ xảy ra không?

T?ng th?ng Ngơ Ðình Di?m. Giy d mịn

Trước ngày đảo chánh vài tháng, có một Linh mục dòng Tên ở Mỹ đã sang gặp ông Ngô Đình Luyện, Đại sứ VNCH tại Luân đốn, trước khi ông Diệm chấp chánh. Cha muốn giữ bí mật nên trước khi gặp ông Luyện đã ghé qua nhiều nước Âu châu. Ông Luyện và vị linh mục này gặp nhau ở một tiệm ăn ở ngoại ô Luân Ðôn.

Vị linh mục này muốn cho ông Diệm rõ là sớm muộn gì Hoa Kỳ cũng sẽ giúp cho việc đảo chánh ở Việt Nam để lật đổ Tổng Thống Diệm. Theo Cha thì sự việc xảy ra gần đây thôi. Ông Luyện hỏi vị linh mục này làm sao có thể ngăn chận được?

Vị linh mục này nói có hai ý kiến, theo ông thì Tổng thống Diệm nên làm :
1. Nên nhượng bộ chánh phủ Hoa Kỳ, đồng ý tất cả những gì người Mỹ muốn qua Đại sứ Hoa Kỳ. (Theo ông Luyện thì người Mỹ muốn Việt Nam nhường cảng Cam Ranh cho họ một thời gian, như Phi Luật Tân nhường cảng Subic, và để cho người Mỹ một thời gian vào Việt Nam).
2. Nếu Tổng thống và chánh phủ Việt Nam không đồng ý thì Tổng thống phải công khai nói ra những gì Hoa Kỳ buộc Việt Nam mà Việt Nam không thể chấp nhận được trong một cuộc họp báo, có đầy đủ ngoại giao đoàn các nước, và Tổng thống kêu gọi các nước giúp Việt Nam Cộng Hòa chống Cộng sản qua công hàm ngoại giao.

Ông Luyện hỏi thêm: - Theo ý Cha thì trong hai ý kiến này, ý kiến nào nên theo?

- Ý kiến 1 vì Việt Nam khó tách rời khỏi ảnh hưởng của Hoa Kỳ, vì mọi phương tiện chống Cộng đều do Hoa Kỳ viện trợ. Tuy nhiên, ý kiến 2 không phải là không đúng nếu Việt Nam được các cường quốc ủng hộ và nhân dân Hoa Kỳ cũng như Quốc hội Hoa Kỳ có thể thay đổi thái độ, thay vì chống đối chiến tranh; quay lại ủng hộ.

Linh mục cũng lưu ý thêm với ông Luyện rằng tình hình rất gay go từ khi vụ Phật giáo xảy ra, chắc chắn là do bàn tay của CIA dính vào. Nếu đảo chánh xảy ra ở Việt Nam sớm muộn gì cũng giống như trường hợp của Trung Hoa với Tưởng Giới Thạch vậy.

Ông Luyện vội về trình với Tổng thống Diệm sự việc như trên. Tổng thống có vẻ suy nghĩ và hỏi ý kiến ông Luyện, thì ông khuyên Tổng thống nên nhượng bộ người Mỹ, vạn nhất nếu đảo chánh xảy ra dù mình có thắng thì tiềm lực của Quân đội cũng bị sứt mẻ, rất có hại cho việc chống Cộng.
Tổng thống có vẻ không lưu ý về việc đảo chánh mà phàn nàn nhiều với ông Luyện về vụ Phật giáo. Ông tỏ ra rất buồn vì người Mỹ đã nhúng tay vào vụ này. Theo tin tức đích xác ông nhận được thì ông rất lo hậu quả của vụ này giữa Phật giáo và Công Giáo sẽ chống đối nhau.

Tổng thống Diệm nói sẽ nghiên cứu kỹ việc này và bảo ông Luyện sang gặp ông Nhu để bàn thêm. Ông Luyện gặp ông Nhu và ông Nhu có vẻ chú ý và cũng đồng ý nhưng ông lo rằng người Mỹ đòi mang quân vào và sử dụng Cam Ranh thì khó được Tổng thống chấp thuận. Ông cũng lo rằng, nếu người Mỹ mang quân vào thì Nga và Tàu sẽ giúp miền Bắc nhiều hơn và có thể cũng đem quân vào nữa. Như vậy, Việt Nam sẽ là bãi chiến trường đẫm máu. Còn việc đảo chánh thì ông không lo vì đã nắm vững Quân đội và xem mặt các tướng lãnh thì thấy không ai có đủ khả năng làm việc này. Ông cũng đồng ý với ông Diệm rằng, vụ Phật giáo sẽ làm cho dân Việt Nam chia rẽ sau này.

Ông Luyện ở lại Việt Nam hai ngày và họp với Tổng thống cùng ông Nhu thêm một lần sau đó. Tổng thống bảo ông Luyện cứ yên tâm về lại nhiệm sở và ông tin là mọi sự sẽ được giải quyết êm đẹp. Chắc ông Diệm nói cho ông Luyện yên lòng chứ kỳ này khác hẳn những kỳ trước, ông Luyện gặp ông Diệm thấy ông buồn rầu và suy nghĩ nhiều lắm!”

B./ Tổng thống J. F. Kennedy tựu chức.

Trái với thời kỳ tương đối phẳng lặng kéo dài từ 1955 đến 1960, trước và sau khi Tổng Thống Kennedy nhậm chức, đã có nhiều chuyện quan trọng xẩy ra liên hệ tới tình hình VN.

Sau khi quyết định chiếm miền Nam bằng võ lực qua Nghị Quyết 15, Hà Nội tổng động viên vào tháng 04/1960, bắt đầu gửi quân vào Nam. Bốn tháng sau, đại úy Kong Le đảo chánh ở Lào, theo đường lối trung lập. Bốn tháng sau nữa, Liên Xô lập cầu không vận tiếp tế cho lực lượng Kong Le đầu tháng 12. Hai tuần sau, Hà Nội cho ra mắt tại miền Nam “Mặt trận Dân tộc Giải phóng” vào ngày 20.12.1960. Ngày 06.01.1961, Nikita Khruskchev (Liên Xô) đọc diễn văn chống Mỹ và hứa ủng hộ chiến tranh giải phóng tại khắp nơi. Việc trung lập hóa Lào do sự ‘Dốt cộng sản’ của Kennedy-Harriman mở đường mòn Hồ Chí Minh cho Bắc Việt chuyển quân xăm lăng VNCH.

II.- KỲ THỊ PHẬT GIÁO NĂM 1963 : CÓ THẬT HAY KHÔNG?

A./ Ðể hoàn thành ‘vụ Phật giáo’, nhà cầm quyền Washington đã phải dùng ‘hung thần’ Henry C. Lodge (một ứng viên Phó Tổng thống thất cử năm 1960) vào ngôi vị Ðại sứ Mỹ tại Sài gòn. Ngày 27.08.1963, khi trình ủy nhiệm thư lên Tổng thống Ngô đình Diệm, hắn đã lên tiếng thăm dò:

1.- Việt Nam nhường hải cảng Cam Ranh cho Hoa kỳ 99 năm;
2.- Việt Nam chấp thuận để Hoa kỳ đưa 200.000 quân vào lãnh thổ mình;
3.- Tổng thống Ngô đình Diệm đặt Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa dưới quyền chỉ huy của các Tướng lãnh Quân đội Hoa kỳ;
4.- Tổng thống Diệm phải đưa ông cố vấn Ngô đình Nhu ra nước ngoài.

Tổng thống Ngô Đình Diệm đã lờ đi toàn bộ vì chúng không tôn trọng nguyên tắc ‘Dân tộc Tự Quyết’.

B./ Công điện số 9159 cấm treo cờ Phật giáo.
Ông Quách Tòng Đức, Ðổng lý văn phòng Phủ Tổng thống, nhớ rất rành mạch rằng, sau thảm kịch tại Đài Phát thanh Huế chiều ngày 08.05.1963, Tổng thống có đòi ông vào Văn phòng để đưa cho ông xem, với một gương mặt “mệt nhọc, buồn rầu và chán nản”, công điện này và hỏi “một cách sơ sài” ai đã gởi đi chỉ thị ấy. Ông Đức trả lời không biết vì trong sổ công văn gởi đi không có dấu vết của tài liệu vừa kể.

Được hỏi nghĩ sao về những đoạn trích dẫn trên đây, ông Đức ngạc nhiên. Ông xác quyết không bao giờ có nhận được lệnh Tổng thống để thảo và gởi cho các Tỉnh trưởng Công điện số 9159 đề ngày 06.05.1963, với nội dung “chỉ thị cho các cơ quan phụng tự (nhà thờ, chùa chiền…) chỉ treo Quốc kỳ mà thôi”. Trước đó, việc treo cờ được qui định bởi hai nghị định số 78 và 189 của Bộ Nội vụ (năm 1957 và 1958) và một sắc lệnh đầu năm 1962 của Phủ Tổng thống nhắc nhở quần chúng tôn trọng Quốc kỳ.

Trong quyển hồi ký “Dòng họ Ngô Đình”, xuất bản năm 2003 tại Californie, tác giả Nguyễn Văn Minh, nguyên bí thư (1956-1963) của ông Ngô Đình Cẩn, ghi nơi trang 164-165: Lối 10 hôm sau vụ nổ lựu đạn giết 7 em bé và một số Phật tử tại đài phát thanh Huế nhân ngày lễ Phật Đản 1963, Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn công tác đặc biệt Miền Trung, vào Dinh để phúc trình với Tổng thống, ông Diệm nói với Hiếu như sau về vụ treo cờ Phật giáo: “Sau đó tôi mới bảo Quách Tòng Đức gởi công văn nhắc các Tỉnh, chứ tôi có cấm chi mô! Không hiểu tại răng hắn để tới ngày chót mới gởi công điện. Khi xảy chuyện, tôi kêu vô hỏi, hắn xin thôi. Công chuyện đổ bể như ri rồi, xin thôi thì ích chi?” Nguyễn Văn Minh còn viết thêm ý kiến của Tôn Thất Đính: “Ông Đức đã gởi đi một công điện mà không tham khảo ý kiến ông Cố vấn Ngô Đình Nhu… Lẽ nào lại tự tiện đánh đi một công điện như vậy nếu không được tình báo Mỹ tổ chức?”

>> Ghi chú : cá nhân tôi có đọc một bài, xin được kể lại :
Khi đến thăm đồng bào tại một Tỉnh. Lúc tới nơi, Tổng thống không chịu xuống phi cơ và ông Tỉnh trưởng đến chào, ông Diệm nện gậy và quát : ‘Ai cho phép treo các cờ này?’ Đó là những lá cờ Tòa Thánh. Muốn lấy lòng Tổng thống, nhưng sai. Vì ông Diệm thấy đồng bào đã hàng ngũ chỉnh tề chờ đón, nhưng ông buộc phải đổi cờ đó thành cờ VNCH, Tổng thống mới tươi cười, xuống thăm hỏi đồng bào… Sau đó, Tổng thống cho mời Đức Khâm sứ Tòa Tháng và ôn Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt, để thảo luận và thống nhất về việc treo Quốc kỳ và Đạo kỳ.
Sau đó, Tổng thống vẫn thấy người ta vẫn không thi hành đúng đắn, nên đã ban hành Sắc lệnh đầu năm 1962 của Phủ Tổng thống nhắc nhở đồng bào tôn trọng Quốc kỳ VNCH.

Theo ông Quách Tòng Đức, ngày 05.05.1963, tại Huế, xảy ra một điều đáng tiếc: Để lấy điểm trong lễ Ngân khánh 25 năm thụ phong Đức cha của Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, nhà chức trách hành chánh địa phương đã cho treo cờ Tòa Thánh “loạn xạ”, bất chấp thông tư nói trên. rằng đây là một biện pháp bất công, kỳ thị.

M?t kinh nghi?m cần tránh. Khi ông Ngô Ðình Khôi bị giết năm 1945, Ðức cha Thục trở thành người có ảnh hưởng lớn nhất tới ông Diệm.
Năm 1963 là năm Ngân khánh của Đức cha Thục. Theo truyền thống Công Giáo thì đây là một dịp trọng thể; đánh dấu thành công trong Sứ vụ của một đời tu sĩ. Lễ này thường do giáo dân đứng lên tổ chức để tỏ bày sự kính mến đối với Chủ chăn. Vấn đề trở nên tế nhị khi Đức cha Ngô Ðình Thục là anh ruột Tổng thống, đang bị Mỹ bịa chuyện để đảo chính.

Từ đầu năm 1963, các giới chức địa phương lẫn trung ương đều “góp công” vào việc tổ chức lễ Ngân khánh của Ðức cha. Có những địa phương miền Trung, Tỉnh trưởng lại đi thu góp tiền bạc để góp phần vào lễ cho thêm phần long trọng. Một Uỷ ban toàn quốc được thành lập đứng đầu là Chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ, các uỷ viên gồm một số Bộ trưởng, Dân biểu, Linh mục Cao Văn Luận Viện trưởng Ðại học Huế cũng được mời tham dự. Cha lấy làm khó chịu song không thể khước từ nên đã nói:” Là một Linh mục sống trong địa phận của Đức cha thì có bổn phận kính vâng Ðức cha. Ông Bộ trưởng Giáo dục, Viện trưởng Ðại học Sài Gòn cũng tham dự thì Viện trưởng Ðại học Huế cũng xin về tham dự’’. Một mặt cha Luận biên thư cho ông Chủ tịch Quốc hội xin tham dự vào uỷ ban để cho vừa lòng đẹp ý người đến mời. Mặt khác, cha Luận đến gặp riêng ông Ngô Ðình Cẩn vì cha vẫn được coi là người có nhiều ảnh hưởng đối với gia đình họ Ngô, khuyên ông Cẩn nên tìm cách ngăn cản để làm thế nào Lễ tổ chức trong vòng thân mật và thu hẹp, vì từ ngày Ðức cha Thục ra trọng nhậm giáo khu Huế đã gây nhiều ngộ nhận trong giới Phật giáo. Nếu Lễ tổ chức quá rầm rộ ngay tại cố đô Huế e rằng bất lợi. Ông Cẩn cho là phải và rất đồng ý với cha Luận, nhưng ông Cẩn cho biết: “Từ ngày Ðức cha về đây, Đức cha có coi tôi ra cái gì đâu. Tôi làm sao nói được xin nhờ cha vào Sài Gòn gặp Tổng thống để nói rõ sự lợi hại”. Hôm sau, cha Luận vào Sài gòn xin gặp ông Ngô Ðình Nhu.

Ông Nhu cũng đồng ý như vậy và cho rằng không thể lẫn lộn tôn giáo với quốc gia, ông Nhu than thở với cha Luận là ông không biết làm thế nào vì nói thẳng sự thật sợ phật lòng Ðức cha -bậc quyền huynh thế phụ-. Trước năm 1953, ông Nhu vẫn bị ngộ nhận là người chống lại hàng Giáo phẩm. ông phàn nàn với cha Luận đại ý:” Thân sinh tôi mất rồi thì chỉ còn Đức cha là bậc quyền huynh thế phụ. Tôi không biết phải nói thế nào, Tổng thống thì cả nể Ðức cha. Ông Nhu lại nhờ riêng cha Luận nói rõ thiệt hơn với Tổng thống.

Tất nhiên ông Nhu không dám nói thẳng với Tổng thống Diệm thì cha Luận sức nào dám nói thẳng sự hơn thiệt. Mặc dầu lễ Ngân khánh đã được sửa soạn chu đáo nhưng không được như dự định, vì xảy ra vụ Phật giáo (ngày 08.05.-1963).

C./ Kẻ ác giết người vô tội tại Đài Phát thanh Huế.

Ngày 08.05.1963, tại lễ Phật đản ở chùa Từ Ðàm, Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lịnh Quân đoàn I và Vùng I Chiến thuật, ông Ðại biểu Chính phủ Hồ Ðắc Khương, ông Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Ðẳng đều khăn đóng áo dài đến chùa Từ Ðàm dự lễ vừa với tư cách chính quyền vừa với tư cách Phật tử. Trong bài thuyết pháp, Thượng tọa Thích Trí Quang, một vị sư bị các nhà phân tích CIA mô tả là một kẻ mị dân, chống Công Giáo, … lên tiếng công kích chính quyền rất nặng nề và tố cáo sự kỳ thị tôn giáo, bất bình đẳng tôn giáo và có tính cách kêu gọi Phật tử tranh đấu cho Phật Pháp.

Lúc 19 giờ 30, Phật tử tụ tập thật đông tại chùa Từ Ðàm. Bỗng nhiên ban tổ chức loan báo thay đổi chương trình : thay gì có đốt pháo bông như đã dự định thì mời mọi người đến tập trung tại Ðài Phát thanh Huế. Nơi đây, ông Quản đốc Ngô Ganh đang sửa soạn để phát vào lúc 8 giờ 15 chương trình Lễ Phật Ðản đã thu thanh trước và đã được kiểm duyệt theo thể lệ chung. Ðám đông tập trung quanh Ðài Phát thanh. Nhiều Thượng tọa, Ðại đức và các thanh niên Phật tử vào thẳng văn phòng Quản đốc yêu cầu ông thay đổi chương trình phát thanh bằng phát đi cuộn băng mà họ đã thu buổi lễ ban sáng với bài thuyết pháp của Thượng tọa Trí Quang. Ông Ngô Ganh từ chối vì ông chỉ được phép cho truyền thanh những cuộn băng nào đã được kiểm duyệt. Khi đám đông tràn vào sân Ðài, ông gọi điện thoại cầu cứu với Thiếu tá Ðặng Sỹ, Phó Tỉnh trưởng Nội an. Sau khi nhận lịnh giải tán từ cấp trên, Thiếu tá Sỹ tập họp các đơn vị thi hành lịnh tại sân Tiểu khu và giải thích cho quân nhân các cấp rõ về lệnh dùng súng Garant và lựu đạn MK3. Ðây là lựu đạn thuộc loại huấn luyện có mục đích làm cho tân binh quen với tiếng nổ, cũng dùng khi tấn công địch nhưng không có tác dụng giết người và, nếu đứng gần chỗ nổ, có thể bị chói tai và bị thương nhẹ. Ðại úy Lê Nguyên Phu, Tiểu khu phó, nhắc chỉ ném MK3 nơi không có người như vào bãi cỏ hay gốc cây.

Nhận lịnh từ thượng cấp, các sĩ quan hiện diện đều đồng ý là phải hết sức thận trọng vì đây là vấn đề thuộc phạm vi tôn giáo, dù có giải tán một cách êm đẹp cũng vẫn bị mang tiếng là đàn áp. Trong lúc họ bàn thảo kế hoạch đối phó thì Ðài Phát thanh đang lâm nguy trầm trọng do gạch đá bị đám đông ném, bay vun vút vào. Từ Ðà Nẵng, Thiếu tướng Nghiêm gọi điện thoại hỏi tình hình và ra lệnh cho ông Sỹ: ‘Việc đã gấp rồi giải tán thì giải tán ngay đi’. Ông Sỹ, sau hai đợt giải tán bằng xe phun nước và Quân cảnh cùng Cảnh sát vô hiệu, đã cho hai trung đội lính tiến theo đội hình ngang với ba xe phóng thanh kêu gọi đồng bào giải tán, gạch đá tung cùng hàng ngàn tiếng la ó, đả đảo, hoan hô. Tỉnh trưởng Ðẳng yêu cầu Thượng tọa Trí Quang : « Thầy dùng micro, Thầy nói dùm như thế này nguy hiểm quá ». Thầy ngần ngại: « Bây giờ tôi phải nói với Phật tử sao đây? » Ðám đông vẫn tiến vào Ðài. Thầy Trí Quang đứng ở cửa Ðài và nói : « Phật tử cứ bình tĩnh, mọi việc Thầy đang tìm cách giải quyết »… Nhưng vô hiệu.

Thiếu tá Sỹ đi trên xe cơ giới đang tiến vào Ðài khoảng 50 thước thì bổng có một tiếng nổ kinh hồn và tiếp theo một tiếng nổ khác. Lúc ấy lối 22 giờ 30. Một cận vệ ông la lớn ‘Nổ ! Thiếu tá coi chừng Việt cộng’. Theo các sĩ quan ở gần Ðài thì tiếng nổ làm rung chuyển tất cả và ánh sáng từ phía nổ phát ra một tia sét mà họ đều chưa nghe thấy một tiếng nổ nào lạ tai như vậy. Cảnh tượng trở nên vô cùng hỗn loạn và kinh hoàng. Ðồng bào xô đẩy nhau tìm đường thoát thân trong tiếng khóc kêu la… Tám người tử thương, không xác chết nào được toàn thây do sức hơi (soufflement) ép, chứ không bởi mảnh (éclatements).

Không tìm được thủ phạm : chính quyền nghi Việt cộng; Phật giáo buộc tội chính quyền và Hoa kỳ buộc chính phủ phải thỏa mãn 5 đòi hỏi của Phật giáo.

Ðồng thời, một quyển sách tựa đề ‘Làm Thế nào để Giết một Tổng thống’ xuất hiện. Ðọc trong đó, chúng ta có giải đáp cho những thắc mắc vụ nổ tại Ðài Phát thanh Huế đêm 08.05.1963 :

1./ Thủ phạm mang tên Scott. Tại phiên tòa xử Thiếu tá Ðặng Sĩ ngày 02.06.1964, các chuyên viên quân cụ đã phân tích các loại chất nổ M26 và MK3. Giả thuyết M26 đã bị loại và MK3, dù các thẩm phán đặc biệt lưu ý, nhưng rồi cũng bị loại vì, tuy có thể làm chết người do áp lực của hơi nổ, nhưng tác dụng không thể nào đạt tới con số thương vong cao như vậy nhất là ở nơi có khoảng trống.

Năm 1966, Ðại úy Scott, cố vấn Tiểu đoàn 1/3 Sư đoàn I Bộ binh, cho biết sự thật. Năm 1965, miền Trung đang sôi động trong ngọn lửa Phật giáo đấu tranh. Nhân một cuộc trò chuyện tình cờ bắt qua chuyện Phật giáo lúc đó, ông Scott nói với Ðại úy Bửu đại ý ‘Phật giáo miền Trung sẽ không thành công trong vụ này’ vì không tạo đủ yếu tố để thành công như năm 1963. Tuy có khí giới tinh thần, nhưng không được đồng minh ủng hộ : Hoa kỳ không giúp đỡ Phật giáo nữa. Vụ 1963 thì tôi biết rõ’. Ðại úy Bửu hỏi : « Năm 1963, ông ở đâu? ». Scott nói: « Tôi hiểu rõ Phật giáo có thể còn hơn các anh. Tháng 05/63, tôi ở Ðà nẵng và đến Huế một ngày trước khi xảy ra vụ nổ tại Ðài Phát thanh Huế. Chỉ người ngây thơ tin Việt cộng gây ra vụ nổ đó. Tội nghiệp cho Thiếu tá Sĩ đang ở tù vì bị kết tội đã đàn áp Phật giáo và làm chết 8 Phật tử. Người ta tin đó là tiếng nổ của Plastic Việt cộng hay lựu đạn của chính quyền Việt Nam? Ðó là một chất nổ đặc biệt của CIA…

Trong sách “Ngô Đình Di?m, N? l?c hòa bình dang d?”, noi trang 189-190, ông Nguy?n Van Châu, cựu Giám đốc Nha Chi?n tranh Tâm lý Quân đ?i VNCH, đã viết: Sau 1975, m?t c?u dĐại úy Mỹ James Scott, liên hệ v?i CIA, t?ng là c? v?n cho Ti?u đoàn 1/3 Su đoàn 1 B? binh, thừa nh?n trong m?t lá tho đang trên m?t tu?n báo M? r?ng chính ông gài m?t trái bom n? ch?m chi?u 08.05.1963 t?i Hu?.

2./ Vợ chồng Bác sĩ Wuff. Trong cơn hổn loạn sau tiếng nổ kinh hồn tại Ðài Phát thanh, một viên chức Mỹ đến hiện trường để lo chụp hình quay phim nhưng bị nhân viên công lực không cho. Vợ chồng Bác sĩ Wuff, người Ðức thuộc Ðại học Y khoa Huế, xin vào trong Ðài để săn sóc nạn nhân nhưng bị từ chối. Ông này đã nhanh tay chụp được mấy tấm hình nạn nhân và vài chiếc xe cơ giới Bảo An đang đậu trước Ðài. Ðêm đó, họ cắt và ghép những hình này để cho thấy xe cơ giới cán người và, trong nội sáng ngày 09.05.1963, những tấm hình ghép này được gởi về Saigon và mấy ngày sau xuất hiện trên báo chí Tây Ðức, Pháp, Mỹ. Một chi tiết cần lưu ý năm 1965, ba Bác sĩ Ðức ở Ðại học Y khoa Huế kể cả Wuff chụp hình và ráp nối hình đêm 08.05.1963 đều bị an ninh Sư đoàn I thời Tướng Nguyễn chánh Thi làm Tư lịnh, trong một cuộc hành quân tại khu Nam Ðồng khánh khám phá được tài liệu mật cho biết rằng họ đều là người Ðông Ðức vượt qua Tây Ðức và là những điệp viên cộng sản thuộc loại quốc tế.

D./ Ngày 11.06.1963, Hòa thượng Thích Quảng Ðức tự thiêu (hay ‘bị thiêu’, 58 năm sau, nghi vấn vẫn còn đặt ra), một thành công tuyệt vời để báo chí và truyền hình Mỹ, rồi dư luận và, cuối cùng, chính quyền Hoa kỳ kết luận : tại Việt Nam, Phật giáo đang bị bách hại.

Lúc xảy ra vụ tự thiêu, Tổng thống Ngô đình Diệm, Chủ tịch Quốc hội và ngoại giao đoàn đang hiệp dâng Thánh Lễ cầu hồn cho Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII tại Vương cung Thánh đường do Ðức cha Phao lô Nguyễn văn Bình, Tổng Giám mục Sài Gòn, chủ lễ. Thánh Lễ vừa xong, Bộ trưởng Nội vụ Bùi văn Lương đến bên ông Diệm để báo tin vụ tự thiêu. Tổng thống khựng lại, mặt biến sắc thương tiếc ‘có gì mà phải làm như vậy !’. Theo giới thân cận xác nhận thái độ Tổng thống lúc đó thật bàng hoàng, đau xót… Là một Kitô hữu đạo đức, Giáo lý Công Giáo không cho phép tự hủy mình, ông thấy mình có phần trách nhiệm.

=>> Nghe Mỹ xúi, tang thương cho một gia đình
Ngày 01.08.1963, trong cuộc phỏng vấn với đài truyền hình Mỹ CBS, bà Trần Lệ Xuân tố cáo các lãnh tụ Phật giáo đang âm mưu lật đổ chính phủ. Tất cả những gì Phật tử đã làm chỉ có “nướng thịt sư” (barbecue a bonze) với xăng nhập cảng. Hôm sau, trong lễ mãn khóa huấn luyện bán quân sự cho Thanh nữ Cộng hoà, ba Xuân lên án Phật tử là phản loạn đang sử dụng các thủ thuật cộng sản phá hoại quốc gia. Đại sứ Trần Văn Chương, thân phụ Lệ Xuân, mượn đài VOA lên án con gái là vô lễ và hỗn láo trong buổi phát thanh ngày 09.08.1963. Lệ Xuân bèn sai báo Times of Vietnam ngày 08.08.1963 phỏng vấn để trả lời, khẳng định chỉ nói lên sự thật, và các lãnh tụ tranh đấu không đại diện cho Phật giáo hay dân tộc Việt Nam.

Ông Nhu bênh vực Lệ Xuân, vợ ông. Khi Ðại sứ Nolting than phiền, ông Nhu biện hộ rằng Lệ Xuân có quyền phát biểu ý kiến riêng của một công dân. Ong Nhu cũng tuyên bố với hãng thông tấn Reuters rằng sẽ xuống tay với chùa Xá Lợi vì các tăng sĩ đang âm mưu đảo chính và đe dọa chống lại mọi hành động quá khích bằng những biện pháp do Hiến pháp cho phép.
Ngày 09.08.1963, Michael Forrestal thuộc Ban Tham mưu Hội đồng An ninh Quốc gia làm phiếu trình lên Kennedy về thái độ của vợ chồng Nhu. Báo cáo này cũng nhắc đến việc ba quốc gia Cao Miên, Ceylon [Sri Lanka ngày nay], Nepal đã đưa vấn đề Phật giáo ra trước văn phòng Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc; và, Liên Hiệp Quốc có thể sẽ họp Ðại Hội đồng để thảo luận.

Ủy ban tôn giáo Liên Hiệp Quốc được Chánh phủ Sài Gòn mời đến điều tra năm 1963 cũng đã phúc trình – sau ngày hai ông Diệm, Nhu bị giết – rằng Đệ nhứt Cọng hòa không kỳ thị tôn giáo. Mặt khác, Tổng thống Diệm đã từng thẳng thắn bác bỏ những yêu sách quá đáng của một vài hàng giáo phẩm Công Giáo di cư, bởi thế nên có sự bất mãn ngấm ngầm. Hai Đức cha Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi chống đối ông Diệm ra mặt.

Ngày 10.08.1963, Nolting gặp ông Diệm về Lệ Xuân. Khi ông Diệm biện hộ rằng Lệ Xuân có quyền phát biểu ý kiến riêng, Nolting bảo thẳng ông Diệm rằng nếu không đích thân giải quyết, ủng hộ Ðại sứ Trần Văn Chương, và chấm dứt tình trạng “động kinh” [schizophrenia] hiện tại, thì đừng trông đợi sẽ duy trì được liên hệ tốt với chính phủ Mỹ. Ông Diệm đành hứa là sẽ cứu xét vấn đề. Trong báo cáo về Bạch ốc, Nolting đề nghị cho Lệ Xuân đi “nghỉ dài hạn” vì vượt ngoài sự kiểm soát của cha mẹ và anh chồng.

Ngày 12.08.1963, sau khi được chỉ thị phải áp lực ông Diệm tái xác định chủ trương hòa hoãn với Phật giáo, Nolting lại gặp ông Diệm. Vì họ Ngô đã có quyết tâm từ sau buổi họp tại Huế vào cuối tháng 06/1963, ông Diệm cho rằng các tăng ni thiếu thành thực, và trách thế giới không biết đến việc các sư giả muốn lật đổ chế độ.

Luật sư Trần Văn Chương từ chức Đại sứ Việt Nam ở Hoa Kỳ và bà vợ, nhủ danh Thân Thị Nam Trân, từ chức Quan sát viên thường trực ở Liên Hiệp Quốc để phản đối Tổng thống Diệm về vụ Phật giáo. Trước đó, do bị Mỹ mua chuộc và xúi bẩy, ông Chương có viết cho ông Diệm một thư dài, khuyên ông Diệm nên từ chức và ông sẵn sàng thay ông Diệm trong lúc khó khăn này. Tổng thống Diệm giận lắm. Ông Nhu khuyên ông Diệm cất chức ông bà Chương và bà Nhu gọi điện thoại gây gổ với ông bà Chương, dọa sẽ cắt đứt liên lạc mặc dầu là cha mẹ ruột. Bà Nhu trách ông Chương là luật sư mà không biết gì về hiến pháp. Nếu Tổng thống từ chức thì phải trao quyền cho Phó Tổng thống chứ sao lại nhường cho ông Chương được? Ông
Diệm đồng ý cách chức ông bà Chương và đang tìm người thay thế thì ông bà Chương đã từ chức ngày 22.08.1963.

Ngày 26.07.1986, hai ông bà Trần Văn Chương bị giết chết trong nhà ở Mỹ, bởi con trai út Trần Văn Khiêm. Hung thủ bị cảnh sát bắt giữ và buộc tội sát nhân. Nhưng, sau đó, Tòa Mỹ tha bổng với lý do bịnh tâm thần (?) và trục xuất Khiêm sang Pháp.

Đ./ Tình trạng Thiết Quân Luật.

Chính quyền Ngô Đình Diệm đã cố gắng đối thoại với các lãnh đạo Phật giáo và ra một số văn bản nhằm giải quyết những đòi hỏi của Phật giáo nhưng vẫn không ổn định nổi tình hình do sự tiếp tay của Mỹ và xâm nhập của Việt cộng. Cuối cùng Tổng thống Ngô Ðình Diệm quyết định sử dụng những biện pháp mà Hiến pháp cho phép bằng Tuyên bố Tình trạng Thiết Quân luật để tái lập an ninh và trật tự, chấm dứt các rối loạn do phong trào đấu tranh Phật giáo. Thiết quân luật trên toàn quốc kể từ 0 giờ ngày 21.08.1963.

Sau khi thiết quân luật lôi 30 phút, chính phủ ra lệnh tấn công các chùa khả nghi phạm pháp, bắt hết các tăng ni lãnh tụ tranh đấu chống Chính phủ. Tại Sài Gòn, Lực lượng Ðặc biệt tấn công chùa Xá Lợi, đường Bà Huyện Thanh Quan. Ða số các lãnh tụ Phật giáo bị bắt, Hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết bị xô ngã, Thượng tọa Thích Trí Quang cũng bị bắt, nhưng ông trốn được vào Tòa đại sứ Hoa Kỳ. Sau đó, Hòa thượng Thích Tịnh Khiết được thả nhưng những người dưới quyền ông vẫn bị giam giữ.

Tại Thủ đô VNCH, việc thi hành Quân luật được trao cho Thiếu tướng Tôn Thất Đính. Hàng ngày, Đài phát thanh Sài Gòn truyền đi các Thông cáo với vọng hùng dũng, nhất là khi kết thúc Thiếu tướng Tôn Thất Đính, Tư lịnh Quân đoàn III và Vùng III Chiến thuật, Tổng trấn Sài Gòn Gia Định.
Sáng hôm đó, Tổng thống Ngô Ðình Diệm triệu tập nội các và báo tin là quân luật đã được thiết lập trên toàn lãnh thổ vì Cộng quân đã xâm nhập vào các thành phố, nên đã thực hiện việc đánh chiếm các chùa và bắt giữ "bọn tăng ni làm loạn".

Tối ngày 23.08.1963, Trung tướng Trần Văn Ðôn cho mời Trung tá Lucien Conein, nhân viên CIA, đến gặp tại Bộ Tổng tham mưu để thanh minh rằng quân đội không tham gia vào việc đánh phá các chùa mà chính là Cảnh sát Ðặc biệt của Chính phủ. Khi Conein hỏi "Các tướng lãnh Việt Nam có ý định đảo chánh không?", thì tướng Ðôn dè dặt trả lời "sẽ nói chuyện sau". Từ đó, Conein thường liên lạc và dò hỏi các tướng lãnh Việt Nam.

Ngày 25.08.1963, ba trăm sinh viên học sinh tổ chức biểu tình tại Công trường Diên Hồng phía trước chợ Bến Thành trong lúc đang có lệnh giới nghiêm. Các Trung đội Cảnh sát Dã chiến gần đó được tin liền kéo tới đàn áp. Cảnh sát bắn cả vào đám biểu tình. Nữ sinh Quách Thị Trang trúng đạn tử thương. Khoảng 200 người bị bắt giữ. Ngay chiều hôm đó Chính quyền Ðô thành ra thông cáo rằng các lực lượng an ninh đã được lệnh nổ súng vào bất cứ đám đông nào tụ họp ngoài công lộ mà không xin phép trước.

E./ Điện văn 243

Có vài điểm ghi nhận như sau:

? Ðiện văn 243 chỉ gửi tới cấp cao nhất, trong các nhà ngoạị giao Mỹ tại VN chỉ gửi riêng tới Ðại sứ Henry Cabot Lodge; còn trong giới quân sự Mỹ chỉ gửi riêng tới Ðô Ðốc Harry Felt, Tư Lệnh Quân Lực Mỹ Thái Bình Dương.
? Chính phủ Mỹ ủy quyền cho Ðại sứ Lodge nói thẳng với ông Diệm, rằng Mỹ không đồng ý việc ông Nhu chỉ huy cảnh sát và Lực Lượng Ðặc Biệt tấn công các chùa.
? Ủy quyền cho Lodge đòi ông Diệm trả tự do tức khắc cho tăng ni, và xóa bỏ Dụ Số 10 tức khắc. Nói thẳng, nếu không làm, Mỹ sẽ ngưng mọi viện trợ quân sự và kinh tế.
? Ủy quyền cho Lodge nói với các tướng lãnh Việt Nam rằng Mỹ sẽ ủng hộ trong thời gian chuyển tiếp quyền lực để gỡ bỏ ông bà Nhu, và nếu Diệm ngoan cố, sẽ thay thế Diệm luôn.
? Cho Ðại sứ Lodge toàn quyền soạn kế hoạch, thực hiện.
Bộ trưởng Quốc phòng McNamara và Giám đốc CIA McCone chưa được đọc bức điện văn trước khi gởi đi nên rất bất mãn. Ðại sứ Lodge nhận được điện văn và gởi ngay cho ông Xếp CIA William Colby, lúc đó đang làm Giám đốc CIA Vùng Viễn đông trụ sở tại Langley Virginia. Ông Xếp CIA Colby có quyền đọc tất cả điện văn tại trung tâm chỉ huy CIA ở Virginia.
Ngày 25.08.1963, Ðại sứ Lodge báo cáo Bộ Ngoại giao là ông đã nhận được bức điện văn, nhưng nói "căn bản quyết định vẫn là từ Hoa Thịnh Ðốn".
Ngày 26.08.1963, sáng thứ Hai, các cố vấn của Tổng Thống Kennedy chia làm hai phe: Tướng Tổng tham mưu trưởng Maxwell Taylor phàn nàn Bộ Ngoại giao quyết định làm bức điện văn ngày 24.08.1963 mà không hội ý các nhân vật cao cấp, tạo nên sự nghi ngờ về mức độ thành công của việc đảo chánh. Bộ trưởng Quốc phòng và Giám đốc CIA cùng quan điểm. Giám đốc CIA McCone cho rằng: "Tổng thống Diệm là người lãnh tụ xứng đáng nhất tại Việt Nam, và CIA cũng khó mà thực hiện được tinh thần bức điện văn ngày 24.08.1963". Tổng thống Kennedy khiển trách ông Phụ Tá Forrestel đã không chịu giữ lại bức điện văn cho tới thứ Hai. Ông Forrestal xin từ chức nhưng Tổng thống Kennedy muốn giữ ông ta lại. Bộ Quốc phòng bất đồng với Bộ Ngoại giao nên muốn có thêm một cơ hội nữa để thuyết phục Tổng thống Diệm loại bỏ ông Nhu.

8 giờ sáng, đài VOA lên tiếng chỉ trích cảnh sát của ông Nhu tấn công chùa chiền, và minh xác là quân đội không có nhúng tay. Ðài VOA cũng tuyên bố Mỹ cắt viện trợ chính phủ Tổng thống Diệm. Ðại sứ Lodge gọi Ngoại trưởng Rusk phàn nàn về việc đài VOA đi thông báo việc cắt viện trợ, vì 11 giờ sáng này Ðại Sứ Lodge sẽ trình Ủy Nhiệm Thư cho Tổng thống Diệm. Ông Ngoại trưởng Rush gởi điện văn qua xin lỗi ông Lodge, và đài VOA đính chính không cắt viện trợ.

Cũng trong ngày này, ông CIA Conein tiếp xúc với Tướng Trần Thiện Khiêm tại Bộ Tổng tham mưu. Khiêm khuyên CIA Conein tiếp xúc với Tướng Dương Văn Minh, đang là cố vấn quân sự cho Tổng Thống Diệm, và càng tréo cẳng ngổng nữa là ông ta cũng lại là Chủ tịch Ủy ban Ðảo chánh. Trong khi đó thì ông CIA AlSpera bay lên vùng cao nguyên để gặp tướng Nguyễn Khánh. Khánh không nêu danh tánh các tướng tham dự đảo chánh, nhưng khi nghe nhắc đến tên tướng Khiêm thì tướng Khánh nói "chúng tôi thích vậy".

Ông Robert McNamara, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Ðại Tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Uy ban Tham mưu liên quân Hoa Kỳ, đã đến Sài Gòn ngày 24.09.1963 để hội kiến với ông Lodge. Chuyến công du của hai Ong này sang Việt Nam có mục đích tìm hiểu tình hình tại chỗ liên quan đến những xáo trộn xảy ra trong thời gian qua.

Ngày 27.08.1963, Tổng thống Kennedy họp các cố vấn cao cấp, có cựu Ðại sứ Nolting tham dự. Ông không tin tưởng cuộc đảo chánh thành công vì ông cho rằng các tướng đảo chánh không can đảm như anh em ông Diệm-Nhu, họ không thống nhất mà lại chia rẽ, họ không có lãnh đạo thật sự và họ không có thực lực quân đội trong tay. Kennedy hỏi lại ông Nolting: "Tại sao Tổng thống Diệm không giữ lời hứa với chúng ta? Tại sao chính quyền Tổng thống Diệm dùng sức mạnh đàn áp Phật giáo? Bà Nhu hiện đang nắm chức quyền gì?". Ông Nolting cố bào chữa cho Tổng thống Diệm và đề nghị chính phủ Mỹ nên cho thêm một cơ hội nữa để đòi Tổng thống Diệm loại bỏ ông Nhu và truất quyền bà Nhu. Ông Nolting nói: "Ông Diệm và ông Nhu cũng giống như cặp song sinh nên không thể tách ra được". Ông Nolting cũng nhắc cho Kennedy biết về việc 3 năm trước đây, ông Ðại sứ Durbrow cũng đòi Tổng thống Diệm loại bỏ ông Nhu nhưng thất bại nên đã trở về Mỹ. Kennedy mỉm cười và nói rằng: "Nếu ông nói đúng, thì chuyến đi của Ðại sứ Lodge kỳ này sẽ là chuyến đi ngắn nhất trong lịch sử". Cuối cùng Kennedy vẫn giữ lập trường ủng hộ bức điện văn ngày 24 tháng 08.

Tại Sài Gòn, tin tức đảo chánh loan truyền. Các tướng đảo chánh âm thầm di chuyển các đơn vị Dù vào Sài Gòn. Có 2 đơn vị Dù khác có thể tiến vào thủ đô trong vòng 8 tiếng đồng hồ. Chính quyền Diệm-Nhu ra lệnh bố trí chống đảo chánh.

‘Chính phủ Mỹ không thể để cho ông Nhu nắm quyền. Chúng cho Tổng thống Diệm cơ hội để tách rời ra khỏi Nhu và bè đảng và thay vào đó bằng những nhân vật có khả năng trong giới quân nhân và chính trị (?) khác. Sau khi dùng mọi nỗ lực mà Diệm vẫn khước từ và chống lại, chúng đã đối diện với một khả thể: chính ông Diệm cũng không thể nào được để tồn tại’. Do đó, chúng đã tìm một lý do để đảo chính chống vị Tổng thống dân cử Việt Nam Cộng hòa và ‘cơ may’ đã đến : Ðó là vụ Phật giáo.

III.- NGÔN TỪ LÃNH ĐẠO VỊ QUỐC VONG THÂN

A./ Cùng Quốc dân Đồng bào.

Nhân dịp tiếp các phái đoàn quân dân chính trong ngày Quốc Khánh 26.10.1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm, bằng một giọng ai oán, thoáng buồn nói: « Chế độ này tuy còn nhiều khuyết điểm, cũng còn hơn nhiều chế độ khác. Người ta chê là độc tài nhưng chỉ ngại còn những thứ độc tài khủng khiếp hơn. Tôi tiến thì theo tôi, tôi lui thì bắn tôi, tôi chết thì trả thù cho tôi ».

Trong thời gian này, tinh thần ông Diệm đang trải qua cơn dao động cực độ. Những người gần ông, đều nhận thấy ông trở nên nóng nẩy bất thường, hay thở dài, nét mặt đăm chiêu thoáng buồn. Có lẽ ông đã linh cảm được tai họa sắp đến với ông, gia đình và chế độ. Ông Ngô Ðình Nhu lại càng biểu linh một cách nhanh chóng, ông già hẳn đi, nét mặt chảy dài. Bức hình của ông Nhu đăng trên tuần báo Express số 909 (15.12.1968) chính là một trong mấy bức hình chụp vào những ngày cuối cùng trong đời ông. Khuôn mặt ông Nhu càng in một vẻ căm hận cùng với vẻ đẹp của đường nét điêu khắc. Tuy nhiên ông Nhu vẫn giữ được vẻ điềm tĩnh và sẵn sàng đối phó.

Theo tác giả Ðoàn Thêm, sớm ngày 30.10.1963, ông Diệm lững thững xuống vườn hoa trước Dinh Gia Long, coi mấy chậu non bộ nhỏ mới đắp xong và đặt ở gốc cây. Ông bận đồ xám lạt, đội mũ len, chống cây ba tong như khi đi thăm địa điểm Dinh Ðiền. Ông ngắm vài phút ngó lên bức ảnh lớn của mình treo cao đằng sau bàn giấy của ông Ðổng lý Phủ Tổng thống rồi mỉm cười, lên lầu. Bốn hôm sau ngày 01.11.1963, khi được nhà nước mới cho trở lại Dinh để dọn đồ, thì thấy ảnh kia bị bắn vỡ tan tành.

B./ Ước nguyện chân thành vì Sự Thật.

Con chim trước khi chết kêu lên những tiếng não nùng. Con người biết trước định mệnh, thường tâm sự với người thân. Tối 23.10.1963, trong lúc Mỹ thương lượng thuê kẻ giết mình và bào huynh Ngô Đình Nhu, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã tâm sự với ông Nguyễn Mâu mang biếu ông một gói nhãn đầu mùa, món quà đơn sơ, thanh bạch, nhưng mang nặng tình quê hương và ông Mâu đâu có ngờ đây là lần chót gặp Tổng thống và cũng là món qùa cuối cùng biếu Tổng thống.

Bên ngoài, CSVN và Mỹ "đồng minh" đang bao vây tung những chưởng độc hại tấn công. Bên trong, một bọn côn đồ đáng nguyền rủa (A goddam bunch of thug) đang chuẩn bị thi hành nhiệm vụ tôi tớ ngoại bang, Tổng thống Diệm đã linh cảm sẽ phải ra đi vĩnh viễn mà hậu quả vận nước và Dân tộc sẽ rơi vào gông cùm cộng sản chưa thấy ngày thoát.

Do đó, ông Diệm đã tâm sự với ông Nguyễn Mâu được ghi chép (báo Chính Nghiã số I, 03.11.1983) :

1.- "Quốc gia đang trải qua một giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. Quân lực ta thiếu cán bô. Các tướng lãnh được người Pháp đặt để trong ý thức dùng thâm niên quân vụ như một yếu tố hợp lý cho sự tùng phục chỉ huy. Quân đội cần những tướng lãnh có học, có tài, có óc hơn cái gọi là thâm niên quân vụ".
2.- "Quân đội còn yếu, hiện thời chưa thanh toán được các nhóm du kích võ trang miền Nam, làm sao đương đầu được với toàn bộ chính quy Bắc Việt, sẽ được thâm nhập vào Nam, tăng cường độ chiến tranh du kích chiến lên vận động chiến, rồi trận địa chiến? Nều đề bạt gấp rút sĩ quan trẻ có học e rằng sự lựa chọn thiếu cẩn trọng và hàm hồ, ta cần thời gian làm nỗi bật các phần tử ưu tú. Cần bộ chỉ huy tốt cho quân lực và thay thế các tướng lãnh thiếu học, nghe súng nổ ở đâu chạy ngay đến đó (Chương Thiện, Ðồng Xoài)".
3.- "Ta cần thời gian để xây dựng quân đội và kiện toàn tổ chức quốc gia hầu ứng phó với Cộng sản. Các quan hệ chính trị quốc tế vẫn có khả năng kiềm hãm Hà Nội và cho ta thời gian cần thiết. Nhưng người Mỹ không đồng quan điểm với ta".
4.- "Họ muốn quân đội Mỹ vào Việt Nam đánh Cộng sản. Ngày người Mỹ bước chân xuống tàu sang Việt Nam cũng là ngày quân chính quy Bắc Việt đổ vào miền Nam và cũng là ngày quân đội Trung cộng với chính nghiã do quân Mỹ dâng cho, đổ vào Việt Nam để đóng vai hậu bị quân và nếu cần, bảo vệ miền Bắc cho Hà Nội rảnh tay động viên toàn lực vào Nam. Hành động quân sự của Mỹ sẽ làm cho Hà Nội có thái độ bất chấp và thái độ bất chấp đó sẽ được chính hành động quân sự của Mỹ công nhiên giải thích trước công luận và các cường quốc. Thích Trí Quang không thấy rõ được vấn đề, đồng bào Phật giáo không thấy được thâm ý của Mỹ trở thành xúc động và dễ bị xách động".
5.- "Một số linh mục và sĩ quan Công Giáo nghĩ lầm rằng lực luợng Công Giáo đang đóng một vai trò trọng yếu bảo vệ chế độ, nên đòi hỏi được đối xử như công thần khai quốc với thái độ vừa bất mãn vừa yêu sách".
6.- "Người Mỹ liên tục khuếch trương các mâu thuẫn nội tại ấy để làm một cuộc đảo chánh quân sự".(Nói tới đảo chánh. Cố Tổng thống Diệm trầm mặt lặng yên giây lát nhìn khói thuốc (Basto xanh) nhẹ tỏa, nhếch môi cười, Ông Nguyễn Mâu ghi lại).
7.-"Họ muốn lật đổ chế độ nầy để cho lính Mỹ vào Việt Nam. Việt Nam không cần lính Mỹ mà chỉ cần duy trì các quan hệ chính trị quốc tế hiện hữu, dành thời gian cho quân lực trưởng thành và cho tổ chức quốc gia kiện toàn từ trên xuống dưới".
8.- "Lính Mỹ đến. Lính Mỹ không dẹp được du kích Cộng sản. Lính Mỹ không ngăn chận được quân Bắc Việt vào Nam. Lính Mỹ tạo chính nghiã và cơ hội cho quân Trung Cộng xuôi Nam. Lính Mỹ sẽ ra đi và lính Mỹ để lại xã hội Việt Nam băng hoại thui chột đạo đức cổ truyền".
9.- "Một Mc Arthur đã thành công ở Triều Tiên trong thế liên hoàn trận địa chiến, ngược lại họ sẽ thất bại ở đây vì hai hình thái chiến tranh khác ngược. Lính Mỹ đến và lính Mỹ sẽ ra đi với miền Bắc ngập tràn quân Trung Cộng và miền Nam tràn những đứa con lai".
10.- "Lính Mỹ đến rồi lính Mỹ sẽ ra đi. Ta để cho lính Mỹ đến rồi khi cần ra đi, ra đi theo lính Mỹ chăng? Không! Ta sẽ chết ở đây cho quê hương. Không! Ta sẽ chết ở đây cho đồng bào ruột thịt. Bắc cũng như Nam".

C./ Những lời nhắn gởi Đồng minh Mỹ.

Ngày 07.08.1963, nhà báo nữ Mageurite higgins, phóng viên Mỹ cuối cùng được Tổng thống Ngô Đình Diệm tiếp trong 5 giờ, trước khi bị chúng thuê giết, để bày tỏ những lời chân thành cuối cùng với nước bạn đồng minh của Việt Nam và là người mà Paul Mus cho là ‘một lãnh tụ trong hàng ngũ Quốc gia đáng kính trọng nhất và có ảnh hưởng lớn lao nhất ở Việt Nam’.

« Nếu người Mỹ hiểu được về những khó khăn phức tạp của đất nước Việt Nam (VN) và bản chất của chiến tranh VN, do cộng sản (cs) gây ra mà hiện nay chúng tôi đang phải đối đầu gánh chịu. Cô Higgins đã đi nhiều về các vùng nông thôn. Cô đã gặp những người dân Thượng, với những giáo mác và những mê tín dị đoan của họ. Những người dân Chàm, Cao Ðài, Hòa Hảo. Những người dân làng chất phát mộc mạc là những nơi thờ cúng tổ tiên khắp nơi tại VN. Cô Higgins hãy nói cho tôi nghe, thứ ngôn ngữ nào của dân chủ nghị viện có thể giải thích cho những con người như thế, khi ý nghĩa của dân chủ chưa tìm ra trong ngôn ngữ của họ. Với quá khứ thời kỳ thực dân trên đất nước VN.

Người Pháp ra di không để lại cho chúng tôi những gia sản cao quý. Bây giờ chúng tôi phải xây dựng lại… Nhưng phải xây dựng từ từ, bắt đầu từ các làng xã. Tại các làng xã vốn đã có sẵn truyền thống dân chủ và quyền tự trị của các làng xã. Dó là một phần văn hóa Khổng giáo. Họ gắn bó với việc thờ cúng Tổ tiên và chúng tôi muốn loại bỏ những gốc rễ đã ăn quá sâu trong truyền thống Khổng giáo là tinh thần nho quan hủ bại trong việc xây dựng lại xã hội VN.

Tôi biết có nhiều người Mỹ cho tôi là một thứ quan lại. Nhưng tôi hãnh diện với vai trò của tôi. Dó là những kinh nghiệm mà người Mỹ chưa từng trải qua, là giới quan lại trong hệ thống Khổng giáo, quan lại thì phải chính trực, liêm chính. Ðó là linh hồn của dân chủ. Chúng đã đi ngược lạ truyền thống ‘nho quan hủ bại’ của quá khứ. Chúng tôi cũng muốn đem những di sản chúng tôi vào thời hiện đại. Người Mỹ của cô đã hoàn tất những công trình xây dựng xã hội trên các dòng tư tưởng và những giá trị hoàn toàn khác biệt với các giá trị trong văn hóa chúng tôi. Sau những cơn hỗn loạn tơi bời vừa qua của lịch sử VN và những phá hoại của CS. Ưu tiên số một của VN là ổn định và phải kiểm soát mọi việc thật chặt chẽ, người dân phải tôn trọng chính quyền và tôn trọng luật pháp quốc gia và có bổn phận bảo vệ trật tự quốc gia. Cô Higgins có nhận thấy khi tôi chấp nhận chấp chánh để điều hành guồng máy quốc gia, chính quyền trung ương đã đánh mất hoàn toàn khả năng kiểm soát các vùng nông thôn. Những người Mỹ hiểu được những gì về truyền thống quan lại với những đức tính phải có mà Vương Dương Minh đã đưa ra làm tiêu chuẩn cho những người chăn dân giữ nước là chính trực, liêm chính và coi dân như ruột thịt. Người Mỹ đang phá bỏ tâm lý của con người VN, và họ cũng chẳng hiểu được là họ đang làm gì vậy.

Báo chí và truyền thông ngoại quốc chế diễu kỷ luật quốc gia và tinh thần tôn trọng chính quyền của người dân và cổ súy các quyền tự do dân sự và các quyền khác của người dân cũng như cần phải có đối lập chính trị. Nhưng quốc gia chúng tôi đang đứng trước một cuộc chiến vô cùng cam go và vô cùng khó khăn trước sự sống và sự chết. Ngay cả nước Mỹ và các quốc gia Tây Phương cũng đã từng giới hạn các quyền tự do dân sự trong hoàn cảnh khẩn cấp của chiến tranh.

Ông Ðại sứ của cô đến và nói với tôi là tôi cần phải tạo ra một khuôn mặt tự do cho VN bằng cách cho phép các cuộc biểu tình trên đường phố và cho các đảng chính trị đối lập hoạt động công khai. Tôi không thể nào nghe lời đề nghị đó. Đây là nước VN, không phải nước Mỹ. Chúng tôi có lý do chính đáng để cấm các cuộc biểu tình trước lò lửa chiến tranh sôi bỏng như thế này,và lý do khác nữa là CS có mặt khắp mọi nơi, như thế chuyện gì sẽ xảy ra, và tai vạ nào sẽ mang đến cho chúng tôi, nếu CS xâm nhập. len lỏi và trà trôn trong các cuộc biểu tình tại Sài Gòn này. Chúng sẽ ném bom và sẽ giết hại nhiều dân chúng tôi, và cả báo chí ngoai quốc. Làm sao thoát hay chết cả lũ hay sao? Rồi đến những người thiên tả sẽ nói gì về tôi? và họ có tin chính quyền của tôi, khi chúng tôi nói rằng, CS phải chịu trách nhiệm về những vụ giết người hàng loạt như thế, cuối cùng chỉ có người CS là hưởng được tất cả lợi lộc từ những cơn hỗn loan như thế! Cô nên suy nghĩ nhiều về những thảm họa đã xẩy ra cho người dân chúng tôi tại thành phó Huế. Những quả bom plastic do chính VC ném ra, nhưng người Mỹ của cô đã thống trách ai? Họ đã đổ hết lỗi lầm lên đầu tôi, chỉ vì tôi là Tổng thống nước VN tự do, và họ đổ tội luôn cho quân đội chúng tôi. Ðây không phải trò đùa của bọn con nít.

Bổng nhiên, ông Diệm hỏi Higgins: « Cô Higgins ơi ! cô có biết tôi nghĩ gì về chính quyền Mỹ không? Phải chăng đơn giản tôi chỉ là một thứ bù nhìn của họ hay sao? Hoặc tôi vẫn kỳ vọng chúng ta có thể là những người cộng tác mật thiết với nhau vì chính nghĩa chung chăng? Tại sao tôi đặt ra câu hỏi đó bởi vì tôi đang cố gắng trở thành một người đồng minh trung thành với Mỹ. Tuy nhiên, gần như ngày nào tôi cũng nghe phát thanh của Voice of America và các nhà báo Mỹ thảo luận với Washington là chúng ta duy trì để ông Diệm tiếp tục nắm quyền hay chúng ta lật đổ ông Diệm?

Chúng tôi là một nước nhỏ bé và nước Mỹ là một đại cường quốc. Tôi tôn vinh nước Mỹ về nhiều lãnh vực. Nhưng Tổng thống Kennedy nghĩ thế nào nếu báo chí Việt Nam tràn ngập các bài viết toàn là những chuyện vẽ vời ra để kêu gọi người dân Mỹ lật đổ Tổng thống Kennedy?

Chúng tôi mang ơn những viện trợ của HK. Nhưng tôi muốn tin rằng nước Mỹ không phải vì viện trợ Mỹ mà biến thành một thứ phương tiện để Mỹ kiểm soát chính quyền VN. Chắc chắn chỉ có thể biện minh cho sự có mặt của Mỹ tại VN, vì quyền lợi quốc gia HK đòi hỏi phải trợ giúp VN để ngăn chặn làn sóng CS khỏi xâm lăng VN. Nếu sự thật là như thế, thì cung cấp viện trợ cho VN như một phần trong sự hợp tác Việt-Mỹ trong chiến tranh để đánh bại CS. Nhưng bây giờ tôi nghe là HK sẽ cắt viện trợ nếu tôi không làm đúng những gí người Mỹ đòi hỏi. Hành xử như thế là quá kiêu căng phách lối khi đưa ra những đòi hỏi như thế không? HK có một nền kinh tế quá lớn lao, và có nhiều điểm đáng tôn vinh. Nhưng với sức mạnh của Mỹ là nước Mỹ đương nhiên có tất cả quyền để bắt buộc đồng minh của họ phải thi hành những yêu sách của Mỹ tại VN à?

Có phải chiến tranh VN đang diễn ra vô cùng khốc liệt và nóng bỏng, một thứ chiến tranh mà người Mỹ chưa bao giờ trải qua những kinh nghiệm về một cuộc chiến như thế này. Nếu như HK đưa ra mệnh lệnh giống như bắt buộc tên bù nhìn phải cúi đầu tuân hành, như vậy thái độ HK có gì khác thực dân Pháp không? Tôi biết rõ HK đang giao tiếp âm thầm với những người VN ở đất nước này là những người đang âm mưu để lật đổ tôi. Những người này sẽ chẳng làm được gì nếu không có sự tiếp tay và chấp thuận của những người Mỹ. Nhóm người VN này biết rõ điều đó.

Higgins tiếp tục dò hỏi ông Diệm: « Thưa Tổng thống có phải thực sự ngài nghĩ rằng HK đang âm mưu lật đổ Ngài hay sao?”

Ông Diệm liền đáp: « Tôi không nghĩ là ông Ðại sứ Nolting muốn lật đổ tôi. Tôi cũng thấy không phải CIA Richarson đang có âm mưu lật đổ tôi. Tôi biết có một số viên chức thuộc Bộ Ngoại giao HK là những người đang sửa soạn đưa ra quyết định để loại trừ tôi. Tôi thực sự không biết tương lai đi về đâu. Tôi cũng không thể nào ngờ và tin được là HK đang quay lưng hãm hại đồng minh trung thành của họ, khi quốc gia đồng minh ấy đang bị bom đạn chiến tranh khói lửa ngút trời vây hãm bốn bề như thế này, và chúng tôi đang điêu đứng dấn thân trong cuộc chiến đấu để mong sống còn tồn tại của một dân tộc đau khổ tột cùng. Nhưng có một số người quá điên rồ mê sảng,và cả thế giới hình như cũng điên rồ mê sảng như thế.

Cô Higgins ơi ! thêm nữa, tôi hy vọng chính quyền HK của cô nên có cái nhìn sát thực tế vào nhóm tướng lãnh đang âm mưu chiếm đoạt chiếc ghế quyền lực quôc gia. Nhóm tướng lãnh này có thực sự trưởng thành chín chắn chưa,hoặc họ hiểu biết được bao nhiêu về phương diện chính trị quốc gia của họ. Làm sao nhóm tướng lãnh này có được một George Washington trong hàng ngũ Quân đội của chúng tôi? Higgins nhận thấy cho đến khi những người Phật giáo tranh đấu tại Huế biến vụ Phật giáo thành bi kịch quá lớn lao, trong cơn khủng hoảng lớn này lực lượng chống đối Tổng thống có tầng lớp trí thức, và các tướng lãnh VN.

Tất cả nhóm người này chỉ là thiểu số rất nhỏ bé trong dân số VN. Họ thường xuyên tranh cãi ầm ĩ với nhau về những chuyện rất tào lao, họ không thể nào đồng ý với nhau về sự thay đổi chế độ hay làm bất cứ điều gì cho ra hồn. Hành động với những ‘âm mưu’ rồi kết cục cũng chỉ là những ‘âm mưu’ trong các quán cafe hay quán nhậu, tạo ra cảnh tranh khôn tranh dại, chẳng bao giờ giải quyết được chuyện gì, dù rất tinh ma quỉ quái đầy mánh khóe nhưng thường không có mục đích rõ ràng...

Ðể hỏi những kẻ âm mưu này xem có chương trình gì thảo luận cho tương lai VN không, từ đó mới thấy những con người này có làm được gì khác không, có ‘dân chủ’ hơn không, hoặc có hiệu năng hơn chế độ ông Diệm không? Những tướng lãnh không có một viễn kiến cho sự thay đổi và tiến bộ hơn một chính quyền dân sự mà họ đang âm mưu lật đô, nhưng họ còn nguy hiểm hơn, vì, khi nắm giữ toàn bộ quyền hành quốc gia để phá tan nát quốc gia nếu họ hạ bệ ông Diệm.

Ông Diệm buồn bã trả lời: ‘It is impossible’. « Diều đó không thể nào có được, bởi vì những người Mỹ nên hiểu rằng về sự độc hại của những đam mê quyền hành vô độ trên đất nước này, thứ ham mê danh lợi đó là sản phẩm của bản chất bán khai và lạc hậu của đất nước VN phát sinh từ hậu quả xấu xa của gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp. Ở đó, mọi người đoàn kết với nhau trên một điểm duy nhất, đó là lòng hận thù đồi với thực dân Pháp. Tại HK ngay cả những người cộng hòa và dân chủ đã đoàn kết với nhau trên rất nhiều điểm, trên nền tảng triết lý về chính quyền, một phần là chính sách đối ngoại. Nhưng tại VN chưa hề có một sự thỏa thuận nào về chính quyền sẽ thành lập ra sao. Có một số thành phần tư sản không hiểu được một cách sâu xa cái gì đã gắn bó với toàn dân về ý nghĩa một nền độc lập của một quốc gia.

Vì tầng lớp trí thức tư sản này là những phần tử hưởng đặc quyền đặc lợi từ thực dân Pháp và vì thế họ khước từ không hợp tác tích cực trong việc xây dựng và củng cố nền độc lập quốc gia. Chúng tôi nghe nói có một số người VN đề nghị mở rộng sự bảo hộ VN của HK. Có lẽ họ hy vọng làm được như thế thì họ sẽ hưởng lợi từ những âm mưu của họ. Nếu HK ủng hộ cho những người như thế sẽ là một sai lầm lớn lao vô cùng. Những dự mưu bất chính đó sẽ làm tan nát hết khát vọng tự do của người dân VN muốn thoát ách nô lệ ngoại bang”.

Tôn Thất Thiện, một học giả và trí thức VN đã đề cập những vấn đề như Higgins đã quan sát thấy. Ông ta viết: “Nền độc lập của VN đánh dấu một khởi đầu đầy dẫy những khó khăn, hoàn cảnh không giống một thế kỷ khi người Pháp cai trị. Khi thực dân Pháp cai trị người VN đối đầu với vấn đề thực dân rất đơn giản. Ðó làm làm thế nào để loại trừ thực dân Pháp… Sự thống trị của thực dân Pháp đã tạo ra hậu quả là làm tiêu tan mọi hiệu năng cần có khi cai trị quốc gia, về tổ chức, về lãnh đạo và trách nhiệm đều mất hết… người VN đã học hỏi làm thế nào để phá hoại - vật chất, tinh thần và xã hội. Họ không có trách nhiệm trong việc điều hành quốc gia, họ cũng không có cơ hội để học hỏi làm thế nào để bảo vệ, để phát triển. để xây dựng, để suy nghĩ và hành động xây dựng.”

Trong suốt buổi nói chuyện với Tổng thống Diệm cho thấy ông giữ vai của một vị quan đầy đau khổ và bị ngộ nhận quá nhiều. Ông không chối bỏ sự cai trị quốc gia trong bàn tay mạnh của quyền hành, nhưng ông lý luận rằng, tình thế với muôn vàn khó khăn mà không có sức mạnh thì làm sao cai trị được đất nước này, với những hỗn loạn triền miên và thảm nạn phe phái tranh dành sâu xé sẽ làm tiêu tùng tất cả trước một hoàn cảnh vô cùng khẩn trương liên tục vì bạo lưc đe dọa và vây hãm không ngừng của CS.

Tổng thống Diệm bước trên một chặng đường quá gian nan khổ ải để xây dựng dân chủ và để xoa dịu những cơn giận dữ của HK là những người đang viện trợ cho VN. Hiến pháp VNCH được công bố vào tháng 10/1956, theo tinh thần Hiến pháp HK. Hệ thống chính trị theo Tổng thống chế đã được thành lập, bởi vì VN đang cần một hành pháp thật vững mạnh. Nhưng bầu cử chưa thực sự được tự do theo tiêu chuẩn Tây Phương. Làm thế nào để 80% nông dân sống trong các làng xã và nhiều thị dân các thành phố cũng chưa biết đọc tên đề trên các lá phiếu, họ chưa hiểu quan niệm về Hiến pháp. Chưa hiểu được sự ưng thuận của toàn dân khi lựa chọn chính quyền ra sao, không biết bầu cử phiếu kín là như thế nào, cũng chẳng biết thế nào là phân chia quyền hành và kiểm soát để thăng bằng quyền hành như thế nào, và những nguyên tắc dân chủ cũng chưa bao giờ nghe thấy.

Tổng Thống Diệm giải thích: “Tiến trình thực hiện bầu cử diễn ra rất từ từ, và người dân sẽ từ từ hiểu dược những bài học dân chủ căn bản khi đem vào thực tế.”

Phần lớn, Higinns cho biết, cuộc phỏng vấn dành nhiều thời gian để đề cập đến những lời lên án kết tội chính quyền của những người Phật giáo quá khích. Tổng thống Diệm đưa ra lời nhận định của ông như sau : « Thế giới Tây Phương đã có những cuộc chiến tranh tôn giáo, nhưng ở VN chưa bao giờ có chiến tranh tôn giáo, người VN chưa hề xung đột sát hại lẫn nhau vì lý do tôn giáo, dân Việt chúng tôi có cái nhìn rất bao dung về tôn giáo. Hãy nhìn chúng tôi và những mối liên hệ với nước Tàu. Chúng tôi đã chiến đấu và đánh bại người Tàu trong các cuôc xâm lăng VN. Nhưng khi chúng tôi đuổi được những kẻ xâm lăng, và giữ lại tôn giáo của họ như Phật giáo và Khổng giáo. Các vị vua theo Khổng giáo chống lại những người Công Giáo không phải vì tôn giáo của họ mà vì họ lo sợ các tu sĩ Công Giáo là móng vuốt của đế quốc thực dân… Mặc dù chúng tôi loại trừ thực dân nhưng chúng tôi giữ lại đạo Công Giáo của họ làm tôn giáo của chúng tôi.”

“ Tôi thực sự không hiểu được những người Mỹ. Ðại sứ của cô đã kêu gọi tôi phải tìm cách hòa giải với những người Phật giáo, nhưng lại không chịu nói để bảo vệ và chống đỡ cho những lời buộc tội chúng tôi thật phi lý của những người Phật giáo đang chống đối tôi. Tôi vẫn giữ đường lối thương thảo với những người Phật giáo. Nhưng nếu tôi phải giữ thái độ im lặng. Tại sao người Mỹ không chịu nói lên sự that, Đó là những hoạt động của những người Phật giáo chẳng dính dáng gì đến lãnh vực tôn giáo, và đó là cuộc tranh đấu bạo lực để lật đổ chính quyền chống cộng sản và chúng tôi.

Hoặc giả Washington có thể nhìn tôi như một thằng điên? Chắc hắn chỉ có người điên, ngay trong lúc chiến tranh đang diễn ra sôi bỏng, mà đột nhiên lại đi đánh nhau với những người Phật giáo là những thành phần quan trọng trong dân. Nhưng tôi bảo đảm với cô Higgins, tôi chẳng phải người điên rồ. Tôi đã làm mọi việc trong quyền hạn của tôi để xoa dịu những người Phật giáo này. Tôi đã đưa ra một sự thỏa thuận với họ về việc treo cờ và sở hữu tài sản. Tôi đã cung cấp tất cả tài liệu cho Ủy ban Quốc tế của Liên Hiệp Quốc mở cuộc điều tra gồm cả báo chí và cung cấp luôn cho những người Phật giáo. Tại sao những người Phật giáo lại từ chối những thỏa thuận mà tôi đã đưa ra cho họ? Cô Higgins ơi! Tôi thấy có Việt cộng đầy trong các ngôi chùa đó, và chúng tôi đã biết chính xác sự thật đó. Cô đã từng theo dõi các cuộc biểu tình, cô đã nghe những bài diễn văn đầy nội dung phá hoại, ngay cả chính quyền HK cũng khó mà bao dung nổi, nhất là không được phép làm như vậy trong lúc chiến tranh đang sôi xục nóng bỏng. Thật là lạ lùng, ngược lại, chính quyền HK lại nói tôi nên giữ im lặng và nên chấp nhận tất cả.

Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi ngồi im lặng xuôi tay không làm gì cả? Trên những trang nhất của báo chí sẽ thấy nhiều người tự thiêu hơn để thế giới thấy hình ảnh của tôi như ma quỉ. Chúng tôi càng thụ động bao nhiêu thì càng có nhiều cuộc biểu tình nổi lên bấy nhiêu. Làm sao tôi có thể ngay trong lúc chiến tranh khủng khiếp đang bốc cháy khắp, mà tôi cứ để sự hỗn loạn tơi bời cứ tiếp diễn liên tục trên các đường phố như thế hay sao? Chúng tôi phải có trách vụ ưu tiên số một những việc phải làm. Ðó là đương đầu với chiến tranh “.

Higgins cho biết, cuộc phỏng vấn T?ng th?ng Diệm được chia làm hai cách. Có những câu hỏi đã được viết và những câu trả lời cũng được viết thành văn. Tât cả đã được lưu vào hồ sơ. Cuộc trao đổi diện dối diện sẽ không được xử dụng cho đến khi nào cơn khủng hoảng này chấm dứt. Sau khi higgins rời khỏi Dinh Gia Long sau 5 tiếng đồng hồ, đầu óc Higgins mệt nhoài, nhưng vẫn còn hăng hái.

Cuộc đối thoại giữa Higgins và ông Diệm rất hấp dẫn, lôi cuốn, không chí thoáng nhìn vào tâm tư của một vị lãnh tụ Á Ðông da vàng, bởi vì Higgins đã cảm nhận được ý nghĩa về những lập luận mà Tổng thống Diệm đưa ra chính là những vấn đề gắn liền với sự sống và sự chết của chế độ ông Diệm. Nếu ông không thể thuyết phục được Washington tương tư những gì ông đã nói với Higgins thì khôi phục lại quan hệ với HK không thể nào làm được. Và như thế,như chuyện gì xảy ra và ông sẽ không bao giờ cứu vãn được chế độ của ông,và bảo vệ được sự ổn định tại VN.

Dù ông có lỗi lầm gì đi chăng nữa, ông Diệm là một học giả minh triết và là một sĩ phu xuất chúng trong thời đại của ông. Những chứng liệu lịch sử của Higgins cho thấy trong cuộc trao đổi giữa Higgins và ông Diệm, đều có trích dẫn lời của Thomas Jeffreson, Plato, Khổng Tử, Ðưc Phật và Lão Tử.

Ông Diệm nói: “Thế giới Tây phương cần cho chúng tôi có đủ thời gian. Mặc dù những người Tây phương chưa nhận ra hình thức dân chủ Đông phương,với tinh thần dân chủ luôn luôn là một phần tinh hoa của văn hóa Á đông. Nền dân chủ này có liên quan đến tất cả các tôn giáo. Triết lý Ấn Ðộ giúp cho linh hồn con người siêu thoát. Ðức Phật truyền bá sự bình đẳng trong thế giới con người, và những giá trị đạo đức Khổng giáo. Tinh thần dân chủ có thể tìm thấy khắp nơi tại VN, đặc biệt là trong các làng xã, ở đó chúng tôi xây dựng dân chủ. Người dân sống trong các làng xã tự cai trị lấy chính họ. Từ từ khi chiến tranh chấm dứt, chúng tôi sẽ tiến tới một nền dân chủ ở cấp độ lớn hơn, tức là xây dựng một xã hội và một quốc gia dân chủ. Những giá trị đó sẽ được rút ra từ những giá trị dân chủ văn hóa Tây phương.
Nhưng điều không thể nào làm được hay chỉ là ảo tưởng khi nghĩ rằng một giải pháp chính trị Á châu là sao chép một cách mù quáng các phương pháp của Tây phương.

Ðiều mà người dân HK chưa hiểu được là một quốc gia có một nền kinh tế lạc hậu và đang phải gánh chịu một cuộc chiến tranh quá khốc liệt và tàn bạo, chúng tôi phải chiến đấu khốn khổ với chiến tranh du kích CS, là những con ngưới quỉ quyệt nhất, gian manh nhất và độc ác nhất thế giới. Không có một quốc gia nào có thể hành động khác như chính quyền VN đang hành động trên sự chết và sự sống. Xin mọi người hãy chỉ cho tôi thấy có một quốc gia Á Phi nào trong những giờ phút sinh tử này có thể cổ súy cho chế độ dân chủ theo tinh thần Ðông phương. Cô đã thấy tại Moscow nơi đó là tổng hành dinh của chế độ độc tài lâu đời nhất, tuy nhiên lại muốn có một chế độ dân chủ tự do cho lục địa Phi Châu.

D./ Với khả năng trị quốc và bảo vệ Độc Lập Tổ Quốc xuất chúng, Tổng thống Ngô Đình Diệm còn là một lãnh đạo đạo đức hiếm có.

Ngày 16.06.1954, thật rõ ràng, khi Quốc trưởng Bảo Đại tỏ ý cử ông Diệm vào chức vụ Thủ tướng vì sự thông minh liêm khiết của ông, môt Kitô hữu đạo đức, dự định đi tu. Nhưng, vì lòng ái quốc, ông Diệm không có quyền từ chối trách nhiệm mình vì sự tồn vong của Việt Nam. Sự toàn quyền là để ông Diệm bảo vệ Quê hương và Dân tộc để chống lại bọn Cộng sản, tức ‘chống cộng’, và nếu cần, chống luôn cả người Pháp, tức ‘chống thực dân’.

Hiến pháp ngày 26.10.1956 cho phép ông Diệm chỉ làm Tổng thống hai nhiệm kỳ và ông Diệm định, sau đó, ông trở về nuôi mẹ, và ông sẽ trở lại đi tu. Cho nên khi là Tổng thống, ông Diệm đã giữ một đời sống tu sĩ như mỗi sáng, hiệp dang Thánh Lễ cầu nguyện Thiên Chúa ban ơn soi sáng cho việc làm trong ngày.

Trong khi, các tướng tá Quân đội hay các chánh trị thì có thái độ hoàn toàn khác vừa lo tranh nhau quyền này, quyền kia hay có theo CIA hay không để có thêm bạc tiền, nhất là mỹ kim càng tốt. Hơn nữa, có tiền thì mua ‘tiên’ cũng được…

Độc ác hơn, có kẻ còn nghĩ xấu cho Tổng thống. Sau ngày đảo chánh, các Sĩ quan Tùy viên phải trả lời những câu hỏi « Có thấy người đàn bà nào vào phòng riêng của Tổng thống Diệm? Tổng thống Diệm có ‘giao du’ với Bà Nhu không? ». Đại úy Lê Công Hoàn, phục vụ cạnh Tổng thống Diệm 5 năm đã trả lời viết trên giấy: « Tôi quả quyết không bao giờ có chuyện như vậy, nếu có mà tôi bảo là không, tôi xin chịu mất đầu ».

Đây là Sự Thật: ‘Như hầu hết mọi thanh nam, thanh nữ đều tự nhiên có bạn khác tính phái. Cũng vậy, cậu Ngô Đình Diệm cũng từng quen với cô Nguyễn Hữu Thị Tài. Đáp Ơn Thiên Chúa Gọi, chị Tài đã hiến mình trong Đan viện Carmel Huế và đã trở thành Mẹ Bề Trên Aimée de Marie trong các nhiệm kỳ từ 1957 đến 1966 và từ 1970 đến 1990. Mẹ đã được Thiên Chúa gọi về Nhà Cha ngày 11.04.1995 trong dòng Carmel tại Bình Triệu, Thủ Ðức, hưởng thọ 88 tuổi.

Theo Ðại úy Thọ, tâm hồn Tổng thống Diệm dường như tất cả để vào Thánh Lễ ‘Cầu cho các Tín hữu đã Qua Đời’. Phong cách hành sử của Cụ khi ngồi uống trà ở nhà Mã Tuyên được ghi nhận: “Dáng diệu bệ vệ thường nhật, không thay đổi tí nào” rõ là cung cách của một thánh nhân hay một đấng quân tử nên việc xưng tụng ông Ngô Ðình Diệm là một bậc “nội thánh ngoại vương” tưởng cũng rất hợp lý vậy.

Cha Jean, Chính xứ Nhà thờ Cha Tam, đã giúp anh em Tổng thống đón nhận những Bí tích, chẳng may, đã trở thành những Bí tích cuối cùng. Cha đã thuyết phục nhị vị không nên gặp các tướng đảo chánh, ông Diệm trả lời : « Cảm ơn Cha, tôi thấy không có gì nguy hiểm cả. Cá nhân tôi đã dâng trọn cho Chúa và Mẹ Maria nhưng tôi vẫn còn là Nguyên thủ Quốc gia. Tôi còn trách nhiệm với dân ». Sau đó, Cha đã can đảm bước theo anh em Tổng thống, bất chấp sự hung dữ của đám sĩ quan đảo chính, cho đến khi cửa thiết vận xa đóng lại lúc khoảng 8 giờ. Lúc 10 giờ 45, Dương Văn Minh ra lệnh cho Ðài Phát Thanh đọc một bản tin ngắn, loan báo anh em Tổng Thống Diệm đã tự tử. Cái tin thất thiệt không lường gạt được những đồng bào lương thiện. Tổng thống Ngô Ðình Diệm đã chết một cách vô cùng thãm thương bởi những kẻ do bọn côn đồ người Mỹ thuê. Tổng thống đã tử nạn khi thi hành công vụ trong ngày ‘Chiến sĩ trận vong’ thời đó.

Khi giảng ‘Tám mối phúc’, Ðức Kitô đã dùng cho mỗi mối phúc với một câu văn dùng ‘điều kiện cách’ để diễn tả, gồm hai vế: một về điều kiện: ‘Ai xây dựng hòa bình’ và một về thành quả : ‘Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa’. Các mối phúc chỉ là những khích lệ về mặt luân lý trong hiện tại (thời điểm thực hiện), nhưng thành quả thường là những phần thưởng hạnh phúc tinh thần trong tương lai. Phúc lành mà các mối phúc nói đến việc viên mãn của một lời hứa dành cho tất cả những ai để cho mình được hướng dẫn bởi những đòi hỏi của chân lý, công bình và bác ái. Do đó, là những người Tin vào Lời Chúa hứa, chúng ta xác tín Tổng thống Ngô Ðình Diệm từ thời niên thiếu đã học tập, khi làm quan đến lúc lãnh đạo Dân Việt luôn được soi sáng bởi những nhân đức chân lý, công bình và bác ái, những điều kiện phải có của một người ‘xây dựng hòa bình’. Trước khi chấm dứt cuộc lữ thứ trần gian, linh hồn Gioan Baotixita Ngô Ðình Diệm đã gặp ‘Ðức Kitô thứ hai’ để được hòa giải và nhận ‘của ăn đi đường’ về Nhà Chúa hầu xứng đáng ‘được gọi là con Thiên Chúa’.

Vài hôm sau ngày 01.11.1963, ông Võ Văn Hải lập biên bản trao cho đại úy Ðặng Văn Hoa, chánh văn phòng tướng Ðôn số tiền của Tổng thống Diệm giao cho ông Hải cất giữ. Nơi hai trang cuối cùng hồi ký ‘Việt Nam Nhân Chứng’, Trần Văn Ðôn có ghi rõ Hải đã trao hai số bạc mặt 2.390.000 đồng và 6297 Mỹ kim, Dương Văn Minh lấy 6.000 đô và chia cho Trần Thiện Khiêm 297 đô. Số bạc Việt Nam được phân phát cho Tôn Thất Ðính, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Phạm Ngọc Thảo, Trần Ngọc Tám và Trần Thiện Khiêm, riêng Ðôn có nhận 24.500 đồng.

Đ./ Tổng thống Ngô Đình Diệm với Giáo Hội Công Giáo.

Kể từ ngày Thủ tướng Ngô Ðình Diệm chấp chánh, không thấy ông cho Công Giáo một miếng đất, một số tiền nào để xây nhà thờ hay dòng tu, cũng chưa thấy một tu sĩ Công Giáo nào được ông cho đi du học có học bổng đầy đủ.

1 - Tổng thống còn lấy lại khu vườn cao su Phú Thọ mà trước đây người Pháp đã tặng Địa phận Sài Gòn, để làm tài sản. Tổng thống đã lập luận rằng: “Khu đất đó là đất của nước Việt Nam, chứ không phải của Pháp, họ không được phép lấy đất đó cho bất cứ tổ chức hay cá nhân nào”.
Miếng đất đó ở khu vực vườn Cao su Phú Thọ trên đường Nguyễn văn Thoại. Sự việc trên làm Tổng Giám mục Sài Gòn rất khó chịu.
2. Vụ Chủng Viện.

Năm 1958, ông Diệm ban hành Qui chế Tư thục, các chủng viện đào tạo Linh mục, trước đó, được tự do sinh hoạt và giảng dạy theo chương trình ấn định bởi Giáo hội. Nay, bị xem như ngang hàng với trường tư thục và đặt dưới quyền kiểm soát và thanh tra của Nha Tư thục Bộ Quốc gia Giáo dục. Do đó, nhiều Linh mục các Địa phận (danh từ trước 1960, khi chưa thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam) họp nhau phản đối.

Trước hết, các Cha đến gặp Đức cha Ngô Đình Thục, nhưng Ngài đồng ý với ông Diệm. Các Cha lại kêu gọi giáo dân biểu tình, nhưng giáo dân không muốn phiền hà tới vị Tổng thống Công Giáo và đạo đức. Các Cha cũng đến trình vấn đề với Khâm sứ Tòa Thánh. Đức Khâm sứ có can thiệp, nhưng ông Diệm vẫn giữ lập trường.

Cuối cùng, các Cha xin triều yết Tổng thống, ông Diệm chấp thuận. Phái đoàn do Cha Joseph dẫn đầu. Trước khi gặp Nguyên thủ Quốc gia, các Cha rất hăng hái biện luận. Khi gặp mặt, ông Diệm mời các Cha phát biểu ý kiến trước, nhưng không có bao nhiêu lời. Ong Diệm vắn tắc ‘Giáo hội ở trong Quốc gia, chứ không phải Quốc gia trong Giáo hội’. Ong Diệm nhìn ông Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục và nói vu vơ : « Anh không hiểu luật lệ gì cả. Anh phải chỉ vẽ cho người ta. ». Nói đúng ra, thì ông nói xéo các Linh mục đang hiện diện trước mặt ông.

Tổng thống Ngô Đình Diệm am hiểu Giáo Hội Công Giáo nước Viêt biết cách tự quản và tự túc. Người cũng thấu hiểu sự đồng tiến Công bằng giữa các Tôn giáo tạo Hòa bình cho ‘Quốc Dân đồng bào’.

E./ Ki-tô hữu Ngô đình Diệm quý trọng sự Sống người Việt

Trong thời gian 9 năm giữ quyền điều hành đất nước TT Diệm chưa hề ra lệnh hành quyết một tử tội nào.

1. Trường hợp Hà Minh Trí, sinh năm 1935 tại Nghệ An, với tên Phan Văn Ðiền, rồi đổi thành Ðinh Văn Phú, khi lưu lạc Vũng Tàu và được nuôi bởi một cán bộ Việt Minh. Sau năm 1954, ông không tập kết ra Bắc mà bí mật ở lại miền Nam hoạt động với tư cách là một tín đồ và là thành viên của lực lượng vũ trang Cao Đài ly khai.

Tháng 10/1956, ông dự định ám sát Tổng thống Diệm khi đến Tây Ninh nhưng do không nắm chính xác ngày kinh lý nên không thực hiện được. Sau đó, ông lại định ra tay vào đêm Chúa Giáng Sinh 1956 tại Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Sài Gòn, nhưng kế hoạch lại bất thành do lịch trình Tổng thống đột ngột thay đổi, chuyển sang đi dự Thánh Lễ ở khu trù mật Đức Huệ.

Ngày 22.02.1957, Ðinh Văn Phú, mang căn cước tên Hà Minh Trí, một thương gia Tây Ninh đến dự ‘Hội chợ kinh tế Cao Nguyên’ tổ chức ở Ban Mê Thuột, do Tổng thống Ngô Ðình Diệm đến dự khai mạc. Ong Phú, trong bộ trang phục cải trang, đã tiến gần hàng rào bảo vệ, chỉ cách vị trí Tổng thống đứng chưa đầy 20 thước. Khi tất cả chuẩn bị chào cờ, ông nổ súng vào mục tiêu đã định. Tuy nhiên, súng chỉ nổ 2 phát thì bị hóc chỉ trúng Bộ trưởng Cải cách Ðiền địa Ðỗ Văn Công. Hắn nhanh chóng bị lực lượng an ninh bắt giữ.

Sau đó, ông bị giải về Sài Gòn để thẩm vấn. Nhưng, do tung tích tương đối kín, ông chỉ khai là người của Cao Đài, muốn ám sát ông Diệm để trả thù vì chính phủ đã đàn áp đạo Cao Đài. Do đó, hắn bị giam đặc biệt Sài Gòn với chế độ khá ưu đãi như một tù nhân chính trị đối lập. Tháng 10/1963 thì bị giải ra Côn Đảo và được trả tự do ngày 10.03.1965. Năm 2005, ông được Chủ tịch nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

2. Tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh do Toà Ðại Hình Cần Thơ tuyên án tử hình, và bị hành quyết ngày 13-07-1956 (theo sử gia Cao Thế Dung đã viết trong cuốn VN 30 Năm Máu Lửa: Ðấy là chủ trương của Nguyễn Ngọc Thơ và Dương Văn Minh, hai người vốn không ưa Ba Cụt và Hòa Hảo. Ông Nhị Lang, một chiến hữu sát cánh tướng Ba Cụt ở chiến khu Núi Bà cũng nói: TT Diệm không có ý định sát hại tướng Ba Cụt mà chỉ có ý định thương lượng đón ông Vinh về như trường hợp ông Trịnh Minh Thế).

3. Cuộc đảo chính 11-11-1960 bị thất bại, một số do sắp đặt của Mỹ chạy ra nước ngoài. Số còn lại trong đó có nhóm Caravelle như Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát, Trần Văn Hương, Phan Quang Ðản và Vũ Hồng Khanh cũng đều được trả tự do từ 1961 đến 1963.

4. Phạm Phú Quốc oanh tạc dinh Ðộc Lập 27-02-1962 bị bắn hạ và bị bắt cũng sống khoẻ và về với gia đình sau 01-11-1963 trở lại không quân và bị bắn hạ trong phi vụ Bắc Việt không rõ sống hay chết.


Ngu?n dn N?u U?c dĩn cho T?ng th?ng VNCH
III.- CÁC CUỘC ĐẢO CHÁNH.

A. Lạm phát đảo chính hụt.

1. Trần Kim Tuyến và Đặng Đức Khôi.

Ông Tuyến khi còn trẻ có dịp giúp ông Ngô Đình Nhu, nên được cử làm Giám đốc Sở Nghiên cứu Chánh trị và xã hội Phủ Tổng thống. Sau biến loạn ngày 11.11.1960 và oanh tạc Dinh Độc lập ngày 27.02.1962, ông bị khiển trách, nhận lịnh giải tán Sở Nghiên cứu và được cử làm Tổng Lãnh sự ở Ai cập đầu năm 1963. Trên đường quá cảnh tại HongKong, ông xin tị nạn.
Bưu đồ của Tuyến bắt đầu từ tháng 6/1963, giữa biến cố Phật giáo đấu tranh. Ngày 22.08.1963, Henry C. Lodge đến Việt Nam với mưu đồ ‘Ngô’s must go’ (Gia đình Ngô phải đi) thay mưu đồ ‘Nhu must go) của F. Nolting, các Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn năm 1963.

Kế hoạch, khoảng 10 giờ, Tổng thống Diệm đi thăm Tổng ủy Trung ương Tình báo số 3, bến Bạch Đằng, sẽ có một tiểu đoàn bộ binh, có xe tăng yểm trợ để bắt Tổng thống ra phi trường. Cùng lúc, một tiểu đoàn khác tấn công Dinh Gia Long và bắt ông Nhu. Sau đó, họ thay đổi Hiến pháp để Tuyến làm Thủ tướng với 14 Tổng trưởng. Ông được sự nâng đở của tướng Khiêm và Đại tá Thiệu cùng sự tiếp tay của Thích Trí Quang.

Giờ hành động điểm. Ngày 15.08.1963, Tổng thống Diệm ra khỏi Dinh Gia Long trước 10 giờ và trở về trước 12 giờ. Trong khoản thời gian đó. Đặng Đức Khôi, một nhân viên CIA, trong quân phục Thủy quân Lục chiến đeo lon Đại tá, ngồi xe jeep với ba cận vệ, xuất hiện từ sau Nhà thờ Chánh tòa Sài Gòn, đi đường Tự Do, lên xuống 3 lần, rồi quẹo trước Quốc hội và biến mất.
Sau đó, cả hai trốn ở nhà ông Cao Xuân Vỹ, ông này không biết hành động của họ. Hai hôm sau, ông Vỹ gặp ông Nhu. Ông Nhu la lớn : « Phải giết thằng Tuyến mới được. »

2./ Kế hoạch Huỳnh Văn Lang và Phạm Ngọc Thảo.

Nhị vị tụ họp các Cần lao Liên kỳ cũ để nhắc trong 9 năm qua đã phụng sự chính nghĩa quốc gia. Nay ông Nhu đi đêm với Hà Nội. Mỹ sẽ dùng cớ đó thuyết phục các tướng tá ngu dốt chánh trị, không có tinh thần quốc gia, theo Mỹ để đảo chính. … Lập trường hai ông là khi thành công sẽ giữ ông Diệm lại, đem ông bà Nhu, ông Cẩn, Đức cha đi.

Ông Lang liên kết giữa các tướng Khánh, Khiêm, Trí và Phạm Ngọc Thảo. Bảy ngày trước ngày định, hai ông Lang và Thảo đến gặp Khiêm tại nhà và được Khiêm dẫn xem nhà mới sửa xong để khoe : « Tiền Tổng thống cho tôi dùng để sửa nhà ».
Khi thành công sẽ có :
a. Tổng thống hay Quốc trưởng Ngô Đình Diệm tiếp tục tượng trưng chánh nghĩa Quốc gia Chống cộng, yếu tố tạm thời quân bình các xu hướng chánh trị (Cần Lao, Đại Việt, Quốc Dân Đảng).
b. Chính phủ giao thời có trách nhiệm cai trị, sửa đổi Hiến pháp. Thủ tướng chế : Thủ tướng chịu trách nhiệm với Quốc hội, tức phân chia thế nào là quyền hành và thế nào cai trị.
c. Hội đồng gồm 5 tướng Khiêm, Khánh, Trí và, nếu được Đính hay Cao, chịu trách nhiệm về an ninh và quốc phòng, giữ vai trọng tài giữa các lực lượng chánh trị và tôn giáo. Nhiệm kỳ tối đa là 6 tháng cho tới khi có Quốc hội và Chánh phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

Hai ông Trần Văn Hương và Trần Văn Đỗ được lưu ý để mời làm Thủ tướng.

Kế hoạch thất bại vì Khiêm lưỡng lự do không có Mỹ hậu thuẩn và chi tiền. Hơn nữa, Conein sợ bị phỏng tay (Lang-Thảo thành công trước), nên sai Đôn theo dõi.

B. Tướng tá đảo chính vì Tổ Quốc hay vì Tiền và Quyền.

Sáng ngày 01.11.1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm tiếp kiến một cách thoải mái trong văn phòng của ông với Ðại sứ Lodge và Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa kỳ, Ðô đốc Harry Felt. Ông này đến Sài Gòn như là một cuộc thanh sát thường lệ về sự trợ giúp quân sự cho Việt Nam Cộng hòa. Trong lúc đó, các tướng tá lãnh Việt đang âm mưu chống ông Diệm đã dàn cảnh để, nhờ sự có mặt của Felt, để giữ ông Diệm ở trong Dinh suốt ngày.

Khi Lodge đứng dậy cáo từ, ông Diệm nói: ‘Làm ơn nói với Tổng thống Kennedy rằng tôi là một đồng minh tốt và thẳng thắn. Tôi muốn bộc trực và giải quyết ca´c vấn nạn bây giờ hơn là nói về chúng sau khi chúng ta đã mất tất cả. (Câu này giống như đề cập đến cuộc đảo chính có thể xảy ra). Nói với Tổng thống Kennedy rằng tôi nghiêm túc ghi nhận những đề nghị của ông ta và muốn thực hiện chúng nhưng chỉ còn vấn đề thời điểm. Lodge bảo ông Diệm ‘những lời đồn về việc ám sát không làm cho lòng ngưỡng mộ và tình bạn với ông Diệm hay Việt Nam bị ảnh hưởng’.

Trưa ngày 01.11.1963, nhân dịp nghỉ Lễ Các Thánh Nam Nữ, tôi đạp xe định đi đến Đất Thánh để viếng nơi an nghỉ của các Sư huynh Dòng Lasan. Nhưng tới ngả tư Cộng hòa và Nguyễn Trãi, các quân nhân buộc phải quay về…

Sau đó, qua đài phát thanh Sài Gòn, người dân nghe các tướng tá kể lại các trọng tội mà nhà nước cùng báo chí Mỹ lẫn Hà nội cộng sản gắn cho Tổng thống dân cử Ngô Đình Diệm. Sau đó, từng người trong họ xứng danh mình. Được đào tạo bởi thực dân Pháp, nay được phục vụ bọn thực dân Mỹ, họ mơ thành những tướng văn võ vẹn toàn. Nhân danh Quân đội Việt Nam Cộng hòa để đảo chánh, họ làm ô nhục Tập thể Quân nhân vì ‘quân nhân chỉ phục vụ Tổ quốc, chứ không làm chính trị đảng phái’. Hơn nửa, tiền của CIA (Central Intelligence Agency, Trung ương tình báo Hoa kỳ).

Các tướng Trần thiện Khiêm, Dương văn Minh… đã sai thuộc cấp dã man giết các chiến hữu theo lịnh ngoại bang, như vào các Ðại tá Hồ Tấn Quyền (Tư lịnh Hải quân), Lê Quang Tung (Tư lịnh Lực lượng Ðặc biệt) và Thiếu tá Lê Quang Triệu (Lực lượng Ðặc biệt)… Lúc 13 giờ, CIA Lucien Conein mang vô bộ Tổng Tham mưu một bao tiền ba triệu đồng và một máy truyền tin đặc biệt để liên laic, nhận lịnh từ Ðại sứ Mỹ. Cuộc tạo phản bắt đầu lúc 13 giờ 30, dưới sự chỉ huy của tên CIA này …

Trái hẳn với chúng, nghĩa cử cao thượng của vị Tổng thống là : Ông Cao Xuân Vỹ, Thủ lãnh Thanh niên Cộng hòa (một Tổ chức dân sự ủng hộ chế độ) có tường thuật : « Khi đảo chính 01.11.1963 khởi diễn, Thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ (Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ) xin phép Tổng thống đem thiết giáp lên bộ Tổng Tham mưu để bắt các tướng và dẹp đảo chính. Nhưng Tổng thống không cho. “Lúc đó, tôi đang ở bên Tổng thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Tôi nghe điện thoại và trình lên Tổng thống. Ông la ‘Các anh muốn gì? Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao? Dân Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Ðem Quân đội chống Quân đội là cách bảo vệ Tổ quốc hả?’. Tôi thưa ‘Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng thống. Chẳng lẽ để phải chết sao?’. Ông quát lên ‘Chết thì đã sao’».

Ðúng, đối với ông Diệm chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết của ông là cái chết dần dần của Miền Nam. Ông còn nói ‘Quân đội là để bảo vệ Tổ Quốc chứ không phải để bảo vệ cá nhân Tổng thống’. Tiếp đó, ông Diệm bảo ông Vỹ liên lạc với ông Trương vĩnh Lễ, Chủ tịch Quốc hội yêu cầu triệu tập Quốc hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu. Ông Vỹ gọi ông Lễ 4 lần nhưng không gặp (Ngày 01.11.1963, Lễ các Thánh là ngày nghỉ). Ngoài ra, thật vậy, khi quân đội bị chia rẽ, khi chính nghĩa bị hy sinh, khi đất nước mất người lãnh đạo anh minh, tài đức, để giao tiền đồ Tổ Quốc vào tay những con người kém tài đức, phản loạn, thì trước sau gì cũng mất về tay cộng sản miền Bắc tháng 04/1975.

Sau đó, Thiếu tá Phạm Văn Phú, Chỉ huy phó Sở Liên lạc, cử Thiếu úy Hòa, sĩ quan cận vệ của ông, lên gặp tôi trước cửa Dinh Gia Long. Hòa nói: ‘Thưa chú, Thiếu tá Phú cho cháu lên thưa với chú: Lữ đoàn đưa Thiết giáp và 2 Ðại đội Bộ binh lên phối hợp với Lực lượng Ðặc biệt đánh thẳng vào tòa nhà chính nơi các tướng lãnh đang họp. Bộ Tổng Tham Mưu hiện chỉ có tân binh Quang Trung canh gác. Lữ đoàn yểm trợ hỏa lực và Lực lượng Ðặc biệt đánh mìn 3 cầu thang. Thắng lợi chắc chắn 100%. Tôi trình Thiếu tá Duệ, Tham Mưu Trưởng và hai chúng tôi cùng thảo luận. Cuối cùng Thiếu tá Duệ trình lên Tổng thống. Tổng thống thảo luận với ông cố vấn rồi cho lệnh: ‘Không được. Hãy dành lực lượng và võ khí để đánh Cộng sản. Người nhà không nên tàn sát lẫn nhau. Lữ đoàn hãy bảo vệ Bưu điện và Kho bạc’.

=>> Thiếu tá Phạm Văn Phú, đã từng nhảy dù xuốn Điện Biên Phủ năm 1954. Ngày 29.04.1975, với cấp bực Thiếu tướng, đã nhờ sĩ quan tùy viên đưa vợ con lên phi trường Tân Sơn Nhất để di tản. Sau đó, ông tự sát bằng một liều thuốc độc cực mạnh. Sĩ quan an ninh báo cho phu nhân trở lại đưa ông vào bịnh viện Grall cấp cứu. Ông hôn mê đến 11 giờ 15 ngày 30.04.1975, tỉnh lại thều thào hỏi phu nhân về hiện tình chiến cuộc ra sao. Sau khi được biết Tổng thống Dương Văn Minh đã đầu hàng và quân cộng sản đã tiến vào Sài Gòn. Nghe xong, Thiếu tướng Phạm Văn Phú từ trần ở tuổi 47.
Lúc 16 giờ 30, Tổng thống Diệm gọi điện thoại cho Đại sứ Lodge :

Tổng thống Diệm: Vài đơn vị đang làm loạn và tôi muốn biết: Thái độ của nước Mỹ ra sao?
Đại sứ Lodge: Tôi nghĩ rằng tôi không được thông báo đầy đủ tin tức để có thể trả lời câu hỏi của ngài. Tôi có nghe thấy những tiếng súng nổ, nhưng không biết rõ thực hư. Vả lại bây giờ là 4 giờ 30 sáng tại Hoa Thịnh Ðốn và chính quyền Mỹ có lẽ không thể đưa ra một ý kiến về vấn đề này.

Tổng thống Diệm: Nhưng chắc chắn ngài cũng có những ý niệm đại khái về vấn đề này. Dù sao, tôi cũng là một Quốc trưởng. Tôi đã cố gắng làm bổn phận trên tất cả.
Ðại sứ Lodge: Dĩ nhiên ngài đã làm bổn phận của ngài. Như tôi đã nói với ngài lần đầu tiên sáng hôm nay, tôi khâm phục sự can đảm của ngài và khâm phục sự đóng góp to lớn của ngài đối với quê hương của ngài. Không ai có thể lấy đi cái công của ngài đối với tất cả những gì ngài đã làm. Nhưng bây giờ tôi lo ngại cho sự an toàn bản thân của ngài. Tôi được báo cáo rằng những kẻ đảm trách những việc đang xảy ra đề nghị để cho ngài và em ngài bình yên đi ra ngoại quốc nếu ngài từ chức. Ngài có nghe thấy nói điều đó không?
Tổng thống Diệm: Không (ngừng một lúc, ông Diệm nói tiếp) ngài có số điện thoại của tôi.
Ðại sứ Lodge: Vâng. Nếu tôi có thể làm được điều gì cho sự an toàn bản thân của ngài, thì xin ngài cứ gọi tôi.
Tổng thống Diệm: Tôi đang tìm cách lập lại trật tự.

Về cuộc nói chuyện trên giữa Tổng thống Diệm và Đại sứ Lodge, chúng ta chỉ cần ghi nhận ba điểm sau đây:

Thứ nhất: cái bất lương của Lodge. Ông đã dối trá khi nói với ông Diệm: “Tôi nghĩ rằng tôi không được thông báo đầy đủ tin tức để có thể trả lời câu hỏi của ngài. Tôi có nghe thấy tiếng súng nổ, nhưng không rõ thực hư”.
Thứ hai: cái ngu dấu đầu hở đuôi của nhà ngoại giao được coi là thượng thặng Mỹ. Thật vậy, ở câu trên, đại sứ Lodge vừa nói với Tổng thống Diệm rằng ông chỉ nghe thấy tiếng súng nổ, mà không rõ thực hư. Thì ngay câu dưới ông lại nói với ông Diệm rằng: “Tôi được báo cáo rằng những kẻ đảm trách những việc đang xảy ra đề nghị để cho ngài và em ngài đi ra ngoại quốc nếu ngài từ chức”.
Thứ ba: cái khí phách của Tổng thống Diệm. Ðến phút chót, và trong cơn nguy khốn, trước mặt ngoại bang, ông vẫn giữ được thể thống của một người lãnh đạo quốc gia, và tư cách của vị Tổng thống một quốc gia có chủ quyền. Ông không hạ mình xuống xin ân huệ của ngoại bang. Như Tổng thống Marcos của Phi Luật Tân đã hạ mình xuống xin ân huệ Mỹ, ngày 25.02.1986. Lúc bấy giờ cũng như trước đây, chủ quyền đất nước là điều tối thượng đối với Tổng thống Ngô Ðình Diệm chứ không phải là sinh mạng chính mình và Tổng thống tìm cách tái lập trật tự tức là tái lập chủ quyền đất nước đang bị ngoại nhân dùng bọn ngoại nô để phá hoại, chiếm đoạt.

- 17 giờ 30, tướng Dương Văn Minh điện thoại cho ông Diệm và đòi ông phải đầu hàng. Ông Diệm từ chối không muốn nói chuyện với hắn.
- 19 giờ 30, tướng Minh lại gọi cho ông Diệm, ông Diệm lại từ chối không nói chuyện. Tướng Minh rất tức giận về thái độ khinh bỉ đó.

- Khoảng 20 giờ, tướng Minh ra lệnh tấn công vào dinh Gia Long. Người được chỉ định để thi hành lịnh này là Đại tá Nguyễn văn Thiệu, một sĩ quan Công Giáo, tư lịnh Sư đoàn 5 bộ binh.

Phe đảo chánh không ngờ là, trước đó, ông Cao xuân Vỹ, Thủ lãnh Thanh niên Cộng hòa, đưa Tổng thống và ông Ngô đình Nhu cùng 2 Ðại úy Ðỗ Thọ và Bằng (Sĩ quan tùy viên) đến nhà ông Mã Tuyên (Bang trưởng người Hoa và Trưởng Thanh niên Cộng hòa quận 5). Tại đây, hai ông Diệm, Nhu và Ðại úy Thọ tạm trú qua đêm. Từ nửa đêm cho đến sáng, chuông điện thoại reo liên tiếp. Gần sáng, Tổng thống nói cho ông Mã Tuyên biết Lữ đoàn Phòng vệ đã ngưng tiếng súng rồi. Sau đó, hai ông ngồi cầu nguyện. Sau khi cám ơn ông Mã Tuyên và gia đình, tài xế của ông đưa Tổng thống, ông Nhu và Ðại úy Thọ đến nhà thờ Thánh Phanxicô Xaviê (còn có tên Cha Tam).

Mã Tuyên, một người cũng vì một ít tình cảm riêng với Tổng thống Ngô Ðình Diệm đã phải chuốc hoạ vào thân, một thương gia Việt gốc Hoa Triều Châu, vì đã… chứa chấp anh em ông Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu trong cái đêm 01.11.1963. Khi đó ông Mã Tuyên tuổi độ trên 50, là tổng bang trưởng của 10 bang người Hoa tại Quận 5 Sài Gòn. Ông Mã Tuyên đã kể lại giờ phút Rồng Ðến Nhà Tôm như sau:

– Khi đó độ 5 giờ chiều, tôi và gia đình đang nghe tin tức radio tại nhà thì chuông điện thoại reo. Tôi bắt máy, đầu giây xưng là ông Ðô Trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn ngỏ ý muốn gặp tôi gấp tại trụ sở Thanh Niên Cộng Hòa quận 5 (khu Ðại Thế Giới cũ). Tôi bảo tài xế đánh xe chạy đến đó, chờ đến 6 giờ 30 thì ông Ðô trưởng mới đến và ông ta nói với tôi là: Tổng thống muốn đến nhà Nị lánh nạn. Tôi nhận lời và đi về nhà chuẩn bị. Khoảng 7 giờ 30, hai xe Citroen chạy đến nhà tôi (số 34 đường Ðốc Phủ Thoại) với tổng cộng 8 người gồm Tổng thống Ngô Ðình Diệm, Cố vấn Ngô Ðình Nhu cùng các ông Ðỗ Thọ, ông Ðô Trưởng và 4 nhân viên bảo vệ.
Ông Mã Tuyên cho biết là nghỉ ngơi tại nhà ông cho đến sau nửa đêm thì Tổng thống Ngô Ðình Diệm đưa cho ông một số giấy tờ và nhờ ông đốt đi. Tổng thống nhờ ông canh chừng máy điện thoại dưới nhà và liên tục sử dụng điện thoại trên lầu để gọi đi nhiều nơi và cả các nơi khác gọi đến cho Tổng thống nữa (nhà ông Mã Tuyên có 3 căn phố liền nhau gồm một tầng trệt và 2 tầng lầu. Ông gắn điện thoại trong các tầng lầu. Chuông điện thoại reo liên tiếp từ nửa đêm cho đến sáng. Sau đó, Tổng thống xuống tầng trệt, trời đã sáng. Tiếng súng chỉ còn nổ thưa thớt trong Đô thành. Sắc diện của Tổng Thống cho thấy tình thế trở nên tuyệt vọng.

Tổng thống cho biết Lữ đoàn Phòng vệ (bảo vệ Dinh Gia Long) đã ngưng tiếng súng. Ông Mã Tuyên cho biết hai ông Tổng thống và Cố vấn ngồi cầu nguyện rồi dùng điểm tâm món bánh bao, xíu mại và cà phê chung với ông rồi Tổng thống hỏi về nhà thớ lớn nhất vùng Chợ Lớn ở gần đấy là nhà thờ Phanxico (mà người ta gọi là nhà thờ cha Tam) và nói với ông là họ sẽ đến nhà thờ đó. Tổng thống và ông Cố vấn thay y phục khác. Tổng thống bảo ông Mã Tuyên đừng lái xe và cũng đừng đi theo bất tiên. Ông Mã Tuyên đã gọi tài xế của mình, lái chiếc xe Traction mầu đen (thường đưa đón các con ông đi học) chở Tổng thống và ông Cố vấn cùng người tùy viên Ðỗ Thọ đến nhà thờ cha Tam.

Năm ngày sau đó, ông Mã Tuyên bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng bắt giam trong 3 năm. Tài sản bị tịch thu và đem bán đấu giá nhưng đồng bào Việt gốc Hoa mua lại được (trong cuộc đấu giá) và trả lại cho gia đình ông.
Vào lúc 3 giờ ngày 02.11.1963, đại tá Thiệu mở nhiều đợt tấn công với thiết giáp và pháo binh vào dinh Gia Long. Nhưng các cuộc tấn công ấy đã bị đẩy lui. Những quân nhân trung thành với ông Diệm đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, mặc dù thua sút về quân số,chở đồ vũ khí, mặc dù không được tiếp tế và mặc dù ở trong tình thế tuyệt vọng. Cuối cùng, nhóm đảo chánh đã phải cầu cứu trung tá Nguyễn cao Kỳ cho phi cơ phóng pháo lên bắn phá thành Cộng Hòa để hỗ trợ quân đảo chánh và áp đảo tinh thần những binh sĩ phòng thủ dinh Gia Long.

Khoảng 4 giờ 30, Thiếu tá Hoàng Văn Lạc nhận lệnh và chuyển tiếp nguyên văn lệnh của Tổng thống : ‘Tổng thống và ông cố vấn được bình an. Tổng thống cảm ơn tất cả chúng con. Các con hãy ra đầu hàng để khỏi bị tàn sát’. Đến 5 giờ sáng, binh sĩ trong dinh Gia Long kéo cờ trắng đầu hàng.

Lúc 6 giờ 45, ông Diệm gọi điện thoại và người nghe máy là Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm. Ông Diệm cho tướng Khiêm biết ông và ông Nhu hiện đang ẩn náu tại nhà thờ Cha Tam, Chợ Lớn, và yêu cầu đem xe đến đưa về bộ Tổng Tham Mưu gặp các tướng lãnh.

IV./ NHỮNG KẺ GIẾT NGƯỜI VÀ CHẠY TỘI.

Dù biết ‘Dinh Gia Long thất thủ được coi như chế độ sụp đổ’, nhưng vẫn có đôi ba Tướng còn sợ uy quyền Tổng thống (như Khiêm, Lễ, Oai chủ trương ‘nhổ cỏ phải nhổ tận gốc’) nên nghĩ xa hơn về hậu họa nếu ông Diệm còn sống. Do đó, kế hoạch giết ông được bàn cãi trong Hội đồng Tướng lãnh. Vì tham vọng quyền lợi mỗi người trong họ, nên cuộc thảo luận tạo nên hố chia rẽ bắt đầu đào lên giữa họ. Các tướng ít quyền, do mặc cảm cấp bực thua kém, đã tự động bỏ ra về. Cuộc bỏ phiếu được thực hiện bằng lựa chọn 1 trong 3 ký kiến:

1.- Tha cả 2 và cho đi ngoại quốc.
2.- Giết cả 2.
3.- Giết Nhu, tha Diệm.

Tướng Kim là người đi nhận phiếu, bỏ vào nón của ông. 9 phiếu đầu đòi giết cả hai. Dương văn Minh, cầm lá phiếu trên tay không bỏ phiếu và nói ‘Tôi xin được tha cho Tổng thống và ông Nhu’. Tướng Kim, im lặng một lúc, rồi đề nghị: « Ý kiến anh Chủ tịch là tha cả hai. Tôi đề nghị anh em là nên theo ý kiến của anh Chủ tịch ». Tất cả đều đồng ý tha. Tướng Minh giao cho tướng Khiêm phụ trách việc đón hai ông Diệm và Nhu cùng dặn đưa 2 ông về trình diện Hội đồng Tướng lãnh.

Khiêm kéo hai Ðại tá Dương Ngọc Lắm, Huỳnh Văn Tồn, và Ðại úy Dương Hiếu Nghĩa (đều là đảng viên Ðại Việt) về phòng riêng để cho biết ý kiến của Mỹ (qua CIA Conein) là phải giết ông Diệm. Sau đó, Lắm và Tồn ra trước để điều động lực lượng. Nghĩa ở lại để Khiêm bàn chi tiết hơn. Khi rời phòng Khiêm, Nghĩa gặp Ðại úy Phan hoà Hiệp. Ông này hỏi Nghĩa :

- Có chuyện gì mà hồi nãy anh Lắm nói với tao ‘Ê, các cậu được lịnh vô Chợ lớn đón Tổng thống. Hễ thấy gì thì cũng yên lặng, chớ có lộn xộn coi chừng bay cái đầu đó nghen !’. Nghĩa nói nhỏ ‘Anh Tư Mắt Kiếng (tướng Khiêm) có lịnh giết ông Diệm rồi’.

Lúc 7 giờ ngày 02.11.1963, một đoàn quân xa gồm 3 chiếc Jeep, 2 thiết vận xa M113, 2 quân xa GMC chở đầy lính vũ trang cùng các quân nhân : Tướng Mai Hữu Xuân, hai Ðại tá Dương Ngọc Lắm và Nguyễn Văn Quan, ba Ðại úy Nguyễn Văn Nhung, Dương Hiếu Nghĩa và Phan Hòa Hiệp đến nhà thờ Cha Tam để đón hai anh em Tổng thống.

Ðại tá Lắm chào và nói ‘ Thừa lệnh Trung tướng Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, chúng tôi đến đón cụ và ông cố vấn’… Ðại úy Nhung sai hai lính chạy đến đẩy hai ông lên xe M113 và kéo cửa lên. Tùy viên Ðỗ Thọ và Linh mục đi theo hai ông. Sĩ quan tùy viên vừa đưa chiếc cập da cho Tổng thống thì Nhung chớp lấy ngay. Sau đó, Nhung đuổi Ðại úy Thọ và cha Jean trở lên nhà thờ. Ðoàn xe lăn bánh.

Thượng sĩ trưởng xe M113 hỏi nhỏ anh Hạ sĩ xạ thủ đại liên ‘Này mày, sao không để 2 ông ấy đi xe jeep cho tiện, đút vào đây làm chi cho cực?’. Vị hạ sĩ ghé vào tai tao nói giọng lạnh như tiền ‘Ông ngu bỏ mẹ đi. Nếu người ta muốn ‘đón’ thì đi bằng xe jeep. Còn muốn ‘giết’ thì còn gì kín đáo hơn là hầm chiếc xe này’. Nghe xong, vị Thượng sĩ bất giác lạnh từ xương sống lên tới đầu. ‘Giết? Sao lại giết? Có gì mà đến nỗi phải giết? Ðối phương đã đầu hàng, đã xin chịu thua, nhất là đã chỉ chỗ cho mình đến mà đưa người ta đi. Vậy thì cách chức, đuổi cổ người ra khỏi nước đã là nhục lắm rồi, cớ chi mà phải giết?’.

Chiếc M113 rầm rộ rời nhà thờ cha Tam, chạy đến đường Ðồng Khánh và tới đường Nguyễn Trãi thì đoàn xe đâu mất, chỉ còn một xe jeep chạy đầu, với ngồi đứng 5, 6 người, súng ống chỉa lên trời, lựu đạn đeo lủng lẳng xem thật hùng dũng. Hết đường Nguyễn Trãi, bước vào đường Võ Tánh và ngừng lại trước trụ sở Tổng Nha Cảnh sát Quốc gia, nhưng không một bóng dáng cảnh sát, chỉ toàn binh sĩ Sư đoàn 5, thuộc quyền chỉ huy của Ðại tá Nguyễn văn Thiệu, súng lăm lăm cầm tay canh gác rất cẩn mật. Từ trong một xe jeep khác chạy ra, trên xe có một Ðại tá. Ông chỉ tay lên chiếc M113 và ra lệnh:

- Xuống! xuống hết! Tất cả ở ngoài đứng chờ lệnh, chỉ có chiếc xe này được chạy vào với một tài xế và… anh kia.

Theo tay chỉ thì anh kia là anh chàng hạ sĩ xạ thủ đại liên. 8 người trên xe M113 nhảy xuống, đồng số phận với những người trên xe jeep ở bên ngoài... ngắm cảnh. Tưởng đến đây là hết: giết hay giam hai ông ở đây. 20 phút sau, chiếc M113 lại lù lù chạy ra, tới cửa nó chạy chậm lại để lính đu lên, rồi xe rú lên vọt chạy ngược lại đường Võ Tánh rồi quẹo phải, đến đường Cộng Hòa. Mắt chàng hạ sĩ dại đi, mặt tái mét, mười ngón tay như muốn co rúm lại khi vị Thượng sĩ thì thầm bên tai :
- Ông Diệm, ông Nhu đâu?
- Ở dưới.
- Sao rồi?
- Ông Nhu bị tra tấn khủng khiếp rồi bị xiết cổ chết bằng dây điện.
- Còn ông Diệm?
- Ông bị đè cổ ra trói thúc ké rồi ném vào thùng xe.
- Chết hay sống?
- Không biết.
- Người ta là ai?
- Không biết.
Chiếc M113 cùng xe jeep chạy qua trường Pétrus Ký thì tới ngã rẽ Hồng Thập Tự, bên kia là Lý Thái Tổ, đường Hùng Vương, bên trái là Nguyễn Hoàng, thì gặp lại đoàn xe Ðại tá Lắm, các Ðại úy Nhung, Hiệp, Nghĩa. Như vậy, đội hình mau chóng được xếp lại. Qua ngả tư Cao Thắng, Hồng Thập Tự, khoảng bên hông bệnh viện Từ Dũ thì tạm ngừng vì bên kia chạy ngược chiều là đoàn xe nhiều chiếc của tướng Mai hữu Xuân. Lúc đó có một số đồng bào thấy lạ nên đổ xô đến. Xuân xuống xe đứng bên này đường, nhìn về xe Ðại úy Nhung, ra tay trái 3 lần đưa lên 2 ngón tay, rồi đưa tay phải qua khỏi đầu, ngón tay trỏ được duỗi ra co vào đến 4 lần (giống như bóp cò súng). Nhung gật đầu rồi đưa tay lên chào. Ðoàn xe Xuân chạy đi thì 3 chiếc xe bên này cũng lăn bánh. Mới chạy được một quảng ngắn thì phải ngừng vì xe lửa sắp chạy qua.

Trong giây phút chờ đợi, đột nhiên Ðại úy Nhung từ trên xe jeep bên hông xe M113 nhảy sang xe này và hét : -Xuống ! Xuống !

Bảo xuống thì tất cả nhảy xuống. Tiếp theo, mọi người bỗng nghe nhiều tiếng súng nổ. Âm thanh không chát chúa, vì chỉ nổ trong lòng chiếc thiết vận xa M113. Biết chuyện gì đã xảy ra, vị Thượng sĩ ngước mặt lên trời cao xanh thăm thẳm, cắn chặt môi cố ngăn những giọt nước mắt không chảy ra để thấy tâm hồn như bị chẻ đôi, để thấy cõi lòng như đang trải qua cơn giông bão tang thương thê thảm nhất cuộc đời.

Về đến bộ Tổng tham mưu, thi hài hai ông Tổng thống Ngô đình Diệm và cố vấn Ngô Ðình Nhu được đưa vào bệnh xá Bộ Tổng tham mưu để khám nghiệm. Theo chứng nhận của bác sĩ Huỳnh Văn Hưỡn, Giám đốc bệnh xá và cũng là người đã tiến hành vụ khám nghiệm thì hai ông Diệm, Nhu bị bắn từ sau gáy ra phía trước. Xác ông Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đã bị đánh đập trước khi bị bắn. Xác ông Nhu bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu. Trước đó, phản tướng Dương Văn Minh có đến bên xác ông Diệm để mở nút quần xem có ‘chim’ hay không.

Lối 10 giờ ngày 02.11.1963, Ðài phát thanh Sài gòn loan tin vắn tắt ‘Anh em ông Diệm bị bắt tại Chợ lớn, và đã tự tử!’ Dư luận không tin là nhị Vị tự sát vì ai cũng biết: Tổng thống Diệm và bào đệ là những người ngoan đạo, mà đạo Thiên Chúa cấm tự sát.

Nghe tin Tổng thống Ngô Ðình Diệm bị thảm sát, Tổng thống Ðài loan Tưởng giới Thạch thương tiếc nói rằng: « Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề về vụ ám sát xấu xa nầy, Trung hoa Dân quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp... Tôi khâm phục ông Diệm, Ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu ». Ðồng thời, cái chết của anh em Ngô Ðình Diệm cũng đã làm cho các lãnh tụ Á châu, đồng minh của Mỹ giật mình. Tổng thống Hồi quốc (Pakistan), Ayub Khan, đã nói với Tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon: « Cuộc thảm sát Tổng thống Ngô đình Diệm đã khiến các lãnh tụ Á châu chúng tôi rút ra được một bài học khá chua chát: Ðồng Minh với Mỹ thật nguy hiểm! Có lợi hơn nên đứng thế trung lập. Và có lẽ hưu ích hơn nữa khi là kẻ thù của Hoa kỳ ».

Đến chiều ngày 02.11.1963, Hồ Chí Minh, được tin Ngô Ðình Diệm bị lật đổ và bị ám sát, mừng rỡ ‘Bác cháu sẽ thắng. Ông Diệm là người yêu nước theo kiểu của ông ấy. Tôi không thể nào tin người Mỹ lại ngu ngốc đến vậy’. Bộ Chính trị Ðảng Lao động Việt Nam nói rõ hơn: ‘Hậu quả của cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 sẽ trái với những tính toán của đế quốc Mỹ... Diệm là một trong số những nhân vật mạnh nhất chống lại nhân dân và Chủ nghĩa cộng sản. Tất cả những gì có thể làm nhằm cố gắng đè bẹp cách mạng đã được Diệm thực hiện. Diệm là một trong những tay sai có tài nhất của đế quốc Mỹ... Trong số những người chống cộng ở miền Nam Việt Nam hoặc đang lưu vong ở nước ngoài, không ai có đủ tài lực chính trị và khả năng làm người khác tuân phục. Do đó, chính quyền tay sai sẽ không thể vững bền. Cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 sẽ không phải là cuộc đảo chính cuối cùng.

Lúc 20 giờ ngày 08.11.1963, Linh mục Claude Larre, Ðại diện Ðức Khâm sứ Tòa Thánh tại Sài gòn (Ðức Khâm sứ đang họp Công đồng chung Vatican 2), cử hành Thánh lễ An táng cho Tổng thống Gioan Baotixita Ngô đình Diệm và ông Giacôbê Ngô đình Nhu.

Năm 1991, Bộ Ngoại giao Hoa kỳ xuất bản ‘Foreign Relations of the Unitied States’ Tập IV, 1961 – 1963, về việc tổ chức đảo chánh này. Năm 1995, ‘In Retrospect, Tragedy and Lesson of Vietnam’, hồi ký của Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara được xuất bản. Năm 1998, Thư viện John F. Kennedy công bố bộ băng thu tại tòa Bạch ốc dài 37 giờ, ghi lại những phát biểu của Tổng thống Kennedy về cuộc đảo chánh. Ba tài liệu đã cho thấy sự thật lịch sử.

Ông McNamara viết sự kiện tại Tòa Bạch ốc như sau khi nghe tin ông Diệm đã bị giết : « Lúc 9 giờ 30 ngày 02.11.1963, chúng tôi gặp Tổng thống để tiếp tục cuộc họp chiều qua, thảo luận về các biến cố. Lúc bắt đầu, chưa ai rõ số phận ông Diệm và ông Nhu ra sao. Sau đó, Mike Forrestal từ Phòng Tình hình tông cửa chạy vào. Trạm CIA tại Saigon báo cáo rằng họ được các nhân vật đối tác của Saigon cho biết hai anh em ông đã tự vẫn ‘trên đường đến Bộ Tổng Tham mưu... Nhận được tin này, mặt ông Kennedy tái xanh. Tôi chưa bao giờ thấy ông xúc động mạnh đến như thế. Cái chết của hai người ‘đã làm cho ông buồn bực về cả phương diện luân lý lẫn tôn giáo... làm lung lay lòng tin tưởng... về những gì ông đã khuyến cáo liên quan đến Nam Việt Nam».

Ðọc xong bản tin, ông Kennedy nghĩ đến ảnh hưởng cái chết của hai người có tác dụng xấu ngay trong nước và ở hải ngoại... Rằng sau hai mươi năm phục vụ quê hương Việt nam, sinh mạng ông Diệm không thể kết thúc như vậy.
Đó cũng giống như lời Mao Trạch Ðông đã nói với Edgar Snow khi đến phỏng vấn năm 1965 rằng Hoa kỳ không chịu nghe lời ông Diệm. Mao cho biết ông và Hồ Chí Minh đều nghĩ rằng ông Ngô Ðình Diệm là người có tài. Rốt cuộc, ông hỏi rằng sau khi giết ông Diệm thì chuyện giữa Thiên đàng và Ðịa ngục có bình yên không? Những ám chỉ trong lời nói của Mao về các biến cố tại Việt Nam chỉ được biết sau khi cả Trung cộng lẫn Việt cộng mở văn khố của họ, nhưng quan trọng hơn, câu nói đó đang tạo rất nhiều vấn đề. Sự xúc động lớn nhất là Hoa kỳ phải đối phó với một khoảng trống chính trị hoàn toàn ở Nam Việt Nam và không có căn bản nào để xúc tiến về bất cứ tiến trình nào phù hợp với các mục tiêu của Hoa kỳ’. Chiều hôm 02.11.1963, ông Kennedy và vợ con dùng trực thăng bay về ngôi nhà mới ở Rattlesnake Mountain. Khi dùng cơm, bà Mary Gimbel, một người bạn, đã nói với ông về ông Diệm và ông Nhu: - Họ đúng là những nhà độc tài.

Ông Kennedy trả lời: - Không, họ ở trong một tình trạng khó khăn. Họ đã làm cái tốt đẹp nhất mà họ có thể làm cho quê hương họ. (Richard Reeves, President Kennedy, Profile of Power, Touchstone, New York 1994, tr. 651).

Sau khi ông Diệm và Cố vấn Nhu bị sát hại, Tổng thống Kennedy nói: «Tôi cảm thấy tôi phải chịu phần trách nhiệm lớn đối với vụ việc, bắt đầu với công điện hồi đầu tháng Tám trong đó chúng tôi gợi ý đảo chính. Theo tôi, công điện đó đã được viết ẩu và lẽ ra không nên gửi nó đi vào thứ Bảy.

« Ðáng ra tôi không nên đồng ý mà không có hội nghị bàn tròn để nghe ý kiến của ông McNamara và Tướng Maxwell Taylor ». Các tài liệu giải mật gần đây cho thấy Tổng thống Kennedy đồng ý phải lật đổ người đồng nhiệm ở Sài Gòn, ông Ngô Ðình Diệm, hồi năm 1963.


Ngày 22.11.1963, Tổng thống Kennedy bị ám sát tại Dallas (Texas).

(Còn tiếp 13)

Vietcatholic, ngày 22.12.2021

H