Thương xót là điều cần được cảm nhận hơn là thuyết minh. Đó là điều Đức Phanxicô liên tiếp nhấn mạnh với chúng ta. Trong buổi yết kiến chung Thứ Tư ngày 16 tháng 12 vừa qua, ngài nói rằng Năm Thánh Thương Xót phải “trở thành một cảm nghiệm mà ai cũng có thể chia sẻ… chứ không phải chỉ là những lời nói đẹp đẽ”.

Dịp này, ngài nói tới hai dấu chỉ cụ thể của Năm Thương Xót. Trước nhất là Cửa Thánh đã được mở tại Rôma và khắp nơi trên thế giới vào Chúa Nhật Qua: “Bước qua Cửa Thánh là dấu chỉ lòng tín thác của ta vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng tới không để kết án mà để cứu vớt ta… Khi bước qua cửa này, ta nên nhớ rằng ta cũng phải mở cửa trái tim ta ra. Năm Thánh không thể hữu hiệu nếu cửa lòng ta không để Chúa Kitô đi qua, Đấng đẩy ta ra đi gặp gỡ người khác, dẫn họ đến với Người và tình yêu của Người”.

Dấu chỉ thứ hai là xưng tội: “nhận lãnh bí tích nhờ đó ta làm hòa với Thiên Chúa chính là trực tiếp cảm nghiệm lòng thương xót của Người…Nhưng, làm thế nào ta có thể xin Chúa tha thứ cho ta nếu chính ta không có khả năng tha thứ?”.

Nhân Năm Thương Xót, một số người đã nói lên cảm nghiệm riêng của họ về một trong những phẩm tính chính mà Thiên Chúa muốn ai trong chúng ta đều phải có, vì chính Người vốn có theo yếu tính, như khẩu hiệu của Năm Thánh đã quả quyết: Misericordiosi Come Il Padre (Hãy Thương Xót Như Chúa Cha).

1. Lòng thương xót của Chúa đi trước lòng ăn năn của tôi

Nữ Tu Theresa Aletheia Noble, thuộc Dòng Nữ Tử Thánh Phaolô, trước đây vốn là một người vô thần và giống như Thánh Phaolô, bà có được một “giây phút tức khắc trở về với niềm tin vào Thiên Chúa”. Tuy nhiên, hành trình của bà trở về với Giáo Hội thì không có chi là tức khắc cả. Nó là một diễn trình chậm chạp và tiệm tiến. “Một diễn trình, trong đó, Thiên Chúa và các Kitô hữu khác biểu lộ cho tôi tình yêu, lòng kiên nhẫn và sự chấp nhận trên đường dò dẫm của tôi. Cuối cùng, tôi bắt đầu gắn bó về phương diện tri thức với thẩm quyền dạy dỗ của Giáo Hội, kể cả tội lỗi như Giáo Hội xác định.

“Nhưng trong mấy tháng đầu sau khi trở lại, ăn năn thống hối và tội lỗi của mình không phải là tập chú của tôi về Thiên Chúa. Tập chú ấy là Thiên Chúa yêu thương tôi xiết bao. Tôi không bao giờ quên được tâm tư của mình trong mấy tháng đầu tiên này. Tôi bước đi như thể được ẵm bế trong bàn tay Tạo Hóa, hoàn toàn được sưởi ấm bằng cái nhìn yêu thương của Người.

“Và tôi vẫn tiếp tục phạm tội. Đúng như thế.

“Nhưng nay tôi đã được biết một vị Thiên Chúa yêu tôi. Và tình yêu thương xót của Người đi trước lòng ăn năn của tôi. Người đã không thoái lui một cách tởm gớm khi thấy tôi thiếu lòng ăn năn. Người không trừng phạt tôi khi tôi cứ tiếp tục sống lối sống cũ của mình. Người bước vào linh hồn tôi và ôm lấy tôi ngay ở chỗ tối tăm nhất. Ở ngay cái chỗ tôi chết, Chúa Giêsu đã cùng chết với tôi.

“Cuối cùng, qua mối liên hệ của tôi với Thiên Chúa, tôi cảm thấy được mời gọi trở về với Giáo Hội. Tôi chống lại và cảm thấy chán chường. Tôi yêu Thiên Chúa, nhưng không thấy hứng thú gì trở về với Giáo Hội. Tôi muốn yêu Thiên Chúa theo cách riêng của mình. Nhưng tôi biết Thiên Chúa chỉ muốn dẫn tôi tới nơi Người có thể yêu tôi viên mãn hơn mà thôi.

“Nên vì vâng lời vị Thiên Chúa mà mình yêu thương, tôi bắt đầu tham dự Thánh Lễ đều đặn hơn.

“Một ngày kia, một ngày mà tôi sẽ không bao giờ quên được, khi sắp sửa lên đường đi làm, tôi bỗng cảm thấy một luồng sáng láng trong lương tâm. Như thể, cuối cùng, tôi đã có thể nhìn thấy hết mọi tội lỗi của tôi như Thiên Chúa nhìn thấy, tất cả những gì tôi đã làm, đang làm và sẽ tiếp tục làm như một con người tội lỗi. Tôi bỗng sụp xuống và khóc nức nở trên sàn nhà.

“Đó quả là giây phút của lòng thương xót.

“Nhưng lòng thương xót của Thiên Chúa không bắt đầu ở giây phút trên. Thiên Chúa bắt đầu tỏ lòng thương xót với tôi trước đó nhiều; lòng thương xót của Người đi trước lòng ăn năn của tôi. Chính bản chất đi trước, không ngẫu nhiên của lòng thương xót này đã dẫn tôi tới lòng ăn năn. Thiên Chúa yêu tôi ngay trong cái tối tăm của tôi vì Người biết rằng chỉ có tình yêu nóng rực của Người mới cứu vớt tôi”.

2. Trước đây, tôi đầy hận thù

Joseph Pearce, tác giả cuốn tự thuật “Race with the Devil: My Journey from Racial Hatred to Rational Love”, do nhà St Benedict Press xuất bản, thuật lại rằng: “Hai thập niên 1970 và 1980, tôi là thành viên lãnh đạo của Mặt Trận Quốc Gia (National Front), tiền thân của Đảng Quốc Gia Đại Anh (British National Party). Tôi đầy hận thù. Tôi ghét sự hiện diện của di dân trên đất nước tôi; tôi ghét cả các chính trị gia nào có trách nhiệm cho phép người di dân nhập cư. Tôi ghét cảnh sát, người Cộng Sản, người xã hội chủ nghĩa, người cấp tiến và cả chính phủ Bảo Thủ của Margaret Thatcher nữa. Tôi đầy hận thù.

“Đứng đầu bảng những người tôi ghét là người Công Giáo. Tôi là thành viên của Orange Order, liên quan mật thiết với các lực lượng bán quân sự Trung Thành với Hoàng Gia (Loyalist) ở Bắc Ái Nhĩ Lan, và thăm Tỉnh này thường xuyên giữa các năm 1978 và 1985, ở cao điểm Các Vụ Lộn Xộn. Tôi biết các nhân vật chủ chốt của UDA (Hiệp Hội Bảo Vệ Ulster) và kết tình anh em với ban lãnh đạo của tổ chức còn hung bạo hơn nữa là UVF (Lực Lượng Tự Nguyện Ulster). Tôi có nhiều bạn bè bị IRA (Quân Đội Cộng Hòa Ái Nhĩ Lan) sát hại và một người quen biết bị tù chung thân vì đã sát hại người mẹ một thành viên ủa IRA ngay trước cửa nhà. Dù tôi đau buồn trước cái chết của bạn bè tôi, nhưng tôi cảm thấy không cần phải đau buồn vì cái chết của kẻ thù, của các bà mẹ của kẻ thù.

“Đó là cuộc tử chiến với những kẻ tôi coi là kẻ thù và là kẻ thù của quê hương tôi. Không có chỗ dành cho lòng thương xót.

“Gần như không thể tránh được, tôi thấy tôi đứng bên kia luật pháp, và bị án tù tới hai lần, năm 1982 và năm 1985, vì đã cho công bố các tài liệu xúi giục hận thù sắc tộc. Tôi mừng hai sinh nhật ở trong tù, năm 21 và năm 25 tuổi.

“Từ từ, nhờ ơn chữa lành của Thiên Chúa và nhờ đọc các tác giả như GK Chesterton, Hilaire Belloc và CS Lewis, cuối cùng tôi đã từ bỏ các niềm tin Tân Quốc Xã của mình và tiếp nhận các chân lý của Kitô Giáo.

“Năm 1989, tôi được gia nhập Giáo Hội Công Giáo, sau khi đã cắt đứt mọi liên hệ với Mặt Trận Quốc Gia trước đó hai năm.

"Sau khi đã được giải hết mọi tội lỗi cũ, rất nhiều và rất đáng ghét, tôi chỉ biết tỏ ngạc nhiên trước một vị Thiên Chúa không những tha thứ cho một kẻ tội lỗi như thế mà còn trả giá cho tội lỗi của tôi bằng sự thống khổ trong chính thân xác bị đóng đinh của Người. Domine, non sum dignus… Tôi không xứng đáng được tha thứ và thương yêu như thế. Trái lại, nói cho đúng, tôi đáng bị phạt vì các tội ác mình đã làm. Tôi đáng bị phạt một cách mạnh bạo y như tôi từng đã hành động. Thực vậy, tôi đáng bị xét đánh vì công lý đòi như thế.

"Tôi có quyền gì mà bước đi trong tình yêu của Người chứ không phải gặt mùa thảm hại do các hạt giống hận thù mình gieo? Không, tôi không có quyền gì. Đây không phải là chuyện quyền lợi mà chỉ là tình yêu và lòng thương xót do đó mà ra.


“Tôi hết lòng tạ ơn Thiên Chúa đã cứu vớt tôi… từ trước Hừng Đông Thời Gian… bằng cái hôn thương xót của tình yêu với kẻ tội lỗi bất xứng… Agnus Dei, qui tollis peccata mundi, miserere nobis (Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con).

Còn tiếp