KHỦNG BỐ TẤN CÔNG - TẤN CÔNG KHỦNG BỐ
60 nhà trí thức Hoa Kỳ Ủng Hộ Việc Hoa Kỳ Tấn Công Khủng Bố


Học Viện Về Các Giá Trị Của Người Hoa Kỳ đã phổ biến bức thư ngỏ của 60 nhà trí thức của Hoa Kỳ liên quan đến nguyên tắc “chiến tranh chính đáng” trong việc chống lại cuộc khủng bố tấn công Hoa Kỳ ngày 11/9/2001. Bài này được đăng trên Zenit ngày 12/2/2002 và đây là Bản dịch của Cao Tấn Tĩnh

CHÚNG TÔI ĐANG VÌ NHỮNG GÌ MÀ CHIẾN ĐẤU
BỨC THƯ TỪ HOA KỲ


CÓ NHỮNG LÚC một quốc gia nào đó cần phải ra tay tự vệ bằng võ lực. Vì chiến tranh là một vấn đề trầm trọng, liên quan đến việc hy sinh và lấy đi mạng sống quí hóa của con người mà lương tâm đòi những ai gây chiến phải nói rõ ràng thẳng thắn cho nhau cũng như cho cộng đồng thế giới biết về những nguyên tắc họ đang bênh vực liên quan đến lý do luân lý đã thúc đẩy họ tác động.

Chúng tôi tái xác nhận 5 chân lý nồng cốt liên quan đến tất cả mọi người không trừ ai sau đây:

1. Tất cả mọi con người đều được sinh ra có tự do và bình đẳng về phẩm vị và quyền lợi.
2. Chủ thể chính yếu của xã hội là con người, và vai trò hợp lý của chính quyền là bảo vệ và giúp những điều kiện làm con người phát triển.
3. Con người tự nhiên muốn tìm kiếm sự thật về mục đích và đích điểm tối hậu của sự sống.
4. Tự do lương tâm và tự do tôn giáo là những quyền bất khả xúc phạm của con người.
5. Nhân danh Thiên Chúa mà giết người là việc đi ngược lại niềm tin vào Thiên Chúa và là việc hết sức bội phản với niềm tin tưởng phổ quát về tín ngưỡng.

Chúng tôi chiến đấu để tự vệ cũng như để bênh vực những nguyên tắc phổ cập này.

Vậy những giá trị của Người Hoa Kỳ là gì?

TỪ NGÀY 11/9, biết bao nhiêu triệu người Hoa Kỳ đã tự hỏi mình lẫn hỏi nhau là tại sao? Tại sao chúng ta lại là mục tiêu cho những cuộc tấn công thù hằn hận ghét này? Tại sao những người muốn giết chúng ta lại ra tay sát hại chúng ta?

Chúng tôi nhìn nhận là có những lúc quốc gia của chúng tôi đã tác hành một cách kiêu kỳ và bất cần đến các xã hội khác. Có những lúc quốc gia của chúng tôi đã theo đuổi những chính sách sai lạc vá bất chính. Rất nhiều lần quốc gia của chúng tôi đã không sống đúng với lý tưởng của mình. Chúng tôi không thể thúc giục các xã hội khác chấp nhận những nguyên tắc luân lý mà đồng thời thú nhận xã hội của mình có những lúc đã không theo những nguyên tắc luân lý này. Chúng tôi liên kết trong niềm xác tín của mình - và chúng tôi tin tưởng tất cả mọi con người thiện chí trên thế giới cũng đồng ý với chúng tôi như vậy - là không được nại vào những thứ công lao hay những thứ thất sách của các chính sách ngoại giao đặc biệt để biện minh, hay thậm chí để cắt nghĩa cho có lý, việc tàn sát hàng loạt những con người vô tội.

Ngoài ra, theo thể chế dân chủ như của chúng tôi đây, một thể chế mà quyền bính của chính phủ đến từ dân chúng, thì chính sách của thể chế này tối thiểu một phần nào đó cũng được phát xuất từ văn hóa, từ những giá trị cùng với những ưu tiên của toàn khối xã hội ấy. Mặc dù chúng tôi không dám tự phụ cho rằng mình hoàn toàn biết được những lý do thúc đẩy những người tấn công chúng tôi và những ai ủng hộ họ, nhưng những gì chúng tôi biết được cho thấy rằng những thứ bất bình của họ đã vượt quá bất cứ một chính sách nào đó hay một loạt chính sách nào đó. Những tay sát nhân trong Ngày 11 Tháng Chín đã không nói lên cho biết những đòi hỏi đặc biệt nào gọi là có; ít là, việc sát hại này đã được thực hiện vì nó là việc sát nhân. Nhà lãnh đạo của nhóm Al Qaeda đã nhận định “những cuộc tấn công ân phúc” Ngày 11 Tháng 9 như là những cú đấm vào Hoa Kỳ, “tên đầu xỏ của lòng bất trung thế giới”. Như thế, rõ ràng là những người tấn công chúng tôi chẳng những coi thường chính quyền của chúng tôi mà còn toàn thể xã hội của chúng tôi, tất cả lối sống của chúng tôi nữa. Tóm lại, điều bất bình của họ chẳng những liên quan đến những gì các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã làm, mà còn dính dáng đến cả chính bản thân của chúng tôi nữa.

VẬY CHÚNG TÔI LÀ AI? Chúng tôi cho những gì là giá trị? Đối với nhiều người, bao gồm cả nhiều người Mỹ và nhiều người ký tên vào bức thư ngỏ này, có một số giá trị ở Hoa Kỳ đôi khi bị coi là không đẹp và tác hại. Như chủ trương lối sống hưởng thụ. Quan niệm tự do bất kể luật phép. Quan niệm về cá nhân như một vương chủ tự mình có toàn quyền. Tình trạng yếu kém về hôn nhân và đời sống gia đình. Thêm vào đó là những thứ trang bị khổng lồ về ngành giải trí và truyền thông lại không ngừng tôn tụng những tư tưởng này và phóng đại chúng cho tới hầu như tận cùng thế giới này, không cần biết chúng có được tiếp nhận hay chăng.

Là những người Hoa Kỳ, công việc chính yếu quan trọng của chúng tôi trước Ngày 11 Tháng 9 đó là thành thực đối đầu với những khía cạnh không đẹp này nơi xã hội của chúng tôi, cũng như làm hết sức có thể để thay đổi chúng nên tốt hơn. Chúng tôi tự đoan quyết thực hiện nỗ lực này.

Đồng thời, có những giá trị khác của Người Hoa Kỳ - những gì chúng tôi coi như là những lý tưởng cốt yếu của chúng tôi, và là những gì hầu như cho thấy lối sống của chúng tôi - hoàn toàn khác hẳn với những giá trị trên đây, chúng thu hút hơn, chẳng những đối với Người Mỹ, mà còn đối với con người ở khắp mọi nơi trên thế giới. Xin cho chúng tôi được vắn tắt kể đến bốn trong những giá trị thu hút này như sau:

Giá trị thứ nhất là niềm xác tín rằng tất cả mọi con người đều có một nhân phẩm bẩm sinh như thứ quyền làm người của mình, do đó, mỗi một con người bao giờ cũng phải được đối xử như là cùng đích hơn là bị xử dụng như là một phương tiện. Những vị thành lập Hiệp Chủng Quốc này, khi căn cứ vào truyền thống luật tự nhiên cũng như vào niềm tin tôn giáo là những gì cho rằng tất cả mọi con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, đã xác nhận là “minh nhiên” ý nghĩ là tất cả mọi người đều có phẩm vị bình đẳng như nhau. Niềm tin tưởng về phẩm giá siêu việt này của con người được bộc lộ rõ ràng nhất nơi lãnh vực chính trị qua thể chế dân chủ. Ở Hiệp Chủng Quốc, niềm xác tín nơi những thế hệ mới đây về phẩm vị bình đẳng của con người nam nữ, cũng như của tất cả mọi người bất kể nòi giống và mầu da là những biểu hiện văn hóa sáng tỏ nhất.

Giá trị thứ hai, theo sát với giá trị thứ nhất, đó là niềm xác tín rằng những sự thật luân lý phổ quát (những điều được các vị lập quốc của chúng tôi gọi là “những lề luật Tự Nhiên và Thần Linh) hiện hữu và khả thủ đối với tất cả mọi người. Một số những thể hiện hùng hồn nhất của niềm chúng tôi tin tưởng vào những chân lý này đã được bày tỏ trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của chúng tôi, trong Lời Từ Biệt của Tổng Thống George Washington, trong Bài Diễn Văn Gettysburg của Tổng Thống Abraham Lincoln cùng với Bài Diễn Văn Nhậm Chức Lần Hai của vị tổng thống này, cũng như trong Bức Thư của Tiến Sĩ Martin Luther King viết từ Ngục Birmingham.

Giá trị thứ ba là niềm xác tín rằng, vì đường lối chung riêng của chúng ta tiến đến những chân lý này là những gì bất toàn, mà hấu hết những bất đồng về các giá trị mới cần đến sự lịch duyệt, đến lòng cởi mở trước những quan niệm khác, cũng như đến việc tranh luận hợp lý để tìm ra chân lý.

Giá trị thứ bốn là quyền tự do theo lương tâm và quyền tự do theo tín ngưỡng. Hai thứ quyền tự do liên hệ mật thiết với nhau này đã được nhìn nhận rộng rãi, nơi xứ sở của chúng tôi cũng như ở các nơi khác, như là những gì phản ảnh phẩm vị căn bản của con người và như là một điều kiện tiên khởi cho các thứ quyền tự do cá nhân khác.

Đối với chúng tôi, cái đáng chú trọng nhất về những giá trị này đó là chúng được áp dụng cho tất cả mọi người không trừ ai, và chúng không thể bị sử dụng để tỏ ra coi thường và bất kính với bất cứ ai, chỉ vì những riêng biệt về nòi giống, ngôn ngữ, lịch sử hay tôn giáo của họ. Đó là lý do tại sao, theo nguyên tắc, bất cứ người nào cũng có thể trở thành một Người Hoa Kỳ. Thật vậy, bất cứ ai cũng được. Dân chúng từ khắp nơi trên thế giới đến với xứ sở của chúng tôi, nơi có bức tượng ở Hải Cảng Nữu Ước đứng làm biểu hiệu cho nỗi khát vọng được hít thở tự do, họ trở thành Người Mỹ sau khi đã đủ ngày đầy tháng. Lịch sử cho thấy không có một quốc gia nào đã từng khuôn đúc cái căn tính cốt lõi của mình - hiến pháp và các văn kiện chính yếu khác, cùng với việc tự thức sâu xa của mình - một cách hết sức trực tiếp và hiển nhiên theo những giá trì nhân bản phổ quát như vậy. Đối với chúng tôi, không có một dữ kiện nào khác về xứ sở này quan trọng hơn dữ kiện ấy.

Một số người chủ trương rằng những giá trị này chẳng có gì là phổ quát cả, mà chỉ đặc biệt phát xuất từ văn minh tây phương, phần lớn là văn minh Kitô Giáo. Họ lập luận rằng để chấp nhận những giá trị này là phổ quát tức là phủ nhận cái khác biệt của các nền văn hóa khác. Chúng tôi không đồng ý. Chúng tôi công nhận những thành đạt về văn minh của chúng tôi, thế nhưng chúng tôi cũng tin rằng tất cả mọi người được dựng nên bình đẳng nhau. Chúng tôi tin vào khả năng và khả vọng phổ quát nơi quyền tự do của con người. Chúng tôi tin rằng một số những sự thật luân lý căn bản được hết mọi nơi trên thế giới nhìn nhận. Chúng tôi đồng ý với nhóm triết gia quốc tế nổi tiếng đã giúp vào việc hình thành Bản Tuyên Ngôn Chung Của Liên Hiệp Quốc Về Nhân Quyền vào hậu bán thập niên 1940, cũng là những người đã kết luận rằng có một số ý tưởng luân lý căn bản đã được phổ thông đến nỗi chúng “được coi như thuộc về bản tính của con người là phần tử của xã hội”. Với hy vọng và bằng chứng cớ ấy, chúng tôi đồng ý với Tiến Sĩ Martin Luther King, Jr., là vòng cung của vũ trụ về luân lý thì dài, song nó uốn mình về phía công lý, không phải cho một số nhỏ, hay cho thành phần được hên may, mà là cho tất cả mọi người.

Nhìn vào xã hội riêng của mình, chúng tôi, một lần nữa, công nhận tất cả những khoảng cách quá thường xuyên xẩy ra giữa lý tưởng của chúng tôi với những tác hành của chúng tôi. Thế nhưng, là người Hoa Kỳ trong một thời điểm của chiến tranh và của tình trạng khủng hoảng toàn cầu, chúng tôi cũng nghĩ là những cái tốt nhất, trong những gì chúng tôi có những lúc gọi là “những giá trị của Người Hoa Kỳ”, chẳng những thuộc về Nước Mỹ, mà thật ra còn là một di sản chung của nhân loại, nên nó là nguồn hy vọng khả dĩ cho một cộng đồng quốc tế được xây dựng trong an bình và công lý.

Còn Thiên Chúa thì sao?

TỪ NGÀY 11 THÁNG 9, biết bao nhiêu triệu con người Hoa Kỳ tự hỏi mình và hỏi lẫn nhau là còn Thiên Chúa thì sao? Những cơn khủng hoảng của đám đông này đã buộc chúng tôi phải nghĩ lại về những nguyên tắc đệ nhất này. Khi chúng tôi chứng kiến thấy cảnh rùng rợn của những gì đã xẩy ra, cũng như cái nguy hiểm của những gì có thể xẩy ra, nhiều người trong chúng tôi đã đặt vấn đề là niềm tin tôn giáo có phải là yếu tố giải quyết hay lại là yếu tố gây ra rắc rối?

Những người ký tên vào bức thư ngỏ này thuộc về các truyền thống đạo giáo và luân lý đa diện, kể cả truyền thống bình dân thế tục. Chúng tôi hiệp nhất với nhau trong cùng một niềm tin tưởng là việc nại đến thẩm quyền của Thiên Chúa để sát hại hay đả thương con người là những gì vô luân và phản lại với niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Nhiều người trong chúng tôi tin rằng mình bị Thiên Chúa phán xét. Không một ai trong chúng tôi tin rằng Thiên Chúa đã từng lên tiếng bảo một số người nào đó trong chúng ta đi sát hại hay khống chế những người khác. Thật vậy, một thái độ như vậy, cho dù có được mệnh danh là “thánh chiến” hay “thánh đấu” đi nữa, chẳng những vi phạm đến những nguyên tắc căn bản về công lý, mà thật sự còn phủ nhận niềm tin của đạo giáo nữa, vì nó biến Thiên Chúa thành một thứ ngẫu tượng được dùng vào mục đích riêng tư của con người. Quốc gia của chúng tôi đã hơn một lần xẩy ra một cuộc nội chiến gay go, bên nào cũng cho rằng có Thiên Chúa giúp mình để chống lại bên kia. Trong Bài Diễn Văn Nhậm Chức Lần Hai vào năm 1865, vị tổng thống thứ 10 của Hiệp Chủng Quốc là Abraham Lincoln đã đặt vấn đề một cách giản dị là: “Đấng Toàn Năng có những mục đích riêng của Ngài”.

Những ai tấn công chúng ta vào Ngày 11 Tháng 9 đã công khai tuyên bố rằng họ dấn thân vào một cuộc thánh chiến. Nhiều người ủng hộ hay có cảm tình với những tay tấn công này cũng nhân danh Thiên Chúa và dường như đồng ý với kiểu lập luận về thứ thánh chiến ấy. Thế nhưng, để nhìn nhận cái tàn phá của kiểu suy nghĩ này, là người Hoa Kỳ, chúng tôi chỉ cần nghĩ đến lịch sử của mình cũng như lịch sử tây phương. Những cuộc chiến tranh tôn giáo của Kitô Giáo và cuộc bạo động về giáo phái Kitô Giáo đã xâu xé Âu Châu cả một phần lớn của thế kỷ trước đây. Tại Hiệp Chủng Quốc, chúng ta cũng không xa lạ gì với những người ít là một phần nào đó đã sát nhân nhân danh niềm tin đạo giáo của họ. Một khi sự dữ đặc biệt này xẩy ra thì không có một nền văn minh nào còn tuyền vẹn và không có một truyền thống đạo giáo nào còn tinh tuyền cả.

Con người có một khuynh hướng quen thuộc trong việc đặt vấn đề tìm hiểu. Việc thẩm định, chọn lựa và nại ra những lý do về những gì chúng ta quí giá và yêu thương là những sinh hoạt nổi bật của con người. Một phần trong ước vọng nội tại muốn biết này của con người liên quan đến lý do tại sao chúng ta được sinh ra và những gì xẩy ra khi chúng ta chết đi, những vấn đề đưa chúng ta đến việc tìm kiếm sự thật về những đích điểm tối hậu, mà đối với nhiều người, bao gồm cả vấn đề về Thiên Chúa. Một số người ký tên vào bức thư ngỏ này tin rằng con người tự bản tính là loài có “tín ngưỡng”, ở chỗ, hết mọi người, kể cả những ai không tin vào Thiên Chúa và không tham gia vào một tổ chức tôn giáo nào, thì niềm tin về đạo giáo cũng như các cơ cấu tôn giáo là những nền tảng quan trọng cho xã hội dân sự, thường làm phát sinh cho xã hội những hoa trái phúc hạnh và chữa lành, có những lúc lại làm trổ sinh những hoa trái phân chia và đụng chạm.

Vậy các chính quyền cùng các nhà lãnh đạo xã hội cần phải phản ứng hay nhất ra sao với những thực tại nhân bàn và xã hội sâu xa này? Phản ứng thứ nhất là loại trừ hay dẹp bỏ đạo giáo. Hai là theo chủ trương thế tục không tưởng, tức là theo khuynh hướng mãnh liệt ngờ vực xã hội hay khuynh hướng thù hằn đối với tôn giáo, căn cứ vào cái tiền đề là tôn giáo tự bản chất, nhất là bất cứ hình thức công khai bộc lộ niềm tin tôn giáo, đều là những gì chất chứa rắc rối. Phản ứng thứ ba có thể là theo quốc giáo, tức là niềm tin chỉ có một tôn giáo duy nhất, được cho là tôn giáo chân thật duy nhất, tôn giáo mà tất cả mọi phần tử trong xã hội buộc phải thực sự thuộc về, do đó, họ được chính quyền hoàn toàn hay chú trọng bảo hộ và nâng đỡ.

Chúng tôi không đồng ý với bất cứ phản ứng nào trên đây. Việc cấm đoán theo luật pháp vi phạm trầm trọng đến quyền tự do dân sự và tôn giáo, cũng như không tương hợp với xã hội dân sự dân chủ. Mặc dù chủ trương thế tục không tưởng có thể đã phát triển trong xã hội của chúng tôi nơi các thế hệ gần đây, chúng tôi cũng không đồng ý với nó, vì nó chối bỏ tính cách hợp pháp công khai của một phần quan trọng thuộc xã hội dân sự, cũng như vì nó tìm cách dẹp bỏ hay chối bỏ sự hiện hữu của những gì là chiều kích quan trọng khó chối cãi nhất của chính thân phận làm người. Cho dù quốc giáo đã từng có mặt nơi lịch sử tây phương (tuy không có ở Hoa Kỳ), chúng tôi cũng không đồng ý với điều này, vì cả lý do xã hội lẫn thần học. Về lý do xã hội, việc thiết lập một tôn giáo đặc biệt theo chính quyền có thể tương khắc với nguyên tắc về quyền tự do tôn giáo, một quyền lợi nồng cốt của con người. Thêm vào đó, việc chế ngự của tôn giáo theo chính quyền còn có thể gây ra hay khuấy động những xung khắc về đạo giáo, hơn thế nữa, thậm chí nó còn đe đọa đến sự sống còn và tính cách chuyên chính của các cơ cấu tôn giáo. Về lý do thần học, ngay cả đối với những ai mãnh liệt thâm tín chân lý đức tin của mình, thì việc ép buộc kẻ khác về những vấn đề thuộc lương tâm tôn giáo tự nó là một vi phạm cả thể đến chính tôn giáo, vì nó lấy mất của người khác những gì thuộc về quyền tự do đáp ứng cũng như thuộc về phẩm vị của con người trước lời mời gọi của Đấng Hóa Công.

Hiệp Chủng Quốc hết sức tìm cách trở nên một xã hội mà niềm tin và tự do đồng hành với nhau, cái này thăng hóa cái kia. Chúng tôi là một quốc gia thế tục - các viên chức thuộc chính quyền của chúng tôi không phải là những viên chức đồng tôn giáo - thế nhưng chúng tôi hầu như là một xã hội đạo đức nhất thế giới tây phương. Chúng tôi là một quốc gia hết lòng tôn trọng quyền tự do tôn giáo và tính cách đa diện, bao gồm cả những quyền lợi của những người vô tín ngưỡng, nhưng lại là một quốc gia có những người công dân đọc Lời Hứa Trung Thành với “một quốc gia duy nhất có Chúa trên cao”, và là một quốc gia tuyên xưng nơi nhiều tòa án cùng in ấn trên mỗi một đồng xu của mình lời tâm niệm, “Chúng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa”. Về phương diện chính trị, việc chúng tôi tách biệt giáo hội ra khỏi quốc gia là để giữ cho những vấn đề chính trị ở trong giới hạn thích hợp của nó, một phần là ở chỗ giới hạn quyền lực của quốc gia làm chủ tôn giáo, và phần kia là ở chỗ giúp cho chính chính quyền tìm thấy được tính cách hợp pháp từ, cũng như biết hành sự dưới, chiếc lọng luân lý bao rộng hơn không do chính nó tạo nên. Về phương diện tinh thần, việc chúng tôi tách rời giáo hội ra khỏi quốc gia giúp cho tôn giáo là tôn giáo, ở chỗ tách giáo hội khỏi quyền áp chế của chính quyền. Nói tóm lại, chúng tôi tìm cách phân lìa giáo hội và quốc gia là để bảo vệ cả hai cũng như cho cả hai được sinh động hợp với từng lãnh vực.

Những người Hoa Kỳ sống niềm tin tôn giáo thường cảm thấy khó khăn trước thách đố theo đuổi sự thật tôn giáo và quyền tự do tôn giáo. Chẳng những thế, vấn đề này lại chưa bao giờ được ổn định cả. Sự sắp xếp ấn định về pháp chế và xã hội hầu như đòi phải liên lỉ thận trọng, tranh biện, thích ứng và dung hòa. Vấn đề này cũng được đóng góp bởi, và là những đóng góp làm phát sinh ra, một số những tính chất hay tâm tính, những tính chất hay tâm tính mà các tín hữu đạo hạnh mãnh liệt nắm giữ chân lý niềm tin của mình đồng thời cũng tôn trọng những ai theo một đường lối khác, không phải bằng việc dung hòa chân lý họ tin tưởng mà là một khía cạnh nào đó của chân lý ấy thôi.

Những gì sẽ làm giảm bớt cái vì tôn giáo mà thiếu tin tưởng, hận ghét và bạo lực trong thế kỷ 21 này đây? Dĩ nhiên có nhiều câu trả lời quan trọng cho vấn đề này, thế nhưng, ở đây, chúng tôi nghĩ rằng chỉ có một câu trả lời duy nhất: đó là việc đào sâu và canh tân lòng cảm mến tôn giáo của chúng ta bằng việc nhìn nhận quyền tự do tôn giáo như là một quyền lợi nồng cốt của tất cả mọi người nơi hết mọi quốc gia.

Một Thứ Chiến Tranh Chính Đáng?

CHÚNG TÔI CÔNG NHẬN là tất cả mọi thứ chiến tranh đều ghê sợ, những gì cho thấy cái con người cuối cùng đã thất bại về chính trị. Chúng tôi cũng biết rằng ranh giới phân chia giữa thiện và ác không chạy ngang qua giữa xã hội này với xã hội kia, lại càng không xẩy ra giữa tôn giáo này với tôn giáo khác; thực ra, lằn ranh giới này chạy ngang qua ngay giữa mọi con tim của con người. Sau hết, những người trong chúng tôi đây - Do Thái, Kitô Hữu, Hồi Giáo và những tín đồ khác - thành phần dân của niềm tin nhìn nhận trách nhiệm của mình, đã phát biểu theo các sách thánh của chúng tôi là hãy yêu quí tình thương và làm hết sức mình để ngăn ngừa chiến tranh và sống trong bình an.

Tuy nhiên, lý do và việc suy nghĩ kỹ lưỡng về luân lý cũng đã dạy cho chúng tôi rằng có những lúc việc phản ứng đầu tiên và quan trọng nhất đối với sự dữ là chặn đứng nó lại. Có những lúc việc gây chiến không những được phép làm theo luân lý mà còn cần thiết về luân lý nữa, như là một đáp ứng những hành động bạo lực tác họa, hận thù ghen ghét, và bất công bất chính. Đây là một trong những lúc ấy.

Tư tưởng về một thứ “chiến tranh chính đáng” được bắt nguồn sâu rộng nơi nhiều truyền thống tôn giáo đa diện cũng như truyền thống luân lý thế tục trên thế giới. Chẳng hạn, các giáo thuyết của Do Thái Giáo, Kitô Giáo và Hồi Giáo, tất cả đều có những suy tư nghiêm chỉnh về ý nghĩa của một cuộc chiến tranh chính đáng. Có một số người, thường nhân danh chủ nghĩa thực hữu, tin tưởng chủ trương rằng chiến tranh thực sự chỉ là lãnh vực của tư lợi và nhu cầu, bằng cách cố gắng phân tích luân lý một cách chẳng thích đáng gì cả. Chúng tôi không đồng ý. Tính cách mập mờ về luân lý trước chiến tranh tự nó là một đối kháng luân lý - một chủ trương phủ nhận khả thể của lý trí, chấp nhận tính cách vô chuẩn cứ nơi những sinh hoạt quốc tế, và thụt lùi trước nỗi yếm thế. Việc kiếm cách áp dụng lập luận về luân lý khách quan vào chiến tranh là việc bênh vực khả năng của xã hội dân sự cũng như của cộng đồng thế giới được xây dựng trên công lý.

Những nguyên tắc về chiến tranh chính đáng dạy chúng ta rằng các thứ chiến tranh hung bạo và leo thang là thứ chiến tranh không bao giờ khả chấp. Các thứ chiến tranh như cho vinh quang quốc gia, để rửa hận những lỗi lầm quá khứ, để chiếm cứ lãnh thổ, hay cho bất cứ lý do nào khác không phải để tự vệ đều là những thứ chiến tranh bất hợp pháp.

Cái chính đáng về luân lý chính yếu cho chiến tranh đó là bảo vệ thành phần vô tội khỏi bị thiệt hại. Âu-Quốc-Tinh, trong tác phẩm Thành Đô Thiên Chúa viết từ đầu thế kỷ thứ năm, một đóng góp bổ ích cho việc suy nghĩ về chiến tranh chính đáng, lập luận (âm vang theo Socrates) là cá nhân Kitô hữu thà chịu thiệt hại còn hơn gây ra thiệt hại. Thế nhưng, một con người có trách nhiệm về luân lý có cần phải, thậm chí được phép, thực hiện việc bênh vực những người vô tội khác không phải là bản thân mình chăng? Đối với Âu-Quốc-Tinh, cũng như đối với nhiều truyền thống chiến tranh chính đáng khác, thì câu trả lời là không. Nếu một người có chứng cớ thúc buộc là người vô tội không cách gì bảo vệ được mình sẽ bị hãm hại nặng nề trừ phi buộc phải dùng đến võ lực để ngăn chặn kẻ tấn công, thì nguyên tắc luân lý về tình yêu thương tha nhân đòi chúng ta phải sử dụng võ lực.

Chiến tranh không hợp pháp nếu để chống lại những nguy hiểm nhỏ nhoi, chưa sáng tỏ, hay có hậu quả chưa chắc chắn, hoặc để chống lại những nguy hiểm có thể được giảm thiểu một cách hợp lý, bằng việc chỉ cần thương thảo, kêu gọi hiểu biết, bằng việc thuyết phục của thành phần thứ ba, hay bằng những phương tiện bất bạo động khác. Thế nhưng, nếu sự nguy hiểm gây ra cho mạng sống vô tội lại là một điều có thực và chắc chắn xẩy ra, nhất là nếu kẻ tấn công được thúc đẩy bằng một lòng hận thù bất khả thuyết phục - ở chỗ, mục tiêu của họ nhắm đến không phải là việc chúng ta sẵn sàng thương lượng hay tuân hợp, mà chỉ để tiêu diệt chúng ta - thì theo luân lý, việc sử dụng võ lực tương xứng là điều được phép.

Một chiến tranh chính đáng chỉ có thể thực hiện bởi một thẩm quyền hợp pháp có trách nhiệm với trật tự công cộng mà thôi. Không bao giờ chấp nhận được việc bạo động tùy ý, bạo động thời cơ, hay bạo động cá nhân cả.

Một chiến tranh chính đáng chỉ có thể nổi lên chống lại những kẻ hiếu chiến. Các thẩm quyền về chiến tranh chính đáng suốt giòng lịch sử nhân loại và trên khắp thế giới - cho dù là Hồi Giáo, Do Thái, Kitô Giáo, từ các truyền thống tin tưởng khác, hay từ giới bình dân thế tục - đều đồng thanh dạy chúng ta rằng việc cố ý tấn công không được nhắm vào những ai không phải là thành phần chiến đấu. Mặc dù ở một số trường hợp, và trong những giới hạn chặt chẽ, luân lý có thể cho phép thực hiện những hành động quân sự có thể gây ra tử thương hay bị thương, không cố ý dù có thể thấy trước được, cho một số những người bất tham chiến, nhưng luân lý không chấp nhận lấy việc sát hại những thành phần bất tham chiến làm mục tiêu thực hiện một hành động quân sự.

Những nguyên tắc chiến tranh chính đáng này nọ đều dạy chúng ta rằng, bất cứ khi nào con người có ý chiến tranh hay gây chiến, cả hai đều phải làm sao để có thể và cần phải xác nhận sự thánh hảo của sự sống con người và nắm giữ nguyên tắc về phẩm vị bình đẳng của con người. Những nguyên tắc này, cho dù trong hoạt động chiến tranh thê thảm, cũng cố gắng bảo trì và phản ảnh sự thật nền tảng về luân lý là “những người khác” - những người lạ đối với chúng ta, những người khác với chúng ta về nòi giống hay ngôn ngữ, những người chúng ta cho rằng tôn giáo không chân thực - đều có quyền sống như chúng ta, và cũng có cùng nhân phẩm và nhân quyền như chúng ta.

VÀO NGÀY 11 THÁNG 9 NĂM 2001, có một nhóm người cố ý tấn công Hiệp Chủng Quốc, bằng cách cướp máy bay như khí giới dùng để sát hại trong vòng chưa đầy 2 tiếng đồng hồ 3000 người công dân của chúng tôi ở Thành Phố Nữu Ước, ở phía tây nam tiểu bang Pennsylvania và ở Washington DC. Khủng khiếp nhất là những người bị chết vào Ngày 11 Tháng 9 này đều là thường dân, không phải là thành phần chiến đấu, và những kẻ giết họ đều không hề biết đến họ là ai, ngoại trừ họ là những người Hoa Kỳ. Những người chết vào sáng Ngày 11 Tháng 9 đều bị giết một cách bất hợp pháp, bức hiếp, và bằng một ý đồ xấu xa - một thứ giết chóc mà để nói cho chính xác chỉ có thể được cho là sát nhân. Những người bị sát hại bao gồm thành phần đủ mọi chủng tộc, nhiều người thiểu số, thuộc hầu hết các đạo chính. Họ có cả những người rửa chén và những vị điều hành xí nghiệp.

Những cá nhân nhúng tay vào những hành động chiến tranh này không hành động một mình, hay không phải là không được hỗ trợ, hoặc với những lý do không đâu. Họ là những phần tử của một tổ chức Hồi Giáo Cực Đoan quốc tế, hoạt động cả ở 40 quốc gia, ngày nay được thế giới biết đến dưới tên gọi là Al Qaeda. Về phần mình, nhóm này hợp lại thành một ngành duy nhất từ một phong trào Hồi Giáo cực đoan lớn, phát triển từ nhiều thập niên, và ở vào một số trường hợp, đã được các chính quyền dung dưỡng, thậm chí nâng đỡ, đến nỗi đã công khai tuyên bố ước muốn của mình và thể hiện mỗi ngày một hơn khả năng sử dụng việc sát nhân để đạt mục tiêu của mình.

Chúng tôi sử dụng từ ngữ “Islam” và “Islamic” để chỉ một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, với chừng 1 tỉ 2 trăm triệu tín đồ, bao gồm mấy triệu người là công dân Hoa Kỳ, mà một số bị thảm sát vào Ngày 11 Tháng 9. Điều phải nói không thể nào không nói - nhưng chúng tôi xin nói rõ nơi đây - là đại đa số tín đồ Hồi Giáo trên thế giới, được dẫn dắt một cách sâu rộng theo những giáo huấn của Kinh Koran, đều là những người thành kính, trung thành và an lành. Chúng tôi dùng những chữ “Islamicism” và “radical Islamicist” để chỉ thành phần bạo động, cực đoan, và phong trào tôn giáo chính trị cực đoan bất chấp thủ đoạn là phong trào hiện nay đang đe dọa thế giới, kể cả thế giới Hồi Giáo.

Phong trào cực đoan bạo động này chẳng những chống lại một số chính sách của Hoa Kỳ và tây phương - một số vị ký tên vào bức thư ngỏ này cũng chống lại một số chính sách ấy - mà còn chống lại cả nguyên tắc nồng cốt của thế giới tân tiến nữa, đó là vấn đề chấp nhận tôn giáo, cũng như chống lại các thứ nhân quyền căn bản, nhất là của quyền tự do theo lương tâm và đạo giáo, những gì đã được Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc trân trọng phác họa, những gì phải là nền tảng cho bất cứ một thứ văn minh nào muốn nhắm đến việc phát triển nhân bản, công lý và hòa bình.

Phong trào cực đoan này tự xưng là họ lên tiếng thay cho Hồi Giáo, song lại phản lại những nguyên tắc chính yếu của Hồi Giáo. Hồi Giáo không chấp nhận những hành động gian tà về luân lý. Chẳng hạn như có những vị học giả Hồi Giáo qua các thế kỷ, căn cứ vào giáo huấn của Kinh Koran và gương của Vị Tiên Tri Mohamed, đã dạy rằng cuộc đối chọi theo đường lối của Thiên Chúa (như thứ chiến tranh Hồi Giáo chống lại những kẻ vô đạo) cấm không được cố ý sát hại những người bất tham chiến, và hành động quân sự buộc phải theo lệnh của các thẩm quyền chính thức hợp pháp. Họ mạnh mẽ nhắc nhở chúng ta rằng Hồi Giáo, không kém gì Kitô Giáo, Do Thái Giáo cũng như các tôn giáo khác, bị đe dọa và có thể bị mất giá bởi những kẻ tục hóa này trong việc họ nhân danh Thiên Chúa để thực hiện những việc bừa bãi sát hại con người.

Chúng tôi nhận thấy rằng những phong trào đội lốt tôn giáo này cũng có những dáng vẻ chính trị, xã hội và nhân sinh học phức tạp cần phải thận trọng lưu ý. Ngoài ra, những vấn đề triết học, cùng với thứ triết học sống của phong trào Hồi Giáo cực đoan này, trong việc họ khinh thường sự sống con người, cũng như trong việc họ coi thế giới như là một cuộc đối chọi sống còn giữa người có đạo và kẻ vô đạo (bất kể là những người Hồi Giáo bất cực đoan, Do Thái, Kitô Hữu, Ấn Giáo hay các đạo hữu khác), rõ ràng cho thấy rằng họ chối bỏ phẩm vị bình đẳng của tất cả mọi người, những gì phản lại đạo giáo và chối bỏ chính nền tảng của cuộc sống văn minh và cơ hội tạo lập hòa bình nơi các quốc gia.

Trầm trọng nhất trong vấn đề này đó là cuộc thảm sát bừa bãi vào Ngày 11 Tháng 9, một cuộc thảm sát đã chứng tỏ cho thấy rằng phong trào này hiện nay chẳng những có ý định đã được công khai tuyên bố mà còn có cả khả năng chuyên nghiệp - bao gồm đường lối có thể lẫn ý muốn sử dụng các thứ khí giới hóa học, sinh học và nguyên tử - để thực hiện việc tàn phá bừa bãi khủng khiếp những mục tiêu bị họ muốn nhắm tới.

Những kẻ thảm sát hơn 3000 người vào Ngày 11 Tháng 9, và là những kẻ đã tự nhận là họ muốn tiếp tục tái diễn hành động này, cho thấy một nguy hiểm tỏ tường và hiện hữu đối với tất cả mọi người thiện chí khắp nơi trên thế giới, không riêng gì ở Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Những hành động như vậy là một điển hình cụ thể về việc trắng trợn tấn công mạng sống con người vô tội, là một sự dữ đe dọa cả thế giới, rõ ràng là cần phải sử dụng đến võ lực để loại trừ nó đi.
Những kẻ sát nhân có tổ chức khắp thế giới này giờ đây đang đe dọa tất cả chúng ta. Nhân danh nền luân lý nhân bản chung, cũng như hết sức ý thức về những giới hạn và đòi hỏi của một thứ chiến tranh chính đáng, chúng tôi xin ủng hộ chính quyền và xã hội của chúng tôi trong việc sử dụng võ lực để chống lại họ.

Kết luận

CHÚNG TÔI ĐOAN HỨA THỰC HIỆN tất cả những gì có thể để canh chừng những khuynh hướng tai hại - nhất là những khuynh hướng của kẻ ngạo mạn và thành phần ái quốc quá khích - những khuynh hướng thường làm chủ tình hình nơi những quốc gia đang xẩy ra chiến tranh. Đồng thời chúng tôi cũng long trọng đồng thanh lên tiếng rằng quốc gia của chúng tôi cùng với các đồng minh của nó rất cần phải thắng được cuộc chiến này. Chúng tôi chiến đấu để tự vệ chính mình, nhưng chúng tôi cũng tin rằng chúng tôi còn chiến đấu để bảo vệ những nguyên tắc chung về nhân quyền và nhân phẩm là những gì nhân loại mong mỏi nhất.

Một ngày kia, cuộc chiến tranh này sẽ chấm dứt. Một khi nó chấm dứt - mà về một số khía cạnh nào đó ngay cả trước khi nó chấm dứt - thì công việc quan hệ về vấn đề hòa giải vẫn đang chờ đợi chúng ta. Chúng tôi hy vọng rằng cuộc chiến tranh này, bằng việc ngăn chặn một sự dữ căng thẳng khắp thế giới có thể làm tăng thêm cơ hội cho một cộng đồng thế giới được xây dựng trên công lý. Thế nhưng, chúng tôi biết rằng chỉ có những người xây dựng hòa bình trong số chúng ta nơi tất cả các xã hội mới có thể bảo đảm rằng cuộc chiến tranh này sẽ không trở thành vô ích mà thôi.

Chúng tôi đặc biệt hướng về những người anh chị em của chúng tôi ở các xã hội Hồi Giáo. Chúng ta không phải là kẻ thù của nhau mà là thân hữu với nhau. Chúng ta không được thù địch nhau. Chúng ta có rất nhiều cái giống nhau. Còn rất nhiều việc chúng ta phải cùng nhau thực hiện. Phẩm vị của anh chị em, không thua gì phẩm vị của chúng tôi - các quyền lợi và cơ hội của anh chị em đối với một cuộc sống tốt đẹp, không kém gì của chúng tôi - đó là những gì chúng tôi tin rằng chúng tôi đang vì thế mà chiến đấu. Chúng tôi biết rằng, đối với một số trong anh chị em, chúng tôi không được anh chị em tin tưởng lắm, và chúng tôi cũng biết rằng những người Hoa Kỳ chúng tôi một phần nào phải chịu trách nhiệm về những gì anh chị em mất tin tưởng nơi chúng tôi ấy. Thế nhưng chúng ta không được thù địch nhau. Hy vọng rằng chúng tôi muốn liên kết với anh chị em cũng như tất cả mọi con người thiện chí để xây dựng một nền hòa bình chân chính và vững bền.

Danh Sách Ký Tên

Enola Aird
Director, The Motherhood Project; Council on Civil Society

John Atlas
President, National Housing Institute; Executive Director, Passaic County Legal Aid Society

Jay Belsky
Professor and Director, Institute for the Study of Children, Families and Social Issues, Birkbeck University of London

David Blankenhorn
President, Institute for American Values

David Bosworth
University of Washington

R. Maurice Boyd
Minister, The City Church, New York

Gerard V. Bradley
Professor of Law, University of Notre Dame

Margaret F. Brinig
Edward A. Howry Distinguished Professor, University of Iowa College of Law

Allan Carlson
President, The Howard Center for Family, Religion, and Society

Khalid Durn
Editor, TransIslam Magazine

Paul Ekman
Professor of Psychology, University of California, San Francisco

Jean Bethke Elshtain
Laura Spelman Rockefeller Professor of Social and Political Ethics, University of Chicago Divinity School

Amitai Etzioni
University Professor, The George Washington University

Hillel Fradkin
President, Ethics and Public Policy Center

Samuel G. Freedman
Professor at the Columbia University Graduate School of Journalism

Francis Fukuyama
Bernard Schwartz Professor of International Political Economy, Johns Hopkins University

William A. Galston
Professor at the School of Public Affairs, University of Maryland; Director, Institute for Philosophy and Public Policy

Claire Gaudiani
Senior research scholar, Yale Law School and former president, Connecticut College

Robert P. George
McCormick Professor of Jurisprudence and Professor of Politics, Princeton University

Neil Gilbert
Professor at the School of Social Welfare, University of California, Berkeley

Mary Ann Glendon
Learned Hand Professor of Law, Harvard University Law School

Norval D. Glenn
Ashbel Smith Professor of Sociology and Stiles Professor of American Studies, University of Texas at Austin

Os Guinness
Senior Fellow, Trinity Forum

David Gutmann
Professor Emeritus of Psychiatry and Education, Northwestern University

Kevin J. "Seamus" Hasson
President, Becket Fund for Religious Liberty

Sylvia Ann Hewlett
Chair, National Parenting Association
James Davison Hunter
William R. Kenan, Jr., Professor of Sociology and Religious Studies and Executive Director, Center on Religion and Democracy, University of Virginia

Samuel Huntington
Albert J. Weatherhead, III, University Professor, Harvard University

Byron Johnson
Director and Distinguished Senior Fellow, Center for Research on Religion and Urban Civil Society, University of Pennsylvania

James Turner Johnson
Professor, Department of Religion, Rutgers University
John Kelsay
Richard L. Rubenstein Professor of Religion, Florida State University

Diane Knippers
President, Institute on Religion and Democracy

Thomas C. Kohler
Professor of Law, Boston College Law School

Glenn C. Loury
Professor of Economics and Director, Institute on Race and Social Division, Boston University

Harvey C. Mansfield
William R. Kenan, Jr., Professor of Government, Harvard University

Will Marshall
President, Progressive Policy Institute

Richard J. Mouw
President, Fuller Theological Seminary

Daniel Patrick Moynihan
University Professor, Maxwell School of Citizenship and Public Affairs, Syracuse University

John E. Murray, Jr.
Chancellor and Professor of Law, Duquesne University

Michael Novak
George Frederick Jewett Chair in Religion and Public Policy, American Enterprise Institute

Rev. Val J. Peter
Executive Director, Boys and Girls Town

David Popenoe
Professor of Sociology and Co-Director of the National Marriage Project, Rutgers University

Robert D. Putnam
Peter and Isabel Malkin Professor of Public Policy at the Kennedy School of Government, Harvard University

Gloria G. Rodriguez
Founder and President, AVANCE, Inc.

Robert Royal
President, Faith & Reason Institute

Nina Shea
Director, Freedom´s House´s Center for Religious Freedom

Fred Siegel
Professor of History, The Cooper Union

Theda Skocpol
Victor S. Thomas Professor of Government and Sociology, Harvard University

Katherine Shaw Spaht
Jules and Frances Landry Professor of Law, Louisiana State University Law Center

Max L. Stackhouse
Professor of Christian Ethics and Director, Project on Public Theology, Princeton Theological Seminary

William Tell, Jr.
The William and Karen Tell Foundation

Maris A. Vinovskis
Bentley Professor of History and Professor of Public Policy, University of Michigan

Paul C. Vitz
Professor of Psychology, New York University

Michael Walzer
Professor at the School of Social Science, Institute for Advanced Study

George Weigel
Senior Fellow, Ethics and Public Policy Center

Charles Wilson
Director, Center for the Study of Southern Culture, University of Mississippi

James Q. Wilson
Collins Professor of Management and Public Policy Emeritus, UCLA

John Witte, Jr.
Jonas Robitscher Professor of Law and Ethics and Director, Law and Religion Program, Emory University Law School

Christopher Wolfe
Professor of Political Science, Marquette University

Daniel Yankelovich
President, Public Agenda


Những Biệt Chú
Preamble

--"human beings are born free": From the United Nations Universal Declaration of Human Rights, Article 1.

--"basic subject of society": A Call to Civil Society" (New York: Institute for American Values, 1998), 16; Aristotle, Politics VII, 1-2.

--"Human beings naturally desire to seek the truth": Aristotle, Metaphysics, 1-1; John Paul II, Fides et Ratio, 25 (Vatican City, 1998).

--"Religious freedom": United Nations Universal Declaration of Human Rights, Articles 18-19.

--"Killing in the name of God": Bosphorus Declaration (Istanbul, Turkey, February 9, 1994); Berne Declaration (Wolfsberg/Zurich, Switzerland, November 26, 1992); and John Paul II, Papal Message for World Day of Peace, Articles 6-7 (Vatican City, January 1, 2002).


What are American Values?

--"the head of world infidelity": "Excerpt: Bin Laden Tape," Washington Post, December 27, 2001.

--"briefly mention four of them": See A Call to Civil Society (New York: Institute for American Values, 1998).

--"widely recognized ... as a precondition for other individual freedoms": See John Witte Jr. and M. Christian Green, "The American Constitutional Experiment in Religious Human Rights: The Perennial Search for Principles," in Johan D. van der Vyver and John Witte, Jr. (eds.), Religious Human Rights in Global Perspective, vol. 2 (The Hague: Martinus Nijhoff Publishers, 1996). See also Harold J. Berman, Law and Revolution: The Formation of the Western Legal Tradition (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1983); and Michael J. Perry, The Idea of Human Rights: Four Inquiries (New York: Oxford University Press, 1998).

--"deny the distinctiveness of other cultures": Some people make this point as a way of condemning those "other" cultures that are presumably too inferior, or too enthralled by false beliefs, to appreciate what we in this letter are calling universal human values; others make this point as a way of endorsing (usually one of) those cultures that are presumably indifferent to these values. We disagree with both versions of this point.

--"implicit in man´s nature as a member of society": Richard McKeon, "The Philosophic Bases and Material Circumstances of the Rights of Man," in Human Rights: Comments and Interpretations (London: Wingate, 1949), 45.

--"arch of the moral universe is long, but it bends toward justice": Martin Luther King, Jr., "Where Do We Go From Here?", in James M. Washington (ed.), The Essential Writings and Speeches of Martin Luther King, Jr. (New York: HarperCollins, 1986), 245.

What about God?

--"an idol to be used for man´s own purposes": John Paul II, Papal Message for World Day of Peace, Article 6 (Vatican City, January 1, 2002).

--"no religious tradition is spotless": Intra-Christian examples of holy war or crusade emerged with particular force in Europe during the 17th century. According to some scholars, the principle characteristics of holy war are: that the cause for which the war is fought has a clear connection to religion (i.e., that the cause is "holy"); that the war is fought under the banner and with the presumption of divine authority and assistance (the Latin term used by 11th century Christian crusaders was "Deus Volt," or "God wills it"); that the warriors understand themselves to be godly, or "warrior saints"; that the war is prosecuted zealously and unsparingly, since the enemy is presumed to be ungodly and therefore fundamentally "other," lacking the human dignity and rights of the godly; and finally, that warriors who die in battle are favored by God as martyrs. Eventually, in Christianity, the development of just war doctrine, with its emphasis on moral universalism, largely called for the elimination of religion as a just cause for war. As early as the 16th century, some natural law theorists such as Franciscus de Victoria and Francisco Suarez were explicitly condemning the use of war to spread religion. "Difference in religion," Victoria wrote, "is not a cause of just war." See James Turner Johnson, Ideology, Reason, and the Limitation of War: Religious and Secular Concepts 1200 - 1740 (Princeton: Princeton University Press, 1975), 112-123, 154. See also Roland H. Bainton, Christian Attitudes Toward War and Peace: A Historical Survey and Critical Re-evaluation (Nashville: Abingdon, 1960), 148.

--"characteristically human activities": A Call to Civil Society (New York: Institute for American Values, 1998): 16. This theme is developed in Aristotle, Metaphysics, 1-1; Bernard J. Lonergan, Insight: A Study of Human Understanding (New York: Longmans, 1958); and others.

--"embrace an ideological secularism": We wish here to distinguish "secular" from "secularism." Secular, derived from the Latin term meaning "world" and suggesting "in the world," refers merely to functions that are separate from the church. Secularism, by contrast, is a philosophy, an "ism," a way of seeing the world based on rejection of religion or hostility to religion.

--"an important dimension of personhood itself": For this reason, advocates of secularism may underestimate the degree to which human societies, even in theory, can simply dispense with "religion." Moreover, they almost certainly miscalculate, even accepting many of their own premises, the social consequences of suppressing traditional religion. For if we understand religion to be values of ultimate concern, the 20th century saw two world-threatening examples - Nazism in Germany, and communism in the Soviet Union - of the emergence of secular religions, or what might be called replacement religions, each violently intent on eliminating its society´s traditional religious faiths (in effect, its competitor faiths), and each, when in power, ruthlessly indifferent to human dignity and basic human rights.

--"separate church and state for the protection and proper vitality of both": As the leaders and scholars who produced The Williamsburg Charter put it in 1988, "the government acts as a safeguard, but not the source, of freedom for faiths, whereas the churches and synagogues act as a source, but not the safeguard, of faiths for freedom ... The result is neither a naked public square where all religion is excluded, nor a sacred public square with any religion established or semi-established. The result, rather, is a civil public square in which citizens of all religious faiths, or none, engage one another in the continuing democratic discourse."

See James Davison Hunter and Os Guinness (eds.), Articles of Faith, Articles of Peace: The Religious Liberty Clauses and the American Public Philosophy (Washington, D.C.: The Brookings Institution, 1990), 140.

--"moral canopy that is not of its own making": A Call to Civil Society (New York: Institute for American Values, 1998): 13.

A Just War?


--"middle of every human heart": see Alexander Solzhenitzyn, The Gulag Archipelago, vol. I (New York: Harper and Row, 1974), 168.

--"diverse religious and secular moral traditions": See Jean Bethke Elshtain (ed.), Just War Theory (Oxford: Blackwell, 1992); Elshtain, Stanley Hauerwas, and James Turner Johnson, Pew Forum on Religion and Public Life Conference on "Just War Tradition and the New War on Terrorism" (http://pewforum.org/events/1005/); James Turner Johnson, Ideology, Reason, and the Limitation of War: Religious and Secular Concepts 1200 - 1740 (Princeton: Princeton University Press, 1975); Johnson, Just War Tradition and the Restraint of War: A Moral and Historical Inquiry (Princeton: Princeton University Press, 1981); Johnson, The Quest for Peace: Three Moral Traditions in Western Cultural History (Princeton: Princeton University Press, 1987); Johnson, Morality and Contemporary Warfare (New Haven: Yale University Press, 1999); Johnson and John Kelsay (eds.), Cross, Crescent, and Sword: The Justification and Limitation of War in Western and Islamic Tradition (New York: Greenwood Press, 1990); Majid Khadduri, War and Peace in the Law of Islam (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1955); John Kelsay and James Turner Johnson (eds.), Just War and Jihad: Historical and Theoretical Perspectives on War and Peace in Western and Islamic Tradition (New York: Greenwood Press, 1991); Terry Nardin (ed.), The Ethics of War and Peace: Religious and Secular Perspectives (Princeton: Princeton University Press, 1996); William V. O´Brien, The Conduct of War and Limited War (New York: Praeger, 1981); Rudolf Peters, Jihad in Classical and Modern Islam (Princeton: Markus Wiener, 1996); Paul Ramsey, Speak Up for Just War or Pacifism (University Park, PA: Pennsylvania State University Press, 1988); Michael Walzer, Just and Unjust Wars (New York: Basic Books, 1977); and Richard Wasserstrom (ed.), War and Morality (Belmont, CA: Wadsworth, 1970).

--"attempts at moral analysis irrelevant": The Latin axiom is: Inter arma silent leges (In times of war the law is silent). Classical exemplars of this perspective include Thucydides, Niccolo Machiavelli and Thomas Hobbes; for a more recent treatment, see Kenneth Waltz, Man, the State and War (Princeton: Princeton University Press, 1978). For a sensitive but critical survey of the contribution of this school of thought to international theory, see Jack Donnelly, Realism and International Relations (Cambridge: Cambridge University Press, 2000).
--"We disagree": Intellectual and moral approaches to war as a human phenomenon can generally be divided into four schools of thought. The first can be called realism: the belief that war is basically a matter of power, self-interest, necessity, and survival, thereby rendering abstract moral analysis largely beside the point. The second can be called holy war: the belief that God can authorize the coercion and killing of nonbelievers, or that a particular secular ideology of ultimate concern can authorize the coercion and killing of nonbelievers. The third can be called pacifism: the belief that all war is intrinsically immoral. And the fourth is typically called just war: the belief that universal moral reasoning, or what some would call natural moral law, can and should be applied to the activity of war. The signatories to this letter largely disagree with the first school of thought. We unequivocally reject the second school of thought, regardless of the form it takes, or whether it springs from and purports to support our own society ("our side") or the side of those who wish us ill. Some of the signatories have much respect for the third school of thought (particularly its insistence that non-violence does not mean retreat or passivity or declining to stand for justice; quite the opposite), even as we respectfully, and with some degree of fear and trembling, differ from it. As a group we seek largely to embrace and build upon the fourth school of thought.

--"(echoing Socrates)": Socrates´ judgment that it is better to suffer evil rather than to do it is conveyed to us by Plato in the Apology (32-c to 32-e) and constitutes a key moment in moral philosophy.

--"might plausibly be mitigated solely through ... non-violent means": Some people suggest that the "last resort" requirement of just war theory -- in essence, the requirement to explore all other reasonable and plausible alternatives to the use of force -- is not satisfied until the resort to arms has been approved by a recognized international body, such as the United Nations. This proposition is problematic. First, it is novel; historically, approval by an international body has not been viewed by just war theorists as a just cause requirement. Second, it is quite debatable whether an international body such as the U.N. is in a position to be the best final judge of when, and under what conditions, a particular resort to arms is justified; or whether the attempt by that body to make and enforce such judgments would inevitably compromise its primary mission of humanitarian work. According to one observer, a former U.N. Assistant Secretary-General, transforming the U.N. into "a pale imitation of a state" in order to "manage the use of force" internationally "may well be a suicidal embrace." See Giandomenico Picco, "The U.N. and the Use of Force," Foreign Affairs 73 (1994): 15. See also Thomas G. Weis, David P. Forsythe, and Roger A. Coate, United Nations and Changing World Politics (Boulder, CO: Westview Press, 2001), 104-106; and John Gerard Ruggie, The United Nations and the Collective Use of Force: Whither? Or Whether? (New York: United Nations Association of the USA, 1996).

--"Violence that is free-lance ... is never morally acceptable": In just war theory, the main goal of the legitimate authority requirement is to prevent the anarchy of private warfare and warlords -- an anarchy that exists today in some parts of the world, and of which the attackers of September 11 are representative embodiments. The legitimate authority requirement does not, on the other hand, for several reasons, apply clearly or directly to wars of national independence or succession. First, these latter types of conflict occur within a state, not internationally. Moreover, in many such conflicts, the question of public legitimacy is exactly what is being contested. For example, in the war for independence that resulted in the founding of the United States, just war analysts frequently point out that the rebelling colonies themselves constituted a legitimate public authority, and further that the colonies had reasonably concluded that the British government had, in the words of our Declaration of Independence, become "destructive of these ends" of legitimate government, and therefore itself had ceased to function as a competent public authority. Indeed, even in cases in which those waging war do not in any plain sense constitute a currently functioning public authority -- for example, the "Warsaw Ghetto Uprising" of Polish Jews in 1943 against the Nazi occupation -- the legitimate authority requirement of just war theory does not morally invalidate the resort to arms by those resisting oppression by seeking to overthrow illegitimate authority.

--"other just war principles": For example, just war principles often insist that legitimate warfare must be motivated by the intention of enhancing the likelihood of peace and reducing the likelihood of violence and destruction; that it must be proportionate, such that the social goods that would result from victory in war discernably outweigh the evils that will attend the war; that it must contain the probability of success, such that lives are not taken and sacrificed in futile causes; and that it must pass the test of comparative justice, such that the human goods being defended are important enough, and gravely enough in danger, to outweigh what many just war theorists view as the standing moral presumption against war. This letter focuses largely on principles of justice in declaring war (in the terminology employed by many Christian just war thinkers, jus ad bellum) and in waging war (jus in bello). Other principles focus on justice in settling the war and restoring conditions of peace (jus post bellum). See Jean Bethke Elshtain (ed.), Just War Theory (Oxford: Blackwell, 1992); U.S. Conference of Catholic Bishops, The Challenge of Peace: God´s Promise and Our Response (Washington, D.C.: United States Catholic Conference, 1983); and other sources cited above.

--"over 3,000 of our citizens": As of January 4, 2002, official estimates were that 3,119 persons had been killed by the September 11 attackers, including 2,895 in New York, 184 in Washington, and 40 in Pennsylvania. Although this letter refers to "our citizens," included among those murdered on September 11 were many citizens of other countries who were living in the U.S. at the time of the attack. "Dead and Missing," New York Times, January 8, 2002.

--"use murder to advance its objectives": In addition to the murders of September 11, members of radical Islamicist organizations are apparently responsible for: the April 18, 1983 bombing of the U.S. Embassy in Beirut, killing 63 persons and injuring 120; the October 23, 1983 bombings of U.S. Marine and French paratroop barracks in Beirut, killing 300 persons; the December 21, 1988 bombing of U.S. Pan Am Flight 103, killing 259 persons; the February 26, 1993 bombing of the World Trade Center in New York City, killing six persons and injuring 1000; the June 25, 1996 bombing outside the Khobar Towers U.S. military barracks in Dhahran, Saudi Arabia, killing 19 U.S. soldiers and wounding 515; the August 7, 1998 bombing of U.S. embassies in Nairobi, Kenya, and Dar es Salaam, Tanzania, killing 224 persons and injuring more than 5,000; and the October 12, 2000 bombing of the USS Cole in Aden, Yemen, killing 17 U.S. sailors and wounding 39. This list is incomplete. (See Significant Terrorist Incidents, 1961-2001 (Washington, D.C.: U.S. Department of State, Bureau of Public Affairs, October 31, 2001). In addition, members of organizations comprising this movement are also responsible for numerous failed attempts at mass murder, both in the U.S. and in other countries, including the attempt to bomb the United Nations and the Lincoln and Holland Tunnels in New York in 1993 and the attempt to bomb the Los Angeles International Airport on New Year´s Eve 2000.

--"struggle in the path of God (i.e., jihad) forbids": The relationship between the jihad and just war traditions is complex. Premodern jihad and just war perspectives overlapped in important ways. Both could legitimate wars aimed at advancing religion, and both sought clearly to disassociate such wars from wars involving indiscriminate or disproportionate tactics. In the modern era, jihad has largely retained its confessional component -- that is, its aim of protecting and propagating Islam as a religion. The confessional dimension of jihad thinking in turn seems to be closely linked to the view of the state widely held by Muslim authorities -- a view that envisions little or no separation of religion from the state. By contrast, modern Christian thinking on just war has tended to downplay its confessional elements (few Christian theologians today emphasize the value of "crusade"), replacing them with more religiously neutral arguments about human rights and shared moral norms, or what some Christian and other thinkers term "natural moral law." Some Muslim scholars today seek, in the case of jihad, more fully to recover the sense of the term as "exertion" or "striving for good" in the service of God, thereby similarly downplaying its confessional elements and emphasizing, for our increasingly plural and interdependent world, the term´s more universal dimensions and applications. For example, see Sohail M. Hashmi, "Interpreting the Islamic Ethics of War and Peace," in Terry Nardin (ed.), The Ethics of War and Peace: Religious and Secular Perspectives (Princeton, NJ: Princeton University Press, 1996), 146-166; and Hilmi Zawati, Is Jihad a Just War? War, Peace, and Human Rights under Islamic and Public International Law (Lewiston, NY: Edwin Mellen, 2001).

--"Muslim scholars ... remind us forcefully": For example, Muslim scholars affiliated with the Muslim World League, meeting in Mecca, recently reaffirmed that jihad strictly prohibits "the killing of noncombatants" and attacks against "installations, sites and buildings not related to the fighting." See "Muslim scholars define ´terrorism´ as opposed to legitimate jihad," Middle East News Online [www.middleeastwire.com], posted January 14, 2002. See also Bassam Tibi, "War and Peace in Islam," in Terry Nardin (ed.), The Ethics of War and Peace: Religious and Secular Perspectives (Princeton, NJ: Princeton University Press, 1996), 128-145.

--"devastation on its intended targets": The historian Eric Hobsbawm, in his study of the 20th century, published in 1995, warns us in particular, as we confront the new millennium, of the emerging crisis of "non-state terrorism," made possible by the growing "privatization of the means of destruction," such that organized groups, operating at least to some degree independently of public authorities, are increasingly willing and able to perpetrate "violence and wreckage anywhere on the globe." Eric Hobsbawm, Age of Extremes: The Short Twentieth Century 1914-1991 (London: Abacus, 1995), 560.

Conclusion

--"but friends. We must not be enemies": From Abraham Lincoln, First Inaugural Address, March 1861.