Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Newman and the New Ultramontanism”, nghĩa là “Thánh Newman và Chủ nghĩa suy tôn Giáo Hoàng cực đoan mới”.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Đầu tiên là tin tốt.
Newman là một trong những bộ óc Kitô sáng tạo nhất của thế kỷ 19, một người tìm kiếm chân lý, người mà cuộc hành trình suốt đời tìm kiếm dung mạo Chúa Kitô đã đưa ngài từ phong trào Tin Lành qua Anh giáo cải cách, rồi đến Công Giáo. Trên con đường đôi khi gập ghềnh đó, Newman bị hiểu lầm và vu khống, thất vọng vì bộ máy quan liêu của giáo hội và bị bủa vây bởi sự đố kỵ của hàng giáo sĩ.
Tuy nhiên, những thăng trầm của cuộc đời đã dẫn dắt ngài viết nên một số cuốn sách có ý nghĩa quan trọng nhất thời bấy giờ, những tác phẩm vẫn giữ được sức hút sau một thế kỷ rưỡi: Apologia Pro Vita Sua hay Biện Hộ Đời Tôi (cùng với cuốn Tự Thú - Confessions của Augustinô, một trong những cuốn tự truyện Kitô giáo vĩ đại); The Idea of a University (ý tưởng về một trường đại học), là tài liệu bắt buộc đọc đối với những người làm việc tại các cơ sở giáo dục đại học tự nhận là Công Giáo; và An Essay in Aid of a Grammar of Assent – Tiểu Luận Hỗ Trợ Ngữ Pháp Của Sự Đồng Ý (một kiệt tác về cả triết học và tâm lý học đức tin). Các bài giảng giáo xứ và bình dân của ngài là những viên ngọc quý về cả nghệ thuật giảng thuyết và văn phong, còn các lời cầu nguyện, câu thơ và lòng sùng kính của ngài là những bài đọc tâm linh phong phú.
Và rồi còn có cuốn “Luận về Sự Phát triển của Giáo lý Kitô giáo”. Lời giải thích xuất sắc này về cách giáo lý phát triển tự nhiên từ bên trong, mà không hề thay thế hay bóp méo chân lý của mặc khải Kinh Thánh hay truyền thống Kitô giáo, đã đưa Newman đến sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo và hơn thế nửa. Trong thế kỷ sau khi xuất bản năm 1845, Cuốn “Luận về” đã góp phần tạo nên những điều kiện thần học cho khả năng áp dụng giáo huấn của Công đồng Vatican II về Giáo hội, về mặc khải thần linh, về tự do tôn giáo, về đại kết, và về các vấn đề Giáo hội và Nhà nước.
Hơn nữa, tiêu chuẩn của Newman để phân biệt sự phát triển thực sự của giáo lý với những sự phá vỡ sai lầm với truyền thống vẫn là một sự bác bỏ mạnh mẽ đối với những người cho rằng, tại Công đồng Vatican II, Giáo hội đã trải qua một “sự thay đổi mô hình”. Đối mặt với quan niệm đó, tôi tin rằng Tiến sĩ Hội Thánh mới nhất của chúng ta sẽ trả lời (với sự tao nhã hơn tôi có thể nghĩ ra) rằng những tuyên bố như vậy thể hiện sự thiếu hiểu biết về “sự thay đổi mô hình” là gì, sự thiếu hiểu biết về cách giáo lý phát triển, hoặc cả hai.
Tuy nhiên, bất chấp tất cả những điều đó, ngày nay, ngài là một tiêu chuẩn của chính thống giáo Công Giáo, vào thời của mình, Newman đã bị những người theo Chủ nghĩa suy tôn Giáo Hoàng cực đoan(ultramontanist) thế kỷ 19 nghi ngờ sâu sắc nhất, những người có quan điểm mở rộng một cách phi lý về sự bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng có xu hướng biến Đức Giáo Hoàng thành một nhà tiên tri nói ra sự thật được bảo đảm bởi thần thánh về hầu như mọi chủ đề. Sự hiểu biết chính xác hơn nhiều của Newman về cả thực tế và giới hạn của sự bất khả ngộ của Giáo hoàng đã giành chiến thắng tại Công đồng Vatican I nhưng lại làm trầm trọng thêm mối quan hệ của ngài với người Anh cũng cải đạo, Hồng Y Henry Edward Manning, một lãnh đạo của phe tôn sùng Giáo hoàng. Tuy nhiên, chính Newman, chứ không phải Manning, trong Bức thư gửi Công tước Norfolk, đã đưa ra lời biện hộ thuyết phục nhất tại Vương quốc Anh về những gì Vatican I đã dạy về Giáo hoàng và chức vụ Giáo hoàng.
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã dập tắt chiến dịch chống Newman của những người theo chủ nghĩa suy tôn Giáo Hoàng cực đoan bằng cách tấn phong Newman làm Hồng Y, một trong những hành động lịch sử đầu tiên của một trong những triều Giáo Hoàng quan trọng nhất trong nhiều thế kỷ. Do đó, thật là chính đáng khi Đức Lêô mới, vị giáo hoàng thứ mười bốn mang tên này, tuyên bố Newman là Tiến sĩ Hội Thánh (mặc dù tôi có thể kể lại rằng Đức Gioan Phaolô II đã nói trong bữa tối vào tháng 12 năm 1997 rằng ngài hy vọng Newman sẽ trở thành Tiến sĩ Hội Thánh một ngày nào đó, một quan điểm chắc chắn được Đức Bênêđictô XVI chia sẻ).
Điều trớ trêu khi Newman được trao tặng vinh dự hiếm có này ngay lúc này nằm ở chỗ sự hiệp nhất của Giáo hội đang bị đe dọa bởi chủ nghĩa cực đoan đang trỗi dậy: không phải mô hình phản động cũ của thế kỷ 19, mà là một mô hình lai mới kết hợp chủ nghĩa tiến bộ Công Giáo trong lĩnh vực tư tưởng với chủ nghĩa chuyên chế tự do trong quản lý Giáo hội.
Đây là kiểu chủ nghĩa cực đoan khiến các nhà bình luận mô tả những bất đồng đáng tôn trọng với các khía cạnh trong giáo lý của Đức Giáo Hoàng Phanxicô như những gì “không chỉ là sự bất đồng quan điểm mà còn là sự thù địch đối với giáo huấn của Đức Cố Giáo Hoàng”. Lời buộc tội lố bịch đó - thực ra là một lời vu khống - không phải là hiếm trong mười hai năm qua; liệu đó có phải là một yếu tố vào tháng 8 vừa qua khi ba giảng viên lỗi lạc bị cách chức khỏi vị trí của họ tại Đại Chủng viện Thánh Tâm ở Detroit không?
Dù sao đi nữa, chủ nghĩa cực đoan cấp tiến cũng giống như tiền thân phản động của nó ở chỗ nó cố gắng củng cố những lập luận yếu kém bằng cách kêu gọi thẩm quyền của giáo hoàng.
Những người theo Chủ nghĩa suy tôn Giáo Hoàng cực đoanmới có thể tàn bạo như những người theo Chủ nghĩa suy tôn Giáo Hoàng cực đoancũ và sự đàn áp của họ đối với thần học khám phá, một thực hành làm tê liệt trí tuệ và chia rẽ Giáo hội đã bị chỉ trích mạnh mẽ tại Công đồng Vatican II. Thánh John Henry Newman, Tiến sĩ Hội Thánh, đã vô cùng khó chịu trước Chủ nghĩa suy tôn Giáo Hoàng cực đoancũ. Chắc chắn ngài sẽ lên án một cách tinh tế hình ảnh phản chiếu của nó trong thế kỷ 21.
Source:First Things