1. Đức Tổng Giám Mục Broglio than thở về việc hủy bỏ hợp đồng xây dựng nhà nguyện của Quân đội Hoa Kỳ

Đức Tổng Giám Mục phụ trách Quân đội Timothy Broglio bày tỏ lo ngại về việc Quân đội Hoa Kỳ hủy bỏ một số hợp đồng nhà nguyện, ngài cảnh báo rằng điều này “gây tổn hại không cân xứng cho người Công Giáo”.

Trong một lá thư mục vụ cũng được gửi tới tất cả các thành viên của Quốc hội, Broglio viết rằng nhiều người trong Quân đội tham dự Thánh lễ và tham gia vào việc đào tạo đức tin có thể đã nhận thấy “các buổi lễ theo hợp đồng và văn phòng của nhà thầu tối om và không có nhạc trong Thánh lễ” bắt đầu từ ngày 5 tháng 10 năm 2025.

Ngài cho biết đây không phải là kết quả của việc chính phủ đóng cửa trong 16 ngày, mà là do quyết định của Bộ chỉ huy quản lý cơ sở quân đội Hoa Kỳ về việc hủy bỏ mọi hợp đồng nhà nguyện dành cho Điều phối viên giáo dục tôn giáo, gọi tắt là CRE, Điều phối viên đời sống mục vụ Công Giáo, gọi tắt là CPLC và hợp đồng âm nhạc trong quân đội.

Đức Cha Broglio viết rằng những hợp đồng dành cho nhạc sĩ, quản trị viên và nhà giáo dục tôn giáo này “phục vụ cho cộng đồng đức tin tại các nhà nguyện quân đội” và rất cần thiết để hỗ trợ các linh mục tuyên úy Công Giáo trong nhiệm vụ của họ.

Ngài nhấn mạnh rằng Tổng giáo phận quân đội “đặc biệt phụ thuộc vào các kỹ năng chuyên môn và đào tạo thần học của các CRE, những người dưới sự hướng dẫn của linh mục, giám sát các nhu cầu hàng ngày về giáo dục tôn giáo, phối hợp đào tạo chứng chỉ giáo lý viên cho hàng ngàn nam nữ tình nguyện làm giáo lý viên, và bảo đảm rằng các tài liệu phù hợp được chuẩn bị và mua sắm.”

Đức Tổng Giám Mục Broglio nhận định rằng: “Bằng việc hủy bỏ những hợp đồng này, Quân đội đã gây gánh nặng cho các giáo sĩ Công Giáo, gây tổn hại cho cộng đồng nhà nguyện và cản trở sự bảo đảm theo hiến pháp về quyền tự do thực hành tôn giáo, đặc biệt là đối với người Công Giáo”.

“Việc hủy bỏ hợp đồng nhà nguyện có vẻ như là một sự loại bỏ trung lập đối với việc hỗ trợ nhà nguyện, điều này tự nó ảnh hưởng đến quyền tự do thực hành tôn giáo của tất cả binh lính,” ngài nói. “Tuy nhiên, hành động này gây tổn hại không cân xứng cho người Công Giáo, thứ nhất, vì mật độ tuyên úy Công Giáo vốn đã rất thấp và nhu cầu lại rất cao, và thứ hai, vì đức tin Công Giáo đòi hỏi việc giáo dục tôn giáo liên tục và chuẩn bị các bí tích, mà chỉ có thể đạt được thông qua sự hỗ trợ có năng lực.”

Đức Tổng Giám Mục Broglio trích dẫn một báo cáo của RAND cho biết, “Cứ 1.000 binh lính Tin lành thì có khoảng sáu tuyên úy Tin lành và cứ 1.000 binh lính Công Giáo thì có khoảng một tuyên úy Công Giáo.”


Source:Catholic News Agency

2. Bài Giảng của Đức Thánh Cha trong thánh lễ tôn phong hiển thánh cho 7 vị

Lúc 10 giờ 30 sáng Chúa nhật, ngày 19 tháng Mười năm 2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chủ sự thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô, với nghi thức tôn phong bảy chân phước lên bậc hiển thánh, trước sự tham dự của khoảng bảy mươi ngàn tín hữu, cùng với hơn bốn mươi Hồng Y, giám mục và sáu trăm linh mục đồng tế.

Ngoài ra, có sự hiện diện phái đoàn chính thức các nước có các vị thánh mới, trong đó có Tổng thống Sergio Mattarella và ông Fontana Chủ tịch Hạ viện Ý. Phái đoàn Tổng thống Liban và các phái đoàn chính thức.

Đây là lễ phong hiển thánh thứ hai Đức Thánh Cha Lêô chủ sự, sau lễ phong hai thánh trẻ Pier Giorgio Frassati và Carlo Acutis, hôm Chúa nhật ngày 07 tháng Chín vừa qua.

Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến,

Chúng ta hãy bắt đầu bài suy niệm bằng câu hỏi kết thúc Tin Mừng vừa được công bố: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy đức tin trên mặt đất này nữa không?” (Lc 18:8). Câu hỏi này cho chúng ta thấy điều quý giá nhất trong mắt Chúa: đức tin, tức là mối dây liên kết tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Hôm nay, chúng ta có bảy chứng nhân, những vị Thánh mới, những người, nhờ ơn Chúa, đã giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng. Thật vậy, chính các ngài đã trở thành những ngọn đèn có khả năng lan tỏa ánh sáng của Chúa Kitô.

Khi chúng ta chiêm ngưỡng những kho tàng vật chất, văn hóa, khoa học và nghệ thuật vĩ đại, đức tin tỏa sáng không phải vì những của cải này bị đánh giá thấp, mà vì nếu không có đức tin, chúng sẽ mất đi ý nghĩa. Mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa là vô cùng quan trọng, bởi vì từ thuở ban đầu, Người đã tạo dựng muôn vật từ hư vô, và đến tận thế, Người sẽ cứu vớt những sinh linh phàm trần khỏi hư vô. Như thế, một thế giới không có đức tin sẽ tràn ngập những đứa con sống không có Cha, tức là những tạo vật không có ơn cứu độ.

Vì lý do này, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đặt câu hỏi về đức tin: nếu đức tin biến mất khỏi thế gian, điều gì sẽ xảy ra? Trời đất vẫn như xưa, nhưng niềm hy vọng trong lòng chúng ta sẽ không còn nữa; tự do của mỗi người sẽ bị cái chết đánh bại; khát vọng sống của chúng ta sẽ tan thành hư vô. Không có đức tin vào Thiên Chúa, chúng ta không thể hy vọng vào ơn cứu độ. Câu hỏi của Chúa Giêsu có thể làm chúng ta bối rối, nhưng chỉ khi chúng ta quên rằng chính Chúa Giêsu là người đặt ra câu hỏi đó. Thật vậy, lời Chúa luôn là “Tin Mừng”, lời loan báo đầy hân hoan về ơn cứu độ. Ơn cứu độ này là món quà sự sống đời đời mà chúng ta nhận được từ Chúa Cha, qua Chúa Con, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Các bạn thân mến, chính vì lý do này mà Chúa Kitô nói với các môn đệ của Người về “sự cần thiết phải cầu nguyện luôn, và đừng nản lòng” (Lc 18:1). Cũng như chúng ta không bao giờ mệt mỏi khi thở, chúng ta cũng đừng bao giờ mệt mỏi khi cầu nguyện! Cũng như hơi thở duy trì sự sống của thân xác, lời cầu nguyện cũng duy trì sự sống của linh hồn: đức tin, thực sự, được thể hiện trong lời cầu nguyện, và lời cầu nguyện đích thực sống nhờ đức tin.

Chúa Giêsu cho chúng ta thấy mối liên hệ này bằng một dụ ngôn: một vị thẩm phán vẫn điếc trước những lời khẩn cầu khẩn thiết của một góa phụ, nhưng cuối cùng sự kiên trì của bà đã dẫn ông đến hành động. Thoạt nhìn, sự kiên trì đó trở thành một ví dụ tuyệt đẹp về hy vọng, đặc biệt là trong những lúc thử thách và đau khổ. Tuy nhiên, sự kiên trì của người phụ nữ và vị thẩm phán, người hành động miễn cưỡng, đã mở đường cho một câu hỏi đầy khiêu khích từ Chúa Giêsu: Chẳng lẽ Thiên Chúa, Cha nhân lành, lại không “xét xử công minh cho những kẻ Người tuyển chọn, ngày đêm kêu cầu Người sao?” (Lc 18:7).

Chúng ta hãy để những lời này vang vọng trong lòng mình: Chúa đang hỏi chúng ta rằng liệu chúng ta có tin rằng Thiên Chúa là vị thẩm phán công minh đối với tất cả mọi người hay không. Chúa Con hỏi chúng ta rằng liệu chúng ta có tin rằng Chúa Cha luôn muốn điều tốt lành cho chúng ta và ơn cứu rỗi cho mọi người hay không. Về điểm này, có hai cám dỗ thử thách đức tin của chúng ta: cám dỗ thứ nhất lấy sức mạnh từ sự ô nhục của sự dữ, khiến chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa không lắng nghe tiếng kêu than của những người bị áp bức và không thương xót những người vô tội đang đau khổ. Cám dỗ thứ hai là lời khẳng định rằng Thiên Chúa phải hành động theo ý muốn của chúng ta: lời cầu nguyện sau đó nhường chỗ cho một mệnh lệnh với Thiên Chúa, dạy Người cách sống công bằng và hiệu quả.

Chúa Giêsu, chứng nhân hoàn hảo của lòng tin tưởng con thảo, giải thoát chúng ta khỏi cả hai cám dỗ. Chính Người là Đấng vô tội, đặc biệt trong Cuộc Khổ Nạn, đã cầu nguyện như thế này: “Lạy Cha, xin cho ý Cha được thể hiện” (x. Lc 22:42). Chúa Giêsu cũng ban cho chúng ta những lời này trong Kinh Lạy Cha. Chúng ta hãy nhớ rằng bất cứ điều gì xảy đến với chúng ta, Chúa Giêsu đã phó thác chính mình như Chúa Con cho Chúa Cha. Vì vậy, chúng ta là anh chị em trong danh Người, để chúng ta có thể tuyên xưng: “Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, thật là chính đáng, là bổn phận và là ơn cứu độ của chúng ta, luôn luôn và mọi nơi, chúng ta tạ ơn Chúa, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta” (Kinh Nguyện Thánh Thể II, Lời Tiền Tụng).

Lời cầu nguyện của Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa ban công lý cho tất cả mọi người, hiến mạng sống mình cho tất cả. Vì vậy, khi chúng ta kêu lên Chúa: “Chúa ở đâu?”, chúng ta hãy biến lời kêu cầu này thành một lời cầu nguyện, và khi đó chúng ta sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa hiện diện nơi những người vô tội đang đau khổ. Thập giá của Chúa Kitô mặc khải công lý của Thiên Chúa, và công lý của Thiên Chúa là sự tha thứ. Người nhìn thấy sự dữ và cứu chuộc nó bằng cách gánh lấy nó trên mình. Khi chúng ta bị “đóng đinh” bởi đau khổ và bạo lực, bởi hận thù và chiến tranh, Chúa Kitô đã ở đó, trên thập giá vì chúng ta và với chúng ta. Không có tiếng kêu nào mà Thiên Chúa không an ủi; không có giọt nước mắt nào xa rời trái tim Người. Chúa lắng nghe chúng ta, ôm lấy chúng ta như chúng ta là, và biến đổi chúng ta như Người là. Tuy nhiên, những ai chối bỏ lòng thương xót của Thiên Chúa thì cũng không có khả năng thương xót tha nhân. Những ai không đón nhận hòa bình như một món quà sẽ không biết cách trao ban hòa bình.

Các bạn thân mến, giờ đây chúng ta hiểu rằng những câu hỏi của Chúa Giêsu là một lời mời gọi mạnh mẽ hướng đến hy vọng và hành động: khi Con Người đến, liệu Người có tìm thấy đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa không? Thật vậy, chính đức tin này nâng đỡ cam kết của chúng ta đối với công lý, chính bởi vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã cứu thế giới bằng tình yêu, giải thoát chúng ta khỏi chủ nghĩa định mệnh. Khi nghe tiếng kêu của những người đang gặp khó khăn, chúng ta hãy tự hỏi: liệu chúng ta có phải là chứng nhân cho tình yêu của Chúa Cha, như Chúa Kitô đã làm cho tất cả mọi người? Ngài là Đấng khiêm nhường kêu gọi những kẻ kiêu ngạo hoán cải, là Đấng công chính làm cho chúng ta nên công chính. Chúng ta thấy tất cả điều này trong cuộc đời của các vị Thánh mới: họ không phải là anh hùng hay nhà vô địch của một lý tưởng nào đó, mà là những con người đích thực.

Những người bạn trung thành này của Chúa Kitô là những vị tử đạo vì đức tin, như Đức Cha Ignazio Choukrallah Maloyan và giáo lý viên Peter To Rot; họ là những nhà truyền giáo và thừa sai, như Sơ Maria Troncatti; họ là những nhà sáng lập đầy sức lôi cuốn, như Sơ Vincenza Maria Poloni và Sơ Maria del Monte Carmelo Rendiles Martínez; với trái tim cháy bỏng lòng sùng kính, họ là những ân nhân của nhân loại, như Bartolo Longo và José Gregorio Hernández Cisneros. Nguyện xin lời chuyển cầu của các ngài nâng đỡ chúng ta trong những thử thách và gương sáng của các ngài soi sáng chúng ta trong ơn gọi nên thánh chung. Trên hành trình hướng đến mục tiêu này, chúng ta hãy cầu nguyện không ngừng, và tiếp tục những gì chúng ta đã học và vững tin (x. 2 Tim 3:14). Đức tin trên trần gian này nâng đỡ niềm hy vọng vào thiên đàng.

3. Tại sao Chúa Kitô không cho phép Giáo hội của Ngài phong chức linh mục cho phụ nữ

Larry Chapp nhận bằng Tiến sĩ Thần học tại Đại học Fordham năm 1994, chuyên ngành thần học về Hans Urs von Balthasar. Ông đã dành 20 năm giảng dạy thần học tại Đại học DeSales gần Allentown, Pennsylvania, trước khi nghỉ hưu sớm để cùng vợ là Carmina và người bạn, cũng là cựu học trò của ông, Linh mục John Gribowich, thành lập Nông trại Công nhân Công Giáo Dorothy Day gần Wilkes Barre, Pennsylvania. Ông là tác giả của nhiều bài báo và sách, đồng thời là người sáng lập và tác giả chính của blog Gaudiumetspes22.com.

Việc bổ nhiệm nữ Tổng Giám Mục Canterbury đang làm dấy lên cuộc tranh luận về việc phong chức linh mục cho phụ nữ trong Giáo Hội Công Giáo. Trong bối cảnh đó, ông vừa có bài viết nhan đề “Why Christ Won’t Let His Church Ordain Women”, nghĩa là “Tại sao Chúa Kitô không cho phép Giáo hội của Ngài phong chức linh mục cho phụ nữ”.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Tạp chí tin tức Công Giáo quốc tế The Tablet cho rằng việc bổ nhiệm nữ Tổng Giám Mục Canterbury đầu tiên trong Giáo hội Anh giáo là cơ hội chín muồi để Giáo Hội Công Giáo xem xét lại vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ.

Trong một bài viết ngắn chủ yếu gồm cuộc phỏng vấn với nhà thần học Dòng Tên người Ái Nhĩ Lan, Cha Gerry O'Hanlon, không giấu sự thất vọng của mình với tình trạng hiện tại của vấn đề này trong Công Giáo và thẳng thắn tuyên bố mong muốn của mình rằng Giáo hội “hãy ngừng vòng vo và tiến hành xem xét lại một cách công bằng và cởi mở giáo lý hiện hành”.

Rõ ràng từ những nhận xét của vị linh mục này, người ta có thể thấy rõ ngài cho rằng giáo huấn hiện tại của Giáo hội dựa trên những nền tảng thần học sai lầm. Điều này dẫn ngài đến kết luận rằng việc từ chối phong chức cho phụ nữ là một điều tai tiếng lớn đối với Giáo hội, cũng tệ hại như việc Giáo hội trước đây đã không lên tiếng phản kháng quyết liệt chế độ nô lệ.

Sau đó, ngài trích dẫn những kết luận thần học của Ủy ban Kinh Thánh Giáo hoàng vào những năm 1970 và ý kiến của nhà thần học nổi tiếng Karl Rahner về vấn đề này. Tóm lại, ngài nhấn mạnh việc Ủy ban Kinh Thánh Giáo hoàng vào những năm 1970 nhận thấy không có bằng chứng Kinh Thánh nào bảo đảm cho lập trường của Giáo hội về việc loại trừ phụ nữ khỏi chức thánh, lưu ý rằng nhà thần học Karl Rahner, vào cuối những năm 1970, đã lập luận rằng Giáo hội phải có trách nhiệm chứng minh điều này. “Gánh nặng này vẫn chưa được thực hiện”, Cha O'Hanlon nói.

Bản thân bài viết ngắn này không có gì nổi bật và chỉ là một trong số rất nhiều bài viết khác đã xuất hiện trong nhiều năm qua trên các cơ quan truyền thông Công Giáo phần lớn mang tính cấp tiến. Nhưng điều nó cho thấy là, trong suy nghĩ của nhiều người Công Giáo - thậm chí có thể là phần lớn người Công Giáo trong nền văn hóa phương Tây, vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ, nếu chúng ta tin vào các số liệu được đưa ra từ các cuộc thăm dò.

Chúa Kitô không trao cho Giáo hội của Ngài thẩm quyền phong chức cho phụ nữ

Nhưng làm sao có thể như vậy được? Chẳng phải Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khép lại vấn đề này, với quyết định dứt khoát rằng Giáo Hội không có thẩm quyền phong chức linh mục cho phụ nữ sao? Thật vậy, vị Giáo Hoàng Ba Lan đã làm như vậy, như ngài đã tuyên bố trong tông thư Ordinatio Sacerdotalis năm 1994:

Để xóa tan mọi nghi ngờ liên quan đến một vấn đề vô cùng quan trọng, một vấn đề liên quan đến chính hiến chế thiêng liêng của Giáo hội, nhân danh chức vụ củng cố anh em của tôi (x. Lc 22:32), tôi tuyên bố rằng Giáo hội không có bất kỳ thẩm quyền nào để phong chức linh mục cho phụ nữ và phán quyết này phải được tất cả các tín hữu của Giáo hội tuân giữ một cách dứt khoát.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đưa ra phán quyết này dựa trên hai yếu tố chính. Thứ nhất, Giáo Hội phải noi gương Chúa, Đấng chỉ chọn nam giới làm tông đồ. Thứ hai, và phù hợp với điều này, truyền thống lâu đời của Giáo Hội là chỉ phong chức linh mục cho nam giới. Ngài lưu ý rằng quyết định này cũng đã được phê chuẩn trong các văn kiện giáo hoàng hiện đại.

Ngài cũng kiên quyết bác bỏ quan niệm cho rằng việc không phong chức cho phụ nữ ngụ ý rằng phụ nữ có địa vị thấp kém hơn nam giới trong chương trình cứu độ. Ngài nhấn mạnh rằng Đức Trinh Nữ Maria, mặc dù không được Con mình chọn làm tông đồ hay linh mục, nhưng vẫn giữ một địa vị cao cả trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa:

Hơn nữa, việc Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội, không nhận được sứ mạng riêng của các Tông Đồ cũng như chức tư tế thừa tác, cho thấy rõ ràng rằng việc không cho phụ nữ được thụ phong linh mục không thể có nghĩa là phụ nữ có phẩm giá thấp kém hơn, cũng không thể bị hiểu là kỳ thị họ. Đúng hơn, điều này phải được xem là sự tuân giữ trung thành một kế hoạch được gán cho sự khôn ngoan của Chúa Tể vũ trụ.

Tuy nhiên, chính những lập luận này lại bị những người ủng hộ việc phong chức linh mục cho phụ nữ bác bỏ vì cho là không đủ. Thực vậy, những điều ấy bị coi là sai sót nghiêm trọng đến mức dẫn đến ý tưởng rằng, như Cha O'Hanlon đã nói, khi bám vào chúng, Giáo hội chỉ đang “tránh né”.

Chúa Kitô ban cho Hội Thánh Ngài thẩm quyền giảng dạy

Để đáp lại, tôi xin đưa ra ba điểm. Thứ nhất, điều không được đề cập đến trong những lời bác bỏ như vậy chính những thiếu sót cơ bản về giáo hội học đã thúc đẩy chúng. Rõ ràng, thẩm quyền giáo huấn rất cao của Đức Gioan Phaolô II trong quyết định của ngài đã bị xem nhẹ. Trên thực tế, nó bị gạt sang một bên như một giáo huấn sai lầm, và do đó không cần phải biện minh cho việc bất đồng quan điểm, bất kể thẩm quyền của Đức Giáo Hoàng. Vấn đề về tính bất khả xâm phạm của Giáo hội dường như không liên quan đến họ, và tất cả các giáo huấn mà họ cho là không bất khả ngộ đều bị coi là có thể bị tranh luận thần học liên tục.

Thật vậy, và để không lạc đề quá xa, chắc chắn vấn đề phong chức cho phụ nữ chỉ là một trong nhiều vấn đề mà những người Công Giáo có khuynh hướng cấp tiến tin rằng nên được xem xét lại để có thể đảo ngược. Tôi có cần phải trích dẫn danh sách dài những chủ đề như vậy không? Và để minh họa cho điểm này, chúng ta thấy rằng tân Tổng Giám Mục Canterbury, Sarah Mullally, là người “ủng hộ quyền lựa chọn” phá thai và rất cấp tiến trong mọi vấn đề liên quan đến tình dục con người — đó là một sự thật mà Cha O'Hanlon cố tình lờ đi.

Tóm lại, có cả một gói giáo hội học đang được áp dụng ở đây, vượt ra ngoài vấn đề duy nhất về việc phong chức cho phụ nữ.

Những nhà phê bình như Cha O'Hanlon nhanh chóng cáo buộc rằng giáo huấn của Giáo hội dựa trên lý luận thần học hời hợt. Nhưng quan điểm của chính ngài lại thể hiện sự xem xét hời hợt và thiển cận về thẩm quyền giáo huấn. Trong số những người bác bỏ giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bất kể địa vị thẩm quyền cao trọng của ngài, chúng ta thường thấy những sự phân biệt đơn giản giữa “một số ít” giáo huấn bất khả ngộ của Giáo hội và nhiều giáo huấn không bất khả ngộ, với những giáo huấn không bất khả ngộ bị coi là đề tài cho những lời chỉ trích không hồi kết.

Đáng buồn thay, điều mà giáo hội học này báo hiệu là một Giáo hội chẳng khác gì một câu lạc bộ tranh luận với những tranh cãi bất tận — hay một tòa án liên tục họp mà chẳng bao giờ đưa ra phán quyết về bất cứ điều gì. Nhưng chính vì vậy mà Chúa Kitô đã thành lập Giáo hội của Người trên thẩm quyền tông đồ, và cũng chính vì vậy mà chúng ta có một huấn quyền uy tín.

Chúa Kitô, chứ không phải Giáo Hội, đã thiết lập chức tư tế chỉ dành cho nam giới

Ngoài ra còn có vấn đề về chính những lập luận của Đức Giáo Hoàng, vốn không hề hời hợt như Cha O'Hanlon ngụ ý. Người ta chỉ đơn giản cho rằng việc Chúa Giêsu chỉ chọn người nam chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng điều này không đúng.

Bị bao quanh bởi các nền văn hóa ngoại giáo thường có các nữ tư tế, quyết định - trước tiên là của Do Thái giáo, và sau đó là của Chúa Kitô - giới hạn chức tư tế cho nam giới là kết quả của một thành kiến văn hóa và gia trưởng, hoặc là sản phẩm của một quyết định thần học dứt khoát có ý nghĩa sâu sắc hơn.

Khi nào Chúa Giêsu đưa ra những quyết định trong Phúc Âm mà chúng ta có thể nói là những ví dụ rõ ràng cho thấy Ngài đã nhượng bộ trước định kiến văn hóa? Thật vậy, dường như điều ngược lại mới đúng, đặc biệt là liên quan đến địa vị của phụ nữ.

Do đó, quyết định chỉ chọn người nam của ngài - bất chấp sự hiện diện của rất nhiều phụ nữ quan trọng trong chức vụ của ngài - chính là lý do tại sao Giáo hội sơ khai coi tấm gương của ngài là biểu hiện của điều gì đó có ý nghĩa bí tích và ràng buộc.

Hơn nữa, không thể nói rằng Chúa Kitô đã đưa ra quyết định này hoàn toàn dựa trên sự thận trọng, chỉ vì Người biết những nguy hiểm mà phụ nữ sẽ phải đối mặt trong sứ mệnh truyền giáo. Như Thánh Phaolô đã chỉ rõ trong các thư của ngài, phụ nữ đã thực sự truyền giáo, và họ là một phần trong công cuộc truyền giáo của Giáo hội ra thế giới.

Quyết định của Chúa Kitô phù hợp với bản chất con người của chúng ta

Cuối cùng, cần nhớ rằng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã không ban hành quyết định này – là điều đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô tái khẳng định - trong một khoảng trống thần học. Chính sự phát triển thần học về thân xác của ngài là một sự giải thích sâu sắc về ý nghĩa bí tích sâu sắc của thân xác mang tính giới tính của chúng ta. Chúng ta không phải là những người theo thuyết Ngộ Đạo, và Giáo hội có một truyền thống thần học lâu đời, đặc biệt là trong việc thảo luận về hình ảnh cô dâu dành cho Giáo hội.

Địa vị nam giới của chính Chúa Giêsu mang ý nghĩa biểu tượng và bí tích mà những người ủng hộ việc phong chức cho phụ nữ coi là không liên quan, nếu không muốn nói là đáng xấu hổ. Đối với họ, nam tính của Chúa Giêsu chỉ đơn thuần là một thực tại thứ cấp không có tác động gì — là phàm nhân thì rõ ràng ai trong chúng ta cũng có một giới tính — và do đó không liên quan gì đến vấn đề đang được bàn luận. Nhưng việc coi nam tính của Chúa Giêsu nhẹ đến mức vô nghĩa này lại là một ví dụ khác về thần học đơn giản và hời hợt mà họ cho là vượt trội hơn so với chính sự suy tư của Giáo hội về chủ đề này.

Tôi xin phép không đồng ý.


Source:National Catholic Register

4. Nhà phụng vụ Vatican kêu gọi Giáo hội Hoa Kỳ tuân theo hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về Thánh lễ

Đức Hồng Y Arthur Roche, Bộ Trưởng Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, khuyến khích các giáo xứ tại Hoa Kỳ làm quen hơn với các hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về Thánh lễ và bảo đảm rằng các bài viết của Đức Giáo Hoàng Phanxicô cung cấp thông tin cho việc đào tạo phụng vụ của giáo sĩ và giáo dân.

Đức Hồng Y Roche, người giữ chức vụ Tổng trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích kể từ năm 2021, đã đưa ra các khuyến nghị tại cuộc họp kéo dài ba ngày của Liên đoàn các Ủy ban Phụng vụ Giáo phận, gọi tắt là FDLC.

Theo thông cáo báo chí của FDLC ngày 15 tháng 10, Đức Hồng Y Roche đã nói với hơn 230 người tham dự cuộc họp rằng: “Đức Giáo Hoàng Phanxicô không có ý định đưa ra phương pháp đào tạo phụng vụ một cách có hệ thống”.

“Điều Chúa muốn làm là nắm tay Giáo hội và dẫn dắt Giáo hội đến trung tâm của mầu nhiệm mà chúng ta cử hành, đến với trái tim Chúa Kitô đang cháy bỏng khát khao mãnh liệt rằng chúng ta nên đến gần, đón nhận Mình và uống Máu Người, thờ phượng Chúa Cha với trái tim và tâm trí được đổi mới nhờ được rửa sạch trong Máu Chiên Con “, ngài nói.

Đức Hồng Y Roche cho biết việc cử hành Thánh lễ phải “dựa trên Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô” và ngài tái khẳng định những bình luận năm 2017 của Đức Phanxicô rằng “cuộc cải cách phụng vụ của Công đồng Vatican II là không thể đảo ngược”. Ngài trích dẫn tông thư Desiderio Desideravi năm 2017 của Đức Phanxicô và cho biết tài liệu này nên “được phổ biến rộng rãi hơn cho các giáo xứ” và cần có nhiều sự trợ giúp hơn để “tổ chức các buổi đọc có hướng dẫn về tài liệu này”.

Trong văn kiện đó, Đức Thánh Cha viết rằng “mọi khía cạnh của việc cử hành phải được chăm chút kỹ lưỡng”, bao gồm không gian, thời gian, cử chỉ, lời nói, vật dụng, lễ phục, bài hát và âm nhạc. Ngài viết: “Sự quan tâm như vậy sẽ đủ để tránh việc cộng đoàn bị tước đoạt những gì đáng được hưởng; cụ thể là mầu nhiệm Vượt Qua được cử hành theo nghi thức mà Giáo Hội đã thiết lập.”

Đức Hồng Y Roche cho biết: “Tầm nhìn sâu sắc và rộng lớn về phụng vụ của ngài mang đến cho chúng ta vô số cơ hội để dừng lại suy ngẫm nhằm trân trọng món quà tuyệt vời đã được trao cho chúng ta trong các sách phụng vụ.”

“Tôi không ngần ngại khuyến khích anh chị em hãy mạnh dạn, nhưng luôn luôn bác ái trong việc cổ võ lex orandi hay luật cầu nguyện độc đáo của Nghi lễ Rôma,” ngài nói. “Những bài giảng về phụng vụ mà thiếu tinh thần bác ái thì xuất phát từ một tinh thần khác với tinh thần của Chúa Kitô.”

FDLC được các giám mục Hoa Kỳ thành lập năm 1969 để hỗ trợ thực hiện các cải cách phụng vụ bắt nguồn từ Công đồng Vatican II và tiếp tục đào tạo giáo sĩ và giáo dân. Hội nghị thường niên toàn quốc lần thứ 56 được tổ chức từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10 tại Baltimore, Maryland.

Giám đốc Điều hành FDLC, Rita Thiron, nói với CNA rằng tài liệu này là một “văn bản tuyệt vời, rất đẹp” và FDLC cung cấp một hướng dẫn học tập cho các giáo xứ, trong đó có các câu hỏi thảo luận và suy ngẫm về tài liệu. Bà lưu ý rằng tài liệu giải thích cách con người hiện đại đã mất khả năng kết nối với các biểu tượng và nó “khuyến khích chúng ta sử dụng các biểu tượng mang tính nghi lễ hơn”, chẳng hạn như việc có nhiều nước hơn trong các nghi lễ rửa tội.

Bà chỉ ra rằng phụng vụ mang lại sự hình thành tâm linh cho tất cả những người tham dự, và khi giáo sĩ cử hành Thánh lễ đúng cách, “mọi người sẽ hòa hợp tốt hơn với văn bản phong phú và thần học sâu sắc có trong phụng vụ”.

Cha Anthony Ruff, giáo sư thần học tại Trường Thần học và Chủng viện Saint John, người tập trung vào âm nhạc phụng vụ, nói với CNA rằng Roche “đã đưa ra một gợi ý tuyệt vời” và gọi Desiderio Desideravi là “một tài liệu được viết rất hay và đầy cảm hứng”.

Ngài cho biết: “Điều này giúp tất cả chúng ta hiểu được tầm nhìn của Giáo hội về phụng vụ dựa trên Công đồng Vatican II — đặc biệt là cách thức phụng vụ được cải cách có thể là nguồn sống cho toàn bộ đời sống cầu nguyện và tinh thần môn đệ Kitô giáo của chúng ta”.

Thánh lễ La tinh truyền thống không được thảo luận chi tiết

Đức Hồng Y Roche không thảo luận chi tiết về những hạn chế của Đức Phanxicô đối với Thánh lễ La tinh truyền thống, nhưng ngài đã quảng bá các tài liệu đề cập đến những hạn chế đó.

Đức Phanxicô đã viết Desiderio Desideravi một năm sau khi ban hành tự sắc Traditionis custodes năm 2016, trong đó hạn chế việc cử hành Thánh lễ La tinh truyền thống.

Cha Ruff cho biết lá thư thứ hai “tiếp nối một cách tự nhiên” những hạn chế đó “đối với những người vẫn đang đấu tranh để chấp nhận phụng vụ chính thức của Giáo hội khi nó được cải cách sau Công đồng Vatican II”.

Trong Desiderio Desideravi, Đức Phanxicô nói rằng việc không chấp nhận những cải cách phụng vụ của Công đồng Vatican II “làm chúng ta xao lãng nghĩa vụ tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi mà tôi xin nhắc lại: làm thế nào chúng ta có thể phát triển khả năng sống trọn vẹn hoạt động phụng vụ? Làm thế nào chúng ta có thể tiếp tục để mình kinh ngạc trước những gì diễn ra trong buổi cử hành ngay trước mắt mình?”

Đức Phanxicô viết rằng sẽ là “nhỏ nhặt” nếu coi những căng thẳng về Thánh lễ La tinh Truyền thống “chỉ là sự khác biệt đơn giản giữa các sở thích khác nhau liên quan đến một hình thức nghi lễ cụ thể”. Ngài viết rằng ngài không hiểu làm sao người ta có thể công nhận tính hợp lệ của công đồng “và đồng thời không chấp nhận cải cách phụng vụ”.

Khi được hỏi liệu Đức Hồng Y Roche có bình luận gì về việc liệu Giáo hoàng Lêô XIV có làm theo Đức Thánh Cha Phanxicô trong việc hạn chế hay thực hiện bất kỳ điều chỉnh nào không, Thiron cho biết: “Ngài ấy không hề nói đến điều đó.”

Thiron cho biết Roche đã ám chỉ đến “vai trò của hội đồng không thể đảo ngược” và Roche “lưu ý rằng Desiderio Desideravi là sự tiếp nối của Traditionis custodes để khuyến khích mọi người hiểu rõ hơn về phụng vụ như hiện tại và như hội đồng mong muốn”.


Source:Catholic News Agency