Francis X. Maier, trên The Catholic Thing, ngày 28 tháng 2 năm 2024, nói về khía cạnh tuyên xưng của Giáo Hội.

Ông bắt đầu bằng một câu đố vui. Ai đã nói những lời sau đây?



Sự điên rồ của học thuyết cứu chuộc Kitô giáo thực sự không phù hợp với thời đại chúng ta chút nào. Tuy nhiên, có những người học rộng, có học thức đang chiếm giữ những địa vị cao trong đời sống công cộng, bám chặt lấy nó với niềm tin của một đứa trẻ. Đơn giản là không thể hiểu nổi làm sao người ta lại có thể coi giáo lý cứu chuộc của Kitô giáo như một kim chỉ nam cho cuộc sống khó khăn ngày nay… Trong khi những nhà khoa học uyên bác nhất và khôn ngoan nhất phải vật lộn cả đời để nghiên cứu chỉ một trong những quy luật của tự nhiên, thì một [linh mục nông thôn] nhỏ bé lại có quyền quyết định vấn đề này dựa trên kiến thức tôn giáo của mình. Người ta chỉ có thể coi thường một màn trình diễn đáng tởm như vậy. Một hội thánh không theo kịp kiến thức khoa học hiện đại sẽ bị diệt vong.

Nghe có vẻ quen? Nó nên như vậy. Có lẽ đó là lời của một người vô thần nổi tiếng như Richard Dawkins, hay Sam Harris, hay Daniel Dennett? Hoặc có thể nó thuộc về một thành viên của ban giáo sư Harvard hoặc Yale ngày nay? Cả hai đều là những lựa chọn rất hợp lý. Nhưng cả hai đều sai.

Thực ra, nó là lời lẽ của nhà tuyên truyền Đức Quốc xã Joseph Goebbels. Ông đã nguệch ngoạc ghi lại những dòng chữ đó trong nhật ký của mình vào những năm 1930.

Vâng, tôi biết, nước Mỹ năm 2024 cách Đức những năm 1930 rất xa. Và vâng, tất nhiên, những gì đã xảy ra ở đó thì không thể xảy ra ở đây. Lịch sử không bao giờ lặp lại. Nhưng điều đó không cần thiết, bởi vì những khuôn mẫu suy nghĩ và hành vi của con người làm nên lịch sử thì luôn lặp lại.

Chúng ta đã sống trong tình trạng bị giám sát. Ở Trung Quốc, đó là chính sách của nhà nước. Đây là một dự án cộng đồng được chia sẻ. Phiên bản của chúng ta tinh tế hơn những tiền lệ xấu xí của nó, nhưng nó cũng có sức lan tỏa và thấu xuốt hơn. Chúng ta củng cố nó mỗi khi chúng ta đăng ký quyền riêng tư của mình bằng cách tải xuống ứng dụng điện thoại hoặc máy tính mới.

Và cần nhớ rằng, cách đây không lâu, một đội đặc nhiệm của FBI đã đột kích vào nhà của một người đàn ông ủng hộ sự sống vô tội – Mark Houck – vì một tội danh hành hung giả mà anh ta đã được tha bổng tại địa phương và nhanh chóng được trắng án lần nữa vào năm 2007 ở tòa án liên bang. Bắt nạt hiện là phương pháp áp dụng của tầng lớp lãnh đạo “được khai sáng” của chúng ta.

Nhưng tôi đi đâu đây với điều này?

Mùa xuân năm nay đánh dấu kỷ niệm 90 năm Tuyên bố Barmen. Nếu điều đó khiến tạo ra những cái nhìn trống rỗng thì đó là điều dễ hiểu. Người Mỹ chúng ta có xu hướng kém về lịch sử, đặc biệt khi nó liên quan đến các sự kiện vượt ra ngoài biên giới của chúng ta. Vì vậy, đây là thông tin cơ bản: Vào tháng 5 năm 1934, Liên đoàn Khẩn cấp của các Mục sư (Tin lành) Đức đã tổ chức một hội nghị ở thành phố Barmen. Từ đó xuất hiện Tuyên bố. Được soạn thảo phần lớn bởi nhà thần học Karl Barth, nó là sự bác bỏ gay gắt những nỗ lực của Ki-tô giáo Đức nhằm ủng hộ và khẳng định Chủ nghĩa Quốc xã.

Ngày nay phần lớn tuyên bố, dù được viết một cách mạnh mẽ, dường như không còn phù hợp với người Công Giáo Mỹ. Hoàn cảnh của chúng ta rất khác so với cuộc khủng hoảng Tin lành ở Đức cách đây gần một thế kỷ. Nhưng bản văn Barmen cũng đánh dấu sự ra đời của phong trào “Giáo hội Tuyên xưng” ở Đức, do Dietrich Bonhoeffer đồng sáng lập và phát triển một cách nhiệt tình. Và trong đó ẩn chứa một bài học vượt thời gian và biên giới.

Thuật ngữ “tuyên xưng” có một số ứng dụng. Chúng ta xưng nhận tội lỗi của mình, nhưng chúng ta cũng xưng nhận đức tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô và Giáo Hội của Người. Trong Bí tích Rửa tội, các Kitô hữu được coi là “những người tuyên xưng” từ bản chất. Đó là ơn gọi của chúng ta. Chúng ta có nhiệm vụ phải làm chứng hoặc tuyên xưng đức tin của mình qua gương sống của mình; trong những gì chúng ta nói và trong những gì chúng ta làm.

Năm 1933, Vatican đã ký một Hiệp ước với Đế chế thứ ba để bảo vệ (về lý thuyết) các tín hữu và lợi ích của Công Giáo Đức. Đến năm 1934, Đức Quốc xã đã vi phạm nó. Quan điểm của Tuyên bố Barmen năm 1934 và của “Giáo hội Tuyên xưng” ở Đức là đưa ra một bằng chứng phản bác mạnh mẽ việc Quốc xã hóa Giáo hội Tin lành Lutheran chính thức của quốc gia và các cộng đồng Thệ phản khác. Cuối cùng, vai trò của Bonhoeffer trong Giáo hội Tuyên xưng đã khiến ông phản kháng hoàn toàn chế độ Đức Quốc xã và bị xử tử bằng cách treo cổ chỉ vài tuần trước khi Thế chiến thứ hai kết thúc.

Chúng ta đang sống trong một thời đại khác với những thách thức khác. Nhưng có lẽ không quá khác biệt như chúng ta nghĩ. Trong gần ba năm làm việc cho cuốn sách True Confessions [Những Lời Tuyên xưng Đích thật] (xuất bản ngày hôm qua), tác giả đã tìm thấy rất nhiều thiện chí, lòng nhiệt thành và niềm hy vọng nơi những người Công Giáo Mỹ trung thành.

Nhưng chữ chủ chốt trong câu trên là trung thành. Tự nhận mình là người Công Giáo trong khi ngoan ngoãn tuân theo một nền văn hóa coi thường Lời Chúa và vi phạm đức tin của chúng ta chỉ đơn giản là một cách thuận tiện để lừa dối bản thân và mọi người khác. Đó là liều thuốc gây mê hữu ích cho lương tâm.

Nhưng Thiên Chúa không bị lừa. Chúng ta cần nhớ mình là ai, chúng ta phục vụ ai và tại sao chúng ta lại ở đây với tư cách là Kitô hữu. Chúng ta cần phải là những người tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô và Giáo hội của Người. Mọi ngày, mỗi ngày. Trong mọi sự.

Như một giám mục cấp cao đã nói với tác giả trong quá trình phỏng vấn:

“Tôi lớn lên trong một nền văn hóa Công Giáo cực kỳ ấm áp và phóng khoáng. Điều đó đã biến mất. Chúng ta không còn có thể tin cậy vào nền văn hóa hỗ trợ đời sống Kitô hữu nữa. Những gì chúng ta có hiện nay ở đất nước chúng ta, tốt nhất, chỉ là sự khoan dung tôn giáo như một sở thích cá nhân dành cho những người yếu đuối mê tín bám vào những giấc mơ thời thơ ấu của họ. Tệ nhất là chúng ta ngày càng phải đối đầu với sự căm ghét thực sự, sự cố chấp hoàn toàn đối với đức tin tôn giáo. Điều này thật mỉa mai, bởi vì chưa bao giờ có một phong trào cải cách tiến bộ nào trong lịch sử nước Mỹ mà không được sinh ra từ tôn giáo. Chúng ta gần như quay trở lại thời kỳ Cách mạng Pháp. Chúng ta có một nhóm Jacobins đầy nhiệt huyết đang điều hành xã hội, những người thực sự nghĩ rằng chính phủ nên kiểm soát mọi thứ... Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ đặt lời cầu nguyện của Tổng lãnh thiên thần Michael lên tấm gương tủ thuốc của mình. Nhưng tôi đã làm. Bây giờ tôi đọc kinh đó mỗi sáng khi cạo râu. Một cái ác hoàn toàn, nguyên con tồn tại trên thế giới và đó là thế lực mạnh nhất trong vũ trụ. Trừ một.

Dietrich Bonhoeffer đã đúng. Thế giới của ông cần một Giáo hội tuyên xưng, và ông sẵn lòng liều mạng vì điều đó. Thời gian đã thay đổi. Hoàn cảnh đã thay đổi. Nhưng nhu cầu thì không.

Bài học rất đơn giản: Chúng ta cần phải là những Ki-tô hữu tuyên xưng. Và chúng ta cần một Giáo hội Tuyên xưng.