Chiara Zappa của Asia News (https://www.asianews.it/news-en/With-a-ger-as-a-church,-waiting-for-Pope-Francis-in-Ulaanbaatar-59043.html) tường trình rằng: Việc khám phá cộng đồng Công Giáo nhỏ bé của Mông Cổ trước khi Đức Giáo Hoàng đến vào ngày 31 tháng 8 cho thấy đất nước này đang xây dựng lại bản sắc của mình như thế nào sau 70 năm theo chủ nghĩa cộng sản và quá trình chuyển đổi khó khăn sang chế độ dân chủ. Cộng đồng Công Giáo địa phương nhỏ bé đã được phát triển trong 30 năm qua. Cha Peter Sanjajav là một trong hai linh mục địa phương đầu tiên. Ngài nói: “Hôm nay câu chuyện của tôi giúp tôi đóng vai trò làm cầu nối giữa các nền văn hóa và trải nghiệm khác nhau, bên cạnh những người đang tìm kiếm”.

Trên một chiếc xe buýt bị kẹt xe trên Đại lộ Chinggis, trung tâm Ulaanbaatar, băng qua thành phố, Cha Ernesto đang đùa giỡn với một đứa trẻ ngồi cạnh ông nội.

Trong 30 năm, thủ đô của Mông Cổ đã chứng kiến dân số tăng gấp ba lần lên 1.7 triệu người, các tòa nhà mới mọc lên không ngừng.

Sinh năm 1951, Cha Ernesto Viscardi chỉ vào những khu phố trải dài bên kia chiếc cửa sổ, nơi sẽ chào đón Đức Giáo Hoàng Phanxicô từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9 trong chuyến viếng thăm lịch sử của ngài tới một Giáo hội trẻ và nhỏ. Vị linh mục người Ý biết rất rõ nơi này.

Ngài đến Mông Cổ năm 2004 để gia nhập một nhóm nhỏ các nhà truyền giáo Consolata, những người đã đến một vùng đất khắc nghiệt vào năm trước, bắt đầu với thời tiết, tìm kiếm một bản sắc mới sau quá trình chuyển đổi sang dân chủ sau 70 năm theo chủ nghĩa cộng sản.

Đối với Cha Ernesto, “Bản sắc này đang được xây dựng lại xung quanh một số yếu tố chính: đất đai, truyền thống Phật giáo và huyền thoại về vị lãnh tụ vĩ đại Thành Cát Tư Hãn (người vào đầu những năm 1200 đã hợp nhất các bộ lạc Mông Cổ nổi loạn thành một đội quân chinh phục một khu vực trải dài từ Hàn Quốc tới Ba Lan).”

Trong thời gian dài được gã khổng lồ Liên Xô ôm ấp, linh đạo đã bị cấm trong cuộc sống hàng ngày. Sau các cuộc thanh trừng bắt đầu vào năm 1937, hàng nghìn ngôi chùa bị phá hủy, các tu viện Phật giáo bị tịch thu và ít nhất 15,000 Lạt ma (các bậc thầy tâm linh) bị tàn sát.

Xe buýt băng qua Cầu Hòa bình được xây dựng vào những năm 1950 bởi Trung Quốc, người hàng xóm cồng kềnh khác của Mông Cổ, và đi về phía quảng trường trung tâm, trụ sở của chính phủ, nơi người dân chán ngấy nạn tham nhũng và chi phí sinh hoạt ngày càng tăng, định kỳ tổ chức các cuộc biểu tình.



Khoảng 2/3 dân số phải chịu một số hình thức nghèo đói. Ngoài những tòa nhà chọc trời ở trung tâm thành phố, những ngọn đồi xung quanh thủ đô là nơi sinh sống của hầu hết những người nghèo, những đốm trắng rải rác trên những sườn dốc cao.

Khi xe buýt đi trên những con đường ít đông đúc hơn, người ta thấy rõ các điểm đó là những căn gers (yurts), tức những chiếc lều truyền thống của những người chăn nuôi du mục.

Nhà truyền giáo giải thích: “Trong những năm gần đây, ngày càng nhiều gia đình từ thảo nguyên chuyển đến thủ đô để tìm kiếm một lối sống ít khắc nghiệt hơn hoặc do mất gia súc do mùa đông đặc biệt khắc nghiệt.” Nhưng “rất ít người có khả năng có được một căn hộ.”

Hầu hết dựng lều ở nơi họ tìm thấy một mảnh đất trống. Hơn một nửa dân số Ulaanbaatar sống ở những nơi được gọi là quận ger, không có hệ thống cống rãnh hoặc nước sinh hoạt.

Truyền giáo Công Giáo ở Mông Cổ thời hiện đại cũng có nguồn gốc từ những căn lều truyền thống, những không gian nhỏ được sắp xếp tỉ mỉ theo biểu tượng của văn hóa pháp sư sau khi Kitô giáo, đến cùng với Giáo hội Nestoriô vào thế kỷ thứ 8, đã biến mất hàng trăm năm.

Năm 1992, vài tháng sau khi hiến pháp mới được thông qua, bảo đảm quyền tự do ngôn luận và tôn giáo, ba nhà truyền giáo từ dòng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ Bỉ đã đến định cư ở Ulaanbaatar.

Một trong số họ là Cha Wenceslao Padilla, một linh mục người Philippine, được bổ nhiệm làm bề trên sứ truyền giáo sui iuris [độc lập] (được nâng lên hàng phủ doãn tông tòa vào năm 2002). Ngài ngay lập tức tận tâm giúp đỡ những người vô gia cư, người tàn tật, người già, đặc biệt là trẻ em đường phố, những người đang lang thang trên đường phố với số lượng lớn, hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế khắc nghiệt sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản.

Vài năm sau, công việc xây dựng nhà thờ bắt đầu được thiết kế theo phong cách nhà lều [ger] có hình tròn, mái vòm hình nón thấp và trần xuyên tâm bằng gỗ. Ngày nay nó nằm cạnh trạm y tế St Mary dành cho người nghèo.

Trong hơn 20 năm, một chiếc lều thực sự là cơ sở đầu tiên được thành lập bởi dòng Salêdiêng, những người ngày nay đang điều hành một trung tâm dạy nghề lớn với khoảng 200 sinh viên.

Cha Paul Leung, một tu sĩ Salêdiêng gốc Hồng Kông, người điều hành trường, cho biết: “Đối với những người đến từ nông thôn không có kỹ năng chuyên môn, cuộc sống ở thủ đô có thể rất khó khăn. Nhờ các khóa học của chúng tôi, các bạn trẻ không gặp khó khăn gì khi tìm việc làm.”

Một số đã trở thành nhà giáo dục, giảng dạy tại Trường Don Bosco, trong khi một số khác đã chọn chịu phép rửa.

Cha Paul giải thích, “Việc nói về tôn giáo bị cấm ở trường học, nhưng chúng tôi truyền đạt các giá trị Kitô giáo trong cuộc sống hàng ngày, hoặc trong cách thực hành truyền thống của người Salêdiêng là 'chào buổi sáng'. Một số quyết định đi xa hơn, tham dự lớp giáo lý tại một trong các giáo xứ”.

Trong ba thập niên hiện diện truyền giáo, sáu giáo xứ đã được thành lập ở Ulaanbaatar. Nhiều hơn nữa đã được tạo ra ở Erdenet, Darkhan và Arvaikheer (nơi các gers vẫn đóng vai trò làm nhà thờ).

Một Giáo hội nhỏ đã xuất hiện sau lời loan báo đầu tiên, với 77 linh mục, tu sĩ, nữ tu và giáo dân, và khoảng 1,500 thành viên đã được rửa tội, nhiều người trong số họ đang hoạt động tích cực với tư cách là giáo lý viên, nhà giáo dục, thành viên ca đoàn và tình nguyện viên trong công việc bác ái.

Kể từ năm ngoái, theo ý muốn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cộng đồng nhỏ bé này cũng có một vị Hồng Y, Phủ doãn Tông tòa Giorgio Marengo, cũng là nhà truyền giáo của dòng Consolata.



Trong những năm gần đây, nhờ thẩm thấu, hai ơn gọi địa phương đầu tiên đã phát triển: Cha Joseph Enkh-Baatar được thụ phong linh mục vào năm 2016, hai năm trước đây là Cha Peter Sanjajav, hiện 38 tuổi (ảnh).

Ngài nói: “Khi còn nhỏ, tôi đến từ Arvaikheer cùng với mẹ, anh chị em, các Nữ tu của Mẹ Teresa đã chào đón chúng tôi. Chúng tôi xuất thân từ một hoàn cảnh rất nghèo và tôi chưa bao giờ học hành. Nhưng nhờ sự tận tâm của các dì, ở tuổi 15 tôi đã biết đọc và viết”.

Sau đó, Cha Kim Stephano Seon Hyeon, một fidei donum [quà tặng của đức tin] người Hàn Quốc đột ngột qua đời vào tháng 5, đã chăm sóc ngài trong nhiều năm.

“Một ngày nọ, tôi hỏi thẳng ngài: ‘Ai bắt cha làm điều đó? Đến đây, xa đất nước của cha, trong cái lạnh thế này, để chăm sóc chúng tôi?’ Ngài trả lời và chỉ cho tôi xem tượng chịu nạn.”

Vào ngày đó, một hạt giống đã được gieo vào lòng Phêrô. Theo thời gian, nó phát triển thành những năm theo học tại chủng viện ở Hàn Quốc, học tập chăm chỉ bằng một ngôn ngữ không hề biết, “nhưng tôi đã không từ bỏ như các nữ tu đã dạy tôi,” ngài nói thế.

“Khi tôi trở thành linh mục, tất cả gia đình tôi, kể cả những Phật tử, đều mừng cho tôi vì họ nhìn thấy niềm vui của tôi. Ngày nay, câu chuyện của tôi giúp tôi trở thành cầu nối giữa các nền văn hóa và trải nghiệm khác nhau, bên cạnh những người đang tìm kiếm”.