Đức Cha Athanasius Schneider, năm nay 59 tuổi, là Giám Mục Phụ Tá của giáo phận Astana, Kazhakhstan. Dưới đây là ý kiến của ngài liên quan đến vụ “moviegate” đang gây nhiều hoang mang cho người Công Giáo.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.


Trong bộ phim tài liệu “Francesco” được công chiếu vào ngày 21 tháng 10 trong khuôn khổ Liên hoan phim Rôma, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã sử dụng cụm từ “convivencia civil” – “sống chung dân sự” thay vì “union civil” - “kết hiệp dân sự”, nhưng dẫu sao thì ngài cũng yêu cầu có một luật dân sự về việc chung sống giữa những người đồng tính luyến ái, để họ được bảo đảm về mặt pháp lý. Tuy nhiên, cả hai cụm từ “convivencia civil” và “union civil” về cơ bản có cùng một ý nghĩa, như nó đã từng được thể hiện trong luật pháp Á Căn Đình. Vào ngày 17 tháng 12 năm 2002, một luật có tên là “Luật Chung sống Đồng tính”, tiếng Tây Ban Nha là “Ley de Convivencia Homosexual” số 3376 đã được phê duyệt ở Tỉnh Río Negro ở Á Căn Đình. Điều 1 của luật này quy định rằng “Các cặp đồng giới có thể tuyên thệ xác nhận việc chung sống (convivencia) của họ trước cơ quan có thẩm quyền”.

Các thuật ngữ pháp lý có thể khác nhau ở một số quốc gia, nhưng tất cả đều có nghĩa giống nhau về cơ bản, cụ thể là sự chung sống của một cặp đồng tính, nghĩa là một cuộc sống chung ổn định ngoài hôn nhân được nhà nước công nhận, như trong trường hợp sống chung của một cặp dị tính. Những thuật ngữ pháp lý tiêu biểu là: “same-sex unions”, “union civil”, “convivencia homosexual”, “convivencia civil”, “registered partnership”, “Eingetragene Partnerschaften” và những từ khác nữa.

Sự ủng hộ các hình thức pháp lý về một cuộc sống chung ổn định của hai người đồng tính, đồng thời khẳng định rằng các hành vi đồng tính là trái đạo đức và rằng hai người đồng tính được công nhận trong hình thức hợp pháp đó sẽ sống trong tình trạng kiêng khem tình dục, thể hiện một mâu thuẫn trên thực tế. Bất chấp sự khẳng định về mặt lý thuyết sự vô luân của các hành vi đồng tính luyến ái, một sự ủng hộ như vậy trên thực tế đã trở thành một phần của trào lưu tuyên truyền ý thức hệ và pháp lý nói chung nhằm hợp pháp hóa và thừa nhận lối sống đồng tính và các hành vi tình dục đồng giới là tốt lành. Hơn nữa, hoàn toàn ngây thơ và tách rời với thực tế khi cho rằng các hình thức chung sống dân sự ổn định của hai người đồng tính sẽ giúp họ tiết chế tình dục. Giả định như thế thì có khác gì cho rằng cần có một điều khoản trong quy chế pháp lý về chung sống đồng giới quy định đại loại như thế này: “Hai bên chung sống dân sự phải tiết chế tình dục”. Đúng là một trò chế giễu bông đùa. Không ai có đầu óc bình thường lại đi tin rằng hai người đồng tính đã đăng ký chung sống ổn định sẽ sống trong tình trạng tiết dục, cũng như không ai có thể tin rằng một cặp dị tính đã kết hôn chung sống ổn định lại đang sống trong tình trạng kiêng khem tình dục.

Mọi người có suy nghĩ bình thường đều hiểu cách diễn đạt mà Đức Giáo Hoàng sử dụng ở đây như một hình thức chung sống được nhà nước công nhận hợp pháp, như một cuộc sống chung ổn định (“Convivencia”) của một cặp đồng tính luyến ái, và do đó, là một sự thừa nhận hợp pháp lối sống đồng tính.

Cách chơi chữ với “sống chung dân sự”- tiếng Tây Ban Nha là “convivencia civil” - và “kết hiệp dân sự” - tiếng Tây Ban Nha là “union civil” - trong trường hợp này chỉ là ngụy biện, chẻ dọc sợi tóc làm đôi và lừa bịp. Nó gợi nhớ đến câu chuyện cổ tích về bộ quần áo mới của hoàng đế. Cách chơi chữ này cuối cùng không trung thực về mặt trí tuệ và không thuyết phục được bất kỳ ai.

Bất kỳ loại hình thức chung sống ổn định nào đã được công nhận hợp pháp của hai người đồng tính, dù bạn gọi nó là cái gì đi chăng nữa, đều là vô luân vì nó là một vụ tai tiếng công khai, một sự tuyên truyền cho lối sống đồng tính, một mối nguy hiểm thường xuyên và ngay lập tức gây ra tội lỗi chết người đối với hai người liên quan. Sự ủng hộ của một hình thức pháp lý như vậy là vô trách nhiệm về mặt đạo đức, gây nhầm lẫn, gây ra tai tiếng và gây ra hậu quả chết người. Yêu cầu bảo đảm cho một cặp đồng tính một số quyền dân sự như quyền thừa kế, thăm bệnh tại bệnh viện và các trường hợp tương tự, rõ ràng chỉ là một cái cớ. Trên thực tế, luật dân sự ở các nước dân chủ quy định đầy đủ cho mỗi công dân quyền lợi hợp pháp trong các vấn đề như thừa kế, chăm sóc pháp lý, v.v. mà không cần tạo ra một hình thức pháp lý nào về việc chung sống ổn định của hai người đồng tính. Nếu những người đồng tính luyến ái thành thực muốn sống trong tình dục hạn chế và thực hành đức khiết tịnh, họ sẽ không bao giờ đòi hỏi một hình thức chung sống ổn định hợp pháp, vì họ biết rằng sự gần gũi lẫn nhau như vậy sẽ khiến họ ngay lập tức có nguy cơ phạm tội trọng và thậm chí là có thói quen tội lỗi gian dâm. Nếu những người đồng tính luyến ái thành thật muốn sống trong tình trạng tiết chế tình dục, họ sẽ không tham gia vào bất kỳ hình thức chung sống dân sự nào, để tránh tình trạng nguy hơn là ngầm ủng hộ việc truyền bá ý thức hệ đồng tính, cũng như biện minh và hợp pháp hóa lối sống đồng tính luyến ái. Những người đồng tính thực lòng mong muốn được sống trong tình trạng tiết chế tình dục cũng sẽ biết rằng việc chung sống được pháp luật công nhận của họ sẽ gây ra tai tiếng.

Trong một thời đại mang tính toàn cầu, với đầy những trò tuyên truyền mạnh mẽ và lừa đảo nhằm hợp pháp hóa hành vi đồng tính luyến ái và tôn vinh các hành vi đồng tính là tốt về mặt đạo đức, thì những lời khẳng định của các giáo sĩ ủng hộ bất kỳ hình thức chung sống đồng tính nào được pháp luật công nhận, bất kể là với thuật ngữ nào (kết hiệp, chung sống, sống chung, quan hệ đối tác, v.v.) trên thực tế sẽ củng cố cho tuyên truyền này. Tiếng nói của Giáo hội nên làm điều ngược lại và phải can đảm chống lại bằng lời nói và cử chỉ đầy trong sáng, bình tĩnh và đàng hoàng rằng trò tuyên truyền ý thức hệ này nô dịch phẩm giá con người trong một lối sống trái với thánh ý Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc phẩm giá con người.

Sự trung thực về mặt trí tuệ và tình yêu chân thành đối với sự thật là điều cần thiết và đáng giá để tất cả các đại diện của Giáo hội luôn là nhân chứng đáng tin cậy của Lề Luật Thiên Chúa được viết ra trong bản tính và lý trí con người, và được mạc khải rõ ràng trong Lời Đức Chúa Trời ghi khắc trong Thánh Kinh và được Giáo hội dạy dỗ không thay đổi trong suốt hai nghìn năm qua.

Ngày 25 tháng 10 năm 2020

+ Giám Mục Athanasius Schneider


Source:Life Site News