Chúa Nhật XV Thường Niên A (2020)

Nhà văn quá cố Xuân Vũ (1930-2004), một văn sĩ bộ đội hồi chánh năm 1971 đã viết một cuốn trường thiên hồi ký mang tựa đề “ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN” mà nội dung cốt yếu là làm sống lại những nỗi bi đát, thống khổ, man rợ tột cùng mà những người cán binh cọng sản, trong đó có Xuân Vũ, đã trải qua trên con đường mòn mang tên Hồ Chí Minh. Trên cuộc hành trình “giải phóng miền Nam” cay nghiệt đó, biết bao thanh niên, thiếu nữ đã vĩnh viễn nằm lại giữa núi rừng heo hút, bao nhiêu cái chết tức tưởi đắng cay khi tuổi đời còn thênh thang mộng ước, bao mối tình say đắm ngọt ngào đành chia ly đứt gánh vì một “rừng mơ” của ảo tưởng và lầm lạc. Cho dù trong số ra đi đó có đến được Miền Nam, thì tâm hồn họ, cuộc đời họ cũng gần như tan nát, mất hướng và thất vọng khi nhận ra một lý tưởng bị đánh lừa, một cuộc đời bị lãng phí. Và vì thế, đối với Xuân Vũ, con đường giải phóng đó, con đường cách mạng đó lại là “ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN”.

Thế nhưng hôm nay, Lời Chúa lại mách bảo chúng ta rằng: có một con đường khác mang tên LỜI CHÚA là một “ĐƯỜNG ĐI PHẢI ĐẾN”.

Trước hết, Lời Chúa phải được chúng ta tin nhận đó là Lời Hành Động, Lời hiệu quả, Lời mang lại ơn cứu độ, chứ không bao giờ là một lời của gió thoảng mây bay, lời của hoang vu trống rỗng.

Để khẳng định chân lý nầy, chúng ta hãy nhớ lại lời của sứ ngôn Isaia trong Bài đọc 1 vừa được công bố: “Cũng như mưa tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đât, chưa làm cho đất…đâm chồi nẩy lộc…thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không về với Ta, nếu chưa đạt kết quả, …”.

Và không chỉ “xuất phát từ miệng Ta” như một âm thanh, như một tiếng nói, cho dù là tiếng nói sáng tạo: “Thiên Chúa phán: - Phải có ánh sáng. Liền có ánh sáng” (St 1, 3), hay tiếng nói tình tự vỗ về của người yêu: "Bởi thế, nầy Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc để cùng nó thổ lộ tâm tình" (Hs 2, 16), mà là một sự “xuất phát”, một cuộc lên đường, nhập thế, tự hạ… để “Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta...” (Ga 1, 14).

Với cuộc mặc khải tối hậu nầy, quả thật Lời Chúa đã cô đọng thành xương, thành thịt, thành người, thành “ngôi vị” và là Đấng tái tạo, Đấng Cứu độ thế giới.

Đức Kitô chính là Ngôi Lời Nhập Thể, là Lời vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, là Lời loan báo Tin Mừng bình an, là Lời Chân lý, là Lời đem lại sự sống đời đời. Ngài là Lời nhưng Ngài cũng chính là người đi rao giảng Lời, là Người công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa, là Người mang hạt giống chân lý tình yêu và cứu độ gieo vào mảnh đất trần gian. Ý nghĩa đầu tiên mà Chúa Giêsu muốn nhắm tới trong dụ ngôn “Gieo Giống” phải chăng là muốn cho dân Ít-ra-en ngày xưa và chúng ta hôm nay xác tín rằng: Nước trời chắc chắn sẽ đến và “Lời loan báo về Nước Trời” chắc chắn sẽ sinh hoa kết trái, cho dù phải kinh qua khó khăn thử thách, vất vả hiểm nguy, chẳng khác nào người gieo giống phải đối diện với những “sỏi đá khô cằn, những bụi bờ gai góc, tưởng đâu hạt giống sẽ bị vùi dập, nghiền nát, và người gieo phải thất bại trắng tay. Nhưng rồi, mùa gặt bội thu lại đến mang theo rạng rỡ vui mừng, “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi…”

Phải chăng, điều Chúa Giêsu muốn ngụ ý trong dụ ngôn nầy là chính cuộc đời và sứ vụ của mình? Cũng có thể lắm đấy chứ ! Ngay từ phút giây Nhập Thể vào mảnh đất trần gian, Lời Thiên Chúa đã chẳng đụng ngay con đường Bêlem sỏi đá, khô chồi đến độ, mọi cánh cửa nơi đó đều khép chặt để Ngài phải sinh hạ trong chuồng lừa máng cỏ đó sao ! Và rồi, trái tim nhân loại đâu có phải lúc nào cũng trỗ hoa để mỉm cười đón đợi Đấng Cứu Thế. Hêrôđê, Philatô, những người biệt phái, các ông tư tế của đền thờ không chỉ là những thế lực có thể bóp nát chính bản thân Ngài, nhưng còn có đủ quyền uy để bóp ngặt không để cho một mầm mống nào của chân lý do Ngài rao giảng được tồn tại, phát sinh. Trong suốt ba năm dãi dầu sương gió, từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, từ duyên hải Biển Hồ đến giữa lòng hoang mạc…Ngài đã cất công tung gieo hạt giống Lời Chúa. Nhưng kìa, tất cả gần như sụp đổ tan tành vào buổi trưa thứ Sáu: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi…Xin tha Baraba, đóng đinh Giêsu vào thập giá…”. Vâng, có lẽ do áp lực của miếng cơm manh áo, của vị thế chính trị, của nhưng “lo toan vặt vãnh đời thường”, mà gai góc đã phủ kín mảnh đất tâm hồn của đám dân vô tội ấy để Lời chân lý họ đã nghe và thán phục hôm nào “Người nầy dạy như Đấng có uy quyền”, đã “đội nón ra đi”, đã bị bóp nghẹt từ trong trứng nước ! Phải chăng bi kịch thập giá là điểm hội tụ của tất cả những gì bi đát nhất của thân phận người gieo giống, của cuộc đời làm ngôn sứ của Chúa Giêsu...

Nhưng tiếng nói cuối cùng lại không là sự chết và đích điểm của Nước Trời lại không phải nấm mồ. Hạt giống Nước trời mà Chúa Giêsu gieo vào giữa lòng thế giới đã mục nát đi cùng với 33 năm cuộc đời nhập thể, với cái chết đau thương của Ngài, đã không luống công vô ích. Vào bình minh ngày Thứ Nhất Trong tuần, “hạt giống bị vùi dập Kitô” đã oai hùng chỗi dậy đánh bại thần chết và tội lỗi để mang nhân loại đi lên một lộ trình mới: lộ trình của phục sinh, tin yêu và hy vọng. Tất cả đã từ từ vươn dậy. Để rồi xuyên qua bao thăng trầm dâu bể của lịch sử, hôm nay đã có một mùa lúa tốt tươi trên cánh đồng thế giới và hứa hẹn sẽ vàng đồng đầy kho nứt lẫm trong ngày thế mạt.

Đây cũng là niềm xác tín mà Thánh Phaolô muốn chuyển tải cho cộng đoàn tín hữu Rôma trong những ngày dầu sôi lửa bỏng của bách hại thương đau: “Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta là những kẻ hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên siết trong khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử và ơn cứu độ thân xác chúng ta” (Bđ 2)

Và đó là con đường của Lời suốt 2000 năm nay, kể từ khi Hạt Giống Ngôi Lời chấp nhận chịu mục nát trên đồi Can-vê và muôn thế hệ Tông Đồ, chứng nhân nối tiếp cùng chấp nhận theo Đức Ki-tô làm “hạt lúa mì” mục nát đi trên cánh đồng thế giới. Để đức tin, để ơn cứu độ được đến với muôn người, muôn dân tộc, cần có những con người gieo giống tốt lành và những hạt giống tốt được gieo.

Vì thế, nếu Lời Chúa hôm nay không cho phép chúng ta đánh mất niềm tin yêu và hy vọng trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, thì đồng thời, Lời Chúa cũng tra vấn chúng ta, thách thức chúng ta: Chính bản thân tôi đã đón nhận Lời Chúa thế nào? Lời Chúa đã thật sự phát sinh hiệu quả ra sao trong mảnh đất của đời tôi? Bởi vì Lời Thiên Chúa là Lời sống động kia mà ! Lời không chỉ là ngôn từ mà còn phải trở thành ngôn ngữ của cuộc sống.

Trong Tông sắc Aperuit Illis (Ngài đã mở trí cho họ) để thiết lập Chúa Nhật Lời Chúa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã lưu ý: “Chính Chúa Giê-su khẳng định điều đó một cách rõ ràng lúc khởi đầu sứ vụ: “Hôm nay đã hoàn thành đoạn Kinh Thánh mà anh chị em vừa nghe” (Lc 4, 21). Kẻ được nuôi dưỡng mỗi ngày bằng Lời Chúa, cũng giống như Chúa Giê-su, làm cho mình trở thành người đồng thời với những con người mà mình gặp gỡ; nó không bị cám dỗ rơi vào những nỗi nhớ khô cằn của quá khứ, cũng như những ảo vọng không tưởng hướng về tương lai.” (Số 12)

Nói cách khác, phải biến cuộc sống trở nên lời chứng sống động của Lời Chúa. Phải cất đi những góc gai sỏi đá và cày xới liên tục bằng hy sinh nguyện cầu để biến cuộc đời thành mảnh đất mở màu cho Lời Chúa kết trái đơm hoa.

Nếu Phêrô, Gioan không can đảm “nghe Lời Thiên Chúa hơn lời người phàm” (Cv 4, 18), cho dù phải đối diện với đòn vọt ngục tù và cả cái chết thì làm sao có được Hội Thánh hôm nay? Nếu Phaolô không xác tín mạnh mẽ rằng: “khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”, thì làm sao một phần ba nhân loại hôm nay biết được Đức Kitô là ai và Tin Mừng cứu rỗi là gì? Cũng thế, nếu không có những Augustinô, Phanxicô Xavie, những Têrêsa hài đồng, những Anrê Phú Yên…; hay mới đây, trong thời đại nầy, những người như cha thánh Maximilien Kolbe, Mẹ Têrêsa Calcutta, Thánh giáo hoàng Gioan 23 và Gioan-Phaolô 2, Vị Tôi Tớ Chúa Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận… thì làm sao vườn hoa Giáo Hội có được mùa lúa bội thu như hôm nay?

Bên cạnh những tượng đài vĩ đại đó, trong Hội Thánh hôm qua và hôm nay còn có bao nhiêu “mảnh đất tâm hồn” âm thầm nhưng vĩ đại, như cô gái Vêrônica phung cùi người Camêrun, cho dù mù mắt, cùi tay, cụt giò, vẫn vui tươi biến cuộc đời thành hy lễ để Lời Chúa kết trái đơm bông nơi bao nhiêu anh chị em thương tật cùi phung khác, được khắc ghi nơi lời cầu nguyện cảm động sau đây:

Lạy Chúa, Chúa đã đến, đã xin con tất cả, Và con đã dâng Chúa tất cả: Con thích đọc, Chúa đã lấy mất của con đôi mắt. Con thích chạy nhảy giữa rừng cây, Chúa đã lấy mất của con cặp giò. Con thích hái hoa mùa xuân, Chúa đã lấy mất đôi bàn tay con. Con là phụ nữ, Thích ngắm mái tóc mình óng ả. Và những ngón tay mình thanh tú, Thì giờ đây, Đầu con trọc lóc đến nơi rồi, Và thế chỗ cho những ngón tay thanh tú, Con chỉ còn những mẫu cùi cứng khô. Chúa xem nè, Thân hình duyên dáng của con, Đã hư hoại quá mất rồi. Nhưng, Con không nổi loạn, Con tạ ơn Chúa. Muôn đời con sẽ thưa lời tạ ơn. Bởi, nếu đêm nay con chết, Con sẽ nhận thức được rằng: Đời con đã được đong đầy kỳ diệu. Sống lấy tình yêu, Con đã được đổ cho ắp tràn giàn giụa, Hơn hẳn lòng mình mong ước. Ôi, Cha của con, Cha tốt với con gái bé nhỏ Vêrônica Của cha dường nào !...Và chiều nay, …Hãy ghìm con xuống sâu thẳm trái tim Cha, Và ước chi con được ở đó mãi Với những nguời con mến thương Đến muôn thuở muôn đời. Amen..

Như vậy, chúng ta xác tín rằng, một khi đã mang Lời Chúa lên đường, một khi đã trở thành người gieo giống, và một khi đã đón nhận hạt giống Lời Chúa với một cõi lòng “đất tốt”, thì dứt khóa đường đi của Lời Chúa là “đường đi phải đến”, phải đến để mảnh đất trần gian nầy bớt đi những cỏ lùng hoang dại và trỗ sinh những hoa trái tốt lành. Và như thế, Lời Chúa không còn là “nỗi nhớ khô cằn của quá khứ” hay “ảo vọng không tưởng của tương lai”, mà Lời Chúa chính là hôm nay và bây giờ. Amen.

Trương Đình Hiền