Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, nơi ông giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban William E. Simon về Các Nghiên cứu Công Giáo. 25 cuốn sách của ông bao gồm cuốn tiểu sử hai tập về Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Chứng Nhân Hy Vọng, là cuốn sách bán chạy nhất của New York Times đã dịch sang 14 ngôn ngữ.

Người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vừa có bài nhận định sau nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của vị Đại Giáo Hoàng Ba Lan.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.


On John Paul II’s Centenary
George Weigel

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Đức Gioan Phaolô II




Khi thế giới và Giáo hội đánh dấu một trăm năm ngày sinh của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào ngày 18 tháng 5, một kính vạn hoa những ký ức định hình lời cầu nguyện và suy tư của tôi vào ngày này. Đức Gioan Phaolô II tại bàn ăn của mình, rất hiếu kỳ và đầy tính hài hước; Đức Gioan Phaolô II than thở cầu nguyện trước bàn thờ trong nhà nguyện của căn phòng giáo hoàng; Đức Gioan Phaolô II cười nhạo tôi từ chiếc Popemobile khi tôi đi dọc theo con đường bụi bặm bên ngoài Camagüey, Cuba, tìm kiếm những người bạn đã bỏ tôi lại sau Thánh lễ giáo hoàng vào tháng Giêng năm 1998; Đức Gioan Phaolô II, với khuôn mặt bị cứng đơ vì bệnh Parkinson, nói thầm qua đôi mắt vào tháng 10 năm 2003, “Hãy xem những gì tôi đã trở thành...”; Đức Gioan Phaolô II, trở lại phong độ tốt hai tháng sau đó, hỏi về đám cưới gần đây của con gái tôi và nói với tôi về việc liệu tôi đã sẵn sàng trở thành một nonno (ông nội) chưa; và Đức Gioan Phaolô II nằm trong trạng thái bất động tại Sala Clementina của Dinh Tông Tòa, thân xác tự nhiên trong trạng thái nghỉ ngơi, mang đôi giày sờn dây thường khiến các viên chức nghi lễ truyền thống của giáo hoàng phát điên.

Mỗi họa tiết này, và những thứ khác trong hồi ký của tôi về vị thánh, những Bài học về Hy vọng, có một tiếng vang riêng. Tôi có hai điều, tóm lược tư chất của vị thánh này, mà tôi muốn đưa ra với mọi người trong ngày kỷ niệm 100 này.

Tháng 3 năm 2000 tôi đang ở Giêrusalem cùng NBC để tường trình cuộc hành hương của Đức Giáo Hoàng đến Thánh địa. Trong nhiều tuần, đã nổ ra một cuộc tranh cãi toàn cầu về chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng đến Yad Vashem, là đài tưởng niệm tại Giêrusalem về Cuộc Diệt Chủng người Do Thái. Đức Giáo Hoàng sẽ nói gì? Ngài nên nói gì? Ngài có thể nói gì?

Tôi phát hiện ra hai ngày trước khi sự kiện diễn ra, vào một buổi tối thứ ba mưa phùn, tôi đi ngang qua Cổng Mới của Thành phố Cổ đến Trung tâm Notre Dame, nơi đang có bữa tiệc mừng Đức Giáo Hoàng đến thăm. Ở đó, một quan chức trong giáo triều thân thiện đã đưa cho tôi một đĩa mềm trong đó có các văn bản những bài phát biểu và bài giảng của Đức Giáo Hoàng trong chuyến viếng thăm của ngài. Quay trở lại phòng khách sạn của tôi, tôi lập tức tìm kiếm phần nhận xét được chuẩn bị cho Yad Vashem. Khi tôi đọc những dòng này, tôi cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống.

Tại chính Yad Vashem, vào ngày 23 tháng 3, cảnh tượng Đức Giáo Hoàng ở tuổi 80 cúi đầu cầu nguyện thầm lặng trên ngọn lửa vĩnh cửu của hội trường tưởng niệm đã nhanh chóng làm tắt tiếng những cuộc tranh luận và các suy đoán trên thế giới trước chuyến thăm đó. Và sau đó là những lời không thể nào quên được và hoàn toàn phù hợp với bối cảnh đến mức sững sờ: “Tại nơi tưởng niệm này, tâm trí, trái tim và tâm hồn cảm thấy một nhu cầu tột độ cho sự im lặng. Im lặng để tưởng nhớ. Im lặng để tìm ra ý nghĩa cho những ký ức đang tràn về. Im lặng vì không có từ nào đủ mạnh để lên án bi kịch khủng khiếp của Shoah [Cuộc Diệt Chủng người Do Thái].”

Vài ngày sau, tôi nhận được một cú điện thoại từ một người bạn Do Thái, anh Menahem Milson, là một cựu quân nhân và là một học giả xuất sắc, là người đã phải chứng kiến rất nhiều trong cuộc sống của mình. “Tôi phải nói với bạn rằng Arnona [vợ anh] và tôi đã khóc suốt chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng tại Yad Vashem. Đây là trí tuệ, sự nhân bản và liêm chính đã được nhân cách hóa. Không thiếu điều gì. Không cần thiết phải nói gì hơn.”

Ký ức mang tính biểu tượng thứ hai là từ cuộc hành hương của Đức Giáo Hoàng vào hôm 26 tháng Ba khi ngài đi chậm rãi xuống đại lộ trước Đền Herôđê ở Bức tường Than Khóc. Ngài dừng lại ở Bức tường, cúi đầu cầu nguyện, và sau đó như hàng triệu người hành hương trước, ngài đã để lại một bản kiến nghị tại một trong những kẽ hở của Bức tường: “Lạy Thiên Chúa của các tổ phụ chúng con, Chúa đã chọn Ápraham và con cháu ông để mang Danh Chúa đến các quốc gia; chúng con vô cùng đau buồn trước cách cư xử của những con người trong dòng lịch sử đã làm cho các con cái Chúa phải đau khổ, và khi cầu xin sự tha thứ Chúa, chúng con cam kết dấn thân cho một tình huynh đệ chân chính với dân tộc của Giao ước. Amen. Gioan Phaolô II.”

Hai cảnh này mang đến cho chúng ta chìa khóa để hiểu Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài có thể thuyết giảng về tình đoàn kết, thể hiện tình đoàn kết và kêu gọi mọi người đến với tình đoàn kết sâu sắc hơn vì ngài là một môn đệ của Chúa Kitô đã hoán cải triệt để: một người tin đến thẳm sâu tận cùng con người mình rằng lịch sử ơn cứu độ - nghĩa là lịch sử Chúa mặc khải chính Ngài với Dân Israel và tối hậu là nơi Chúa Giêsu Kitô - là sự thật sâu sắc nhất, sự thật nội tại của lịch sử thế giới. Đức Gioan Phaolô II, người có khả năng được nhìn thấy bởi nhiều người hơn bất kỳ một vĩ nhân nào trong lịch sử, có thể làm xúc động sâu xa hàng triệu người vì ân sủng của Thiên Chúa tỏa chiếu qua ngài, làm say mê tất cả những ai mà ánh sáng và sự ấm áp của ân sủng ấy chạm đến.

Chìa khóa để hiểu tác động của Đức Gioan Phaolô II là đức tin rạng rỡ, tập trung vào Chúa Kitô.


Source:First Things