“Hãy trông lại, chỉ một giây thôi. Hãy ban Lời, chỉ một câu thôi. Chúa đã từng dựng nên đất trời. Tình Ngài một chút đủ vui một đời”. Ca từ của một bản thánh ca đã làm tôi ngây ngất một thời. Bỗng giật mình vì Chúa đã tỏ mình cho muôn dân. Lời Chúa phán truyền cho nhân loại đã nên trọn hảo nơi chính Đấng làm người, Giêsu Kitô (x.Dt 1,1-2). Hội Thánh cử hành Lễ Hiển Linh cũng là để khẳng định rằng Thiên Chúa đã tỏ mình cho muôn dân, bất phân màu da, chủng tộc, quốc tịch, niềm tin, phận vị hay vai vế. Các mục tử, hầu chắc là Do thái giáo tại cánh đồng Bêlem và ba vị đạo sĩ Đông phương như là đại diện cho toàn thể nhân loại. Chúa đã tự tỏ mình, thế mà vẫn còn đó rất nhiều người chưa nhận ra. Tất cả đều có lý do. Phải chăng là do ở những cách thế Chúa tỏ mình khiến nhiều người khó tiếp nhận? Nào ta cùng xem thử những cách thế Chúa thường dùng để hiển linh hay tự tỏ mình ra cho loài người chúng ta.

1.Vũ trụ thiên nhiên và các dấu chỉ thời đại: Tác giả Thánh Vịnh không chút do dự khi xác nhận: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa. Không trung loan báo việc tay Người làm…” (Tv 19). Thánh Tông đồ dân ngoại đã khẳng định với dân thành Roma: “Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người” (Rm 1,20).

Khi đi rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô cũng đã mời gọi người đương thời vốn biết luận suy các dấu chỉ thiên nhiên để biết tiết thời nắng mưa hay xuân hè thì cũng phải biết nhìn các hoạt động của Người để nhận ra triều đại Thiên Chúa đang đến (x.Lc 21,29-31). Các dấu chỉ thời đại qua dòng lịch sử nhân loại cũng là một cách thế Thiên Chúa dùng để bày tỏ thánh ý của Người.

2. Lời Thiên Chúa mạc khải qua Thánh Kinh: “Thưở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Là Kitô hữu, chúng ta dễ dàng chân nhận kho tàng mạc khải là Thánh Kinh. Tuy nhiên trong niềm tin Công Giáo chúng ta còn nhìn nhận vai trò giải thích Thánh Kinh một cách chính thức và Tông Truyền của Hội Thánh mẹ.

Sau khi ánh sao lạ vụt tắt, ba nhà đạo sĩ đã vào thành Giêrusalem cầu cứu thì vua Hêrôđê đã cho vời các Trưởng Tế và luật sĩ đến để hỏi xem Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Nhờ lời Kinh Thánh, họ đã trả lời với Hêrôđê: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách Ngôn sứ có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2, 5-6).

Song song với nguồn mạc khải là Thánh Kinh thì Hội Thánh Công Giáo còn tin nhận một nguồn mạc khải khác đó là Thánh Truyền. Đó là những gì Chúa Kitô truyền dạy cho các Tồng đồ mà không được ghi lại trong Kinh Thánh. Nói như Thánh Tông đồ Gioan: “Còn nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu ghi lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21,25). Đó là “việc lưu truyền Lời Chúa sống động được thực hiện trong Chúa Thánh Thần, là việc Chúa Cha truyền thông chính mình, nhờ Ngôi Lời và trong Chúa Thánh Thần; việc này vẫn tiếp diễn và tác động trong Hội Thánh” (GLHTCG số 79) (Tự Điển Công Giáo trang 314).

Thiên Chúa đã tỏ mình ra nghĩa là Người đã mạc khải chính Người, chương trình và ý định của Người cho nhân loại chúng ta. Người đã tỏ mình ra qua các công trình của Người theo dòng lịch sử là vũ trụ thiên nhiên, là các biến cố thời đại. Người đã tỏ mình ra qua Thánh Kinh, qua Đấng là Ngôi Lời, qua truyền thống đức tin của Hội Thánh do các Tông đồ truyền lại. Thế nhưng để nhận ra Thiên Chúa cũng như chuơng trình và ý định của Người thì còn cần một yếu tố có tính quyết định về phía con người đó là tấm lòng thành của một lương tâm ngay chính.

Biết bao người thời các đạo sĩ Đông phương vẫn có thể nhìn thấy ánh sao lạ, biết bao người thời vua Hêrôđê như các Thượng tế, các Kinh sư đều thông thuộc Thánh Kinh và ngay cả hôm nay cũng biết bao người đã nghe, hiểu lời giảng dạy của Hội Thánh, tiếp cận cách thời sự các dấu chỉ thời đại qua mạng lưới viễn thông, thế mà họ vẫn chưa nhận ra hay không nhận ra Thiên Chúa. Tất thảy chỉ vì họ đang thiếu tấm lòng thành như ba nhà đạo sĩ năm xưa. Rất có thể vì họ chưa có một lương tâm trong sáng và ngay lành.

“Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Sự trong sạch của tâm hồn ở đây không hạn hẹp ở việc giữ lòng thanh sạch, khỏi mọi vương vấn tà dâm. Một tâm hồn trong sạch, thiết nghĩ phải là một tâm hồn biết nhạy bén với điều hay, lẽ phải, với những điều tốt đẹp và sự thiêng thánh. Một tâm hồn trong sạch là tâm hồn biết tự do với những thiện hảo thế trần. Chúa Kitô đã nói rõ chân lý này khi khẳng định với các biệt phái rằng không phải giữ nghi lễ rửa chén bát, tay chân mà nên trong sạch nhưng khi biết đem những gì bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên thanh sạch cho chúng ta (x.Lc 11,37-41). Để có một tâm hồn trong sạch như thế, chắc chắn ta cần phải thanh luyện không ngừng để thoát khỏi những quyến luyến bất chính, từ bỏ tội ác, quyết tâm xa lánh chước cám dỗ đồng thời luôn tích cực dệt xây lòng hướng thượng và chí cầu tiến. “Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5,6). Tình Ngài một chút, đủ vui một đời. Gặp Người một chút, hạnh phúc cả đời.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột