Chương III: Di dân

“Cha tôi là một người Aram lang thang...” (Đnl 26: 5)

Các dân tộc Amazon rời cư



63. Ở Amazon, di cư để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn là một hằng số lịch sử. Nó giống như một con lắc đến rồi đi [25], buộc phải di cư trong cùng một đất nước và ra nước ngoài, tự ý di cư từ khu vực nông thôn tới các thành phố cũng như di cư quốc tế. Sự chuyển dịch này [26] ở Amazon chưa được hiểu rõ hoặc giải quyết đầy đủ theo quan điểm mục vụ. Tại Puerto Maldonado, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đề cập đến thực tại này: “Nhiều người đã di cư đến Amazon để tìm kiếm nhà ở, đất đai và việc làm. Họ đến tìm kiếm một tương lai tốt hơn cho bản thân và gia đình. Họ từ bỏ cuộc sống nghèo khó, nhưng xứng đáng. Nhiều người trong số họ, vì hy vọng rằng một số công việc nào đó sẽ chấm dứt tình trạng bấp bênh của họ, được lôi kéo bởi sức hấp dẫn đầy hứa hẹn của việc khai thác vàng. Nhưng chúng ta đừng quên rằng vàng có thể biến thành một vị thần giả đòi hỏi sự hy sinh của con người” (27).

Nguyên nhân của di cư

64. Amazon là một trong những khu vực có mức độ di động quốc nội và quốc tế cao nhất ở Châu Mỹ Latinh. Các nguyên nhân của nó là chính trị xã hội, khí hậu và kinh tế cũng như đàn áp sắc tộc. Các nguyên nhân kinh tế chủ yếu được gây ra bởi các dự án chính trị, các siêu dự án và các công ty khai khoáng, thu hút công nhân nhưng đồng thời trục xuất cư dân của các khu vực bị ảnh hưởng. Sự xâm lăng đối với môi trường dưới danh nghĩa “phát triển” [28] đã làm giảm đáng kể phẩm chất cuộc sống của các dân tộc Amazon, cả dân cư thành thị lẫn nông thôn, do ô nhiễm lãnh thổ và mất khả năng sinh sản.

65. Do những nguyên nhân này, trên thực tế, khu vực đã trở thành một hành lang di cư. Những cuộc di cư như vậy xảy ra giữa các quốc gia vùng Amazon (như làn sóng di cư đang gia tăng từ Venezuela) hoặc đến các khu vực khác (ví dụ: đến Chile và Argentina) [29].

Các hậu quả của việc di cư

66. Hiện tượng di cư, bị lãng quên cả về chính trị lẫn mục vụ, đã góp phần gây bất ổn xã hội trong các cộng đồng Amazon. Các thành phố trong khu vực, nơi liên tục nhận được số lượng lớn người mới nhập cư, không thể cung cấp các dịch vụ căn bản mà người di cư cần. Điều này đã khiến nhiều người đi lang thang và ngủ ở các khu vực trung tâm thành phố, không có công ăn việc làm, không có thức ăn, không có nơi trú ẩn. Nhiều người trong số này thuộc các dân tộc bản địa buộc phải từ bỏ vùng đất của họ. “Các thành phố dường như là một vùng đất không có chủ sở hữu. Chúng là đích đến mà người ta thường hướng về sau khi bị đuổi khỏi lãnh thổ của họ. Thành phố phải được hiểu theo mô hình khai thác này: làm trống các vùng lãnh thổ để chiếm đoạt chúng, di dời dân cư và trục xuất họ vào thành phố” [30].

67. Hiện tượng này, trong nhiều điều khác, gây bất ổn cho các gia đình khi một trong hai cha mẹ đi xa tìm việc làm, để lại con cái và người trẻ lớn lên không có hình ảnh người cha và / hoặc người mẹ. Những người trẻ cũng di chuyển để tìm kiếm việc làm hoặc việc làm không đâu vào đâu miễn giúp duy trì những gì còn lại của gia đình, bỏ cả nền giáo dục tiểu học và chịu đựng đủ thứ lạm dụng và bóc lột. Ở nhiều vùng Amazon, những người trẻ này là nạn nhân của buôn bán ma túy, buôn người hoặc mại dâm (nam và nữ) [31].

68. Sự lơ là của các chính phủ liên quan đến việc thực thi các chính sách công có chất lượng trong nội địa, chủ yếu là giáo dục và y tế, cho phép diễn trình di động này tăng tốc mỗi ngày. Mặc dù Giáo hội đã đồng hành với dòng di cư này, những khoảng trống mục vụ vẫn còn trong khu vực Amazon cần được giải quyết.

Các gợi ý

69. Người di cư mong đợi gì từ Giáo hội? Làm thế nào chúng ta có thể giúp họ cách hữu hiệu hơn? Làm thế nào chúng ta có thể cổ vũ việc hội nhập giữa người di cư và cộng đồng địa phương?

a) Cần có sự hiểu biết tốt hơn về các cơ chế dẫn đến sự tăng trưởng bất cân xứng của các trung tâm đô thị và và việc bỏ các khu vực nội địa, bởi vì cả hai năng động tính đều là thành phần của cùng một hệ thống (mọi sự đều được nối kết). Mọi điều này đều đòi hỏi sự chuẩn bị của đầu và tim của các tác nhân mục vụ để đối diện với tình huống nguy cấp này.

b) Cần phải làm việc theo nhóm, thấm nhiễm lý tưởng truyền giáo mạnh mẽ và được phối hợp bởi những người có kỹ năng đa dạng và bổ túc cho nhau để hành động hữu hiệu. Vấn đề di cư cần được xử lý một cách có phối hợp, nhất là bởi các Giáo Hội ở biên giới.

c) Thiết lập một dịch vụ tiếp đón trong mỗi cộng đồng đô thị, có thể nhanh chóng chào đón những người đến bất ngờ có các nhu cầu khẩn cấp và cũng có thể cung cấp sự bảo vệ chống lại mối đe dọa của các tổ chức tội phạm.

d) Cổ vũ các dự án nông nghiệp-gia đình trong các cộng đồng nông thôn.

e) Làm cho cộng đồng giáo hội can dự vào việc áp lực các cơ quan công quyền đáp ứng các nhu cầu và quyền lợi của người di cư.

f) Cổ vũ sự hòa nhập giữa người di cư và cộng đồng địa phương trong khi tôn trọng bản sắc văn hóa của nhau, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng tuyên bố:

“Hòa nhập, một điều không phải là đồng hóa hay sáp nhập, là một diễn trình hai chiều, bắt nguồn từ sự thừa nhận chung sự giàu có về văn hóa của người khác: đó không phải là sự áp đặt một nền văn hóa lên một nền văn hóa khác, cũng không phải là sự cô lập lẫn nhau, với rủi ro xảo quyệt và nguy hiểm tạo nên các khu ‘ghettos’ (biệt cư)” [32].

Chương IV: Đô thị hóa

“Các thành phố tạo ra một lưỡng phân (ambivalence) vĩnh viễn vì, trong khi cung cấp cho các cư dân của chúng vô số khả thể, chúng cũng đem lại cho nhiều người đủ thứ trở ngại đối với việc phát triển toàn diện của cuộc sống của họ” (EG 74).

Đô thị hóa vùng Amazon



70. Mặc dù ngày nay, người ta nói đến Amazon như lá phổi của hành tinh (xem LS 38) và là rổ bánh của thế giới, nhưng việc tàn phá khu vực và cảnh nghèo đói đã gây ra sự rời cư lớn lao của dân chúng nhằm tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn. Kết quả của cuộc “xuất hành này để đi tìm vùng đất hứa” là sự tăng trưởng của hiện tượng đô thị hóa trong khu vực [33], nơi các thành phố cấu thành một thực tại lưỡng phân. Kinh thánh miêu tả sự mơ hồ này khi trình bày Cain như người sáng lập các thành phố sau tội lỗi của hắn (St 4:17), nhưng sau đó cũng trình bầy nhân loại đang cố gắng hướng tới việc thực hiện lời hứa về Giêrusalem trên trời, nơi ở của Thiên Chúa với loài người (Kh 21 : 3).

71. Theo thống kê, dân số đô thị của Amazon đã tăng theo cấp số nhân; hiện có từ 70% đến 80% dân số cư trú tại các thành phố [34]. Nhiều người trong số họ thiếu cơ sở hạ tầng và các tài nguyên công cộng cần thiết để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống đô thị. Khi số lượng thành phố tăng lên, số lượng cư dân nông thôn giảm đi.

Văn hóa đô thị

72. Tuy nhiên, vấn đề đô thị hóa không chỉ bao gồm việc rời cư của người dân và sự phát triển của các thành phố, mà cả việc truyền tải lối sống đô thị đặc thù. Kiểu mẫu của nó đi vào thế giới nông thôn, thay đổi tập quán, phong tục và cách sống truyền thống. Văn hóa, tôn giáo, gia đình, giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên, việc làm và các khía cạnh khác của cuộc sống thay đổi nhanh chóng để đáp ứng các lời mời gọi mới của thành phố.

Các thách thức đô thị

73. Đưa Amazon vào thị trường hoàn cầu hóa tạo ra nhiều loại trừ hơn, cũng như việc đô thị hóa nghèo đói. Theo các câu trả lời cho Bảng câu hỏi của Tài liệu chuẩn bị, các vấn đề chính nảy sinh với việc đô thị hóa là:

a) Tăng bạo lực đủ loại.

b) Lạm dụng và khai thác tình dục, mại dâm và buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ.

c) Buôn bán và tiêu thụ ma túy.

d) Buôn bán vũ khí.

e) Di động tính nhân bản và khủng hoảng bản sắc.

f) Gia đình tan vỡ [35].

g) Các xung đột văn hóa và mất ý nghĩa trong cuộc sống.

h) Sự không hữu hiệu của các dịch vụ y tế / vệ sinh. [36]

i) Thiếu phẩm chất giáo dục và bỏ học [37].

j) Thiếu đáp ứng của các cơ quan công quyền đối với cơ sở hạ tầng và việc cổ vũ nhân dụng.

k) Thiếu tôn trọng quyền tự quyết và quyền tự chủ của dân chúng.

l) Tham nhũng hành chánh [38].

Các gợi ý

74. Có đề nghị cho rằng :

a) Phải cổ vũ một môi trường đô thị nơi các không gian công cộng được hồi sinh, với các quảng trường và trung tâm văn hóa được phân phối tốt.

b) Phải cổ vũ việc tiếp cận phổ cập giáo dục và văn hóa.

c) Phải cổ vũ ý thức về môi trường, tái chế rác và tránh đốt rác.

d) Phải cổ vũ một hệ thống vệ sinh môi trường và tiếp cận y tế phổ quát.

e) Phải biện phân cách giúp cải thiện cuộc sống nông thôn, với các phương thế sinh tồn khác như nông nghiệp gia đình.

f) Phải tạo các không gian để tương tác giữa túi khôn của người bản địa, sông ngòi và các dân tộc “quilombola” (nô lệ gốc Phi châu đã giải phóng ở Ba Tây) trong các khung cảnh đô thị và túi khôn của người dân thành thị, để tạo ra cuộc đối thoại và hòa nhập quanh việc chăm sóc cuộc sống.

Chương V: Gia đình và cộng đồng

“Chính Chúa Giêsu cũng được sinh ra trong một gia đình khiêm tốn, phải sớm chạy trốn đến một vùng đất xa lạ” (AL 21)

Các gia đình Amazon



75. Một chiều kích vũ trụ (cosmovivencia) của kinh nghiệm đang đập nhịp trong các gia đình. Nó dựa trên kiến thức và thực hành truyền thống lâu đời trong các lĩnh vực khác nhau như nông nghiệp, y học, săn bắn và câu cá, hài hòa với Thiên Chúa, thiên nhiên và cộng đồng. Cũng chính trong gia đình, các giá trị văn hóa được truyền tải, như tình yêu đất đai, tính hỗ tương, liên đới, sống trong hiện tại, cảm thức gia đình, sự đơn giản, công việc cộng đồng, tự tổ chức, y học tổ tiên và giáo dục. Ngoài ra, văn hóa truyền khẩu (những câu chuyện, tín ngưỡng và bài hát) với màu sắc, quần áo, thức ăn, ngôn ngữ và nghi lễ của nó là một phần của di sản này được lưu truyền trong gia đình. Tóm lại, gia đình là nơi người ta học cách sống hòa hợp: giữa các dân tộc, giữa các thế hệ, với thiên nhiên, trong cuộc đối thoại với các vị thần [39].

Các thay đổi xã hội và tính dễ bị tổn thương của gia đình

76. Gia đình ở vùng Amazon vốn đã là nạn nhân của chủ nghĩa thực dân trong quá khứ và chủ nghĩa tân thực dân trong hiện tại. Việc áp đặt mô hình văn hóa phương tây đã khắc sâu một sự khinh miệt nào đó đối với người dân và phong tục của lãnh thổ Amazon, thậm chí còn gọi họ là những kẻ man rợ. Ngày nay, việc áp đặt mô hình kinh tế khai khoáng phương Tây một lần nữa ảnh hưởng đến các gia đình bằng cách xâm chiếm và phá hủy đất đai, văn hóa và cuộc sống của họ, buộc họ phải di cư đến các thành phố và vùng ngoại vi.

77. Những thay đổi tăng tốc hiện tại ảnh hưởng đến gia đình ở vùng Amazon. Do đó, chúng ta tìm thấy nhiều cơ cấu gia đình mới: gia đình cha mẹ đơn thân do một người phụ nữ đứng đầu; sự gia tăng các gia đình ly thân, các cuộc kết hợp đồng thuận và các gia đình tập hợp; và ít hơn là các cuộc hôn nhân theo định chế. Ngoài ra, người ta vẫn thấy phụ nữ bị khuất phục trong gia đình, trong khi bạo lực gia đình, cha mẹ vắng mặt, mang thai ở tuổi thiếu niên và phá thai đang gia tăng.

78. Gia đình trong thành phố là nơi tổng hợp, trong đó, các nền văn hóa truyền thống và hiện đại gặp nhau. Tuy nhiên, các gia đình thường phải chịu cảnh nghèo đói, nhà cửa bấp bênh, thiếu việc làm, tăng tiêu thụ ma túy và rượu, kỳ thị và thiếu niên tự tử. Ngoài ra, thiếu đối thoại giữa các thế hệ trong gia đình; các truyền thống và ngôn ngữ bị đánh mất. Các gia đình cũng phải đối diện với các vấn đề mới về sức khỏe; cần có sự giáo dục đầy đủ về việc làm mẹ. Người ta cũng thấy thiếu chú ý đến phụ nữ trong lúc mang thai và các giai đoạn trước lúc sinh và sau khi sinh [40].

Các gợi ý

79. Vùng Toàn Amazon rất đa văn hóa, do đó đóng góp lớn nhất là tiếp tục tranh đấu để bảo tồn vẻ đẹp của nó bằng cách củng cố cơ cấu gia đình-cộng đồng của các dân tộc của nó. Để đạt mục đích này, Giáo hội phải coi trọng và tôn trọng các bản sắc văn hóa. Cách riêng, nên:

a) Tôn trọng cách tổ chức cộng đồng riêng. Xét vì nhiều chính sách công ảnh hưởng đến bản sắc gia đình và tập thể, cần phải khởi xướng và hỗ trợ các diễn trình bắt đầu từ gia đình / thị tộc / cộng đồng để cổ vũ lợi ích chung, giúp vượt qua các cơ cấu nhằm tha hoá: “chúng ta phải tự tổ chức từ gia đình của mình” [41].

b) Nghe những bài hát học được trong gia đình như một cách phát biểu lời tiên tri trong thế giới Amazon.

c) Phát huy vai trò của phụ nữ, nhìn nhận các chức năng căn bản của họ trong việc hình thành và liên tục tính của các nền văn hóa, trong linh đạo, trong các cộng đồng và gia đình. Phụ nữ phải đảm nhận vai trò lãnh đạo trong Giáo hội.

d) Nói rõ ràng các yếu tố của thừa tác vụ gia đình phản ảnh lời khuyên của Tông huấn Amoris laetitia:

i. Một thừa tác mục vụ đồng hành toàn diện với gia đình, không loại trừ các gia đình bị thương tích.
ii. Một thừa tác mục vụ bí tích có thể củng cố và khuyến khích mọi người và không loại trừ ai.
iii. Đào tạo liên tục các tác nhân mục vụ, lưu ý tới Thượng Hội Đồng gần đây và các thực tại của các gia đình Amazon.
iv. Một thừa tác mục vụ gia đình trong đó gia đình vừa là chủ thể vừa là nhà chủ đạo.

Kỳ tới: Phần II, các chương 6-9