Khái quát nhìn về lịch sử của Humanae Vitae (về Sự Sống Con Người)

LTS: Nhân việc trình bày nội dung vắn tắt của Humanae Vitae vào ngày hôm qua, nay mời Quý độc giả của VietCatholic tìm hiểu thêm về về lịch sử khái quát của Humanae Vitae.

Mãi cho đến năm 1930, tất cả các nhà thờ thuộc Kitô giáo, vốn là tôn giáo chính trên khắp cả thế giới, đều đồng ý rằng: việc ngừa thai là hoàn toàn sai trái. Thế nhưng, vì sự phổ biến của phương pháp ngừa thai bằng miệng này, nên các giáo hội thuộc Anh Giáo vào năm 1930 đã cho phép áp dụng phương pháp ngừa thai chỉ trong phạm vi của hôn nhân và trong những trường hợp trầm trọng mà thôi. Liền ngay sau đó, tất cả các giáo hội khác cũng theo bước, để đồng ý cho phép áp dụng phương pháp ngừa thai, và kể từ đó nó được dùng một cách đại trà, ngoài cả phạm vi của hôn nhân.

Với sự phổ biến rộng rãi của các phương pháp ngừa thai vào những năm 1960, áp lực cũng từ đó đè nặng lên Giáo Hội Công Giáo, buộc Giáo Hội phải thay đổi về những cách giảng dạy của mình về việc ngừa thai.

Trong các năm đầu của thập niên 60, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan 23 đã cho thiết lập ra một ủy ban gồm sáu nhà thần học, để tham gia vào các cuộc hội luận thế giới về các vấn đề như: thừa thải dân số, vấn đề về nữ tính, việc sử dụng viên thuốc ngừa thai và cách thức mà Giáo Hội Công Giáo đã giảng dạy để đối phó với những thách đố trên. Nhiệm vụ chính của ủy ban là nhằm cố vấn cho Đức Giáo Hoàng về các vấn đề trên. Thế nhưng, sáu nhà thần học đó, thay vì đứng về phía Giáo Hội, họ lại quay trở ngược lại và tự nhìn nhận rằng Giáo Hội sẽ có thể thay đổi về cách giảng dạy của việc cho rằng ngừa thai là chuyện hoàn toàn sai trái.

Sau khi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan 23 băng hà, Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục nối ngôi, và liền sau đó, Ngài cho thêm vào rất nhiều lời chú thích vào văn kiện Gaudium et Spes, để làm sáng tỏ những đoạn văn nói về cuộc hôn nhân. Hầu hết những phần thêm vào đó được viết ra bởi Woytila, vì lẽ, ai ai cũng đều rất dễ nhận ra phong cách viết của vị Hồng Y người Ba Lan này, vì suy cho cùng, đó cũng chính là lãnh vực nghiên cứu của Ngài

Ủy ban gồm sáu nhà thần học ngược đời đó, giờ đây đã thâu nhận thêm 15 thành viên mới, là những người có quyền bầu phiếu, nhằm quyết định mở lại những cuộc điều tra. Chín ủy viên trong số họ, sau đó, đã bỏ phiếu rằng Giáo Hội nên và rất có thể cho phép áp dụng việc ngừa thai. (Woytila cũng nằm trong ủy ban này nhưng bị ngăn cản không được quyền đầu phiếu, và chính phủ Ba Lan lúc bấy giờ chỉ cho phép Ngài tham dự những cuộc họp tại công đồng Vaticăn II mà thôi.) Ủy ban này đã quên rằng sở dĩ họ có mặt tại đó là để đưa ra những lời cố vấn mà thôi, chứ không được quyền thay đổi các luật lệ về luân lý. Woytila liền lúc đó, cho lập ra một ủy ban của riêng Ngài và gởi một văn kiện thậm chí còn hay và súc tích hơn cả văn kiện Humanae Vitae (theo nhận xét của nhà viết tiểu sử George Wygall) đến cho Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục.

Theo lệ thường, kết quả của ủy ban phải được giữ kín cho đến khi tất cả các thành viên đều băng hà. Ủy ban đã hoàn thành xong bản báo cáo vào năm 1966, thế nhưng vào năm 1967, họ đã cho rĩ ra ngoài toàn bộ nội dung của văn kiện cho các báo chí Công Giáo thuộc Anh Quốc và Hoa Kỳ. Bằng cách cho cả thế giới biết về những lời cố vấn của ủy ban này cho Đức Giáo Hoàng, họ đã cố tình chủ ý buộc Đức Giáo Hoàng phải ra tay hành động. Cả thế giới lại vừa bị chấn động, vừa lại hy vọng rằng sẽ có sự thay đổi, và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Lục lúc đó, đã phản ứng lại với văn kiện có tên là Humanae Vitae vào năm 1968 nhằm giải thích các luật lệ về luân lý lẫn sự thật rằng Giáo Hội sẽ không tự do tùy tiện sửa đổi các luật lệ về luân lý mà trái lại, Giáo Hội phải có trách nhiệm để bảo tồn những luật lệ về luân lý, đạo đức đó, cũng như bảo vệ tính nhân phẩm của các cặp vợ-chồng. Những ngôn từ của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã chứng tỏ cho thế giới biết rằng Ngài biết là những giảng dạy của Giáo Hội rất khó có thể chấp nhận được bởi vì có quá nhiều tiếng nói khác nhau trên khắp cả thế giới. Chính vì thế, Ngài nói rằng, Giáo Hội trông có vẽ như là một dấu chỉ đối lập lại với những việc vô luân.

Ngay sau khi sự xuất bản của Humanae Vitae, những thầy giáo giảng dạy của Giáo Hội như linh mục Charles Curran (người dường như có được một bản sao của Humanae Vitae trước hết) đã đưa ra những lời phát biểu công khai rằng những người Công Giáo không bắt buộc phải theo những giảng dạy của Đức Giáo Hoàng.

Tại các chủng viện ở Rôma và trên khắp cả thế giới, Humanae Vitae đã không được giảng dạy trong chương trình học chính, và các chủng sinh được khuyến cáo rằng không nên đọc hay nghiên cứu gì cả vì rằng chẳng bao lâu Giáo Hội sẽ phải thay đổi những giảng dạy của mình. Chính vì thế, Humanae Vitae đã bị loan truyền một cách sai lạc. Từ đó, một thế hệ gồm rất nhiều linh mục cũng chính vì thế không hề giảng và dạy giáo lý nào có liên quan đến việc ngừa thai. Khuynh hướng chung được áp dụng trên cả thế giới chính là khuyên các cặp vợ-chồng hãy hành xử theo đúng lương tâm của riêng họ, mặc dầu chẳng có những nổ lực nào được đưa ra để làm thức tỉnh lương tâm của họ.

Mặc cho những bất đồng và thậm chí việc áp dụng rộng rãi phương pháp ngừa thai trong số những người Công Giáo, Giáo Hội vẫn tiếp tục, vẫn liên lũy thể hiện lập trường của Giáo Hội chống lại việc ngừa thai, vì đó là một tội vi phạm đến đạo đức luân lý một cách trầm trọng; và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã cực lực chống lại chuyện ngừa thai, và không ngừng nghĩ viết và giảng dạy về chủ đề này, vì chưng, nó được xem như là một chương trình hành động nền tảng trong triều đại Giáo Hoàng của Ngài

Vào những năm của thập niên 90, với sự xuất bản của Thần Học về Thân Xác của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị, cả thế giới bắt đầu quy hướng và nhìn nhận trở lại văn kiện về Humanae Vitae của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục, ra mắt vào năm 1968, và nó đã được giới thiệu lại và được giảng dạy chính thức tại tất cả các chủng viện.

Qua việc giảng dạy rằng việc ngừa thai tự bản chất của nó là vô luân lý, Giáo Hội không có áp đặt một hình thức kỷ luật nào cả đối với những người tín hữu Công Giáo, mà Giáo Hội chỉ giảng dạy những gì theo lẽ tự nhiên và theo Phúc Âm mà thôi. Và giờ đây, tất cả chúng ta đều học biết được rằng, nếu chúng ta, theo một con đường cứng rắn - để bất chấp, coi thường và để bị lôi cuốn vào những ham muốn nhục dục, thân xác, tức là chúng ta đã cố tình đi ngược lại với những luật lệ của tự nhiên, và của chính Thiên Chúa, và hành động đó sẽ gây tổn hại hết sức trầm trọng và nặng nề không những cho chúng ta, với tư cách là những cá nhân con người, mà cho cả toàn thể xã hội con người nói chung.

Riêng trong lãnh vực y học, càng ngày càng có nhiều sự nhìn nhận và áp dụng phương pháp hoạch định sinh sản một cách tự nhiên (theo tên tiếng Anh là Natural Family Planning (NFP)), như là những biện pháp hoàn thiện nhất phù hợp với những hiểu biết mới nhất về khoa học. NFP ngày càng trở thành phương pháp lựa chọn phổ thông tại các quốc gia thuộc thế giới thứ nhì và thứ ba, và sự thay đổi từ phương pháp chữa trị đối chứng sang những cách thức chữa trị tự nhiên cũng đang dần dà được phổ biến tại các quốc gia thuộc thế giới thứ nhất. Cách thức tiếp cận của NFP (vốn bao gồm về việc giảng dạy của cách thức kiêng cử, cách thức trung tín, những phương pháp về việc cho con bú, sự mất kinh kỳ) chính là nhằm hổ trợ cho những dự án nhắm đến sự kiêng cử, như là một giải pháp hữu hiệu duy nhất cho những bệnh dịch như bệnh AIDS chẳng hạn. Phương pháp này nhằm nhấn mạnh trở lại cấu trúc hạt nhân của gia đình, vì chưng đó cũng chính là giải pháp, cũng như là vấn nạn, đề từ đó dẫn đến sự ly dị, trẻ vị thành niên có thai, ngừa thai, và các bệnh lây lan qua đường tình dục tràn lan.

Để biết thêm nhiều chi tiết về phương pháp hoạch định sinh sản một cách tự nhiên cũng như tìm hiểu thêm chủ đề Thần Học về Thân Xác, mời Quý vị độc giả hãy vào trang web của NFP như sau: www.nfpoutreach.org