Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 23/12: Bàn tay Thiên Chúa trong cuộc đời ta – Lm. Giuse Lăng Kinh Luân, CS
Giáo Hội Năm Châu
02:27 22/12/2025
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. 58 Nghe biết Chúa đã rộng lòng thương xót bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.
59 Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. 60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói : “Không được ! Phải đặt tên cháu là Gio-an.” 61 Họ bảo bà : “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả.” 62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em là gì. 63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết : “Tên cháu là Gio-an.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65 Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 66 Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi : “Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.
Đó là Lời Chúa
Hài Nhi Giêsu – Vua Hoà Bình cho một thế giới bất an
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
03:42 22/12/2025
Hài Nhi Giêsu – Vua Hoà Bình cho một thế giới bất an
SUY NIỆM LỄ ĐÊM GIÁNG SINH
(Lc 2, 1-14)
Trong Đêm Thánh nay, giữa ánh sáng của đèn, nến lung linh và tiếng ca thiên thần, Giáo Hội long trọng công bố một Tin Mừng vượt thời gian: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các người trong thành của Đa-víd” (Lc 2,11). Đây không chỉ là một biến cố của quá khứ, nhưng là một “hôm nay” vĩnh cửu, mở ra niềm hy vọng cho một nhân loại đang bước đi trong u tối.
Thật vậy, như ngôn sứ Isaia đã loan báo: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan” (Is 9,1). Hai mươi thế kỷ trôi qua, lời ấy vẫn vang lên trong thế giới hôm nay với: chiến tranh, bạo lực, khủng bố, dịch bệnh, thiên tai, đổ vỡ gia đình, khủng hoảng luân lý và bất an nội tâm. Con người có nhiều phương tiện hơn, nhưng lại ít bình an hơn. Nhân loại tiến bộ về khoa học công nghệ với AI, nhưng lại tụt lùi trong tình huynh đệ.
Căn nguyên sâu xa của tình trạng ấy, như Kinh Thánh mặc khải, chính là tội lỗi. Từ khi con người bất tuân Thiên Chúa, nỗi sợ hãi, ghen ghét và bạo lực đã xâm nhập vào lịch sử (x. St 3–4). Như Isaia khẳng định: “Những kẻ ác sẽ chẳng bao giờ được bình an” (Is 48,22). Không có bình an nội tâm thì cũng không thể có hòa bình xã hội.
Chính trong bối cảnh ấy, Hài Nhi Giêsu ra đời, không phải trong cung điện, nhưng trong máng cỏ nghèo hèn. Isaia gọi Người là: “Ông Vua Thái Bình” (Is 9,5). Các thiên thần ca vang: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho loài người thiện tâm” (Lc 2,14).
Bình an ấy không phải là sự vắng bóng chiến tranh, nhưng là ơn hòa giải giữa Thiên Chúa và con người, và từ đó, giữa con người với nhau.
Giáng Sinh mời gọi chúng ta tuyên xưng đức tin của Hội Thánh qua mọi thời đại: Hài Nhi ấy là Thiên Chúa thật và là người thật. Các Công đồng Nicê (325) và Constantinôpôli (381) tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng”. Công đồng Calcedonia (451) khẳng định: Đức Kitô có hai bản tính, không hòa lẫn, không tách rời, trong một Ngôi vị duy nhất. Thánh Athanasiô đã nói một câu bất hủ: “Điều gì không được Đức Kitô đảm nhận thì không được cứu độ.”
Thiên Chúa đến vì mến con người, Thiên Chúa thương vì tình yêu vấn vương khi tạo dựng. Chính vì yêu thương, Con Thiên Chúa đã đảm nhận trọn vẹn kiếp người, để chữa lành trọn vẹn con người. Thánh Lêô Cả khẳng định: “Giáng Sinh của Đức Kitô là khởi đầu cho sự tái sinh của chúng ta.”
Ánh sáng Giáng Sinh, theo Tin Mừng Gioan, là ánh sáng sự sống:
“Sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng” (Ga 1,5). Bóng tối không chỉ ở ngoài xã hội, mà còn trong chính lòng mỗi người. Nhưng ánh sáng của Đức Kitô không áp đặt; Người đến trong khiêm hạ, để mời gọi và biến đổi.
Bước vào Năm Thánh 2025 với chủ đề “Những người hành hương của hy vọng”. Nay cửa Năm Thánh đang từ từ khép lại. Lễ Giáng Sinh mời gọi chúng ta tiếp tục lên đường như các mục đồng Bêlem. Họ nghèo hèn, đơn sơ, nhưng dám lên đường trong đêm tối, và đã gặp được Đấng Cứu Thế giáng sinh cho chúng sinh. Hy vọng Kitô giáo không phải là lạc quan dễ dãi, nhưng là niềm xác tín rằng Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta.
Thánh Phaolô nhắc nhở trong bài đọc II: “Ân sủng cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người thiên hạ, dạy ta phải từ bỏ vô đạo, và các đam mê thế tục, mà sống điềm đạm, công chính, đạo đức nơi đời này” (Tt 2,11-12). Mừng Lễ Cháu Giáng Sinh không dừng lại ở hang đá, nhưng phải được tiếp nối trong một đời sống hoán cải, xây dựng hòa bình từ gia đình, giáo xứ và xã hội.
Trong Năm Thánh, người Kitô hữu được mời gọi trở thành chứng nhân của hy vọng: biết tha thứ thay vì nuôi hận thù, biết đối thoại thay vì loại trừ, biết chia sẻ thay vì khép kín, biết cầu nguyện thay vì tuyệt vọng. Bình an của Đức Kitô phải được phản chiếu qua đời sống bác ái, công bằng và liên đới.
Đêm nay, trước Hài Nhi Giêsu, chúng ta hãy cùng xin hai ơn quý giá: đức tin và bình an. Đức tin để nhận ra Thiên Chúa đang ở rất gần; bình an để chúng ta trở thành khí cụ bình an của Chúa trong một thế giới, nhất là nơi sinh ra Thái Tử Hoà Bình đang khao khát hoà bình.
Trong đêm cực thánh này, giữa một thế giới đầy tiếng ồn của chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, biến đổi khí hậu, xung đột ý thức hệ và bất an nội tâm. Khi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu nằm trong máng cỏ, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận ân sủng, bình an và hy vọng mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại.
Nguyện xin Hài Nhi Giêsu dẫn dắt chúng ta bước đi như những người hành hương của hy vọng, đem ánh sáng Giáng Sinh vào một thế giới đang rất cần được chữa lành. Xin Vua Hòa Bình ban cho mỗi gia đình sự hiệp nhất, cho những tâm hồn đang lo âu được niềm an ủi, cho những ai mệt mỏi được sức mạnh, và cho thế giới đang rạn nứt này được chữa lành bằng tình yêu của Người.
Chúc anh chị em một Mùa Giáng Sinh thánh thiện, an lành và tràn đầy tình mến thương. Amen.
SUY NIỆM LỄ ĐÊM GIÁNG SINH
(Lc 2, 1-14)
Trong Đêm Thánh nay, giữa ánh sáng của đèn, nến lung linh và tiếng ca thiên thần, Giáo Hội long trọng công bố một Tin Mừng vượt thời gian: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các người trong thành của Đa-víd” (Lc 2,11). Đây không chỉ là một biến cố của quá khứ, nhưng là một “hôm nay” vĩnh cửu, mở ra niềm hy vọng cho một nhân loại đang bước đi trong u tối.
Thật vậy, như ngôn sứ Isaia đã loan báo: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan” (Is 9,1). Hai mươi thế kỷ trôi qua, lời ấy vẫn vang lên trong thế giới hôm nay với: chiến tranh, bạo lực, khủng bố, dịch bệnh, thiên tai, đổ vỡ gia đình, khủng hoảng luân lý và bất an nội tâm. Con người có nhiều phương tiện hơn, nhưng lại ít bình an hơn. Nhân loại tiến bộ về khoa học công nghệ với AI, nhưng lại tụt lùi trong tình huynh đệ.
Căn nguyên sâu xa của tình trạng ấy, như Kinh Thánh mặc khải, chính là tội lỗi. Từ khi con người bất tuân Thiên Chúa, nỗi sợ hãi, ghen ghét và bạo lực đã xâm nhập vào lịch sử (x. St 3–4). Như Isaia khẳng định: “Những kẻ ác sẽ chẳng bao giờ được bình an” (Is 48,22). Không có bình an nội tâm thì cũng không thể có hòa bình xã hội.
Chính trong bối cảnh ấy, Hài Nhi Giêsu ra đời, không phải trong cung điện, nhưng trong máng cỏ nghèo hèn. Isaia gọi Người là: “Ông Vua Thái Bình” (Is 9,5). Các thiên thần ca vang: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho loài người thiện tâm” (Lc 2,14).
Bình an ấy không phải là sự vắng bóng chiến tranh, nhưng là ơn hòa giải giữa Thiên Chúa và con người, và từ đó, giữa con người với nhau.
Giáng Sinh mời gọi chúng ta tuyên xưng đức tin của Hội Thánh qua mọi thời đại: Hài Nhi ấy là Thiên Chúa thật và là người thật. Các Công đồng Nicê (325) và Constantinôpôli (381) tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng”. Công đồng Calcedonia (451) khẳng định: Đức Kitô có hai bản tính, không hòa lẫn, không tách rời, trong một Ngôi vị duy nhất. Thánh Athanasiô đã nói một câu bất hủ: “Điều gì không được Đức Kitô đảm nhận thì không được cứu độ.”
Thiên Chúa đến vì mến con người, Thiên Chúa thương vì tình yêu vấn vương khi tạo dựng. Chính vì yêu thương, Con Thiên Chúa đã đảm nhận trọn vẹn kiếp người, để chữa lành trọn vẹn con người. Thánh Lêô Cả khẳng định: “Giáng Sinh của Đức Kitô là khởi đầu cho sự tái sinh của chúng ta.”
Ánh sáng Giáng Sinh, theo Tin Mừng Gioan, là ánh sáng sự sống:
“Sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng” (Ga 1,5). Bóng tối không chỉ ở ngoài xã hội, mà còn trong chính lòng mỗi người. Nhưng ánh sáng của Đức Kitô không áp đặt; Người đến trong khiêm hạ, để mời gọi và biến đổi.
Bước vào Năm Thánh 2025 với chủ đề “Những người hành hương của hy vọng”. Nay cửa Năm Thánh đang từ từ khép lại. Lễ Giáng Sinh mời gọi chúng ta tiếp tục lên đường như các mục đồng Bêlem. Họ nghèo hèn, đơn sơ, nhưng dám lên đường trong đêm tối, và đã gặp được Đấng Cứu Thế giáng sinh cho chúng sinh. Hy vọng Kitô giáo không phải là lạc quan dễ dãi, nhưng là niềm xác tín rằng Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta.
Thánh Phaolô nhắc nhở trong bài đọc II: “Ân sủng cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người thiên hạ, dạy ta phải từ bỏ vô đạo, và các đam mê thế tục, mà sống điềm đạm, công chính, đạo đức nơi đời này” (Tt 2,11-12). Mừng Lễ Cháu Giáng Sinh không dừng lại ở hang đá, nhưng phải được tiếp nối trong một đời sống hoán cải, xây dựng hòa bình từ gia đình, giáo xứ và xã hội.
Trong Năm Thánh, người Kitô hữu được mời gọi trở thành chứng nhân của hy vọng: biết tha thứ thay vì nuôi hận thù, biết đối thoại thay vì loại trừ, biết chia sẻ thay vì khép kín, biết cầu nguyện thay vì tuyệt vọng. Bình an của Đức Kitô phải được phản chiếu qua đời sống bác ái, công bằng và liên đới.
Đêm nay, trước Hài Nhi Giêsu, chúng ta hãy cùng xin hai ơn quý giá: đức tin và bình an. Đức tin để nhận ra Thiên Chúa đang ở rất gần; bình an để chúng ta trở thành khí cụ bình an của Chúa trong một thế giới, nhất là nơi sinh ra Thái Tử Hoà Bình đang khao khát hoà bình.
Trong đêm cực thánh này, giữa một thế giới đầy tiếng ồn của chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, biến đổi khí hậu, xung đột ý thức hệ và bất an nội tâm. Khi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu nằm trong máng cỏ, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận ân sủng, bình an và hy vọng mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại.
Nguyện xin Hài Nhi Giêsu dẫn dắt chúng ta bước đi như những người hành hương của hy vọng, đem ánh sáng Giáng Sinh vào một thế giới đang rất cần được chữa lành. Xin Vua Hòa Bình ban cho mỗi gia đình sự hiệp nhất, cho những tâm hồn đang lo âu được niềm an ủi, cho những ai mệt mỏi được sức mạnh, và cho thế giới đang rạn nứt này được chữa lành bằng tình yêu của Người.
Chúc anh chị em một Mùa Giáng Sinh thánh thiện, an lành và tràn đầy tình mến thương. Amen.
Gia phải con người trở thành gia phả hồng ân
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
03:44 22/12/2025
Gia phải con người trở thành gia phả hồng ân
SUY NIỆM LỄ VỌNG GIÁNG SINH 2025
(Mt 1, 1-25)
Thánh sử Mátthêu mở đầu Tin Mừng và toàn bộ Tân Ước bằng một câu tưởng chừng khô khan nhưng lại vô cùng sâu sắc:
“Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Đa-víd, con của Abraham” (Mt 1,1).
Đây không chỉ là danh sách các thế hệ, nhưng là lời tuyên xưng đức tin: Thiên Chúa đã bước vào lịch sử con người, mang lấy huyết thống, ký ức, tội lỗi và hy vọng của nhân loại. Gia phả ấy chính là lịch sử cứu độ được viết bằng tên người thật, đời thật.
Gia phả hồng ân sự sống
Gia phả, trước hết, nhắc chúng ta một chân lý nền tảng: không ai tự ban sự sống cho mình. Sự sống là quà tặng được trao ban, được đón nhận và được truyền lại. Như Thánh Gioan khẳng định: “Không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra” (Ga 1,13).
Trong truyền thống Israel, khi cha đặt tên cho con, ông không chỉ xác nhận huyết thống mà còn trao ban căn tính và sứ mạng. Vì thế, gia phả Chúa Giêsu cho thấy Người thuộc về một dân tộc, một lịch sử đức tin, và một lời hứa: lời hứa với Abraham (x. St 12,3) và lời hứa với Đa-víd (x. 2 Sm 7,12-16).
Như Công đồng Vaticanô II dạy: “Con Thiên Chúa… đã thực sự làm người, trở nên giống chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi” (GS 22). Gia phả thánh Matthêu viết là bằng chứng hùng hồn cho sự “thật” ấy.
Một gia phả đầy bóng tối và ánh sáng
Điều gây ngạc nhiên là gia phả Chúa Giêsu không che giấu tội lỗi. Vua Đa-víd, biểu tượng của vương quyền được nhắc đến cùng với “vợ ông Uria” (Mt 1,6), gợi lại tội ngoại tình và giết người (x. 2 Sm 11), chứng tỏ“lòng thương xót luôn lớn hơn tội lỗi” (x. Misericordiae Vultus, số 3). Chính trong những đổ vỡ của con người, Thiên Chúa vẫn trung thành và âm thầm dẫn lịch sử đến chỗ viên mãn nơi Đức Kitô.
Gia phả theo Mátthêu còn gây “chướng tai” đối với người Do Thái vì có tên năm người phụ nữ, trong đó bốn người là dân ngoại: Tamar, Rahab, Ruth, vợ ông Uria (Bétsabê), và cuối cùng là Đức Maria vợ của thánh Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít: bởi bà, Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đã sinh ra.
Theo Đức cố Giáo hoàng Bênêđictô XVI, “qua những người phụ nữ này, thế giới dân ngoại bước vào gia phả của Chúa Giêsu” (Thời thơ ấu của Chúa Giêsu). Đây không phải là một chi tiết phụ, nhưng là một tuyên ngôn truyền giáo: ngay từ khởi đầu, ơn cứu độ đã vượt qua biên giới chủng tộc, luân lý và tôn giáo.
Các bà không phải là biểu tượng của sự hoàn hảo luân lý, nhưng là chứng nhân của một Thiên Chúa biết viết đường thẳng trên những dòng chữ cong. Điều này chuẩn bị cho lời Simeon tuyên xưng: “Ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2,32).
Đức Maria, một khởi đầu hoàn toàn mới
Khi đến Đức Maria, gia phả đột ngột đổi nhịp. Thánh Mátthêu không còn dùng công thức “ông này sinh ông kia”, nhưng viết:
“Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô” (Mt 1,16).
Ở đây, Thiên Chúa trở thành tác nhân chính. Đức Giêsu không được sinh ra bởi ý muốn người nam, nhưng “do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18.20). Đức Maria là nơi lịch sử loài người nhường chỗ cho hành động mới mẻ của Thiên Chúa.
Theo Thánh Irênê, “Đức Maria, nhờ sự vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu độ cho chính mình và cho toàn thể nhân loại” (Adversus Haereses III,22,4). Mẹ là Eva mới, là khởi đầu của một nhân loại được tái sinh trong ân sủng.
Thánh Giuse, người công chính gìn giữ mầu nhiệm
Gia phả cũng làm nổi bật vai trò không thể thay thế của Thánh Giuse. Nhờ ngài, Chúa Giêsu được tháp nhập hợp pháp vào dòng dõi Đa-víd, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh. Nhưng hơn thế, Giuse là mẫu gương của người “công chính” (Mt 1,19): công chính không chỉ theo luật, mà theo ý định cứu độ của Thiên Chúa.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi Giuse là “người gìn giữ Đấng Cứu Thế” (Redemptoris Custos). Ngài dạy chúng ta biết đón nhận những điều vượt quá hiểu biết, bằng đức tin thinh lặng và vâng phục.
Chiêm ngắm gia phả Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi nhìn lại gia phả đức tin của chính mình: những con người đã sinh thành, giáo dục, cầu nguyện và hy sinh để đức tin được trao lại cho chúng ta.
Sau hết, chúng ta tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã cho chúng ta được sinh lại “nhờ nước và Thánh Thần” (Ga 3,5) trong lòng Mẹ Hội Thánh, để chúng ta được thuộc về gia đình mới của Đức Kitô, Đấng là “Thiên Chúa thật và là người thật”, niềm hy vọng duy nhất của chúng ta (x. 1 Tm 1,1).
Qua Thánh lễ Vọng Giáng Sinh này, ước gì, khi đọc lại và nghe gia phả của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi sống đức tin cách khiêm tốn, biết ơn và đầy hy vọng, giữa một lịch sử còn nhiều đổ vỡ nhưng luôn được bao phủ bởi lòng thương xót của Thiên Chúa. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
SUY NIỆM LỄ VỌNG GIÁNG SINH 2025
(Mt 1, 1-25)
Thánh sử Mátthêu mở đầu Tin Mừng và toàn bộ Tân Ước bằng một câu tưởng chừng khô khan nhưng lại vô cùng sâu sắc:
“Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Đa-víd, con của Abraham” (Mt 1,1).
Đây không chỉ là danh sách các thế hệ, nhưng là lời tuyên xưng đức tin: Thiên Chúa đã bước vào lịch sử con người, mang lấy huyết thống, ký ức, tội lỗi và hy vọng của nhân loại. Gia phả ấy chính là lịch sử cứu độ được viết bằng tên người thật, đời thật.
Gia phả hồng ân sự sống
Gia phả, trước hết, nhắc chúng ta một chân lý nền tảng: không ai tự ban sự sống cho mình. Sự sống là quà tặng được trao ban, được đón nhận và được truyền lại. Như Thánh Gioan khẳng định: “Không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra” (Ga 1,13).
Trong truyền thống Israel, khi cha đặt tên cho con, ông không chỉ xác nhận huyết thống mà còn trao ban căn tính và sứ mạng. Vì thế, gia phả Chúa Giêsu cho thấy Người thuộc về một dân tộc, một lịch sử đức tin, và một lời hứa: lời hứa với Abraham (x. St 12,3) và lời hứa với Đa-víd (x. 2 Sm 7,12-16).
Như Công đồng Vaticanô II dạy: “Con Thiên Chúa… đã thực sự làm người, trở nên giống chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi” (GS 22). Gia phả thánh Matthêu viết là bằng chứng hùng hồn cho sự “thật” ấy.
Một gia phả đầy bóng tối và ánh sáng
Điều gây ngạc nhiên là gia phả Chúa Giêsu không che giấu tội lỗi. Vua Đa-víd, biểu tượng của vương quyền được nhắc đến cùng với “vợ ông Uria” (Mt 1,6), gợi lại tội ngoại tình và giết người (x. 2 Sm 11), chứng tỏ“lòng thương xót luôn lớn hơn tội lỗi” (x. Misericordiae Vultus, số 3). Chính trong những đổ vỡ của con người, Thiên Chúa vẫn trung thành và âm thầm dẫn lịch sử đến chỗ viên mãn nơi Đức Kitô.
Gia phả theo Mátthêu còn gây “chướng tai” đối với người Do Thái vì có tên năm người phụ nữ, trong đó bốn người là dân ngoại: Tamar, Rahab, Ruth, vợ ông Uria (Bétsabê), và cuối cùng là Đức Maria vợ của thánh Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít: bởi bà, Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế đã sinh ra.
Theo Đức cố Giáo hoàng Bênêđictô XVI, “qua những người phụ nữ này, thế giới dân ngoại bước vào gia phả của Chúa Giêsu” (Thời thơ ấu của Chúa Giêsu). Đây không phải là một chi tiết phụ, nhưng là một tuyên ngôn truyền giáo: ngay từ khởi đầu, ơn cứu độ đã vượt qua biên giới chủng tộc, luân lý và tôn giáo.
Các bà không phải là biểu tượng của sự hoàn hảo luân lý, nhưng là chứng nhân của một Thiên Chúa biết viết đường thẳng trên những dòng chữ cong. Điều này chuẩn bị cho lời Simeon tuyên xưng: “Ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2,32).
Đức Maria, một khởi đầu hoàn toàn mới
Khi đến Đức Maria, gia phả đột ngột đổi nhịp. Thánh Mátthêu không còn dùng công thức “ông này sinh ông kia”, nhưng viết:
“Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô” (Mt 1,16).
Ở đây, Thiên Chúa trở thành tác nhân chính. Đức Giêsu không được sinh ra bởi ý muốn người nam, nhưng “do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18.20). Đức Maria là nơi lịch sử loài người nhường chỗ cho hành động mới mẻ của Thiên Chúa.
Theo Thánh Irênê, “Đức Maria, nhờ sự vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu độ cho chính mình và cho toàn thể nhân loại” (Adversus Haereses III,22,4). Mẹ là Eva mới, là khởi đầu của một nhân loại được tái sinh trong ân sủng.
Thánh Giuse, người công chính gìn giữ mầu nhiệm
Gia phả cũng làm nổi bật vai trò không thể thay thế của Thánh Giuse. Nhờ ngài, Chúa Giêsu được tháp nhập hợp pháp vào dòng dõi Đa-víd, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh. Nhưng hơn thế, Giuse là mẫu gương của người “công chính” (Mt 1,19): công chính không chỉ theo luật, mà theo ý định cứu độ của Thiên Chúa.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi Giuse là “người gìn giữ Đấng Cứu Thế” (Redemptoris Custos). Ngài dạy chúng ta biết đón nhận những điều vượt quá hiểu biết, bằng đức tin thinh lặng và vâng phục.
Chiêm ngắm gia phả Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi nhìn lại gia phả đức tin của chính mình: những con người đã sinh thành, giáo dục, cầu nguyện và hy sinh để đức tin được trao lại cho chúng ta.
Sau hết, chúng ta tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã cho chúng ta được sinh lại “nhờ nước và Thánh Thần” (Ga 3,5) trong lòng Mẹ Hội Thánh, để chúng ta được thuộc về gia đình mới của Đức Kitô, Đấng là “Thiên Chúa thật và là người thật”, niềm hy vọng duy nhất của chúng ta (x. 1 Tm 1,1).
Qua Thánh lễ Vọng Giáng Sinh này, ước gì, khi đọc lại và nghe gia phả của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi sống đức tin cách khiêm tốn, biết ơn và đầy hy vọng, giữa một lịch sử còn nhiều đổ vỡ nhưng luôn được bao phủ bởi lòng thương xót của Thiên Chúa. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Ba Ý Tưởng Cho Một Lễ Giáng Sinh Phong Phú Hơn
Vũ Văn An
14:23 22/12/2025

Viện Nghiên cứu Gia đình (ifstudies.org), trong bản tin ngày 17/12/2025, nhận định rằng: Có một đức tính đặc biệt là quản lý gia đình tốt. Đối với tôi, việc khám phá ra điều này là một trong những thành quả tuyệt vời của việc nghiên cứu tư tưởng cổ đại và trung cổ. Theo Aristotle và Thomas Aquinas, “sự khôn ngoan trong gia đình” sắp xếp mọi thứ trong cuộc sống gia đình hướng tới hạnh phúc thực sự của các thành viên. Điều này thực sự có thể giúp chúng ta suy nghĩ về cách mừng Lễ Giáng sinh.
Một đặc điểm quan trọng của đức tính khôn ngoan là nó khác biệt với bất cứ kiến thức thực tiễn nào khác. Nghệ thuật mộc, giống như các “nghệ thuật” khác, là về việc chế tạo những thứ cần thiết cho cuộc sống con người, trong trường hợp này là đồ gỗ. Sự khôn ngoan cũng là về việc chế tạo một thứ gì đó, nhưng thứ nó chế tạo là một loại cuộc sống con người nhất định. Nghĩa là, nó chế tạo những giá trị cụ thể của con người, chẳng hạn như phẩm chất đạo đức, và các mối quan hệ bắt nguồn từ phẩm chất đó. Đây là lý do tại sao sự khôn ngoan nên được ưu tiên và thực sự giám sát tất cả các nghệ thuật khác.
Điều này mang lại cho chúng ta một góc nhìn tuyệt vời về việc mừng Lễ Giáng sinh. Cũng như bất cứ việc gì khác chúng ta làm trong nhà, việc đón Lễ Giáng sinh cũng liên quan đến nhiều “nghệ thuật” hay kỹ năng: nấu nướng, trang trí và làm nhiều thứ khác nhau. Ngoài ra còn có nhiều khía cạnh cụ thể cần sắp xếp: mời ai đến nhà, đi nhà thờ khi nào và ở đâu, nên làm (hoặc tránh) những hoạt động nào, dành bao nhiêu thời gian cho truyền thống này hay truyền thống khác. Vậy thì, chúng ta phải tự hỏi, điều gì mang lại sự thống nhất, trật tự (và vẻ đẹp!) và định hướng cho các lễ mừng của chúng ta? Câu trả lời là sự khôn ngoan trong gia đình.
Có nhiều điều ở đây hơn những gì chúng ta thấy. Tóm lại, sự khôn ngoan trong gia đình có thể mang lại cho cuộc sống của chúng ta (cụ thể là trong gia đình) điều mà đáng buồn thay đang thiếu trong cuộc sống của quá nhiều người ngày nay: trật tự, sự thống nhất và vẻ đẹp. Đó là cách chúng ta đưa tất cả những mối quan tâm thực tế “khác” vào một mối quan tâm thực tế duy nhất thực sự quan trọng. Đối với người Kitô hữu, điều này có nghĩa là chúng ta sắp xếp mọi thứ hướng tới việc làm sâu sắc thêm đức tin, củng cố hy vọng và phát triển tình yêu thương—bắt đầu từ gia đình chúng ta.
Vậy, điều này có ý nghĩa gì đối với cách chúng ta đón Lễ Giáng sinh? Ba điều cụ thể cần lưu ý.
1. Đọc câu chuyện Giáng sinh gốc.
Vào một thời điểm thích hợp trong lễ Giáng sinh, hãy đọc to đoạn Kinh Thánh Lu-ca kể về sự giáng sinh của Chúa và chuyến viếng thăm của những người chăn chiên. Điều này sẽ có hiệu quả đặc biệt khi người cha hoặc ông nội tập hợp mọi người lại để cùng đọc, có thể là quanh cây thông Noel hoặc bên bàn ăn. Sau một khoảnh khắc im lặng khi kết thúc bài đọc, ông có thể chia sẻ vài lời suy ngẫm đơn giản rồi hỏi xem có ai muốn bổ sung thêm điều gì không. Đây là một cơ hội tuyệt vời để làm điều mà chúng ta nên làm thường xuyên hơn: cùng nhau bày tỏ những niềm tin chung làm nền tảng cho cuộc sống gia đình. Sự ra đời của Chúa Giê-su tại Bê-lem đã thay đổi mọi thứ. Cùng nhau sum họp trong niềm vui và lòng biết ơn vào dịp Giáng sinh, chúng ta cùng nhau tái cam kết với đức tin mà chúng ta đã nhận được như một món quà.
2. Chọn những truyền thống mang lại những trải nghiệm phong phú và thú vị cho tất cả mọi người.
Chắc chắn, điều này nói thì dễ hơn làm, nhưng ít nhất chúng ta nên xác định rõ mục tiêu. Chúng ta muốn mọi người có được trải nghiệm về cảm giác đoàn kết trong một niềm vui siêu việt. Điều như vậy không thể tạo ra được, nhưng nó có thể được vun đắp. Việc đọc to một câu chuyện Giáng sinh yêu thích khác rất đáng để cân nhắc: có lẽ là "A Christmas Carol", "The Gift of the Magi", hoặc "The Other Wiseman", chỉ kể tên một vài câu chuyện được yêu thích. Kể chuyện bởi người lớn tuổi hoặc quây quần hát mừng Giáng sinh cũng là những lựa chọn khác.
3. Cuối cùng, hãy chú trọng hơn đến những gì chúng ta làm trong bữa ăn Giáng sinh của mình.
Không gì tuyệt vời hơn một bữa ăn để tập trung vào việc cử hành của chúng ta. Liệu chúng ta có để những truyền thống nào đó bị lãng quên? Chúng ta có chắc chắn rằng đây thực sự là một nỗ lực của cả gia đình, nơi mọi người đều có phần và đều được trân trọng? Chúng ta có nán lại để thưởng thức bữa ăn và thời gian bên nhau, và một lần nữa nói lên những điều chúng ta đang kỷ niệm và nhiều lý do để biết ơn?
Mục đích của việc lên kế hoạch cho ba truyền thống này là để xem xét cách thu hút mọi người lại với nhau, đặc biệt là bằng cách hướng ra bên ngoài và hướng lên trên như một gia đình. Việc chú trọng đến các truyền thống, và những gì đã và chưa hiệu quả trước đây, là rất quan trọng. Đây là điều thực sự đáng để chúng ta suy ngẫm kỹ lưỡng, thậm chí cầu nguyện – xin Chúa giúp chúng ta tạo nên một cuộc cử hành xứng đáng, cả về điều chúng ta kỷ niệm, và về cuộc sống tuyệt vời mà Người kêu gọi chúng ta, bắt đầu từ ngày Giáng Sinh.
Mỗi một trong ba điều cụ thể này đều có thể là một sự khích lệ tự nhiên và bối cảnh để phát triển trong đức tin, hy vọng và tình yêu. Bởi vì khi chúng ta cùng nhau vui vẻ hồi tưởng lại những điều kỳ diệu mà chúng ta tin tưởng, chúng ta xích lại gần nhau hơn trong tình yêu thương, và chúng ta học cách trông chờ trong hy vọng (như một lời cầu nguyện của người Byzantine) đến bữa tiệc lớn mà tiếng reo hò của những người tham dự không bao giờ dứt.
Đức Leo thách thức sự chia rẽ nội bộ trong bài phát biểu thường niên trước giáo triều,
Vũ Văn An
15:17 22/12/2025

Elise Ann Allen của tạp chí Crux, trong bản tin ngày 22 tháng 12 năm 2025, cho hay: Trong bài phát biểu thường niên trước Giáo triều, Leo thách thức sự chia rẽ nội bộ.
Thực vậy, hôm thứ Hai, Đức Giáo Hoàng Leo XIV đã trình bầy điều có thể gọi là quang tuyến X vào công nghị Hồng Y của ngài trong tháng tới, nói với các thành viên của Giáo triều rằng nhiệm vụ của họ phải là tiếp cận thực tế địa phương đồng thời thúc đẩy sự hiệp thông trong một thế giới chia rẽ.
Phát biểu trong bài diễn văn thường niên đầu tiên trước Giáo triều vào ngày 22 tháng 12, Đức Giáo Hoàng lưu ý rằng đôi khi trong bộ máy hành chính trung ương của Giáo hội, “dưới vẻ ngoài bình tĩnh, các thế lực chia rẽ có thể đang hoạt động.”
Ngài nói: “Chúng ta có thể rơi vào cám dỗ dao động giữa hai thái cực đối lập: Sự đồng nhất không coi trọng sự khác biệt, hoặc làm trầm trọng thêm sự khác biệt và quan điểm thay vì tìm kiếm sự hiệp thông”.
Do đó, trong các mối quan hệ giữa các cá nhân, động lực công sở, hoặc thậm chí khi giải quyết các vấn đề như đức tin, phụng vụ, đạo đức, và nhiều hơn nữa, “có nguy cơ rơi vào sự cứng ngắc hoặc hệ tư tưởng, dẫn đến những xung đột.”
“Tuy nhiên, chúng ta là Giáo hội của Chúa Kitô, là các chi thể của Người, là thân thể của Người. Chúng ta là anh chị em trong Người. Và trong Chúa Kitô, dù nhiều và khác biệt, chúng ta là một: In Illo uno unum,” ngài nói thế, có ý đề cập đến khẩu hiệu của chính ngài khi nhậm chức Giáo hoàng.
Đức Giáo Hoàng Leo đã phát biểu trong lời chúc mừng Giáng sinh truyền thống với các thành viên của Giáo triều – một sự kiện mà người tiền nhiệm của ngài, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, thường sử dụng để chỉ trích Giáo triều về những sai lầm và sự chống đối, và để đưa ra những lời kêu gọi mạnh mẽ về sự thay đổi trong tư duy.
Trong bài phát biểu đầu tiên của ngài trước Giáo triều năm 2013, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nổi tiếng gọi đó là một thể chế lỗi thời, khép kín, mắc phải 15 “căn bệnh” khác nhau mà ngài cho rằng cần phải được chữa trị nếu muốn công việc của họ có hiệu quả.
Dù vẫn chỉ ra những xu hướng đáng lo ngại trong hệ thống của chính mình, Đức Giáo Hoàng Leo hôm thứ Hai đã đưa ra một cách tiếp cận mềm mỏng hơn, khuyến khích tình bạn và tình huynh đệ để hoàn thành sứ mệnh của Giáo hội là chia sẻ Tin Mừng với thế giới.
Bài phát biểu của Đức Giáo Hoàng Leo tập trung gần như hoàn toàn vào tông huấn Evangelii Gaudium năm 2013 của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, “Niềm vui của Tin Mừng”, một trong bốn điểm chính sẽ được thảo luận trong công nghị bất thường của các Hồng Y vào ngày 7-8 tháng Giêng.
Đức Giáo Hoàng Leo đã tưởng nhớ sự ra đi của Đức Phanxicô hồi đầu năm nay, nói rằng “tiếng nói tiên tri, phong cách mục vụ và giáo huấn phong phú của ngài đã đánh dấu hành trình của Giáo hội trong những năm gần đây, trên hết là khuyến khích chúng ta đặt lòng thương xót của Chúa làm trung tâm, tạo động lực mới cho việc truyền giáo, và trở thành một Giáo hội vui mừng, chào đón tất cả mọi người và quan tâm đến những người nghèo nhất.”
Sau đó, Đức Leo đi sâu vào suy gẫm về những gì thông điệp Evangelii Gaudium nói về sứ mệnh của Giáo hội trong thế giới hiện đại và vai trò của Giáo hội trong việc xây dựng lại ý thức hiệp thông.
Với tư cách là một nhà truyền giáo, Đức Leo nói rằng bản chất của Giáo hội “hướng ra bên ngoài, hướng về thế giới, mang tính truyền giáo”.
Ngài nói: Evangelii Gaudium mang đến một động lực mới cho Giáo hội để kết nối lại với động lực truyền giáo của mình, và cho rằng mệnh lệnh của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ của Người là “hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” vẫn còn phù hợp cho đến ngày nay.
Ngài cho hay: Mệnh lệnh của Chúa Giêsu, “vang vọng trong những bối cảnh thay đổi và những thách thức luôn mới mẻ đối với sứ mệnh truyền giáo của Giáo hội, và tất cả chúng ta đều được mời gọi tham gia vào ‘cuộc ra đi’ truyền giáo mới này”.
Ngài nói: “Tính chất truyền giáo này xuất phát từ sự kiện chính Thiên Chúa đã trước tiên hướng về chúng ta và, trong Chúa Kitô, đã đến tìm kiếm chúng ta”. Và ngài cho rằng Lễ Giáng Sinh là lời nhắc nhở rằng sứ mệnh của chính Chúa Giêsu là đến thế gian “để gặp gỡ chúng ta”.
Theo nghĩa này, sứ mệnh của Chúa Giêsu tiếp tục thông qua Giáo hội, và “trở thành tiêu chuẩn để phân định trong đời sống của chúng ta, trong hành trình đức tin, trong các thực hành của Giáo hội, và cả trong công việc phục vụ mà chúng ta thực hiện tại Giáo triều Rôma.”
Đức Giáo Hoàng nói: “Các cấu trúc không được làm nặng nề hoặc làm chậm tiến trình của Tin Mừng hoặc cản trở sự năng động của việc truyền giảng tin mừng; thay vào đó, chúng ta phải làm cho chúng hướng đến sứ mệnh hơn”.
Đức Giáo Hoàng Leo nói rằng Giáo triều, giống như tất cả những người đã được rửa tội, được kêu gọi cùng chịu trách nhiệm và hợp tác trong sứ mệnh của chính Chúa Giêsu, và do đó “phải được thúc đẩy bởi tinh thần đó và nuôi dưỡng lòng quan tâm mục vụ trong việc phục vụ các Giáo hội địa phương và các mục tử của họ.”
Ngài cũng nói: “Chúng ta cần một Giáo triều Rôma ngày càng mang tính truyền giáo hơn, trong đó các thể chế, chức vụ và nhiệm vụ được hình thành dựa trên những thách thức lớn lao về giáo hội, mục vụ và xã hội hiện nay, chứ không chỉ đơn thuần là để đảm bảo công tác quản lý thông thường”.
Đức Giáo Hoàng Leo nói rằng Lễ Giáng Sinh, ngoài việc là cơ hội để suy gẫm về sứ mệnh của Giáo hội, còn là thời điểm để suy gẫm về mục đích của Giáo hội, đó là vun đắp sự hiệp thông.
Ngài cho hay: “Lễ Giáng Sinh nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Giêsu đến để tỏ lộ dung mạo thật sự của Thiên Chúa Cha, để tất cả chúng ta có thể trở thành con cái của Người và do đó là anh chị em của nhau”.
Theo ngài, tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, được thể hiện qua “những hành động và lời rao giảng giải phóng” của Người, cho phép các tín hữu trở thành “dấu hiệu của một nhân loại mới – không còn dựa trên sự ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân, mà dựa trên tình yêu thương và tình đoàn kết lẫn nhau”.
Đức Giáo Hoàng Leo nói rằng điều này có cả yếu tố nội tại và ngoại tại.
Sự hiệp thông, ngài nói, là một ưu tiên nội tại cấp bách “vì sự hiệp thông trong Giáo hội luôn là một thách thức kêu gọi chúng ta hoán cải.”
Đức Giáo Hoàng nói rằng Giáo triều có sứ mệnh đặc biệt là xây dựng sự hiệp thông của Chúa Kitô, và sự hiệp thông này phải được hình thành “trong một Giáo hội hiệp thông, nơi tất cả cùng cộng tác trong cùng một sứ mệnh, mỗi người theo đặc sủng và vai trò của mình”.
Ngài nói thêm rằng sự hiệp thông này không phải là kết quả của lời nói và văn kiện, mà là những cử chỉ và thái độ thể hiện trong cuộc sống hằng ngày, kể cả trong môi trường làm việc.
Ngài trích dẫn lời Thánh Augustinô, người đã nói rằng, “Trong mọi việc của con người, không có gì thực sự được trân trọng nếu không có bạn bè”. Tuy nhiên, ngài lưu ý rằng Thánh Augustinô gần như cay đắng nói thêm, “Nhưng trong đời này, hiếm khi nào tìm thấy một người mà tinh thần và hành vi của họ có thể được tin tưởng hoàn toàn?”
Đức Giáo Hoàng Leo nói rằng sự cay đắng này cũng có thể ảnh hưởng đến cộng đồng Kitô giáo và đời sống Giáo triều, “khi, sau nhiều năm phục vụ trong Giáo triều, chúng ta nhận thấy với sự thất vọng rằng một số động lực – liên quan đến việc thực thi quyền lực, mong muốn thắng thế, hoặc theo đuổi lợi ích cá nhân – thay đổi rất chậm”.
Một số người có thể hỏi liệu có thực sự khả thi để làm bạn hay tìm được tình bạn chân thành với các thành viên khác trong Giáo triều Rôma hay không,” ông nói thế, khi chỉ ra một thực trạng mà vô số công nhân và quan chức Giáo triều đã than phiền trong nhiều thập niên qua.
Ngài nói: “Giữa công việc hàng ngày, thật là một ân huệ khi tìm được những người bạn đáng tin cậy, nơi mà những chiếc mặt nạ được gỡ bỏ, không ai bị lợi dụng hay bị gạt ra ngoài lề, sự hỗ trợ chân thành được trao tặng, và giá trị cũng như năng lực của mỗi người được tôn trọng, ngăn ngừa sự oán giận và bất mãn”.
Những mối quan hệ này đòi hỏi sự hoán cải bản thân để nuôi dưỡng tinh thần bác ái chân thành và yêu thương.
Đức Giáo Hoàng Leo nói rằng ý thức hiệp thông này cũng phải được chuyển hóa vào động lực ad extra, hay hướng ra bên ngoài, trong một thế giới bị hoen ố bởi sự chia rẽ, xung đột và bạo lực, “nơi chúng ta cũng chứng kiến sự gia tăng của sự hung hăng và giận dữ, thường bị lợi dụng bởi cả lĩnh vực kỹ thuật số lẫn chính trị.”
Trong bối cảnh đó, ngài nói: lễ Giáng sinh, “mang đến món quà hòa bình và mời gọi chúng ta trở thành dấu hiệu tiên tri của nó trong một bối cảnh nhân bản và văn hóa quá phân mảnh.”
Đức Giáo Hoàng Leo nói rằng, Giáo triều, mà Đức Phanxicô đã tìm cách quốc tế hóa, phải gieo mầm tình bạn và tình huynh đệ trong chính mình để có thể làm điều tương tự giữa các dân tộc, tôn giáo và văn hóa khác nhau.
Đức Giáo Hoàng Leo nói rằng, việc trung thành với sứ mệnh của Giáo hội và đạt được sự hiệp thông đích thực là điều có thể nếu đặt Chúa Kitô làm trung tâm, và năm thánh là lời nhắc nhở “rằng chỉ có Người mới là niềm hy vọng không bao giờ làm thất vọng”.
Ngài lưu ý rằng năm thánh trùng với việc kỷ niệm 1,700 năm Công đồng Nicaea và kỷ niệm 60 năm bế mạc Công đồng Vatican II.
Cùng nhau, những lễ kỷ niệm này đưa Giáo hội trở về cội nguồn đức tin, đồng thời thúc đẩy Giáo hội tham gia vào thế giới hiện đại, “luôn quan tâm đến niềm vui, hy vọng, nỗi buồn và lo lắng của con người thời đại chúng ta”.
Ngài nói: “Chúng ta cũng hãy nhớ điều này trong công việc phục vụ tại Giáo triều: Công việc của mỗi người đều quan trọng đối với toàn thể, và chứng nhân của đời sống Kitô giáo, được thể hiện trong sự hiệp thông, là sự phục vụ đầu tiên và lớn lao nhất mà chúng ta có thể dâng hiến”.
Đức Leo kết thúc bài phát biểu của ngài bằng lời cầu xin Chúa ban cho giáo triều “sự khiêm nhường, lòng thương xót và tình yêu thương của Người, để chúng ta có thể trở thành môn đệ và chứng nhân của Người mỗi ngày”.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Khuôn mặt lễ mừng Chúa giáng sinh trong dòng lịch sử thời gian
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
03:37 22/12/2025
Khuôn mặt lễ mừng Chúa giáng sinh trong dòng lịch sử thời gian
Kinh thánh phúc âm Chúa Giesu theo Thánh sử Luca ( Lc2,1-14) viết thuật lại: Hài nhi Giesu mở mắt chào đời ở thành Bethlem khi cha mẹ Maria và Giuse đang ở dọc đường đi đến Bethlem làm nghĩa vụ công dân khai tên vào số bộ thuế khóa thời hoàng đế Augustus của đế quốc Roma. Khung cảnh nơi sinh ra là hang chuồng nuôi thú vật trong đêm khuya ngoài cánh đồng.
Nhưng trong dòng lịch sử thời gian lễ mừng Hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa, lại rất khác với khung cảnh nguyên thủy thuở ban đầu, cùng có những thắc mắc đặt ra về nơi chốn cùng thời gian Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế sinh ra.
Không có sử sách bút tích ghi thuật lại những tín Chúa Kitô thời xưa mừng lễ Chúa Giêsu gíang sinh như thế nào, ít là phần trang trí bên ngoài.
Sử sách còn ghi thuật lại, Thánh Phanxicô thành Assisi năm 1223 ở vùng Walde von Grecco đã cùng với các anh em Dòng của ngài dựng làm ra hang đá Chúa giáng sinh đầu tiên dựa theo những lời thuật lại trong phúc âm về đêm Chúa sinh ra năm xưa và theo kiểu ru con trong một chiếc nôi.
Hang chuồng thú vật cùng chiếc máng cỏ hài nhi Giêsu đêm giáng sinh nằm như thế nào, không ai biết rõ. Dựa theo phúc âm và theo dòng lịch sử người ta đã làm ra nhiều kiểu về hang đá cùng máng cỏ Chúa giáng sinh.
Theo tập tục bên Đông phương máng cỏ, nôi Chúa nằm lúc sinh ra, được làm bằng đá có hình thể trông giống như một quan tài. Và hài nhi Giêsu được quấn khăn tã đặt nằm trong đó như xác một người qua đời.
Hình ảnh này muốn diễn tả Chúa Giesu sinh ra trong hang đá và lúc qua đời cũng được mai táng trong mồ đá. Trong hang đá sự sống đã khởi đầu khi Chúa Giêsu sinh ra làm người và cũng trong mồ đá Chúa Giêsu đã sống lại, khởi đầu một đời sống mới. Đời sống cứu độ.
Nghệ thuật cùng tập tục bên phương Tây xây dựng hang đá máng cỏ như một bàn thờ. Hình ảnh này muốn diễn tả lễ tế tạ ơn, bí tích thánh thể. Bethlehem có nghĩa là “ nhà làm bánh mì“. Khi cử hành bí tích Thánh thể là tưởng nhớ lại sự sinh ra làm người của Chúa khi xưa trong hang đá ngoài cánh đồng Bethlehem. Và trong mỗi thánh lễ chúng ta cùng tiếp nhận tấm bánh thánh thể từ trời cao, ngày xưa đã sinh xuống trên đồng Bethlehem “ngôi nhà làm bánh mì“, là lương thực cho niềm tin tâm hồn vào Chúa.
Người ta cũng không biết rõ hình thù hang đá máng cỏ lúc Chúa Giesu sinh ra như thế nào. Máng cỏ ( có năm mảnh ván nhỏ ghép lại) Chúa Giêsu nằm khi sinh ra ở Bethlehem, theo tương truyền còn lưu giữ ở đền thờ Đức Bà cả S. Maria Maggiore bên Roma. Điều này không có gì chắc chắn đúng (origine) trăm phần trăm cả.
Lòng đạo đức kính thờ Chúa sinh ra làm người đã thúc đẩy con người vẽ kiểu làm ra hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh. Việc này không có gì xấu cả, trái lại tốt lành và nâng đỡ niềm tin con người rất nhiều.
Ngày nay, người dựng hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh phần nào theo truyền thống hang đá đầuThánh Phanxicô khó khăn thành Assisi đã nghĩ làm ra.Nhưng vật liệu xây dựng khác nhau hoặc bằng gỗ, hoặc bằng giấy rồi sơn phết mầu xám của đá. Ngoài những bộ tượng giáng sinh đặt trong đó, đèn điện cũng được chăng mắc thêm vào tùy theo văn hóa, thẩm mỹ cùng lòng cung kính đạo đức của từng dân tộc thời đại.
Hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh dù xây dựng bằng vật liệu gì, theo kiểu cách nào và trang trí thế nào đi nữa, đều muốn gợi lại tình yêu của Chúa xuống trần gian làm người, và cũng phần nào nói lên tâm tình yêu mến của con người với Đấng là tình yêu cho tâm hồn con người.
Còn thắc mắc về thời gian cùng nơi chốn Chúa Giesu giáng trần cũng có những giả thuyết theo phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử đặt ra.
Phúc âm về thời điểm biến cố chính trị Chúa Giêsu giáng sinh thuật lại: “Thời hoàng đế Aqugustus ra chiếu chỉ …”( Lc2,1-14)
Vào chính giữa biên cố lịch sử hành chánh dân sự xã hội này, Chúa Giêsu sinh xuống trần gian làm người
Như thế Chúa Giêsu giáng sinh làm người không là một điều gì trừu tượng, không là một ý tưởng huyền thoại hoang đường tô vẽ cho thành tốt đẹp thần thánh huy hoàng. Nhưng là một biến cố trong lịch sử nhân loại, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, từ trời cao xuống trần gian. Trời và đất giao hòa với nhau. Thiên Chúa đến với con người.
Còn về thời gian ngày tháng Chúa giáng sinh, không có sử sách hay kinh thánh phúc âm nào ghi thuật lại. Dựa vào lịch sử thời lúc như phúc âm thuật lại những biến cố xẩy ra lúc Chúa giáng sinh, có suy luận cho rằng vào năm 5. trước Chúa giáng sinh, là năm Chúa Giêsu giáng sinh. Suy luận khác lại cho rằng năm 1. hoặc năm 2. là năm Chúa Giêsu giáng sinh.
Các phúc âm Chúa Giêsu Kitô tường thuật Chúa Giêsu sinh ra làm người đều đồng quan điểm ở thành Bethlem, thành của Vua David, tổ tiên của Chúa Giêsu. Và cũng có khảo cứu suy luận cho rằng Chúa Giêsu sinh ra ở Nazareth.
Nơi chốn Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa sinh ra ở Bethlehem hay ở Nazareth, không giữ vai trò quan trọng cho lễ mừng Chúa giáng sinh, Đấng là ánh sáng, là tình yêu ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người trần gian trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Rồi còn ngày tháng lễ Chúa giáng sinh cũng không có trong phúc âm cùng sử sách nào. Giáo hội Công giáo từ thế kỷ 4. sau Chúa giáng sinh, đã lấy ngày 25.Tháng 12 hằng năm là ngày lễ mừng kỷ niệm Chúa Giêsu giáng sinh.
Ngày 25. Tháng 12 nguyên thủy là ngày lễ dân Roma thời xưa mừng kính thần Mặt Trời chiến thắng- sol invictus. Sau khi Kitô giáo được hoàng đề Constantino công nhận cho phép tự do tôn giáo trong toàn đế quốc Roma từ năm 313, Giáo hội đã lấy ngày này là ngày mừng kính sinh nhật Chúa Giêsu, Đấng là Mặt Trời công chính của Thiên Chúa.
Như vậy có thể nói được ngày 25.tháng 12. hằng năm đã được Giáo hội rửa tội hay Kitô giáo hóa cho trở thành ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng của Mặt Trời công chính, sinh xuống trần gian làm người và thành lập Giáo hội Chúa ở trần gian.
Những mốc điểm lịch sử, nơi chốn, niên đại ngày tháng ngày, cung cách mừng lễ Chúa giáng sinh ăn nhịp hòa điệu vào khung cảnh đời sống văn hóa xã hội con người trần gian. Nhưng không phải là điều cốt lõi chính yếu ngày lễ mừng Chúa giáng sinh.
Lễ mừng Chúa Giêsu giáng sinh ẩn chứa sâu thẳm chiều kích thánh thiêng tâm linh. Đây mới là sứ điệp cốt lõi ngảy lễ mừng Chúa Giêsu giáng sinh:
Thiên Chúa từ trời cao xuống trần gian làm người, sống gần gũi với con người, và mang ơn cứu độ xuống cho con người trong thời gian lịch sử và trong những biến cố hiện thực ở trần gian.
Lễ mừng Chúa Giesu giáng sinh là biến cố không chỉ có nhiều ánh sáng, nhưng có nhiều niềm hy vọng cho đời sống con người trần gian.
Vui mừng và tạ ơn Chúa là tâm tình chính ngày mừng lễ Thiên Chúa qua Chúa Giêsu giáng sinh làm người.
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Kinh thánh phúc âm Chúa Giesu theo Thánh sử Luca ( Lc2,1-14) viết thuật lại: Hài nhi Giesu mở mắt chào đời ở thành Bethlem khi cha mẹ Maria và Giuse đang ở dọc đường đi đến Bethlem làm nghĩa vụ công dân khai tên vào số bộ thuế khóa thời hoàng đế Augustus của đế quốc Roma. Khung cảnh nơi sinh ra là hang chuồng nuôi thú vật trong đêm khuya ngoài cánh đồng.
Nhưng trong dòng lịch sử thời gian lễ mừng Hài nhi Giêsu, Con Thiên Chúa, lại rất khác với khung cảnh nguyên thủy thuở ban đầu, cùng có những thắc mắc đặt ra về nơi chốn cùng thời gian Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế sinh ra.
Không có sử sách bút tích ghi thuật lại những tín Chúa Kitô thời xưa mừng lễ Chúa Giêsu gíang sinh như thế nào, ít là phần trang trí bên ngoài.
Sử sách còn ghi thuật lại, Thánh Phanxicô thành Assisi năm 1223 ở vùng Walde von Grecco đã cùng với các anh em Dòng của ngài dựng làm ra hang đá Chúa giáng sinh đầu tiên dựa theo những lời thuật lại trong phúc âm về đêm Chúa sinh ra năm xưa và theo kiểu ru con trong một chiếc nôi.
Hang chuồng thú vật cùng chiếc máng cỏ hài nhi Giêsu đêm giáng sinh nằm như thế nào, không ai biết rõ. Dựa theo phúc âm và theo dòng lịch sử người ta đã làm ra nhiều kiểu về hang đá cùng máng cỏ Chúa giáng sinh.
Theo tập tục bên Đông phương máng cỏ, nôi Chúa nằm lúc sinh ra, được làm bằng đá có hình thể trông giống như một quan tài. Và hài nhi Giêsu được quấn khăn tã đặt nằm trong đó như xác một người qua đời.
Hình ảnh này muốn diễn tả Chúa Giesu sinh ra trong hang đá và lúc qua đời cũng được mai táng trong mồ đá. Trong hang đá sự sống đã khởi đầu khi Chúa Giêsu sinh ra làm người và cũng trong mồ đá Chúa Giêsu đã sống lại, khởi đầu một đời sống mới. Đời sống cứu độ.
Nghệ thuật cùng tập tục bên phương Tây xây dựng hang đá máng cỏ như một bàn thờ. Hình ảnh này muốn diễn tả lễ tế tạ ơn, bí tích thánh thể. Bethlehem có nghĩa là “ nhà làm bánh mì“. Khi cử hành bí tích Thánh thể là tưởng nhớ lại sự sinh ra làm người của Chúa khi xưa trong hang đá ngoài cánh đồng Bethlehem. Và trong mỗi thánh lễ chúng ta cùng tiếp nhận tấm bánh thánh thể từ trời cao, ngày xưa đã sinh xuống trên đồng Bethlehem “ngôi nhà làm bánh mì“, là lương thực cho niềm tin tâm hồn vào Chúa.
Người ta cũng không biết rõ hình thù hang đá máng cỏ lúc Chúa Giesu sinh ra như thế nào. Máng cỏ ( có năm mảnh ván nhỏ ghép lại) Chúa Giêsu nằm khi sinh ra ở Bethlehem, theo tương truyền còn lưu giữ ở đền thờ Đức Bà cả S. Maria Maggiore bên Roma. Điều này không có gì chắc chắn đúng (origine) trăm phần trăm cả.
Lòng đạo đức kính thờ Chúa sinh ra làm người đã thúc đẩy con người vẽ kiểu làm ra hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh. Việc này không có gì xấu cả, trái lại tốt lành và nâng đỡ niềm tin con người rất nhiều.
Ngày nay, người dựng hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh phần nào theo truyền thống hang đá đầuThánh Phanxicô khó khăn thành Assisi đã nghĩ làm ra.Nhưng vật liệu xây dựng khác nhau hoặc bằng gỗ, hoặc bằng giấy rồi sơn phết mầu xám của đá. Ngoài những bộ tượng giáng sinh đặt trong đó, đèn điện cũng được chăng mắc thêm vào tùy theo văn hóa, thẩm mỹ cùng lòng cung kính đạo đức của từng dân tộc thời đại.
Hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh dù xây dựng bằng vật liệu gì, theo kiểu cách nào và trang trí thế nào đi nữa, đều muốn gợi lại tình yêu của Chúa xuống trần gian làm người, và cũng phần nào nói lên tâm tình yêu mến của con người với Đấng là tình yêu cho tâm hồn con người.
Còn thắc mắc về thời gian cùng nơi chốn Chúa Giesu giáng trần cũng có những giả thuyết theo phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử đặt ra.
Phúc âm về thời điểm biến cố chính trị Chúa Giêsu giáng sinh thuật lại: “Thời hoàng đế Aqugustus ra chiếu chỉ …”( Lc2,1-14)
Vào chính giữa biên cố lịch sử hành chánh dân sự xã hội này, Chúa Giêsu sinh xuống trần gian làm người
Như thế Chúa Giêsu giáng sinh làm người không là một điều gì trừu tượng, không là một ý tưởng huyền thoại hoang đường tô vẽ cho thành tốt đẹp thần thánh huy hoàng. Nhưng là một biến cố trong lịch sử nhân loại, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, từ trời cao xuống trần gian. Trời và đất giao hòa với nhau. Thiên Chúa đến với con người.
Còn về thời gian ngày tháng Chúa giáng sinh, không có sử sách hay kinh thánh phúc âm nào ghi thuật lại. Dựa vào lịch sử thời lúc như phúc âm thuật lại những biến cố xẩy ra lúc Chúa giáng sinh, có suy luận cho rằng vào năm 5. trước Chúa giáng sinh, là năm Chúa Giêsu giáng sinh. Suy luận khác lại cho rằng năm 1. hoặc năm 2. là năm Chúa Giêsu giáng sinh.
Các phúc âm Chúa Giêsu Kitô tường thuật Chúa Giêsu sinh ra làm người đều đồng quan điểm ở thành Bethlem, thành của Vua David, tổ tiên của Chúa Giêsu. Và cũng có khảo cứu suy luận cho rằng Chúa Giêsu sinh ra ở Nazareth.
Nơi chốn Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa sinh ra ở Bethlehem hay ở Nazareth, không giữ vai trò quan trọng cho lễ mừng Chúa giáng sinh, Đấng là ánh sáng, là tình yêu ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người trần gian trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Rồi còn ngày tháng lễ Chúa giáng sinh cũng không có trong phúc âm cùng sử sách nào. Giáo hội Công giáo từ thế kỷ 4. sau Chúa giáng sinh, đã lấy ngày 25.Tháng 12 hằng năm là ngày lễ mừng kỷ niệm Chúa Giêsu giáng sinh.
Ngày 25. Tháng 12 nguyên thủy là ngày lễ dân Roma thời xưa mừng kính thần Mặt Trời chiến thắng- sol invictus. Sau khi Kitô giáo được hoàng đề Constantino công nhận cho phép tự do tôn giáo trong toàn đế quốc Roma từ năm 313, Giáo hội đã lấy ngày này là ngày mừng kính sinh nhật Chúa Giêsu, Đấng là Mặt Trời công chính của Thiên Chúa.
Như vậy có thể nói được ngày 25.tháng 12. hằng năm đã được Giáo hội rửa tội hay Kitô giáo hóa cho trở thành ngày lễ mừng sinh nhật Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng của Mặt Trời công chính, sinh xuống trần gian làm người và thành lập Giáo hội Chúa ở trần gian.
Những mốc điểm lịch sử, nơi chốn, niên đại ngày tháng ngày, cung cách mừng lễ Chúa giáng sinh ăn nhịp hòa điệu vào khung cảnh đời sống văn hóa xã hội con người trần gian. Nhưng không phải là điều cốt lõi chính yếu ngày lễ mừng Chúa giáng sinh.
Lễ mừng Chúa Giêsu giáng sinh ẩn chứa sâu thẳm chiều kích thánh thiêng tâm linh. Đây mới là sứ điệp cốt lõi ngảy lễ mừng Chúa Giêsu giáng sinh:
Thiên Chúa từ trời cao xuống trần gian làm người, sống gần gũi với con người, và mang ơn cứu độ xuống cho con người trong thời gian lịch sử và trong những biến cố hiện thực ở trần gian.
Lễ mừng Chúa Giesu giáng sinh là biến cố không chỉ có nhiều ánh sáng, nhưng có nhiều niềm hy vọng cho đời sống con người trần gian.
Vui mừng và tạ ơn Chúa là tâm tình chính ngày mừng lễ Thiên Chúa qua Chúa Giêsu giáng sinh làm người.
Mừng lễ Chúa giáng sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
VietCatholic TV
Chiêu mới: Putin ngỏ ý muốn đàm phán với Pháp về cuộc xâm lược Ukraine. Washington hơi bẽ bàng
VietCatholic Media
02:52 22/12/2025
1. Nhóm du kích Ukraine tuyên bố đã phá hoại đầu mối hỏa xa quan trọng ở tỉnh Rostov của Nga.
Ngày 21 tháng 12, các thành viên của nhóm du kích Ukraine Atesh tuyên bố đã phá hoại một đầu mối hỏa xa trọng yếu gần thành phố Rostov-on-Don của Nga, làm gián đoạn hoạt động hậu cần của Nga đến các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm.
Các phần tử thuộc tổ chức ATES đã phóng hỏa một trung tâm hỏa xa ở Bataysk, thuộc tỉnh Rostov của Nga, nơi quân đội Nga sử dụng để tiếp tế cho lực lượng của họ ở các khu vực bị tạm chiếm thuộc các tỉnh Kherson, Zaporizhzhia và Donetsk, cũng như Crimea.
Theo nhóm này, nhà ga được sử dụng để tiếp tế binh lính và xe quân sự cho mặt trận phía nam.
“Do vụ đốt phá, hoạt động của trung tâm hậu cần chính, nơi cung cấp tiếp tế cho lực lượng xâm lược theo mọi hướng về phía nam, đã bị gián đoạn”, nhóm này cho biết.
Nhóm Atesh thường xuyên tiến hành các hoạt động phá hoại tại các địa điểm quân sự trên lãnh thổ Ukraine bị tạm chiếm và sâu bên trong lãnh thổ Nga.
Đầu tháng trước, lực lượng du kích đã báo cáo về một vụ phá hoại nhằm vào một đầu máy xe lửa điện được tường trình dùng để vận chuyển hàng hóa quân sự từ thành phố Rostov-on-Don của Nga.
[Kyiv Independent: Ukrainian partisans sabotage key railway hub in Russia's Rostov Oblast, group claims]
2. Ukraine không thể tự mình duy trì đội quân 800.000 người: Tổng thống Zelenskiy nói rằng nguồn tài trợ từ các đồng minh giờ đây là sự bảo đảm an ninh thời hậu chiến.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy tuyên bố rằng ngân sách hiện tại của Ukraine không đủ để duy trì quân đội với quân số hiện tại là 800.000 binh sĩ. Do đó, nguồn tài trợ từ các đồng minh được xem như một sự bảo đảm an ninh cho đất nước.
Ông cũng nhấn mạnh rằng Nga đã, đang và sẽ tiếp tục tìm cách xâm lược hoàn toàn Ukraine và phá hủy nền độc lập của nước này.
“Không, điều đó không khả thi. Nguồn tài chính không đủ. Đó là lý do tại sao tôi đang tiến hành cuộc đối thoại này với các nhà lãnh đạo thế giới”, nhà lãnh đạo Ukraine nói.
Ông nói thêm rằng sau chiến tranh, Ukraine sẽ cần thời gian để tái thiết nền kinh tế và phát triển khả năng tự chủ tài chính cho quân đội.
“Hiện tại, sự hỗ trợ của các đối tác là cần thiết,” tổng thống nhấn mạnh, đồng thời cho biết thêm rằng trong khi Ukraine hy vọng chiến tranh sẽ kết thúc, Nga không cho thấy sự sẵn sàng ngừng hành động gây hấn của mình.
Tổng thống Zelenskiy lưu ý rằng các bảo đảm an ninh vẫn đang trong quá trình phát triển, và Ukraine đã chia sẻ tầm nhìn của mình với Mỹ và các đối tác Âu Châu.
Nga sẽ không tự ý thay đổi lập trường của mình.
Tổng thống Zelenskiy nói thêm rằng Ukraine hy vọng chiến tranh sẽ chấm dứt.
“Chúng tôi rất muốn điều đó, và chúng tôi đang thể hiện điều đó. Còn về việc Nga thể hiện thiện chí hay sẵn sàng chấm dứt chiến tranh, thành thật mà nói, tôi vẫn chưa thấy điều đó”, ông nói.
Đồng thời, Tổng thống Zelenskiy nói thêm rằng “các đồng nghiệp của chúng tôi từ Mỹ nói rằng Nga muốn chiến tranh kết thúc”.
“Vâng, các bạn biết đấy, đôi khi mọi chuyện là như vậy. Họ muốn làm, nhưng không thể. Tuy nhiên, tôi tin rằng nhờ sự kiên trì của các đối tác Mỹ, và nếu Chúa cho phép, chúng ta sẽ có thể ngăn chặn cuộc chiến của Nga”, ông tuyên bố.
Tổng thống Zelenskiy nhấn mạnh rằng Nga sẽ không tự ý thay đổi lập trường của mình vì họ không muốn.
[Europe Maidan: Ukraine can’t afford its 800,000-strong army alone: Zelenskyy says allied funding is now post-war security guarantee]
3. Paris hoan nghênh sự ‘sẵn sàng’ của Putin cho các cuộc đàm phán song phương với Macron.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và nhà độc tài Nga có thể sắp tiến hành cuộc đàm phán song phương về vấn đề Ukraine.
Theo các báo cáo truyền thông hôm Chúa Nhật, phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov cho biết Putin “đã bày tỏ sẵn sàng đối thoại” với Macron về vấn đề này.
Điện Élysée đã phản hồi tích cực. “Việc Điện Cẩm Linh công khai đồng ý với đường lối này là điều đáng hoan nghênh. Chúng tôi sẽ quyết định trong những ngày tới về cách thức tiến hành tốt nhất”, Phủ Tổng thống Pháp cho biết.
Tuần trước, tại hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp Âu Châu ở Brussels, Macron cho biết sẽ “hữu ích” nếu Âu Châu chủ động liên hệ với Putin để bảo đảm rằng một thỏa thuận hòa bình ở Ukraine không chỉ do Mỹ, Nga và Ukraine đàm phán. “Tôi nghĩ rằng chúng ta, người Âu Châu và người Ukraine, cần tìm một khuôn khổ để tham gia thảo luận một cách đúng mực”, Macron nói với các phóng viên khi hội nghị thượng đỉnh kết thúc vào sáng sớm thứ Sáu.
Theo báo Le Monde, Điện Élysée nhấn mạnh rằng bất kỳ cuộc đàm phán nào với Nga sẽ diễn ra “hoàn toàn minh bạch” với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy và các đồng minh Âu Châu.
Ông Macron và Putin hiếm khi liên lạc trực tiếp với nhau kể từ khi Mạc Tư Khoa phát động cuộc xâm lược toàn diện Ukraine vào đầu năm 2022. Lần liên lạc qua điện thoại gần đây nhất của họ là vào tháng 7, sau khoảng ba năm không liên lạc.
[Politico: Paris welcomes Putin’s ‘readiness’ for bilateral talks with Macron]
4. Điện Cẩm Linh phủ nhận việc chuẩn bị cho cuộc đàm phán ba bên Mỹ-Ukraine-Nga: “Không nằm trong diện thảo luận”.
Ngày 21 tháng 12, cố vấn cao cấp của Điện Cẩm Linh, Yuri Ushakov, đã phủ nhận việc các cuộc đàm phán ba bên liên quan đến Ukraine, Nga và Mỹ thậm chí đang được xem xét.
Các phái đoàn Ukraine và Nga đã vội vã đến Miami để tham gia vòng đàm phán tiếp theo với các đại diện của Mỹ, điều mà một số người coi là nỗ lực của Mỹ nhằm chấm dứt cuộc xâm lược Ukraine của Nga.
“Hiện tại, chưa ai thảo luận nghiêm chỉnh về sáng kiến này, và theo như tôi biết, nó cũng chưa được chuẩn bị,” Ushakov nói với các nhà báo.
Phái đoàn Ukraine gặp gỡ các quan chức Mỹ tại Mỹ để bắt đầu vòng đàm phán mới.
Ushakov cũng tuyên bố rằng ông thậm chí không biết liệu các đại diện của Ukraine có mặt ở Miami hay không, nơi đang diễn ra các cuộc đàm phán giữa các quan chức Mỹ và Nga.
Ông Rustem Umerov, Bí thư Hội đồng An ninh và Quốc phòng Ukraine, sau đó xác nhận vào ngày 21 tháng 12 rằng ông và Tướng Andrii Hnatov, Tham mưu trưởng Quân đội Ukraine, đang ở Mỹ và tiến hành một vòng đàm phán khác với phái đoàn Mỹ.
Về phía Mỹ, các cuộc đàm phán do Đặc phái viên Steve Witkoff và con rể của Tổng thống Trump, Jared Kushner, dẫn đầu, trong khi Nga được đại diện bởi Kirill Dmitriev, nhà lãnh đạo quỹ đầu tư quốc gia của nước này.
Trả lời phóng viên sau cuộc gặp ngày 20 tháng 12, Dmitriev mô tả cuộc đàm phán là mang tính xây dựng.
Trước đó, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết Washington đã đề xuất các cuộc đàm phán ba bên giữa các phái đoàn từ Mỹ, Ukraine và Nga, lưu ý rằng ông tin rằng tiến triển đáng kể hướng tới việc chấm dứt chiến tranh của Nga không thể đạt được trong khuôn khổ đó, nhưng nó có thể mang lại kết quả, bao gồm việc trao đổi tù binh hoặc đặt nền tảng cho các cuộc đàm phán quan trọng hơn.
Đầu tuần này, Witkoff và Kushner đã có các cuộc gặp tại Berlin với các quan chức Ukraine và Âu Châu, nơi các cuộc thảo luận được tường trình tập trung vào các bảo đảm an ninh “tương tự như Điều 5” cho Ukraine cũng như nguồn tài trợ cho việc phục hồi và tái thiết sau chiến tranh.
Các cuộc đàm phán ở Miami dự kiến sẽ dựa trên những cuộc tham khảo ý kiến đó khi Washington tiếp tục thúc đẩy một giải pháp dàn xếp thông qua đàm phán.
[Politico: 'Not under discussion': Kremlin denies preparations for trilateral US-Ukraine-Russia talks]
5. “Nga không thể phá hoại tình hữu nghị giữa Ba Lan và Ukraine”: Các phái đoàn gặp nhau tại Volyn để chuẩn bị khai quật hài cốt các nạn nhân năm 1943.
Ngày 19 tháng 12, đại diện Ba Lan và Ukraine đã gặp nhau tại làng Uhly thuộc tỉnh Rivne, nơi xảy ra thảm kịch Volyn, để thảo luận về công tác chuẩn bị khai quật. Theo bà Karolina Romanowska, nhà lãnh đạo Hội Hòa giải Ba Lan-Ukraine, gia đình các nạn nhân cũng tham dự.
Thảm kịch Volyn là một chương bi thảm trong lịch sử của người Ukraine và Ba Lan. Các cách giải thích lịch sử về vụ thảm sát hàng loạt năm 1942–1944 rất khác nhau. Ở Ba Lan, các sự kiện được mô tả là “diệt chủng”, đổ lỗi cho Quân đội Khởi nghĩa Ukraine. Ở Ukraine, các nhà sử học nhấn mạnh rằng trách nhiệm thuộc về cả hai phía, cũng như chính quyền Đức Quốc xã và chính quyền Liên Xô.
Ước tính về số nạn nhân cũng khác nhau. Viện Tưởng niệm Quốc gia Ba Lan cho biết có khoảng 100.000 nạn nhân người Ba Lan và 5.000 nạn nhân người Ukraine, trong khi các nhà sử học Ukraine ước tính có tới 20.000 người Ukraine và 35.000-40.000 người Ba Lan, theo Radio Free Europe/Radio Liberty đưa tin.
Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng các vụ thảm sát hàng loạt ở Volyn bắt đầu ở những khu vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chủ nghĩa cộng sản trước Thế chiến II.
Cả trước và trong Thế chiến II, Liên Xô đã lan truyền tuyên truyền chống Ba Lan trong cộng đồng người Ukraine theo Chính thống giáo và kích động thù hận giữa người Ba Lan và người Ukraine, thường sử dụng các hành động phá hoại và các chiến thuật gây rối khác.
Các đại diện của Ba Lan từ Viện Tưởng niệm Quốc gia và Đại học Y khoa Szczecin, do Giáo sư Andrzej Ossowski dẫn đầu, đã gặp gỡ các đối tác Ukraine để bắt đầu chuẩn bị cho việc khai quật hài cốt các nạn nhân của thảm kịch ở Uhly, xảy ra vào ngày 12 tháng 5 năm 1943.
“Gia đình các nạn nhân và Hiệp hội Hòa giải PL-UA đã chờ đợi và nỗ lực cho khoảnh khắc này trong nhiều năm. Cuối cùng, điều đó đã xảy ra”, bà Romanowska nói.
Trong một bình luận gửi tới Suspilne, trưởng làng Ugly, Taras Banatskyi, đã xác nhận sự hiện diện của phái đoàn Ba Lan tại làng.
Ihor Pavlenko, Phó Trưởng ban Quản lý Quân sự Khu vực Rivne, cho biết với Suspilne rằng có kế hoạch tiến hành công tác tìm kiếm và khai quật vào năm 2026.
“Ukraine tham gia thông qua KP 'Dolya' thuộc Hội đồng vùng Lviv. Hôm nay tại Ugly, chúng tôi đã tổ chức một cuộc họp chuẩn bị và khảo sát địa điểm để phục vụ cho các nghiên cứu trong tương lai”, Pavlenko giải thích.
Trước đó, Bộ trưởng Văn hóa Ba Lan Marta Cienskowska cho biết phía Ba Lan đã nhận được sự cho phép từ Ukraine để tiến hành nghiên cứu tại Uhly, theo hãng tin Espreso.
Bà nói thêm rằng mỗi sự kiện như vậy đều chứng minh cho nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin và nước Nga thấy rằng họ không thể làm suy yếu tình hữu nghị giữa Ba Lan và Ukraine.
[Europe Maidan: “Russia cannot destroy friendship between Poland and Ukraine”: Delegations meet in Volyn to prepare exhumation of 1943 victims]
6. Theo thông báo của cơ quan thanh tra nhân quyền, 50 thường dân ở tỉnh Sumy bị bắt cóc và đưa sang Nga.
Theo thông tin từ phát ngôn nhân của Ủy ban Thanh tra Ukraine, Dmytro Lubinets, trên Telegram, quân đội Nga đã bắt cóc khoảng 50 cư dân của làng Hrabovske thuộc tỉnh Sumy của Ukraine, cách biên giới Nga khoảng 200 mét.
Theo thông tin sơ bộ, ngày 18 tháng 12, lực lượng Nga đã bắt giữ trái phép khoảng 50 thường dân – cư dân của làng Hrabovske – giam giữ họ mà không cho phép liên lạc hoặc ở trong điều kiện thích hợp. Ngày 20 tháng 12, họ bị cưỡng bức đưa đến Nga.
“Tôi lập tức liên hệ với Cao ủy Nhân quyền Liên bang Nga, yêu cầu thông tin về nơi ở của các công dân Ukraine bị trục xuất trái phép, chi tiết về điều kiện giam giữ và nhu cầu cấp thiết của họ, cũng như yêu cầu các biện pháp để đưa họ trở về Ukraine ngay lập tức. Tôi cũng đã gửi thư cho ICRC “, ông Lubinets viết.
Thanh tra viên cũng kêu gọi người dân trong khu vực di tản ngay lập tức, vì ở lại vùng chiến sự rất nguy hiểm. Ông nhấn mạnh sự cần thiết phải ban hành luật di tản bắt buộc, đặc biệt là đối với trẻ em, khỏi những khu vực mà tính mạng và tự do của các em đang bị đe dọa trực tiếp.
Thông tin về vụ bắt cóc thường dân Ukraine ở tỉnh Sumy cũng đã được phát ngôn nhân của Bộ Tổng tham mưu Ukraine, Dmytro Lykhovii, xác nhận trước đó.
Hầu hết những người bị cưỡng bức di dời là những người đàn ông và phụ nữ lớn tuổi; một trong số những người phụ nữ đó đã 89 tuổi, Lykhovii nói với Ukrainska Pravda vào ngày 21 tháng 12. Gần như tất cả họ trước đó đều từ chối di tản sâu hơn vào lãnh thổ do Ukraine kiểm soát.
Phát ngôn nhân cho biết thêm, các cơ quan thực thi pháp luật đã mở cuộc điều tra về việc trục xuất dân thường một cách cưỡng bức.
Chiều nay, Viktor Trehubov, nhà lãnh đạo bộ phận truyền thông của Lực lượng Liên hợp Ukraine, nói với Suspilne rằng vào ngày 20 tháng 12, các đơn vị quân đội Nga thuộc Lữ đoàn 36 đã tiến vào một thị trấn biên giới và cố gắng tiến sâu tới một km vào lãnh thổ Ukraine. Trong số 50 thường dân bị bắt giữ, hầu hết là nam giới - những người trước đó đã từ chối di tản.
Giao tranh vẫn đang tiếp diễn tại làng Hrabovske, Lực lượng Đặc nhiệm Liên hợp viết trên Facebook. Quân đội Ukraine đang tích cực đẩy lùi lực lượng Nga về lãnh thổ Nga.
“Mặc dù một số phương tiện truyền thông đưa tin sai lệch, nhưng hiện tại lực lượng Nga không có mặt tại làng Riasne lân cận”, tuyên bố cũng làm rõ.
Trong khi đó, việc di tản dân thường vẫn tiếp tục diễn ra tại các cộng đồng biên giới thuộc tỉnh Sumy, theo báo cáo của Thống đốc Oleh Hryhorov ngày 21 tháng 12. Ông viết: “Hôm nay, một số cư dân từ cộng đồng Krasnopillia, những người trước đó đã từ chối di tản, đã được di tản bằng xe thiết giáp”.
Các làng biên giới ở tỉnh Sumy phía đông bắc Ukraine đang phải hứng chịu những đợt tấn công của Nga hàng ngày. Những cuộc tấn công không ngừng nghỉ này đã dẫn đến việc di tản bắt buộc ở hàng trăm cộng đồng dân cư.
Tỉnh Sumy là mục tiêu trọng yếu của lực lượng Nga trong suốt cuộc xâm lược toàn diện do vị trí địa lý của nó ở biên giới phía đông bắc. Tỉnh này tiếp tục phải hứng chịu các cuộc tấn công gần như hàng ngày, nhưng lực lượng Ukraine vẫn duy trì quyền kiểm soát phần lớn khu vực.
[Kyiv Independent: 50 civilians in Sumy Oblast abducted and forcibly taken to Russia, ombudsman says]