Ngày 31-12-2008
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:23 31/12/2008
NHẬP THẾ

N2T


Mặc dù đại sư rất từ bi với các đệ tử của mình, nhưng cũng không giấu gì mà không bày tỏ ông càng yêu mến những người ở trong “thế giới”, ngay cả các đệ tử trong chùa cũng chỉ là những đám thương nhân nông phu.v.v... đã có vợ lập nghiệp.

Khi các đệ tử chất vấn về chuyện ấy, ông ta trả lời: “Tu trì bằng hành động thì vượt xa qua kiểu tu hành của người ở ẩn.”

(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)

Suy tư:

Giáo Hội Công Giáo có hai phương cách hoạt động tông đồ, tức là truyền giáo, đó là: tĩnh và động. Tĩnh là

cầu nguyện, động là ra đi truyền giáo.

Trong Giáo Hội Công Giáo có hai bậc tu trì, đó là bậc tu trì hoạt động sống giữa đời như các dòng tu nam nữ, và bậc tu trì chỉ chuyên tâm cầu nguyện trong bốn bức tường tu viện, đó là dòng khổ tu nam hoặc dòng kín nữ...

Trong Giáo Hội mọi người đều được mời gọi nên thánh theo bổn phận của mình: bậc tu trì nên thánh theo kiểu của bậc tu trì, người lập gia đình nên thánh theo kiểu của người lập gia đình, bởi vì ơn cứu độ của Thiên Chúa không phải chỉ ban cho những người tu trì, mà là ban cho hết tất cả mọi người thành tâm thiện chí trên thế gian này.

Trong Giáo Hội Công Giáo ai cũng có sứ mệnh đem Chúa đến cho mọi người, do đó mà không có chuyện người tu trì hoạt động bên ngoài thì vượt xa người trong dòng kín cầu nguyện, nhưng đều như nhau, bởi vì cầu nguyện trong tu viện hay hoạt động giữa đời đều cùng là mục đích: đem Tin Mừng tình yêu của Chúa Giê-su đến cho mọi người.

Có hơn thua nhau là tại cái tâm mà thôi.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:24 31/12/2008
N2T


53. Bí quyết cao nhất của đời sống tu đức của tôi là chuyên làm việc để tôi hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa.

(Thánh Terese of Lisieux)
 
ghi nhớ và suy niệm
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
02:20 31/12/2008
Lễ Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa Lc 2, 16-21

GHI NHỚ VÀ SUY NIỆM

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA

Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy biến động. Những biến động của năm cũ khiến ta phải lo âu khắc khoải tự hỏi: Năm mới sẽ đi về đâu ? Trong niềm băn khoăn khắc khoải đó, Giáo hội mời gọi ta hãy chiêm ngắm Đức Mẹ để tìm được hướng đi trong năm mới vừa khởi đầu.

Khi sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ đã sống trong những biến động lớn lao. Biết bao biến cố dồn dập xảy đến. Giữa những biến động ấy, Đức Mẹ vẫn giữ tâm hồn trầm lắng: quan sát, “ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đó là một mẫu gương của người luôn suy niệm Lời Chúa để tìm thánh ý Thiên Chúa, và từ đó tìm một hướng đi chính xác cho đời mình.

Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm vì biết Chúa là chủ lịch sử. Vì yêu thương Chúa đã sắp xếp cho con người một chương trình tốt đẹp. Khi con người hư hỏng làm sai, Chúa lại tìm cách cứu chữa. Riêng bản thân Đức Mẹ đã cảm nghiệm: từ việc truyền tin đến việc sinh ra Chúa Giêsu, từ việc các thiên thần ca hát đến việc các mục đồng chúc mừng, từ việc ba vua đến thờ lạy đến việc phải đưa Chúa Giêsu trốn sang Ai cập, tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Chương trình bầy tỏ lòng Chúa yêu thương muốn cứu chuộc con người, vì hạnh phúc của con người.

Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm để cộng tác với Chúa. Đức Mẹ luôn ngoan ngoãn thi hành những điều Chúa dạy. Thánh ý Chúa được Đức Mẹ tìm thấy qua những biến cố như kê khai hộ tịch, như trốn sang Ai cập. Thánh ý Chúa được Đức Mẹ thấy qua lề luật, như phải dâng con vào Đền Thờ, phải cho con trẻ chịu phép cắt bì. Thánh ý Chúa được Đức Mẹ thấy rõ ràng qua lời thiên thần truyền, như việc thụ thai sinh con trai, như việc đặt tên cho Chúa Giêsu. Sau khi biết rõ thánh ý Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn thi hành. Nhờ thế chương trình của Chúa được thực hiện.

Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm để cộng tác với mọi người. Biết những người mình gặp gỡ đều do Chúa gửi đến nên Đức Mẹ sẵn sàng đón tiếp và cộng tác với mọi người. Từ thiên thần Gabriel cho đến bà thánh Elizabét Từ thánh Gioan Baotixita cho đến thánh Giuse. Từ ba vua cho đến hoàng đế Augusto. Từ thiên thần ca hát cho đến mục đồng thờ lạy. Tất cả đều được Đức Mẹ đón tiếp và cộng tác để làm cho chương trình của Chúa được nên trọn.

Năm Mới vừa mở trang đầu tiên trước mắt chúng ta. Để năm mới được hoàn toàn tốt đẹp, ta hãy noi gương Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm những biến cố để tìm thánh ý Chúa. Đặc biệt trong Năm Lời Chúa ta hãy siêng năng suy niệm Lời Chúa. Chuyên chăm đọc, suy niệm Lời Chúa sẽ giúp ta tìm được thánh ý Thiên Chúa. Hãy nhận biết Chúa làm chủ lịch sử. Năm mới là món quà Chúa ban tặng cho ta với những chương trình tốt đẹp của Chúa. Nhưng để chương trình được thực hiện, Chúa cần nhờ sự cộng tác của ta. Và sau cùng ta phải cộng tác với mọi người. Mỗi người là một mắt xích trong kế họach của Chúa. Mỗi người có một vai trò trong chương trình của Chúa. Cần phải hợp tác với nhau, mỗi người một việc, để chương trình của Chúa được thực hiện.

Nhìn vào các chủng sinh ta càng thấy rõ sự quan phòng của Chúa. Mỗi ơn gọi là một mầu nhiệm. Mỗi ơn gọi là một lịch sử. Chính ơn Chúa kêu gọi từng người. Chính bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa sắp xếp từng phút giây của cuộc đời chủng sinh. Với chủng viện, Chúa muốn có một chương trình tốt đẹp cho Dân Chúa. Nhưng chương trình đó chỉ được thực hiện với sự cộng tác của từng cá nhân. Và chương trình đó chỉ được thực hiện với sự hợp tác của nhiều người. Hiểu rõ điều ấy, nên Đại chủng viện thánh Giuse Hà nội hôm nay tổ chức ngày cầu nguyện cho các ân nhân. Xin Chúa ban dồi dào ơn lành để chúng ta hiểu biết thánh ý Chúa, cộng tác với ơn Chúa, và cộng tác với nhau để cho chương trình tốt đẹp của Chúa được thực hiện.

Lạy Chúa, chúng con xin dâng năm mới này cho Chúa. Xin Chúa thương chúc lành và cho chúng con biết dùng năm mới này thực hiện chương trình của Chúa.

Suy niệm 2

Đầu năm mới, ta cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp nhất. Ta cầu chúc vì hi vọng những lời cầu chúc sẽ thành hiện thực và năm mới sẽ tốt đẹp. Hòa nhịp với niềm hi vọng của mọi người, Giáo hội dâng ngày đầu năm mới tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ là người sinh ra niềm hi vọng. Vì sinh ra con cái chính là sinh ra niềm hi vọng. Mừng lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa là lời cầu nguyện cho niềm hi vọng trong năm mới. Vì Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu là nguồn mạch mọi hi vọng. Chúa Giêsu ra đời mở đầu một thời đại mới, đem lại cho nhân loại niềm hi vọng mới.

Đó là niềm hi vọng thay đổi số phận. Kiếp sống con người quá vất vả. Định mệnh con người quá khắc nghiệt. Tội lỗi giam hãm làm cho tương lai con người lâm vào cảnh tối tăm không lối thoát. Chúa Giêsu sinh xuống làm người đã thay đổi số phận con người. Bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính nhân loại đã mở ra cho con người một tương lai tươi sáng. Con người được nâng lên hàng con Thiên Chúa. Định mệnh con người rạng rỡ vì được chung phần gia nghiệp với Thiên Chúa. Tương lai con người tươi sáng vì được hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúa Giêsu đã gieo mầm hi vọng vào kiếp sống vô vọng. Ngài đã gieo mầm thần linh vào kiếp sống phàm trần. Ngài đã gieo mầm vĩnh cửu vào cõi đời tạm bợ.

Đó là niềm hi vọng được sống hòa bình. Từ khi chống lại Thiên Chúa, con người sống trong bất hòa với nhau. Thế giới chưa bao giờ có hòa bình trọn vẹn. Hòa bình luôn là một ước vọng hầu như vô vọng. Chúa Giêsu xuống trần đem lại niềm hi vọng hòa bình. Ngài đã hòa giải con người với Thiên Chúa và hòa giải con người với nhau. Nếu tội lỗi của con người là bất hiếu, chống lại Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu đã hòa giải bằng cách sống trọn vẹn tâm tình hiếu thảo với Chúa Cha, vâng lời Chúa Cha trong mọi sự. Nếu bất hòa giữa con người do tự ái và ích kỷ, tranh chấp quyền lợi, thì Chúa Giêsu đã hòa giải bằng cách quên mình, hiến mình phục vụ anh em, sẵn sàng hiến tất cả, hiến cả mạng sống mình cho anh em. Ngài đã gieo mầm hòa bình. Ngài đem đến niềm hi vọng hòa bình cho nhân loại.

Đó là niềm hi vọng được yêu thương. Cuộc sống càng phát triển lại càng khốc liệt. Thương trường đã biến thành chiến trường. Con người cạnh tranh với nhau đã làm cho cuộc sống trở nên khô cứng. Con người trở nên địch thủ của nhau. Và ai cũng mong chờ một thế giới có tình người, dễ cảm thông chan hòa, dễ sống hơn. Chúa Giêsu xuống trần đã mở ra một thế giới chan hòa tình yêu thương. Ngài không chỉ rao giảng tình yêu thương nhưng đã sống tình yêu thương với mọi người. Tình yêu thương chia sẻ kiếp người, tha thứ cho người tội lỗi, bạn bè với những người cùng khổ. Và nhất là Ngài đã hiến thân chịu chết vì nhân loại. Ngài đã chiếu lên làn ánh sáng yêu thương. Ngài đã đốt lên ngọn lửa yêu thương. Ngài đã ủ men yêu thương vào thúng bột thế giới.

Các chủng sinh là niềm hi vọng của chúng ta vì các thày sẽ trở thành các linh mục, tiếp tục công việc của Chúa Giêsu gieo niềm hi vọng vào thế giới. Thật là ý nghĩa khi chủng viện chọn ngày đầu năm mới, kính nhớ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, làm ngày cầu nguyện cho các ân nhân của chủng viện. Thật vậy, nếu Đức Mẹ sinh ra Chúa Giê su là niềm hi vọng cho chúng ta, thì các cha giáo, các cha mẹ, các vị ân nhân cũng sinh ra các chủng sinh là niềm hi vọng nối tiếp niềm hi vọng của Chúa Giêsu. Nhưng cũng như Đức Mẹ phải nuôi dưỡng Chúa Giêsu trong ba mươi năm, các cha giáo, các cha mẹ, ân nhân và chủng viện cũng phải vất vả nâng đỡ chủng sinh để hạt mầm hi vọng sẽ lớn lên và sinh hoa kết quả tốt đẹp. Như thế chúng ta cộng tác với Đức Mẹ trong việc sinh ra niềm hi vọng cho thế giới. Như thế chúng ta cộng tác với Chúa Giêsu trong việc xây dựng niềm hi vọng biến đổi thế giới. Trong tâm tình đó, xin cầu chúc Cha Giám đốc, quý cha giáo, tất cả các bậc cha mẹ của các chủng sinh, các vị ân nhân một năm mới tràn đầy ơn Chúa và Mẹ Maria.

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1- Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đó là một vinh dự lớn lao đồng thời là một niềm hi vọng vững chắc cho con người. Bạn cảm nhận ân huệ này thế nào?
2- Đức Mẹ đã sinh ra một thế giới mới. Bạn có góp phần đổi mới thế giới không?
3- Ngày đầu năm ai cũng mong ước hòa bình. Bạn làm gì để góp phần xây dựng hòa bình thế giới.
 
Các nhà chiêm tinh đến bái lậy Hài Nhi Giêsu
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
05:25 31/12/2008
Phúc Ám Mátthêu 2, 1-12 – Hiển Linh

1.- Ngữ cảnh

Về việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm thế nào mà các ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia? Tại sao vua Hêrôđê không xử sự theo cách hợp lý hơn?

Cũng như trong nhiều đoạn khác của Tin Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những chuyện không được nói tới, chúng ta nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau khi bảng gia phả đã cho thấy Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Israel, và bản văn về nguồn gốc đích thực của Người đã chỉ nói đến những người có liên can trực tiếp, ở đây tác giả giúp chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của những người mà vì họ Đức Giêsu đã đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào của Hài Nhi, Đức Maria và Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và người ta, và đều nhắm tới Hài Nhi. Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các nhà chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công khai của Đức Giêsu và lời loan báo hậu Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục sinh cũng được vây quanh bởi những hạng người như thế. Nhận biết trong niềm vui, lãnh đạm không quan tâm và bách hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.

2.- Bố cục

Bản văn này có thể được chia ra làm hai phần, với một câu Mở và một câu Kết:

1) Mở (c. 1): Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh.
2) Phần 1 (cc. 2-8): Tại đền vua Hêrôđê. Cốt lõi là sấm ngôn về Đấng Mêsia.
3) Phần 2 (cc. 9-11): Tại nhà của Hài Nhi. Cốt lõi là hành vi tôn thờ Đấng Mêsia.
4) Kết (c. 12): Các nhà chiêm tinh trở lại quê hương.

3.- Vài điểm chú giải

- Bêlem (Bêthlehem) (1), có nghĩa là “nhà bánh mì”, hoặc cũng có thể là “nhà của thần Lah(a)mu” (thần của dân Akkad). Thành này cách Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát, của Isai (Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x. 1 Sm 16; 20,6). Xem Lc 2,4.11; Ga 7,42.

- Vua Hêrôđê (Cả): Vua này cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tr CG). Bởi vì ông xuất thân từ miền Iđumê, ở về phía nam xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa hy-lạp, nên ông bị người Do-thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn.

- Đức Giêsu ra đời: Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như ngày nay đang được sử dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần trước và sau cuộc chào đời của Đức Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo các Đại hội thế vận Hy-lạp (Đại hội đầu tiên được tổ chức năm 776 tr CG), hoặc dựa theo năm thành lập thành Rôma (ngày 21-4-753 tr CG), hoặc dựa theo những hoàng đế cai trị ở Rôma. Sau một thời gian, các ki-tô hữu có thói quen tính thời gian khởi đi từ hoàng đế Điôclêtianô (284-305 sau CG), ông này đã bách hại họ tàn khốc, và họ gọi thời này là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử dụng hiện nay là do văn sĩ Denys le Petit xác định, ông này sống tại Rôma vào tiền bán thế kỷ VI (mất trước năm 555). Để cho những năm cứu độ không phải gọi bằng tên của bạo chúa bách hại, Denys thay thế kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên Đức Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào đời của Đức Kitô, mà theo các tính toán của ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12 năm 753 sau khi Rôma được thành lập. Theo TM Mt, “Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì” (2,1), mà chúng ta biết rằng vua Hêrôđê qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu phải được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian giữa năm 8 và 6 tr CG.

- mấy nhà chiêm tinh (hl magos): Đây là những vị hiền giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh. Rất có thể họ là những nhà chiêm tinh Babylon, đã được tiếp xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do-thái. Có thể họ sống bên kia bờ sông Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới Do-thái. Dưới ảnh hưởng của Tv 72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là những vị vua. Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho rằng họ là ba vị (tk V), và còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (tk 8). Sang tk XIV, ông Gaspar được coi là một người da đen...

- chúng tôi đã thấy vì sao (2): Vào thời thượng cổ, người ta thường cho rằng cuọc chào đời của các nhân vật quan trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới. Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan sát chuyển động của các tinh tú. Do- thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên sai vào ngôi sao được nói tới ở sách Dân số (24,17). Có thể nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng, ngôi sao là hình ảnh ưu tiên để tượng trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng Mêsia vương giả, xuất thân từ nhà Đavít.

- xuất hiện (2): Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng thiên văn hay là một ngôi sao chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu, bởi vì hoặc tác giả Mt muốn kể lại một hiện tượng lạ lùng duy nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết này chỉ là một đặc điểm văn chương, được gợi hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không có hiện tượng tương ứng thế giới vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích tự nhiên đều là chuyện vô ích.

- chúng tôi đến bái lạy (hl proskyneô): Mt dùng động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57 lần). Đây là thái độ con người tùng phục Thiên Chúa.

- Cả thành Giêrusalem (3): Đây là một kiểu nói phóng đại, như để báo trước việc toàn dân Do-thái loại trừ Đức Giêsu (x. 21,10). Một sự tương phản đáng kinh ngạc: những người ngoại giáo, được hướng dẫn bởi những kiến thức hời hợt, pha trộn mê tín dị đoan, đã đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa, thực hiện một hành trình và điều tra kỹ lưỡng, để có thể bái kiến vị tân vương; ngược lại, các nhà lãnh đạo Do-thái có ánh sáng Kinh Thánh, lại chỉ phản ứng bằng sự sợ hãi và vô tâm (cc. 4-6).

- Phần ngươi, ngươi đâu phải (6): Câu trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3 với 2 Sm 5,2 theo cách rất độc đáo, không tương ứng với bản văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy-lạp. Tác giả đã đưa những thay đổi đó vào với mục tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ oudamôs (Pháp: pas du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha, ngài cho thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của ngài: sau khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có thể là một thành không đáng kể nữa. Nghịch lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào đời cho những người ngoại giáo (dù sao, họ cũng vẫn là những cái máng chính thức truyền đạt mạc khải mà!), thế mà họ lại không thể nhận ra được Người!

- mừng rỡ vô cùng (10): Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so với Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm vui này là sự bối rối hoang mang của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó là cơn giận dữ điên cuồng của nhà vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao của các phụ nữ vào sáng ngày Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng của đám lính canh khiến họ ra như chết (28,4).

- Họ vào nhà (11): Tác giả nối kết chặt chẽ niềm vui của những người ngoại giáo và việc họ đi vào “nhà”, là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp được Đức Kitô và bái thờ Người.

- hài nhi và thân mẫu: Công thức này được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và 21, là do tác giả cố tình chọn để nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh (1,18-25).

- lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy một vị vua, thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật này đều xứng đáng với một vị vua: x. Tv 72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và nhũ hương); Tv 45,8 (xức mộc dược cho vua); Dc 3,6 (nhũ hương và mộc dược). Truyền thống các Giáo Phụ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Tại đền vua Hêrôđê (1-8)

Có thể nói chương 2 của Tin Mừng Mt mở ra một cuộc “tìm kiếm” xuất xứ của Đấng Mêsia. Câu hỏi của các nhà chiêm tinh: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh ra, hiện ở đâu?” (c. 2) chính là đề tài của toàn thể bản văn. Điều đang lưu ý là cuộc tìm kiếm này lại được thực hiện bởi những người ngoại quốc, còn xa ơn cứu độ, nhưng chẳng bao lâu họ sẽ thế chỗ cho Dân Thiên Chúa tuyển chọn. Sự kiện họ có mặt ngay từ câu đầu tiên đã tiên báo sự đảo lộn xảy ra vào cuối bản văn (c. 11).

Cac nhân vật chính: trước tiên, đó là “Đức Giêsu” (x. 1,21.23), “vua dân Do-thái”, cho dù còn đang được bọc tã. Ở 1,18, tác giả đả kể lại việc Người chào đời, nay chỉ nhắc lại là Người “đã ra đời”. Người xuất hiện một mình, nhưng sau này tác giả nói rằng bên cạnh Hài Nhi có bà Maria là thân mẫu Người. Trước mặt Người, nhưng ngự tại Giêrusalem, là Hêrôđê Đại Đế, gương mặt gian ác nhất mà tác giả có thể nhắc lại từ lịch sử Do-thái thời ngài. Giữa hai dung mạo này, có những dung mạo phụ: bên Đức Giêsu, đó là các nhà chiêm tinh; phía Hêrôđê, đó là các thượng tế và kinh sư.

Các nhà chiêm tinh được loan báo nhưng không được giới thiệu. Các vị cũng sẽ không xuất hiện nữa trong Tin Mừng. Rất có thể đây là những vật nổi tiếng trong thời Thượng Cổ: là các nhà chiêm tinh hoặc các nhà thông thái đến từ phương Đông. Các nhà chú giải đã tìm các xác định căn cước của các vị này, nhưng rất có thể là vô ích. Các vị ấy chỉ là những hình ảnh biểu tượng của thế giới ngoại giáo. Các vị này đã được thúc đẩy (và “dẫn đường”: c. 9) bởi một ngôi sao lạ, được giải thích như là dấu chỉ loan báo “vua người Do-thái” chào đời, mà danh xưng này là danh xưng của Đấng Mêsia. Một “ngôi sao” xuất hiện với cuộc chào đời và hành trình vào đời của mỗi con người, nhất là của những nhân vật quan trọng nhất của lịch sử, thì không thể thiếu được trong cuộc đời của Đấng Mêsia. Rất có thể tác giả đã lấy hình ảnh ngôi sao từ Ds 24,17, nhưng cũng có thể ngài nghĩ đến đám mây sáng dẫn đường cho dân Do-thái đi trong sa mạc (x. Xh 13,21; 33,9). Lời tuyên xưng của các nhà chiêm tinh, “chúng tôi đến bái lạy Người”, rõ ràng có một tầm mức châm biếm và biện giáo chứ không chỉ là mục vụ. Sự “khôn ngoan” ngoại giáo mà người Do-thái vẫn khinh bỉ và loại trừ cũng có khả năng dẫn đưa người ta đến với Đức Kitô. Tác giả không mô tả tâm trạng của các nhà chiêm tinh, mà chỉ nêu bật sự mau mắn và can đảm của các vị ấy ngược lại với sự lãnh đạm của dân Do-thái; tuy nhiên ngài lại phác vẽ cho thấy phản ứng của vua Hêrôđê và của dân thành Giêrusalem (“bối rối”, “xôn xao”: c. 3). Ghi chú này khiến có thể nghĩ rằng tác giả đang gợi lại các hoàn cảnh thuộc quá khứ trong lịch sử cứu độ và hơn nữa đang nghĩ đến các biến cố tương lai trong truyện Đức Kitô (Thương Khó). Hêrôđê mang những đường nét của các kẻ bách hại dân Thiên Chúa, nhưng chính ông cũng không thực hiện được các kế hoạch của ông. Thật ra, ghi nhận này là để nâng đỡ tinh thần cho các Kitô hữu đang sống trong hoàn cảnh bị áp bức. Riêng sự khôn ngoan Đông phương đã tìm được sự trợ giúp trong lời “ngôn sứ” Do-thái để đi đến tận nơi Đức Kitô đang ở (cc. 4.9). Quang cảnh ở đền vua Hêrôđê như báo trước cảnh ở dinh tổng trấn Philatô (x. Mt 27,11-14). Nhưng ngay ở đó, họ cũng không yên tâm về các biện pháp họ lấy.

Khi tra cứu Kinh Thánh, giới lãnh đạo Do-thái giáo đã khám phá ra rằng Đấng Mêsia có xuất xứ là Bêlem. Thật ra tác giả đã ép bản văn Mk 5,1 để đi đến chỗ đồng hóa “Bêlem miền Giuđa” với “miền Giuđê” (c. 1) và bổ túc bằng một lời trích lấy từ 2 Sm 5,2 nói về vị thủ lãnh “sẽ chăn dắt Israel dân Ta”. Đây là kiểu chú giải quyen thuộc thời ấy. Kinh Thánh không nói rằng Đấng Mêsia xuất thân từ Bêlem, nhưng nếu Người là “con cháu Đavít” (Mt 1,1.20), thí cũng có thể kết luận rằng, giống nhu vị vua oai phong ấy, Người cũng là một người Bêlem. Việc chào đời trong một ngôi làng của miền Giuđê không chỉ là một sự kiện lịch sử, vì thật ra chỉ là phụ thuộc, mà là một dữ kiện thần học. Xuất xứ này xác nhận rằng Đức Giêsu là con cháu vua Đavít và là Đấng Mêsia. Tính cách biện giáo của bản văn thật rõ: những người ngoại giáo đã biết lên đường đi tìm Đức Kitô và một ông vua gian ác và ngoại quốc (Iđumê) biết làm trung gian cho tin vui, trong khi dân Giêrusalem chẳng những đã không đến với Người, mà còn chống lại Người.

Không bao giờ là một liên minh của Đấng Mêsia, vua Hêrôđê đã lên kế hoạch để loại trừ Người. Kế hoạch của ông đi ngược lại với chương trình của Thiên Chúa. Ông là “vua” trần thế, ông sợ các đối thủ. Sự quan tâm ông bày tỏ với các nhà chiêm tinh chỉ là mánh lới, mưu mô (cc. 7-8).

* Tại nhà của Hài Nhi (9-11)

Chuyến đi của các nhà chiêm tinh đã phải dừng lại, bây giờ lại được tiếp tục (c. 9). Các vị không phải là khách du lịch, nhưng là những khách hành hương được hướng dẫn bởi lời và ánh sáng của Thiên Chúa. Đến đây tác giả mới cho thấy tâm trạng của các vị này (“mừng rỡ vô cùng”: c. 10). Một cách gián tiếp, tác giả cho hiểu rằng trước đây, các vị tiến đi trong sự khắc khoải âu lo. Hành trình đức tin không bao giờ thoải mái. Chuyến đi hành hương cuối cùng đã đưa những người ngoại đến tận nơi ở của Đấng Mêsia (c. 11).

Các nhà chiêm tinh được tiếp đón “vào nhà”, chứ không phải là vào đến vua. Và các vị thấy một hài nhi với bà mẹ. Các vị không tỏ ra chán nản thất vọng. Dân Do-thái không chấp nhận Đức Kitô do Người sinh ra trong hoàn cảnh thấp hèn (Mt 13,55-58); là những người khôn ngoan và giàu kinh nghiệm, các nhà chiêm tinh đã phủ phục trước Hài Nhi, một trẻ sơ sinh nhỏ bé yếu ớt. Đây là cách người Đông phương nhìn nhận Đấng có quyền trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay hoàn toàn vào đấng ấy. Các lễ vật cho thấy các lời sấm của các ngôn sứ đã nên hiện thực và cho thấy Đấng Mêsia được nhận biết; đây là một dấu chỉ khác chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là Chúa tể.

* Các nhà chiêm tinh trở lại quê hương (12)

Đã chân thành lên đường theo tiếng gọi của sự khôn ngoan của mình, các hiền sĩ đã chân thành lên đường tiếp tục hành trình theo lời chỉ vẽ của Lời Chúa và của ngôi sao. Chính sự chân thành tìm kiếm chân lý này đã giúp các ngài gặp được chân lý và được chân lý gìn giữ bình an. Các ngài đã được báo mộng nên “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Câu này còn có nghĩa là khi gặp được Đấng Mêsia rồi, các vị phải xác định đường lối mới phải theo trong đời mình.

+ Kết luận

Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong hoàn cảnh chính trị xã hội. Người không đến để tranh dành quyền lực với bất cứ lực lượng nào, vì Người là nguồn ban mọi quyền lực cho loài người. Nhưng sự hiện diện của Người vẫn đặt lại vấn đề về tính hợp pháp và về cách hành xử các quyền lực trong thế giới hôm nay.

Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến đi, để rồi đến cuối con đường, một bên được hưởng niềm vui cứu độ, một bên co quắp lại trong thái độ thù nghịch. Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận mình phát xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có sự “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Các hiền sĩ và giới lãnh đạo Israel

Cuộc tiến bước trong hân hoan của cúac nhà chiêm tinh tiến về máng cỏ không ngăn cản tác giả nhận ra rằng có một cuộc tiến bước theo chiều ngược lại của quốc gia Israel, tượng trưng bằng các thủ lãnh đạo đời, khi nghe loan báo về cuộc chào đời của Đấng Cứu thế. Các nhà chiêm tinh hết sức mừng rỡ, dân thành Giêrusalem lại xôn xao lo sợ. Người Do-thái có thể nghiên cứu Sách Thánh để khám phá ra nơi vị ngôn sứ đã báo trước rằng vị thủ lãnh Thiên Sai sẽ chào đời, nhưng họ không bước một bước nào để đến gặp Người, ít ra để bước theo các người thờ lạy ngoại quốc kia. Cuộc quy tụ của họ với vua Hêrôđê trong đền vua dường như là một nội các chiến tranh hơn là một cuộc hội họp bình thản để tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa.

2. Hình ảnh của Hội Thánh

Sự sa sút của dân Do-thái tưởng chừng có thể làm hỏng tương lai của ơn cứu độ, nhưng hiện tượng dân ngoại tuốn đến lại làm bừng lên các niềm hy vọng vào Hội Thánh phôi thai. Các nhà chiêm tinh vây quanh Đức Maria và Đức Giêsu là một bản phác thảo lý tưởng về Hội Thánh gồm những người ngoại nay làm thành các cộng đoàn Kitô hữu. Sự hiện diện của Đức Giêsu vẫn mang một dáng vẻ giới hạn và nghèo nàn, dù Người đúng là Đấng Phục Sinh, là Chúa Tể muôn loài muôn vật. Mẹ Người cũng hiện diện ở đó để làm chứng về điều này. Tuy nhiên, chấp nhận được Người là Đấng Mêsia, là Đấng Phục Sinh, là một vấn đề của lòng tin chứ không phải là chuyện chứng minh bằng toán học hay bằng lý luận theo kiểu tam đoạn luận. Ở trong Hội Thánh, mỗi người, mỗi nhóm, tùy nghi dùng những gì cao quý nhất mình có (của cải và sự khôn ngoan) để bày tỏ lòng tin và sự tùng phục của mình.

3. Những người ở gần và những người ở xa

Truyện này cho thấy rằng những người ở xa thì lại đến gần được với ơn cứu độ, với Thiên Chúa, còn những người ở gần thì lại đi xa dần, để rồi cuối cùng chuồi vào bóng tối. Vấn đề không phải là khoảng cách về không gian hay về thời gian, bởi vì tình yêu toàn năng của Thiên Chúa vượt thắng tất cả mọi trở ngại về không gian cũng như về thời gian. Vấn đề là lòng tin của con người. Con người cần phải thấy rằng mình không đủ cho chính mình, mình không phải là nguồn mạch của chính mình, để tìm mọi cách đi ra khỏi mình như là trung tâm, nhận lấy trung tâm mới là Đấng Cứu thế, làThiên Chúa, để có thể thoát khỏi mọi căng thẳng, xung đột, mâu thuẫn do thân phận thụ tạo giới hạn, và hiểu được hướng phải theo mà tìm ra ý nghĩa cho đời mình.
 
Chuyện thuở ban đầu
Lykhach
05:38 31/12/2008
Ừ, thì thuở ban đầu nào chẳng đẹp
Từ chuyện tình yêu đến mọi chuyện linh tinh
Vườn địa đàng dù A-đam còn tiếc
Vẫn cảm ơn trời cho E-Va tươi xinh

Từ thuở ấy, thuở ban đầu thường thay đổi
Có một thời để yêu, một thời để sám hối
Một thời để nói, một thời để lặng thinh tạ lỗi
Khi niềm yêu mến ban đầu nhoà nhạt tinh khôi

Ai bảo “tình chỉ đẹp khi tình dang dở”
Anh chẳng tin chuyện họ nói vẩn vơ
Yêu trọn vẹn nghĩa là phải cùng nhau mà ở
Phải chịu đựng nhau dù mới nghe đã sợ!

Tình chỉ đẹp khi tình đầy thứ tha
Khi chỉ tình yêu ngự trị giữa chúng ta
Đừng đổi thay thuở ban đầu mình đã
Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy mà…

Hà hà…chuyện tình yêu có lắm điều vui
Cũng nghĩa là có chút chút ngậm ngùi
Ta ví dụ tình yêu như nồi phở
Thì tí thương đau ví tựa…hành ngò thôi!

Bởi thế phải xông vào cuộc đời
Nhìn thẳng vào ánh sáng và bóng tối
Khi ban đêm bước chân em chớ vội
Phải chờ con tim lên tiếng hướng cuộc đời

Ví dụ như anh nhìn về quê hương
Đầy bất công, đầy bạo lực, đầy bất lương
Nhà chùa, nhà thờ bị chiếm rồi biến thành nơi bất hảo
Ở Việt Nam mình mảnh đất nào cũng là đất máu xương

Có nghĩa là đất trải dài qua bao thế hệ
Cha ông mình đã giữ gìn qua bao tay đồ tể
Cây giờ có xanh lên, nhà có xây vô số kể
Hãy nhớ nhé em,
Trên mảnh đất bé nhỏ nào cũng thấm phần máu lệ

Mất đất, mất quyền người, mất tự do
Hơn nghìn năm dài Bắc thuộc với Tây nô
Nhưng quê hương chưa bao giờ gãy đổ
Chính khí hiên ngang, và tình người như bây giờ!

Đền tự rồi sẽ được xây
Vài chục năm sau rồi đất chết sẽ xanh cây
Nhưng ai biết chắc sẽ bao nhiêu năm nữa
Mới chung lòng nhau hàn gắn nát tan nầy!

Hãy giữ lấy lòng thuở ban đầu em ạ
Khi tình yêu còn thắm nét tinh khôi
Khi ghen ghét, hận thù thuở sau cuối
Thì coi như ta đã chết trong ngậm ngùi

Vì yêu thương thật sự là khí giới
Để tương lai biết đường mà sám hối
Khi muôn con người biết xót thương đồng loại
Thì khổ đau đầy bóng tối sẽ lui

Mỗi một điều nho nhỏ
Mỗi một mơ ước bình thường
Nếu gởi gắm cả niềm yêu nơi đó
Ta sẽ gặp nhau trên đỉnh yêu thương

Thượng Đế sẽ mỉm cười
Dù đã sinh ra không có cả chiếc nôi
Có điều chi mà phải làm như thế
Nếu chẳng phải vì yêu tất cả con người?

Hãy mặc lấy tâm tình thơ dại
Của thuở ban đầu khi Dấu Ái hạ sinh
Ngôi sao lạ sẽ hiện trong em rồi sáng mãi
Chỉ cho em lối của cả đường tình.
 
Chúng ta cần mở cửa để đón nhận ánh sáng của Thiên Chúa
Tú Nạc
14:10 31/12/2008
Lễ Chúa Hiển Linh (Isaiah 60:1-6; Psalm 72; Ephesians 3:2-3, 5-6; Mathew 2:1-12)

Ánh sáng và sự tối tăm tạo thành một biểu tượng kinh thánh đầy quyền lực cho sự tương phản giữa Thiên Chúa và tội lỗi cùng những u mê của con người. Biểu tượng này là nỗi xót xa nhất của chúng ta trong lúc cho riêng mình, vì chúng ta thường xuên đối diện với sự tối tăm: bạọ lực, sự thử thách cam go về nhu cầu kinh tế, và cuộc khủng hoảng chung của đức tin và ý nghĩa.

Nhưng sự tối tăm được liên kết tới sự nhận thức và nâng cao nhận thức của chúng ta, vì nơi mà chỉ một vài người nhìn là bóng tối và nỗi u sầu, người khác lại trải qua ánh sáng rực rỡ. Ngôn từ Isaiah đã được viết cho những ai trải qua những tăm tối tràn trề trong trạng thái hủy diệt, sự lưu đày và phân chia xã hội. Nó gây ra nhiều linh hồn – tìm kiếm và phản ảnh, thậm chí còn có cả những câu hỏi nguyền rủa đức tin. Nhưng ánh sáng của Thiên Chúa có tầm chiếu xa hơn và mạnh mẽ hơn bất kỳ sự tối tăm nào mà con người tạo ra, và đó là thông điệp của hy vọng. Israel sẽ phục hôì tinh thần từ thảm họa và trở thành đèn hiệu của ánh sáng cho những người khác. Trong một kiểu dáng tương tự, chúng ta không bao giờ ghi chép cho việc tính toán – chúng ta không thể phục hồi những khó khăn của riêng mình nếu chúng ta không mở cửa đón nhận Thiên Chúa. Niềm xúc động sâu sắc cùng những nỗi đau tâm hồn cũng như những oán hờn mà chúng ta chịu đựng có thể trở thành cội nguồn của sự khôn ngoan, thiêng liêng thánh thiện. Trong lúc của riêng mình, chúng ta có thể xác tín rằng ánh sáng của Thiên Chúa sẽ được biểu hiện bằng những phương cách thích hợp đối với hoàn cảnh của chúng ta.

Nhưng ánh sáng của Thiên Chúa không phải là gì mới mẻ vì nó đã được biểu trưng trong một hoạch định tiềm ẩn mà đã – đang và sẽ được mở ra cho mọi thời đại, bao hàm và hiệp nhất cho mọi dân tộc trên trái đất.Ánh sáng này được tỏa sáng tràn đầy trong sự nhập thế, tử nạn, và phục sinh của Chúa Jesus. Đã có một cuộc đấu tranh dai dẳng để biểu hiện một cách đầy đủ những sự việc liên quan của kế hoạch tuyệt diệu ấy. Cuộc chiến giằng co trong trái tim và ký ức con người còn tiếp tục: một Thiên Chúa cụ thể, một giới hạn và kiểm tra một cách cẩn thận, hoặc một Thyiên Chúa toàn năng và hằng hữu, người mà vượt qua mọi rào cản và những mối bất hòa.và kế hoạch của Thiên Chúa tiếp tục mở ra. Nhưng ánh sáng cũng phải được phân phát, và cách duy nhất chúng ta nhận lãnh ánh sáng của Thiên Chúa để được tinh khôi và mở cửa đón nhận.

Ba nhà thông thái không phải là những vị vua, nhưng có thể là những thầy tế lễ ngừơi Ba-Tư (Iran ngày nay), và những thánh nhân, họ đã đọc được những việc làm của Thiên Chúa thông qua những vì sao, vì rằng những vì sao là mối tư duy liên kết với lĩnh vực con người. Sự ra đời của những nhân vật vĩ đại luôn luôn đựoc báo trứơc bởi những dấu hiệu trên bầu trời. Rõ ràng là họ tin rằng nhân vật tinh thần vĩ đại này, người mà họ tìm kiếm sẽ là người nào đó của một sự kiện phổ quát. Niềm mong mỏi ánh sáng cùa họ và lối vào của họ tới sự tác động tâm hồn đã thôi thúc để bắt đầu bằng sự bình yên của quê hương và hệ thống đúc tin của mình, và đồng thời để đi đến bất cứ nơi đâu mà ánh sáng dẫn dắt họ.

Nhưng những gì xuất hiện như ánh sáng và niềm vui để tạo ra sự sợ hãi và giận dữ cho người khác. Những nhà thông thái có lẽ đã hoàn toàn không hiểu Jesus và những gì Ngài sẽ làm. Nhưng họ nhận ra sự hiện diện và những việc làm của Thiên Chúa đã vựợt qua những trở lực. Họ đã từ bỏ sự sợ hãi, hân hoan trứoc sự hiện diện của ánh sáng mầu nhiệm với một cung cách ngạc nhiên và duy nhất như thế. Mặt khác, Herod đã sợ hãi vì ông đã thấy rõ rằng Chúa Jesus đến có nghĩa thế giới sẽ thay đổi to lớn, bắt đầu bằng việc đòi hỏi quyền lực của con người. Điều mong muốn duy nhất của ông ta là phá tan ánh sáng trước khi nó có thể, thậm chí đã khởi phát.

Hôm nay chúng ta đang ở đâu? Chúng ta không thể không không thừa nhận rằng những việc làm của Thiên Chúa đã hoàn thành hoặc ngày lễ Ba Vua đó chỉ là một vài biền cố trong quá khứ xa xôi. Đó là quá trình phát triển thiêng liêng không ngừng. Thiên Chúa không tự bộc lộ với chúng ta sự thay đổi và sự thử thách bao giờ. Giữa lúc khiếp sợ ghê gớm và tuyệt vọng, chúng ta cần thiết thứ ánh sáng đó. Nhưng nó có thể dến với chúng ta một cách bất ngờ và ở những nơi chúng ta không mong đợi. Nó sẽ kêu gọi những cái mai một trong quá khứ và còn tồn tại trong ta.Chúng ta đừng bỏ lại những vấn đề tới thế giới của nhũng Herod, hoặc một thiểu số herod, chúng ta có thể mang theo tùy khả năng của chúng ta. Chúng ta có trí tuệ và trái tim đủ để dung nạp, đáp ứng và làm theo không? Vì sao trong câu chuyện nay là dấu hiệu của sự hiện diện và hướng dẫn của Thiên Chúa muôn đời. Nó luôn luôn hiện hữu chỉ cần chúng ta biết nơi và cách tìm kiếm nó.

(Nguồn: Regis college)
 
Mục đồng và đạo sĩ
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
14:12 31/12/2008
Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng Vụ cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh. Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do-thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.

Gaspar, Melchior và Balthasar là ba nhà Đạo Sĩ nổi tiếng ở Đông Phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bêlem, xứ Giuđê để thờ lạy Đấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.

Chúng ta cùng dừng lại nơi Hang đá Bêlem có Hài Nhi Giêsu để suy niệm về sự lạ lùng của cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa các Mục Đồng, các Đạo Sĩ với Đấng Cứu Thế. Chỉ có các Mục Đồng, các Đạo Sĩ tìm gặp được Chúa. Có các Thiên thần, có một ngôi sao rực rỡ trong ánh sáng thần linh chiếu sáng cho họ. Đức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.

Khi các Mục Đồng canh giữ đàn chiên ở ngọn đồi Bêlem, họ bỡ ngỡ vì vẻ đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa ( Lc 2, 10 – 12 ). Còn các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Mađian và Batư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.

Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.

Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá Bêlem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ

Các Đạo Sĩ tìm gặp Đấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Đối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba Đạo Sĩ làm cho họ lên đường khám phá.

Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các Đạo Sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Đến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các Đạo Sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Khôn Ngoan.

Chỉ có các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: Các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các Kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc ( Đức Cha Bùi Tuần ).

Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri... nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hêrôđê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các Mục Đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các Đạo Sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo Hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.

Điều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các Đạo Sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.

Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong Hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong Hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các Mục Đồng và các Đạo Sĩ quỳ gối, có lẽ các Đạo Sĩ ghen với các Mục Đồng vì con đường của các Mục Đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.

Bước vào năm mới, Thiên Chúa vẫn không ngừng mời gọi cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.

Các Thượng Tế, các Kinh Sư thông hiểu Thánh Kinh, họ cắt nghĩa cho Hêrôđê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Đấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các Đạo Sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.

Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua các Bí Tích, qua cuộc sống hàng ngày. Để gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.
 
Niềm tin của các đạo sĩ
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
14:13 31/12/2008
Những khi ngắm cảnh chiều hoàng hôn nhẹ buông hay bình minh lên rực rỡ,ta cảm nhận vẻ đẹp huyền diệu của trời đất.Biết thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, ta sẽ thấy sự huyền diệu của Đấng Tạo Hoá.

Những đêm đẹp trời, nhìn lên bầu trời đầy sao, ta thấy Sao Bắc Đẩu. Sao Bắc Đẩu nằm trong chòm sao Gấu Lớn (còn gọi là Đại hùng tinh) và nằm ở phương Bắc. Người đi biển không có la bàn hay người đi rừng thường nhìn sao Bắc đẩu để nhắm hướng Bắc, nhờ đó họ có thể đi biển an toàn, không sợ lạc trên biển cả mênh mông, trong rừng già hoang vắng. Sao Bắc Đẩu là sao định hướng.

Cách đây hơn 2000 năm, trên bầu trời đầy sao bổng xuất hiện một ngôi sao lạ ở phương Đông.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ vì họ chuyên nghiên cứu các vì sao.Ngày xưa người ta tin rằng những vĩ nhân chào đời thường được báo hiệu bằng những ngôi sao. Bởi đó khi thấy xuất hiện một ngôi sao lạ, họ đã nghiên cứu đối chiếu với lời tiên báo trong trong sách Dân số ” Một vì sao xuất hiện từ Giacop,một vương trượng chỗi dậy từ Israel”( 24,17), họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái.Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm.

Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng.Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại.Khi biết rằng Đấng Kitô hạ sinh ở Bê lem theo lời tiên báo các ngôn sứ, Hêrôđê bày trò gian xảo nhằm tiêu diệt ấu vương.Con cáo già giở giọng ngọt ngào: xin quý Ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cùng đến bái lạy Người. Không gạt được các nhà chiêm tinh, vị bạo chúa ra lệnh giết hết con trẻ ở Bêlem và các vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẻ các nhà chiêm tinh.

Ngôi sao lạ lại xuất hiện dẫn đường, các nhà chiêm tinh mừng rỡ tìm đến Bêlem. Họ đã gặp Hài Nhi liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.

Câu chuyện tuyệt đẹp, ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các Đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu tinh.Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì Dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.

Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các đạo sĩ hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.

Phụng vụ Giáo Hội đọc câu chuyện này trong ngày Lễ Hiển Linh,Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại. Các đạo sĩ là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: từ phương đông phương tây nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời.

Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong Thánh kinh nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, thế nhưng chỉ ngồi bàn giấy, không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các đạo sĩ lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.

Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo hội, qua các bí tích. Muốn gặp được Người nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.

Niềm tin các đạo sĩ chính là hành trình đức tin của người Kitô hữu.Có những gian truân vất vả vẫn vững tin rằng tất cả sẽ kết thúc trong ánh sáng huy hoàng.
 
Hướng về năm mới!
LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
16:02 31/12/2008
Hướng về năm mới!

Hai niên lịch năm mới Dương lịch 2009 và mùa Xuân năm mới Âm lịch Kỷ Sửu đang tiến về với đất trời trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa vào cùng một tháng chỉ cách nhau hơn 20 ngày, là hình ảnh hai nền văn hóa Đông Tây chạm kề cùng đi song song trong đời sống con người.

Con người Đông phương Á Châu sinh sống trong nền văn hóa Tây phưong Âu, Mỹ. Hay những dân tộc Đông phương Á Châu tuy sinh sống theo nền văn hóa của riêng mình, nhưng lại luân chuyển trong dòng sông văn hóa theo cách tính thời gian Dương lịch của bên Tây phương.

Dẫu vậy đời sống con người tuần tự đã, đang cùng sẽ diễn ra không lệ thuộc vào yếu tố thời gian cách tính Dương lịch hay Âm lịch.

Nhìn lại quãng thời gian năm cũ dương lịch 2008 cũng như năm âm lịch Mậu Tý, có những tâm tình suy nghĩ khác nhau tùy theo đời sống mỗi người.

Có lẽ nhiều người vui mừng viết lên dòng chữ: Một năm hạnh phúc!

Hạnh phúc, vì đã đạt có thêm lằn mức tích cực khác thường trong đời sống: lập gia đình mới, có con mới chào đời, có thêm kinh nghiệm nghề nghiệp.

Có nhiều người hân hoan viết lên dòng chữ: Một năm thành công!

Thành công vì học hành tốt nghiệp ra trường, đạt được điều mong ước xây dựng được căn nhà sau bao năm tháng tiết kiệm để dành, đổi thành công nghề nghiệp mới, đã trả hết nợ nần cũ…

Có lẽ nhiều người tư lự viết lên dòng chữ: Một năm gặp nhiều thất bại!

Thất bại vì những thiếu xót, tính toán sai xảy ra trong cuộc sống, không tập trung chú ý đủ vào việc bồn phận, nhiều khi phản ứng thiếu cẩn trọng không ngoan, gặp nhiều hoàn cảnh phải chịu đựng suy nghĩ qúa nặng nề…

Có lẽ nhiều người thành thật chân nhận: Một năm có nhiều điều vận rủi ro!

Có nhiều vận rủi ro, vì bệnh tật đeo đuổi, mất người thân yêu ruột thịt quen biết, trong gia đình nhiều dị biệt hiểu lầm nhau…

Có lẽ nhiều người đăm chiêu suy nghĩ viết lên dòng chữ: Một năm có nhiều điều học hỏi thêm!

Học hỏi thêm, vì rút tỉa được kinh nghiệm từ những thiếu xót sai trái làm cho đời sống giầu thêm, biết học được kiên nhẫn chờ đợi, biết nhìn sự việc diễn ra với lòng tự trọng thản nhiên, biết thích ứng với những thay đổi xảy ra trong đời sống, không vội vàng theo cảm tính trái lại suy nghĩ đắn đo nhiều hơn…

Có người bi quan thốt lên lời: Một năm qua đi như bị mất mát!

Vì không thấy có gì tiến bộ, thời gian qua đi trong nhàm chán thất vọng, nghi nan…

Có lẽ có người cẩn trọng nói lên tâm tư: Một năm xảy ra vừa có điều tích cực và cũng vừa có biến chuyển tiêu cực!

Vì đã sống trải qua nhiều biến động hy vọng có và thất vọng có; hân hoan vui mừng có và căng thẳng có; phấn khởi nhẹ nhàng có và gánh nặng lo âu có…

Có lẽ nhiều người với tâm tình lòng đạo đức chân nhận: Một năm nhận được nhiều giúp đỡ!

Vì có người khác cùng thông cảm đồng hành bên cạnh an ủi, nhất là cảm nhận được ân đức của Thiên Chúa che chở gìn giữ bản thân cũng như gia đình!

Hướng tầm nhìn về thời gian năm mới đang tới, mỗi người đều có những mong muốn dự định tốt tích cực riêng khác biệt nhau. Những mong muốn dự định cho riêng bản thân, cho gia đình, cho xã hội, cho Giáo Hội.

Đó là đời sống. Đó là dòng sinh động của thời gian.

Nhưng có lẽ điều mong muốn dự định tốt cùng cần thiết cho đời sống hôm qua, hôm nay cùng ngày mai: Năm của niềm tin.

Niềm tin vào Thiên Chúa không là một kiểu cách lối sống thời đại. Nhưng là chỉ lối hướng đi cho tâm hồn.

Niềm tin vào Thiên Chúa không là một mệnh lệnh. Nhưng là tình yêu giúp tâm hồn tìm cảm nhận được sức mạnh vượt qua những thử thách trong đời sống.

Niềm tin vào Thiên Chúa không là một công thức toán học, hay đon chế biến thuốc trị bệnh. Nhưng là niềm hy vọng cho đời sống vươn lên.

Chúc mừng Năm Mới 2009!

Chúc mừng mùa Xuân Kỷ Sửu!
 
Khái quát sách Công Vụ Tông Đồ
L.m. An-rê Đỗ xuân Quế o.p.
16:36 31/12/2008
Sách Công Vụ Tông Đồ là tác phẩm của thánh Lu-ca, bạn đồng hành với thánh Phao-lô trên đường truyền giáo. Sách kể lại những công việc tác giả biêt rõ. Vào khoảng năm 200, cả Hội thánh đều tin rằng sàch này là một thành phần của bộ Kinh thánh, và vì thế, cũng là mẫu mực về chân lý và đức tin. Sách được đọc trong phụng vụ mùa Phục Sinh rất sớm, muộn nhất là từ thế kỷ IV trở đi. Như vậy, sách đã hướng dẫn đức tin của Hội thánh trong những thế kỷ đầu và hình ảnh cộng đồng Ki-tô hữu tiên khởi đã gợi hứng cho phong trào tu hành nảy sinh.

1. Bản văn sách Công Vụ

Khi đọc một tác phẩm cổ, thường người ta hay tìm cho biết đâu là bản chính. Đối với sách Công Vụ, vấn đề này khá phức tạp. Phần lớn các bằng chứng vế tác phẩm này thuộc hai bản văn: Xi-ri-a (hay An-ti-ô-khi-a) và Ai-cập (hay A-lê-xan-ri-a). Nhưng có thể gộp hai bản văn đó lại mà gọi là bản văn thông dụng, vì cả hai bản văn này rất giống nhau, khi so sánh với bản văn thứ ba gọi là bản văn Tây Phương.

2. Văn chương trong sách Công Vụ

Về văn chương và tư tưởng, ai cũng phải công nhận tính duy nhất trong sách. Tuy vậy, luận điệu có phần khác nhau và phần thứ nhất từ chương 1-15, không được chặt chẽ lắm. Ít có những chỉ dẫn về năm tháng, ngôn ngữ thì đươm mầu sê-mít và tư tưởng có vẻ cổ. Phần thứ hai, từ chương 16-28, chặt chẽ và mạch lạc hơn, có nhiều chỉ dẫn về năm tháng và từ ngữ hy lạp cũng trong sáng hơn.

Người ta có thể phân biệt trong tác phẩm này những đoạn văn khá dài. Đó là các bài tường thuật về công việc rao giảng Tin Mừng (2,1-41; 8,4-40; 9,32; 11,18; 13,1-21.26), các bài tường thuật về các vụ án (3,1-4,31; 5,17-42; 6,6-8,12; 12,1-7; 21,17-26,32). Rồi trong các đoạn văn phức tạp ấy, lại xen những đoạn vắn hơn, thuộc loại tường thuật và diễn từ.

Các bài tường thuật, khi có đối thoại khi không, và rất khác nhau, trong đó những chuyện lạ lùng chiếm chỗ khá lớn. Cũng phải kể vào loại này những bản tóm lược phác họa chung về giáo đoàn Giê-ru-sa-lem ở phần đầu sách (2,42-47; 4,32-35; 5,12-15).

Các bài tường thuật và các diễn từ cũng khác nhau không kém. Có những diễn từ truyền giáo đủ loại (2,15-36; 3,12-36; 4,10-12; 5,30-32; 10,36-43; 13,17-41) và những bài biện minh trước tòa án Do thái và Rô ma (4,8-12; 5,29-32; 7,2-53; 22,`1-21; 24,11-21: 26,3-23. Ngoài ra là những lời cầu nguyện (1,24-26; 4,24-30; 7,59-60} và một bức thư (19,25-27.35-40); 24,2-8; 25,14-21). Chắc hẳn tác giả đã dùng nhiều tài liệu có trước, hoặc do truyền miệng hoặc do đã được viết thành văn.

3. Sách Công vụ với lịch sử

Dù những tài liệu nói trên có thế nào đi nửa, chúng ta vẫn có thể và cần phải yêu quí giá trị lịch sử của sách Công Vụ Tông Đồ, và lịch sử của các bài tường thuật cũng như các diễn từ trong sách ấy.

Nhà sử học, trước hết phải tin vào nhiều sự kiện của sách Công Vụ, mà ngày nay chúng ta không có phương tiện khách quan để kiểm chứng, nên chỉ còn cách dựa vào lối phê bình nội tại. Nhờ lối phê bình này, người ta có thể nhận thấy một đôi chỗ trong các bài tường thuật những điểm bất đồng hay khó dung hòa được với nhau, hoặc vì tác giả đã dùng những tài liệu không chắc chắn hay thiếu sót, hoặc vì đã muốn thay đổi hay giải thích những tài liệu ấy theo ý mình. Tính khả tín của các câu chuyện cũng là một tiêu chuẩn để định giá. Nhưng dùng tiêu chuẩn này phải tế nhị, vì những lý chứng hay nhận xét không thuộc phạm vi lịch sử. Trường hợp khó nhất ở đây là những chuyện lạ lùng và nhất là những bài tường thuật về phép lạ. Dĩ nhiên là có thể và trong một vài trường hợp, rất có thể là tác giả hay các tài liệu được sử dụng đã muốn nhấn mạnh đến tính lạ lùng của một số bài tường thuật. Tuy vậy, thiết tưỡng không nên quên rằng ở thời sơ khởi của đạo chúng ta, các phép lạ đã đóng một vai trò quan trọng rõ rệt (Rm 15,18; 2 Cr 12,12; Hr 2,4; Mc 16,17-18)

Các diễn từ trong sách Công Vụ còn đặt nhiều vấn đề về sử tính hơn các bài tường thụật nữa. Thật thế, các sử gia thời xưa cho việc đặt ra các diễn từ, rồi để cho các nhân vật trong chuyện nói ra, là điều rất tự nhiên. Hầu hết các diễn từ trong sách Công Vụ đều ngắn gọn. Tuy vậy, điều ấy không có nghĩa đó là những bản tốc ký hay những bài đã được trí nhớ ghi lại đầy đủ, Sau cùng những chỗ xem ra không hợp với lịch sử, và những chỗ giống nhau về văn chương hay tư tưởng giữa các diễn từ và các bài tường thuật, chứng tỏ là tác giả đã can thiệp ít nhiều vào việc biên soạn các diễn từ, như bài của thánh Phao-lô nói với hàng trưởng lão ở Ê-phê-sô (20,18-38)

Một khía cạnh cuối cùng thiết tưởng cũng cần phải nêu lên, khi nói về sách Công Vụ, đó là những gì sách này không nói đến, chẳng hạn việc thành lập nhiều giáo đoàn và những chuyện bất đồng ý kiến giữa thánh Phao-lô và giáo đoàn Co-rin-tô.

4. Thần học trong sách Công Vụ

Chuyện nào trong sách Công Vụ cũng được giải thích theo ánh sáng đức tin. Các diễn từ được giải thích theo cách thế riêng của lịch sử Nước Trời. Cách giải thích dựa vào đức tin như thế còn được dùng cả trong các bài tường thuật nữa. Ở đây, Thiên Chúa tham dự như một diễn viên của câu chuyện. Người hiên diện qua vai trò của các thiên sứ (5.19; 8,26; 10,3.7.22; 11,13; 12,7-11.23; 27,23, qua Thần Khí (1,8; 2,4.17; 4,8=31; 5,32; 6,10; 8,15.17. 29.40; 10,19.44-47; 11,12.15) và qua các nhà truyền giáo của Người (15,4-12; 19,11). Các giáo đoàn có được tăng trưởng cũng là nhờ Người (2,47; 11,21-23).

4,1 Lịch sử cứu độ

Lời rao giảng của Ki-tô giáo là lời công bố một lịch sử cứu độ mà tác giả chính là Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên trời đất (17,24) và đã chọn Ít-ra-en làm dân riêng (3,25; 13,17). Vì thế, trong lịch sử, Cựu Ước là một phần của Tin Mừng mà phần đầu tiên là thời đại của các hình ảnh tiên báo (3,22; 7,22.25.27-35-38) và nhất là lời hứa và các lời ngôn sứ loan báo kế họach cứu độ của Thiên Chúa (2,23; 3,21; 4,18.30; 11,21; 13,11; 20,27; 21,14; 22,140); còn thời viên mãn thì đã hoàn tất khi Thiên Chúa làm cho “Đức Ki-tô trỗi dậy” (3,22.26; 13,23) và bảo đảm cho đời sống, lời giảng và các phép lạ của Đức Giê-su được hoàn hảo (1,22; 2,22; 10.36-38). Người Ít-ra-en không biết (3,17; 13,27), nhưng cuộc Thương Khó của Đức Giê-su tiếp tục thực hiện kế họach của Thiên Chúa. Cuối cùng, khi Thiên Chúa cho Đức Ki-tô phục sinh, đặt làm Chúa và làm Đấng Ki-tô cùng ban cho Thần Khí đã hứa (2,33) thì lời hứa với các Tổ Phụ đã được hoàn tất. Tuy nhiên, vì lời hứa này trước hết là hứa với Ít-ra-en và sau là hứa vói mọi người (2,39) “ở khắp cùng mặt đất” (1.8) nên việc hoàn tất nói trên lại mở ra một thời gian và một không gian mới để lịch sử tiếp tục. Sách Công Vụ quá lưu ý đến hiện tại khiến cho tương lai hóa ra mờ mịt (x 1,7.10-11), nhưng tương lai vẫn là đích xa của sách này. Ngày ấy Thiên Chúa sẽ hoàn thành kế họach của Người, khi sai Đức Ki-tô đến làm thẩm phán xét xử người sống và kẻ chết (10,42; x 1,11; 3,20; 17,31).

4,2 Ngày hôm nay của Thiên Chúa

Theo sách Công Vụ, tất cả những gì người ta thấy và nghe, kể từ ngày Phục Sinh, vẫn đang tiếp tục thực hiện các lời tiên báo (2,16-21; 13,40-41; 15, 15-18; 28,25-27). Thiên Chúa vẫn luôn luôn đóng vai trò chính và Đức Giê-su vẫn cùng với Thiên Chúa, là trung tâm mọi biến cố. Đức Ki-ô vẫn tiếp tục sứ mệnh của mình (3,26), Người đổ Thánh Thần xuống (2,33) làm cho đời sống của Hội thánh nên linh động (1,8…) Người đã dùng thánh Phao-lô loan báo ánh sáng cho dân Thiên Chúa và chư dân (26,23). Không phải tác giả sách Công Vụ đã tạo ra lối nhìn về tính hiện tại của lịch sử cứu độ, nhưng là thánh Phao-lô. Thánh giá và sự phục sinh của Đức Ki-tô thật quan trọng. Mọi lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện trên thánh giá và qua sự phục sinh của Đức Ki-tô (2 Cr 1,20). Vì thế, thánh Phao-lô mới dạy rằng phải suy nghĩ và hành động theo viễn tượng của cái “ngày hôm nay” (2 Cr 6,2). Đối với thánh Phao-lô cũng như sách Công Vụ, lời rao giảng Tin Mừng là chính lời của Thiên Chúa đang hành động và lan tràn (1 Tx 2.,13-14; 2 Tx 3,1; 1 Cr 1,5-6). Điều này được chứng tỏ bằng các dấu lạ điềm thiêng (Rm 15,19; 2 Cr 12,12). Chính việc cải đạo của thánh Phao-lô cũng là một phần trong kế họach của Thiên Chúa (Gl 1,11-12.15.16). Thánh nhân cho rằng đời sống của các giáo đoàn như tiếp nối thời đại của Chúa Giê-su (1 Tx 2,14-15; x Hr 2,3-4). Vì vậy, tác giả sách Công Vụ không phải là người thứ nhất đã nhận ra tầm quan trọng của tính hiện tại trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đã làm cho cái “ngày hôm nay” ấy nổi hẳn lên, khi viết sách Công Vụ như để tiếp nối sách Tin Mừng Thứ Ba.

4,3 Lời Chúa và nơi được rao giảng

Đối với sách Công Vụ, cái “ngày hôm nay” của Thiên Chúa trước hết là thời gian của Lời Chúa, của Tin Mừng, của lời chứng tuyên xưng Đức Giê-su sống lại, Đấng là Chúa và là Đức Ki-tộ. Những người làm chứng đầu tiên cho niềm tin này là Mười Hai Tông Đồ và nhiều người khác nữa mà đứng đầu là Phao-lô rồi Tê-pha-nô, Phi-líp-phê, Bác-na-ba v.v…

Sách Công Vụ để ý đến nơi và người: nơi Lời Chúa được rao giảng và người đón nhận lời rao giảng. Trong các sách Tin Mừng, Đức Giê-su đã bắt đầu tỏ mình ra ở Na-da-rét và kết thúc ở Giê-ru-sa-lem, còn trong sách Công Vụ, Tin Mừng lại khởi sự từ Giê-ru-sa-lem, lan sang Giu-đê và Sa-ma-ri rồi tới Phê-ni-ki-a, Síp-rô và Xi-ri để truyền sang Tiểu Á và Hy-lạp trước khi đến Rô-ma. Như thế là hoàn tất con đường của Lời Chúa đến tận cùng trái đất, như ý Đấng phục sinh đã muốn và như đã được loan báo trong ngày lễ Ngũ Tuần. Sở dĩ như vậy vì Tin Mừng là dành cho mọi người: người Do thái rồi các người khác sau. Chủ đề chính của sách Công Vụ là cho thấy Tin Mừng và ơn cứu độ được chuyển đến các dân ngọai, như ý muốn của Thiên Chúa. Ông Co-nê-li-ô cải đạo, nhũng người Hy-lạp ở An-ti-ô-khi-a được nghe rao giảng Tin Mừng, Ba-na-ba và Phao-lô được sai đi truyền giáo. Đó là những bước đầu của công việc truyền giáo cho dân ngoại. Ở An-ti-ô-khi-a và cà Giê-ru-sa-lem, người ta bắt đầu đặt lại vấn đề, nhưng cuối cùng công việc vẫn được tiến hành. Từ đó, Phao-lô có thể khởi sự công việc truyền giáo rộng lớn hơn, theo ơn gọi riêng của mình. Vì bị bắt và bị giam giữ, Phao-lô đã có dịp đem Tin Mừng sang tận Roma, thủ đô của thế giới ngoại giáo lúc bấy giờ. Về chi tiết có thể có những điểm chưa rõ rệt, nhưng những điểm chính trong dàn bài sách Công Vụ đã nằm trong các giai đoạn truyền giáo trên đây, vừa theo địa lý, vừa theo từng hạng người.

4,4 Vào đạo, tin theo, chịu phép Rửa, lãnh nhận Thánh Thần

Lời rao giảng kêu gọi người nghe phải thay đổi lối sống (2,40; 3,19.26; 10,43; 13,38; 17,10) thoát khỏi sự u mê của mình (3,17; 13,17; 17,30), tắt một lời là tin và công nhận Đức Giê-su là Chúa, là Đấng Ki-tô (2,16; 11,17; 20,21). Đối với sách Công Vụ, tin là một hành vi tự do của con người, nhưng cũng là ơn Thiên Chúa ban (5,31; 11,18; 15,9; 16,14). Người là Đấng duy nhất mở cửa đức tin (14,27) và cứu độ chúng ta, nhờ Đức Giê-su (4,12; 5,31; 13,23; 15,11) Ngoài ra, tương ứng với hai ơn Thiên Chúa ban, là tha thứ tội lỗi (34,26; 10,45; 11,17), và cho ta lãnh nhận Thánh Thần (2,38; 10,45; 11,17). Về phía Hội thánh cũng có hai nghi thức: một là rửa bằng nước, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô để được tha tội (2,38; 8,16; 10,48; 19,5; 22,16) và một là cử chỉ đặt tay để ban ơn Thánh Thần (6,6; 8,17; 19,6. Bấy giờ các tín hữu trở thành người được thanh tẩy trong Thánh Thần (1,5; 11,16) và được tham dự Lời Hứa.

5. Các giáo đoàn, Giáo hội, Dân Thiên Chúa

Những người theo đạo được sáp nhập vào những nhóm mà sách Công Vụ gọi là các giáo đoàn (5,11; 12,26). Sách cho thấy có nhiều giáo đoàn, nhưng tất cả đều ý thức mình đi chung trong một đường lối của Thiên Chúa (18,25-26; 16,17; 19,9-23; 22,4; 24,14-23). Mọi người dù ở đâu cũng mang những tên chung như “anh em” (1,15; 11,1; 12,17; 14,2, 21,17-18) hay các “tín hữu” (4,32; 18,27; 19,18; 21,20, hoặc các “môn đồ” (6,1; 9,1.26; 16,1; 18,23) hay “các thánh” (9,32.41; 26,10.18), “các ki-tô hữu” (11,26; 28,26). Vì thế, người ta đã dùng danh từ Giáo hội để gọi chung các giào đoàn. Đó là Giáo hội của Thiên Chúa mà Người đã tậu bằng giá máu của Con mình (20,28). Đối với tác giả, rõ ràng là toàn thể các tín hữu làm thành dân duy nhất của Thiên Chúa, trong đó đức tin tập hợp cả người cắt bì lẫn không cắt bì (15,14-17). Còn người Do thái thì ai không nghe lời Đức Giê-su, sẽ bị loại ra ngoài (3,2-3).

Dân này là sở hữu của Thiên Chúa, được ở gần Người và Đức Ki-tô cách đặc biệt. Nói tới Ki-tô hữu là nói tới chính Đức Giê-su (9,5); gia nhập một trong các giáo đoàn kia là sáp nhập vào Người, vì Thần Khí của Người linh hoạt và hướng dẫn tất cả đời sống của các giáo đoàn (1,8; 5,3-4.9; 9,31; 15,28; 20,28).

6. Đời sống của các giáo đoàn

Các bảng tóm lược trong sách Công Vụ vừa cho người ta đoán được đời sống của các giáo đoàn tiên khởi lúc bấy giờ ra sao và phải như thế nào, lại vừa cho thấy lý tưởng mà theo ý tác giả, mọi cộng đoàn Ki-tô hữu phải vươn tới.

Bảng tóm lược thứ nhất cho thấy tín hữu chuyên cần nghe giào huấn của các

Tông Đồ (2,42). Giáo huấn này nhằm giúp cho những người mới vào đạo hiểu thêm những điều họ tin. Chắc luân lý đã chiếm phần quan trọng trong giáo lý này, và tình huynh đệ đã được đặc biệt lưu ý và đề cao. Tình huynh đệ là một nét nổi bật của các cộng đoàn Ki-tô hữu thuở sơ khai, chỉ đứng sau giáo huấn của các Tông Đồ. Vì tình huynh đệ, các tín hữu để của riêng làm của chung và chia sẻ cho nhau mỗi người tùy theo nhu cầu.

Sách Công Vụ còn nói đến việc bẻ bánh và cầu nguyện của giáo đoàn nữa (2,42). Chắc hẳn bẻ bánh là cử hành Thánh Thể (2,42; 13,2; 20,7), còn cầu nguyện thì không phải chỉ diễn ra trong tiệc Thánh Thể, trong phép Rửa và nghi lễ đặt tay (8,15-17) nghĩa là chỉ trong khi cử hành phụng vụ, nhưng còn bao trùm tất cả đời sống hàng ngày của các giáo đoàn và các Ki-tô hữu (1,14.24-25; 4,24-30; 7,53-60; 7,59-60; 9,40; 10,9; 12,5-12).

7. Các Tông Đồ, Bảy Phó Tế, tông đồ Phao-lô, các ngôn sứ và trưởng lão

Trong các giáo đoàn, những người phụ trách các dịch vụ có một vị trí đuợc dành riêng. Trước hết là trường hợp Mười Hai Tông Đồ chung quanh tông đồ trưởng Phê-rô. Ở Giê-ru-sa-lem cũng như tại các nơi khác, các ngài nắm một vị trí trổi vượt. Vai trò của các ngài vượt quá sứ mệnh căn bản là làm chứng và phục vụ Lời Chúa. Có lẽ chính vì các ngài có mặt tại Giê-ru-sa-lem, ít ra vào lúc đầu, nên cộng đoàn của các ngài đã trở nên một trung tâm điều hành (8,14; 9,32; 11, 1.27-30; 15,2-36; 21, 15-7). Chính các Tông Đồ, vì thấy mình không cáng đáng nổi hết các nhiệm vụ và muốn giữ lại những công việc chính yếu, nên đã thiết lập Nhóm Bảy Người (6,1). Trái lại, chính Đức Giê-su đã đích thân trao cho tông đồ Phao-lô một sứ mạng riêng. Sứ mạng này tuy ở trên bình diện khác với sứ mệnh chung của các Tông Đồ, nhưng không vì thế mà kém phần quan trọng (9,15; 18,15) và đã làm cho Phao-lô thành người xây dựng và điều khiển nhiều giáo đoàn, Ở một bình diện khác hẳn, lại có các ngôn sứ. Không chỗ nào thấy nói những người này đã được đặt lên mà chỉ thấy nói họ đã được Thần Khí linh hứng và họ đã đóng một vai trò quan trọng trong các giáo đoàn của Phao-lô.

Cuối cùng, các tín hữu, tuy không phải là ngôn sứ, nhưng đã tích cực tham gia sinh họat của các giáo đoàn buổi sơ khai. Cuộc đại hội ở Giê-ru-sa-lem mà ngày nay được gọi là Công Đồng, đã kết thúc với một quyết định của Chúa Thánh Thần là làm cho tất cả nên “một lòng một ý với toàn thể Hội thánh” (15,22-23.28)

8. Luật Mô-sê và lòng tin vào Chúa Giê-su

Vì là điều quan trọng nên điểm cuối cùng của sách Công Vụ cần phải được bàn giải riêng. Đó là vấn đề tác giả đã quan niệm việc chuyển từ Do thái giáo sang Ki-tô giáo, từ cứu độ nhờ lề luật sang cứu độ nhờ đức tin và ân sủng như thế nào.

Chúng ta biết trước mặt quan Phét-tô, tông đồ Phao-lô đã quả quyết rằng khi theo đạo và trở thành Ki-tô hữu, ngài vẫn trung thành với niềm tin và hy vọng của Ít-ra-en. Khi theo đạo mới, không vì vậy mà người Do thái phải bỏ các tập tục của cha ông, như lên đền thờ cầu nguyện (2,46; 3,1), giữ luật Mô-sê và chịu phép cắt bì v.v… Chính tông đồ Phao-lô cũng tự xưng và tỏ ra là người trung thành giữ luật (16,3; 18,18; 21,26; 22,17)

Nhưng những người Do thái mới này giờ đây đuợc hưởng mọi lời hứa trong Đức Giê-su là Chúa và là Đấng Ki-tô, phải tiếp xúc với các dân khác theo những cách thức cụ thể đặc biệt. Chính Thiên Chúa đã trực tiếp can thiệp cho những người không cắt bì đầu tiên được vào đạo. Đó là trường hợp ông Co-nê-li-ô và người nhà của ông ở Cai-da-ri-a (10,1-11,18). Thiên Chúa làm cho tông đồ trưởng Phê-rô hiểu rằng tiếp xúc với những người ấy, sau khi họ đã được đức tin thanh tẩy thì không còn làm cho người tín hữu Do thái bị “dơ” nữa. Cộng đoàn Do thái trở thành Ki-tô hữu ở Giê-ru-sa-lem chấp nhận và chào mừng biến cố này, nhưng một số người trong họ thì cho đây chỉ là một nố trừ. Quả vậy, có lần những người này bắt người Hy lạp ở An-ti-ô-khi-a muốn vào đạo, phải chịu cắt bì và giữ luật Do thái, mới được cứu độ. Đó là biện pháp quyết liệt để giải quyết các vấn đề gây ra khó khăn trong việc chung sống giữa người Do thái và không phải Do thái trong các cộng đoàn.

Nhưng điều cốt yếu là dù cắt bì hay không, người Ki-tô hữu được cứu độ nhờ đức tin và ân sủng của Chúa Giê-su. Như vậy, không còn lý do buộc người Do thái đã vào đạo cứ phải trung thành chịu cắt bì và giữ luật Mô-sê.

9. Độc gỉả và mục đích của sách Công Vụ

Sách Công Vụ được viết cho ai và nhằm mục đích gì, đó là điều cần bàn tới để giúp chúng ta hiểu lai lịch và giáo thuyết của sách này.

Có lẽ tác giả vẫn kể người Do thái là độc giả của sách này. Có thể một số người trong đám họ sẽ phải cảm động, khi thấy lòng trung thành của những tín hữu cắt bì đối với Lề luật Do thái, hoặc khi đọc những chỗ chứng minh rằng lời Kinh thánh đã hoàn tất. Nhưng không thể nói được rằng sách Công Vụ nhắm người Do thái trước kết, vì tác giả nhấn mạnh quá nhiều đến việc Ít-ra-en khước từ Tin Mừng và trách nhiệm của họ trong cái chết của Đức Ki-tô và các khó khăn họ gây ra cho các Ki-tô hữu.

Có gỉả thuyết cho rằng tác giả chủ ý nhằm dân ngoại. Mới nghe thì thấy cũng có lý và hấp dẫn vì nhiều điểm về dân ngoại được nhấn mạnh, như cùng một ơn cứu độ được chuyển sang cho lương dân (28,28). Phao-lô, nhà truyền giáo chính, là một công dân Roma (16,37; 22,22-29; 23,2-7); các tòa án Rô-ma đều công nhận Phao-lô vô tội (16,35-39; 17,8-9; 18,12-15; 19,37-38; 24,20-22; 26,31-32) và đúng như vậy, vì đạo Phao-lô giảng không phải là một phong trào phản lọan (17,7) cũng chẳng phải là một tôn giáo mới bất hợp pháp (18,13)

Xét cho cùng, chính nội dung của sách, sự kiện đức tin được trình bày sáng sủa và liên tục và các vấn đề được tác giả bàn đến, tất cả đều cho thấy điều tác giả nhắm trước hết là các Ki-tô hữu. Vì thế, ta mới thấy thuật lại công việc rao giảng Lời Chúa cho đến ngày lời ấy vang lên tại Rô-ma mà không bị ngăn cấm (28,31). Khi nhấn mạnh đến vai trò của đức tin, tác giả có ý chống lại óc quá đặt nặng Lề luật của người Do thái, mà có phần coi nhẹ hiệu lực của đức tin trong việc làm cho con người nên công chính.

Nói cho đúng, thánh Lu-ca là con người của hiệp nhất và hiệp thông, kêu gọi mọi người theo ơn Thánh Thần hướng dẫn mà sống như giáo đoàn Giê-ru-sa-lem ngày trước, chỉ có một lòng một ý.

10. Ai viết sách Công Vụ và viết năm nào ?

Tác giả sách Công Vụ cũng chính là tác giả sách Tin Mừng Thứ Ba. Trong nhiều thế kỷ, người ta đã tin chắc như thế. Thật có lý mà nghĩ như vậy, khi so sánh hai bài tựa của hai cuốn sách: cả hai đều gửi cho ông Thê-ô-phi-lê (Lc 1,3; Cv 1,1). Rồi nghiên cứu hai tác phẩm về văn chương và tư tưởng, người ta lại thấy cả hai đều có những điểm giống nhau. Nhưng tác giả là ai ? Những đoạn dùng đại danh từ “chúng tôi” làm cho chúng ta nghĩ đến một người nào đó gần gũi với Phao-lô, và khi đó, “Lu-ca, người y sĩ quí mến”(1 Cr 4,14) hầu như là nhân vật duy nhất có thể là tác giả.

Còn về năm sách được viết ra thì có một điểm thật rõ là theo như bài tựa, sách Công Vụ đã được viết sau sách Tin Mừng Thứ Ba. Người ta cứ tưởng rằng xác định năm sách được viết ra chẳng mấy khó khăn, vì trong sách có nhiều chi tiết về vụ án Phao-lô tại Pa-lét-tin và sách được viết hai năm sau khi Phao-lô tới Rô-ma, tức vào khoảng năm 62-63. Nhưng nếu theo giả thuyết này thì phải nhận là sách Tin Mừng Lu-ca và nhất là Tin Mừng Mác-cô đã được soạn ra rất sớm. Diều này, các nhà chú giải ngày nay không chấp nhận. Đàng khác, tại sao không đợi cho vụ án Phao-lô kết thúc rồi hãy viết xong sách, mà lại viết đang lúc vụ án còn dở dang ? Vì thế, giả thuyết này khó đứng vững.

Nhưng thực ra, từ khi Phao-lô tới Rô-ma, tác giả sách Công Vụ không chú ý tới vụ án nữa, mà chỉ để ý đến việc rao giảng Tin Mừng tại đây mà thôi. Giải thích đoạn cuối của sách Công Vụ như vậy thì không thể cho sách này viết vào năm 62-63, vì người ta thường cho Tin Mừng đươc viết vào sau năm 70, nên các nhà chú giải bây giờ coi sách Công Vụ như được soạn vào khoảng năm 80.

Kết luận

Công Vụ là một cuốn sách đáng quí, vì mang tính lịch sử ghi lại đời sống của Hội thánh và các tín hữu vào những tháng năm đầu, khi Hội thánh mới thành hình. Truyền thống của Hội thánh dựa vào cuốn sách này rất nhiều. Nói đến truyền thống là nói đến một yếu tố không thể thiếu làm nên Hội thánh, vì Hội thánh sống dựa vào truyên thống và Kinh thánh. Muốn biết cơ cấu của Hội thánh và lối hành đạo của tín hữu thời xưa như thế nào, chỉ cần đọc sách Công Vụ. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã dựa vào sách Công Vụ mà phục hồi và chấn chỉnh một số tục lệ cũng như lề thói xa xưa, như cho rước lễ trong lòng bàn tay, làm sống lại bậc phó tế vĩnh viễn v.v…

Nói tóm lại, sách Công Vụ là một tấm gương phản chiếu đời sống của Hội thánh ở giai đoạn gần nguồn sống nhất, là chính Chúa Giê-su và các Tông Đồ, cùng với một cộng đoàn tiên khởi nổi tiếng về lòng bác ái yêu thương, sư siêng năng “bẻ bánh” và chuyên cần nghe giáo huấn của các Tông Đồ.

(Viết dựa theo TOB ấn bản 1994 Cerf, Paris từ trang 2607-2616)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐHY Trần Nhật Quân (Josheph Zen) của Hồng Kông sẽ nghỉ hưu vào năm tới
Trần Hoàn Chỉnh
05:32 31/12/2008
ĐHY Trần Nhật Quân nghỉ hưu để toàn tâm cho những vấn đề của Giáo Hội tại Hoa Lục

Hong Kong (AsiaNews) – Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân, giám mục Hồng Kông sẽ về hưu vào giữa năm 2009 để có nhiều thời gian quan tâm đến những vấn đề của Giáo Hội tại Hoa lục. “Tôi cần cung cấp thông tin về Giáo Hội tại Trung Hoa cho Đức Thánh Cha và tôi cần nhiều thời gian để nghiên cứu về việc này”, Đức Hồng Y nói với các nhà báo.

Đức Hồng Y Quân sẽ tròn 77 tuổi vào ngày 13 tháng 1 sắp tới. Ngài đã đưa ra thỉnh cầu để từ nhiệm giám mục Hồng Kông lúc ngài 75 tuổi.

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân sinh tại Thượng Hải. Ngài có nhiều am hiểu về Giáo Hội tại Hoa lục vì đã có nhiều năm dạy ở các chủng viện Trung Quốc.

Sau khi trở thành giám mục, ngài chỉ có một lần duy nhất về thăm quê hương vì những chỉ trích mạnh mẽ của ngài liên quan đến chính sách tôn giáo của Bắc Kinh và lên tiếng bảo vệ dân chủ ở Hồng Kông.

Trong thông báo về hưu, ngài nhấn mạnh rằng ngài sẽ không can dự nhiều đến tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Trung Quốc và Vatican. Thay vì thế, ngài sẽ chú tâm nhiều đến tự do tôn giáo cho Giáo Hội Trung Quốc.

Đây cũng chính là lý do tại sao ngài chỉ trích mạnh mẽ những buổi lễ tổ chức ở Bắc Kinh ngày 19 tháng 12 vừa qua nhằm kỷ niệm 50 năm tự trị của các giám mục “tự bầu, tự phong”.

Theo quan điểm của ngài thì “chẳng có lý do gì để mà kỷ niệm. Đây là một sự thất bại. Một sự xúc phạm đến lương tâm những ai đã bị ép buộc tấn phong giám mục mà không được sự chuận nhận của Đức Thánh Cha”, Vị lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Hồng Kông nói về những ai đã phong chức mà không được Đức Thánh Cha chấp thuận.

Đức Hồng Y nói thêm rằng “ tôi mong ước Trung Quốc có sự tiến bộ ở mọi phương diện, không chỉ là phát triển kinh tế nhưng mọi người đều được quyền tự do tôn giáo”

Được biết, Đức Cha Gioan Tong Hon sẽ là người kế nhiệm Đức Hồng Y Quân. Ngài đã được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá Hồng Kông tháng giêng vừa qua. Đức Cha Tong cũng là người am hiểu về tình hình giáo hội tại Trung Hoa. Hiện tại ngài đang phụ trách Trung tâm Nghiên cứu Thánh Linh Hồng Kông.
 
Năm 2008 có tới 2.2 triệu người đã được tiếp kiến chung với Đức Thánh Cha
Trần Hoàn Chỉnh
05:34 31/12/2008
VATICAN - Theo một thống kê chính thức của Tòa Thánh, trong năm 2008 đã có hơn 2,2 triệu người tham dự những buổi tiếp kiến chung với Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô VI. Trong đó, hơn 500 ngàn người đã tham dự những buổi tiếp kiến giáo hoàng vào thứ tư hàng tuần và hơn 1 triệu người đã tham dự những buổi đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha vào các Chúa Nhật. Số còn lại thì tham dự những buổi tiếp kiến riêng hay tham dự những buổi cử hành phụng vụ do Đức Thánh Cha chủ sự.

Con số thống kê của năm 2008 này đã giảm so với năm 2007 khi có đến 2,8 triệu người tham dự các buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha và giảm đáng kể so với con số kỷ lục của năm 2006 là 3,2 triệu người. Con số thống kê năm nay gần với số thống kê người tham dự các buổi tiếp kiến với Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II năm 2004, năm cuối cùng của triều đại giáo hoàng của ngài.

Tòa Thánh đã thông báo những thống kê cuối cùng cho năm nay vào ngày 30 tháng 12, bởi vì theo lịch trình, Đức Thánh Cha sẽ không có bất cứ cuộc tiếp kiến nào nữa cho năm 2008. Những buổi lễ truyền thống dịp cuối năm trong đó có buổi hát kinh Te Deum để tạ ơn Chúa vì những ơn Người đã ban trong năm qua sẽ thay thế cho buổi tiếp kiến thứ tư hàng tuần, tức ngày 31 tháng 12.
 
Các Thượng Phụ kêu gọi chấm dứt chiến tranh tại Gaza
LM Trần Đức Anh, OP
14:52 31/12/2008
JERUSALEM. Các vị Thượng Phụ và thủ lãnh các Giáo Hội Kitô tại Jerusalem lên án mọi hình thức bạo lực tại Gaza và kêu gọi đình chiến, đồng thời ấn định ngày cầu nguyện cho công lý và hòa bình vào chúa nhật 4-1 tới đây.

Trong tuyên ngôn công bố hôm 30-12-2008, các vị thủ lãnh của 12 Giáo Hội Kitô tại Thánh Địa, khẳng định rằng: ”Chúng tôi rất lo âu, đau buồn và kinh hoàng theo dõi chiến tranh đang diễn ra ồ ạt tại giải đất Gaza và những tàn phá, chết chóc và đổ máu từ đó, nhất là trong thời gian chúng tôi đang cử hành lễ Giáng Sinh của vị Vua tình thương và hòa bình. Chúng tôi bày tỏ đau buồn sâu xa vì cái vòng bạo lực tái diễn giữa người Israel và Palestine, và tình trạng tiếp tục thiếu hòa bình tại Thánh Địa. Chúng tôi lên án chiến cuộc đang tiếp diễn tại giải Gaza và mọi hình thức bạo lực và giết chóc từ mọi phía. Chúng tôi tin rằng sự tiếp tục cuộc đổ máu và bạo lực sẽ không đưa tới hòa bình và công lý, nhưng chỉ nuôi dưỡng thêm oán thù và xung đột, và sự tiếp tục đụng độ giữa hai dân tộc.

”Vì thế, chúng tôi kêu gọi mọi quan chức từ cả hai phe lâm chiến hãy hồi tỉnh lại và từ bỏ mọi hành vi bạo lực chỉ mang lại tàn phá và thảm kịch, đồng thời thúc giục họ hãy làm việc để giải quyết những khác biệt của họ bằng những phương thế ôn hòa và bất bạo lực.

”Chúng tôi cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế chu toàn trách nhiệm của mình và can thiệp tức khắc và tích cực để chấm dứt cuộc đổ máu và mọi hình thức xung đột, hoạt động khẩn trương để chấm dứt sự đối nghịch và loại bỏ mọi nguyên nhân gây nên xung đột giữa hai dân tộc, giải quyết chung kết cuộc xung đột giữa Israel và Palestine bằng một giải pháp chính đáng và toàn diện, dựa trên các nghị quyết quốc tế”.

Các vị thủ lãnh cũng nói với các phe phái người Palestine rằng: ”Nay đã đến lúc chấm dứt sự chia rẽ và giải quyết những khác dị biệt giữa quí vị. Chúng tôi kêu gọi mọi phe liên hệ trong thời điểm đặc biệt này hãy đặt quyền lợi của dân tộc Palestine lên trên quyền lợi bản thân và phe phái, đồng thời tiến tới một sự hòa giải quốc gia toàn diện, sử dụng những phương thế bất bạo động để đạt tới một nền hòa bình công chính và toàn diện trong vùng.

”Các vị thủ lãnh Kitô cầu nguyện cho chính quyền cả hai phía, cho các nạn nhân, những người bị thương và những người đang sầu khổ... Chúng tôi kêu gọi dành ngày 4-1 tới đây làm ngày cầu nguyện cho công lý và hòa bình tại phần đất của hòa bình.

Trong số các vị ký tên vào tuyên ngôn, có Đức Thượng Phụ Fouad Twal của Giáo Hội Công Giáo la tinh ở Jerusalem, các vị thượng phụ Chính Thống Hy Lạp, Armeni Tông Truyền, các vị thủ lãnh Chính Thống Siri, Ethiopia, Maronite, v.v.. (SD 30-11-2008)
 
Đức Thánh Cha kêu gọi đình chiến tại Gaza
LM Trần Đức Anh, OP
14:52 31/12/2008
VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 đã tha thiết kêu gọi các phe liên hệ tại Thánh Địa hãy ngưng chiến, ngài mô tả bạo lực tại đây lên tới mức độ ”chưa từng có”.

Lên tiếng trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 28-12-2008 tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Anh chị em thân mến, trong những ngày giáng sinh này, Thánh Địa, vốn ở trung tâm tư tưởng và lòng quí mến của tất cả các tín hữu ở các nơi trên thế giới, nay là bị liên lụy vì sự bùng nổ của bạo lực chưa từng đó. Tôi hết sức đau buồn vì những người chết, người bị thương, vì những thiệt hại vật chất, đau khổ và nước mắt của dân chúng, nạn nhân của thảm kịch này với những cuộc tấn công và trả đũa nối tiếp nhau. Quê hương trần thế của Chúa Giêsu không thể tiếp tục chứng kiến bao nhiêu cuộc đổ máu tái diễn không ngừng! Tôi tha thiết kêu gọi chấm dứt bạo lực này, bạo lực cần phải bị kết án trong mọi hình thức của nó, và tôi kêu gọi tái lập cuộc ngưng chiến ở giải Gaza; tôi kêu gọi gia tăng tình nhân đạo và sự khôn ngoan của tất cả những người hữu trách trong tình trạng này, tôi xin cộng đồng quốc tế đừng bỏ qua điều gì mà không làm để trợ giúp người Israel và Palestine ra khỏi cái vòng lẩn quẩn này và như tôi đã nói cách đây hai ngày trong sứ điệp Giáng Sinh gửi Roma và toàn thế giới, đừng cam chịu tiêu chuẩn sa đọa của những vụ đụng độ và bạo lực, trái lại hãy dành ưu tiên cho con đường đối thoại và thương thuyết. Chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, vị Vua Hòa Bình, kinh nguyện sốt sắng của chúng ta theo ý chỉ đó”.

Từ thứ bẩy 27-12-2008, không lực Israel bắt đầu tấn công ồ ạt vào Gaza để trả đũa các vụ pháo kích hỏa tiễn của nhóm Hamas vào lãnh thổ Israel, cho đến chiều ngày 29-12 đã có 350 người Palestine thiệt mạng và lối 700 người bị thương.

Trường Công Giáo của các nữ tu dòng Mân Côi ở Gaza đã bị hư hại vì cuộc oanh kích của không quân Israel.

LM Manuel Musallam, cha sở Công Giáo duy nhất tại Gaza, cho biết một quả bom do máy bay Israel ném xuống trong cuộc tấn công hôm 27-12-2008 đã nổ gần trường học làm vỡ tung các cửa sổ và cửa ra vào. Rất may các trẻ em trong các lớp học không bị thương, chỉ có vài em bị các vết cắt nhẹ vì các mảnh kiếng. Trường của các nữ tu Mân Côi tọa lạc gần một trại của cảnh sát. Cơ sở này hoàn toàn bị phá hủy và viên chỉ huy cảnh sát của Hamas bị giết.

Cha Musallam cũng nói rằng các nhà thương ở Gaza ở trong tình trạng bị tràn ngập và hỗn độn, thiếu thuốc men và máu. Khắp nơi các gia đình tìm kiếm người thân bị mất tích. Cha Musallam gọi cuộc tấn công của Israel là một tội ác và nói rằng: ”Mặc dù cần phải lên án vụ Hamas bắn hỏa tiễn vào Israel, nhưng Israel không thể phong tỏa hàng trăm ngàn người dân vô tội và bắn xả vào họ như vậy.”

Tuyên bố với báo “Quan sát viên Roma ” của Tòa Thánh, Đức Thượng Phụ Fouad Twal của Công giáo la tinh ở Jerusalem, nhận định rằng một cuộc tấn công quân sự như thế không mang lại một giải pháp. ”Cuộc tấn công của Israel là thái quá. Từ lâu người ta đã biết Israel sẽ trả đũa, nhưng không ở mức độ ồ ạt và lớn lao như vậy. Chúng tôi không thể tiếp tục như thế. Chúng mệt mỏi, chúng tôi cần hòa bình và thanh thản. Tất cả mọi người, Palestine và Israel đều cần hòa bình. Giải pháp quân sự không phải là giải pháp đúng, nó tái diễn thời kỳ đầy chiến tranh và căng thẳng nặng nề”.

Bối cảnh chiến tranh trên đây khiến cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, tuyên bố rằng cuộc viếng thăm của ĐTC tại Thánh Địa không phải là điều chắc chắn sẽ xảy ra. (SD 29-12-2008)
 
Trung Quốc: khoàng 10.000 người tham dự lễ an táng một linh mục “hầm trú”
Trần Hoàn Chỉnh
16:31 31/12/2008
Gương chứng nhân can đảm cho đức tin của một linh mục hầm trú

ZHENGDING, Trung Quốc (UCAN) – Cha Giuse Jia Fuqian, chú của Đức Giám Mục Julius Jia Zhiguo thuộc giáo hội “hầm trú” của giáo phận Zhengding đã qua đời vì bệnh tim và phổi ngày 26 tháng 12 vừa qua thọ 88 tuổi.

Khoảng 10 ngàn tín hữu đến từ Hebei và các tỉnh khác đã bất chấp trời rét (nhiệt độ khoảng 2oC) để tham dự Thánh Lễ an táng ngày 30 tháng 12.

Nghi lễ đã được cử hành tại nhà thờ chính tòa Kitô Vua ở làng Wuqiu gần thủ phủ Hebei của Shijiazhuang, cách Bắc Kinh 270 km về phía Tây Nam.

Một linh mục của giáo phận Zhengding đã mô tả lễ tang kéo dài 5 tiếng đồng hồ như một sự kiện lớn nhất ở giáo phận này một thập niên qua. Ngài và một vài nguồn tin của Giáo Hội đã nói với UCA News rằng cha Jia được rất nhiều người kính trọng vì đức hạnh và gương chứng tá cho đức tin của ngài.

Họ đã ước tính có khoảng 20 ngàn người đã đến kính viếng khi linh cửu của cha được quàn tại nhà thờ chính tòa.

Đức Cha Jia, 73 tuổi sống ở nhà thờ chính tòa dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của các nhân viên an ninh đã chủ tế Thánh lễ an táng với khoảng 60 linh mục đồng tế.

Nguồn tin của Giáo Hội nói với UCA News rằng các viên chức chính quyền địa phương đã cảnh báo các linh mục từ các giáo phận khác không được đồng tế trong thánh lễ an táng. Vì vậy, các ngài đã tham dự thánh lễ chung với cộng đoàn và nghi thức an táng tại nghĩa trang. Các nhân viên an ninh dường như nới lỏng hơn với đám đông người tham dự lễ tang, khác hẳn với những kiểm soát gắt gao đối với những dịp lễ lớn của Giáo Hội, nguồn tin trên nói.

Trong nghi lễ an táng, đức cha Jia và tiếp theo là các linh mục, nữ tu, chủng sinh và giáo dân đã thả những nắm cát trên quan tài sau khi được hạ huyệt.

Tiểu sử của cha Jia:

Ngài sinh ra trong một gia đình có truyền thống Công Giáo ở Wuqiu năm 1920. Ngài thường được gọi là “Cha Jia thứ hai” vì ngài là thành viên thứ 2 trong 5 thành viên của dòng họ gồm cả đức cha Jia làm linh mục.

Ngài gia nhập dòng Phaolô, một dòng thuộc giáo phận Zhengding năm 1937 và đã khấn lần đầu 3 năm sau đó. Vào năm 1958, ngài từ chối tham gia Hội Công Giáo yêu nước vừa được thành lập (Đây là một tổ chức do nhà nước thiết lập để giúp “mở rộng” Giáo Hội) và đã bị kết án 20 năm lao động cải tạo ở khu vực tự trị Xinjiang Uyghur, Tây Bắc Trung Quốc.

Vào năm 1981 lúc ngài 62 tuổi, ba năm sau khi được trả tự do, ngài đã lãnh tác vụ linh mục do đức giám mục Phêrô Giuse Fan Xueyan của Baoding. Đức cha Fan là một lãnh đạo xuất chúng của Giáo Hội “hầm trú” ở Hebei. Ngài qua đời trong sự tù đày năm 1992.

Mặc dù tuổi đã cao và sức khỏe không được tốt nhưng cha Jia vẫn kiên trì rao giảng Tin Mừng ở Zhengding và các vùng phụ cận. Ngài đã thành lập một hội đoàn dành cho nam giới vào năm 1987.

Một thành viên của hội đoàn (xin được giấu tên) đã nhắc lại rằng cha Jia đã lên tiếng đầy mạnh mẽ và can đảm trong những giai đoạn khó khăn của ngài ở vùng Xinjiang. Ông nói rằng chính tinh thần can đảm của vị cố linh mục “đã động viên thế hệ trẻ bảo vệ niềm tin của họ”.

Các tu sĩ cũng nhớ lại lòng hăng say với công việc mục vụ của cha Jia. Mặc dù đã 70 tuổi, nhưng vị linh mục cao niên vẫn đi xe đạp và dâng lễ cho 7 cộng đoàn Công Giáo mỗi Chúa Nhật vì thiếu linh mục.

Vào một ngày Chúa Nhật mùa đông năm 1993, cha Jia đã bị một chiếc xe tải đụng phải khi ngài đang đạp xe từ nhà một tín hữu đến một nhà tín hữu khác. Ngài đã từ chối khi tài xế xe tải đề nghị đưa ngài đến bệnh viện và thay vào đó là đi thăm 4 cộng đoàn khác.

Khi các tín hữu hỏi thăm về vết thương ở chân của ngài, ngài đã nói với họ rằng ngài bị té do chính sự bất cẩn của mình. Ngài đã kiểm tra lại vết thương của ngài chỉ sau khi đã về nhà và đã nhận thấy rằng một vài cơ đã bị tổn thương.

Các tu sĩ nói rằng Đức Giám Mục Jia đã ca ngợi cha Jia như là một mẫu gương cho tất cả các linh mục.

Vào năm 2006, cha Jia đã trở về thăm quê của ngài và cư trú tại nhà thờ chính tòa. Ngài lâm bệnh và kể cả lúc bị liệt gường, ngài vẫn lần hạt Mân Côi và cử hành Thánh lễ trên một bàn thờ nhỏ trên gường của ngài mỗi ngày.

Mặc dù các viên chức chính quyền đã cảnh báo có thể xảy ra lộn xộn từ đám đông dự lễ, nhưng tang lễ đã diễn ra êm thấm mà không có bất cứ sự cố nào, các tu sĩ nói.

(Nguồn: theo UCA News)
 
Vị lãnh đạo cộng đồng Taizé đề nghị những quyết định cho năm mới
Bùi Hữu Thư
16:32 31/12/2008

Vị lãnh đạo cộng đồng Taizé đề nghị những quyết định cho năm mới



Tất cả mọi người đều được mời gọi để thương yêu nhiều hơn

NAIROBI, Kenya,
(Zenit.org).- Vị lãnh đạo cộng đồng Taizé nói, “muốn có kết quả là có được tự do đích thực thì cần phải chịu trách nhiệm về những gì tạo dựng nên một con người, cho dù mình không lựa chọn chúng.

Đây là điều Thầy Alois Loser, bề trên cộng đồng Taizé đã viết trong một buổi họp tại Kenya tháng vừa qua, cho năm 2009. Lá thư được công bố trong một buổi họp của giới trẻ Âu Châu tại Brussels, Bỉ. Thầy Alois viết trong buổi họp có chủ đề “xây dựng tình huynh đệ”: “Trước những cảm giác mệt mỏi và bất lực của nhiều người, câu hỏi được đặt ra là: Chúng ta phải kín múc sự sống từ nguồn suối nào?”

Và thầy đề nghị, “So với quá khứ, có rất nhiều người không thể tìm được nguồn nước này hơn. Ngay Thánh Danh Thiên Chúa cũng bị hiểu nhầm hay bị quên lãng. Phải chăng có một sự nối kết giữa việc đánh mất đức tin và để mất đi lòng nhiệt thành về sự sống?

"Làm sao để giải trừ bất cứ cái gì đã làm ngăn cản nguồn suối này? Chắc chắn là phải chú tâm đến sự hiện diện của Thiên Chúa. Nơi Người chúng ta có thể kín múc niềm hy vọng và niềm vui. Rồi thì suối nguồn sẽ bắt đầu lại tuôn chảy và đời sống chúng ta sẽ trở nên có ý nghiã."

Thiên Chúa chấp nhận

Thầy Alois nói là sau khi Chúa Kitô phục sinh, “chúng ta không còn tuyệt vọng về thế giới hay chính chúng ta” vì Chúa Thánh Thần đang ở trong trái tim chúng ta, “Chúa chấp nhận chúng ta dù chúng ta bất toàn."

"Vì vậy chúng ta hãy chấp nhận con người của mình dù có thế nào chăng nữa; hãy nhận trách nhiệm về tất cả những gì chúng ta không lựa chọn nhưng lại cấu tạo nên con người chúng ta. Chúng ta hãy tỏ ra có sáng kiến dù rằng những gì chúng ta đang có không hoàn hảo. Và rồi chúng ta sẽ tìm thấy sự tự do. Cho dù chúng ta phải mang gánh nặng nề, chúng ta cũng sẽ lãnh nhận đời sống như một quà tặng và mỗi ngày như một quà tặng Chúa ban cho hôm nay."

Tu sĩ Alois tiếp tục bằng cách giải thích ước nguyện tìm được sự tuyệt đối, và kết quả của sự khao khát tình yêu nơi con người (mặc dù còn cảm thấy thiếu thốn hay trống rỗng) như những quà tặng, vì trong đó ‘chứa đựng lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta mở rộng lòng đón nhận."

"Do đó”, thầy tiếp, “mỗi người chúng ta được mời gọi để tự hỏi: Tôi phải làm một bước tiến nào bây giờ? Một quyết định gì cho năm mới? Không nhất thiết là phải ‘làm nhiều hơn.’ Và vì tình yêu đòi hỏi phải bộc lộ toàn thân con người, bổn phận chúng ta là phải tìm cách chú tâm đến tha nhân, và phải làm như vậy ngay tức thì, không chần chờ, chờ đợi.

"Bất cứ những gì chúng ta có thể làm, dù nhỏ nhặt đến đâu, chúng ta vẫn phải làm."
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Khánh thành nhà thờ Sáng Soi thuộc giáo phận Phan Thiết
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
05:22 31/12/2008
PHAN THIẾT - Hơn 3.000 người đi dự lễ khánh thành Nhà thờ Giáo Họ Mân Côi, thuộc Giáo xứ Cù Mi, Hạt Hàm Tân, ai cũng đều nói vui là hôm nay mình đi lễ cung hiến nhà thờ “Sáng Soi” vì Quản Xứ là Cha Sáng và Phó Xứ là Cha Soi. Đức Giám Mục cũng khéo đặt để giáo xứ luôn đựơc “ánh Sáng chiếu Soi”.

Ngày cuối năm ( 30.12.2008), Đức cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan, Giám mục Phan thiết dâng lễ cung hiến Nhà thờ Mân Côi. Cùng đồng tế có 50 linh mục trong và ngoài giáo phận, đông đảo tu sĩ chủng sinh và khách mời xa gần đến chung lời tạ ơn.

Hơn 30 năm kể từ sau biến cố 1975, miền đất kinh tế mới Tân thắng có thêm một ngôi nhà thờ khang trang. Giữa ruộng vườn nương rẫy mênh mông, nhà thờ mới bề thế với tháp chuông cao vút làm nên vẻ đẹp thanh thoát của xứ đạo miền quê yên bình. Giữa đất trời bao la, nhà thờ như hạt ngọc chiếu sáng niềm tin của hồn quê hương. Tháp chuông cao, tiếng chuông ngân xa phá tan những cô đơn, đem vào thẳm sâu lòng người những hy vọng, những tình thương và những lý tưởng. Tiếng chuông nhà thờ vang xa là những tiếng gọi mang chiều kích thiêng liêng nâng con người lên cao hơn và đưa con người lại gần nhau hơn.

Cha xứ Phêrô Nguyễn Đình Sáng trong 3 năm đã xây dựng cho giáo xứ 2 nhà thờ mới: Cù Mi và Mân Côi. Thật đáng trân trọng lòng nhiệt thành xây dựng Nhà Chúa của vị linh mục đã bước vào tuổi U 60. Còn 2 nhà thờ giáo họ Phêrô, Antôn chuẩn bị xây mới. Ý Chúa thì nhiệm mầu, Đức Giám Mục bổ nhiệm ngài làm quản lý Toà Giám Mục và Giám đốc Caritas Phan thiết. Vừa hoàn thành Nhà thờ, ngài lại khăn gói lên đường về lo công việc quản lý thay thế cha Anrê Lương Vĩnh Phú đi du học Mỹ ngày 31.12.2008. Bà con giáo dân đến chúc mừng, bùi ngùi chia tay trong nước mắt sụt sùi thắm tình cha con. Hình ảnh vị mục tử hết lòng vì đoàn chiên thật đẹp trong tâm tư mỗi người giáo dân nơi miền quê nghèo này. Xuôi ngược lo toan việc đạo việc đời cho xứ đạo 6000 giáo dân với một Xứ chính và bốn Giáo họ, ngài để lại trong tâm hồn người tín hữu tình thương và nổi nhớ mênh mang.

Khi thánh Phêrô đựơc Chúa Giêsu gọi, bảo chèo thuyền ra khơi thả lưới chỗ nước sâu, Ngài vâng lời. Kết quả thật lạ lùng. Cá đầy lưới. Phêrô kinh ngạc. Phêrô cảm nghiệm đựơc một điều gì rất mới lạ. Lập tức, Phêrô quỳ dưới chân Chúa Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Ngài bàng hoàng, sợ hãi và nhìn mọi sự với cái nhìn mới, rồi “Ngài bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu” (Lc 5,11). Cùng với Thánh Phêrô, nhiều người đã cảm nghiệm đựơc tiếng Chúa gọi và sai đi là một biến cố lạ thường. Trong biến cố đó, Chúa đã dành cho mình một sứ mạng tham dự vào mầu nhiệm cứu độ của Chúa. Tại sao Chúa lại dành cho mình? Mình không hiểu. Chỉ biết một điều là mình rất bất xứng, đầy yếu đuối và khiếm khuyết. Chính nhận thức ấy làm cho người môn đệ trao trọn thân phận mình vào tay Chúa. Họ bỏ lại mọi sự. Chỉ còn Chúa là tất cả cho họ. Chúa là Đấng họ cầu nguyện, cậy tin và phó thác. Đó là những tâm tình Cha Sáng thường chia sẻ với tôi trong tình anh em linh mục. Làm phó tế một năm và ba năm cha phó giúp cho ngài, tôi học đựơc nhiều bài học bổ ích cho sứ vụ linh mục của mình. Những năm tháng tất bật lo việc truyền giáo cho các làng Dân tộc Châuro, kinh tế mới, vất vả mà hạnh phúc. Hai anh em chung chia mọi niềm vui và gian khó trong sứ vụ mục tử.

Những ngày bận rộn lo toan lễ khánh thành Nhà thờ, rồi dịp cuối năm, chuẩn bị Tết, biết bao việc cần phải làm. Nhưng Chúa gọi là sẵn sàng và vui vẻ lên đường. Tinh thần sẵn sàng của cha Phêrô Sáng là tinh thần người môn đệ Chúa Kitô. Vì Linh mục là người được gọi và sai đi. Linh mục không thuộc về mình bởi đã thuộc về Chúa, thuộc về Giáo hội và thuộc về cộng đoàn mình đựơc trao phó. Sứ vụ ấy cao cả lắm, bởi linh mục thuộc về Chúa Kitô. Sứ vụ ấy rộng sâu lắm, bởi linh mục thuộc về Giáo hội và sứ vụ ấy cũng nặng nề lắm bởi linh mục thuộc về mọi người. Sứ vụ cao nên linh mục thấy mình nhỏ bé; sứ vụ rộng nên linh mục biết mình giới hạn, sứ vụ nặng nề nên linh mục sợ mình có ngày mệt mỏi. Vì thế, xin nâng đỡ linh mục bằng lời cầu nguyện, bằng niềm cảm thông và bằng sự cộng tác cần thiết.

Cầu chúc cha Phêrô Sáng luôn mãi thuộc về Đức Kitô, đón nhận sự sống dồi dào nơi Đức kitô và cho đi sự sống ấy một cách phong phú qua mọi nẻo đường phục vụ.
 
Dì Phước
Vũ Linh Châu
05:29 31/12/2008
Nhân đọc bài “Chứng từ của sự im lăng”. .. Người ta đã gọi các nữ tu Công Giáo bằng nhiều tên khác nhau. Riêng tôi thì chỉ thích nhất danh từ Dì Phước.

Trước nhất xin bàn về tiếng

Dì đã phảng phất một dáng dấp trẻ trung, duyên dáng và nhân ái hiền hòa:

Dì là em của mẹ, nên trẻ hơn mẹ, Dì Út thì còn trẻ đẹp hơn nhiều.

Dì là em của Mẹ, mà Mẹ thì luôn luôn đi liền với “bao la như biển Thái bình dạt dào...” Dì thì luôn luôn săn sóc, thương yêu và chiều chuộng cháu, đôi khi còn nuông chiều nhiều hơn cả Mẹ nữa, nếu có bị mẹ la mắng, thì thế nào Dì cũng bênh vực che chở cho cháu.

Chả tin, đổi lại là...Cô Phước mà xem, nó sẽ rất khô khan, nghiêm nghị, vì Cô là em của... Cha.

Tiếp theo là tiếng Phước

Phước là lối phát âm của người Miền Nam, mà Đồng bằng Cửu Long thì sông nước mênh mông, chẳng hề có đê diều che chắn, nước lũ phù sa cứ mặc sức mà tràn vào ruộng đồng mênh mông bao la, cho đất thêm phần trù phú phì nhiêu. Biển lúa chín vàng óng ả thì cũng bát ngát bạt ngàn, nhấp nhô xa tít cho mãi tới tận chân trời, mút tầm con mắt, chẳng hề có bị che chắn bởi núi đồi hiểm trở cheo leo. Còn dưới sông trong đìa thì tôm cá đầy dẫy, trên mặt ruộng vườn thì rau cỏ, cua ốc... tràn lan, trái cây nặng trĩu chín vàng ngọt lịm.

Hơn nữa, đọc lên âm Phước là như “có sao nói vậy người ơi”, như là đang được đếm cho một “chục mười sáu”, như là “Dzí dầu tình có dở dang, thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp...dzìa”, chẳng hề ghen tương trách móc, chẳng hề mưu mẹo, thù oán...

Chả tin, gọi là Dì... Phúc mà xem.

Tóm lại, Dì Phước không những đã là một người phụ nữ duyên dáng, trẻ trung, xinh đẹp, mà còn đầy lòng nhân ái bao dung, vị tha xả kỷ và nhất là lại rất gần gũi với quê hương dân tộc.
 
Cuộc rước Đức Mẹ La Vang chưa từng có trong giáo phận Thái Bình
Tông Đồ
16:20 31/12/2008
MỘT CUỘC RƯỚC ĐỨC MẸ LA VANG CHƯA TỪNG CÓ TRONG GIÁO PHẬN THÁI BÌNH

Như chúng ta đã biết, năm 2008 là Năm Thánh Hồng Đào của Giáo Phận Thái Bình, bắt đầu từ ngày 26 Tết Mậu Tý và được kéo dài một năm tới ngày 26 Tết Kỷ Sửu. Trong Năm Thánh này Giáo Phận đã đề ra cho các xứ họ và mọi thành phần trong Gp phải đẩy mạnh bốn phong trào tượng trưng là bốn cỗ xe, phải tiến nhanh, tiến xa trên con đường đạo đức, đó là: Tôn sùng Thánh Thể; Tôn kính Đức Mẹ Lang Vang; Học tập Kinh Thánh và Giáo Lý; Giúp đỡ những người nghèo khó.

Tuy chưa kết thúc Năm Thánh nhưng hôm nay lại nhằm ngày 31/12/08, tức ngày cuối cùng của Năm Dương Lịch, Đức Giám Mục cho phép Giáo xứ Bác Trạch (một Gx xếp vào hạng lớn nhất trong Gp) được xây dựng Linh đài kính Đức Mẹ La Vang, nhưng phải có tượng đưa lên trước Nhà thờ Chính toà để Đức Giám Mục làm phép và sẽ rước kiệu tượng về đặt tại Linh đài.

Hôm nay, ngày 31/12/08, rất đông giáo hữu tề tựu tại Nhà thờ Chính toà cử hành giờ chầu Thánh Thể sốt sáng và trọng thể để tạ ơn Chúa vì những ơn Ngài ban trong năm qua. Sau giờ chầu, Đức Giám Mục đã thân chinh ra cuối Nhà thờ Chính toà, nơi diễn ra cảnh tường rất hùng tráng đẹp đẽ của những ánh điện lung linh trong đêm Noel tuần trước nay vẫn còn đó. Chính nơi đây, hàng ngàn giáo dân quần áo chỉnh tề, tay cầm nến sáng xếp hàng ngay ngắn tại cổng Nhà thờ. Có hàng trăm xe máy mang cờ hiệu thánh giá cùng với gần trăm chiếc xe hơi mang biểu ngữ tôn kính Chúa và Đức Mẹ.

Tất cả mọi người vây quanh tượng Đức Mẹ La Vang cao chừng 5m ngự trên một chiếc xe được trang hoàng lộng lẫy bởi những đèn nến chói sáng. Đức Giám Mục từ cung thánh tiến ra, trước nghi lễ Ngài nói vài lời khích lệ mọi người có mặt và tuyên bố làm phép tượng Đức Mẹ để giáo dân xứ Bác Trạch rước về tôn kính, cầu xin tại Linh đài xứ Bác Trạch. Tượng cũng còn được gọi bằng danh hiệu Đức Mẹ phù hộ các giáo hữu hằng thương xót những người gặp đau thương khổ cực về tinh thần cũng như vật chất, sẽ xuống ơn cho tất cả mọi người, lương cũng nhơ giáo đều được ơn Đức Mẹ ban cho. Sau đó Đức Giám Mục tiến hành nghi thức làm phép tượng. Hàng ngàn người vây quanh vỗ tay tán thưởng. Hàng trăm ống pháo dây kim tuyến được bắn lên xung quanh bức tượng tạo thành triều thiên óng ánh như các vì sao trên trời. Đoàn kiệu bắt đầu rước chung quanh Thánh đường Nhà thờ Chính toà. Những câu kinh cung kính xen lẫn tiếng kèn tiếng trống và những câu ca làm cho không khí lạnh lẽo của đợt gió mùa đông bắc đang tràn về phải nhường chỗ cho hơi ấm lòng người.

Sau cuộc rước kiệu, hàng trăm xe máy và xe hơi đủ loại đã tháp tùng chiếc xe kiệu Đức Mẹ thẳng tiến về Giáo xứ Bác Trạch. Nhiều người ùa ra hai bên đường để ngắm xem đoàn rước có một không hai trong Gp, gây nên sự thán phục của mọi người thiện chí. Đồng thời nhắc nhở mọi người tín hữu làm cho cỗ xe trong Năm Hồng Đào càng tiến nhanh, tiến xa hơn nữa, giúp việc thánh hoá các tín hữu và trông chờ Đức Mẹ xuống nhiều ơn cho mọi người, không phân biệt lương dân hay giáo hữu.

Được tin ngày đầu năm mới 2009 Đức Giám Mục sẽ về Giáo xứ Bác Trạch cử hành Thánh Lễ đầu năm kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa để xin Ngài ban ơn hoà bình cho thế giới, cho đất nước Việt Nam và cho Gp Thái Bình.

Chúng tôi mong sẽ có bài tường thuật về buổi lễ trọng thể đó.

Thái Bình, ngày 31/12/08
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Chung qui cũng chỉ vì ''bất chính''
Trần Ban
02:16 31/12/2008
Không thời nào như thời này, nạn cướp bóc hoành hành quá ngang nhiên và dữ dội trên đất nước Việt Nam bé nhỏ và đau thương này! Khắp mọi miền từ Nam chí Bắc, từ thành thị đến thôn làng, quân cướp đã trắng trợn và hung tàn chiếm đoạt từ nhà cửa tới ruộng vườn của dân, gây nên bao đau khổ oán than, tiếng kêu thấu tận trời xanh mây trắng. Đó là lũ cướp ngày, mà bà Mẹ Việt Nam của chúng ta đã vạch mặt và truyền dạy cho con:

Con ơi nhớ lấy câu này:

Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
!"

Cũng chưa có năm nào như năm nay, năm hết, tết đến, thời điểm này lẽ ra theo truyền thống từ ngàn xưa, mọi người dân lo dọn dẹp nhà cửa, sắm sửa trong nhà, may sắm áo quần lo chuẩn bị đón xuân trong an lành may mắn, nhưng năm nay khắp nơi dân chúng khổ sở bất an, bỏ nhà bỏ cửa kéo nhau lũ lượt từ già chí trẻ, đến cửa quan kêu gào vì bị chiếm nhà chiếm đất. Nơi thì ra đồng ruộng, nơi ra vệ đường giãi nắng dầm sương canh chầu bảo vệ đất, bảo vệ tài sản đang bị nhà cầm quyền hăm he chiếm đoạt, dân còn cái khổ nào hơn?! Hà Nội quan chiếm đất của nhà thờ, Thái Bình quan chiếm ruộng của dân, Huế quan lăm le cướp đất của xứ đạo, Sài Gòn chiếm trường của các Sơ, trên cả nước chùa chiền Phật Giáo, nhà thờ Công Giáo, Tin Lành bị chiếm,Vĩnh Long lấy nhà của dòng tu, và có cả hàng ngàn hộ dân đang biểu tình phản đôí việc nhà nước chiếm ruộng vườn nhà cửa của họ, sau khi họ đã mua đất của quân đội hàng 12 năm nay, từ đất hoang rừng rậm, sau bao nhiêu năm họ đem tiền của, sức lực ra để khai hoang làm ruộng, đổ xuống đó bao nhiêu mồ hôi công sức để ngày nay nên những ruộng đồng tốt tươi, có thu hoạch để lo cuộc sống, thì ngày giờ này nhà cầm quyền địa phương đến cưỡng chiếm làm quy hoạch nọ kia, hòng bán lấy tiền bỏ túi riêng ( chứ công quỹ có bao giờ nhận được đồng nào từ bán đất quy hoạch?). Tây Nguyên hàng ngàn hecta rừng bị chiếm phá, Phan Thiết Bình Thuận hàng trăm hecta rừng phòng hộ, các quan ngốn trong vài tháng là tiêu tan, đất hoang quan xúi dân khai khẩn, chưa được bao ngày thì quan lại mò đến đòi thu tóm mà không bồi thường cho dân ra gì. Quan quân bán hết dự án này đến dự án kia bỏ tiền vào túi, rồi cho kẻ mua dự án đến hăm he lấy đất của dân, bồi thường với giá rẻ mạt, còn nhà cầm quyền thì “sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi!”. Một kẻ “làm quan”thường kéo theo một bọn lâu la là bà con anh em đi theo vơ vét chiếm dụng đất của dân của nước làm của riêng! Do đó có câu dân nói: “qua mấy đời quan thì tàn đất nước!”.

Xét vào ngay từng vụ việc cưỡng chiếm ấy, thì thấy kẻ nắm quyền hoàn toàn làm bậy, sai trái luật pháp, thậm chí dùng giấy tờ giả mạo, như vụ đất Thái Hà, trường của các sơ ở Sài gòn cũng như ở Vĩnh Long. Và khốn nạn hơn nữa là họ toàn dùng vào những mục đích kinh doanh xấu xa bất xứng: làm vũ trường, làm nơi tụ tập bài bạc, giải trí không lành mạnh, hay toan tính bán cho các đại gia, cho ngoại quốc để lấy tiền chia nhau. Thậm chí đến ngôi chùa Việt Nam Quốc Tự ở ngay trung tâm thành phố Sài Gòn, là “linh hồn” của bao Phật Tử, mà họ dám toan tính tịch thu để bán cho nước ngoài xây khách sạn!

TRỜI HỠI! ĐÂY CÓ PHẢI LÀ BỌN CƯỚP, LÀ LOẠN KIÊU BINH KHÔNG?

Cộng Sản VN luôn luôn lớn tiếng chửi bới “Chế độ cũ” là “Ngụy quân ngụy quyền”, là bất công, là bóc lột, thì trong chế độ cũ ở miền Nam chưa hề có cảnh đó! Cộng Sản luôn đề cao nông dân và công nhân là hai “giai cấp ưu việt”của chế độ, thì ngày nay nông dân, hơn bao giờ hết, bị chiếm đoạt tài sản, ruộng vườn một cách tàn bạo thành vô sản, công nhân đang bị bóc lột tàn nhẫn và đói khổ hơn hết mọi thời, kể cả thời Pháp thuộc! Nông dân- Công nhân đang là những lực lượng chống đối Cộng Sản nhiều nhất, vì họ bị bóc lột một cách dã man và trắng trợn nhất! Đất đai ngày xưa là của dân, họ được thừa hưởng hợp pháp từ cha ông, hay gầy dựng mua bán bằng đồng tiền do bàn tay họ làm nên, không ai đi chiếm cứ được của ai. Thời Ông Ngô Đình Diệm, cũng như thời đệ nhị Cộng Hòa, chính phủ khuyến khích dân đi khẩn hoang lập ấp, thì chính phủ theo sau hỗ trợ máy cày, hạt giống, phân bón, và cả tiền bạc để giúp họ trong những thời gian đầu khó khăn hay chưa thu hoạch được, rồi bao nhiêu năm miễn thuế hay giảm thuế để đền bù cho công sức và tiền của họ bỏ ra. Sau đó đất là của dân, được cấp bằng khoán hay giấy chủ quyền (chứ không phải là quyền sử dụng đất rồi sau nhà nước manh nha chiếm lại!), và chủ quyền âý là vĩnh viễn để họ an tâm phát triển, hay cho con cháu kế thừa, hoặc bán đi khi không dùng nữa. Không ai và nhất là chính quyền, còn xen lấn vào tư sản đó của họ. Bởi đó trong miền Nam mới có những người nông dân mà ruộng vườn của họ cò bay thẳng cánh. Ai có sức khai khẩn thì cứ khai, ai có tiền thì cứ mua, không một ai làm khó khăn hay xâm chiếm, hay quốc hữu hóa được của cải mồ hôi nước mắt của người dân. Muốn làm những công trình công cộng ích nước lợi dân thì chính quyền phải mua lại đất đai với giá sòng phẳng, công bằng và thuận thảo, chứ không yêu cầu dân “hiến đất”, hoặc “nhà nước và nhân dân cùng làm” một cách đểu cáng! Nếu có sai trái của một vài kẻ nắm quyền ở địa phương, thì dân kiện cho tới nơi tới chốn, nếu cần thì dân xử ngay tại chỗ, chẳng phải đợi đến cấp trên.

Riêng ngành quân đội, cảnh sát, ngoài doanh trại là nhà của chung đơn vị, và lương bổng của từng cá nhân, hai giới này thực sự làm việc cho dân, cho nước, có trách nhiệm giữ gìn non sông, bảo vệ an ninh trật tự cho dân, và ăn lương của nước cũng là của dân, chứ không hề đi làm kinh doanh kiếm lợi riêng bằng cách hưởng lương của dân nước, nhưng lại ăn cắp giờ đi làm chuyện riêng như ngày hôm nay. Công an và quân đội CS có đủ thứ tài sản, kinh doanh đủ thứ nghề, kể cả buôn ma túy, mở khách sạn, sòng bài, điểm chơi có chứa gái điếm, một cách công khai, hay bao che, bảo vệ cho những kẻ làm bậy để chia tiền! Vì thế mà họ có tài sản kếch sù, (dĩ nhiên chỉ mấy cấp lớn, hay kẻ có thân thế, ô dù mới có thôi, và nhất là công an, còn phía quân đội dù sao cũng đỡ hơn). Dân làm bậy thì có xử phạt, vào tù, còn công an và quân đội thì tha hồ mà tung hoành chẳng ai đụng tới. Cứ thử tưởng tượng ở trong các nước tự do dân chủ mà làm vậy xem các ngưòi công an, quân đội ấy sẽ bị dân xử thế nào, khi nhận lương của dân mà không làm tròn nhiệm vụ, lại còn phá hoại, làm bậy?

Thời trước năm 1975, quân đội làm gì ra có đất mà bán cho 1064 hộ dân như ở Vĩnh Long, mà hiện giờ đất này đang trở thành miếng mồi ngon khiến nhà cầm quyền ở đây đang hăm he ngoạm của dân, đẩy dân ra đường, rồi còn dùng dùi cui, chó săn, lựu đạn cay tấn công họ, thậm chí dám xả súng đạn vào dân, gây thương tích nặng nề cho mấy chục người nạn nhân, có cả cụ già 63 tuổi?!

Thử hỏi quân đội lấy đâu ra đất mà bán cho dân? Họ có bao giờ bỏ tiền ra mua đất không? Họ mua của ai? Tiền đâu họ có, trong khi nhiệm vụ của họ là đánh giặc giữ nước, và ăn lương của dân? Thiết nghĩ quân đội cũng cần nên suy nghĩ lại, nhất là trước hiện tình đất nước` ngày hôm nay, bờ cõi bị xâm lăng từ đất liền tới hải đảo, quân Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố chủ quyền hết chỗ này đến đảo kia, trong khi đó thì có bao nhiêu người lên tiếng, bao nhiêu văn bản được chưng ra để chứng minh chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của VN? Vai trò của họ là gì? Đâu là cái gọi là “Quân đội VN anh hùng?”, chẳng lẽ họ đang mắc làm ăn mưu lợi, trong khi đất nước lâm nguy, người dân khốn khổ vì “thù trong giặc ngoài? Họ không có trách nhiệm sao? Họ không phải là người VN sao? Họ không đang ăn lương của dân của nước sao? Nước mất, nhà tan không hề thấy bóng dáng của những “anh hùng gánh nợ non sông”đâu cả, mà chỉ thấy “những lực lượng quân đội hùng hậu đem xe tăng thiết giáp đi càn quét, khủng bố đồng bào Tây Nguyen khi họ biểu tình vì bị cướp đất cướp nhà! Phải chăng quân đội là lực lượng chỉ để bảo vệ giới cầm quyền…bất chính, và bảo vệ chế độ tham tàn? Các Tướng Lãnh anh hùng từng làm mưa làm gió, đánh chiếm miền Nam đâu rồi? Phải chăng các vị “giải phóng” chúng tôi, để đưa chúng tôi vào cũi rọ, mất tự do, mất nhân phẩm như thế này sao? Ai đã đưa đẩy dân tộc, đất nước đến cãnh lầm than, lạc hậu ngày hôm nay, các vị có biết không? Các vị có phải LÀ CON CỦA DÂN, LÀ NÒNG CỐT CỦA NUỚC NHÀ KHÔNG? SAO LẠI LÀM NGƠ HAY LẨN TRỐN KHI NON SÔNG LÊN TIẾNG, KHI ĐỒNG BÀO ĐANG RÊN SIẾT, MÀ CÒN TIẾP TAY VỚI KẺ HUNG TÀN HẠI DÂN HẠI NƯỚC?!

Thử hỏi CHẾ ĐỘ NÀO HÀ HIẾP DÂN, HÚT MÁU CỦA DÂN? Súng đạn của bọn này ở đâu mà có, lựu đạn cay, roi điện, chó săn ở đâu mà có? Người dân có những thứ này không ? Ai cấp tiền bạc cho chúng mua vũ khí này, tiền ở đâu chúng nuôi chó săn? Tất cả là của dân, do dân đóng thuế, hay do chúng cướp bóc của dân. Ai giao quyền cho những bọn bất lương này để chúng hành hạ dân, là ông bà, cha mẹ, họ hành, lối xóm của chúng?

Chính quyền là gì, nếu không phải là người có khả năng, được dân chọn lựa và giao trách nhiệm cai trị dân nước một cách chân chính? Công an là gì, nếu không phải là lực lượng để bảo vệ an ninh trật tự công cộng, cũng là để phục vụ cho dân cho nước? Tất cả đám người này do DÂN ĐẺ RA, DÂN NUÔI DƯỠNG CHO NÊN NGƯỜI, DÂN TẠO CÔNG ĂN VIỆC LÀM VÀ TRẢ LƯƠNG CHO, CỚ SAO GIỜ NÀY CHÚNG CƯỚP BÓC CỦA DÂN, HÀNH HẠ, ĐÁNH ĐẬP, GIẾT HẠI DÂN? TẠI SAO ĐỂ CHÚNG TỒN TẠI? TẠI SAO PHẢI NUÔI DƯỠNG CHÚNG, ĐỂ RỒI CHÚNG CÒN CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ?

- HỠI NHỮNG NHÀ CẦM QUYỀN CHÂN CHÍNH, HÃY LÀM TRÒN NHIỆM VỤ TRƯỚC DÂN NƯỚC ĐI!

- HỠI NHỮNG NHÀ ÁI QUỐC, HÃY VÌ DÂN VÌ NƯỚC MÀ RA TAY CỨU DÂN CỨU NƯỚC ĐI!

- HỠI NHÂN LOẠI VĂN MINH VÀ NHÂN ÁI, HÃY GIÚP ĐỒNG BÀO TÔI!

- HỠI ĐỒNG BÀO VIỆT NAM ĐAU KHỔ VÀ DẤU YÊU ƠI, HÃY CỨU MÌNH VÀ CỨU NƯỚC ĐI!
 
Đạo đức - Bóng đá - và Chiến thắng
Thanh Quang CSsR
02:22 31/12/2008
Chúng ta, những người Việt Nam trong nước và trên toàn thế giới thật vui mừng, hạnh phúc khi đội tuyển nước nhà đã thắng đội tuyển Thái Lan để đoạt chức vô địch Đông Nam Á vào tối 28.12.2008. Sau 49 năm (từ năm1959 đến hôm nay) mòn mỏi đợi chờ, khát khao, nay mới được thỏa lòng. Chiếc cúp đã nằm trong tay người Việt Nam chúng ta. Tôi xin chúc mừng đội tuyển Việt Nam và xin được chia vui với mọi người hâm mộ bóng đá. Tôi cũng là người hâm mộ bóng đá. Hiện giờ, trong lòng tôi cũng trào tràn niềm vui, hạnh phúc và đầy những cảm xúc khó diễn tả. Nhân dịp Việt Nam ta mừng chiến thăng của đội tuyển bóng đá, tôi xin được chia sẻ một vài cảm nhận, nhận định trước chiến thắng lẫy

lừng này, đặc biệt có liên quan đến Đạo Đức Bóng Đá và các giá trị thuộc về tinh thần, thuộc về tâm hồn.

1. Lòng khát khao: nếu không có lòng khát khao cháy bỏng để đoạt cho được cúp vô địch thì không thể có chiến thắng như hôm nay. Lòng khát khao chiến thắng trong bóng đá là động lực giúp chúng ta rèn luyện ý chí, thể lực, nhân cách để tạo nên sức mạnh cá nhân và tập thể.

2. Lòng say mê: lòng say mê hay đam mê sẽ giúp chúng ta luôn chú tâm, chuyên chăm đầu tư và gắn bó với bóng đá. Không say mê thì cũng chẳng có gắn bó, không gắn bó thì cũng chẳng có chiến thắng như hôm nay. Vậy ta gắn bó với lòng thành của mình thì mới đem lại kết quả như chúng ta đã thấy.

3. Lòng trung thực: trong bóng đá, nếu không có lòng trung thực thì mọi hy vọng, khát khao, phấn đấu, cố gắng sẽ tan thành mây khói. Không có lòng trung thực thì chỉ có sự giả dối, lừa đảo, bán độ, coi rẻ người hâm mộ và trở thành người vô đạo đức. Các cầu thủ hay huấn luyện viên hoặc trọng tài mà giả dối, lừa đảo, bán độ, coi thường người hâm mộ thì trở thành người vô lương tâm, bán rẻ chính mình, bán rẻ dân tộc, bán rẻ tổ quốc. Tôi hết sức mừng rỡ, vì trong giải đấu lớn vừa qua của đội tuyển quốc gia, huấn luyện viên và các cầu thủ đã rèn luyện được đức tính quý báu này để luôn trung thực với chính mình, trung thực với dân tộc, trung thực với tổ quốc mà cống

hiến khả năng và sức lực của mình hầu đem lại vinh quang cho tổ quốc Việt Nam dấu yêu. Tôi hy vọng rằng, lòng trung thực trong bóng đá của các cầu thủ, của huấn luyện viên, của các nhà chức trách bóng đá phải luôn luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu, phải luôn luôn được rèn luyện mỗi ngày để nền bóng đá của Việt Nam chúng ta tiến nhanh, tiến mãi.

4. Lòng yêu mến: trong bóng đá cũng cần có lòng yêu mến. Họ yêu mến huấn luyện viên, yêu mến đồng đội, hy sinh cho đồng đội, tìm mọi cách để chuyền banh cho đồng đội ghi bàn chứ không ích kỷ chỉ giữ banh riêng cho bản thân hầu làm nổi danh chính mình! Không! Lòng yêu mến sẽ giúp toàn đội bóng đồng tâm nhất trí và cùng giành chiến thắng cuối cùng. “Yêu là chu toàn luật bóng đá và quan tâm đến đồng đội”.

5. Lòng vâng phục: các tuyển thủ nhất thiết phải vâng phục huấn luyện viên, đội trưởng và những người lãnh đạo mình để đi đến hợp nhất đoàn kết và tạo nên sức mạnh tập thể vững chắc. Vâng phục sẽ dẫn đến sự nghiêm túc, nghiêm khắc với bản thân, bỏ ý riêng để tìm điểm chung dẫn đến kết quả là chiến thắng.

6. Lòng vị tha: người cầu thủ luôn quan tâm, nghĩ đến đồng đội của mình, sẵn sàng bỏ qua lỗi của đồng đội, quảng đại sửa lỗi bản thân và sẵn sàng kiến tạo những đường banh thật đẹp và sắc sảo để đồng đội rảnh chân sút tung lưới đối phương. Cầu thủ không bao giờ càu nhàu, thất vọng hay chửi rủa đồng đội mỗi khi đồng đội đá hỏng hay “chuyền sai địa chỉ” nhưng nhanh chóng tìm mọi cách động viên và khắc phục ngay. Có như thế mới có thể động viên được tinh thần đồng đội và tạo nên sự vững tin, tâm lý bình ổn.

7. Lòng kiên trì: không nao núng, sợ hãi trước khó khăn, thử thách trước đối thủ. Có kiên trì mới đi đến đích và chiến thắng đối phương, cho dẫu đối phương có dẫn trước bàn thắng. Lòng kiên trì sẽ giúp cầu thủ bình ổn tâm lý, cần cù tìm kiếm những bàn thắng, bình tĩnh xử lý những pha bóng trong mọi tình huống.

8. Niềm tin: dĩ nhiên, huấn luyện viên và cầu thủ phải có niềm tin. Tin vào chính bản thân, tin vào đồng đội, tin vào sức mạnh từ Ơn Trên trợ giúp. Niềm tin sẽ giúp cầu thủ vững chãi trên đôi chân để càn lướt, lắt léo trên từng đường banh và chắc chắn sẽ làm lưới của đối phương rung lên. Niềm tin giúp các cầu thủ chiến thắng.

Trong bóng đá, đạo đức là hết sức quan trọng. Tài năng là một chuyện, nhưng đa phần đạo đức mang yếu tố quyết định. Đạo đức sẽ giúp cho cá nhân và đồng đội thành công mỹ mãn. Chúc đội bóng Việt Nam tiếp tục gặt hái được những thành quả tốt đẹp, đáp ứng được lòng mong mỏi của cả dân tộc.
 
Ấn tượng Việt Nam năm 2008
Phanxicô Xaviê
02:23 31/12/2008
Năm 2008 là một năm Việt Nam chứng kiến nhiều sự kiện đáng chú ý.

Trong năm nay, nền kinh tế đối phó với lạm phát tăng tới 23%, cao nhất trong gần 20 năm.

Sau nhiều năm tăng trưởng trên 8%, năm nay GDP của Việt Nam chỉ đạt 6.23%.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự đoán năm 2009 Việt Nam chưa hết khó khăn, vì thế giới rơi vào khủng hoảng kinh tế.

Hình ảnh quốc tế

Cũng trong năm 2008, lần đầu tiên Việt Nam đảm đương cương vị Chủ tịch luân phiên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.

Chính phủ xem đây là một minh chứng cho vị thế được nâng cao của Việt Nam trước quốc tế.

Nhưng mặt khác, một loạt bê bối cũng là cho người dân đặt câu hỏi về hình ảnh đất nước.

Trong một diễn biến chưa từng có, Nhật Bản tạm ngừng cấp ODA cho Việt Nam để đòi có điều tra rốt ráo cáo buộc đưa và nhận hối lộ PCI.

Nhiều người cũng cảm thấy hoang mang cho hình ảnh Tổ quốc trước các vụ như cán bộ ngoại giao ở Nam Phi bị nghi buôn lâu sừng tê giác, Cộng hòa Czech ngưng cấp visa cho người Việt.

Xã hội dân sự

Trong năm 2008, quan hệ giữa nhà nước và xã hội được đánh dấu bằng cuộc đối đầu hiếm có của Giáo hội Công giáo quanh chuyện đòi lại đất ở Tòa Khâm sứ cũ và giáo xứ Thái Hà.

Có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau, càng trở nên gay gắt sau một phát biểu gây tranh cãi của Tổng Giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt.

Nhật tạm dừng ODA vì cáo buộc đưa và nhận hối lộ PCI

Nhưng điều không thể phủ nhận là những sóng gió đó, gồm cả tuyên bố của Hội đồng Giám mục bênh vực cho các giáo sĩ ở Hà Nội, là điều không thể xảy ra cho đến gần đây.

Blog, một hình thức báo chí công dân, đã là một điểm nhấn từ năm trước đó và tiếp tục lớn mạnh trong năm 2008.

Sau khi xảy ra “vụ án báo chí”, với án phạt cho hai phóng viên Thanh Niên, Tuổi Trẻ cùng sự ra đi của một loạt nhà báo cấp lãnh đạo, có người cho rằng blog trở thành nguồn thông tin độc đáo, khác với truyền thông chính thức đang đi “lề phải”.

Trong những ngày cuối năm, Việt Nam ra quyết định chính thức cấm các blogger truyền đi hoặc đặt đường link liên quan tới các nội dung ‘chống lại nhà nước, tiết lộ bí mật quốc gia, an ninh và kinh tế’.

Chưa rõ liệu thế giới mạng sẽ chịu ảnh hưởng ra sao một khi nhận được sự “quan tâm” giống như dành cho báo chí của nhà chức trách. (nguồn BBCVietnammese.com)

Cảm nhận:

Ngoài cái ghế Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, mà chính phủ CSVN xem như minh chứng cho vị thế của mình trước quốc tế. Theo sau là một loạt những bê bối nhiều hơn những cái "được", đã làm xấu đi rất nhiều hình ảnh đất nước Việt Nam.

Những ai yêu sự thật, công lý và hòa bình, chắc chắn phải nhận ra sự gian dối, trình độ hiểu biết kém cỏi, dẫn đến xem thường luật pháp quốc tế của một số người CS; trong nước thì chế độ CSVN vi phạm nhân quyền, dân chủ, luật pháp muốn chiếm thế độc tôn, là những nguyên nhân chính dẫn đến sự "nhục nhã" mà Đức TGM Ngô Quang Kiệt đã từng chia sẻ cảm nhận của mình trước đây trong buổi họp với UBND thành phố Hà Nội vào ngày 20/9/2008 vừa qua. Tiếc thay, cảm nhận này của Ngài không được đón nhận như một góp ý chân thành mong xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh. Thay vào đó là sự lừa dối dư luận và nhục mạ người khác. Hỏi sao tránh khỏi sự dè chừng của quốc tế đối với Việt Nam ngày nay.
 
Hòa bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh
Gioan Lê Quang Vinh
02:26 31/12/2008
Trong bài giảng Lễ Vọng Giáng Sinh 2008 vừa qua, Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã nói: “Chúng ta hãy cầu xin cho nền hòa bình được xuất hiện nơi đây, hòa bình mà các thiên sứ đã hát lên trong đêm thánh này”. Như thế, ngài muốn đến nền hoà bình mà thiên thần Chúa đã loan báo cho nhân loại thời Đức Kytô Thiên Sai, nền hoà bình khi con người được nhìn nhận đúng phẩm giá, nền hoà bình mà ngài đã khẳng định trong sứ điệp hoà bình năm 2008: “nhân vị là trọng tâm của hoà bình”. Đây là lời tóm tắt đầy đủ nhất học thuyết của Hội Thánh Công Giáo về một nền hoà bình thật sự mà Thiên Chúa hứa ban cho con người trần gian. Ngày Lễ Mẹ Thiên Chúa, ngày Hoà Bình thế giới năm 2009 này là lời nhắc nhở cho Dân Thiên Chúa và cho toàn nhân loại đang sống trong những bấp bênh, xung đột và bất ổn, rằng nền hoà bình thật sự trước hết phải là nền hoà bình dựa trên việc tôn trọng phẩm giá con người, phẩm giá đã được tái tạo và nâng lên cao nhờ hồng ân Cứu độ của Con Thiên Chúa làm người.

Trong cuộc gặp mặt trước Lễ Giáng Sinh bên bờ sông thơ mộng, có người đã nói một cách hồn nhiên: Việt nam chúng ta thật bình an, ra đường không gặp khủng bố hay bom đạn (!) Đây là lý luận phổ biến nhất nhằm biện hộ cho tất cả những bất trắc và lo âu bủa vây ở đất nước này. Nhưng liệu chúng ta có thể hiểu hoà bình như là sự vắng bóng chiến tranh như thế hay không? Học thuyết Xã Hội Công Giáo minh định điều này trong mục 489 chương thứ 11: “Theo mạc khải Thánh Kinh, hoà bình là một điều gì lớn lao hơn nhiều chứ không đơn giản chỉ là vắng bóng chiến tranh; hoà bình nói lên cuộc sống sung mãn”. Cuộc sống sung mãn có mặt ở đây chưa, khi mà tai nạn xảy ra mỗi ngày, khi mà con người nghi kỵ và hằn học với nhau, khi mà công lý chỉ là giấc mơ xa vời, khi mà nhân vị và phẩm giá vẫn còn là những xa xí phẩm ít ai dám mơ đến? Cuộc sống sung mãn có chưa, khi mà Tin Mừng của Mầu Nhiệm Giáng Sinh vẫn không được phép vang lên trên những ngôi nhà và những con đường miền sơn cước? Cuộc sống sung mãn có chưa, khi mà ngay giữa nơi đô thị, việc mừng Mầu Nhiệm Giáng Sinh cũng được “chỉ đạo” và phải thực hiện theo khuôn phép? Cuộc sống sung mãn có chưa khi con người chỉ vì mối lợi nhỏ mà sẵn sàng vất bỏ các nguyên tắc và giá trị sống, kể cả sẵn sàng thực hành mọi phương tiện chỉ để đạt mục đích nhỏ nhoi?

Giáo Hội khao khát hoà bình hơn tất cả mọi cơ cấu và thể chế trần gian, bởi vì sứ vụ của Giáo Hội là “ra đi và rao giảng cho muôn dân” Tin Mừng bình an mà Chúa Giêsu đã để lại: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”. Do đó chúng ta hiểu được tại sao Giáo Hội luôn thao thức và rất nóng lòng trước những vấn đề liên quan đến hoà bình. Học Thuyết Xã Hội Công Giáo cũng dành hẳn một chương để nói về hoà bình. Giáo Hội mạnh mẽ tuyên xưng “Hoà bình trước hết là thuộc tính của Thiên Chúa”. Do đó “nơi nào có bạo lực, nơi đó không thể có Thiên Chúa” (mục 488). Chúng ta có thể nói cách khác: ai dùng bạo lực, sẽ không đi cùng Thiên Chúa, và những người bị ngược đãi, chà đạp sẽ được Thiên Chúa bênh vực, che chở. Các anh chị em giáo dân ở Thái hà, ở Sơn La, các chị nữ tu Dòng Thánh Paholô, dòng Nữ Tử Bác Ái, đại diện cho đoàn dân Chúa bị bách hại, đứng vững và hân hoan bởi vì có “Đức Chúa là sự bình an” (Tp.6,24) ở với họ. Ở đây chúng ta phải mở một cái ngoặc thật đậm để ghi chú thêm rằng nếu Thiên Chúa đang ở với họ, thì các thành phần dân Chúa, nhất là các vị lãnh đạo Giáo Hội, không có gì phải ngần ngại khi gióng lên tiếng chuông công lý và hiệp thông với họ. Ngày nào ta còn tin rằng “Đức Chúa là sự bình an” thì ta không phải lo lắng khi đứng về phía những con người đau khổ. Cha Giám Tỉnh DCCT Việt nam đã làm chứng cho Tin Mừng bình an khi ngài vẫn nói và viết: “Cách đây hai ngàn năm, cũng có một “tội nhân” bị xét xử trong tình trạng vô tội, nhưng đã bị kết án và bị giết đi chỉ vì “tội nhân” đó cương quyết bảo vệ sự thật”. Giáo Hội tuyên bố: “Nỗ lực xây dựng hoà bình là một việc không bao giờ được tách rời khỏi việc loan báo Tin Mừng” (mục 492). Do đó, không chọn lựa đứng về phía những người bảo vệ hoà bình là không loan báo Tin Mừng.

Hai khía cạnh khác của hoà bình là công lý và bác ái. Tình yêu quan trọng hơn công lý, nhưng không có công lý thì con người gặp nhiều trở ngại, không thực thi tình yêu được. Giáo Hội hiểu và dạy rằng “Công lý chỉ là loại bỏ những trở ngại đặt ra cho hoà bình”, còn “hoà bình tự chính bản thân là một hành động và là những thành quả chỉ xuất phát từ tình yêu” (mục 494). Như vậy, hoà bình là tình trạng trong đó con người yêu thương và chia sẻ theo gương Đấng đã chết cho tình yêu. Để có tình yêu thật sự, công lý phải làm sứ vụ tiền hô đi mở đường. Muốn có công lý, không thể chấp nhận sự gian trá, sự lừa lọc và những hành vi u u minh minh. Khi con người thực hiện một hành động mà làm cho người khác phải khó chịu, phải bực bội, gây chia rẽ bất hoà thì chắc chắn không có công lý ở đó. Khi con người lên án anh em một cách bất công, khi ham hố lợi lộc mà im hơi lặng tiếng thì không có công lý ở đó. Khi làm đàn két để lặp lại những lời nói tiếng cười vô duyên và hiểm độc thì không có công lý ở đó. Mà đã không có công lý thì làm sao rao giảng tình yêu?

Khi hàng ngàn ngọn nến thắp lên giữa bóng chiều buông xuống và hàng ngàn tiếng hát hoà chung “Mẹ ơi đoái thương”, thì dù tâm hồn con người cứng cỏi đến mấy cũng phải dịu lại và thấy con tim mình rung lên. Tình yêu là ở đó. Ánh nến kia tượng trưng cho công lý. Không có ánh nến, người ta vẫn yêu thương. Nhưng bóng tối làm người ta phải mò mẫm, lạng quạng. Khi ánh nến thắp lên rồi, họ dấn bước mà chẳng sợ bước nhầm. Điều tuyệt vời là khi muôn người thắp lên ngọn nến, thì người ta sẽ nhờ ánh sáng từ ngọn nến của người khác, chứ không phải chỉ ánh nến của mình, mà bước đi. Công lý chính là sự rọi sáng cho nhau. Bạn đã thổn thức và bồi hồi, để lòng rung lên trong một Thánh Lễ thắp nến cầu nguyện cho công lý hoà bình chưa, tuyệt vời lắm, bình an lắm, con người gần gũi với nhau và với Chúa của bình an lắm. Và ngọn nến công lý chính là ngọn lửa thắp lên tình yêu.

Và điều quan trọng hơn cả mà Giáo Hội dạy là một điều thật tuyệt vời: công lý và tình yêu chỉ hiện diện thật sự khi con người hiểu được rằng “hình ảnh Thiên Chúa nơi con người chính là yếu tố định tính và phân biệt con người” (mục 108). Nhờ mầu nhiệm Cứu Chuộc, hình ảnh Thiên Chúa nơi con người được tái tạo, được phục hồi và được làm sáng rõ thêm. Ơn Cứu độ không chỉ đem con người đến sự sống muôn đời mai sau, mà còn là khôi phục hình ảnh Thiên Chúa nơi con người ngay chính ở trần gian này, và đem lại cho con người phẩm giá, tự do và linh thiêng thật sự. Nói cách khác, Chúa ban cho con người một nhân vị, và nhân vị ấy nói lên sự cao quý và siêu việt của con người, nhờ thông phần vào các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Muốn có công lý và tình yêu thì nhân vị này phải được tôn trọng tuyệt đối.

Mừng ngày Hoà Bình chính là mừng nhân vị con người được đề cao. Chỉ khi nhân vị ấy được tôn trọng, con người khám phá ra các chiều kích đặc biệt nơi phẩm giá của mình và do đó, công lý và tình yêu mới phát sinh. Ngày Hoà Bình là ngày Giáo Hội tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Nơi Mẹ, nhân vị được hoàn thiện và nơi Mẹ, công lý và tình yêu được thể hiện rõ nét nhất. Mẹ dạy cho con cái Mẹ hiểu rằng hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh, mà hoà bình chính là mang lấy Chúa Giêsu trong con người và cuộc đời mình. Chỉ khi có Chúa Giêsu, công lý và tình yêu mới hiện diện trong mọi ngõ ngách của cuộc sống con người.

Sàigòn cuối một năm nhiều biến động.
 
Noel trên cao nguyên Mộc châu - chính quyền đã có thiện chí?
Giuse Lương Văn Tuấn
05:48 31/12/2008
Mộc Châu là một cao nguyên cao 1050m, nằm cách Hà Nội 200km về phía Tây Bắc. Cộng đoàn Công Giáo Mộc Châu bao gồm giáo dân Kinh, Mông, Thái thuộc huyện Mộc Châu và các xã phía nam huyện Yên Châu. Đã hơn mười năm Cộng đoàn tổ chức Giáng Sinh tại đây, mãi đến năm 2007 thì mới có Thánh Lễ Giáng Sinh công khai.

Hằng năm, cứ đến mùa Đợi (mùa Vọng) thì chính quyền lại bước vào mùa “rình”, bà con giáo dân lại đến mùa tập văn nghệ. Năm nay trong suốt mùa Đợi không thấy những gương mặt quen thuộc lấp ló tại các địa điểm gần các khu vực có đông người Công giáo. Mặc dù một số trường cấp II vẫn bắt học sinh ký cam kết không tham gia, xem văn nghệ đêm Noel. Một số trường cấp II, cấp III có mấy vị ban giám hiệu thì còn đứng trước cờ tuyên bố “em nào tham gia văn nghệ Noel, nếu bị phát hiện sẽ bị kỷ luật, có thể bị đuổi học”. Ấy thế mà cũng chẳng có em học sinh Công giáo nào bỏ một buổi tập văn nghệ, một tiêt mục văn nghệ nào, mặc dù Chúa Nhật các em phải học tập tư tưởng HCM, và Noel cũng trùng với kỳ thi học kỳ.

Cũng nên thông cảm với các vị đó, vì các thầy nói theo lệnh trên. Trước lễ Giáng sinh, tất cả các thầy cô giáo phải nghe tập huấn về “chống tổ chức Noel”, nhiều thầy cô phản đối “họ chỉ có hát Thánh Ca chứ có làm gì đâu mà cấm”, liền bị vị tuyên huấn cho một bài về bài học cảnh giác trước âm mưu diễn biến hoà bình “cô không biết đấy thôi, bây giờ họ chỉ tổ chức hát thánh ca bình thường thế thôi, sau này mạnh lên họ mới bạo loạn lật đổ chính quyền”. Có thầy giáo chép miệng “Ôi dào, việc kiếm cơm của họ mà, không có 'diễn biến hoà bình' thì lấy việc gì cho các ông ấy làm”. Các thầy, cô giáo, cán bộ và rất đông bà con lương dân trước đây cũng bị những vòng dây trói trong cái hang não trạng có tên là “địch lợi dụng tôn giáo”.

Do sự cố gắng đối thoại của giáo hội và giáo dân trong mọi cơ hội có thể, nên chẳng mấy ai còn tin vào luận điệu đó nữa. Điều đặc biệt cho năm nay nữa là Phó trưởng công an huyện dẫn đầu đoàn thay mặt chính quyền và tổ an ninh đến tặng quà Giáng Sinh cho cộng đoàn, thế là ông già Noel lại có thêm kẹo để phát cho đồng bào dự văn nghệ.

Theo lời dạy của cha xứ Giuse Nguyễn Trung Thoại “Bằng nhiều cách khác nhau, Chúa đã đưa anh chị em lên xứ này để đem Tin Mừng đến cho đất Mộc Châu”. Cộng đoàn Mộc châu luôn coi truyền giáo là sức sống của mình. Thế hệ các ông, các bà, truyền giáo là đi tìm người có Đạo, rủ đến nhà đọc kinh tối, đến với nhau khi vui, khi buồn. Thời đó không có xe, có khi đi bộ cả giờ đồng hồ để đọc kinh chung.

Có lẽ hỏi bất cứ người giáo dân nào từ nhỏ đến lớn ở Mộc châu, mọi người đều có thể kể về ông Giuse Đăng, một người lái xe ôm. Gặp ai ông cũng hỏi, hễ thấy ai biêt có người Công giáo nào thì dù xa mấy ông cũng tìm đến. Ai có việc gì lớn cũng có mặt ông. Ông cũng dành thời giờ và vốn giáo lý ít ỏi của mình để dạy giáo lý cho các cháu. Khi có cha nào đến thì ông đến từng nhà báo người ta đi lễ. Ông cũng lặn lội đêm hôm đi xuyên rừng, vượt núi, để đến với người Mông, nhưng tình hình khó khăn quá ông đành bỏ dở. Ông đã ra đi về nhà Chúa cách đây 4 năm, tuy không được có một Thánh lễ an táng, nhưng ông đã tìm cho cộng đoàn một danh sách dài các giáo dân ở mọi vùng của Mộc Châu.

Thế hệ các chú, các cô của cộng đoàn là những người đã xây dựng được nếp sống cộng đoàn cơ bản như ngày nay. Các chú cô đã thành lập được các tổ có các sinh hoạt chung hàng tuần, đã tổ chức được buổi đọc kinh chung của cả cộng đoàn sáng Chúa Nhật, tăng cường đoàn kết và đấu tranh để có được Thánh Lễ. Các chú, các cô thực sự là những người đầu sóng, ngọn gió, không chỉ lo cho cộng đoàn mà còn hỗ trợ các cộng đoàn khác của Sơn La trong tình liên đới anh em.

Với giới trẻ, hè năm 2005, cha xứ cho thành lập nhóm “những người trẻ sống Tin Mừng”, ý thức được sứ mệnh của nhóm là truyền giáo và thánh hoá, thánh hoá để truyền giáo, và truyền giáo để thánh hoá, các bạn đã đưa rất nhiều các bạn trẻ, người thân trong gia đình, họ tộc đến sinh hoạt với cộng đoàn, và bước đầu đã tiến hành truyền giáo cho người lương dân và dân tộc thiểu số. Các sinh hoạt đều đặn của các bạn tạo nên một đặc điểm rất riêng cho giới trẻ công giáo Mộc châu.

Ý thức rằng Giáng Sinh là dịp duy nhất có thể đưa Đạo ra công chúng, là dịp duy nhất đưa sinh hoạt của cộng đoàn từ “tầng hầm” lên đường quốc lộ, nên hết thảy mọi người đều cố gắng hết sức để xây dựng buổi văn nghệ Noel trong khả năng của mình, các giới đều cố gắng đóng góp phần mình.

Các bạn trẻ đem lại sự vui nhộn và gây ấn tượng về giới trẻ Công giáo với vở kịch Diễn nguyện Giáng sinh, nối sự kiện nguyên tổ phạm tội đến biến cố Giáng Sinh, các tiết mục múa Xoè hoa- dân tộc Thái, múa Noel về, Nổi lửa lên, Hân hoan chào mừng Noel, Tuổi thanh xuân, đơn ca Thu Huệ với bài Mùa đông năm ấy, Dũng – Xuân song ca bài Lời Thiêng.

Các em thiếu nhi vừa đóng kịch, vừa múa các bài Cánh Thiệp Noel, Xin Vâng, đơn ca Minh Út với bài Lễ hiển linh, song ca Quỳnh- Lệ hát bài Jinge bell. Gây bất ngờ nhất có lẽ là tiếng mục múa nón Lời thì thầm dâng Chúa, múa phụ hoạ bài Lòng mẹ cho cô Thu Mơ của ca đoàn hiền mẫu.

Giới gia trưởng phải lo rất nhiều công việc tổ chức nên chỉ có sự đóng góp của chú Vũ Trang với bài Cao cung lên. Đặc biệt có sự tham gia của hai bạn trẻ từ vùng biên giới xa xôi với hai tiết mục Yên Châu quê em và Hai mùa Noel. Buổi văn nghệ diễn ra với sự bảo vệ của rất nhiều công an mặc thường phục, rất đông bà con lương giáo. Cuối buổi có một đoàn thay mặt chính quyền đến chúc mừng sự thành công của buổi diễn.

Có một điều rất lạ là năm nay bất cứ người Kinh nào nói đi xem Noel thì công an đều không kiểm tra giấy tờ và cho đi ngay. Còn người Mông thì dù rất nhiều người biết nhưng không thấy ai có mặt, hỏi ra mới biết có mấy anh đi bộ 50km ra lễ nhưng dù đã nguỵ trang “rất Kinh” rồi cũng không dám ở lại vì các anh sợ cán bộ biết mình theo Đạo sẽ phạt. Có anh đã bị phạt 1.7 triệu đồng vì ba lần nghỉ không đi làm ngày Chúa Nhật trong khi không có cơm phải ăn mèn mén (cháo ngô), thế là các anh đành lên nương để làm “cầu nguyện”.

Có một số anh ở gần hơn thì kể “Hôm qua mình lần đầu tiên được công an xã tha phạt giao thông, chúng mình đi xem Noel, công an chặn đường nói nếu về thì cho về, còn nếu đi tiếp thì phạt 350 ngàn mỗi người và giữ xe vài ngày, mình thấy tết rồi cần xe lắm nên không dám đi nữa”. Các anh kể “mình đã mặc quần áo Kinh rồi, giao thông không nhận ra đâu, nhưng công an xã biết chúng mình hết mà”.

Có người thì phải tới ngày 26, đúng vào 30 tết của người Mông mới ra, họ nói đi lúc này người ta nghĩ mình đi ăn tết, chị nói “năm nay bản tao lợn, gà bị dịch chết hết, cá thì lụt trôi hết, chỉ có bánh dày và nếp nương mang ra cho chúng mày ăn lễ, nhưng mà đường xa quá, sức yếu không mang được nhiều, tao mang ra ít tiền đóng góp lễ”. Họ ở lại vài ngày để xem hang đá rồi về ăn tết muộn.

Có nhiều người đặt vấn đề về việc các cha toà giám mục Hưng Hoá chỉ mới tới được 3 cộng đoàn lớn là Mộc châu, Mai Sơn và Tp Sơn La. Thánh lễ Giáng sinh chỉ mới có ở Mộc châu năm 2007 và năm nay thêm Mai Sơn. Ngoài lý do nhân sự, phải chăng các ngài quá lo lắng cho các cộng đoàn đang hoạt động tạm thời ổn định mà tạm gác các cộng đoàn kia lại. Có lẽ trước đây không có gì để mất thì không sợ, còn bây giờ họ lờ đi và cho lễ ở Mai sơn và Mộc châu để có cái mà sợ mất.

Có người đặt vấn đề thế thì các ngài nghĩ gì về bài dụ ngôn “Con chiên bị lạc”, Chúa không bỏ cả 99 con để tìm một con sao. Với Cha Giuse Thoại, cha nói rằng:

- “Tôi mong muốn đến tất cả mọi ngõ ngách của Sơn La, dù ở đó chỉ có 1 giáo dân, không kể Kinh, Thái, Mường hay Mông…“

Noel năm nay ngài rất muốn lên Tp Sơn La, dù chỉ là được nhìn thấy gương mặt đàn chiên của mình, thậm chí kể cả khi người ta nói sẽ bắt cha ra phường, ngài nói dù có phải ngủ ở phường cũng là để cho các con mình biết mình không bỏ chúng. Tuy nhiên giáo dân lại cứ lo quá cho cha, họ muốn cha quay về, còn cha cũng không muốn chất thêm các gánh nặng chồng lên vai họ, vì họ đang gánh quá nặng rồi.

Cha cũng nói rằng quan điểm của các vị lãnh đạo giáo hội là “yếu, đừng ra gió”, sợ rằng nếu mình vội vàng sẽ làm cho chính quyền dồn sức vào tấn công thì khi cộng đoàn mới xây dựng có thể sẽ bị tan tác. Kinh nghiệm cho thấy có nhiều giáo dân lúc đầu rất hăng say, nhưng khi bị chính quyền bao vây mọi mặt thì lại chùn bước, trong đó có cả người của ban đại diện cộng đoàn. Đêm ngày 25, công an Hoà bình gọi điện cho ngài hỏi

- “Ông đang ở đâu“

Ngài nói

- “Tôi đang ở thành phố Sơn La- công an vây kín các nhà giáo dân nên tôi không thể vào nổi nhà ai được, tôi đang cho xe chạy trên đường”

Thế là vị công an nói:

- “Họ không để cha vào đâu, thôi cha về nghỉ đi”.

Nhưng để có một cộng đoàn vững mạnh cũng rất cần sự nâng đỡ của giáo hội. Ở Mộc Châu khi chưa có cha Thoại lên thì có rất nhiều cha cả trong Nam, ngoài bắc có con chiên sống ở đây nên các ngài đã lên để thăm và làm mục vụ cho cộng đoàn. Phải kể đến các cha DCCT, khi các ngài còn là thầy, đến khi đã thụ phong linh mục các ngài luôn đồng hành trong mọi bước tiến của các cộng đoàn ở Sơn La, chỉ nghe láng máng ở đâu có người công giáo, dù khó khăn thế nào cũng có mặt các cha, các ngài kín đáo, thầm lặng và luôn bị săn đuổi.

Noel năm nay có rất nhiều cha ở miền Bắc, đã bỏ lại đàn chiên hàng ngàn người để lên Sơn La rình một cơ hội dâng lễ. Khổ nỗi chính quyền họ cũng theo dõi liên tỉnh nên dù còn một cha nào đi vắng chưa về thì họ cũng chưa buông tha bao vây nhà giáo dân. Có cha phải nhờ người trong gia đình “đóng thế” để ở lại dâng lễ vội vàng cho chỉ một gia đình. Các cha đều phải ăn ngủ giữa đường. Có cha về Mộc Châu nói

- “Mình bị săn suốt ngày đêm, không có chỗ dâng lễ, về đây cử hành thánh lễ đã rồi tính sau”.

Có anh bảo

- “Cha ơi ở đây ngủ đã, hôm nay chính quyền không để ý đâu”

Vừa nói xong bước lên trên đã thấy “mấy chú” lấp ló trên đường. Thế là ngài lại phải lên đường trong sương mù mịt và lạnh cóng.
 
Không thể đặt niềm tin vào cộng sản!
Hoa Lan
14:05 31/12/2008
Đất nước này, dân tộc này là một trong số ít những nơi, những dân tộc đang chịu đựng sự thống trị của chủ nghĩa cộng sản. Một chủ nghĩa dựa trên nền tảng của một học thuyết cực kỳ giả dối tàn bạo.

Chủ nghĩa cộng sản đã làm băng hoại cả một dân tộc vốn cần cù, thông minh, đầy nhiệt huyết và lương thiện. Ngày nay, không quá cực đoan khi nói rằng, đất nước Việt Nam đang. ..ngập chìm trong cuộc sống đầy giả dối, người ta buộc phải sống rất giả tạo và bạc nhược.

Cái học thuyết ma quái nguy hiểm của chủ nghĩa cộng sản là thủ phạm chính gây nên hậu quả này. Cái học thuyết khiến họ đánh lừa cả một dân tộc để cưỡng chiếm quyền lực và gây ra bao hậu quả nặng nề.

Chúng ta đã và đang chứng kiến sự bội ước liên tục của nhà cầm quyền cộng sản đó thôi. Sự bội ước trải dài trên bình diện quốc tế thông qua các hiệp định, hiệp ước cho đến các cam kết mang tầm vóc quốc gia. Sự bội ước đối với dân chúng thì đã trở thành căn bệnh nan y của giới cầm quyền với tình trạng nói một đường, làm một nẻo. Chuyện làm láo, báo cáo hay, nói phét, nói dóc khiến cho những cơ quan bù nhìn như quốc hội Việt Nam cũng phải ngao ngán.

Sinh ra và lớn lên gần như trong toàn bộ chế độ cộng sản, tôi thấu hiểu rằng, sự thật công lý và niềm tin là những thứ gì đó xa xỉ và không cần thiết trong chế độ này. Kỹ năng tối cần thiết để có thể tiến thân, leo cao trong xã hội chính là thủ đoạn. Thiếu nó, con người ta sẽ trở nên ngờ ngệch và bơ vơ!

Dù đã trãi nghiệm, đã từng va chạm thực tế, những người đấu tranh cho công lý và sự thật vẫn có lúc rơi vào tình trạng đặt niềm tin vào nhà cầm quyền cộng sản. Một nhà cầm quyền không bao giờ muốn giải quyết vấn đề bằng công lý, niềm tin hay sự thật nếu cách giải quyết đó có kết cuộc không như chủ ý của họ. Bản chất của người cộng sản là muốn tiêu diệt và chiếm đoạt bằng thủ đoạn, sức mạnh để bảo đảm quyền sở hữu vật chất và duy trì quyền lực thống trị của họ một cách tuyệt đối.

Do đó, trong những cuộc đấu tranh đòi hỏi công lý và sự thật hôm nay, chúng ta luôn xác lập niềm tin cho bản thân rằng, không thể đặt niềm tin vào nhà cầm quyền cộng sản! Bởi lẻ đơn giản, nếu giữ uy tín thì cộng sản sẽ không còn là cộng sản.

Thời gian qua, những vụ đấu tranh đòi công lý và sự thật của cả đạo lẫn đời càng cho thấy việc xác tín này là đương nhiên. Từ Toà Khâm Sứ, sang Thái Hà, vào An Bằng, đến dòng Nữ Tu Bác Ái Vinh Sơn về Vĩnh Long... mọi hứa hẹn của nhà cầm quyền đều dẫn đến một kết cục duy nhất là LỪA ĐẢO! Tầng lớp nông dân nghèo bị cướp đất cũng chẳng có kết cục khác hơn. Sau những lần lên xe về quê bởi những hứa hẹn của giới cầm quyền, họ lại lục tục kéo nhau trở lại nơi khiếu kiện trước đó. Thật đáng thương!

Cuộc đấu tranh nào cũng có những giai đoạn, những tình huống, lúc mạnh lúc yếu và được điều tiết một cách có chủ đích. Nhưng bất kỳ một sự thỏa hiệp, một niềm tin đặt vào thiện chí của nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay với bất kỳ lý do nào, đều là những quyết định thiếu cân nhắc và đặt những người tham gia vào vòng nguy hiểm.

Niềm tin, lòng bác ái là những điều tốt đẹp và cần thiết trong cuộc sống. Nhưng nó không dành ban tặng một cách bừa bãi cho những kẻ bại hoại và phi đạo đức. Sự tỉnh táo, cương quyết và quyết đoán là những tiền đề cần thiết cho công cuộc đấu tranh này.
 
Tin Đáng Chú Ý
Việt Nam se phải nhập cảng cô dâu?!
Anmai, CSsR
05:15 31/12/2008
Trong tương lai gần, Việt nam phải nhập khẩu cô dâu !!! Đó là kết luận sau mục thời sự về tình hình dân số hiện nay của Việt Nam.

Chương trình thời sự tối ngày 26 tháng 12 năm 2008 trên màn ảnh nhỏ cho biết rằng tỷ lệ tăng dân số của Việt Nam đang ở tình trạng báo động, tình trạng tăng đột biến so với những năm khác. Bên cạnh cái tỷ lệ tăng đột biến đó còn có một nỗi lo đó là tỷ lệ giữa trẻ sơ sinh nam và nữ. Chẳng hiểu người ta nhìn nhận vấn đề thế nào để rồi ngày hôm nay người Việt nam nói riêng đã chọn cho mình là con trai chứ không phải là con gái. Chẳng hiểu tại sao ngày nay người ta thích con trai hơn con gái, vì có người lý luận rằng có con gái thì gia đình phải lo lắng, phải vất vả hơn khi có con trai. Cái lý luận vô cùng lệch lạc này đáng tiếc là đang lan nhanh trong xã hội.

Từ suy nghĩ, từ quan niệm như vậy người ta sẽ loại bỏ từ trong trứng nước những trẻ con là gái. Vì chọn là trai nên các bậc làm cha làm mẹ trẻ ngày hôm nay bỗng dưng trở thành những kẻ sát nhân không gớm tay.

Nhớ lại thời xa xưa, tuy nghèo, tuy còn thiếu thốn đủ thứ đủ chuyện nhưng nào có chuyện phá thai như bây giờ. Ngày xưa, bà mẹ cứ mang thai và vui vẻ hân hoan đón mừng đứa trẻ trong bụng mình chào đời bất luận gái trai. Ngày hôm nay khoa học phát triển hơn ngày xưa, lẽ ra họ tận dụng việc phát triển ấy để chăm sóc cho thai nhi, cho bà mẹ được tốt nào ngờ họ dựa vào sự phát triển ấy để huy hoại mầm sống của con người. Ngày nay, xã hội phải đương đầu với biết bao nhiêu đau đớn do việc phá thai gây nên. Nào là bể kế hoạch, nào là không đủ khả năng kinh tế, nào là có con ngoài ý muốn nay lại thêm chuyện phá thai do có con “không theo ý muốn” của cha mẹ nữa ! Qúa nhẫn tâm khi chối bỏ những sinh linh bé bỏng vô tội.

Nói gì thì nói, vệt nước mắt lăn tròn trên gò má của những người con gái nghèo ở các vùng quê trên mọi miền đất nước vẫn còn đó do việc lấy chồng ngoại. Lấy chồng ngoại nói thẳng ra đa phần do lý do kinh tế chứ mấy ai có được tình yêu. Ngay như đồng ngôn ngữ, đồng văn hoá mà còn không biết bao nhiêu đôi đổ vỡ, bao nhiêu đôi chia xa. Những vùng quê nghèo vẫn còn đó tiếng kêu ai oán của những cô dâu bị những người chồng là Hàn, Trung … ngược đãi. Hiếm hoi lắm được vài gia đình khá hơn một chút khi gia đình có con lấy chồng ngoại, còn phần lớn chỉ là đau thương tổn thất.

Nếu theo tình hình dự báo ngày hôm nay mà không giáo dục một ý thức hệ quân bình thì chỉ ít lâu nữa thôi Việt nam phải dối diện với một khó khăn vô cùng to lớn. Đất nước chậm phát triển, đất nước nghèo làm sao mà có đủ tiền để “nhập khẩu cô dâu” ? Chẳng lẽ lại nhập khẩu từ Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonêsia, Hàn Quốc … ? Làm gì có tiền “nhập khẩu cô dâu” khi nền kinh tế của những nước đó ngày càng phát triển. Những cô dâu nước ngoài có đời sống kinh tế ổn định và phát triển thì họ chẳng dại gì về làm dâu ở một đất nước mà tỷ lệ lạm phát cũng như tham nhũng leo thang đến chóng mặt.

Một nghiên cứu gần đây thôi, 100 năm nữa không biết Việt nam có theo kịp anh chàng Indônêsia hay không ? Cứ thực lòng, nhìn vào tận đáy lương tâm xem Việt nam phát triển được bao nhiêu ? Có chăng chỉ là những cái vỏ bọc tô son trát phấn bên ngoài thôi còn bên dưới thì quá nhiều người lâm vào cảnh nghèo khổ túng cực. Tình hình kinh tế của đất nước sẽ trả lời một cách hết sức trung thực vào năm 2009 cũng như những năm tới.

Mới nhìn đến khía cạnh kinh tế thôi ta đã thấy có biết bao nhiêu bất cập, bao nhiêu hậu quả. Bên cạnh đó còn có yếu tố ngôn ngữ, văn hoá. Vợ chồng lấy nhau nhưng bất đồng ngôn ngữ, bất đồng văn hoá thì khó có thể tìm được tiếng nói chung chứ đừng mong gì hạnh phúc.

Đó là những khía cạnh nổi thôi, còn bên dưới chuyện phá thai do “không theo ý muốn” nó làm băng hoại nền luân thường đạo lý của con người. Những bé gái nói chung có mang tội gì đâu mà bị cha mẹ chúng giết chết trước khi chúng mở mắt chào đời ?

Ông bà ta vẫn thường nói “nghèo cho sạch – rách cho thơm”, Việt nam vốn đã nghèo mà chẳng còn thơm nữa. Vì lẽ đi đâu ta cũng thấy người ta ủng hộ cho việc phá thai, nay lại còn phá nhiều hơn khi có những đứa trẻ chuẩn bị chào đời nhưng không theo ý muốn của cha mẹ. Lẽ ra nghèo nhưng còn giữ được cái luân thường đạo lý, đàng này nghèo mà coi luân thường đạo lý chẳng ra làm sao hết thì ăn làm sao nói làm sao với Ông Trời !
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Bến Đậu
Lê Trị
06:16 31/12/2008

BẾN ĐẬU



Ảnh của Lê Trị

Ngược xuôi nay rạch, mai sông

Trở về bến đậu, thong dong an nhàn..

(Lê Trị)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền