Ngày 26-12-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Gia đình thánh
Lm Vũđình Tường
00:12 26/12/2009
Thiên Chúa tạo lập gia đình thánh gia trên trần gian, gồm có Thánh Giuse, Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu. Mục đồng là người đầu tiên, may mắn, nhận ra gia đình thánh, nhờ lời loan báo của các Thiên Thần.

Tai nghe tiếng hát của ca đoàn thiên thần vang rền không gian chào đón Chúa Cứu Thế giáng trần. Vì vất vả mà nhiều Kitô hữu ngày nay không còn giờ cho Chúa. Đời sống khó nghèo, vất vả, ngày đêm phấn đấu với thiên nhiên, không ngăn cản mục đồng nhận ra gia đình thánh. Họ may mắn nhận ra Ấu Chúa không phải vì họ nghèo, hèn, mà chính là do sống chân thành.

Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

Thiện tâm

Nhờ thiện tâm mà các mục đồng nhận ra lời loan báo, tiếng ca, của các Thiên Thần.

Nhờ thiện tâm mà họ đón nhận kẻ lỡ độ đường lại chính là gia đình thánh. Họ đón nhận với tất cả những gì họ có.

Gia đình thánh

Đây là gia đình thánh vì

Mọi thành phần trong gia đình không sống chiều theo ý riêng, nhưng sống thực hiện ý Chúa. Mỗi ngày ý Chúa một rõ trong cuộc sống. Đức Kitô nói: cha mẹ không biết là con còn phải làm bổn phận của Cha con sao?

Mọi thành viên ước ao sống nên thánh. Chọn con đường lên thánh cho riêng mình. Không ai tự cao, tự mãn, dựa vào tài trí, khôn ngoan cá nhân, mà cậy trông ơn Chúa để dâng lời cảm tạ. Bao lần Chúa Kitô xác nhận điều này trước đám đông. Con cảm tạ Cha vì Cha hằng nghe lời Con.

Gia đình thánh sống chung với những người đón nhận mình. Lạnh cùng chịu, ấm cùng hưởng, đói cùng run, no chung hưởng, thức giấc khi bò lừa rời chuồng gặm cỏ, trở lại lều tranh khi xế chiều, nắng nhạt.

Gia đình thánh sống nơi trần gian như mẫu mực nên thánh. Trở nên thánh thiện hơn trong cuộc sống hàng ngày. Rồi theo đúng kì hạn Thiên Chúa đưa gia đình thánh gia về trời, từng thành viên một. Bắt đầu là thánh Giuse, sau đó là Đức Kitô và cuối cùng là thánh mẫu Maria.

Gia đình Kitô hữu cũng được mô phỏng theo cách nên thánh từ Thánh Gia Thất. Sống trong ơn nghĩa Chúa trước khi trở về diện kiến Thiên Chúa. Nay an táng cha; mai vĩnh biệt mẹ; lần lượt đến các người thân yêu và cuối cùng chính mình cũng ra đi trở về cùng Thiên Chúa. Ngày đoàn tụ của các Kitô hữu mỗi ngày một rõ, một gần kề.

Có hai gương giáo dục nơi gia đình thánh. Một là vâng phục cha mẹ trần gian. Hai là vâng ý Cha trên trời. Gia đình và đền thờ là học đường giáo dục tốt. Cả hai đều cần thiết, hỗ trợ nhau giúp con người sống thánh thiện. Khuynh hướng ngày nay coi trọng giáo dục gia đình xã hội hơn đền thờ. Coi trọng bằng cấp hơn các nhân đức vì thế xã hội càng gặp nhiều khó khăn, nhiều tâm hồn chai đá, đối xử với nhau trọng lí trí, nhẹ tình người. Điều này xảy ra vì cách giáo dục lệch lạc, thiếu cân bằng giữa giáo dục đền thờ và giáo dục gia đình, xã hội.

Mừng kính lễ Thánh Gia Thất chúng ta xin Chúa ban thêm niềm tin, ân sủng giúp chúng ta trung thành với ơn gọi nên thánh, trở nên tốt hơn và làm chứng nhân trung thành trong nước Chúa.
 
Hôn nhân - Bí tích ơn cứu độ
Louis Nguyễn Anh Tuấn
08:27 26/12/2009
TÌNH YÊU HÔN NHÂN DƯỚI CÁI NHÌN NHÂN HỌC KITÔ GIÁO

Ngày 19/12/2009 buổi học tuần thứ sáu, các học viên được cha Louis Nguyễn Anh Tuấn chia sẻ về đề tài:

Bài 6) HÔN NHÂN – BÍ TÍCH ƠN CỨU ĐỘ.

A) TÍNH BÍ TÍCH VÀ BÍ TÍCH.

Bí tích là dấu chỉ khả giác để diễn tả một thực tại vô hình ngang qua dấu chỉ hữu hình mà ta có thể chạm tới được. Bí tích còn là một dấu chỉ hữu hiệu, một dấu chỉ có hiệu năng, hiệu quả mời gọi con người tham dự vào sự sống thần linh, sự sống đời đời của Thiên Chúa, sự sống đó không tách lìa sự sống trần gian.

Hôn nhân là một cuộc hành trình dài đối với từng đôi vợ chồng để thể hiện tính bí tích của họ. Hôn nhân Kitô giáo là một bí tích vì tuy lưu ý tới thế tục nhưng trong đó có sự ẩn hiện của thần linh, là dấu chỉ của ơn cứu độ, là phản ánh chính tình yêu và bản thân của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Đức Giêsu Kitô là bí tích đầu tiên, Ngài là bí tích của Thiên Chúa Cha “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14, 9), vì thế chạm tới được Đức Kitô là chạm tới Chúa Cha, chạm tới ơn cứu độ của Thiên Chúa. Tin vào Đức Kitô là tin Ngài là trung gian giữa thế giới vô hình và hữu hình, và niềm hạnh phúc của ta những kẻ tin Ngài là có Đấng Emmanuel đang ở giữa chúng ta, ở ngay trong chúng ta. Khi người Kitô hữu tham dự vào Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh thể là tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Phục Sinh “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Thiên Chúa luôn hiện diện và ở giữa những cộng đoàn nhân danh Ngài mà quy tụ lại, đó chính là Hội Thánh, là những chi thể được hội tụ lại trong cùng một thân thể, mà Hội Thánh là nhiệm thể, là bí tích của Đức Kitô. Bí tích nối kết giữa thiêng và tục, giữa phàm nhân và Thiên Chúa, là dấu chỉ hữu hình mầu nhiệm về ơn cứu độ của Thiên Chúa. Niềm vui của chúng ta là Chúa Kitô phục sinh luôn hiện diện và cùng đồng hành với chúng ta.

Như thế, mỗi đôi vợ chồng, xét như đích thực là lứa đôi, là dấu chỉ, là bí tích của tình yêu Thiên Chúa. Mỗi đôi bạn có khả năng luôn tiến bước trên con đường hướng tới tình yêu hoàn hảo, là hình ảnh năng động và sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi hiệp thông trong tình yêu.

Bí tích hôn nhân Kitô giáo chỉ có nghĩa trong Đức Kitô và trong Giáo hội, vốn được thực hiện ra trong một thực tại lịch sử cụ thể rõ ràng. Công đồng Vatican II (Hiến chế Gaudium et Spes, s. 48) có nói: “Tình yêu vợ chồng đích thực được kết nhập trong tình yêu Thiên Chúa, được nâng đỡ và thêm phong phú nhờ quyền năng cứu chuộc của Chúa Kitô và hoạt động cứu độ của giáo hội”. Và trong tông huấn Familiaris Consortio, 18, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đề cập đến: “Sự hiệp thông vợ chồng là hoa trái và là dấu chỉ của một đòi hỏi có tính nhân bản sâu sa. Nhưng trong Chúa Kitô, Thiên Chúa đòi hỏi lấy nhân bản này. Ngài củng cố, thanh luyện và nâng cao đòi hỏi đó bằng cách đưa nó đến kiện toàn với bí tích hôn phối”.

Như thế, hôn nhân Kitô giáo là hôn nhân của những người tin làm nên bí tích.

B) HÔN NHÂN QUA DÒNG LỊCH SỬ

Đức Giêsu đã khẳng định: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly” (Mt 19, 6) khi có vài người Pharisiêu đến hỏi thử Người về việc bất khả phân ly của hôn nhân. Nhưng ngày nay, trong cái nhìn tiêu cực về pháp lý, người ta đã coi hôn nhân là sợi dây ràng buộc, sợi dây oan nghiệt và đã làm nhạt nhòa đi dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa và lên án giáo hội là khắt khe, không cho phép ly dị khi mà hai người không thể sống chung. Nếu ta chỉ tìm những lý lẽ của thế giới phàm tục thì không bao giờ ta hiểu được câu nói của Đức Giêsu trong Mt 19, 6.

Đức Giêsu đã đưa ra lập trường của Thiên Chúa từ thưở ban đầu khi tạo dựng nên con người có nam, có nữ và tình yêu nam nữ là dấu chỉ hữu hình về một tình yêu hiệp thông của cộng đoàn Ba Ngôi Thiên Chúa.

Dẫu biết rằng khoảng cách tình yêu vợ chồng và Tình yêu Thiên Chúa là một khoảng cách xa diệu vợi, là một hố sâu. Ấy thế mà Thiên Chúa đã quyết định và đã chọn tình yêu nam nữ trong hôn nhân phản chiếu Tình yêu Thiên Chúa.

Trong các thế kỷ đầu tiên các Kitô hữu kết hôn với nhau giống như những người khác trong xã hội của họ, mà không đi đến nhà thờ. Từ thế kỷ thứ IV – V trở đi, ý nghĩa hôn nhân Kitô giáo bắt đầu một quá trình thay đổi, chậm rãi mà phức tạp, trên bình diện văn hóa, thần học, nghi lễ, pháp lý, làm thay đổi cái nhìn lúc ban đầu và đạt tới đỉnh điểm ở công đồng Trentô ( 1545 – 1563), sắc lệnh Tamétsi tuyên bố: “Từ nay mọi Kitô hữu kết hôn với nhau phải được cử hành trước mặt người đại diện giáo hội, kèm theo những quy định và ràng buộc, không bị cản trở theo luật hôn nhân. Và những cuộc hôn nhân trước đây của các Kitô hữu, mọi sự trao đổi ưng thuận vợ chồng của những người đã chịu phép rửa đều được thực hiện trong Đức Kitô, vẫn thành sự”.

Công đông Trentô hệ thống hóa các giáo thuyết đã triển khai ở các thế kỷ trước đó nhưng xác nhận sự đồng nhất giữa bí tích và khế ước. Với sắc lệnh Tamétsi công đồng qui định hình thức giáo luật bắt buộc phải có để cử hành thành sự một cuộc hôn nhân giữa những người tín hữu và đã khẳng định thẩm quyền duy nhất của Giáo hội trên thể chất hôn nhân.

Một vấn nạn được đặt ra. Vậy khi nào thì hôn nhân trở thành bí tích? Bí tích có ý nghĩa gì? Khi công đồng Trentô xác định những cuộc hôn nhân trước đây vẫn là bí tích và từ nay thì lại buộc các Kitô hữu kết hôn phải cử hành trong Chúa, trong luật giáo hội thì mới thành sự. Giáo hội có quyền hay không khi xác định như thế?

Thế là, bắt đầu nảy sinh một vấn đề mới cho thời gian sau đó làm cho tương quan giữa giáo luật và các hệ thống dân luật trở nên khó khăn hơn.

Suy tư thần học, giáo thuyết và mục vụ một cách vô tình khép chân trời của hôn nhân vào những góc nhìn hạn hẹp. Người ta chỉ chú ý đến các mặt xã hội, thể chế, pháp lý của hôn nhân Kitô giáo, và coi chúng là thực tại quan trọng nhất, coi hôn nhân có thể giản lược vào sự cử hành trước mặt vị cha xứ, như thể bậc sống hôn nhân gia đình có thể rút gọn lại chỉ còn như thực thi một hợp đồng. Bí tích thành sự đâu phải chỉ là lúc hai người công bố trong nhà thờ, lúc đó mới chỉ là bắt đầu, còn cả một quá trình dài trong suốt cuộc đời, khi họ nỗ lực yêu thương nhau, hiệp thông với nhau trong đời sống hằng ngày.

Như thế, chúng ta phải đối mặt với một nền thần học về hôn nhân chỉ dừng lại ở triển khai ưu tiên các phạm trù pháp lý và luân lý (tính khế ước, bất khả phân ly, quyền và nghĩa vụ...v..v...) hơn là thánh kinh (giao ước, tình yêu, dâng hiến, mầu nhiệm Vượt Qua, niềm vui). Chúng ta đang đứng trước một Giáo hội chỉ chú ý đến kiểm soát định chế hôn nhân hơn là sự sống động của hôn nhân trong đức tin, chú ý đến tương quan giữa bí tích và xã hội dân sự hơn là tương quan giữa bí tích và cộng đoàn giáo hội.

Công đồng Vatican II (1962 – số 48 – 52) đã phục hồi lại toàn bộ sự phong phú của bí tích, làm tái sinh lại hôn nhân Kitô giáo về mặt thần học, có một sự thay đổi rất lớn trong viễn tượng về lãnh vực hôn nhân. Bí tích được gỡ thoát khỏi vũng lầy do một não trạng nào đó khinh thị đời sống hôn nhân chỉ quá chú tâm đến nghi lễ. Công đồng đã dựa trên thánh truyền và mặc khải của Chúa Giêsu Kitô, nhận thấy quan hệ vợ chồng cốt lõi chính là tình yêu, chính yếu tố tình yêu nâng đỡ đôi bạn trong quá trình sống chung một cách thân mật, cộng đoàn hôn nhân là cộng đoàn sự sống và tình yêu và công đồng lưu tâm tới tình yêu vợ chồng là bí tích hiệp thông của đời sống hơn là thứ bí tích khế ước và nghi thức.

Trong chiều kích dấu chỉ, bí tích hôn phối là sự hiệp thông tình yêu giữa hai người phối ngẫu, dấu chỉ và những hành động của bí tích hôn phối không gì khác hơn là tình yêu nối kết đôi bạn lại với nhau, dấu chỉ đó chính là sự hiệp thông tình yêu và sự sống của đôi vợ chồng vốn là một thực tại nhân loại, nơi đó Đấng Tạo Hóa luôn hiện diện và hành động cách mầu nhiệm để đưa tình yêu vợ chồng đến mức viên mãn của nó.

Trong chiều kích mầu nhiệm, bí tích hôn phối là sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô, Người bước vào lịch sử của đôi bạn để biến đổi tình yêu của họ nên giống tình yêu của Người. Qua Đức Kitô và nhờ Đức Kitô tình yêu vợ chồng phản ánh Tình yêu Thiên Chúa.

C) BÍ TÍCH HÔN NHÂN – KINH NGHIỆM GẶP GỠ CHÚA.

Ta không thể cảm nghiệm được Tình yêu Thiên Chúa nếu Thiên Chúa không bày tỏ tình yêu của Ngài ra cho ta. Nếu Thiên Chúa không nhập thể, không từ bỏ địa vị để xuống thế làm người thì ta đâu có thể chạm được đến Người. Thiên Chúa làm người, đây là một sáng kiến tuyệt diệu của Thiên Chúa, Người còn cho ta thấy được những thực tại mà ta cảm nghiệm được qua các bí tích. Bí tích phải hiểu theo nghĩa mầu nhiệm chứ không hiểu theo nghĩa pháp lý. Thiên Chúa tiếp tục hiện diện nơi đời sống của đôi bạn, ta cảm nghiệm được Tình Yêu Thiên Chúa qua tình yêu nhân loại, nơi tình cha, tình mẹ, tình yêu vợ chồng.

Qua tình yêu cha mẹ, đứa trẻ nhận ra tình yêu Thiên Chúa, con người trở thành tạo hóa qua việc cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh sản và giáo dục. Sự sống được triển nở mãi mãi trong thời gian, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cho nên ta không có quyền tước bỏ quyền được sống, quyền được yêu thương của đứa trẻ.

Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, ta càng chạm sâu vào cái Vô thường là ta được chạm đến Đấng Thường Hằng, đến cái vô biên nơi Thiên Chúa, ta đừng tránh né những thực tại thường ngày, những đau khổ xảy đến trong đời, ta càng phải chạm thật sâu vào chính cái đau khổ đó để nhận ra Tình yêu và Thánh ý của Thiên Chúa.

Vì Thiên Chúa yêu ta, quyết định yêu thương ta đến cùng và mời gọi ta diễn tả tình yêu của Người trong thực tại. Ta phải lo liệu sao vẫn luôn ở lại trong tình yêu cho dù những bất ổn vẫn tồn tại, ngay giữa chính những thực tại đang thay đổi ta nhận ra Thiên Chúa. Đặc biệt trong tình yêu vợ chồng chính những đau khổ là cơ hội để ta chạm được Tình yêu Thiên Chúa, phản ánh tình yêu phong nhiêu của Thiên Chúa. Như thế, sự phong phú của tình yêu vẫn tuôn chảy như một dòng chảy không ngơi.

Như thế, toàn thể đời sống vợ chồng có thể trở thành một “cảnh vực thần học”, nghĩa là một nơi đặc biệt cho sự biểu lộ và gặp gỡ Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa đồng hành với chúng ta, cả khi ta kinh nghiệm những tiêu cực trong cuộc sống như khi gặp đau khổ, bất lực, giới hạn và tội lỗi

Nếu ta còn chạy đua để tìm các giá trị mau qua như tiền tài, sắc dục, quyền thế, nếu ta còn tục hóa hành vi vợ chồng, biến bạn đời thành một nhu cầu thỏa mãn nhục dục thì ta không thể nào nhận ra trong đời sống vợ chồng có sự hiện diện của Thiên Chúa.

Trong đời sống của kiếp người ai cũng có kinh nghiệm về thập giá. Thập giá còn là phương thế cho sự trưởng thành, là một cuộc vượt qua bắt buộc đối với mọi đôi bạn nếu muốn sống sự hiệp thông vợ chồng cách nghiêm túc. Trong quan hệ hôn nhân mọi đôi bạn đều không ngừng trải nghiệm sự chết đi và sống lại. Đau khổ có ý nghĩa của nó, nhưng người ta chỉ khám phá ra sau đó mà thôi.

Để khám phá ra ý nghĩa của đau khổ, ta cần phải có những giờ khắc chiêm niệm, cầu nguyện với Thiên Chúa. Cầu nguyện và chiêm niệm để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, đang đồng hành với ta trong hành trình của hai vợ chồng qua những công việc nhỏ nhặt hằng ngày. Dù đời sống hôn nhân còn nhiều sóng gió, những mối bất ổn vẫn còn tồn tại, làm sao mỗi cá nhân cần phải trở thành một “đan sĩ” ngay trong đời sống vợ chồng, ngay trên giường hợp cẩn. Như Bà Madeleine Delbrêl, một nữ giáo dân Pháp đã nói: "Chúng tôi cũng là những người chiêm niệm, những người chiêm niệm bên vệ đường (au bord de la route). " (http://nguoitinhuu.com/chiase/HongGiao/ngonluadschiemniem.html)

Làm sao ta có thể nhận ra được Thiên Chúa, làm sao ta có thể chạm được Người nếu ta không đi vào đời sống chiêm niệm giữa đời thường. Thiên Chúa đã đi vào lịch sử, đã đi vào đời sống con người, Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh luôn ở cùng chúng ta, không những trong sự cứu độ, trong sự phục sinh, trong niềm vui, trong ánh sáng mà còn trong nỗi nhọc nhằn hằng ngày, cả ở trong hoàn cảnh tối tăm ảm đạm và đau khổ.

Ta không đề cao đau khổ, không đi tìm đau khổ, nhưng chính trong đau khổ ta có cơ hội gặp gỡ Thiên Chúa, chạm được Thiên Chúa. Ta có chấp nhận chạm sâu vào nỗi đau, ta mới nhận ra Thiên Chúa cũng đang đau khổ trong các cuộc hôn nhân xộc xệch, méo mó và dị dạng.

Cho dẫu ta không tốt lành, không xứng đáng để làm biểu tượng cho Tình yêu Thiên Chúa, nhưng Người đã chọn ta đi vào Tình yêu của Người. Mỗi đôi vợ chồng hãy biết tìm kiếm Thiên Chúa trong thực tại trần thế này vì đó là nơi Thiên Chúa đã chọn để cứu độ thế giới.

Thông điệp đích thực mà các đôi bạn Kitô hữu đem lại cho thế giới chính là niềm hy vọng ơn cứu độ, cho dẫu không thấy bằng chứng hiển nhiên.

Các đôi bạn Kitô hữu hãy luôn ý thức rằng: Hôn nhân là Hội Thánh tại gia.
 
Gia đình: Trường đào tạo tình thương và niềm tin
Lm. Guse Nguyễn Văn Nghĩa
15:22 26/12/2009
Lễ Thánh Gia

Đất nước chúng ta đã mở cửa cho nền kinh tế thị trường phát triển, đã gia nhập Tổ chức Thương Mại thế giới ( WTO ). Thế là bao tập đoàn doanh nghiệp nước ngoài ồ ạt đi vào đầu tư, kinh doanh, hợp tác trong các ngành nghề, không chỉ trong lãnh vực kinh tế mà cả trong lãnh vực văn hóa, giáo dục… Cửa mở thì gió vào. Dĩ nhiên ai ai cũng muốn đón gió lành, khí trong sạch, thế nhưng gió độc, khí ô nhiễm dù không mong cũng lùa vào và nhiều khi nhiều hơn cả lượng gió lành, khí sạch.

“Tùng thiện như đăng, tùng ác như băng”. Ngạn ngữ người xưa vẫn diễn tả đúng cái hiện thực hôm nay. Các cơn gió độc, cái bầu khí ô nhiễm luôn có sức lôi cuốn con người, nhất là các thế hệ trẻ, khi chưa đủ đầy nhân cách hay bản lãnh. Một trong những hậu quả nhãn tiền, đó là nền tảng gia đình đang lung lay và có nguy cơ bị băng hoại. Không phải vì sự trịch thượng của người Đông phương thích xét nét và phê bình lối sống Âu – Mỷ, trời Tây mà ngay cả các nhà đạo đức của những quốc gia phát triển ấy cũng từng nhìn nhận và phân tích hiện tượng xuống dốc của các giá trị nền tảng xã hội, cách riêng là sự thánh thiêng và bền vững của gia đình tại đất nước họ. Bác sĩ Benjamin Spack, trong cuốn sách “Nghệ thuật làm cha mẹ”, một trong những cuốn sách bán chạy nhất ( best beller ) ở nước Mỷ đã phân tích tình trạng sa sút gia đạo với các nguyên nhân như sau: ( x. Tuần báo CG và Dt số 1134 trang 20-21 )

1.Vì thích độc lập, thích sống riêng rẽ, nên các gia đình trẻ mất sự hổ trợ, mất bầu khí đùm bọc yêu thương của cha mẹ, anh chị em.

2.Cuộc sống sinh kế, nghề nghiệp thiếu ổn định khiến cho các gia đình hay thay đổi chỗ ở làm mất tình làng nghĩa xóm ( bà con xa không bằng láng giềng gần ).

3.Cũng do kế mưu sinh mà cả cha lẫn mẹ đều bôn ba chuyện cơm áo gạo tiền một cách tất bật và thế là thiếu thời giờ dành cho nhau và dành cho con cái.

4.Nạn ly hôn ngày càng phổ biến làm ảnh hưởng rất tai hại trên con cái, trên sự thánh thiêng của đời hôn nhân gia đình. Đây là một sự thật khó chối cãi.

5.Óc thượng tôn của cải, lấy vật chất làm thước đo giá trị đã làm cho con người thiếu niềm tin vào các giá trị tinh thần mà đạo hiếu là một trong những số phận hẩm hiu ấy.

Chúa Nhật tiếp ngay sau lễ Giáng Sinh, Giáo hội liền mời gọi chúng ta hướng cái nhìn vào Gia đình Thánh: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Hẳn nhiên Giáo hội ý thức tầm quan trọng của gia đình vốn được ví là tế bào của xã hội. Không gì hơn hãy nhìn vào Ba Đấng của Thánh gia để học cách củng cố gia đạo, xây dựng cái nền tảng của xã hội đúng như thánh ý Chúa tự ban đầu buổi sáng tạo, khi Người dựng nên loài người có nam có nữ và cho họ chung sống thành gia đình ( x. St 1,27-28 ).

1. Gia đình: trường huấn luyện con tim: Vì yêu thương hai trái tim chung nhịp đập tìm đến nhau và kết duyên vợ chồng. Tình yêu ấy trổ sinh hoa trái là các đứa con.

Con nằm giữa cha, con nằm giữa mẹ.
Cuộc đời nằm giữa yêu thương
. ( Tế Hanh )

Thi sĩ Tế Hanh diễn tả một hình ảnh rất thân quen mà mãi luôn chan chứa nét tình. Nhìn vào máng cỏ: một Hài nhi Giêsu bé bỏng nằm giữa mẹ cha. Tình yêu là thế đó. Các thành viên luôn sống vì nhau và cho nhau. Không hề kể công và cũng chẳng tiếc tình, đó là tình nghĩa phu thê, là tình mẹ tình cha. Có thể nói gia đình là mái trường đào luyện tình yêu thương cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Vì yêu Maria, Giuse đã không muốn làm bất cứ sự gì xấu cho người mình yêu, dù có thể làm theo luật. Trước sự kiện Maria thụ thai và khi chưa hiểu sự thể thì Giuse đã chọn con đường âm thầm rút lui và dĩ nhiên là sẽ chịu tiếng xấu cho riêng mình. Khi đã được sứ thần tỏ bày qua giấc mộng, thì Ngài đã mau mắn đón Maria và Hài Nhi trong dạ về chung sống ( x. Mt 1,18-25 ). Chính trong gia đình, chúng ta sẽ học biết rằng đã thương thì không hề tiếc, đã yêu thì không hề tính toán, so đo, đã yêu là yêu đến cùng.

2. Gia đình: trường đào tạo niềm tin: Đã yêu thì hẳn nhiên sẽ dẫn đến sự tin cậy. Tin tưởng, tín nhiệm nhau là một trong những biẻu hiện của tình yêu chân thực. Khi nhận lời sứ thần truyền tin là mang thai do bởi phép Chúa Thánh Thần, chắc chắn Maria không chỉ tin vào quyền năng của Thiên Chúa mà còn tin vào tình yêu của Giuse, người bạn đã đính hôn. Tin cậy ở Giuse, dù đã gần đến ngày mãn nguyệt khai hoa thế mà vẫn lên đường về quê Bêlem khai nhân hộ khẩu. Tin cậy ở Giuse, dù con thơ còn quá bé, thế mà phải lặn lội lánh nạn sang Ai Cập rồi sau đó lại trở về, Maria theo chân Giuse không một lời than vãn. Dù luật không buộc, thế mà Maria vẫn theo chân Giuse và con trai đủ tuổi mười hai lên Giêrusalem dự lễ hằng năm. Đức tin là hồng ân Chúa ban nhưng lại được trao ban qua nhiều cách thế. Một trong những cách thế phổ biến và hữu hiệu đó là gương sáng cũng như sự dạy bảo của mẹ cha.

Tin mừng làm chứng cho ta hay rằng nhân cách của Chúa Giêsu mang đậm dấu ấn của Maria và Giuse, những người theo lệnh truyền là phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu ( x.Mt 1,21; Lc 1,31 ). Cũng thế, sự trưởng thành trong đức tin của con trẻ cũng có sự góp phần đáng kể của hai ông bà. Sau khi tìm được con trong đền thờ, trước câu trả lời của con: Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao ?” ( Lc 2,49 ), thì dù không hiểu, hai ông bà vẫn im lặng đón nhận. Chúng ta có thể khẳng định rằng đã có sự tin cậy giữa con trẻ với hai ông bà. Khi sinh thời, đi rao giảng tin mừng Chúa Giêsu thường nhấn mạnh đến lòng tin như là điều kiện ắt có để có thể đón nhận Người cũng như hồng Người ban tặng.

“Ba là cây nến hồng. Mẹ là cây nến xanh. Con là cây nến hồng. Ba cây nến lung linh.” Một ca từ của nhạc sĩ Ngọc Lễ nói về sự tốt đẹp và thánh thiêng của đời gia đình đã từng được xã hội Việt Nam vinh danh trong một chương trình tất niên đón xuân mới trên truyền hình. Ba cây nến cháy lửa tình yêu. Ba cây nến thắp sáng niềm tin. Hai tiếng gia đình thật thiết thân và ấm tình. Hai tiếng gia đình cần phải ưu ái và gìn giữ. Con Thiên Chúa đã chào đời, làm người từ mái ấm gia đình. Xin Thánh Gia che chở, phù trì các gia đình để với niềm tin và tình yêu, con người mọi thời được lớn lên thành người, thành người con Chúa.
 
Bánh Sự Sống 46 - Bà Con Với Chúa
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
17:15 26/12/2009
Bánh Sự Sống # 46:

“BÀ CON” VỚI CHÚA ?

Tôi nhai và nuốt Lời Chúa: Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời. (Mt 5, 16)

* Chuyện kể: Mọi người đang bận rộn mua sắm trong những ngày cuối năm, để chào đón Năm Mới, nên không ai để ý đến một đứa bé nghèo đang đứng thập thò bên ngoài một cửa hàng lớn.

Nó nhìn những món đồ chơi, những quần áo đẹp, các thức ăn đầy ắp phía bên trong cửa hàng, với ánh mắt thèm thuồng và buồn bã. Nó ước gì mình có thể được những món đồ chơi đó, những thứ thoạt nhìn tưởng rất gần trong tầm tay của nó; nhưng lại rất xa xôi mà có lẽ cả cuộc đời này, nó không thể nào có được!

Chợt có một người phụ nữ nhìn thấy ánh mắt khát khao của đứa trẻ, nên đã bước đến bên nó, dắt nó vào trong cửa hàng, mua cho nó một ít đồ chơi, quần áo và thức ăn. Sau đó người phụ nữ chúc nó một mùa Giáng sinh vui vẻ, và từ giã nó. Đứa bé liền nắm lấy tay bà và hỏi: “Cô ơi! Cô có phải là Chúa không?”.

Người phụ nữ trả lời: “Không, cô không phải là Chúa, cô chỉ là một trong những con cái của Ngài mà thôi !” - Đứa bé liền nói: “Con biết mà, con biết thế nào cô cũng có bà con với Chúa.”

* Một phút suy tư: Ngây thơ biết bao và đáng yêu biết bao! Trong trí óc non nớt, em bé hiểu rằng Chúa của nó luôn ban cho nó những điều tốt đẹp, và nó cũng hiểu rằng: những ai thân thiết với Chúa sẽ thay Ngài thực hiện những điều ấy giữa cuộc đời đau khổ này.

Người chung quanh có thể nhận biết mối quan hệ giữa chúng ta với Chúa qua cách sống hàng ngày của bạn, cách sống ấy phải thể hiện được tình yêu và sự quan tâm đến người khác. Ánh sáng là cái gì rất tự nhiên, có lôi kéo sự chú ý của người ta, cũng như câu: “hữu xạ tự nhiên hương”. Tín hữu sống tốt sẽ ảnh hưởng tới người khác.

Mọi hành vi của bạn phải đại diện cho Chúa Giêsu trên đất, vì họ không thể thấy Chúa bằng đôi mắt trần thế; nhưng sẽ thấy Chúa qua những việc bạn làm, vì bạn là “bà con, anh em” của Ngài.

Phó tế: JB Nguyễn văn Định * johndvn@yahoo.com
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:26 26/12/2009
CHÓ SĂN

N2T


Người nọ dẫn con chó săn mới mua đi săn thử xem sao, ông ta bắn trúng con vịt rừng rơi xuống trong hồ nước, con chó săn nhảy xuống hồ bơi ngoạm con vịt rừng. Người thợ săn rất kinh ngạc. Ông ta lại bắn trúng thêm một con vịt rừng nữa, và con chó săn lại nhảy vào trong hồ một lần nữa, ngoạm con vịt rừng đem vào bờ, người thợ săn khó mà tin nỗi vào con mắt của mình.

Do con mắt không dám tin vào thực tại vừa thấy, người thợ săn bèn hẹn với người láng giềng hôm sau cùng đi săn. Kết quả, bất luận là ông ta hoặc láng giềng bắn trúng vịt rừng thì con chó săn vẫn vươn mình nhảy vào trong hồ ngoạm vịt rừng săn được trở về. Người thợ săn chưa nói được lời nào, mà người láng giềng cũng thế, cuối cùng, người thợ săn nhịn không được bèn mở miệng nói:

- Ánh không cảm thấy con chó săn này có chút kỳ quặc sao ?”

Người láng giềng tay vuốt hàm, tần ngần rất lâu, cuối cùng thì nói:

- “Đúng rồi, anh nói như thế thì tôi mới chú ý ngược lại, con chó săn thì không thể bơi lội được.”

(Lắng nghe của loài ếch)

Suy tư:

Chó săn thì chỉ làm nhiệm vụ chạy đi nhặt con mồi mà chủ đã bắn hạ, chứ chưa chắc là nó giữ nhà canh trộm ngon lành như những con chó nhà khác.

Cái kỳ quặc của con chó săn không phải là chuyện biết bơi hoặc không biết bơi lội, nhưng cái kỳ quặc chính là bất kỳ ông chủ bắn hạ con mồi, hoặc người láng giềng bắn hạ, thì nó đều chạy đến tha mồi về, nó không biết phân biệt là ai bắn, chỉ cần con mồi bị bắn hạ là nó chạy đến tha về mà thôi.

Có những lúc chúng ta cảm thấy kỳ quặc khi nghe tin vị linh mục này hoàn tục, bà sơ kia đi lấy chồng, hoặc người giáo dân nọ đạo đức thế kia mà lại giết người.v.v...nhưng chúng ta quên mất rằng, tất cả mọi con người đều là đối tượng của cám dỗ của ma quỷ. Càng cao danh vọng càng nhiều gian nan, càng thánh thiện đạo đức thì càng bị nhiều cám dỗ, càng là giám mục linh mục hay tu sĩ thì càng là đối tượng của ma quỷ, bởi vì như lời thánh Phê-rô tông đồ đã cảnh cáo chúng ta rằng: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé, anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự...” (1Pr 5, 8-9a)

Su tử chính là ma quỷ đội lốt chuyên đi săn tìm các linh hồn, nó không cần phân biệt là ai, chỉ cần linh hồn nào thuộc về Chúa là nó dùng toàn lực lượng để cám dỗ, nếu chúng ta không đứng vũng trong đức tin, không cầu nguyện, không siêng năng đón nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải, thì chúng ta cũng sẽ bị chó săn đến tha mất vậy...

-------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:27 26/12/2009
N2T


10. Nơi quán trọ thế gian này, khó mà nói là không làm hại nhau, do đó việc phải làm gấp là làm tốt nền tảng của hiền lành để dự phòng sự đột kích của phẫn nộ, và để gìn giữ sự bình an trong tâm hồn.

(Thánh Francis de Sales)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:28 26/12/2009
N2T


326. Bắt đầu bằng sự quả quyết là đã thành công một nửa.

 
Mùa Lửa Trời
Nguyễn Trung Tây, SVD
17:54 26/12/2009
Mùa Lửa Trời


Khi Đức Giêsu sinh ra tại Bethlehem, những nhà Tu Sĩ Trung Đông ghé vào thành phố Giêrusalem hỏi thăm dân chúng trong kinh thành về tông tích của Đông Cung Thái Tử Giêsu. Theo như những nhà Tu Sĩ Trung Đông, từ phương Đông, họ đã nhìn thấy ánh sao sáng của Hài Nhi mới sinh ra. Và họ tìm đến thủ đô chính trị của Palestine để triều bái Ngài. Nhưng rất tiếc, Đông Cung Thái Tử không sinh ra tại thủ đô Giêrusalem, mà tại thôn làng Bethlehem (Matt 2:1-12). Dựa theo bài Tin Mừng của ngày Lễ Hiển Linh, chúng ta mới biết khi Ngôi Lời nhập thể, đã xuất hiện trên bầu trời một ngôi sao lạ. Ánh sáng ngôi sao lạ chiếu sáng rực rỡ trên bầu trời mời gọi những nhà Tu Sĩ Trung Đông từ phương Đông lên đường hành hương tìm kiếm tông tích của Hài Nhi Thánh. Khi Ngôi Lời nhập thể, Thiên Đàng rọi sáng ngọn lửa mới chiếu rọi nhân gian đang ngồi trong bóng tối. Mùa Giáng Sinh do đó trở thành Mùa Lửa Trời.

Hồi xưa, khi thế gian chưa có lửa, người ta sống trong đêm đen bóng tối. Nhưng có lẽ vào một giây phút bất ngờ, nhân loại nhìn thấy sấm sét từ trời cao đánh thẳng vào cây khô. Cây khô bừng cháy phát ra những tia lửa bập bùng soi sáng một khoảng thời gian dài sống trong đêm đen của nhân loại. Gió trời nổi lên đốt thêm sáng ngọn lửa của trời. Lửa sắc lem lẻm lần tìm kiếm đường, bừng bừng đốt sáng rơm khô. Và thế là bắt đầu từ đó người ta học cách phùng mang trợn má thổi rơm đốt lửa. Lửa của sấm sét của trời cao thôi không còn lơ lửng cháy trên không trung, nhưng cháy bập bùng trên mặt đất, soi sáng những khuôn mặt tiền sử bán khai. Đêm đêm buông mình ru ngủ nhân loại, cả bộ tộc ngồi quanh đám lửa cháy. Lửa cháy tí tách ấm áp xua tan băng giá của trời mùa thu và mùa đông. Lửa xua tan hoang dại, chặn bước dã thú hùm beo. Bởi lửa, rắn bò xa, hổ chờn vờn không dám nhảy tới. Bởi lửa, sói hoang lìa bầy nằm ngủ ngoan hiền với con người, biến thành chó con vẫy đuôi mừng gọi. Bởi lửa, gấu không còn đe dọa nhân gian khi màn đêm buông phủ kéo màn. Bởi lửa, thịt tươi không còn đỏ máu, nhưng cháy vàng thơm ngon dưỡng nuôi, khiến bộ óc của con người ngày càng tăng trưởng và phát triển. Óc tăng, chất xám phát triển, nét hoang sơ biến mất, hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người hiện rõ, đậm nét. Lửa tách biệt con người và thú vật. Bởi có lửa, bởi biết giữ lửa cháy âm ỉ tro than, con người thôi không ăn lông ở lỗ. Họ bắt đầu biết chế tạo vũ khí cung tên lẫy nỏ. Thời kỳ đồ đá trôi vào quá khứ nhường ngôi lại cho thời kỳ đồ sắt đồ đồng.

Hồi xưa, có anh chàng thư sinh nhà nghèo, nghèo đến nỗi trong nhà không có một ngọn đèn dầu. Thế là anh chàng bắt đom đóm gom lại làm đèn trời soi sáng những trang sách thánh hiền. Nhờ những ngọn đèn của trời, nhờ những tia lửa đom đóm sáng soi một khoảng không gian của những trang giấy, chàng thanh niên đi thi, đậu Trạng Nguyên, trở về làng vinh quy bái tổ, võng anh đi trước, võng nàng theo sau.

Hồi xưa, Ngôi Trời nhập thể vào trong cung lòng trinh nữ Maria. Chín tháng mười ngày trôi qua, Ngôi Lời sinh ra biến thành Lửa Trời chiếu sáng rực rỡ trên bầu trời tối đen. Và bắt đầu từ khi Lửa Trời he hé cặp mắt nhìn ra, đêm đen không còn tăm tối nữa. Hào quang Lửa Trời chiếu sáng rực rỡ nơi nơi. Lửa Trời xua tan băng giá đêm đông của những tâm hồn nát tan và vỡ vụn vì nghi ngờ và thù hận. Lửa Trời xua tan hoang dại của tội lỗi. Lửa Trời chặn đứng bước chân của hoang thú trong tâm hồn nhân loại. Lửa Trời dẫn dắt chó sói hoang dại biến thành chiên cừu hiền lành. Lửa Trời nướng thơm nồng năm ổ bánh mì, chiên cháy vàng hai con cá cho nhân gian. Có lương thực thiên đàng no lòng, chất xám tâm hồn phát triển. Con cháu Adam dần dần lột bỏ làn da Evà, biến thành những con người mới trong Đức Kitô. Bởi có Lửa Trời, thời kỳ đồ đá tội lỗi trôi vào quá khứ, nhường lại ngai vàng cho thời kỳ mùa xuân thiên đàng.

Bởi có Lửa Trời Đom Đóm đốt đèn soi sáng những trang sách của Ngôi Lời, người Kitô hữu miệt mài kinh sách hăm hở lên đường, cố tranh giải Trạng Nguyên trên kinh đô Nước Trời.

Suy Niệm
Hài Nhi sinh ra trong Đêm Cực Thánh chính là Ánh Sáng, là Lửa Trời mà các ngôn sứ đã tiên đoán trong Isa 60:1, “Giêrusalem! Hãy đứng lên! Hãy bừng sáng, bởi ánh sáng của ngươi đã xuất hiện. Vinh quang của Thiên Chúa [giờ đây] như bình minh chiếu tỏa rạng ngời trên ngươi”.

Khi Hài Nhi thánh hạ sinh, Lửa Trời đốt sáng cả một cõi trần gian và cả một cõi vũ trụ bao la. Khi Lửa Trời Giêsu nhập thể, tâm hồn của bạn và tôi không còn dầy đặc đêm đen bóng tối nữa.

Lời Nguyện
Lạy Chúa, trong Mùa Giáng Sinh, xin hãy tiếp tục làm Lửa Trời soi đường dẫn lối con đi trên con đường hành hương về lại với chính mình, với tha nhân, và với Chúa.

www.nguyentrungtay.com
 
Gia Đình Lý Tưởng
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
18:53 26/12/2009
LỄ THÁNH GIA NĂM C

“Hàng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng Lễ Vượt qua” (Lc 2,41). Câu Phúc Âm ngắn ngủi và đầy ý nghĩa đó là một nguồn ánh sáng rạng rỡ và ấm áp có sức soi sáng và sưởi ấm các gia đình Công giáo. Một gia đình đi hành hương để thờ phượng Thiên Chúa: Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Hai Ông bà là người sùng đạo, tuân giữ lề luật cách trung tín. Họ thao thức chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa là Đấng phải yêu mến trên hết mọi sự. Chính trẻ Giêsu đã có một ý thức rất sâu xa về điều đó: Người ở lại Giêrusalem để học hỏi tìm hiểu Thánh Kinh, Người ý thức là phải đặt tình yêu Thiên Chúa Cha trên cả tình yêu đối với gia đình.

Theo luật quy định người Do thái phải hành hương về Giêrusalem “mỗi năm ba lần mọi người nam phải trình diện trước Đấng toàn Năng là Đức Chúa”. Một lần đi bộ hành hương về Nhà Chúa phải mất một tuần lễ. Họ vừa đi vừa hát “thánh vịnh lên đền”: tôi vui sướng biết bao khi người ta nói với tôi rằng nào ta tiến về Nhà Chúa.

Năm nay, Chúa Giêsu lên 12 tuổi, được cha mẹ đưa đi cùng đoàn hành hương tiến về đền thờ theo tập tục ngày lễ. Đối với người Do thái 12 tuổi là tuổi trưởng thành. Chúa Giêsu đã bộc lộ sự khôn ngoan trước các bậc thông thái. Sau khi dự lễ vượt qua, Người ở lại đền thờ tranh luận với các tiến sĩ luật “mọi kẻ nghe Ngài đều sửng sốt về trí thông minh và các lời Ngài đối đáp”.

Phụng vụ muốn đem câu chuyện này vào kể trong mùa Giáng Sinh, mùa Chúa tỏ mình ra. Người là đấng khôn ngoan am tường đường lối Thiên Chúa để dạy dỗ nhân loại. Hai ông bà tìm được con trong Đền thờ. Mẹ trách nhẹ: “Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con”. (Lc 2,48). Người đáp lại: “Sao cha mẹ tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận đối với nhà của Cha con sao ?” (Lc 2,49). Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh bản tính siêu phàm của Người. Cha Người không phải là Giuse mà là Thiên Chúa. Cần chu toàn bổn phận đối với Cha trên trời.

Sau đó cả gia đình trở về Nazareth. Chúa Giêsu hằng vâng phục hai ông bà. Người đã chu toàn cả hai phận sự đạo và đời.

Con Thiên Chúa làm người và thuộc về một gia đình: Thánh Gia. Chúa Giêsu có thể sinh ra như một nhân vật thần kỳ nào đó trong các huyền thoại hay được giáng trần như Thánh Gióng, Tiên Nga… Nhưng Đức Giêsu không muốn làm thế. Ngài muốn có một tổ ấm, một mái gia đình, có cha có mẹ. Chấp nhận làm người là chấp nhận thuộc về một gia đình.

Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí gia đình. Mái nhà là trường học đầu tiên. Cha mẹ là thầy cô căn bản. Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt trong Thánh Gia đạo hạnh. 30 năm sông dưới mái nhà Nazareth, Đức Giêsu đã thành một người chính chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ vụ Chúa Cha trao phó. Đức Giêsu đã học nơi Thánh Giuse tinh thần lao động miệt mài, sự mau mắn thi hành thánh ý Thiên Chúa, lòng nhiệt thành chu toàn trách nhiệm đối với gia đình. Đức Giêsu học nơi Đức Mẹ nét đẹp hiền lành đơn sơ, tế nhị, tận tuỵ phục vụ, sự buông mình sống trong lòng tin phó thác và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.

Các nhà tâm lý học cho biết rằng: đứa trẻ cần đến sự nâng đỡ của người cha cũng như người người mẹ. Người cha tạo cho con cái hùng, cái nghiêm trang mực thước.Người mẹ ảnh hưởng trên cảm tình con cái về sự tế nhị, dịu dàng, bao dung. Vì thế đứa trẻ mồ côi cha thường sống uỷ mỵ, nhát đảm thiếu cương quyết và nghị lực. Đứa trẻ mồ côi mẹ thường mang tính cứng cỏi, cộc cằn, dể u buồn, thiếu tế nhị vui tươi. Trẻ thơ cần được giáo dục về đời sống tình cảm và lý trí. Tình cảm dễ ảnh hưởng nơi người mẹ. Lý trí thường nhờ cậy người cha.Do đó người Ý có lý khi nhận xét: Người mẹ yêu thương dịu dàng, người cha yêu thương khôn ngoan. Người Anh nhận xét chí lý: Khi còn thơ con cái bú mẹ, lúc lớn khôn chúng lại bú cha. Tục ngữ Việt nam có câu: Mẹ đánh một trăm không bằng cha ngăm một tiếng.

Nền tảng cho việc đào tạo lý trí và tình cảm của một con người là đạo đức. Trên nền móng đạo đức vững chắc, xây một ngôi nhà gia đình hạnh phúc. Nếp sống đạo đức của Thánh gia đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời Đức Giêsu. Người thừa hưởng nơi Thánh Giuse và Đức Mẹ lòng yêu mến lề luật, gắn bó với đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa. Người học nơi cha mẹ tâm tình vâng phục thánh ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình,sự chuyên chăm làm việc, sự ân cần âu yếm đối với con cái. Gia sản quý báu từ Thánh Gia bàng bạc trong những lời Người giảng dạy, trong đời sống của Người.

Gia đình thật quan trọng. Chính gia đình quyết định tương lai của trẻ thơ. Cha mẹ không chỉ nuôi con bằng cơm bánh vật chất, nhưng còn dạy dỗ, làm gương sáng cho con, còn người con đáp trả bằng tình hiếu thảo và vâng phục.

Gia đình là vườn ươm. Hạt giống tuổi thơ lớn mạnh được là nhờ vườm ươm có đầy đủ nước, phân bón và ân cần chăm sóc.

Gia đình là bầu khí quyển. Bầu khí có trong lành thì trẻ thơ mới phát triển được mọi mặt.

Gia đình là con đường. Đường có ngay thẳng có định hướng thì tương lai trẻ mới tươi sáng không đi vào ngõ cụt cuộc đời.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hằng nhắc nhở về sự thánh thiêng của gia đình khi Ngài gọi gia đình là nền tảng của Giáo hội. Đức Thánh Cha Phaolô VI gọi gia đình là cung thánh của Giáo hội, là trường học đầu tiên của con cái mà cha mẹ là thầy cô.

Một gia đình mà cha mẹ, con cái siêng năng tham dự Thánh lễ, chuyên chăm kinh nguyện tại gia, biết dùng lời Chúa làm ánh sáng soi đường chỉ lối, luôn sống hoà thuận yêu thương nhau thì đó chính là gia đình gương mẫu theo Thánh Gia. Từ gia đình tốt này sẽ trao tặng những người con hữu ích cho xã hội và giáo hội.

Đức Thánh Cha Piô XI trong Thông Điệp Về Giáo Dục Kitô Giáo đã dạy rằng:Nền giáo dục bền bỉ nhất và hữu hiệu nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có quy cũ khuôn phép. Gương lành cha mẹ càng chiếu tỏ kết quả giáo dục càng lớn lao.

Đức Thánh Cha Gioan XXIII, trong một lá thư gởi cha mẹ nhân ngày mừng ngũ tuần của mình có đoạn “Thưa Ba Mẹ, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức tước trong Hôi thánh, được đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không có trường học nào dạy dỗ và làm ích cho con bằng hồi con được ngồi trên chân ba mẹ”.

Đức Hồng y F X Nguyễn Văn Thuận cũng từng viết: ”Chủng viện thứ nhất, đệ tử viện thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình Công giáo. Không vị giám đốc tài ba nào, hay chuyên môn đến đâu có thể làm thay cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội thánh và xã hội cũng rung rinh sụp đổ”.

Thánh gia là một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương chăm lo cho nhau.Bầu khí yêu thương đạo hạnh Thánh gia là trường học đầu tiên huấn luyện Chúa Giêsu, Thánh gia là trường dạy cầu nguyện,dạy giáo lý, dạy lao động, dạy yêu thương đến hiến mình cho người khác, chuẩn bị cho Chúa Giêsu gánh vác sứ vụ Chúa Cha trao phó sau này.Chúa Giêsu đã vâng phục kỹ luật trường này, chấp nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ và Ngài đã lớn lên chững chạc, trưởng thành, quân bình thể xác trí tuệ, tâm linh. Chúa đã sống học tập rèn luyện 30 năm để rao giảng 3 năm. Một năm Chúa Giêsu giảng đạo thì 10 năm Người ở với gia đình. Chúa ưu tiên và đề cao tầm quan trọng của gia đình biết bao.

Thánh Gia là một gia đính lý tưởng, đạo đức, yêu thương, hạnh phúc ngập tràn.

Mừng lễ Thánh Gia Thất, chúng ta cầu nguyện cho mọi gia đình trên thế giới biết noi theo mẫu gương gia đình Nazareth luôn coi trọng tình nghĩa vợ chồng và hạnh phúc gia đình, chăm lo giáo dục con cái, nhất là đời sống đạo đức, trong mọi sự luôn được hướng dẫn theo Thánh ý Chúa.

Xin Chúa thương ban bảo vệ giữ gìn từng gia đình là hình ảnh của Thánh gia, từng trẻ em là hình ảnh của Hài nhi Giêsu và xin tình yêu Thiên Chúa tràn đầy trong mỗi gia đình.

Nguyện xin Thánh Gia luôn nâng đỡ và gìn giữ gia đình chúng con.
 
Những thánh gia Na-da-rét thời đại mới
LM Inhaxiô Trần Ngà
18:54 26/12/2009
Suy niệm Lễ Thánh Gia

Có họ đạo nghèo ở vùng duyên hải miền Trung có tên gọi là Thánh Gia. Sở dĩ đặt tên như vậy là vì họ đạo nầy chọn Thánh Gia Na-da-rét làm bổn mạng.

Phía bên hông nhà thờ họ đạo có một hang đá khá lớn, có bộ tượng hang đá bằng thạch cao to bằng tầm vóc người trưởng thành.

Hằng năm vào dịp lễ Thánh Gia, bổn mạng của giáo xứ, theo một truyền thống đã có từ lâu đời, sau khi lễ tan, các gia đình trong giáo xứ tập trung đông đảo chung quanh hang đá cầu nguyện với thánh gia thất và mỗi gia đình cử ra một vị đại diện tuần tự tiến lên theo hàng đôi đến trước bộ tượng hang đá, dâng lên Chúa Giê-su, Đức Mẹ và thánh Giu-se những bông hoa thắm tươi và thơm ngát để tỏ lòng tôn kính mến yêu của mình.

Thế rồi một biến cố đau lòng xảy ra trong dịp trước giáng sinh năm ấy, một nhóm trẻ tinh nghịch từ làng bên vì có thù hận với nhóm trẻ trong xóm đạo, đã kéo đến vào ban đêm đập phá bộ tượng hang đá vỡ ra nhiều mảnh.

Sự việc nầy khiến cho nhiều người hoang mang và bối rối!

Biết làm sao bây giờ, khi ngày lễ thánh gia đã gần kề? Tìm đâu ra bộ tượng ba Đấng mới thế vào bộ tượng đã bị phá tan? Nghi lễ dâng hoa cho ba Đấng vào mỗi dịp lễ Thánh Gia là một nghi lễ truyền thống đã được thực hiện xuyên suốt từ hơn trăm năm qua, không có năm nào bỏ qua, lẽ nào năm nay không tổ chức được?

Vì giáo dân trong xứ quá nghèo, Cha xứ và hội đồng mục vụ không thể huy động đủ tiền để đặt làm bộ tượng mới và dù có huy động đủ tiền cũng không thể đặt một bộ mới trong khi thời gian đã cận kề.

Trước tình thế đó, Cha Xứ có một sáng kiến táo bạo: Ngài cho mời đôi vợ chồng mới sinh đứa con trai đầu lòng được chừng tháng tuổi và mới được rửa tội mấy ngày trước, mặc y phục truyền thống thật chỉnh tề, đóng vai Đức Mẹ, thánh Giu-se và Chúa Giê-su thay cho bộ tượng hang đá bằng thạch cao đã bị hư hại. Ngài sắp xếp cho cặp vợ chồng quỳ bên trong hang đá, chầu hai bên đứa con thơ ở giữa họ và kêu mời đại diện các gia đình trong giáo xứ tiến lên theo hàng đôi dâng hoa cho ba vị nầy.

Sáng kiến nầy đã làm cho một số người trong họ đạo cảm thấy bị sốc. Họ cho rằng làm như vậy là quá đề cao gia đình người tín hữu và xúc phạm đến ba Đấng thánh.

Cha Sở cố gắng diễn giảng cho họ như sau:

Khi đề nghị gia đình anh chị Năm đóng vai Giu-se, Mẹ Maria và Chúa Giê-su thế chỗ cho bộ tượng ba Đấng bằng thạch cao bị hư, chúng ta không làm gì xúc phạm đến ba Đấng thánh, nhưng chúng ta xem gia đình anh chị Năm đây là hình ảnh rất trung thực và cao quý về Thánh Gia của Chúa Giê-su.

Lâu nay, chúng ta quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng thạch cao, bằng xi măng hay bằng nhựa dẻo, và chưa quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng xương bằng thịt có sự sống, có linh hồn, có lương tri, có trí tuệ… như anh chị Năm đây, nên chúng ta cảm thấy bị sốc.

Nhưng xin quý ông bà hiểu điều nầy:

Thứ nhất: mỗi một người tín hữu đều có phẩm giá rất cao và được gọi là thánh. Thánh Phao-lô gọi các tín hữu thuộc các giáo đoàn (nay gọi là giáo xứ) là thánh. Họ được hiến thánh nhờ bí tích thánh tẩy. Nhờ bí tích nầy họ trở thành chi thể, thành thân mình Chúa Giê-su.

Thánh Phao-lô nói: “Nào Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao?” (I Cor 6,15)

Ngoài ra, các tín hữu còn được Chúa Giê-su cho trở nên cùng một xương thịt với Người, được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa, được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ đón nhận bí tích Thánh Thể.

Như vậy, không có một sản phẩm nào do tay người phàm làm ra dù bằng thạch cao, bằng gỗ, bằng đá hay bằng kim loại quý như bạc như vàng… xứng đáng được chọn làm hình ảnh của Chúa Giê-su, của Mẹ Maria, của thánh Giu-se cho bằng chính mỗi người ki-tô hữu chúng ta.

Thứ hai: Hội Thánh công giáo xưa nay vẫn nhìn nhận gia đình của ki-tô hữu là gia đình thánh nên Giáo Hội quen gọi đó là những hội thánh tại gia.

Chúa Giê-su còn lập bí tích hôn nhân để thánh hiến đời sống vợ chồng. Thế nên không gì thích hợp cho bằng chọn gia đình ki-tô hữu làm biểu tượng cho thánh gia Na-da-rét.

Sau khi hiểu được những điều cha xứ giải thích, mọi người vui vẻ dâng những đoá hoa thật đẹp thật tươi cho anh chị Năm được cử đóng vai thánh gia Na-da-rét.

Rồi qua những năm sau, nhiều người trong giáo xứ đều thấy thật là thích hợp và đầy ý nghĩa khi chọn một gia đình công giáo trong họ đạo đóng vai thánh gia Na-da-rét thay vì dùng bộ tượng thạch cao, nên cộng đồng giáo xứ thoả thuận với nhau rằng: đôi vợ chồng nào mới sinh con và được rửa tội sớm nhất trong tháng 12 dương lịch thì sẽ được chọn đóng vai thánh Giu-se, Đức Mẹ và Chúa Giê-su để cho giáo dân kính viếng. Và cũng từ lúc đó, thay vì dâng hoa cho ba Đấng như trước đây, người ta dâng cho em bé trong vai Giê-su những hộp sữa; dâng cho người mẹ trong vai Maria những cuộn chỉ, những chiếc kim, chiếc kéo; dâng cho người cha trong vai Giu-se những dụng cụ làm việc nho nhỏ như những chiếc kìm, chiếc búa, cái đục, cái bào…

Từ sự kiện nầy, các gia đình tín hữu trong xứ đạo đều ý thức mình là những thánh gia Na-da-rét thời mới. Các đôi vợ chồng trong các gia đình luôn trân trọng và yêu quý nhau như tương quan giữa Mẹ Maria và thánh Giu-se. Cha mẹ biết chăm lo giáo dục con cái như Mẹ Maria và thánh Giu-se đã thực hiện với Chúa Giê-su năm xưa. Con cái luôn vâng phục và thảo hiếu với mẹ cha như Chúa Giê-su đã làm đối với thánh Giu-se và Đức Mẹ. Niềm vui, hạnh phúc và đời sống thánh thiện chan hoà trong các gia đình.

Ngoài ra, tương quan giữa các gia đình trong giáo xứ được cải thiện đáng kể vì ai nấy đều biết tôn trọng những gia đình khác vì xác tín rằng đó thực sự là những thánh gia.
 
Lễ Thánh Gia: nhà mình
Mic. Cao Danh Viện
18:57 26/12/2009
Lễ Thánh Gia: nhà mình

Linh thiêng quá! Tiếng gia đình ngọt quá!
Là nơi tôi xuất phát bởi tình yêu
Mâm cơm ngon! tôi hạnh phúc mỗi chiều
Nơi cha mẹ! tôi sum vầy nguồn cội

Có gì sánh cho bằng giờ kinh tối
Lúc ngất say trong phần phước thiên linh
Là đương khi tôi sống chử “ nhà mình”
Bằng trọn vẹn con tim no tình Chúa

Dầu lớn khôn tôi còn đi xa nữa
Bước vào đời bao nhũng nhiểu đa đoan
Cõi nhân sinh tìm đâu chốn an toàn
Bằng mái ấm gia đình ngày xưa ấy

Hai tiếng “nhà mình” tôi bước đi từ đấy
Gói hành trang một thiên sử tình yêu
Đem vào đời làm nảy nở phong nhiêu
Cho nẩy lộc nơi những người chung sống

Lên non cao hay khi về biển rộng
Qua đau thương hay hạnh phúc ngất ngây
Về “nhà mình”nghiệm thấy khối tình say
Của Thiên Chúa, Đấng Thường Hằng ban tặng

Bạn yêu ơi! Xin cúi đầu tĩnh lặng!
Để tạ ơn Chúa cho có “nhà mình”
Là cái nôi của một kiếp nhân sinh
Chúa là kẻ đong đưa về hạnh phúc

Xin dâng về Thánh Gia lời hoan chúc
Là mẫu gương của cuộc sống gia đình
Là Tình yêu xây đắp nên “nhà mình”
Lời hoan chúc và muôn đời cảm tạ

Gởi em lời cám ơn

Em cứ đẹp hơn ngày xưa con gái
Ba mươi năm ngày ta đã cho nhau
lời tình thơ là chuổi ngọc trân châu
đã đan kết ba mươi mùa lam lũ

em vẫn đẹp dẫu em là thiếu phụ
đã hồn nhiên trong thiên chức hôn thê
cứ cho tôi nghĩa sống giữa bộn bề
trang lịch sử em viết bằng chử nhẫn

em bên tôi như rượu nồng hưng phấn
cuộc lữ hành tôi không phải cô đơn
và các con quà tặng quý giá hơn
nên em cứ đẹp con tim hiền mẫu

em là cánh cho con về nương náu
em với tôi là một mái gia đình
con cái có đi xa, vẫn còn có “nhà mình”
nơi ấm áp giờ kinh và cơm bữa

em sẽ đẹp và nồng nàn hơn nữa
khi bóng chiều ngã xuống mái hoa râm
và con tim là ngôn ngữ lặng thầm
ươm sức sống để cho con nẩy lộc

ba mươi năm, kể từ ngày em khóc
xa mẹ cha, em về sống với tôi
hai chúng ta, lặn hụp một kiếp người
nay tôi nói lời cám ơn! Em nhé!

Nhìn lên Chúa, mình cám ơn trọng thể
Ba mươi năm, ba mươi mốc hồng ân
Trong hạnh phúc các con cũng góp phần
Mình kính cẩn dâng lễ dâng cảm tạ

(viết mừng 30 năm hôn phối)
 
Học được gì nơi Thánh Gia?
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
19:00 26/12/2009
THÁNH GIA (Lc 2, 41-52)

Tôi thấy trong các gia đình công giáo rất thường trưng ảnh tượng Thánh Gia trên bàn thờ, và đó là điều đáng mừng. Nhưng nhiều khi tôi tự hỏi, họ học được điều gì nơi cái gia đình ‘siêu phàm’ đó? Đối với nhiều người đó chỉ là một sự tôn thờ, tôn thờ một biểu tượng gần gũi với đời mình để dễ nhận được điều cầu được ước thấy. Nhưng cũng có nhiều người nói với tôi là họ (được dạy) coi Thánh Gia là một mẫu gương để họ noi theo bắt chước. Nhưng bắt chước điều gì mới được chứ? Những ‘công dung ngôn hạnh’, những cần cù đảm đang, những trên thuận dưới hòa… tôi đâu có thấy phúc âm ghi nhận chỗ nào đâu. Những điều này trong sách Huấn Ca của Cựu Ước (tư tưởng hao hao như sách Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi… và có lẽ mỗi dân tộc đều có một vài tác phẩm tương tự) đã có dư thừa và còn phong phú hơn cả Phúc âm nữa. Lời Chúa của lễ Thánh Gia hôm nay cũng chỉ trích dẫn trong bài Tin Mừng câu chuyện về ‘trẻ Giê-su vị thành niên bị thất lạc trong đền thờ Giê-ru-sa-lem’, một giai thoại chẳng liên quan gì tới các nội dung luân lý giáo điều về gia đình.

Giai thoại hiếm hoi được ghi nhận trong thời gian thật dài khi trẻ Giê-su còn chung sống trong gia đình mình, giai thoại được Maria ghi vào ký ức để suy đi nhẩm lại, có vẻ gì đó tiêu cực, nếu xét theo các tiêu chí luân lý thông thường: Trẻ Giê-su đã làm phiền lòng chính cha mẹ mình. “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Như thế thì trong đời sống của Thánh Gia đâu phải mọi sự đều trôi chảy, đều êm thắm, đều lý tưởng… để có thể trở thành mẫu gương luân lý tiết hạnh của mọi thời đại. Tôi chắc rằng Thánh Gia cũng có những diễn biến cuộc sống (tạo nên những hỷ, nộ, ái, ố) giống như mọi gia đình bình thường khác thôi. Tuy nhiên Thánh Gia đã có một điều gì đó rất khác, rất phi thường: vì đó là gia đình đầu tiên đã học biết (Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói) sống những diễn biến bình thường đó trong một tinh thần Tin Mừng thực sự. Trẻ Giê-su đã đưa ra hướng giải đáp cho vấn nạn chính đáng và thông thường của đời sống gia đình: khi có những mất lòng nhau vì nhiều nguyên nhân, khách quan hay chủ quan: hãy lo ‘bổn phận ở nhà của Cha’. Bổn phận ở nhà của Cha là gì nhỉ? Chẳng lẽ chỉ đơn thuần là ở lại trong đền thờ? Chỉ mình Giê-su đấng từ trời xuống mới biết; và Ngài đã mạc khải qua chính cuộc sống và cái chết của Ngài về cái bổn phận chưa ai từng biết đó. Thánh Gioan (mà lịch phụng vụ hôm nay 27/12 nói là không cử hành lễ kính) đã dần dần học biết được cái bổn phận căn bản đó. Và một khi đã học được, vì là người môn đệ được tựa đầu vào ngực Chúa, ngài đã mạnh mẽ thốt lên: “Anh em hãy thương yêu nhau vì tinh yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa…Tinh yêu cốt ở điều này… chính Người đã yêu thương chúng ta và đã sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta… Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 7-16). Thánh Gia, và mọi gia đình công giáo, đều phải học bài học này. Cả Giu-se cũng phải học, cả Maria nữa. Bài học yêu thương tha thứ cho nhau vì biết rằng Thiên Chúa đã tha thứ yêu thương trước thì ai cũng phải học, đơn giản vì ai cũng có thể bực dọc hay phật lòng (cho dầu bực dọc có lý do chính đáng). Và bài học này không dễ hiểu được đâu, chưa nói đến thực hành, vì nó không dựa trên lý luận hay hợp lý, nó không công bằng chút nào. Chỗ dựa duy nhất của nó là niềm tin vào Đức Ki-tô Giê-su, vào sự điên rồ hay ngu xuẩn của Thập giá. Kể cả Giu-se và Maria cũng thấy khó khăn như thế “Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói… Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”. Như vậy Thánh Gia thật gần với đời thường, vì là nơi niềm tin tìm được cách biểu lộ cách chân thực nhất và cũng bị thách thức nhiều nhất. Chính trong các gia đình (kể cả các gia đình tu sĩ), nơi chung sống những con người bất toàn, bất hòa hay bực dọc sẽ vẫn là chuyện cơm bữa, thì tình yêu thương xót và tha thứ (phát xuất từ Thiên Chúa) sẽ có dịp cất lên tiếng nói mãnh liệt nhất.

Lạy Chúa, xin cho con hằng biết chiêm ngưỡng Thánh Gia như nơi đã học và đã cố gắng sống bổn phận vĩ đại nhất của Thiên Chúa Tình Yêu. Xin cho con không chỉ biết tôn thờ suy tôn, mà còn biết đồng hành với Thánh Gia trong tiến trình sống niềm tin. Amen
 
Thảo Kính Cha Mẹ
Tuyết Mai
19:00 26/12/2009
"Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái; quyền lợi bà mẹ, Người củng cố trên đoàn con. Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ.

Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người. Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi". (Hc 3, 3-7. 14-17a).

Quả thật những lời khuyên răn trên đã tóm gọn được hết tất cả những điều hay tốt, để bổn phận làm con phải biết mà thảo kính cha mẹ của mình. Đầu tiên tôi phải cảm tạ Ba Ngôi Thiên Chúa là Đấng muôn đời Yêu Thương chúng ta vô bờ vô bến. Ngài yêu thương chúng ta một cách nhưng không, vô vị lợi, không tính toán, không cần chúng ta cám ơn, không cần lễ vật, bởi có phải Ngài đã yêu thương chúng ta khi chúng ta chẳng là gì từ tro bụi đất cát mà ra!? Ngài tác tạo mọi sự hiện hữu trên trời và dưới đất chỉ vì cho chúng ta được hưởng dùng, từ không khí, vũ trụ cao thăm thẳm với hằng hà sa số các loại sao khác nhau, mọi tạo vật trên trái đất, và cả một khối nước khổng lồ thật lạ lùng thật sâu thẳm tận đáy lòng của đại dương, chúng bởi do đâu mà cứ thế xoay vần hết ngày nọ qua ngày khác, và chúng cứ thế xoay vần theo thời gian là bao lâu mà trí hiểu biết của chúng ta không thể nào biết được. Vì thế cho nên tuy Thiên Chúa không cần chúng ta cảm tạ Ngài, nhưng vì để cho sự lợi ích trong cuộc đời của chúng ta, luôn biết rằng thiếu Ngài thì chúng ta sẽ chết. Có phải ngoài Thiên Chúa ra chúng ta không thể tin tưởng và cậy dựa nơi ai được hết!? Thiên Chúa Ngài là Cha Mẹ của chúng ta chẳng những lo cho chúng ta phần xác mà cả phần linh hồn nữa!? Con người thì từng người một khi thân xác trở nên bệnh hoạn thì từ từ sẽ bỏ chúng ta ra đi và không bao giờ trở lại!??? Thánh Lễ Giáng Sinh vừa qua gia đình của mỗi anh chị em cảm thấy thế nào, ngoài quà cáp được trao cho nhau?? Ai đã thật sự nhận được quà mà cảm thấy hạnh phúc quá vì đó là điều duy nhất mà quý anh chị em đã chờ suốt cả một năm qua, sau khi đã mớm cho mọi người biết những gì mình thích và mong muốn có? Những món quà thật giá trị thật đắt tiền, ngay cả ngoài khả năng của mọi người trong gia đình cộng lại??? Chúng tôi thì không được như thế thưa anh chị em, vì gia đình chúng tôi không có khả năng, nhưng cảm tạ Thiên Chúa vì gia đình chúng tôi thật sự Chúa ban cho hằng được luôn có nhau. Tuy Thánh Lễ Giáng Sinh vào lúc 6:30 sáng khó cho mấy cháu nhỏ thức dậy, nhưng khi đến được Nhà Thờ rồi thì các cháu cũng tươi tỉnh và sốt sắng trong suốt Thánh Lễ. Cảm tạ Chúa.

Trong khi mọi gia đình tổ chức thật lớn, thật tưng bừng, trong không khí thật vui nhộn, sầm uất, và náo nhiệt thì gia đình chúng tôi cũng rất vui trong cái vui của tình gia đình nhỏ bé như gia đình của Thánh Gia hôm nay. Không những gia đình của tôi, mà tôi còn biết rất nhiều gia đình Thánh Gia nhỏ bé ở khắp mọi nơi nữa kìa!? Chúng tôi hưởng nhận được cái hạnh phúc không ồn ào nhưng ai bảo là không linh động và không cảm động khi từng người một cũng có được món quà cho nhau. Đối với người giầu có thì món quà đối với họ chẳng đáng là bao nhiêu, nhưng đối với những người nghèo như chúng tôi, có được một món quà là biết rằng đó là sự hy sinh, dành dụm, và nhịn ăn nhịn xài suốt cả một năm để mua cho được món quà đó, mà biết rằng cha mẹ hay anh chị em của mình cần được có, như chiếc áo lạnh mới, đôi giầy mới, cái máy sưởi cá nhân trong mùa lạnh, cái máy sấy tóc cho chị em gái, cái thằng robot đồ chơi cho em trai, v.v.v..... Đấy gia đình nghèo của chúng tôi vào những ngày lễ Giáng Sinh chỉ có thế, nhưng sao nước mắt lại đầm đìa ra thế!?? Sao hạnh phúc mà lại có nước mắt thưa anh chị em?? Nhận được quà là phải cười cho vui lên chứ!? Vâng, chúng tôi vui lắm chứ vì hiểu được rằng sự hy sinh đó là vì thấy được rằng con cái chúng biết yêu thương nhau, mà không cha mẹ nào phủ nhận được điều đó! Sự hiếu thảo của con cái dành cho cha mẹ! Thay vì mua quà cho chính mình vì sự thiếu thốn và thèm muốn ai cũng muốn có, nhưng tất cả vì tình yêu mà đã hy sinh cái muốn cái thèm của mình mà dành cho người mình thương yêu. Ấy, nước mắt đầm đìa ấy là sự vui mừng mà chúng tôi tỏ lộ cho nhau trong ngày Giáng Sinh và không quên cảm tạ Thiên Chúa tuôn đổ Hồng Ân của Ngài trên gia đình, biết chia sẻ cho nhau, con cái ngoan ngoãn biết nghe lời dậy dỗ của cha mẹ. Quả nếu gọi là thiếu thốn mà gia đình luôn có nhau như gia đình Thánh Gia thì cũng rất nên phải không thưa anh chị em!? Hòa thuận, trên nhịn dưới nhường, hiếu đễ, không gây gỗ, không cãi lời, tôi thiết nghĩ một gia đình như thế rất đẹp lòng Chúa??? Vì không gì tốt đẹp cho bằng chúng con biết nhìn vào hạnh phúc của gia đình Thánh Gia mà bắt chước theo. Bởi gia đình Thánh Gia luôn được tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa tuôn đổ, bởi dưỡng phụ Thánh Cả Giuse và dưỡng mẫu Đức Mẹ Maria, luôn biết sống theo thánh ý Chúa.

Vì không sống theo thánh ý Thiên Chúa, mà biết bao nhiêu gia đình đang sống trong đổ vỡ. Có phải vì sự sống ích kỷ chỉ biết cho bản thân mình mà vợ đòi ly dị chồng, chồng đòi lấy vợ khác, bỏ các con nhỏ sống trong bơ vơ trong lo sợ, và có phải cuộc sống đó nó sẽ cứ như thế tiếp diễn vì các con chúng sẽ bắt chước theo y khuôn cuộc sống của cha mẹ chúng, mà xã hội ngày nay đang gặp phải!?? Biết bao nhiêu chuyện tang thương và đau lòng đã tạo cho bao nhiêu trẻ nít mà chúng ta thấy chúng sống dưới hầm cầu, trên vỉa hè, trên cống rãnh, nghĩa địa, và khắp mọi nơi. Chúng chết bờ chết bụi cũng chẳng ai thèm dòm ngó. Chúng sống chui rúc và tìm ăn về đêm chẳng khác nào loài chuột bọ?? Tình cảnh chúng ai gây ra thế!? Thế mà chúng ta vẫn dửng dưng như những nhà giầu có đối xử với người nghèo ghẻ chốc Lazarô xưa kia. Vâng, Chúa sẽ xử phạt chúng ta xuống hỏa ngục vì tội dửng dưng đấy thưa anh chị em.

Ước gì trong ngày lễ Thánh Gia, giúp chúng ta nhìn lại cuộc sống gia đình của mình, xem rằng mình đã tròn bổn phận của mình hay chưa!? Bậc làm cha làm mẹ, làm con, làm anh chị hay em, tất cả ngôi thứ trong gia đình, quan trọng nhất là chúng ta phải luôn Thờ Phượng Thiên Chúa của chúng ta, giữ trọn điều răn của Ngài, vì chính Thiên Chúa sẽ lo liệu tất cả mọi sự cho chúng ta từ thuở muôn đời. Thiếu Ngài chúng ta sẽ mất tất cả! Vì không ai ra đi khỏi cuộc đời này mà mang theo được gì. Amen.
 
Theo gương Thánh Gia
Lm. Jb Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R
19:04 26/12/2009
Lẽ tự nhiên, ai ai cũng mong muốn cho gia đình mình được ấm êm hạnh phúc.

Trong thực tế, không ít người thường than phiền về cuộc sống gia đình của mình.

Ý thức sự bất toàn nơi con người, các tín hữu hướng về Thánh Gia khẩn xin gương sáng của Thánh Gia chiếu soi, nâng đỡ gia đình sống: Tin mừng – Gia-đình – Làm việc

I. TIN MỪNG

Là con, Ngôi Hai Thiên Chúa đã chọn Thánh Gia để nhập thể vào trần gian. Người chính là Tin Mừng, là ơn cứu độ, cho toàn thể nhân loại. Nơi Thánh Gia, Người đã xuất hiện “cách đơn sơ, khiêm tốn và dễ thương” và đã sử dụng những phương thế: khung cảnh, địa điểm, phong tục, ngôn ngữ, nghi lễ tôn giáo … để mặc khải chính mình cho thế gian.

Là chủ của Thánh Gia, thánh Giu-se, người công chính luôn tìm kiếm thánh ý Chúa: vâng theo lời thiên thần đón Trinh Nữ Ma-ri-a về làm vợ, theo luật tôn giáo dâng con vào đền thờ, tránh bạo vương Hê-rô-đê đang đêm đưa con trốn sang Ai cập, khi vua Hê-rô-đê chết chuyển gia đình hồi hương về Na-da-rét, thi hành bổn phận thờ phượng hàng năm đưa gia đình lên thành Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua.

Là hiền mẫu, Mẹ Ma-ri-a xin vâng như lời thiên thần truyền lãnh nhận nhiệm vụ cưu mang con Thiên Chúa nhập thể làm người, vội vã lên miền núi phục vụ bà chị họ, sinh con trong cảnh khó khăn, chăm lo phục vụ gia đình, suy gẫm lời Chúa và những kỷ niệm được Chúa ban cho.

Như vậy, từng thành viên trong Thánh Gia đều là tin mừng cho nhau và cho muôn người, cùng dắt dìu nhau trong ân sủng và tình thương của Thiên Chúa.

Ước mong mọi thành viên trong các gia đình trần thế hôm nay cũng trở nên tin mừng cho bản thân và cho nhau, cùng giúp nhau sống tình yêu thương hầu trở nên ánh sáng tin mừng cho muôn người.

II. GIA ĐÌNH

Tự bản chất, con người là một sinh vật xã hội, luôn sống cùng và sống với nhau. Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội tốt.

Gia đình chính là nơi đầu tiên để người ta học biết các giao tiếp xã hội. Bài học đầu đời luôn bắt đầu từ gia đình “học ăn học nói, học gói học mở”. Thầy cô giáo đầu tiên của mỗi người là chính người cha, người mẹ.

Như bao gia đình, Thánh Gia chính là một xã hội thu nhỏ, một Hội Thánh tại gia. Nơi ấy, Con Thiên Chúa được sinh ra làm người, được bắt đầu bập bẹ những tiếng nói nhân loại, được dạy dỗ để trở nên một người giữa mọi người.

Thánh Gia tuy nghèo hèn khắc khổ nhưng sáng ngời, chan chứa yêu thương hòa điệu với mọi người:

- Hàng ngày, Thánh Gia chia sẻ cuộc sống với khoảng năm mươi gia đình gắn bó với nhau nơi làng quê Na-da-rét hẻo lánh.

- Hàng năm, Thánh Gia cùng với bà con thân thích, bạn bè thân hữu dắt dìu nhau trẩy hội lên đền Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua.

- Đến mùa cưới, Thánh Gia cũng đi dự tiệc cưới để chia sẻ niềm vui với mọi người.

- Đến chân thập giá, Thánh Gia cũng không lẻ loi một mình, bởi dưới chân thập giá, cùng hiện diện với Mẹ Ma-ri-a còn có một số người nữa.

Thánh Gia đã sống hòa điệu với cuộc đời, đã đồng hành với mọi người trên từng bước đường của cuộc sống.

Gương Thánh Gia như đang mời gọi các gia đình hãy tái khám phá ý nghĩa và giá trị của gia đình, đồng thời ý thức vai trò nền tảng của gia đình trong trật tự xã hội. Nhờ vậy, các gia đình sẽ nghiêm túc thực hiện việc huấn luyện tại gia thể hiện qua việc: chỉ bảo cho nhau những ứng xử tích cực trong gia đình và với mọi người, giúp nhau vượt ra khỏi sự ích kỷ, hẹp hòi đóng khung khép kín của bản thân và gia đình mình để chia sẻ sự sống cho nhau và cho những người xung quanh, cùng nâng đỡ nhau xây dựng thế giới chan chứa yêu thương…

III. LÀM VIỆC

Sóng gió hiểm nguy đã qua, từ nơi đất khách quê người Ai-cập Thánh Gia đã hồi hương về làng quê Na-da-rét.

Tại đây, thánh Giu-se dùng nghề thợ mộc mưu sinh, kiếm tìm miếng cơm manh áo cho gia đình.

Mẹ Ma-ri-a tần tảo sớm hôm, chăm lo cho những sinh hoạt của cả nhà.

Trẻ Giê-su học nghề của cha nuôi để tìm kiếm sinh nhai. Rõ ràng, trong thân phận con người, Đức Giê-su đã có những trải nghiệm cụ thể. Từ trải nghiệm ấy, từng lời giảng dạy của Người đều chất chứa những hình tượng, những kinh nghiệm từ thiên nhiên từ sự quan sát cuộc sống…

Như vậy, Thánh Gia đã sống giữa những người đồng hương nghèo khổ bằng đôi tay lao động chân chính của mình.

Ngày nay, rất nhiều nơi, người ta than phiền về tình trạng nhiều người chẳng làm việc gì mà việc gì cũng xen vào, than phiền về tình trạng nhiều người chỉ muốn ngồi mát ăn bát vàn, hậu quả là tham nhũng, gian xảo, dối trá…than phiền về tình trạng người trẻ lạm dụng những tiện ích nên không biết đến giá trị của lao động, giá trị của những đồng tiền mồ hôi nước mắt, nên đã vô cảm đòi hỏi hưởng thụ quá đáng…

Ước mong gương lao động của Thánh Gia chiếu soi các gia đình, thúc đẩy mọi thành viên trong gia đình ý thức giá trị của lao động, hầu rèn luyện bản thân và đóng góp phần mình trong việc cộng tác với Chúa tiếp tục tạo dựng vũ trụ tốt đẹp, cộng tác với nhau xây dựng thế giới văn minh tình thương.

KẾT: Lúc này, tương quan nhiều gia đình lỏng lẻo và tình thân nhiều gia đình đang bị đe dọa bởi nhiều lý do.

Khát khao hạnh phúc cho gia đình, người tín hữu tìm về với Thánh Gia để học sống: Tin Mừng yêu thương, tình thân gia đình, cộng tác làm việc.

Nguyện xin gương Thánh Gia tỏa sáng trong các gia đình, cùng giúp nhau chia sẻ niềm vui và hạnh phúc.
 
Cầu nguyện, sống còn của gia đình
Lm. Minh Anh
22:39 26/12/2009
Lễ Thánh Gia Thất.

Khi các bài ca của thiên thần ngưng bặt,
Khi những chòm sao trên nền trời Bêlem lặng khuất,
Khi ba vua đã trở lại quê nhà,
Khi các mục đồng cùng đoàn vật đã rút lui,
Thì bấy giờ, công việc Giáng Sinh lại bắt đầu
để tìm kiếm những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đổ gãy,
để các tâm hồn được chữa lành,
để các nước được dựng xây trên công lý và hoà bình…
và để nhân loại được sống trong một nền văn minh mới, văn minh tình thương Kitô.

Vậy mà tất cả ấy lại được bắt đầu từ một mái ấm, từ một gia đình, gia đình Nazareth mà chúng ta quen gọi là gia đình Thánh Gia.

Như bao gia đình khác, Thánh Gia cũng đã trải qua những ngày nắng ấm, những chiều giông bão; cả những khoảnh khắc an vui lẫn những phút giây bồi hồi; nhiều lúc rộn rã tiếng cười, bao lần sùi sụt tiếng khóc.

Thử nhìn lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy của đôi bạn trẻ Giuse - Maria. Từ phút truyền tin, từ buổi đón nhau về cho đến ngày sinh con giữa đồng không mông quạnh, hay khi phải ẵm con đỏ hỏn làm khách trọ quê người…, Thánh Gia phải đương đầu với bao thử thách. Thử thách bên ngoài do hoàn cảnh, thử thách bên trong như câu chuyện Tin Mừng chúng ta vừa nghe, “Con ơi, sao con làm thế, này cha con và mẹ phải lo lắng tìm con?”. “Cha mẹ không biết rằng con phải lo việc nhà Cha con sao?”. Đó là cả một thử thách, một hiểu lầm. Ngước nhìn lên hang đá, bóng thánh giá đã thấp thoáng ở đó.

Ấy thế, kính thưa Anh Chị em,

Gia đình ấy vẫn là một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, gia đình ấy vẫn trở nên thước ngọc khuôn vàng cho mọi gia đình trong nhân loại. Đó là một gia đình kính sợ Thiên Chúa, một gia đình cầu nguyện, một gia đình mà con cái là tất cả của cha mẹ và cha mẹ là tất cả của con cái. Ở đó, cha mẹ là cả một bầu trời cho con cái và con cái là cả một bầu trời của cha mẹ.

Ở đó, có một người cha chăm chỉ làm việc, một người mẹ ít nói nhưng cầu nguyện nhiều và cả hai cùng ra sức làm gương tốt để nuôi dạy và giáo dục trẻ Giêsu. Ở đó, người con Giêsu hằng vâng lời tùng phục cha mẹ mình.

Trước bao khủng hoảng của cuộc sống hôm nay, nền đạo đức luân lý gia đình đang hấp hối, không ít gia đình đang đối diện bên bờ vực đổ vỡ. Đời sống vật chất của một xã hội tiêu thụ và hưởng thụ đang chực nuốt chửng cái giá trị đạo đức truyền thống của gia đình. Cha mẹ ít có thời giờ cho nhau, chẳng có thời giờ để ở với con cái. Chưa bao giờ mà con cái vuột mất khỏi tầm tay cha mẹ như hôm nay. Cha mẹ mất con ngay khi con đang ở trong nhà. Gương lành gương tốt đang trở nên một cái gì xa xỉ và hiếm hoi. Đó là chưa nói đến gương mù gương xấu nhan nhản trên báo chí, trên phim ảnh...

Hỡi những người làm cha làm mẹ, cả những người làm con, hãy nhìn lên Thánh Gia. Hãy chiêm ngắm Giuse, Maria và trẻ Giêsu: những tấm gương ngời sáng của một người cha, một người mẹ và một người con hết lòng vì gia đình. Hãy làm sống lại truyền thống gia phong Á Đông của cha ông.

Chuyện kể về một người chuyên nuôi cá cảnh. Một hôm, trong kỳ hè, khi đang dạo chơi trước các quầy hàng dọc theo bờ biển, anh thấy một con cá ngũ sắc tuyệt đẹp trong một chậu thủy tinh ở quầy. Đó là một con cá nước mặn xinh xắn mà anh chưa từng thấy, anh quyết định mua về. Về đến nhà, anh ra sức chăm sóc nó và áp dụng những phương pháp tốt nhất của một nhà chuyên môn.

Trước hết, anh đặt cá vào chậu nước mặn, cá lội tung tăng trong môi trường quen thuộc. Thế nhưng, một tuần sau, với sáng kiến, anh thêm vào một ít nước ngọt, mỗi ngày một ít. Cứ thế, anh tăng dần nước ngọt cho đến khi chú cá quen hẳn với môi trường mới. Không dừng lại ở đó, anh tiếp tục luyện cá. Mỗi ngày, anh bắt đầu đổ vào chậu một ít bùn, và cứ thế, sau nhiều tháng, lượng bùn được tăng lên cho đến khi con cá quen hẳn với việc ngày ngày nằm trên mặt bùn đớp mồi như một loài bò sát. Chưa hết, anh tập cho cá ra khỏi chậu và lẽo đẽo theo anh như một con cún cưng. Anh đã thành công, vì mỗi lần anh đi đâu, con cá màu ngoan ngoãn theo sau. Cho đến một ngày kia, chuyện đã xảy ra khi anh có việc sang nhà bạn, có chú cá cùng đi. Lúc trở về, trời đổ mưa, anh phải chạy thật nhanh và quên mất chú cá. Sực nhớ, anh quay lại tìm, nhưng chẳng thấy đâu cho đến khi gặp một vũng nước trên đường, thì hỡi ôi, chú cá yêu quý của anh nằm chết trong đó vì nó không biết bơi.

Câu chuyện khiến chúng ta rùng mình sởn ốc khi nhớ đến trách nhiệm và bổn phận của một người làm cha làm mẹ trong việc giáo dục và làm gương sáng cho con cái. Vì “nửa cuộc đời còn lại của một con người được hình thành từ những thói quen có được từ nửa cuộc đời trước đó”. Thói quen cầu nguyện, thói quen đạo đức, thói quen lễ phép, thói quen dùng thời giờ, thói quen học hành, thói quen dùng tiền…, nghĩa là giáo dục thế nào, kết quả thể ấy.

Muốn được như thế, gia đình chúng ta phải là một gia đình mà Thiên Chúa phải chiếm địa vị tối thượng tuyệt đối trong bậc thang các giá trị. “Không ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa, Chúa trên hết, Chúa trước hết”. Bởi lẽ, gia đình được dựng xây và phát xuất từ gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu Thiên Chúa không chiếm địa vị độc tôn tối thượng, mọi trật tự sẽ đảo lộn. Có Chúa, gia đình sẽ là một gia đình cầu nguyện. Nhưng để trở nên một gia đình cầu nguyện, để nuôi dưỡng đời sống đức tin, phải lưu ý đến ba hình thức cầu nguyện:

1. Trước hết là hình thức cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người trong gia đình cầu nguyện riêng với Chúa. Đời sống đức tin phải được đặt nền tảng trên việc trải nghiệm cá nhân với Chúa. Một trong những món quà quý báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là tập tành dạy dỗ và làm cho chúng biết yêu thích cùng thưởng thức những giây phút cầu nguyện một mình. Không cách nào để thực hiện điều đó tốt hơn là dùng chính những gương sáng cầu nguyện của mình.

2. Hình thức thứ hai của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu nguyện chung: kinh nguyện gia đình. Kinh nghiệm cho thấy, các gia đình bỏ kinh, bỏ cơm chung... là dấu hiệu cho thấy sự rạn nứt. Có hình ảnh nào dễ thương hơn khi mọi người được lắng nghe Lời Chúa trong những giây phút này. Hãy để Chúa Thánh Thần dạy dỗ mỗi khi đêm về nhiều hơn thay vì cả nhà ngồi chầu trước con quái vật một mắt để nghe con người dạy bảo.

Thống Tướng Douglas MacArthur, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ Quân Đội Philippines thập niên 1930, người đã để lại một câu nói bất hủ: "In war, there is no substitute for victory", “Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng”. Vậy mà trong tiểu sử của ông còn có một câu nói bất hủ hơn: “Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha…và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh ở trận chiến mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó những lời kinh thường đọc hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”.

3. Cuối cùng, cầu nguyện với cộng đoàn, Nhà Thờ phải là ngôi nhà thứ hai của mỗi gia đình. Ở đó, cùng với cộng đoàn, mỗi người thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các Bí Tích cùng những sinh hoạt không thể thiếu khác với cộng đoàn dân Chúa.

Lễ Thánh Gia hôm nay là dịp để chúng ta tự vấn về việc cầu nguyện trong gia đình của mình. Cầu nguyện có phải là một phần sống chết của gia đình tôi không? Cụ thể hơn là chúng ta - cha mẹ, con trai, con gái - đã góp phần và làm gương sáng vào đời sống cầu nguyện trong gia đình thế nào?

Để kết thúc, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện với Nguyên Soái Douglas McArthur khi ông đang ở chiến trường Philippines trong những ngày mở đầu cuộc chiến Thái Bình Dương.

“Lạy Cha, xin ban cho đứa con của con đủ sức mạnh để biết được lúc nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó cảm thấy sợ hãi… Xin đừng để cho đứa con của con chỉ biết ước muốn mà không dám hành động… Xin đừng để nó đi vào con đường dễ dãi tiện nghi, nhưng hãy hướng dẫn nó đi vào con đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách.

Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông cảm với những ai gục ngã.

Xin hãy ban cho đứa con của con có một trái tim trong sạch, có một mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác, biết lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên quá khứ.

Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin cũng hãy ban cho nó có đủ tính hài hước để có thể luôn nghiêm nghị nhưng không bao giờ nghiêm nghị một cách quá đáng.

Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng, con đã không sống một cách vô ích”.

Mừng kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta cầu nguyện cho các bậc làm cha mẹ luôn ý thức tầm quan trọng của việc hình thành những chiếc khuôn giáo dục nhân cách, đạo đức cho con cái. Xin cho mọi thành phần trong gia đình luôn biết làm gương sáng cho nhau, gương sáng cầu nguyện, gương sáng yêu thương quên mình. Ở đó, tình yêu, chứng tá hùng hồn nhất của Tin Mừng luôn được hâm nóng và toả sáng cho mọi người chung quanh. Nguyện xin Thánh Gia luôn che chở, cầu bầu và ban bình an cho gia đình Anh Chị em trong Mùa Giáng Sinh hồng ân này và suốt cả Năm Mới, Amen.

(Tham khảo thêm New Sunday & Holy Day Liturgies by Flor McCarthy)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Những ca khúc Giáng sinh được mọi thời ưa chuộng
Phụng Nghi
01:36 26/12/2009
Lời ngỏ



Tiếng hát mừng Chúa ra đời đã được cất lên ngay từ lễ Giáng sinh đầu tiên, trên khắp tầng trời cao thẳm:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho người thiện tâm.


Rồi từ ngày đó, trải qua bao nhiêu năm tháng, những bản thánh ca mừng Chúa ra đời đã vang vọng khắp nơi, từ trong các ngôi giáo đường nguy nga lộng lẫy cho đến những miền thôn trang hẻo lánh nghèo nàn. Hài Nhi hạ sinh trong một chuồng chiên bò đã được ngợi ca bằng hàng trăm bản hợp xướng du dương trầm bổng của biết bao nhiêu ca đoàn, bằng tiếng hát điêu luyện lẫy lừng của những ca sĩ nổi danh, bằng những giọng ca đơn sơ mộc mạc của người dân thôn dã. Rất nhiều bài ca mừng lễ Giáng sinh đã được sáng tác bằng đủ mọi loại ngôn ngữ, được hát lên, được trân quý, được ghi nhớ và đi theo với con người vào dòng lịch sử, và sẽ mãi mãi còn được ca vang cho đến ngày sau cùng của trái đất.

Quê hương Việt Nam chúng ta đã đón nhận ánh sáng Tin Mừng soi rọi từ hơn 400 năm. Nhưng chúng ta đã không có những bản thánh ca phổ thông bằng tiếng Việt cho mãi tới khi đất nước được độc lập. Những bài ca mừng Giáng sinh bằng Việt ngữ ra đời cùng một lần với rất nhiều bản thánh ca khác khi giáo nhạc nở rộ vào thập niên 40. Những bài hát như “Hang Belem” của Hải Linh, “Cao Cung Lên” của Hoài Đức và Nguyễn Khắc Xuyên..., được hát lên khắp hang cùng ngõ hẻm và ngày nay lan tỏa ra khắp năm châu theo với đoàn người Công giáo Việt.

Đã từ lâu chúng tôi mong mỏi được nghe kể về những giai thoại liên quan đến các bản thánh ca Việt Nam. Chúng tôi nao nức muốn tìm hiểu về các nhạc sĩ tác giả, hoàn cảnh sáng tác, tư liệu, nguồn cảm hứng, khó khăn hoặc thuận lợi khi phổ biến, hay bất cứ chi tiết nào hoặc kỷ niệm nào về bản nhạc, nhưng rất khó tìm được tài liệu. Có lẽ các nhạc sĩ - một số vị nổi danh nay đã ra người thiên cổ - vì quá khiêm tốn nên không muốn đề cập, hoặc vì hoàn cảnh khó khăn của đất nước và chiến tranh nên sách vở tài liệu đều bị tiêu hủy hay thất lạc. Trong những năm gần đây, các trung tâm chuyên sản xuất video ca nhạc ở hải ngoại – như Thúy Nga, Asia...- đã mời một số nhạc sĩ xuất hiện trong các chương trình ca nhạc đặc biệt nhằm vinh danh họ, và các nhạc sĩ này đã kể lại một ít giai thoại về cuộc đời sáng tác, những kỷ niệm chung quanh một số nhạc phẩm..., có rất nhiều chi tiết lý thú khiến chúng ta hiểu thêm về cuộc đời họ, về các bản nhạc họ sáng tác. Nhưng đối với nhạc tôn giáo, chúng ta chưa có những chương trình như vậy.

Nhân mùa lễ mừng Chúa giáng trần, chúng tôi xin mời độc giả cùng đọc với chúng tôi những chuyện kể về mấy ca khúc Giáng sinh được ưa chuộng. Những chuyện này chúng tôi dịch thuật theo Ace Collins trong cuốn Stories Behind the Best Loved Songs of Christmas. Cuối mỗi bài, chúng tôi in nguyên văn bài hát và những bản chuyển âm sang Việt ngữ của nhạc sĩ Việt nam hoặc của các giáo hội Thiên Chúa giáo (nếu có). Một số chuyện kể này đã xuất hiện trên trang mạng VietCatholic mấy năm trước đây, nay chúng tôi tổng hợp lại. Ở phần cuối loạt bài này, chúng tôi xin trình thuật một số tài liệu về các nhạc bản “Hang Be lem” của Hải Linh và “Cao Cung Lên” của Hoài Đức. Ước mong các nhạc sĩ, nhà nghiên cứu hay các vị viết lịch sử âm nhạc Công giáo Việt Nam tìm hiểu, thâu thập và đưa ra những chuyện kể lý thú liên quan đến các bản nhạc Giáng sinh Việt Nam khác mà chúng ta trân quý từ hơn nửa thế kỷ nay.



Phụng Nghi





1. SILENT NIGHT



(Đêm Thánh Vô Cùng)



Năm 1817, cha Joseph Mohr, lúc đó mới 25 tuổi, được bổ nhiệm làm linh mục phụ tá tại nhà thờ Thánh Nicholas ở miền Oberndorf nước Áo.

Cậu Mohr ngay từ lúc thiếu thời đã say mê âm nhạc, được đặt làm người phụ trách âm nhạc tại một nhà thờ nhỏ; có lúc cậu đã sáng tác thơ và đặt lời cho những bài ca trong các nghi lễ đặc biệt tại giáo đường. Khi trở thành linh mục, cha Mohr làm việc không biết mệt mỏi trong các công tác từ thiện phục vụ thanh thiếu niên con các gia đình nghèo khó trong vùng.

Một ngày mùa đông năm 1818, cha Mohr đang cố công hoàn thành mọi sửa soạn cho thánh lễ Giáng sinh, một nghi lễ mà cha đã hoạch định trước cả tháng. Mọi thứ đều đã xong xuôi, từ bài hát cho đến bài giảng. Nhưng lúc cha dọn dẹp thánh đường mới khám ra một trở ngại tưởng không thể khắc phục được: đó là chiếc phong cầm của nhà thờ bị hư. Nóng lòng, cha lui cui hàng giờ đánh vật với hàng phím, với bàn đạp của chiếc đàn, có lúc bò cả ra phía sau để mong tìm ra chỗ hư hỏng. Bất chấp mọi khó nhọc của cha, chiếc đàn vẫn nằm ỳ ra không lên tiếng, im lặng chẳng khác cái lặng lẽ của một đêm đông giá lạnh.

Nhận thấy không thể làm gì hơn được, vị linh mục ngừng lại và cầu nguyện. Cha cầu xin Chúa cho cha tìm được một giải pháp nào để đem được âm nhạc đến với giáo dân trong một ngày lễ có ý nghĩa nhất trong năm. Có lẽ cha đã tìm được đáp ứng cho lời cầu nguyện của cha phát sinh từ những sự việc xảy ra cách đấy gần cả hai năm.

Năm 1816, lúc phục vụ nơi một thánh đường tại Mariapfarr, cha Mohr đã viết một bài thơ mừng Chúa Giáng sinh. Bài thơ gồm 6 khổ, cha cảm hứng sáng tác trên đường đi bộ từ nhà ông nội đến nhà thờ. Tuy có đưa cho vài người bạn xem bài thơ, nhưng cha chưa bao giờ nghĩ đến chuyện phổ biến hoặc có ý định đem ra phổ nhạc. Khi được đổi đến xứ đạo Oberndorf, cha mang theo bài thơ đó cùng với số vật dụng ít ỏi của mình.

Tìm lại bài thơ “Still Nacht! Heilige Nacht!” (Đêm Yên Lặng! Đêm Thánh!) trên bàn viết, cha đọc lại lúc này đã hai năm sau ngày sáng tác. Từ trước đến nay, những vần thơ đó dường như không mấy quan trọng đối với cha, nhưng lúc này đọc lại, cha thấy dường như Chúa đã cho cha một tia sáng hy vọng. Bỏ bài thơ vào túi áo cha vội vã ra khỏi nhà. Chỉ còn mấy giờ nữa là thánh lễ nửa đêm bắt đầu, vị linh mục băng nhanh qua những đường phố đầy tuyết phủ.

Cũng vào buổi chiều hôm đó, Franz Gruber, người giáo viên làng 31 tuổi đang co ro trong căn phòng nhỏ bên cạnh trường học. Mặc dầu đã theo học phong cầm với giáo sư nổi tiếng Georg Hardobler, Gruber cũng chỉ chơi đàn cho nhà thờ St. Nicholas nhỏ bé. Đang miên man với mấy nốt nhạc trên chiếc đàn thì ông ngạc nhiên nghe tiếng gõ cửa và thấy cha Morh bước vào. Ông nghĩ thầm: giờ này thì cha đáng lẽ phải ở nhà thờ sửa soạn dâng thánh lễ, có đâu rảnh rang mà dạo quanh thăm viếng bạn bè.

Sau câu chúc mừng Giáng sinh vội vã, vị linh mục hối hả kéo ông giáo làng tới chiếc bàn nhỏ trong phòng và ra dấu bảo ngồi cạnh mình. Bằng giọng nói rõ ràng là nản chí, cha kể cho ông nghe nỗi khó khăn trước mặt. Sau khi bảo Gruber rằng chiếc đàn không thể sửa được, cha liền đem bài thơ ra và nói:

- Franz, anh xem có thể viết nhạc cho bài thơ này để ca đoàn hát được không? Không có đàn thì ta chơi guitar vậy.

Rồi vị linh mục đưa mắt nhìn đồng hồ trên bàn, nói thêm: Không còn nhiều giờ nữa đâu.

Đọc kỹ bài thơ, Gruber gật dầu. Ánh mắt và nụ cười của ông chứng tỏ ông chấp nhận thử thách đó. Tin tưởng là Chúa đã sắp đặt mọi sự, cha Mohr vội vã băng qua những đường phố ngập tuyết trở về nhà thờ, bỏ lại Gruber một mình ngồi đó với bao nhiêu ý tưởng, trước một chiếc đồng hồ đang tích tắc kêu và một lời cầu mong xin tìm ra hứng khởi.

Mấy tiếng đồng hồ sau hai người gặp nhau tại nhà thờ. Trong ngôi thánh đường có ánh đèn tỏa sáng, Gruber đưa cho vị linh mục coi bản nhạc của mình. Linh mục chấp thuận, dùng đàn guitar gảy lên những nốt nhạc rồi vội vã chuyển cho ca đoàn đang chờ đợi tập dượt. Công trình tưởng chừng phải mất cả tuần lễ thì nay chỉ cần mấy tiếng đồng hồ là xong. Không có nhiều thời giờ tập dượt, cha Mohr và Gruber chỉ dạy được cho ca đoàn phần hòa âm bốn giọng của mỗi hai câu thơ cuối.

Trong thánh lễ nửa đêm, cha Mohr và Gruber đứng trước bàn thờ giới thiệu bản nhạc nhỏ bé và giản dị của hai người. Họ đâu ngờ rằng “Still Nacht! Heilige Nacht!” không chỉ sẽ được nhớ tới vào ngày Giáng sinh kế tiếp trong ngôi làng bé nhỏ của họ mà còn được ca hát khắp thế giới gần hai trăm năm sau nữa.

***

Mấy tuần lễ sau ngày tết dương lịch, anh chàng Karl Mauracher chuyên chế tạo và sửa đàn phong cầm ngụ tại vùng thung lũng Ziller, đến nhà thờ St. Nicholas để sửa đàn cho cha Mohr. Trong lúc anh lui cui sửa chữa, cha Mohr đem câu chuyện cha đã dùng đàn guitar để chơi một bản nhạc phổ bài thơ cũ để cứu vãn buổi lễ đêm Giáng sinh vừa qua. Cha hát cho anh chàng này nghe bản nhạc đó, và nói rằng cha tin là Chúa đã nghe lời cha nguyện cầu. Thích thú vì bản nhạc, anh chàng Karl lấy giấy ghi xuống bài ca và học thuộc lòng các nốt nhạc. Những năm sau, theo với nghề nghiệp phải đi đây đi đó, anh giới thiệu bản nhạc này với nhiều đô thị và thánh đường.



Bản “Still Nacht! Heilige Nacht!” nguyên thủy

Vào thế kỷ 19, ở nước Áo và nước Đức có nhiều nhạc sĩ du ca. Mỗi nhóm du ca gồm các thành viên trong cùng một gia đình thường không chỉ hành nghề ca hát mà còn làm những việc chuyên biệt khác để có tiền chi dụng trong lúc di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Năm 1832, nhóm du ca thuộc gia đình Stasser xuất hiện tại một cộng đồng nhỏ nơi anh chàng sửa đàn Mauracher đang ráp đặt một chiếc phong cầm. Trong thời gian ở đó, nhóm du ca này học được bài “Still Nacht!” và mấy tuần sau đem trình bày tại một buổi diễn tại Leipzig, trước một đám thính giả rất đông đến coi hội chợ. Nhận thấy bản nhạc này mang một sứ điệp tinh thần sâu xa, hoàng đế nước Áo William IV truyền cho ca đoàn nhà thờ chính toà của ông ca bản nhạc này trong nghi lễ Giáng sinh hàng năm. Một phần cũng vì lòng ưu ái đó của nhà vua mà nhạc bản này lan tràn ra khắp miền đông Âu rồi tràn qua Anh quốc.

Tháng 12 năm 1839 một nhóm du ca khác thuộc gia đình Rainer tới Nữu Ước. Một phần chương trình của họ là trình bày bản “Still Natch!” bằng Anh ngữ (Silent Night!) trước một cử tọa rất đông đảo tại thánh đường Chúa Ba Ngôi. Bản nhạc trở thành phổ thông và được rất nhiều ca đoàn hát trong các nhà thờ. Vào thời kỳ nội chiến ở Mỹ, bản nhạc “Silent Night” trở thành bài ca Giáng sinh phổ biến nhất. Trong trận chiến giữa hai miền nam bắc, không hiếm thấy cảnh ngưng chiến bốn ngày trong dịp lễ Giáng sinh, binh sĩ giữa hai miền thù nghịch cùng buông súng, tụ họp lại để dự lễ, đọc Thánh kinh, chia sẻ quà cáp, và cùng ca bài “Silent Night”.

Bài hát càng được phổ biến thì nguồn gốc càng bị phân hoá. Có nhiều lúc các nhà xuất bản gán cho tác giả bản nhạc này là một trong các nhạc sĩ đại tài như Bach, Beethoven hoặc Handel. Chỉ mãi tới khi Franz Gruber gửi tới các báo và các nhà xuất bản bản sao tờ phổ nhạc của mình thì nguồn gốc đích thực mới được công nhận. Mặc dầu vậy, nhiều giai thoại về lời ca của bản nhạc vẫn còn được truyền tụng.

Cha Mohr qua đời trong cảnh nghèo khó vào năm 1848 trước khi được công nhận là tác giả bài thơ được phổ nhạc. Cha mất nên không thể chứng minh câu chuyện, do đó mới có truyền thuyết kể rằng bài thơ đã được viết ra vội vã sau khi khám phá thấy chuột đã cắn hại chiếc phong cầm, chứ không phải thực ra là chiếc đàn đã rất cũ và bị hư hại vì thời tiết quá lạnh. Truyền thuyết này được nhiều người công nhận nhưng thật ra có vẻ tiểu thuyết hơn là sự thực.

Vào cuối thập niên 1800, bản “Silent Night” đã được phiên dịch ra khoảng hơn 20 ngôn ngữ khác nhau và là nhạc bản không thể thiếu trong các lễ hội Giáng sinh trên khắp thế giới. Sang đến thế kỷ 20, nhạc bản này đã đi ra khỏi các giáo đường, hội nhập với những tập tục Giáng sinh khác.

Vào năm 1905 bản nhạc Silent Night được thu âm lần đầu tiên do ban nhạc Haydn Quartet. Đó mới chỉ là khởi đầu, sau đó bản nhạc đã được thâu âm cả bao nhiêu ngàn lần do các ban nhạc khác nhau trên khắp thế giới. Tới năm 1960, Silent Night được công nhận là bản nhạc được ghi âm nhiều nhất trong lịch sử âm nhạc.

Mặc dầu với tính cách phổ thông như vậy, trong tâm trí nhiều người, bản Silent Night được viết ra lúc khởi đầu chỉ là một nhạc bản giản dị, một khúc ngợi ca. Được sáng tác để làm cho nghi thức mừng lễ Giáng sinh có ý nghĩa hơn, bản nhạc xưa cũ này vẫn còn mạnh mẽ và tươi mát như lần đầu tiên được hát lên trong ngôi thánh đường nhỏ bé nơi nước Áo xa xôi. Như một lời cầu xin được đáp ứng, Silent Night chỉ với mấy câu thơ ngắn ngủi cũng đủ mô tả được câu chuyện Giáng sinh của đấng Cứu thế trong máng cỏ nghèo nàn.

Ghi chú:

1. Bản nhạc này đã được cố nhạc sĩ Hùng Lân “Việt hoá” từ hơn nửa thế kỷ trước tại Việt nam và được hát trong các thánh đường Công giáo cũng như trên các đài truyền thanh truyền hình từ đó đến nay trong mùa lễ Giáng sinh. Ông không chuyển dịch bài ca nhưng đặt lời hoàn toàn mới, dùng những từ ngữ văn chương bóng bảy như “xe chữ đồng, ơn châu báu không bờ bến, nhắp chén phiền, vương phong trần, tuyết sương mịt mù...” Sau đây là lời ca do ông đặt:

- Đêm Thánh vô cùng

Giây phút tưng bừng

Đất với Trời xe chữ đồng

Đêm nay Chúa Con thần thánh tôn thờ

Canh khuya Giáng sinh nơi chốn hang lừa

Ơn châu báu không bờ bến

Biết tìm kiếm của chi đền.

- Ôi Chúa Thiên đàng

Cam mến cơ hàn

Nhắp chén phiền vương phong trần

Than ôi Chúa thương người đến quên mình

Bơ vơ chốn quê nhà lúc sinh thành

Ai ham sống trong lạc thú

Nhớ rằng Chúa đang đền bù

- Tinh tú trên trời

Sông núi trên đời

Với Thánh thần mau kết lời

Cao rao Hóa công đã khéo an bài

Sai con hiến thân mong cứu nhân loại

Hang chiên máng rêu tạm trú

Bốn bề tuyết sương mịt mù

2. Bản Anh ngữ:

- Silent night, Holy night,

All is calm, all is bright

’Round yon virgin mother and child!

Holy infant so tender and mild,

Sleep in heavenly peace,

Sleep in heavenly peace.

- Silent night, Holy night

Shepherds quake at the sight

Glories stream from heaven afar,

Heavenly hosts sing “Alleluia”

Christ the Savior is born.

Christ the Savior is born.

- Silent night, Holy night

Son of God, love’s pure light

Radiant beams from Thy holy face

With the dawn of redeeming grace.

Jesus, Lord at thy birth.

3. Bản chuyển dịch của Hội thánh Báp-tít Việt Nam:

- Đêm xuống êm đềm

Chuông thánh vang rền

Lướt lướt êm qua bao miền

Năm xưa ấy khắp nơi thanh vắng im lìm

Nhưng chuông thánh vẫn ngân nga khúc mơ huyền

Hoan nghênh Chúa con Trời giáng đến

Chuông thanh bình lắng buông êm đềm

- Đêm Chúa ra đời

Sao sáng trên trời

Có mấy người chăn quanh đồi

Nghe trong gió tiếng Thiên binh hát vang trời

Nghe trong gió tiếng Thiên binh hát vang lời

Giê-xu đến đem tình yêu tới

Đem thanh bình đến cho muôn người

- Năm tháng qua dần

Ai có hay rằng

Đã có lần Chúa xuống trần

Thương ta Chúa đến xóa bao vết thương lòng

Cho ta sống trong vui tươi với hy vọng

Ôi Giê-xu Chúa ru lòng êm ấm

Giữa khi cuộc thế đang xoay vần

4- Phiên bản khác của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam:

- Đêm thánh yên lặng! Đêm thánh an bình!

Đất vắng yên! Thiên quang ngời!

Chung quanh chỗ Ma-ri đang ngắm con mình,

Con Trai thánh rất tươi vui, rất an bình,

Đang yên giấc dưới trời vắng,

Êm đềm Thánh Vương nghi vệ.

- Đêm thánh yên lặng! Đêm thánh an bình!

Những kẻ chăn, bỗng hãi hùng,

Vinh quang sáng rỡ nơi thiên quốc soi rạng,

Muôn thiên sứ hát vang: Ha-lê-lu-gia!

Cứu Chúa giáng lâm trần thế!

Huy hoàng Thánh Vương lâm phàm!

- Đêm thánh yên lặng! Đêm thánh an bình!

Đức Chúa Con yêu thương đầy,

Dung quang thánh chiếu ra ân điển thiên đàng,

Như tia sáng cứu ân soi ánh huy hoàng,

Cứu Chúa giáng lâm trần thế!

Êm đềm Thánh Vương nghi vệ!

5. Nguyên bản bằng tiếng Áo:

Stille Nacht Stille Nacht, Heilige Nacht!

Alles schlft, einsam wacht

Nur das traute, hoch heilige Paar,

Holder Knabe im lockigen Haar,

Schlaf in himmlischer Ruh!

Schlaf in himmlischer Ruh!

Stille nacht, heilige Nacht!

Hirten erst kundgemacht

Durch der Engel Halleluja!

Tưnt es laut von fern und nah;

Christ, der Retter, ist da!

Christ, der Retter, ist da!

Stille Nacht, heilige Nacht!

Gottes Sohn, O wie lacht

Lieb aus deinem gưttlichen Mund,

Da uns schlgt die rettende Stund’,

Christ, in deiner Geburt!

Christ, in deiner Geburt!



2- RUDOLPH THE RED-NOSED REINDEER

(CON NAI RUDOLPH MŨI ĐỎ)



Năm 1938, khi cuộc đại khủng hoảng về kinh tế đang là vết thương trầm trọng trên khắp nước Mỹ và viễn ảnh về một tương lai sáng sủa hơn còn biền biệt ở chân trời, thì anh chàng Bob May thấy những ngày trước lễ Giáng sinh đang tới đậm một màu ảm đạm. Là một nhân viên quảng cáo cho tiệm Montgomery Wards, sống bằng đồng lương rất khiêm tốn, anh cảm thấy kiệt lực và sắp đến hồi khánh tận. Vợ anh, Evelyn, sau hai năm dài chiến đấu với bệnh ung thư, sắp đến ngày thua cuộc. Họ nhìn nhau, người nọ đọc được trong mắt người kia một nỗi thất vọng não nề. Đứa con gái của họ cũng nhận thấy có điều không ổn trong gia đình.

Vào một tối tháng chạp mùa đông lạnh, sau khi vào thăm mẹ đang nằm liệt giường, cô bé gái Barbara mới lên bốn tuổi sà vào lòng bố dõng dạc hỏi: “Tại sao mẹ con lại không giống mẹ mấy bé khác vậy?”

Làm sao có thể giải thích cho con gái hiểu được rằng người mẹ đau yếu của bé cũng muốn chơi đùa với bé, đọc chuyện cho bé nghe, và hơn hết, muốn được ở cạnh bé trong tất cả những giờ phút quan trọng trong đời? Làm sao có thể nói cho một cô gái ngây thơ như bé rằng bệnh tật và cái chết là một phần của đời sống này? Và mẹ của bé cũng mong mỏi được như những người mẹ khác, nhưng bệnh tật đã làm cho cả hai mẹ con không được hưởng những giây phút gần gũi bên nhau? Làm sao có thể cho bé những câu trả lời bé muốn biết mà không làm tan nát trái tim nhỏ của bé?

Gió bấc thổi mạnh đập lạt xạt vào của sổ căn chung cư hai phòng ở Chicago, Bob May ôm chặt đứa con vào lòng và cố tìm câu trả lời cho con bé. Anh nhớ lại nỗi đau khổ phải chịu trong thời thơ ấu vì anh rất khác mọi người. Lúc đó anh là một cậu bé nhỏ thó, gầy còm, bị những đứa trẻ khác thường xuyên trêu chọc và gọi bằng những cái tên xấu xa mà anh chẳng bao giờ muốn nhớ lại. Ngay lúc đã vào trường đại học, con người anh cũng vẫn còn loắt choắt đến nỗi nhiều người vẫn tưởng lầm là một cậu bé.

Mặc dầu có cấp bằng đại học, nhưng vì nền kinh tế trong nước đang trong tình trạng trì trệ nên May không thể kiếm được việc khá hơn cái công việc anh đang làm ở tiệm Wards, một việc dưới khả năng và kiến thức của anh. Vậy mà khi gặp được Evelyn và cưới nàng làm vợ anh cảm thấy mình như một ông hoàng. Lần đầu tiên trong đời anh có một nơi chốn để sống thoải mái không bị gò bó vì khuôn thước của con người. Đứa con gái chào đời cho anh một viễn ảnh lạc quan rằng thời gian tốt đẹp đang ló rạng ở chân trời. Nhưng rồi Evelyn mắc bệnh, cuộc chiến đấu chống lại bệnh ung thư đó không những làm hao mòn mọi năng lực của nàng mà cũng làm tiêu tan bao nhiêu tiền bạc hai người dành dụm được. Bob phải bán đi mọi vật dụng có giá trị trong nhà và sống trong cảnh chật vật thiếu thốn.

Nhưng trong cái đêm đông gió lạnh đó, mặc dầu có đủ lý do để than van, khóc lóc, Bob cũng muốn cho cho đứa con gái của anh hiểu rằng vẫn còn chút gì hy vọng, và dù có khác biệt với người khác nhưng đó cũng chẳng phải là điều đáng hổ thẹn. Nhưng trên hết cả, anh muốn rằng bé lúc nào cũng được yêu thương. Lấy kinh nghiệm bản thân trong quá khứ, anh tạo ra câu chuyện về một con nai có cái mũi đỏ, sáng và lớn. Và lúc cô bé Barbara lắng nghe, anh mô tả cho bé hay, dưới hình thức một câu chuyện, cái nỗi khổ của những kẻ bị khinh khi là khác người, nhưng cả những niềm vui khi có ai đó khám phá ra địa vị đặc biệt của họ trên cõi đời này.

Bé Barbara rất thích thú nên sau đó đêm nào cũng đòi bố thuật lại câu chuyện. Cứ mỗi lần kể lại, câu chuyện càng thêm sống động hơn, và con nai Rudolph không còn là một nhân vật tưởng tượng nữa mà cứ như là thành viên trong gia đình anh vậy. (Chuyện thuật rằng con nai Rudolph có cái mũi đỏ au và nhẵn bóng nhìn vào như thấy sáng lên chẳng khác một bóng đèn. Mọi nai khác thường cười nhạo và không chơi với nó. Nhưng rồi một chiều trước lễ Giáng sinh trời âm u đầy sương mù, ông già Noel đến bảo nó: Rudolph, con có cái mũi sáng quá, con muốn hướng dẫn chiếc xe kéo quà Giáng sinh cho ta đêm nay không? Thế là Rudolph không còn bị các nai khinh thường nữa mà lại được yêu mến, hoan hô.)



Không có tiền mua quà Giáng sinh cho con năm đó, Bob định chép câu chuyện chú nai Rudolph vào một tập giấy và dùng tài khéo léo của một nghệ sĩ để minh họa các hình ảnh. Nhiều buổi tối, sau khi vợ con đã đi ngủ, Bob cặm cụi tỉ mỉ cố hoàn thành món quà độc nhất đó của anh dành cho đứa con. Nhưng thảm cảnh đã xảy đến với gia đình anh ngay trước lễ Giáng sinh: Evelyn vợ anh gục ngã trước tử thần trong cuộc chiến đấu với bệnh ung thư.

Dù cho những trang cuối cùng của tập sách thấm đượm nước mắt, Bob nhất định không bỏ cuộc. Anh biết con gái hơn lúc nào hết cần có câu chuyện để nâng đỡ tinh thần. Anh cầu xin cho có đủ năng lực để hoàn thành dự tính đó. Và những cố gắng của anh đã được tưởng thưởng khi thấy đứa bé hớn hở vui cười với món quà là tập sách Chú Nai Rodolph Mũi Đỏ vào buổi sáng ngày lễ Giáng sinh năm đó.

Tuy không có hứng thú muốn tham dự các lễ lạc gì, nhưng mấy ngày sau đó Bob bắt buộc phải đến dự buổi liên hoan của nhân viên hãng Montgomery Wards. Mấy người đồng sự trong ban quảng cáo yêu cầu anh kể chuyện nhi đồng vào đêm đó. Mặc dầu không thích, nhưng anh đem theo tập chuyện và khi đến lúc đã chỉ định, anh leo lên bục cao trước đám đông và đọc câu chuyện chú nai Rudolph. Sau những chuỗi cười mọi người đứng bật dậy để hoan hô anh và câu chuyện nhi đồng của anh bằng những tràng pháo tay rộn rã. Mọi người đều yêu thích chú nai Rudolph và muốn có một tập chuyện để đem về nhà.

Ông chủ hãng Montgomery Wards là Stewell Avery đánh hơi thấy hãng có thể có lợi nhờ câu chuyện chú nai đó. Trả cho anh chàng May đang túng thiếu và nợ nần một món tiền nhỏ tác quyền, ông cho in 10 ngàn bản chuyện chú nai Rudolph để gửi đến các tiệm Montgomery Wards trên toàn nước Mỹ kịp vào lễ Giáng sinh năm 1939. Đáp ứng thật là khả quan, nên trong vòng 6 năm sau đó cứ mỗi đứa bé đến thăm ông già Noel tại tiệm thì được tặng một tập sách in câu chuyện chú nai của May.

Đến năm 1946 thì Montgomery Wards đã tặng ra 6 triệu bản chuyện Rudolph và các nhà xuất bản lớn tới tấp yêu cầu Stewell Avery cho phép in lại chuyện đó. Bằng một nghĩa cử cao đẹp chưa bao giờ thấy nơi một ông giám đốc, Avery trao trả lại bản quyền câu chuyện cho anh chàng Bob May. Một năm sau, nhờ sách được in ra ào ạt, anh trở thành một người giầu có.

Với câu chuyện đã trờ thành một best seller, nhiều món đồ chơi và sản phẩm dựa theo cốt truyện được sản xuất và trọn cuộc đời của anh chàng May trở thành khá giả chỉ nhờ vào một câu chuyện nhỏ anh kể cho đứa con gái. Anh tục huyền và có một gia đình mới đông vui hơn. Thế rồi người em rể của anh tên Johny Marks quyết định đem câu chuyện kể làm thành bài hát.

Marks là người đã viết nhạc cho nhiều ca sĩ thu thanh, hy vọng rằng ca sĩ lừng danh Bing Crosby sẽ thu âm bản nhạc Rudolph the Red-Nosed Reindeer cho mình. Khi Bing Crosby qua đời, Marks yêu cầu nữ ca sĩ Dinah Shore, nhưng nàng từ chối. Một số ca sĩ khác cũng được yêu cầu nhưng không ai chịu. Cuối cùng đến phiên anh chàng ca sĩ cao-bồi Gene Autry được mời. Marks nghĩ rằng Autry đang tìm một bài nào đó tiếp theo sau bản nhạc Giáng sinh rất ăn khách “Here Come Santa Claus”. Vả nữa, Autry lại thường hay ca những bản nhạc nhi đồng vì thiếu nhi là khán giả chính của ca sĩ này.

Giống như Crosby, Shore và các nghệ sĩ khác, Autry không thấy thích thú bản nhạc về chú nai. Anh mới tìm được bản nhạc thiếu nhi “If It Doesn’t Snow This Christmas” và cảm thấy sẽ ăn khách hơn. Tuy biết chắc bản nhạc vừa nói rất hay và thích hợp cho thiếu nhi, nhưng Marks cứ năn nỉ Autry nghe thử bản nhạc chú nai Rudolph một lần nữa xem sao, hay có thể cho con nai một phần trong mặt B của đĩa nhạc cũng được.

Autry đem bản nhạc về nhà và hát cho vợ là Ina nghe, phàn nàn rằng đã có nhiều bài hát về con nai rồi. Ina thì lại nghĩ khác. Khi nàng nghe đến câu “Chúng không cho con nai tội nghiệp được chơi trò chơi nào với chúng cả”, nàng mủi lòng và bảo chồng nhận thu thanh bài hát đó.

Hãng dĩa Columbia muốn Autry thu thanh bốn bản nhạc phát hành vào dịp lễ Giáng sinh và bài “Rudolph” được chọn thu cuối cùng. Mấy tuần lễ sau đó Autry trình bày bản “Rudolph” tại cuộc thi đấu Madison Square Garden Rodeo và được mọi người hoan hô nhiệt liệt. Vậy là nhờ đám khán giả đấu bò ngưỡng mộ, bản nhạc con nai qua mặt cả ba bài nhạc Giáng sinh kia trở thành một thành công lớn cho ca sĩ Autry khi phát hành năm 1949, nhảy lên đứng hàng thứ hai những dĩa hát bán chạy nhất, chỉ sau có bản “White Christmas”.

***

Đối với hàng chục triệu thiếu nhi đủ mọi lứa tuổi, qua sách vở, dĩa hát, truyền hình và phim ảnh, con nai Rudolph đã trở thành biểu tượng thế tục của mùa lễ Giáng sinh, chẳng khác gì ông già Noel vậy. Trong lúc có nhiều bài học có thể rút ra từ câu truyện kỳ thú này - chẳng hạn như phải có nghị lực để dù có khác người mình vẫn cứ là mình, hoặc khác người đôi khi cũng là điều may mắn - còn có một bài học lớn hơn nhiều do câu chuyện và bài hát đem lại nhưng thường bị lãng quên. Đó là: Khi ta chân thành trao tặng một món quà bằng cả trái tim yêu thương, món quà đó sẽ trở lại với ta và được nhân lên gấp bội quá điều ta mong mỏi. Với bài học đó, con nai giả tưởng Rudolph và gia đình anh May bằng xương bằng thịt, cứ như vẫn còn tồn tại sau hơn sáu thập niên khi câu chuyện được kể buổi ban đầu.

1 - Lời ca bản Rudolph the Red Nosed Reindeer:

You know Dasher, and Dancer, and Prancer, and Vixen,

Comet, and Cupid, and Donner and Blitzen

But do you recall

The most famous reindeer of all.

Rudolph, the red-nosed reindeer had a very shiny nose

And if you ever saw it you would say it glows.

All of the other reindeer used to laugh and call him names

They never let poor Rudolph play in any reindeer games.

Then one foggy Christmas eve, Santa came to say:

“Rudolph with your nose so bright,

Won’t you guide my sleigh tonight?”

Then all the reindeer loved him as they shouted out with glee,

Rudolph the red-nosed reindeer, you’ll go down in history!

2- Bản chuyển âm của Nguyễn Ngọc Thiện:



Chiếc Xe Nai



Đêm vắng không người rét căm căm

Mưa tuyết đang phủ bay trắng tinh

Nghe tiếng chuông vọng đến vang vang

Đêm tối tăm bỗng dưng sáng ngời

Vang tiếng trượt dài chiếc xe nai

Và bòng người tóc bạc rất quen

đem đến cho đời tiếng reo vui

đây đó vang tiếng cười trẻ thơ.

Như đêm tối bỗng nhiên lùi xa

Cùng tối tăm mịt mù

Nào cùng nhau ta cất tiếng hát

Với ánh sao đêm sáng ngời.

đêm tối nghe vọng tiếng xe nai

Nghe trái tim của ta sáng sao

đang hát theo nhịp chiếc xe nai

Hòa tiếng cười trẻ thơ.

đêm Chúa Giáng Sinh ngàn ánh sao

Ngời sáng lên hòa tiếng ca

Hát vang lời chúc nhau

Niềm ước mơ ngày Giáng Sinh

Bầu trời đầy ngàn sao

đang hát với nhau tiếng ca vang lừng...

3. JINGLE BELLS



(Chuông Reo Vang)

Jingle Bells có lẽ là bản nhạc mùa Giáng sinh được nhiều người biết nhất, được ca hát nhiều nhất ở nước Mỹ. Đối với hàng triệu người, ca khúc nhỏ bé và đơn giản này không thể thiếu được trong mùa lễ Giáng sinh cũng như mùa Giáng sinh không thể thiếu ông già Noel, con nai Rudolph, cây thông, thiệp mừng, quà cáp và những bữa tiệc thịnh soạn. Vậy mà có điều rất mực trớ trêu là bản nhạc Jingle Bells chẳng chứa lấy một câu một chữ nào đề cập đến ngày lễ lớn đó cả, và thực ra nó được viết để hát trong một ngày lễ khác biệt hẳn lễ Giáng sinh.

Anh James S. Pierpont, một người sinh trưởng tại Medford tiểu bang Massachusetts, rất có năng khiếu về âm nhạc. Ngay từ lúc còn nhỏ anh đã không chỉ trình diễn trong ca đoàn nhà thờ mà lại còn đánh đàn phong cầm nữa. Lớn lên anh phụ giúp cha là mục sư giáo phái Unitarian tại Medford, làm việc với ca đoàn và các ca viên, nhạc sĩ. Vào năm 1840, chàng thanh niên Pierpont được giao nhiệm vụ sáng tác một nhạc phẩm đặc biệt để hát trong dịp lễ Tạ Ơn. Nhìn qua khung cửa ngôi nhà của cha anh tại số 87 đường Mystic, anh thấy mấy người thanh niên đang lái những chiếc xe trượt tuyết từ trên đồi cao đổ xuống. Nai nịt thật ấm để ngăn ngừa cái lạnh thấu da bên ngoài trời lúc đó, anh bước ra khỏi nhà. Nhìn họ anh nhớ lại nhiều lần cũng đã đua xe trượt tuyết như một môn chơi thể thao vui nhộn với những tiếng chuông kêu lanh canh. Không chỉ đứng nhìn, anh liền nhảy vào tham dự cuộc chơi với họ. Trò chơi chấm dứt khoảng một tiếng đồng hồ sau và anh là người thắng cuộc.

Khi bước trở về nhà, tâm trí anh đã nảy ra một khúc nhạc, và khi ngồi cạnh lò sưởi cho ấm áp anh đã ngân nga một vài đoạn ngắn. Cảm thấy như đã có cái sườn làm nền cho bản nhạc mà nhà thờ của thân phụ anh cần đến, anh khoác áo lạnh vào người rồi băng qua những con đường ngập tuyết đến nhà bà Otis Waterman, người đàn bà duy nhất ở thị trấn Medford có chiếc đàn dương cầm. Lúc gặp bà ra mở cửa, anh nói: “Tôi vừa nảy ra một khúc nhạc trong đầu đây”. James là chỗ quen biết với bà từ lâu, bà biết James muốn gì nên vội nhường lối cho anh bước vào nhà.

Ngồi xuống cạnh chiếc đàn cũ kỹ, James đánh lên từng nốt nhạc của bài ca. Bà Waterman lắng nghe chăm chú, cất tiếng nói: “Đúng là những tiếng leng keng vui tai anh thấy ngoài kia đó mà.” Ít phút sau khi anh đờn xong bản nhạc, bà bảo anh: “Bài hát này rồi sẽ thành công khắp tỉnh đấy.”

Buổi tối hôm đó, anh đem những nốt nhạc leng keng ghép lại với những gì anh quan sát được khi đua xe trượt tuyết lúc ban ngày và nhớ lại cả những chiếc xe trượt băng do ngựa kéo nữa. Vậy là bài hát “One Horse Open Sleigh (Chiếc xe một ngựa trượt băng)” ra đời.

James tập bài hát đó cho ca đoàn nhà thờ Medford. Đến ngày lễ Thanksgiving thì toàn bài nhạc có phần hoà âm được đem ra trình diễn. Tại vùng New England lúc ấy, Thanksgiving là ngày lễ quan trọng nhất nên có rất nhiều người tham dự. Họ nhiệt liệt hoan nghênh bài hát đó nên nhiều người yêu cầu James và ca đoàn trình bày một lần nữa vào dịp lễ Giáng sinh. Mặc dầu bài hát đề cập đến cảnh ngựa đua xe trượt băng, lối hẹn hò trai gái và cá cược, chẳng có vẻ gì thích hợp với không khí nhà thờ chút nào, nhưng lần trình diễn này lại là một thành công lớn đến nỗi một số khách tới thánh đường dự lễ đã xin bản nhạc đem về địa phương của mình. Vì bài ca được hát vào ngày 25 tháng chạp là ngày lễ Giáng sinh, nên họ dạy cho anh em bè bạn hát như một bài nhạc mừng Giáng sinh thực thụ.

Pierpont có ngờ đâu bản nhạc của mình lại có sức truyền lan đến thế, anh chỉ biết một điều là người ta thích bản nhạc “mùa đông” của anh, nên khi di chuyển tới Savanah tiểu bang Georgia anh mang theo bản nhạc này. Anh tìm được người chịu xuất bản bài hát đó năm 1857, nhưng mãi đến năm 1864 khi tờ báo Salem Evening News đăng bài tường thuật câu chuyện về bản nhạc đó thì anh James mới biết được là mình đã viết được một tác phẩm đặc biệt. Vào lúc ấy bài ca đã mau chóng phổ biến thành bản nhạc phổ thông nhất vùng New England rồi lan tràn xuống phía nam. Trong khoảng 20 năm sau đó, “Jingle Bells” có lẽ là bản nhạc hát dạo mùa Giáng sinh được phổ biến nhất trong nước.

Là một trong những bản nhạc cổ nhất nước Mỹ, bài ca mừng lễ Thanksgiving này là một tưởng tượng rất phong phú về khung cảnh miền thôn dã có tuyết phủ mùa đông, có xe di chuyển trên tuyết, và những tiếng lục lạc kêu leng keng trên cổ ngựa, hơn một thế kỷ qua đã ghi đậm ảnh hưởng vào những hình ảnh mùa Giáng sinh trên các thiệp chúc mừng, sách báo, phim ảnh và cả những nhạc bản Giáng sinh khác nữa.

Bài ca mùa Giáng sinh có vẻ như “kỳ cục” này của Pierpont đã được thu thanh cả trăm lần. Benny Goodman, Glenn Miller, Les Paul, ai cũng đã leo lên đỉnh cao với “Jingle Bells”. Nhưng người thành công nhất là Bing Crosby và các chị em Andrew Sisters. Bản nhạc leng keng vui tai này còn xuất hiện trong nhiều cuốn phim của Hollywood, trong các show trên đài truyền hình, và một phần của bản nhạc có khi lại được đưa vào trong một bài ca Giáng sinh khác. Bản nhạc rất thành công của Bobby Helm chẳng hạn có nhan đề “Jingle Bells Rock” phần lớn là cảm hứng từ Jingle Bells, và như vậy lại một lần nữa chứng tỏ thành công của một bài ca thế tục đã đóng góp cho ngày lễ Giáng sinh.

Ngày nay, hình như chỗ nào cũng thấy hát Jingle Bells. Ít có người đã được thấy cái xe trượt băng do ngựa kéo, nhưng cả triệu người đã treo những chiếc chuông leng keng ở cửa vào dịp lễ Giáng sinh. Hình ảnh ông già Noel thường gặp nhất là cảnh ông ngồi trên chiếc xe trượt băng kéo bởi những con nai cổ đeo một vòng lục lạc. Rất nhiều bản nhạc mừng Giáng sinh hoặc các quảng cáo thương mại trên TV mở đầu bằng những tiếng chuông vui. Nhờ có anh chàng James Pierpont và lời yêu cầu soạn ra một nhạc bản cho ngày Thanksgiving mà ta có được Jingle Bells, và mỗi lần nhìn thấy hình ảnh tuyết và chiếc xe trượt băng người ta lại nghĩ ngay đến ngày lễ Giáng sinh.

1. Lời ca bản Jingle Bells:

Dashing through the snow

On a one-horse open sleigh,

Over the fields we go, Laughing all the way;

Bells on bob-tail ring,

making spirits bright,

What fun it is to ride and sing A sleighing song tonight

Jingle bells, jingle bells, jingle all the way!

O what fun it is to ride In a one-horse open sleigh


A day or two ago, I thought Íd take a ride,

And soon Miss Fanny Bright

Was seated by my side;

The horse was lean and lank;

Misfortune seemed his lot;

He got into a drifted bank, And we, we got upsot.

Jingle Bells, Jingle Bells, Jingle all the way!

What fun it is to ride In a one-horse open sleigh.



A day or two ago,

the story I must tell

I went out on the snow

And on my back I fell;

A gent was riding by In a one-horse open sleigh,

He laughed as there I sprawling lie,

But quickly drove away.

Jingle Bells, Jingle Bells, Jingle all the way!

What fun it is to ride In a one-horse open sleigh.



Now the ground is white

Go it while yoúre young,

Take the girls tonight

And sing this sleighing song;

Just get a bob-tailed bay

Two-forty as his speed

Hitch him to an open sleigh

And crack! yoúll take the lead.

Jingle Bells, Jingle Bells, Jingle all the way!

What fun it is to ride In a one-horse open sleigh.


2. Lời ca bản Jignle Bell Rock của Bobby Helms

Jingle bell, jingle bell, jingle bell rock

Jingle bells swing and jingle bells ring

Snowing and blowing up bushels of fun

Now the jingle hop has begun

Jingle bell, jingle bell, jingle bell rock Jingle bells chime in jingle bell time

Dancing and prancing in Jingle Bell Square In the frosty air.

What a bright time, it’s the right time

To rock the night away Jingle bell time is a swell time

To go gliding in a one-horse sleigh Giddy-up jingle horse,

pick up your feet Jingle around the clock

Mix and a-mingle in the jingling feet

That’s the jingle bell,

That’s the jingle bell,

That’s the jingle bell rock.

3. Bài ca đã được nhạc sĩ Nguyễn Duy đặt lời Việt rất tài tình để trở thành một bài hát mùa Giáng sinh, tiếng lục lạc leng keng trên cổ ngựa đã biến thành tiếng chuông giáo đường vang vang:

Một trời sáng trong an lành,

và một vùng tuyết ôm cây cành,

một ngày sáng bao la tình,

một nỗi sướng vui hồi sinh.

Mừng ngày Chúa sinh ra đời,

người người đó đây vui cười,

rộn ràng hỉ hoan chào đón

Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng sinh cho đời.

Chuông mênh mông,

chuông mênh mông,

chuông giáo đường ấm cúng.

Chuông thanh thanh,

chuông thanh thanh,

tiếng chuông xe chạy nhanh (ớ).

Chuông vang vang,

chuông vang vang,

chuông báo mừng đêm thánh.

Chuông ngân ngân,

chuông ngân ngân,

ôi tiếng chuông trong tim mình

4. O HOLY NIGHT

(Ôi Đêm Thánh)

Chuyện kể về ca khúc “O Holy Night” khởi đầu ở nước Pháp, nhưng sau đã tràn ra khắp thế giới. Ca khúc thật giản dị này, phát khởi do lời yêu cầu của một giáo sĩ, sau này đã trở thành một trong những ca khúc Giáng sinh được ưa chuộng nhất mà còn đánh dấu một cuộc cách mạng kỹ thuật đã mãi mãi thay đổi phương thức truyền đạt âm nhạc đến quảng đại quần chúng.

Vào năm 1847, Placide Cappeau de Roquemaure là một ủy viên thương chính phụ trách về rượu tại một tỉnh nhỏ nước Pháp. Ông ít đi lễ lạy tại nhà thờ nhưng lại có tài làm thơ. Và ông rất đỗi ngạc nhiên khi được cha chính xứ nhờ ông sáng tác một bài thơ để đọc trong thánh lễ Giáng sinh. Tuy vậy nhà thi sĩ cũng rất hân hạnh được thi thố tài năng cho giáo xứ.

Trên chiếc xe ngựa lọc cọc lăn bánh trên con đường gồ ghề bụi bặm dẫn đến thủ đô Pháp quốc, Cappeau suy nghĩ về lời yêu cầu của vị linh mục. Bài thơ sắp sáng tác dĩ nhiên phải là một bài thơ đạo, trọng điểm là lễ Giáng sinh, và dựa vào Kinh Thánh. Ông đã dùng Phúc âm thánh Luca làm chỉ dẫn. Cappeau tưởng tượng ông đang chứng kiến việc Chúa hài đồng sinh hạ tại Belem. Ý nghĩ được hiện diện trong đêm cực thánh đó đã gây thi hứng cho ông sáng tác, và khi chiếc xe tới Paris thì ông đã hoàn thành bài thơ “Cantique de Noel” (Bài ca lễ Giáng sinh).

Hứng khởi với sáng tác của mình, ông quyết định đó không chỉ đơn thuần là một bài thơ mà còn phải là một ca khúc được một nhạc sĩ tài ba phổ nhạc. Không có năng khiếu về âm nhạc, Cappeau tìm đến bạn mình là Adolphe Charles Adams để nhờ giúp.

Adolphe sinh năm 1803, lớn hơn Cappeau 5 tuổi, là con một nhạc sĩ cổ điển thời danh và đã học tại nhạc viện Paris. Tới năm 1829 Adolphe đã hoàn thành nhạc kịch Pierre et Catherine. Tiếp theo sau thành công đó là Richard en Palestine, rồi đến các vũ khúc ballet viết cho các nhạc kịch Faust, la Fille du Danube, La Jolie Fille de Gand. Tài năng và danh tiếng lan rộng, ông đã được yêu cầu soạn hòa âm cho các giàn nhạc và vũ ballet trên khắp thế giới. Vậy mà bài thơ người bạn Cappeau trao cho ông lại là một thử thách khác xa những đơn đặt hàng đến từ Luân đôn, Bá linh hay St. Petersburg.

Nghiên cứu bài thơ Cantique de Noel, Adolphe thấy toàn lời ca triển dương tinh thần Giáng sinh của Đấng Cứu thế. Là người gốc Do Thái, ông thấy những lời đó ca tụng một ngày lễ mà ông không mừng, một con người mà ông không nhận là con của Thượng đế. Nhưng thúc đẩy nhiều hơn bởi tình bạn với Cappeau, ông mau mắn và ân cần làm việc, cố gắng kết hợp những dòng nhạc với lời thơ đẹp của Cappeau và sau cùng hoàn thành một tác phẩm hài lòng cả nhà thi sĩ và vị linh mục chính xứ. Ba tuần lễ sau đó tác phẩm được trình bày trong thánh lễ nửa đêm Giáng sinh. Cả ông thi sĩ lẫn nhà soạn nhạc đã không ngờ trước được những gì sẽ xẩy ra sau đêm đó.

Khởi đầu, ca khúc đã được đón tiếp nồng nhiệt tại các giáo đường ở nước Pháp trong tất cả các nghi thức của ngày lễ Giáng sinh. Nhưng khi tác giả của bài thơ là Cappeau từ bỏ giáo hội để gia nhập phong trào xã hội, và các nhà chức trách trong giáo hội khám phá thấy rằng người phổ nhạc Adolphe là một người Do thái, thì nhạc bản này - lúc đó đã lớn mạnh và trở thành bài ca Giáng sinh được ưa chuộng nhất tại Pháp - lại đột nhiên bị giáo hội phủ nhận. Giới cầm quyền giáo hội nước Pháp lúc đó tuyên bố rằng bản “Cantique de Noel” không thích hợp trong các nghi lễ tại giáo đường vì không có phong vị thánh nhạc và lời ca “hoàn toàn thiếu tinh thần tôn giáo”. Tuy giáo hội cố chôn bản nhạc, vậy mà giáo dân Pháp vẫn tiếp tục hát, và một thập niên sau, một nhà văn Mỹ đã đưa ca khúc này ra trước một thính giả mới nơi cách nước Pháp cả nửa vòng trái đất.

Sanh ngày 13 tháng 5 năm 1813 tại Boston, John Sullivan Dwight đã tốt nghiệp trường đại học Harvard và trường Thần học. Ông trở thành mục sư giáo phái Unitarian tại Northampton, tiểu bang Massachusetts, nhưng do một nguyên nhân nào đó cứ mỗi lần giảng thuyết trước đám đông là ông trở bệnh. Bất hạnh này làm ông cứ phải giam mình trong nhà, không dám xuất hiện trước quần chúng và do đó không thể làm nhiệm vụ mục sư được.

Là người rất thông minh và có tài, Dwight phải tìm cách khác để thi thố tài năng. Ông dùng khả năng viết lách để thành lập tờ báo chuyên về âm nhạc Dwight’s Journal of Music. Suốt ba thập niên ông lặng lẽ làm việc, phê bình và đánh giá các nhạc bản một cách cẩn trọng. Tuy ông không xuất hiện được trước đám đông, nhưng một số các nhạc sĩ có tài và những người ưa chuộng âm nhạc vùng đông bắc nước Mỹ đã thích thú những bài viết có uy tín của ông. Trong lúc tìm kiếm các ca khúc mới để thẩm định, ông đọc được “Cantique de Noel” nói trên bằng Pháp văn, và ông cảm thấy yêu mến ngay lời ca của bản nhạc này.

Ông không chỉ thấy phải giới thiệu bản nhạc Giáng sinh tuyệt diệu này cho thính giả Mỹ mà còn cảm nhận trong thâm tâm rằng bài ca còn đi xa hơn câu chuyện Giáng sinh của Chúa nữa. Là một người có tinh thần giải phóng rất cao, ông bày tỏ mạnh mẽ quan điểm của mình bằng những câu trong bài ca: “Quả thực, Người dạy ta yêu nhau. Luật của Người là tình thương, và Tin mừng của Người là hoà bình. Xích xiềng sẽ bị bẻ gẫy vì nô lệ là anh em ta, và nhờ danh Người sẽ thôi không còn áp bức.” Bản văn thể hiện trung thực quan điểm của ông về chế độ nô lệ ở miền Nam lúc đó. Người viết lời ca tin rằng Chúa đến để giải thoát mọi người và trong bản nhạc này người ta thấy rõ thực tại đó.

Giữ ý chính của nguyên tác, Dwight phiên dịch lời ca một cách tài hoa ra Anh ngữ, đem in trong báo của ông và xuất bản trong mấy cuốn sách âm nhạc thời đó. Bản nhạc mau chóng được quần chúng Mỹ ưa chuộng, đặc biệt là ở miền Bắc trong thời kỳ Nội chiến.

Trở lại nước Pháp, mặc dầu bản nhạc “Cantique de Noel” bị cấm hát trong các nhà thờ gần hai thập niên, nhiều người vẫn hát tại nhà. Có một truyền thuyết kể rằng vào đêm trước lễ Giáng sinh năm 1871, giữa trận chiến ác liệt giữa quân đội Đức và Pháp trong chiến tranh Pháp-Phổ, một binh sĩ Pháp bỗng dưng nhảy ra khỏi hầm trú ẩn lầy lội. Binh sĩ cả hai bên nhìn chằm chằm vào anh chàng có vẻ điên khùng này. Tay không mang vũ khí, anh đứng ngang nhiên ngước mặt nhìn trời cất cao giọng hát những câu mở đầu của bản Cantique de Noel: “Minuit, chrétiens, C’est l’heure solennelle, Où l’Homme Dieu descendit jusqu’à nous” (“Nửa đêm rồi, hỡi người giáo hữu. Đây là giờ trọng thể Con Chúa xuống trần đến với chúng ta“). Đến lúc đó thì một anh lính bộ binh người Đức trèo ra khỏi nơi trú ẩn và hát đáp lại:”Vom Himmel hoch, da komm’ich her. Ich bring’euch gute neue Mar, Der guten Mar bring’ich so viel. Davon ich sing’n und sagen will.” Đó là phần mở đầu ca khúc “Ta từ trời xuống thế” của Martin Luther. Chuyện kể rằng sau đó trận chiến ngưng lại 24 giờ đồng hồ cho binh sĩ hai bên cùng tạm thời hoà hoãn để mừng ngày lễ Giáng sinh. Có lẽ câu chuyện này phần nào thúc đẩy giáo hội Pháp chấp nhận bản Cantique de Noel được xứng đáng hát lên trong các nghi lễ tôn giáo như trước.

Vào ngày trước lễ Giáng sinh năm 1906, Adams người thi sĩ sáng tác bài thơ thì đã chết từ lâu, còn nhạc sĩ Cappeau và dịch giả Dwight đều đã già cả. Hôm đó, Reginald Fessenden, một giáo sư đại học Pittsburgh 33 tuổi và trước kia là chuyên viên hoá học phụ tá cho nhà bác học Mỹ Thomas Edison, đã thực hiện một chuyện mà từ lâu vẫn tưởng không thể làm được. Xử dụng một loại máy phát điện mới, Fessenden nói vào chiếc máy khuếch đại và đó là lần đầu tiên trong lịch sử, tiếng nói của con người được truyền đi trên làn sóng không gian:”Và xảy ra trong những ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Xêda, là mọi người phải được kiểm tra”, ông cất cao giọng đọc thật rõ ràng, hy vọng tiếng nói truyền đi tới một địa điểm xa ông đã ước định trong thí nghiệm.

Những chuyên viên vô tuyến trên các tàu biển và tại các toà báo thật ngạc nhiên và sững sờ khi thấy những làn sóng xung động thường ngày họ nhận được bằng mã số phát ra trên mấy chiếc loa nhỏ xíu bỗng nhiên bị ngưng lại và giọng nói của vị giáo sư phát ra khi ông đọc đoạn Tin mừng nói trên trong sách thánh Luca. Một số người lúc đó tưởng chừng là một phép lạ khi nghe được, lần đầu tiên tiếng nói con người được chuyển thành làn sóng điện và truyền đi đến một nơi xa. Một số người khác tưởng chừng họ nghe được tiếng nói của thiên thần.

Fessenden có lẽ không biết được những cảm giác sững sờ ông gây ra trên các tàu biển và văn phòng báo chí vào lúc đó, ông không biết sự kiện nhiều người chạy vội đến máy vô tuyến để lắng nghe những âm thanh tưởng chừng như phép lạ đó. Thế nên, sau khi đọc xong đoạn Tin mừng, Fessenden nâng chiếc vĩ cầm của ông lên và chơi bản “O Holy Night”, bản nhạc đầu tiên được truyền đi trên làn sóng vô tuyến. Bản nhạc chấm dứt và buổi truyền thanh kết thúc. Vậy là âm nhạc đã tìm được một phương tiện mới để tràn lan khắp thế giới.

***

Từ buổi được hát lên lần đầu trong thánh lễ Giáng sinh nhỏ bé năm 1847, bản nhạc “O Holy Night” đã được hát lên cả triệu lần tại các thánh đường trên khắp thế giới. Và từ buổi một nhóm người ít ỏi được nghe phát thanh lần đầu trên làn sóng vô tuyến, bản nhạc đã trở thành một trong những thánh ca được thu thanh và được trình diễn nhiều lần nhất trong kỹ nghệ âm nhạc. Tổng số đĩa nhạc do nhiều ban nhạc trình bày đã lên đến hàng chục triệu.

Bản nhạc này, xuất phát do lời yêu cầu của một linh mục không tên tuổi, viết ra bởi một thi sĩ sau này lìa bỏ giáo hội, phổ nhạc bởi một người Do thái, và được mang đến quần chúng Mỹ vừa như một công cụ để soi chiếu tội ác của chế độ nô lệ vừa để tường thuật lễ Giáng sinh của Chúa, đã lớn mạnh để trở thành một trong những ca khúc đẹp tuyệt vời của mùa Giáng sinh.

1. Sau đây là lời ca của bản nhạc bằng Anh ngữ:

Oh holy night!

The stars are brightly shining

It is the night of the dear Savior’s birth!

Long lay the world in sin and error pining

Till he appear’d and the soul felt its worth.

A thrill of hope the weary world rejoices

For yonder breaks a new and glorious morn!

Fall on your knees

Oh hear the angel voices

Oh night divine

Oh night when Christ was born

Oh night divine

Oh night divine

Led by the light of Faith serenely beaming

With glowing hearts by His cradle we stand

So led by light of a star sweetly gleaming

Here come the wise men from Orient land

The King of Kings lay thus in lowly manger

In all our trials born to be our friend.

Truly He taught us to love one another

His law is love and His gospel is peace

Chains shall He break for the slave is our brother

And in His name all oppression shall cease

Sweet hymns of joy in grateful chorus raise we,

Let all within us praise His holy name.

2. Nguyên bản Pháp ngữ:

Minuit, Chrétiens!

Paroles: Placide Cappeau de Roquemaure.

Musique: Adolphe Adam 1847


Minuit! Chrétiens, c’est l’heure solennelle

Où l’homme Dieu descendit jusqu’à nous,

Pour effacer la tache originelle

Et de son père arrêter le courroux:

Le monde entier tressaille d’espérance

A cette nuit qui lui donne un sauveur

Peuple, à genoux attends ta délivrance,

Noël! Noël! Voici le Rédempteur!

Noël! Noël! Voici le Rédempteur!

De notre foi que la lumière ardente

Nous guide tous au berceau de l’enfant

Comme autrefois, une étoile brillante

Y conduisit les chefs de l’Orient

Le Roi des Rois naît dans une humble crèche,

Puissants du jour fiers de votre grandeur,

A votre orgueil c’est de là qu’un Dieu prêche,

Courbez vos fronts devant le Rédempteur!

Courbez vos fronts devant le Rédempteur!

Le Rédempteur a brisé toute entrave,

La terre est libre et le ciel est ouvert

Il voit un frère où n’était qu’un esclave

L’amour unit ceux qu’enchaînait le fer,

Qui lui dira notre reconnaissance?

C’est pour nous tous qu’il naît, qu’il souffre et meurt:

Peuple, debout! Chante ta délivrance,

Noël! Noël! Chantons le Rédempteur!

Noël! Noël! Chantons le Rédempteur!

Phiên khúc chót (bản Pháp ngữ) có thể tạm dịch như sau:

Đấng Cứu thế đã bẻ gãy mọi xích xiềng,

Đất đã tự do và trời đã rộng mở,

Ngài nhìn ra anh em mình nơi một người nô lệ,

Tình yêu nối kết những ai bị xích xiềng,

Ai nói được với Ngài lòng biết ơn của chúng ta?

Vì tất cả chúng ta nên Ngài sinh ra, chịu khổ đau và chết đi:

Dân Chúa Hỡi, hãy đứng lên, hát mừng sự giải thoát của ngươi.

Noël! Noël! Ta hãy ca mừng Đấng Cứu Độ.

Noël! Noël! Ta hãy ca mừng Đấng Cứu Độ

Ghi chú: Có điều ngạc nhiên là trong lời nguyên thủy này của Placide Cappeau de Roquemaure ta không thấy có câu nào khiến John Sullivan Dwight có thể dịch ra Anh ngữ với nội dung như sau (xin coi đoạn cuối bài ca ghi trên):

“Quả thực, Người dạy ta yêu nhau.

Luật của Người là tình thương,

và Tin mừng của Người là hoà bình.

Xích xiềng sẽ bị bẻ gẫy vì nô lệ là anh em ta,

và nhờ danh Người sẽ thôi không còn áp bức.”

3- Bản Việt ngữ của Cao Minh Thắng:

Đêm Thánh



1- Ôi đêm rất thánh

Ngàn sao sáng ngời trên chốn cao đón Con Vua Trời

Yêu nhân thế xuống làm người

Muôn dân muôn nước từ lâu đắm chìm trong bóng đêm

Tới khi Người đến thì màn đêm bỗng tan dần

Một niềm hy vọng cho đất trời hát mừng chúc khen.

Một vì sao lạ đang tỏa rạng ánh hào quang.

Hãy quỳ lạy đi! Và nghe thần nhạc hòa ca vang!

Đêm thánh cho trần thế,

Đêm nhiệm màu!

Khi Đấng Cứu thế sinh ra

Đêm thánh! Rộn tiếng ca thiên thần

Đêm Chúa giáng sinh.

2- Đây ta chiêm ngắm

Hài Nhi đang nằm trong máng lừa quá yêu gian trần

Trời đông giá sinh ra đời

Ba vua từ xa đến viếng Chúa Hài nhi

Với vàng, nhũ hương thật quý và hương thơm của mộc dược

Trong nôi bé nhỏ, Vua của trời đất dệt giấc thơ

Thiên cung hát mừng

“Bình an cho chúng sinh”

Chúa yêu ta đó!

Sinh xuống làm bạn của ta.

4- Bản Việt ngữ của Anh Linh:



Chúa Ra Đời


Kìa một vì sao soi sáng khắp trời muôn ánh huyền.

Chúa Con ra đời thành Be Lem chốn hang hèn.

Vì lòng từ nhân, Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm,

xuống nơi trần thế cùng ta sống rất âm thầm.

Bao năm sống ẩn thân khó nghèo với người thế gian,

mong sao khắp trần gian mau tìm thấy niềm tin.

Hỡi muôn ngàn dân! Hãy hát chào mừng Vị Cứu Tinh.

Người đến, người đến cứu ta thoát chốn điêu linh.

Toàn dân cùng đứng hoan ca mừng Người Giáng Sinh.

Mục đồng dậy mau theo ánh sáng về đây kính thờ.

Chúa Con ra đời miền hoang vu chốn hang lừa.

Đừng ngần ngại chi, hang đá hãy vào xem Chúa Trời,

khác chi người thế, nằm run khóc với Mẹ Người.

Anh em chớ hoài nghi mau quỳ gối thờ kính tôn.

Ngôi Hai Chúa từ nhân đã mặc xác phàm nhân.

Hỡi muôn ngàn dân! Hãy hát chào mừng Vị Cứu Tinh.

Người đến, người đến cứu ta thoát chốn điêu linh.

Toàn dân cùng đứng hoan ca mừng Người Giáng Sinh.

Ngài là niềm tin, sao sáng dẫn đường đưa lối về.

Những ai tâm hồn nhiều đau thương gánh nặng nề.

Tìm nguồn ủi an, xin hãy nhớ ngày xưa Chúa ta

khó khăn hèn yếu lẻ loi giữa chốn hang lừa.

Nêu gương sáng dạy ta danh lợi thế đừng thiết tha,

theo gương Chúa ngày xưa coi thường kiếp phù hoa.

Hỡi muôn ngàn dân! Hãy hát chào mừng Vị Cứu Tinh,

Người đến, người đến cứu ta thoát chốn điêu linh.

Toàn dân cùng đứng hoan ca mừng Người Giáng Sinh.





4- Phiên bản của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam:

Đêm Thánh

- Kìa vùng trời đông ngôi sao Tin Lành soi thánh quang,

Con Trời tự hạ thành nhân giữa đêm huy hoàng;

Vì lòng Ngài yêu nhân thế đắm chìm nơi bến mê,

Ra đời làm giá cao quí cứu chúng sinh về;

Bao năm cảnh đời như giữa đêm ác tội khiếp kinh,

Hôm nay khắp trời trông rõ quang cảnh bình minh.

Đ.K:

Chúa sanh giờ đây,

Đêm thánh vinh quang vui vẻ bấy!

Đêm phước hạnh đấy,

Đêm bình hòa, đêm an ninh,

Đêm Chúa từ ái,

Ấy đêmThần Tử giáng sinh.

- Mục đồng gặp ngay Anh Nhi trong chuồng chiên đáng thương,

Đơn thành thờ lạy thần nhân hiển vinh lạ thường;

Tìm thờ lạy Vua xưa bác sĩ nhìn sao ruổi dong,

Nay ta thành kính cùng tôn Chúa cách hết lòng;

Jêsus trải trường đau khổ thương cảm nhược điểm ta,

Ban ơn giữ gìn ta khỏi mưu quỉ quyền ma.

- Ngài từng dạy ta nên yêu thương cùng nhau chớ phai,

Yêu là luật Ngài, bình an ấy Tin Lành Ngài;

Ngài vì tội nô nên bẻ xích xiềng ma quỉ kia,

Danh Ngài truyền đến, bao áp chế thảy xa lìa;

Ta nên hết lòng tôn kính danh Đấng vừa giáng sinh,

Dâng lên khúc thần ca cảm ơn Chúa diệu vinh.

5- ADESTE FIDELES

O Come All Ye Faithul

Nhân Gian Cùng Nhau Đến Tôn Thờ






Bản nhạc Adeste Fideles (O Come All Ye Faithful) đã được hát trong các thánh đường Tin Lành và Công giáo mỗi mùa Giáng sinh gần hai trăm năm qua và trong các thánh lễ Công giáo nhiều năm trước nữa. Vào thế kỷ 20, ca khúc này cũng đã được các ca sĩ thượng thặng thâu thanh hàng trăm lần, và các đĩa nhạc đó đã đạt nhiều kỷ lục cũng như đã nhẩy lên hàng những đĩa nhạc bán chạy nhất (top ten) tới ba lần, được dịch ra hơn 150 ngôn ngữ khác nhau và được các nhà phê bình đánh giá là “ca khúc Giáng sinh vĩ đại nhất”. Vậy mà điều đáng ngạc nhiên là mãi đến khi thế chiến thứ hai chấm dứt người ta mới biết được tên tác giả của ca khúc đó.

Suốt nhiều thế kỷ, người ta cứ tưởng tác giả của bản nhạc này là một giáo sĩ vô danh sống trước hoặc trong thời Trung cổ. Có truyền thuyết cho rằng lời ca của bản nhạc này là do thánh Bonaventura viết. Thế nên mọi người đều rất ngạc nhiên khi một học giả người Anh tên là Maurice Frost khám phá ra 7 bản nhạc này được chép tay có chữ ký của một linh mục Công giáo người Anh tên là John Francis Wade. Lý do nào khiến cho tên tuổi của cha Wade không được ai biết là tác giả của bản nhạc thời danh này vẫn còn là một điều bí ẩn không ai giải thích được. Tuy nhiên, hoàn cảnh vị linh mục sáng tác bản nhạc này lại như một chuyện phiêu lưu thú vị.

Năm 1745, năm linh mục Wade mới 35 tuổi, cuộc xung đột giữa giáo hội Anh giáo và Công giáo đạt đến cao độ và cha Wade đã nằm giữa gọng kìm của cuộc thánh chiến đó. Nhiều tín hữu Công giáo phải rút vào sống đạo trong thầm lặng. Để tránh tù đầy và cái chết, nhiều linh mục phải bỏ trốn khỏi nước Anh, trong đó có cha Wade. Cha đến sinh sống tại miền Douay nước Pháp nơi có nhiều tín hữu Công giáo người Anh và những người chống đối hoàng gia Anh cư ngụ. Nơi đây cha được giao một công tác quan trọng. Vì có nhiều hồ sơ, văn bản của các xứ đạo nước Anh bị thất lạc trong cuộc xung đột nói trên, nhiệm vụ của cha Wade là truy tìm và xác định các nhạc bản công giáo, để rồi ghi chép và bảo tồn cho các thế hệ tương lai. Cha làm việc hết sức cẩn trọng, cố gắng hết mình để không bỏ sót một nhạc bản nào có giá trị tinh thần và lịch sử, coi công việc là một tìm kiếm khó nhọc và lâu dài.

Là một người được học hỏi về thư họa và cũng là một nhạc sĩ có tài, cha Wade đã không chỉ bảo toàn được các bản thánh ca thời đó, mà còn sắp xếp, trình bày và phân phối cho các xứ đạo khắp châu Âu. Cha đã tìm được và, qua nét họa và chữ viết tuyệt đẹp, đã phổ biến được nhiều bản nhạc thất truyền từ lâu, và những nhạc bản đó lại được hát vang trong các thánh lễ khắp Âu châu và nhiều nơi khác.

Ngoài việc tìm kiếm những nhạc bản thất truyền, cha Wade còn có hứng sáng tác những ca khúc mới, dĩ nhiên bằng La ngữ vì cha là linh mục công giáo. Vào khoảng năm 1750 ngài sáng tác xong những nốt nhạc cuối cùng của bản “Adeste Fideles” và năm kế tiếp xuất bản trong tập nhạc “Cantus Diversi”. Khoảng 10 năm sau, cha hoàn thiện và đặt lời cho bản nhạc. Vậy là ca khúc này được xuất bản ở hai thời điểm khác nhau với tên cha là tác giả, thế mà không hiểu tại sao đến năm 1841 khi Frederrik Oakeley phiên dịch nguyên bản bài ca ra tiếng Anh không thấy ghi tên của ngài. Cũng từ đó nhiều truyền thuyết về người khai sinh ra bản nhạc ra đời, nhưng không có tên của cha Wade.

Vào những năm 1800 tên tuổi thánh Bonaventura được nổi bật lên là tác giả bản nhạc, và chắc là phải có lý do. Có thể là trong khi làm công tác nói trên tại Pháp, cha Wade đã tìm được một số bản nhạc của thánh nhân, và những bản nhạc đó đã ảnh hưởng hoặc gợi hứng cho cha Wade.

Chuyện kế tiếp thường được mọi người kể đi kể lại, là vào năm 1860 bản nhạc này được trình bày ở sứ quán Bồ đào nha tại Luân đôn. Nhạc sĩ phong cầm Vincent Novello giới thiệu với thính giả rằng bản nhạc do một người tên là John Redding sáng tác. Vậy là Redding được công nhận là tác giả của ca khúc tuy rằng bản thảo của cha Wade xuất hiện trước đó cả thế kỷ đã vô hiệu hoá sự công nhận này. Redding đem xuất bản và đặt tên là “Nhạc bản Bồ đào nha”. Vì sự việc đó nên nhiều người nghĩ rằng Redding viết nhạc còn lời ca là do một người Bồ đào nha nào đó soạn thảo.

Tại Mỹ, cũng như trên khắp thế giới, nhiều nhà thờ đã hát bản thánh ca này từ trước năm 1900. Bản nhạc cũng là trọng điểm của phong trào hát dạo thánh ca nở rộ khắp nước. Nhiều ban nhạc đi đến từng nhà hát các ca khúc Giáng sinh, và bản nhạc này luôn luôn được hát lên hoặc kết thúc với lời điệp khúc thật hùng hồn.

Trong mùa lễ Giáng sinh năm 1905, ban nhạc lớn nhất thời đó là Peerless Quartet ghi âm và phát hành bản nhạc này. Vào lúc mà phương tiện truyền thanh chưa xuất hiện để có thể chuyển đạt âm nhạc đến quảng đại quần chúng, thì đĩa nhạc này xuất hiện đã bán được cả hàng ngàn bản và nhảy lên đứng hàng thứ bảy trên bảng National Hit Parade. Ban nhạc Peerless Quartet tuy đã ghi âm cả hàng ngàn bản nhạc nhưng ca khúc này trở thành biểu tượng của họ về thánh nhạc.

Năm 1915, người ca sĩ giọng nam cao (tenor) gốc Ái nhĩ lan nổi tiếng nhất thế giới đã ghi âm ca khúc này và đưa lên đứng hạng nhì trong bảng sắp hạng toàn quốc năm đó. Một thập niên sau, ban nhạc American Gee Club lại chứng tỏ một lần nữa rằng bản nhạc này vẫn là ca khúc Giáng sinh hàng đầu của dân chúng Mỹ. Trong thời kỳ mà rất ít bản thánh ca tìm được sự yêu chuộng đồng nhất nơi dân chúng, nhạc bản này vẫn giữ được vị thế hàng đầu cho mãi tới khi ca sĩ lừng danh Crosby thâu thanh bản nhạc “White Christmas”. Dĩ nhiên khi phát hành đĩa nhạc, Crosby còn thâu âm và phát hành kèm theo cả bản “O Come” này nữa. Cũng chính vào thời điểm này, Maurice Frost đánh tan những nghi vấn về tác giả bản nhạc khi khám phá ra người khai sinh ca khúc này là linh mục Wade và trả lại cho ngài cái vinh dự là tác giả bản nhạc.

***

Tác quyền và tài năng của cha Wade phải được công nhận và tuyên dương. Sống giữa thời đại có những tranh chấp của các giáo hội, ngài đã chấp nhận cuộc đời ly hương để bảo vệ đức tin, đã tận tụy suốt thời gian lưu vong để bảo tồn những văn bản của giáo hội trong lúc một số người khác muốn xóa bỏ, ngài đã chứng tỏ nhiệt tâm phụng sự Chúa và giáo hội. Từng chữ từng câu trong bản thánh ca này không những chỉ chứng minh đức tin của tác giả mà còn triển dương đức tin đó nữa. Giữa một thời mà giáo hội đang ở trong tình trạng chiến tranh, chỉ người nào thực sự tin tưởng vào thánh đức của Chúa mới có thể viết nên một bài ca có khả năng đem tất cả những người Ki tô giáo hiệp nhất lại với nhau mỗi dịp Giáng sinh về để cùng nhau phủ phục trước Đấng Cứu Thế sinh hạ làm người.

Ghi chú:

1. Bản Adeste Fideles (tiếng Latinh) đã được hát trong các thánh đường Việt nam trước công đồng Vatican II. Sau đây là ba phiên khúc và điệp khúc bằng La ngữ:

Adeste fideles,

laeti triumphantes;

venite, venite in Bethlehem;

natum videte regem angelorum.

II

Deum de Deo,

lumen ad lumine,

gestant puellae viscera,

Deum verum, genitum non factum.

III

en grege relicto,

humiles ad cunas,

vocati pastores appropiant.

et nos ovanti gradu festinemus,

Điệp khúc:

Venite adoremus

Venite adoremus

Venite adoremus Dominum


2. Bản Anh ngữ:

O come, all ye faithful, joyful and triumphant.

Come ye, O come ye, to Bethlehem;

Come and behold Him, born the King of angels;

Điệp khúc:

O come, let us adore Him,

O come, let us adore Him,

O come, let us adore Him,

Christ, the Lord.


O sing, choirs of angels, sing with exultations, O sing all ye citizens of heav’n above. Glory to God, all Glory in the highest

Yea, Lord we greet thee, Born this happy morning, Jesus, to thee be glory giv’n Word of the father, now in flesh appearing

3. Bản Việt ngữ hát trong các thánh đường Công giáo Việt nam:

Hôm nay toàn dân Chúa Trời

Vui mừng chiến thắng khải hoàn

Hân hoan trông về Bêlem với muôn lòng thành

Chúa ta đã giáng sinh

Vua vũ trụ vua thiên đình

Điệp khúc:

Nhân gian hãy mau đến tôn thờ

Nhân gian hãy mau đến tôn thờ

Nay Đấng muôn dân đang chờ đã sinh làm người



Ngôi Hai kìa đã xuống trần

Khiêm nhường sinh chốn hang lừa

Con xin dâng niềm ủi an thiết tha dịu dàng

Chúa ta đã giáng sinh

Vua vũ trụ vua thiên đình

4. Bản chuyển âm của Hội Thánh Tin Lành Báp-Tít Việt Nam:

Hỡi môn đồ trung tín, dìu dắt nhau vui hát du dương

Vô nơi Bet-lê-hem chiêm ngưỡng thật tận tường,

Chúa tể muôn sứ thánh nay Giáng sinh chỗ tầm thường.

Điệp khúc:

Mau mau cùng nhau đến tôn thờ

Mau mau cùng nhau đến tôn thờ

Mau đến nơi đây tôn thờ Chúa Giê-xu Vua ta.



Giê-xu từ Đức Chúa Trời, Thánh quang do chính Thánh quang

Nhưng đâu khinh thị tử cung nữ trinh bần hàn

Cứu Chúa nay giáng sanh không bởi tinh huyết thành toàn

Ban âm nhạc thiên sứ đều trổi vang lên khúc hân hoan,

Thiên dân mau đồng thanh ca xướng điệu nhịp nhàng:

Sáng danh Cha nơi cao, vinh hiển thuộc Chúa mọi đàng!

Hoan nghênh Thần Nhân Giê-xu giáng sanh ở giữa chúng tôi

Bao vinh quang thuộc Anh Nhi thánh kia đời đời

Đấng Cha sai giáng sanh trong xác thịt, ấy Đạo Trời

6. THE FIRST NOEL



(Đêm Giáng Sinh Đầu Tiên)



The First Noel là bài dân ca mùa Giáng sinh cổ xưa nhất mà ngày nay còn hát. Mặc dầu được in ra lần đầu tiên vào năm 1833, bản nhạc này đã xuất hiện trước đó ít nhất cũng khoảng 300 năm. Nguyên bản phát xuất từ đâu và vào thời điểm nào thì vẫn còn là một nghi vấn, và cả hai nước Anh, Pháp đều dành phần xuất xứ. Chữ “Noel” cho biết có thể bản nhạc đã khởi đầu từ nước Pháp (Noel là tiếng Pháp chỉ ngày lễ Giáng sinh), nhưng một số sự việc lại chứng minh ngược lại, nghĩa là bài ca xuất phát từ nước Anh rồi mới truyền qua nước Pháp. Nhưng điều chắc chắn không còn phải nghi ngờ gì nữa là bài ca thể hiện đức tin và tinh thần của tác giả; tuy bài ca thật xưa cổ nhưng mỗi lần hát lên lại làm sống động thêm niềm tin đó.

Như đã có hai quan điểm khác nhau về xuất xứ của bài ca thì cũng có hai cách đánh vần tên của bài hát. Ở nước Anh, và đôi lúc cả ở Mỹ, chữ “Noel” được viết khác đi, và tên bài hát trở thành “The First Nowell”. Dĩ nhiên là tại Pháp, chữ Noel vẫn được duy trì. Dù là noel hay nowell thì ý nghĩa ở cả hai ngôn ngữ đều giống nhau: đó là tiếng reo vui chỉ ngày sinh của Đấng Cứu thế. Vậy mà, trong lúc tác giả vô danh của bản nhạc hiển nhiên biết rõ về ngôn ngữ để dùng mở đầu phần điệp khúc của bài ca, thì lại thiếu sót đôi điểm về Kinh thánh. Điều này cho ta thấy thêm được cái quá trình của người sáng tác.

The First Noel là một trong số ít bản ca Giáng sinh thủa ban đầu còn sót lại tới ngày nay được xếp vào loại dân ca. Người phụ trách viết nên bài ca này hiển nhiên rất hứng khởi về lễ Giáng sinh và hiểu rất rõ điều kỳ diệu của sự nghiệp giáng thế của Đức Giêsu, nhưng lại không nắm vững được toàn diện câu chuyện Thánh kinh thuật lại về sự Giáng sinh đó. Ở thời kỳ Trung cổ, sự việc này gần như là một định luật chứ không phải là một ngoại lệ.

Trong thời điểm lúc bản “The First Noel” được viết ra, có rất ít bản Thánh kinh được lưu hành trong dân gian. Hầu hết Thánh kinh lưu trữ ở trong nhà thờ, tu viện, và viết bằng tiếng La tinh. Người dân thường ít khi được đích thân thấy cuốn sách thánh hoặc giả có được thấy chăng nữa cũng không đọc được vì đa số dân chúng thời đó đều thất học.

Đó có lẽ là trường hợp của tác giả The First Noel. Không có sách thánh làm hướng dẫn, người viết chỉ dựa theo những gì đã nghe kể lại về biến cố giáng sinh của Chúa. Hầu hết các chi tiết tác giả kể lại đều đúng, nhưng lại lầm khi thuật rằng các mục đồng đã theo dấu ngôi sao để tìm tới chỗ Chúa sinh ra. Thánh kinh không nói ngôi sao đã dẫn lối cho mục đồng, nhưng là chỉ đường cho các nhà đạo sĩ đến từ phương đông.

Một yếu tố chính yếu khác trong bản cổ ca này cho biết bài ca do một người không có kiến thức về ngữ pháp, đó là cách cấu tạo các câu. Thí dụ, trong nguyên bản, câu “This child truly there born he was” thì đơn giản không phải là cấu trúc của người biết ngữ pháp. Tuy nhiên, cái tinh thần toát ra từ bản The First Noel đã bù lại cái thiếu sót có vẻ chuyên biệt này. Cái tinh thần đó, kết hiệp với phong tục hàng năm của dân chúng miền Scandinavia có lẽ đã là đảm bảo cho sự sống còn của bản cổ ca này.

Trong thời kỳ Trung cổ, dân chúng nước Anh đã giữ cái tập quán về khúc củi Yule do người Viking để lại. Cứ mỗi mùa đông, người trong gia đình lại vào rừng đốn một khúc cây lớn, kéo về nhà, cắt bỏ cành và khoét rỗng ruột. Rồi họ nhồi vào bọng cây đó các hương liệu, dầu, đồ thơm, và đem đặt vào lò sưởi. Họ phun chất nhen lửa chung quanh khúc củi, rồi cô con gái trong nhà hoặc bà vợ đốt củi bằng que cây còn lại từ khúc củi năm trước. Những gia đình có đốt khúc củi Yule hàng năm tin rằng họ sẽ được may mắn trong nhà.

Khi những người theo tập tục đó trở lại theo đạo Chúa, họ đem áp dụng tục này vào lễ Giáng sinh. Đối với họ, cây gỗ hiển nhiên tượng trưng gỗ của cây thánh giá và hương liệu là cuộc sống cao đẹp Chúa dành cho mỗi người tín hữu do sự hy sinh của Người trên thánh giá đó. Khúc củi được đưa về nhà hôm trước lễ Giáng sinh và được đốt lên, hy vọng sẽ âm ỉ suốt 12 ngày của mùa lễ để lụi tàn vào ngày mùng 6 tháng giêng, ngày kỷ niệm các nhà đạo sĩ đến dâng lễ vật lên Chúa. Nếu khúc củi cháy lâu được như vậy đó là dấu hiệu ngôi nhà được chúc phúc.

Tại nước Anh, The First Noel được hát lên hàng năm khi những người nông dân bắt đầu đốt khúc củi Yule. Như vậy bài ca trở thành phần mở đầu của mùa Giáng sinh. Đặc biệt là đối với các em nhỏ, bài ca là dấu hiệu bắt đầu những ngày kỳ thú nhất của chúng trong năm. Cùng với thời gian, cái tập tục đốt củi Yule vẫn được duy trì và mang theo với nó âm nhạc của bài ca này. Tuy nhạc và lời không được ghi chép trong sách vở, nhưng bản The First Noel vẫn tiếp tục tồn tại.

Trong cuộc sống ba trăm năm đầu của bài ca, cũng giống như số phận của nhiều ca khúc khác, bản The First Noel không được dùng trong các nghi lễ tôn giáo. Những bài hát mới dù có thấm đượm chuyện tích trong Thánh Kinh cũng không được ca hát trong hầu hết các thánh đường. Vì có sự khinh thường của hàng giáo sĩ nên những bài ca đại loại như The First Noel trở thành những khúc ca ngày lễ của đám dân giả. Nó phản ảnh niềm vui của mùa lễ Giáng sinh, sự kỳ diệu của việc Con Chúa xuống cứu độ loài người không phân biệt sang hèn. Những bài hát như vậy trở thành một phần của truyền thống gia đình, và nhiều bài hát mùa lễ ngày nay rất được yêu chuộng có lẽ đã mai một đi nếu không được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác theo truyền thống đó.

Cả bài hát The First Noel và tập tục đốt khúc củi Yule mùa lễ Giáng sinh đã tìm đường vào nước Pháp khoảng thế kỷ thứ 15, có lẽ do những đoàn hát dạo người Anh đã đem giới thiệu với công chúng Pháp. Cũng giống người Anh, thường dân Pháp đã chấp nhận bài ca này và sứ điệp của nó, lại còn thay đổi đi theo đường lối riêng của họ: Bài này được trẻ em ca theo lối hát đuổi.

Năm 1833, bản nhạc The First Noel được William Sandys đem xuất bản. Hành nghề luật sư nhưng ông lại thích âm nhạc và trong lúc rảnh rang còn đi sưu tập dân ca Anh, Pháp. Ông cho in bài The First Noel vào tuyển tập các bài dân ca Giáng sinh. Đã được giai cấp nông dân yêu thích từ lâu nên vào khoảng giữa thập niên 1800 lúc giáo hội Anh giáo bắt đầu dùng những bài hát mới trong các nghi lễ thì bản nhạc này được quảng đại quần chúng rất mực hoan nghênh.

***

Nhạc bản này, hiển nhiên đã được gợi hứng từ câu chuyện Giáng sinh của Đấng Cứu thế và có lẽ viết ra do một người bình dân ít học, vẫn còn là bài ca được mọi thời yêu mến. Nhưng điều làm người ta thắc mắc là không hiểu tại sao bài hát này còn tồn tại trong khi rất nhiều bản nhạc dân ca Giáng sinh khác - trong đó nhiều bài dùng lời ca hay hơn - lại bị rơi vào quên lãng. Có thể điều quan yếu là tác giả đã đặt vào bài ca một tinh thần mừng vui hớn hở hiếm thấy. Tất cả những ai đã hát nhạc bản này đều không nghi ngờ rằng người viết đã không chỉ xác tín mỗi lời viết ra mà còn hứng khởi về câu chuyện kể lại. Vì vậy bản nhạc này tượng trưng cho cái tinh anh đích thực của lễ Giáng sinh, cái tinh tuý được triển dương nhiều lần trong mỗi mùa lễ: đó là lời loan báo tin vui ngày Chúa xuống trần. Tuy tập tục đốt khúc củi Yule đã tàn lụi theo với tháng năm nhưng bài ca The First Noel thì mỗi mùa Giáng sinh vẫn mãi mãi còn bừng sáng.

1. Lời ca bài The First Noel:

The first noel the angel did say

Was to certain poor shepherds in fields as they lay -

In fields where they lay keeping their sheep,

On a cold winter’s night that was so deep.

Điệp khúc:

Noel, noel, noel, noel,

Born is the king of Israel.


They looked up and saw a star

Shining in the east, beyond them far;

And to the earth it gave great light,

And so continued both day and night.

And by the light of the same star,

Three wise men came from country far;

To seek for a king was their intent,

And to follow the star wherever it went.

This star drew nigh to the northwest,

O’er Bethlehem it took its rest;

And there it did both stop and stay,

Right over the place where Jesus lay.

Then they did know assuredly

Within that house, the King did lie

One entered in then for to see

And found the babe in poverty.

Then entered in those wise men three,

Full rev’rently upon their knee;

And offered there, in His presence,

The gold, and myrrh, and frankincense.

If we in our time do well

We shall be free from death and hell

For God hath prepared for us all

A resting place in general.

2. Một phiên khúc và điệp khúc trong bản Việt ngữ của nhạc sĩ Đỗ vy Hạ:

Giữa trời mùa đông giá. Trong máng chiên nghèo nàn,

Con Chúa sinh xuống đời, để cứu rỗi cả nhân loại.

Giữa trời mùa đông vắng, muôn tiếng ngân nhịp nhàng

Thiên sứ vang lời hòa ca tôn kính Con Vua Trời

Điệp khúc:



No-el, No-el, No-el, No-el

Đấng sinh xuống trần là vua Is-ra-el

3- Phiên bản của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam:



- Nô-ên đầu tiên thiên sứ rao truyền cho kẽ chăn nghèo

đang thức quanh miền, Quây quần cùng nhau canh giử chiên

nhà, Đêm giá canh trường thân phủ sương già.

Đ.K:

Nô-ên, Nô-ên, Nô-ên, Nô-ên,

Chính đêm sanh Vua Y-sơ-ra-ên!

- Cũng nhờ hào quang do chính sao nầy, Bác sĩ ba người chung

đến vui vầy, Bước lần lần theo sao sáng trên trời, Nôn nả

đi tìm Vua mới ra đời.

- Nay mừng nô-ên ta hát một bài, Cung kính khen ngợi Chân

Chúa thiên đài, Muôn vật được nên do Chúa phán tuyên,

Tuôn huyết tha tội ơn cứu linh huyền.

7- I’LL BE HOME FOR CHRISTMAS

(Tôi sẽ về nhà mừng lễ Giáng sinh)



Hàng triệu người đã một thời ấp ủ bài ca này - những người thành kính lắng nghe từng lời và từng nốt nhạc, nương hồn theo từng xúc cảm đan dệt thành lời bài hát – nay đã ra người thiên cổ. Tuổi tác đã cướp đi những thanh niên thiếu nữ đã lần đầu tiên ôm ấp nhạc bản “I’ll Be Home for Christmas”, không phải chỉ như một bài ca mà còn như một lời kinh nguyện. Đối với người già người trẻ trong những ngày đen tối nhất của thế chiến thứ II, những người con, những cha mẹ, ông bà, cô cậu chú bác thì “I’ll Be Home for Christmas” tượng trưng cho họ niềm hy vọng, giấc mơ và lời kinh nguyện đẹp đẽ hơn bất cứ bài ca, phim ảnh hay câu truyện nào khác. Nhiều người ngày nay nghe nhạc bản này có thể nghĩ là nó quá sướt mướt, nhưng khi mới ra đời nó đã được nhanh chóng trở thành bài ca ăn khách nhất.

Nhạc bản này có thể là một bài ca mùa Giáng sinh rất giản dị. Có lời mở đầu, một phiên khúc và một điệp khúc, chỉ có 12 dòng chữ nhưng mô tả nỗi nhớ nhà chân thành. Vậy mà cách thế 12 dòng chữ này đánh động cả một dân tộc trong thời chiến chinh bất định, cũng như cung cách nó tiếp tục đánh động con người thời nay, làm cho bài ca thế tục này trở thành một trong những ca khúc tinh thần thiêng liêng nhất trong mọi thời đại.

Đó là năm 1942, và nhà viết lời ca Kim Gannon biết rất rõ những xúc cảm khi chiến đấu trong một trận chiến ở hai mặt trận. Tại Brooklyn là quê hương của nàng, không phải chỉ có hàng ngàn gia đình cho con em vào quân đội mà nhiều gia đình đã mất con trong cuộc chiến. Mùa lễ Giáng sinh thường là thời gian hoan hỉ trong thị trấn này của New York, nhưng năm đó lại thấy khác hẳn một cách lạ kỳ. Đường phố vẫn được trang hoàng, cây thông vẫn bày bán nơi góc phố và ông già Noel vẫn rung chuông mỉm cười với trẻ thơ, nhưng không khí chiến tranh đã bao trùm lên những ngày lễ. Thật khó mà nghĩ tới quà cáp và hoà bình trên dương thế khi cha mẹ nóng lòng đọc tin tức và nguyện cầu cho đừng thấy người mang điện tín đem hung tin dừng lại trước của nhà mình. Còn tệ hơn nữa là không ai chắc chắn rằng nước Mỹ sẽ thắng trong trận chiến khủng khiếp này.

Kim thấy những cảnh tượng đau lòng diễn ra hàng ngày – lời cầu nguyện của những người cha người mẹ lòng đầy xúc động, những giọt nước mắt của những tân binh đang được người thân tiễn biệt tại các sân ga, những bước chân hối hả chạy đến gần người phu trạm mong nhận được một phong thư của người thân. Nàng biết những tin tức đọc trên đài phát thanh vừa như là một lời nguyền rủa vừa là lời chúc phúc. Mọi người đều có nhu cầu muốn biết những gì đang xảy ra ở Âu châu và trên Thái bình dương, nhưng nỗi lo sợ cùng đến với lòng mong biết đó...một nỗi lo sợ thấm thía khi cha mẹ, vợ con nghe tin một trận đánh lớn vừa bùng nổ nơi người con, người cha, người chồng mình mới nêu địa danh trong lá thư sau cùng gửi về nhà. Khi mùa lễ Giáng sinh đến, nỗi trầm cảm, âu lo vì xa cách người thân càng trở nên tồi tệ hơn.

Không phải chỉ có những gia đình có quân nhân tại nước ngoài mới chìm đắm trong một thế giới bất định và âu lo, mà còn nhiều thanh niên thiếu nữ vùng thôn quê bỏ nhà đi làm việc tại các văn phòng và nhà máy tại New York và các đô thị lớn khác. Cũng như nhiều binh sĩ trong quân đội, chiến tranh đã đưa biết bao nhiêu người dân sự rời xa quê. Nhiều kẻ lần đầu tiên sống xa gia đình vào dịp lễ Giáng sinh, họ thật cô đơn và nhớ nhà.

Khi Kim Gannon ngồi xuống với ngọn bút trên tay để ghi lại những cảnh tượng chung quanh nàng và những người ở khắp nước Mỹ, tình cảm dạt dào chắc đã làm cho lúc viết ca khúc “I’ll Be Home for Christmas” rất mực khó khăn. Thật có rất nhiều điều phải nói, nhiều điều bị mất mát do những người bị chia ly vì đêm đen hoả ngục của chiến chinh. Vậy mà thay vì cố ôm đồm viết về mọi sự, nhà văn chỉ viết, bằng lối thẳng tắp và không có gì là phức tạp, về nỗi đau trong tim khi phải xa nhà vào dịp lễ Giáng sinh. Ngắn, trực tiếp và ngọt ngào, thi sĩ Kim chỉ bằng mấy dòng chữ ngắn ngủi đã hoàn toàn thu tóm được cảm xúc của hàng trăm triệu con người.

Những lời ca của Kim Gannon được đem tới nhà soạn nhạc Walter Kent, cũng là một người dân New York. Kent hiểu thấu nỗi buồn của mùa lễ. Kent cũng là người đã sáng tác ca khúc tình cảm được nhiều người ưa chuộng “White Cliffs of Dover” nên biết rõ bản nhạc cần giai điệu nào. Bằng đôi mắt tâm thần ông nhìn thấy những chiếc ghế không người ngồi ở bàn ăn, những người mẹ cố gắng mỉm cười qua màn lệ khi nướng bánh cho những người còn hiện diện trong gia đình, những món quà lễ Giáng sinh treo trên cây thông chưa mở (trong thời kỳ này những món quà giáng sinh thường rất giản dị và buộc trên cây chứ chưa gói và đặt dưới cây thông như hiện nay). Với những hình ảnh đó trong đầu, ông đi tìm những nốt nhạc thích hợp để dệt lên lời ca. Khi hoàn thành tác phẩm, ông đã viết nên một giai điệu mơ màng, hy vọng, phù hợp hoàn toàn với lời ca của Kim Gannon.

Một trong những điều kỳ diệu của bài ca này là nó nghe như một lá thư gửi về nhà hơn là một bài hát mừng Giáng sinh tiêu biểu. Nó không chỉ có một nỗi buồn thấm thía trong lời ca và điệu nhạc mà còn chứa chan hy vọng. Nó như lời một người thủy thủ, một chiến binh nhắn gửi người nhớ mong họ rằng họ sẽ trở về một ngày không xa. “I’ll Be Home for Christmas” để cho người nghe một lời nhắn gửi chung cuộc và tức tốc: “Đừng thất vọng, rồi chúng ta sẽ đoàn tụ đấy thôi.”

Tính chất thiêng liêng của nhạc bản này đến từ sứ điệp gần như một lời kinh cầu nguyện. Lễ Giáng sinh tại Hoa kỳ luôn luôn là hướng về gia đình và tưởng nhớ Đấng đã tác tạo nên gia đình. Thế chiến thứ II đã phá vỡ mối giây gắn bó đó và làm xáo trộn các truyền thống của ngày lễ, “I’ll Be Home for Christmas” xác nhận một cách hùng hồn niềm hy vọng rằng khi sự việc đổi thay thì với thời gian, mọi người sẽ trở về đoàn tụ.

Ngày 4-10-1943 Bing Crosby thu âm bản “I’ll Be Home for Christmas”. Đây là bản đơn ca sau hơn 200 bản nhạc ông đã ghi âm, đã nhảy lên hàng ăn khách thứ hai, chỉ sau “White Christmas” là bản nhạc ăn khách hàng đầu năm 1942. Bản White Christmas đứng đầu bảng 17 tuần liên tiếp sau khi phát hành, đến năm 1943 lại đứng thêm một tháng ruỡi nữa. Vậy mà giữa khung cảnh chiến tranh, “I’ll Be Home for Christmas” lại được phát thanh nhiều hơn và bán ra nhiều hơn. Nó mau chóng trở thành nhạc bản được yêu cầu nhiều lần nhất trong những cuộc trình diễn cho binh sĩ mùa Giáng sinh tại các căn cứ ở Âu châu và Thái bình dương. Một số nhà viết lịch sử có nói rằng đối với quân nhân và gia đình họ thì bản nhạc thể hiện tinh thần ái quốc ngang bằng với bản “God Bless America”.

Trong suốt cuộc thế chiến thứ II, chiến tranh Triều tiên và Việt nam, bài ca này tượng trưng và thể hiện những tình tự của những người ở tiền tuyến cũng như nỗi xúc cảm của người ở nhà cầu mong cho họ được an toàn trở về. Nó được thu thanh không biết bao nhiêu lần do nhiều nghệ sĩ khác nhau và hàng triệu đĩa nhạc đã được bán ra. Nhưng xa hơn những con số bán được đáng kể đó, là phương thức bài ca được nâng niu do mọi người trong xã hội. Như là một lời chứng về tính chất đầy hy vọng của nó, bài hát tuy không có một nhắc nhở đề cập nào đến Đức Giêsu hoặc là lễ Giáng sinh đầu tiên, nhưng suốt 50 năm qua nó đã được dùng hàng ngàn lần trong các cuộc trình tấu và các chương trình thuộc nhà thờ vào dịp mừng lễ Giáng sinh.

***

Ngày nay, hơn năm thập niên sau khi bài ca được công nhận như một lời kinh cầu ngày lễ cho thế chiến thứ II, “I’ll Be Home for Christmas” vẫn còn khuấy lên nhiều xúc cảm mới. Hầu hết những người trở về nhà mừng lễ Giáng sinh sau cuộc đại chiến đã giã từ thế giới này để bước sang một thế giới khác. Nhưng vì những đóng góp và hy sinh của họ là những người đã phục vụ tổ quốc trong những ngày đen tối, họ vẫn luôn luôn trở về mừng lễ Giáng sinh với chúng ta trong tâm hồn, trong ký ức và trong giấc mơ đầy hy vọng của chúng ta.

Lời ca của bài hát I’ll Be Home For Christmas:



I'll be home for Christmas,

You can count on me.

Please have snow and mistletoe

And presents under the tree.

Christmas Eve will find me,

Where the love light gleams.

I'll be home for Christmas,

If only in my dreams.

Christmas Eve will find me,

Where the love light gleams.

I'll be home for Christmas,

If only in my dreams.

8. TWELVE DAYS OF CHRISTMAS

(Mười Hai Ngày Mùa Lễ Giáng Sinh)

Bài Toát Yếu Giáo Lý Của Thời Cấm Cách

Ngày đầu tiên của mùa lễ Giáng sinh, Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Một con gà gô đậu trên cây lê.

Ngày thứ hai của mùa lễ Giáng sinh, Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Hai con cu gáy Và một con gà gô đậu trên cây lê.

Ngày thứ ba của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Ba con gà mái Pháp, hai con cu gáy Và một con gà gô đậu trên cây lê…

Ngày thứ tư của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Bốn con chim gù, ba con gà mái Pháp…

Ngày thứ năm của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Năm chiếc nhẫn vàng…

Ngày thứ sáu của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Sáu con ngỗng đang đẻ trứng…

Ngày thứ bảy của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Bảy con thiên nga đang bơi lội…

Ngày thứ tám của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Tám tì nữ đang vắt sữa…

Ngày thứ chín của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Chín thiếu nữ đang khiêu vũ…

Ngày thứ mười của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Mười ông chủ đang nhảy nhót…

Ngày thứ mười một của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Mười một người thổi tiêu đang thổi tiêu…

Ngày thứ mười hai của mùa lễ Giáng sinh Người yêu chân tình của tôi tặng tôi Mười hai tay trống đang đánh trống…



Đối với hàng triệu người thì bài hát “The Twelve Days of Christmas” chẳng qua chỉ là một bài nhạc giả tưởng gồm toàn những điều hư cấu. Những con số và quà tặng nêu trong bài hát tưởng chừng như vô nghĩa làm nhiều người liên tưởng đến những bài như “Grandma Got Run Over by a Reindeer” (Bà Nội bị Con Nai húc phải) hoặc “I saw Mommy Kissing Santa Claus” (Tôi thấy má hôn ông già Noel). Vậy mà bài hát này - ngày nay ta thấy dường như chẳng có ý nghĩa gì cả - lại đã có một thời được dùng làm công cụ giảng dậy rất quan trọng tại nước Anh của Giáo hội Công giáo.

Khoảng đầu thế kỷ 16, người Công giáo tại Anh bị cấm thực hành đức tin. Chỉ có Anh giáo mới là tôn giáo duy nhất hợp pháp trong toàn đế quốc Anh. Người Công giáo nào nói hoặc viết về đức tin của mình sẽ bị bắt và bị xử theo luật pháp thời đó. Nếu vi phạm nặng, họ sẽ bị treo cổ hoặc phân thây. Trẻ con hoặc người lớn đều bị luật pháp này chi phối, và tuổi tác của người tuyên xưng đức tin, dù còn nhỏ, cũng chẳng phải là yếu tố để nhà nước tha không áp dụng những luật lệ khắt khe.

Trước nguy cơ bị bắt bớ và cả cái chết, hàng triệu người không chịu từ bỏ tôn giáo mà cha ông tổ tiên của họ đã theo. Vì thế, cũng giống như tín hữu thời sơ khai của giáo hội ở La mã, những người Công giáo Anh đi vào nếp sống ẩn mật. Họ tổ chức những thánh lễ “chui”, đóng kín cửa để học hỏi giáo lý và giấu giếm mọi dấu vết về đạo trong nhà. Họ gần như tạo thành một xã hội khép kín.

Một trong những vấn đề khó khăn nhất của giáo hội thầm lặng lúc đó là việc dạy dỗ giáo lý cho con cái. Vì viết ra bất cứ điều gì liên quan đến đức tin Công giáo có thể làm mất mạng cả người viết lẫn người đọc, do đó giáo lý phải được biến cải thành những dấu hiệu bí mật. Một trong những ám hiệu có kết quả nhất của giáo hội thầm lặng lúc đó là một bài nhạc giáng sinh mà trên bề mặt tưởng chừng như chẳng có ý nghĩa gì. Điều trớ trêu là bài hát kỳ cục này lại rất phổ thông, đã len lỏi trong quảng đại quần chúng, tìm lối vô các thính đường âm nhạc, và vào ngay cả cung điện của hoàng gia nữa. Rất có ít người, và chắc không phải là nhà vua và chức sắc của Anh giáo lúc đó, nghi ngờ cái ý nghĩa tiềm ẩn đàng sau lời ca là những yếu tố căn bản về giáo lý của Giáo hội Công giáo đang bị chính quyền đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Khi bài nhạc mới trở thành phổ biến, nhiều người Anh giải thích rằng ý nghĩa của “The Twelve Days of Christmas” nằm ở số ngày, không phải ở những món quà tặng. Có nhiều giả thuyết dựa trên lối giải thích đó, đi từ lý thuyết nói rằng nó tượng trưng cái số ngày trước ngày 25 tháng chạp, cho đến lối giải thích là các lời trong bản nhạc mô tả tập tục tặng quà lâu tới 12 ngày sau lễ Giáng sinh. Trong lúc luận bàn về số ngày mà bài hát đề cập tới, ý nghĩa của những món quà kỳ cục trong bài hát thường bị bỏ qua, coi như là cái tưởng tượng thái quá của anh chàng trẻ tuổi si tình, với lý luận rằng quà tặng ở đây không mang ý nghĩa nào hết vì người si tình ít khi suy nghĩ hoặc hành động một cách hợp lý. Thế là mọi suy đoán đều khác xa sự thực, ở đây quà tặng mới là căn bản để tìm ra mật hiệu.

Số ngày không gì khác hơn chỉ là dấu hiệu giản dị của thời gian giữa lễ Giáng sinh và lễ Hiển linh, ngày kỷ niệm sự việc các đạo sĩ tới chiêm bái vị vua mới sinh hạ. Ý nghĩa bí ẩn đối với trẻ em Công giáo không phải trong số 12 ngày, mà nằm ở những món quà rất đặc biệt. Khi trẻ em hát, chúng không nghĩ đến những món quà thực mà liên tưởng tới điều khác hẳn. Mỗi trẻ em Công giáo đều được dạy rằng tình yêu thanh khiết và chân thành chỉ duy nhất đến từ Thiên Chúa. Do đó ngay từ khởi đầu bản nhạc chúng hiểu rằng bài ca này nói về tình yêu của Chúa, chẳng phải mối tình của anh chàng trai đang o bế cô gái.

Sự quan trọng của cái chết và sự phục sinh của Chúa là căn bản của đức tin – và của bài hát nữa – nên được lặp đi lặp lại sau mỗi phiên khúc mới. Con gà gô đậu trên cây lê tượng trưng cho lòng can đảm và sự sốt sắng tận tụy con người phải chứng tỏ trong cuộc sống ở trần gian. Gà gô mẹ thường lừa cho kẻ thù đi xa để che chở đàn con không biết tự vệ. Cũng giống như gà mẹ hy sinh mạng sống cho con mình thế nào thì Chúa Cứu Thế đối với chúng ta cũng vậy. Cộng thêm với hình ảnh đó, cây lê còn là biểu tượng của thập giá, cả hai gộp lại làm món quà thứ nhất tượng trưng cho món quà tuyệt đối mà Chúa hài nhi trao tặng trong ngày lễ Giáng sinh. Món quà thứ hai, hai con chim cu gáy, được hiểu là cả Tân ước và Cựu ước của Kinh Thánh. Cu gáy còn tượng trưng cho chân lý và hoà bình, một lần nữa nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa Chúa và ngày lễ Giáng sinh.

Ngày nay, “ba con gà mái Pháp ” không có giá trị gì mấy, nhưng ở thế kỷ 16 lại là những món ăn rất đắt giá chỉ người giầu có mới mua được. Bữa tiệc mà có gà mái Pháp là bữa tiệc chỉ dành cho bậc vua chúa. Trong bài hát, gà mái tượng trưng cho những lễ vật quý giá do các đạo sĩ đem tới. Khi trẻ em hát phiên khúc thứ ba, chúng không nghĩ tới ba con gà mái mà liên tưởng đến vàng, nhũ hương và mộc dược. Bốn con chim đang gáy chỉ bốn tác giả sách Phúc âm đã ghi chép cuộc đời của Chúa Giêsu và sứ vụ của Người từ lúc giáng sinh đến ngày chịu chết. Ý nghĩa đích thực của những con chim ở đây là Matthêu, Marcô, Luca và Gioan. Tiếp theo với chủ đề Kinh thánh, “năm chiếc nhẫn ” chỉ năm cuốn sách Cựu ước mà người tín hữu cho là “luật Môisen” còn người Do thái gọi là sách luật “Torah”.

Khi hát lên, những món quà này không chỉ nhắc nhớ trẻ em rằng tội lỗi làm con người xa lìa ơn thánh mà còn đề cập đến việc Chúa cứu chuộc xuống để giải thoát và lập lại con đường trở về với Ngài. “Sáu con ngỗng đang đẻ trứng” có vẻ là khôi hài đối với người hát không biết ý nghĩa đích thực của nó, nhưng đối với người công giáo thì dễ hiểu và hợp lý. Chúa đã tạo dựng trái đất trong sáu ngày. Cũng giống như trứng là tượng trưng cho cuộc sống mới, những con ngỗng đẻ trứng là trình thuật sự sáng tạo trời đất và sự sống của Chúa từ hư vô. “Bảy con thiên nga đang bơi lội” cũng là một điều kỳ bí đối với những người không biết. Trong thư gửi tín hữu Rôma thánh Phaolô có đề cập đến ơn Chúa Thánh Thần. Những tặng phẩm đó là: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn phân biệt, ơn can đảm, ơn tri thức, ơn sốt sắng và ơn kính sợ (Rôma 12:6-8) tượng trưng bằng con thiên nga, loại chim được coi là duyên dáng và đẹp đẽ nhất ở nước Anh. Do đó trẻ em được dậy là khi chúng hiệp nhất với Chúa thì ơn của Chúa Thánh Thần sẽ tác động trong cuộc sống của chúng cũng dễ dàng như con thiên nga bơi lội tung tăng trên mặt nước. “Tám tì nữ đang vắt sữa” tượng trưng cho loại người tầm thường được Chúa đến phục vụ và cứu vớt.

Vào thời điểm bài hát này được viết ra, không có việc nào thấp kém hơn việc làm trong nông trại và chăn nuôi gia súc. Một người đàn bà làm công việc như vậy thường không có giá trị gì đối với chủ. Vậy mà Chúa Cứu Thế, vua của nhân loại, lại xuống phục vụ con người không phân biệt giàu nghèo, dòng dõi, phái tính… Con số tám trong câu này còn chỉ tám mối phúc thật đề cập đến trong Tin Mừng Thánh Matthêu: Phúc cho người tinh thần nghèo khó, người khóc than, người hiền hậu, người đói khát, người từ bi, người tâm hồn trong sạch, người phục vụ hòa bình, người công chính (Mat. 5: 3-10) Trong câu kế tiếp, hoa quả của Chúa Thánh Thần: đức yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhẫn nại, tử tế, nhân hậu, trung tín, hiền lành và tự chế được ẩn dấu đàng sau hình ảnh chín người thiếu nữ đang nhảy múa.

Ngoài ra, sự nhảy múa chỉ cái vui đích thực và sự thưởng công khi ta phục vụ Chúa. “Mười ông chủ đang nhảy nhót” tượng trưng 10 điều răn. Vì ông chủ thì thường được coi là người công chính, đáng kính trọng, và là người quyết định về luật pháp trong địa phận của ông, nên dễ hiểu là 10 ông chủ tượng trưng 10 giới răn Chúa đã truyền cho Moisê.

Có 12 tông đồ nhưng cuối cùng một người đã từ bỏ Chúa và sự cứu chuộc của Người. Hình ảnh 11 người thổi tiêu là hình ảnh 11 vị tông đồ đã rao truyền lời Chúa, cuộc sống và sự sống lại của Người cho thế giới. Món quà sau cùng, “12 tay trống đang đánh trống” tượng trưng cho giáo huấn quan trọng nhất đối với mọi người Công giáo. Được gọi là Kinh Tin Kính các thánh tông đồ, một bản tuyên xưng đức tin có 12 điểm. Cái trống có thể được dùng như là một tượng trưng nhịp bước mà bài kinh này dạy cho các tín đồ hàng ngày phải đi theo Chúa. Kinh Tin Kính rất quen thuộc ngay cả với những người không thuộc Giáo hội Công giáo.

Không rõ những người Công giáo nước Anh khi sáng tác bản nhạc này và dạy cho trẻ con, có muốn cho ý nghĩa đích thực của bài hát được dấu kín mãi mãi không. Khi việc hành đạo Công giáo không còn là một tội phạm ở nước Anh nữa, có lẽ tác giả cũng muốn tiết lộ những điều ẩn tàng trong đó. Vậy mà khi đức tin đã được giải phóng, những lời trong bài ca này vẫn giữ nguyên như cũ và chẳng ai buồn liên hệ nó với những bài hát khác có đề cập đến sự giáng sinh của Chúa.

Ngay cả bây giờ, 400 năm sau thời điểm đó, dù The Twelve Days of Christmas đã được thâu thanh hàng trăm lần và được trình diễn hàng ngàn lần, ít người hát lên mà không cười thầm vì ý nghĩa kỳ cục và làn hơi thật dài phải dùng để trình bày cho xong bài hát. Có điều kỳ thú nữa là dù bản nhạc được ngụy trang để che dấu nội dung lúc ban đầu, nó vẫn tồn tại với thời gian, cũng như Giáo hội Công giáo vẫn sống còn bất chấp những bách hại của người Anh thủa đó.

Lời ca của bản The Twelve Days of Christmas (Chúng tôi không tìm được bản Việt ngữ nào):

On the first day of Christmas

my true love sent to me:

A partridge in a pear tree.

On the second day of Christmas

my true love sent to me:

Two turtle doves

And a Partridge in a pear tree.

On the third day of Christmas

my true love sent to me:

Three French Hens,

Two turtle doves

And a Partridge in a pear tree.

On the fourth day of Christmas

my true love sent to me:

Four calling birds,

Three French Hens,

Two turtle doves

And a Partridge in a pear tree.

On the fifth day of Christmas

my true love sent to me:

Five golden rings,

Four calling birds,

Three French Hens,

Two turtle doves

And a Partridge in a pear tree.

On the sixth day of Christmas

my true love sent to me:

Six geese a laying,

Five golden rings,

Four calling birds,

Three French Hens,

Two turtle doves

And a Partridge in a pear tree.

On the seventh day of Christmas

my true love sent to me:

Seven swans a swimming,

Six geese a laying,

Five golden rings,

Four calling birds,

Three French Hens,

Two turtle doves

And a Partridge in a pear tree.

On the eighth day of Christmas

my true love sent to me:

Eight maids a milking,

Seven swans a swimming,

Six geese a laying,

Five golden rings,

Four calling birds,

Three French Hens,

Two turtle doves

And a Partridge in a pear tree.

On the ninth day of Christmas

my true love sent to me:

Nine ladies dancing,

Eight maids a milking,

Seven swans a swimming,

Six geese a laying,

Five golden rings,

Four calling birds,

Three French Hens,

Two turtle doves

And a Partridge in a pear tree.

On the tenth day of Christmas

my true love sent to me:

Ten lords a leaping,

Nine ladies dancing,

Eight maids a milking,

Seven swans a swimming,

Six geese a laying,

Five golden rings,

Four calling birds,

Three French Hens,

Two turtle doves

And a Partridge in a pear tree.

On the eleventh day of Christmas

my true love sent to me:

Eleven pipers piping,

Ten lords a leaping,

Nine ladies dancing,

Eight maids a milking,

Seven swans a swimming,

Six geese a laying,

Five golden rings,

Four calling birds,

Three French Hens,

Two turtle doves

And a Partridge in a pear tree.

On the twelfth day of Christmas

my true love sent to me:

Twelve drummers drumming,

Eleven pipers piping,

Ten lords a leaping,

Nine ladies dancing,

Eight maids a milking,

Seven swans a swimming,

Six geese a laying,

Five golden rings,

Four calling birds,

Three French Hens,

Two turtle doves

And a Partridge in a pear tree.

9. JOY TO THE WORLD



(Niềm Vui cho Thế Giới)



Hai nhà viết ca khúc sáng giá – mặc dầu chưa bao giờ gặp nhau – đã cùng tạo nên một trong những ca khúc mừng Giáng sinh lâu bền nhất. Mỗi người đã vượt qua những phương thức cố định khi làm việc và đi tiên phong trong mọi mặt về công việc họ làm. Hơn nữa, là những người đem bản nhạc tới thế giới, cả hai đều cố đem nhạc tôn giáo đi vào một thời đại mới. Vì họ ở cách xa nhau nửa vòng trái đất và cách biệt nhau gần một thế kỷ thời gian, họ không hay biết rằng với sự hợp tác của nhau, họ đã tạo nên một bản nhạc cổ điển phi thời gian dành cho ngày lễ, dành cho mọi lứa tuổi và mọi loại thính giả. Và trong thực tế, có lẽ cả Isaac Watts và Lowell Mason đều không biết họ đã trao tặng cho thế giới một nhạc bản mừng Giáng sinh nữa.

Isaac Watts sanh ngày 17 tháng 7 năm 1674 tại Southampton, nước Anh. Cha ông cũng tên là Isaac, là một khuôn mặt cách mạng thuộc giáo hội Tin lành. Ý chí mạnh mẽ và ngoan cường, người cha này làm thợ giày và thợ may để sinh sống, đang ở trong tù khi đứa con ra chào đời. Ông ta là một trọng phạm bất phục tùng quốc giáo, bị kết tội đã giảng dậy những tư tưởng cấp tiến không được Giáo hội Anh giáo và các học giả theo quốc giáo thời đó chấp nhận. Như vậy, ở tuổi rất sớm, chắc chắn là người con đã được ông bố truyền cho những lối suy nghĩ tự do.

Isaac Watts lớn lên, làm việc thờ phượng tại nhà thờ cộng đoàn tại Southampton. Hầu hết trẻ con Anh với khả năng trí thức như Isaac thường được gửi đến học tại Oxford hoặc Cambridge, nhưng vì không thuộc giáo hội Anh giáo nên Isaac được gửi học tại Independant Academy tại Stoke, Newington. Nơi đó – chắc là noi gương cha mình – ông tiếp tục bày tỏ tính chất chống đối. Không bằng lòng với hiện trạng của mọi sự, ông thắc mắc về mọi điều. Ông đòi hỏi phải biết tại sao ông và bất cứ ai cũng phải chấp nhận sự thỏa mãn về mọi việc trong khi những việc đó có thể được làm cho tốt đẹp hơn nhiều. Mặc dầu học hành khá tiến bộ, nhưng Isaac bỏ học viện ở tuổi 20 sau khi đã học tiếng Hy lạp, Do thái và Latinh, để trở về nhà sống với cha.

Giống như hầu hết mọi người trai trẻ, Watts thấy âm nhạc ở nhà thờ thời đó không có tinh thần và theo giọng đều đều buồn nản. Ông không thấy có niềm vui hay cảm xúc do những bài hát tiêu chuẩn do ca đoàn hoặc do cộng đoàn hát. Vậy mà khi cả thế hệ trẻ trung thời đó giữ im lặng thì Isaac phàn nàn với cha về những từ ngữ cổ trong các thánh vịnh hát ở nhà thờ. Người cha, không bao giờ có óc duy trì truyền thống, thách thức con xem có làm ra được gì tốt đẹp hơn không. Điều thách thức này làm nổ bùng những sáng kiến mà kết quả là Isaac đã sáng tác hơn 600 bản thánh ca và hàng trăm bài thơ.

“Behold the Glories of the Lamb” là bản tụng ca đầu tiên của Isaac. Tiếp theo sau là nhiều bài khác. Trong một thời gian, hầu hết các sáng tác của ông đã gặp phải những miệt thị vì không ai muốn có những bản dịch Kinh thánh mới. Một số người còn cho là anh chàng trai trẻ Isaac là người lạc giáo hoặc là công cụ của ma quỷ. Nhưng ông quyết không bỏ cuộc. Ông thường xuyên thách đố những người chung quanh bằng những bài ca mới và những tư tưởng mới về đức tin.

Sau nhiều năm sinh sống bằng nghề dạy học tư, Isaac được làm phụ tá cho tiến sĩ Isaac Chauncey tại nguyện đường độc lập Mark Lane ở Luân đôn. Ba năm sau, lúc này 26 tuổi, Isaac trở thành mục sư. Nhờ ở phần nào phong cách đạo đức trong công việc và những ý tưởng mới mẻ của ông, giáo hội này phát triển nhanh chóng. Với địa vị mới và được tôn trọng, cuối cùng ông đã có thể xuất bản các bản nhạc của ông.

Qua những bản thánh ca và các bài viết về thần học, ông trở thành một trong những giáo sĩ nổi tiếng nhất tại Anh. Elizabeth Singer, một thiếu nữ cảm xúc sâu xa do các bài viết gây hứng khởi của ông nên viết thư cho ông và mau chóng trở thành một người mến mộ ông rất mực. Nàng cầu hôn với ông bằng một lá thư. Khi ông chấp thuận, nàng vội vã tìm đến, lòng đầy ưu tư. Thay vì vun quén cho tình yêu một đời đó được bền chặt, cuộc gặp gỡ giữa hai người chú tâm hoàn toàn vào tác giả và các tác phẩm mà không đề cập gì đến Elizabeth cả. Sau này nàng nói rằng: “Ông ta chỉ cao có một thước rưỡi, mặt nông cạn, mũi khoằm xuống, xương lưỡng quyền nhô cao, mắt nhỏ và lờ đờ như chết.” Không thể nhìn ngắm người đàn ông trước mặt để thấy được vẻ sáng suốt rực rỡ nằm ẩn tàng ở bên trong, người thiếu nữ vội vã trở về nhà ngay. Cõi lòng tan nát, Watts lao mình vào việc viết lách, không bao giờ tìm tình yêu nơi người đàn bà nào khác.

Chính trong lúc nghiên cứu thánh vịnh 98 mà Isaac hứng khởi sáng tác bài ca nổi tiếng nhất này. Trong câu thứ 4 của thánh vịnh, Isaac nghiền ngẫm: “Cả trái đất hãy tung hô Chúa, mừng vui lên, reo hò đàn hát”. Chú trọng vào câu này và câu 5 tiếp theo sau đó, Isaac đặt bút viết một bài thơ 4 khổ gọi là “Niềm vui cho Thế giới”. Đặt theo nhịp ca thông dụng, bài thơ thường được hát theo điệu nhạc của bài “Come Thou Fount of Every Blessing.” Nhưng vì Isaac đã dám viết lại bản thánh vịnh nên ít người tín hữu tại Anh chấp nhận bài ca của ông.

Isaac không chịu từ bỏ nỗ lực làm cho thánh ca trở thành có ý nghĩa hơn đối với người bình dân. Ông tiếp tục viết và phát hành các bài ca mới dù phải đương đầu với những chỉ trích ngày càng tăng. The Psalms of David Imitated in the Language of the New Testament and Applied to the Christian State and Worship được xuất bản năm 1719. Bộ sách này, tràn ngập những bản nhạc cổ điển ngày nay vẫn còn biết tới như “We’re Marching to Zion,” “When I Survey the Wondrous Cross,” “At the Cross,” và “This Is the Day the Lord Has Made,” không những chỉ được các Kitô hữu người Anh dần dần đón nhận mà còn gây cảm hứng cho những người khác như Charles Wesley và John Newton để họ sáng tác những bài thánh ca mới dựa trên kinh nghiệm cá nhân. Ít có nghi ngờ rằng ý chí ngoan cường và nỗ lực thường xuyên của ông nhằm đem âm nhạc Kitô giáo đến người dân thường giữ cho “Joy to the World!” trong mắt công chúng dài lâu sau khi tác giả mất năm 1748. Nó cũng khởi sự một cuộc cách mạng trong lề lối suy tư về âm nhạc Kitô giáo hiện đại.

44 năm sau, Lowell Mason sanh tại Orange, bang New Jersey. Thời niên thiếu anh điều khiển ca đoàn nhà thờ và dạy ở trường ca hát. Mặc dầu có nhiều người nghĩ anh có tài về âm nhạc nhưng Mason không thấy có cách nào kiếm sống bằng tài năng đó. Năm 1812 chàng thanh niên này di chuyển về Savannah, bang Georgia, và bắt đầu làm nghề ngân hàng. Nhưng đam mê âm nhạc vẫn còn trong tâm hồn anh. Trong thời gian rảnh rỗi, anh học hòa âm, viết lời ca, và trở thành học trò của nhà soạn nhạc thời danh Hendel. Với ảnh hưởng của nhạc sĩ người Đức này, anh gửi cho nhà xuất bản ở Boston một cuốn sách gồm âm nhạc và hoà âm do anh sáng tác. Khi sách bị từ chối theo lẽ đương nhiên, vì quần chúng Mỹ lúc đó muốn có nhạc dân ca mới chứ không phải nhạc theo tiêu chuẩn cổ điển, Mason quyết định chỉ dùng tài năng mình vào dịp cuối tuần để dạy ở trường giáo lý nhà thờ và làm người chơi đàn cho giáo đường Presberyterian tại địa phương. Hãy tưởng tượng cú sốc của anh vào năm 1827 khi anh thấy không những âm nhạc của mình tìm được nhà chịu xuất bản, mà Hiệp Hội Handel and Haydn tại Massachusetts còn đặt mua 50 ngàn cuốn sách nhạc của anh! Lập tức, anh rời miền nam, di chuyển về Boston.

Trong 20 năm kế tiếp, Lowell là người thúc đẩy và làm náo động giới âm nhạc tại New England. Cũng giống như Isaac Watts, Lowell thấy mình là một nhà cách mạng, không ngừng đưa ra những ý kiến mới mẻ. Các trường học vào thời đó không chú ý gì tới âm nhạc, do đó ông bỏ tiền túi ra thành lập một chương trình âm nhạc đầu tiên tại trường học công lập ở Boston. Ông cũng trở thành người xuất bản âm nhạc quan trọng nhất ở đô thị này, đã sáng tác hơn 600 bản thánh ca, gồm cả những bài như “My Faith Looks Up to Thee” “Nearer My God to Thee.”



Năm 1836, do tình yêu đối với những nhà soạn nhạc cổ điển người Đức chưa phai, ông đã sáng tác một giai điệu mới gợi hứng từ 2 bản nhạc trong tấu khúc Messiah của Handel là “Lift Up Your Head” và “Comfort Ye.” Sau khi hoàn thành công trình này, ông đã tác tạo một cái gì hoàn toàn mới, một bản tụng ca hồ hởi mà ông đặt tên là “Antioch” dựa theo tên một đô thị ở Syria (Ang-ti-ô-ki-a) là điểm khởi hành của thánh Phaolô trong hai cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên. “Antioch” phải có lời ca đi kèm, nhưng tác giả cần có thời gian mới tìm được sứ điệp đi theo với nhạc của ông. Ba năm sau, trong cuốn sách hát nhan đề Modern Psalmist, cuối cùng Mason đã nối kết một trong những lời ca được cảm hứng từ thánh vịnh vào nhạc điệu của ông. Vào lúc này mọi người đã sẵn sàng đón nhận “Joy to the World!”.

***

Năm 1911 Elise Stevenson người đã có thành công lớn lao trong những ngày đầu của âm nhạc thu thanh với những bản như “Shine On, Harvest Moon” và “Are You Sincere?”, gia nhập Ban Hợp xướng Trinity để cho ra đời bản nhạc “Joy to the World!” vào dịp lễ Giáng sinh. Đĩa nhạc ghi âm mỗi mặt một bản (single) này của hãng Victor Records đã nhảy lên hàng thứ năm trong danh sách nhạc bán chạy nhất, và ghi dấu lần đầu tiên âm nhạc của Watts và Mason xuất hiện trên danh sách nhạc bình dân, hiện đại (mặc dầu sau này “Joy to the World!” đã gợi hứng cho một nhóm gọi là “Three Dog Night” sáng tác một bản nhạc rock ăn khách).

Làm cách nào bản thánh ca này trở thành một bản nhạc mừng Giáng sinh vẫn còn là điều kỳ bí. Lấy hứng từ Thánh kinh Cựu ước – không có từ ngữ nào đề cập đến sự giáng sinh của Đức Giêsu ngoài câu “Chúa đã tới (the Lord is come)” – “Joy to the World!” dường như là bài ca của mọi mùa, có thể hát vào tháng 7 cũng như tháng 12. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, người Mỹ nhận bài hát này như bài ca tiêu chuẩn mùa lễ Giáng sinh. Có lẽ vì từ bài ca toát lên một tinh thần hoan hỉ, làm người ta “cảm nghiệm” như một thánh ca Giáng sinh thực thụ.

***

“Joy to the World!” là một trong những bản thánh ca Giáng sinh được ưa chuộng nhất hiện nay. Nhưng vì nó không lấy cảm hứng từ 4 sách Tin mừng trong Tân ước, nó cũng đứng ra một mình như một nhạc bản Giáng sinh thông dụng không có chủ đề Giáng sinh. Có lẽ đó là tính cách thích hợp, vì cả hai tác giả Isaac Watts và Lowell Mason đã cố công làm cho người ta thấy được Thánh kinh kết hợp với âm nhạc theo phong cách mới. Watts và Mason biết, và chúng ta nữa cũng nên nhớ, rằng người Kitô hữu nên biểu lộ niềm hân hoan mỗi ngày và mọi ngày trong cuộc đời vì “Chúa đã tới.”

1. Lời ca bằng Anh ngữ:

Joy to the world! The Lord is come!

Let earth receive her King;

Let every heart prepare Him room,

And heaven and nature sing

And heaven and nature sing

And heaven, and heaven and nature sing

Joy to the earth! The Savior reigns!

Let men their songs employ;

While fields and floods, rocks, hills and plains

Repeat the sounding joy

Repeat the sounding joy

Repeat, repeat the sounding joy

No more let sins and sorrows grow

Nor thorns infest the ground

He comes to make His blessings flows

Far as the curse is found

Far as the curse is found

Far as, far as the curse is found

He rules the world with truth and grace

And makes the nations prove

The glories of His righteousness

And wonders of His love

And wonders of His love

And wonders, wonders of His love

2. Lời Việt của nhạc sĩ Hoàng Kim (có ghi nhạc của ca khúc này là của G.F. Handel):

Tiếng muôn thiên thần hỉ hoan ca mừng

Lừng vang đồng xanh đêm vắng

Chúa sáng danh trên trời

Chúc thái an cho đời

Điệp khúc:

Người người dạt dào niềm vui

Đất trời ngợp đầy hạnh phúc

Trong giờ phút linh thiêng

Chúa Con ra đời



Sống trong u sầu đã bao năm trường

Giờ đây ngàn dân vui sướng

Bóng tối nay xa nhòa

Ánh sáng lên chan hoà

Hãy mau trông nhìn ánh sao rạng ngời

Nào ta cùng nhau đi tới

Kính bái vua Thiên đình

Giáng thế đem an bình

3. Phiên bản của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam:

- Phước cho nhân loại! Chúa ta ra đời:

Trần gian nghênh vua vô đối;

Kíp mở cửa lòng tiếp rước Con Trời,

Bầu trời vạn vật hòa thinh,

Bầu trời vạn vật hòa thinh,

Trời đất xướng ca kính khen Vua mình.

- Phước cho nhân loại! Chúa nay cai trị:

Muôn dân âu ca hoan hỉ,

Hải đảo sơn hà trổi bản ca thi,

Đồng hòa vận điệu mừng vui,

Đồng hòa vận điệu mừng vui,

Hòa khúc thánh ca hỉ hân muôn đời.

- Chúa đến tiêu diệt ác khiên bệnh tật,

Tật lê không sinh trên đất;

Chúa đến đem lại suối phước chân thật,

Tràn ngập mọi vùng họa ương,

Tràn ngập mọi vùng họa ương,

Nguyền rủa biến ra phước ân thiên thượng.

- Lẽ chánh ơn lành Chúa đem cai trị,

Làm cho muôn dân khai trí,

Thấy rõ vinh quang chính nghĩa trị vì,

Lòng đại từ Ngài lạ thay!

Lòng đại từ Ngài lạ thay!

Từ ái Chúa ta cổ kim ai tày.

10. O COME, O COME, EMMANUEL



(Emmanuel, xin hãy đến, xin hãy đến)



“O Come, O Come, Emmanuel” có lẽ là bài ca mừng Giáng sinh cổ xưa nhất mà ngày nay chúng ta còn hát. Bản thánh ca bình dân này xuất phát từ thế kỷ thứ 9 và tượng trưng một loạt những nghi thức quan trọng và cổ kính do giáo hội Công giáo cử hành. Nó cũng trình bày những vai trò khác nhau trong Kinh thánh mà giáo hội tin rằng Đức Giêsu đã hoàn tất. Tính chất phổ cập của đức tin trình bày trong bài ca này có thể được thấy rõ rệt nhất với sự kiện là từ một bản thánh ca hát bằng La ngữ và chỉ được dùng trong các thánh lễ Công giáo chính thức, nó đã vượt biên giới để trở thành bài hát được dịch ra nhiều ngôn ngữ và được mọi chi phái Kitô giáo trên thế giới công nhận.

Chúng ta không biết tác giả của “O Come, O Come, Emmanuel”. Chắc đó là một tu sĩ đan viện hay một linh mục đã viết lời trước năm 800. Ông cũng là một học giả thông thạo cả Cựu ước và Tân ước. Sau khi hoàn tất, thánh ca đã được dùng trong nhiều nhà thờ và tu viện ở châu Âu và trở thành một phần quan trọng của giáo hội. Vậy mà suốt 51 tuần lễ trong năm, người ta không dùng tới, chỉ dành cho những buổi kinh chiều ở tuần lễ sau cùng của mùa Vọng trước ngày mừng Chúa ra đời.

Trong hình thức nguyên thủy, “O Come, O Come, Emmanuel” là một trong những “Tiền khúc Lớn” hoặc “Những Chữ O Lớn” (Great Antiphone or Great O’s (1). Nguyên bản bằng La tinh, đóng khung trong 7 câu, trình bày các quan điểm khác nhau theo Thánh kinh về đấng Messia. Mỗi ngày một câu được hát lên trong 7 ngày sau cùng trước lễ Giáng sinh.

Vượt lên trên tính cách rất đơn giản và hầu như hoàn toàn đơn điệu buồn nản của nhạc được xử dụng vào thời đó, những lời ca lại vẽ nên hình ảnh phong phú về nhiều lời tiên tri trong Kinh thánh đã được thực hiện do sự giáng sinh của Đức Kitô. Vì thế câu chuyện về “O Come, O Come, Emmanuel” thực ra là một sự học hỏi cô đọng về đấng Messia theo Kinh Thánh, Người là ai, Người tượng trưng cho điều gì và tại sai Người phải xuống thế. Ngay cả ngày nay, nếu bạn là một học sinh học Kinh thánh chăm chỉ, lời ca của bài hát này cũng tỏ bày câu truyện được bộc lộ về đấng Messia.

Đối với những người ở thời đại đen tối (Dark Ages) – khi mà ít có ai được đọc hay tiếp cận với Kinh thánh – bài hát là một trong ít thí dụ cho biết làm cách nào quan điểm của Cựu ước và Tân ước về đấng Messia lại phối hợp được với nhau trong sự giáng sinh và cuộc đời của Đức Giêsu. Vì lý do nó mang chuyện về đấng Cứu thế kể thành sống động suốt hàng trăm năm khi người bình dân sống trong dốt nát và tăm tối, “O Come, O Come, Emmanuel” được xếp hạng là một trong những bài ca quan trọng nhất trong lịch sử đức tin Kitô giáo.

Bài ca được chấp nhận rộng rãi khắp nơi là do công của một người tên là John Mason Neale. Ông sanh ngày 24 tháng giêng năm 1818, là linh mục Anh giáo được học hỏi tại trường đại học Trinity ở Cambridge. Rất xuất sắc, có thể viết và nói hơn 20 ngôn ngữ, đáng lẽ ông sẽ có một tương lai rất sáng lạn. Nhưng lại có nhiều người sợ trí thông minh và sự sáng suốt của ông. Lúc đó các nhà lãnh đạo giáo hội nghĩ là ông quá hăng say truyền đạo, quá cấp tiến, và suy nghĩ quá tự do nên không thể để cho có ảnh hưởng lên quần chúng. Vì thế thay vì được làm việc mục vụ tại Luân đôn, ông được giáo hội sai tới vùng các đảo Madiera ở miền biển tây bắc Phi châu.

Bị đẩy ra ngoài nơi được mọi người chú ý và ban phát cho chức vụ làm giám sát tại một địa điểm gần như bị quên lãng như vậy, người ta nghĩ rằng ông và các ý tưởng của ông sẽ không bao giờ tìm được chỗ phát triển tại Anh quốc. Vậy mà Neale lại từ chối không chịu từ bỏ những gì liên hệ đến Chúa và đến ơn gọi của mình. Với lương bổng hằng năm chỉ có 27 anh kim, ông thiết lập dòng tu nữ St Margaret. Từ tu hội này ông bắt đầu kiến tạo một nhà nuôi trẻ mồ côi và một nhà trú ngụ cho gái giang hồ. Và những công việc cao cả ấy chỉ mới là bước đầu.

Khi không làm việc mục vụ cho những kẻ có thể được gọi là “những người hèn mọn nhất” đó, con người mảnh khảnh và yếu đuối tên Neale này lại đi xem xét mọi khía cạnh của các bài viết dựa trên Kinh thánh mà lúc đó ông có thể kiếm được. Chính trong khi nghiên cứu học hỏi này, Neale gặp được bài hát “O Come, O Come, Emmanuel” bằng tiếng Latinh trong một cuốn sách nhan đề Psalteroium Cantionum Catholicarum. Nắm bắt được sự quan trọng nơi văn bản đầy cảm hứng của bài ca, ông dịch các từ ngữ ra tiếng Anh. Trong bản khởi đầu của ông, lời bài hát bắt đầu bằng “Draw nigh, draw nigh, Emmanuel (Xin Emmanuel hãy xích đến gần)”.

Mặc dầu được hát không biết bao lần mỗi dịp lễ Giáng sinh, nhiều ý nghĩa phong phú của bài hát đã bị đặt ra bên lề hoặc bị mất. Trong lúc cả hai vị - người đan sĩ cổ xưa và vị linh mục sống trong cảnh lưu vong đày ải – có lẽ sẽ ngạc nhiên rằng ai đó còn nhớ tới tác phẩm của họ và việc chỉ có một số ít người nhận ra ảnh hưởng hoàn toàn của các từ ngữ chắc chắn sẽ làm cho họ bất mãn lắm. Vì hát một bài ca mà không cảm nghiệm được sức mạnh và sự huy hoàng của ý nghĩa của nó là tầm thường hóa cả nhạc và lời.

Câu đầu tiên của bài hát lấy từ sách tiên tri Isaia 7:14 và sách Tin mừng theo thánh Matthêu 1:23. Nó giới thiệu đấng Emmanuel – “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” – và Israel như là tượng trưng cho thế giới Kitô giáo, bị lưu đầy trên một thế giới tối tăm và tội lỗi.

Chương 11 sách tiên tri Isaia dùng làm chủ đề cho câu mở đầu bằng “O come, thou rod of Jesse, free” (Xin hãy đến, hỡi Người là Cây gậy của Jesse, xin giải thoát. Trong một số bản dịch khác gọi là “Branch of Jesse,” nhành cây của Jesse). Trong câu đó the rod of Jesse (cây gậy của Jesse) chỉ Đức Kitô, chỉ có mình Người có thể đánh bại được Satan và đem lại cuộc sống vĩnh cửu cho những kẻ tin theo Người.

O come, O Dayspring, come and cheer (Ôi xin hãy đến, hỡi Rạng Đông, xin đến và tung hô)” diễn tả hình ảnh ngôi sao mai, một quan niệm có thể truy cập từ sách Malachi 4:2. Trong câu này, bài hát kể rằng đấng Cứu độ tới sẽ mang lại công lý, lương hảo và chân lý. Người sẽ soi sáng và xua đuổi bóng tối. Cũng như Malachi đã hứa hẹn: “Mặt trời công chính sẽ mọc lên trong đôi cánh có sức chữa lành.” (2)

Lời ca tiếp theo trở thành “O come, thou key of David” (Xin hãy đến, hỡi Người là Chìa Khóa của David). Từ ngữ trong câu này giải thích rằng vị Vua mới giáng sinh nắm giữ chìa khóa nước trời, và chỉ có qua Người mới vào được thiên quốc.

Câu thơ bắt đầu bằng “O come, o come, Adonai” (Xin hãy đến, xin hãy đến, hỡi Adonai) (trong một số bản có chép “O come, thou wisdom from on high” (Xin hãy đến, hỡi Người là Minh Triết từ trời cao) đặt trọng tâm vào nguồn gốc của sự khôn ngoan đích thực, chỉ đến được từ Chúa qua Con của Người. Qua đấng Cứu thế, sự khôn ngoan này có thể đi vào khắp nơi trên thế giới, đem lại hòa bình và thông cảm cho mọi con người. Do đó, giáo huấn và gương mẫu của Đức Kitô thể hiện tất cả các lời tiên tri trong Cựu ước.

***

Ngay cả ngày nay, khi được hát nơi hành lang công cộng do một nhóm du ca hay trong một chương trình truyền hình đặc biệt, tiếng hát thuở ban đầu của các vị đan sĩ một thời xa xưa quên lãng vẫn tưởng chừng như còn nghe thấy đâu đây. Mặc dầu được dịch ra nhiều thứ tiếng và hát lên theo nhiều cung cách thể điệu và hòa âm khác nhau, tính chất đơn giản nhưng đạo đức của bài hát vẫn còn nguyên vẹn. Đó là một lời tôn kính, một lời ngợi ca không phải chỉ về sự giáng sinh của Con Chúa Trời nhưng còn là sự thể hiện lời hứa của Thiên Chúa đem Con của Người xuống trần gian. Trong bài hát giản dị nhưng xuất sắc này, những tiếng nói của hàng giáo sĩ của một thời quá vãng còn vang vọng thúc giục thế giới ngày nay chấp nhận và thờ kính vị Vua, Người đã thực thi lời hứa cao cả nhất của Thiên Chúa với con cái của Người.

1. Lời ca (do Ace Collins ghi trong sách):

O come, o come, Emmanuel,

And ransom captive Israel,

That mourns in lonely exile here

Until the Son of God appear.

Điệp khúc:

Rejoice! Rejoice! Emmanuel

Shall come to thee, O Israel.


O come, thou rod of Jesse, free

Thine own from Satan’s tyranny;

From depths of hell thy people save

And give them vict’ry o’er the grave.

O come, O Dayspring, come and cheer

Our spirits by thine advent here;

And drive away the shades of night

And pierce the clouds and bring us light.

O Come Thou Key of David, come

And open wide our heavenly home;

Make safe the way that leads on high,

And close the path to misery.

O come, O come, Adonai,

Who in thy glorious majesty

From Sinai’s mountain, clothes in awe,

Gavest thy folk the elder law.

2. Lời ca (theo giáo hội Công giáo):

O Come, O Come Emmanuel

And ransom captive Israel

That mourns in lonely exile here

Until the Son of God appear.

Điệp khúc:

Rejoice! Rejoice! Emmanuel shall come to thee, O Israel.



O Come, Thou Wisdom from on high,

And order all things mightily

To us the path of knowledge show

And teach us in her ways to go.

O Come, O Come, Thou Lord of might,

Who to Thy tribes on Sinai’s height

In ancient times did give the law

In cloud, and majesty, and awe.

O Come Thou Rod of Jesse’s stem,

From every foe deliver them

That trust in thy power to save,

And give them victory o’er the grave.

O Come Thou Key of David, come

And open wide our heavenly home;

Make safe the way that leads on high,

That we no more have cause to sigh.

O Come Thou Dayspring from on High

And cheer us by Thy drawing nigh.

Disperse the gloomy clouds of night

And death’s dark shadow put to flight.

O Come, Desire of Nations, bind

In one the hearts of all mankind.

Bid every strife and quarrel cease,

And fill the world with heaven’s peace.

3. Chúng tôi không tìm được bài nhạc Việt nào chuyển dịch ca khúc này, ngoại trừ phiên bản sau đây của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam:

- Vì yêu nhân gian Jêsus đến nơi dương trần.

Máng cỏ đê hèn thân Chúa cam chịu bần hàn.

Cô đơn nghèo nàn với biết bao nhọc nhằn.

Ngài đem an vui đến cho tất cả nhân loại.

Hãy hát vang lên! Danh Ngài Em-ma-nu-ên.

Chúa đến dương trần để cứu rỗi mọi tội nhân.

- Trần gian đau thương con người sống trong vô vọng.

Nhưng có tin mừng do Chúa Con Trời hạ sinh.

Âu lo, phiền muộn Chúa gánh thay loài người.

Trần gian khinh chê chối bỏ chính Vua muôn đời.

Ấy bởi thương tôi Jêsus chẳng than một lời.

Nhân thế vô vọng, Chúa đến để ban bình an.

- Tại Gô-gô-tha nhân loại đóng đinh Con Trời.

Thập giá khổ hình Jêsus gánh thay tội nhân.

Đau thương một mình Chúa gánh thay tội tình.

Vì yêu nhân gian Jêsus phó bỏ thân vàng.

Ấy bởi thương anh trên đồi huyết Chiên Con tràn.

Hãy đến bên Ngài, xin Chúa thứ tha tội anh.

Ghi chú:

(1) “O” antiphons là những tiền khúc cuối mùa Vọng, những tiền khúc kêu vọng, tức là 7 tiền khúc thuộc phần kinh chiều (Vespers) hát trong các tu viện trước và sau Tụng ca Magnificat của 7 ngày trước lễ Giáng sinh (từ ngày 17 đến ngày 23 tháng 12), tất cả đều bắt đầu bằng chữ “O” nghĩa là Lạy:

Ngày 17: Lạy đấng Thượng Trí, Người xuất phát từ miệng đấng Tối Cao...xin đến dạy chúng con đường lối khôn ngoan.

Ngày 18: Lạy Thiên Chúa và Đấng Cai quản nhà Israel...xin đến giang cánh tay mở rộng để cứu chuộc chúng con

Ngày 19: Lạy Cội Jesse....xin hãy đến giải thoát chúng con, đừng nấn ná nữa.

Ngày 20: Lạy Chìa Khoá David và Vương Trượng nhà Israel...xin hãy đến, giải thoát người đang bị giam tù, người ngồi trong tối tăm và trong bóng tối sự chết.

Ngày 21: Lạy Bình Minh từ Phương Đông....xin hãy đến và soi sáng những kẻ ngồi trong tối tăm và trong bóng tối sự chết.

Ngày 22: Lạy Đức Vua của Muôn dân....xin hãy đến và giải thoát con người Chúa đã tạo dựng nên từ bùn đất.

Ngày 23: Lạy Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi...xin hãy đến cứu chúng con, lạy Thượng đế Chúa chúng con.

(2) Sách tiên tri Ma-la-khi của giáo hội Công giáo không có chương 4. Câu tương đương là ở chương 3 câu 20: “Mặt trời công chính sẽ mọc lên mang theo các tia sáng chữa lành bệnh”.

11 - HANG BE LEM



Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời

Nằm trong hang đá, nơi máng lừa.

Trông hang Bêlem…

 

Những câu hát ấy, khởi đi từ giữa thập niên 1940 của thế kỷ trước, vẫn còn vang vọng mỗi dịp mừng lễ Giáng sinh, từ trong các thánh đường Công giáo tại Việt Nam và theo chân đoàn con cái Chúa đi khắp những miền xa xôi trên thế giới, từ những đài phát thanh, đài truyền hình đến tận các tư gia. Bài hát thật giản dị, dễ nhớ, đã đi sâu vào lòng người, không chỉ những người Công giáo Việt Nam. Nhiều người thú nhận đó là bài thánh ca Giáng sinh đầu tiên và duy nhất mà họ thuộc nằm lòng.

Điều gì đã làm cho bài hát rất giản dị, trong sáng ấy còn vang vọng mãi trong lòng người suốt hơn nửa thế kỷ? Và ai dám bảo là nó sẽ không tồn tại đến chừng nào còn người Công giáo Việt?

Lúc sinh thời, cố nhạc sĩ Hải Linh đã có lần kể về sự ra đời của bài hát Hang Bê-lem :

"Đó là bài đầu tiên mà tôi viết vào tháng 11 năm 1945. Lúc ấy tôi được 25 tuổi và đang dạy học ở trường thầy Giảng Bùi Chu.

Một hôm, tôi đi ngang qua Tòa soạn bán nguyệt san Đường Sống ở Nam Định, ông Minh Châu - chủ nhiệm - thấy tôi thường hay hát nên đố tôi làm được một bài để đăng vào báo Đường Sống nhân mùa Giáng Sinh. Tôi nhận lời và hẹn ba ngày sau trở lại.



Sau ba ngày tôi đưa bản nhạc Hang Bê-lem tới Tòa soạn và tập sơ qua cho một số anh chị em trong Tòa soạn. Khi hát lên, mọi người thấy thích quá nên ông Minh Châu mới thương lượng với tôi thế này: Ông sẽ trả chi phí cho người cầm bản nhạc lên Hà Nội để tìm Mạnh Quỳnh và thuê Mạnh Quỳnh khắc vào bản gỗ. Sau khi đã in 2000 số báo Đường Sống, ông Minh Châu sẽ cho tôi lại bản gỗ của bản nhạc. Tôi cũng đồng ý như vậy.



Tôi còn nhớ, lúc đó tôi đã in ra 500 bản với giá 3 hào hay 3 xu gì đó. Tôi gởi lên Hà Nội 10 bản. Một số nhà thờ hát và nhiều người thấy hay nhưng không tìm đâu ra bản nhạc. Thật đúng tôi là một anh nhà quê ! Đối với thủ đô Hà Nội mà chỉ có gởi 10 bản nhạc !". Một điều rất đặc biệt là Cha Kim Định đã mua một bản danh dự với giá 100 đồng ! Tôi cũng gửi biếu Đức Cha Phạm Ngọc Chi – lúc ấy còn là Linh mục và đang dạy ở trường Lý Đoán Phát Diệm – một bản.

 

Bài Hang Bê-lem đã ra đời như thế, và đã được chính tác giả điều khiển ca đoàn nhà thờ chính tòa Phát Diệm hát lần đầu tiên trong thánh lễ Đêm Giáng Sinh năm 1945. Cũng chính nhờ sự thành công của bài hát này, Hải Linh đã được Giám Mục Phạm Ngọc Chi gởi đi du học ở Âu Châu vào năm 1950.

***

Hải Linh tên thật là Phanxicô Trần Văn Linh, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại làng Ứng Luật phủ Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, giáo phận Phát Diệm, trong một gia đình đạo hạnh. Người em trai thứ sáu của ông cũng là một linh mục nhạc sĩ (Lm Trần công Hoan tức nhạc sĩ Hùng An).

Năm lên 12 tuổi ông vào tu tập tại Trường Thử ở Trung Linh (Nam Định), nơi đây ông được Lm Rangel người Pháp (tên Việt là cố Lễ) tập luyện ca nhạc và khơi động năng khiếu về âm nhạc. Ông sớm say mê âm nhạc, tự tìm tòi học hỏi. Năm 16 tuổi ông vào học ở Chủng viện Ninh Cường, nơi đây ông đã phụ trách tập hát và đệm đàn ở nhà thờ.

Năm 1940, lúc 20 tuổi, Hải Linh vào học tại trường Thầy Giảng (Bùi Chu) và sau đó được giữ lại để dạy Pháp văn và âm nhạc tại trường. Đây là thời gian Hải Linh bắt đầu sáng tác một số bài hát đạo cũng như đời. Có lẽ bài hát đạo đầu tay của Hải Linh là bản nhạc rất phổ thông "Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam" sáng tác vào khoảng năm 1944 giữa khi đất nước đang lâm cảnh chiến tranh tàn khốc. Hải Linh cùng với Vũ Minh Trân và một số bạn hữu khác như Thăng Ca (Lm. Ngô Duy Linh), Võ Thanh (Lm. Vũ Đình Trác), Hồ Khanh (Lm. Trần Thái Hiệp)… thành lập Nhạc đoàn Sao Mai, và đã xuất bản nhiều tập ca vịnh như: Ca vịnh Đức Mẹ (1946), Ca vịnh Đức Mẹ Fatima – Thánh cả Giuse (1949), Ca vịnh Thánh Tâm – Thánh Thể (1949)… Trong số các bài của thời kỳ sơ khởi này có những bài ngày nay vẫn còn phổ biến như "Lòng con đau đớn thiết tha…", "Ngày nay con đến hát khen mừng Mẹ Chúa Thiên Đàng", "Nguyện xin Thánh cả Giuse quyền cao sang…", nổi bật nhất là bài "Hang Belem", sáng tác cho mùa Giáng sinh 1945. 

Đầu năm 1950 ông được gửi đi du học tại Roma, nhưng 5 tháng sau đổi qua Pháp. Từ 1-5-1951 ông học nhạc tại Viện Giáo Nhạc thuộc Institut Catholique de Paris, đồng thời học sáng tác tại Trường Nhạc César Franck do giáo sư Guy de Lioncourt làm giám đốc và trực tiếp hướng dẫn Hải Linh. Chính Giáo sư đã thổ lộ, theo lời kể của Cố Nhạc sĩ Lm Hoàng Kim: "Trong suốt cuộc đời dạy học của tôi, tôi chỉ gặp được hai người có tài, một người Nhật, làm trưởng ban nhạc Đài Phát thanh Nhật Bản và người thứ hai là Phanxicô Hải Linh.”

Ngoài việc học chính thức tại hai trường nói trên, Hải Linh còn tìm học hoặc trao đổi thêm với một số giáo sư nổi tiếng khác về ngũ âm cũng như về điều khiển ban nhạc. Các tác phẩm ông sáng tác trong thời kỳ du học tại Paris đã nói lên nỗi thao thức muốn tìm một nhạc ngữ phù hợp với ngôn ngữ đa thanh của dân tộc: Chúa Khải Hoàn, Ave Maria 1, Ngợi Khen, nhất là các bài Ra Khơi, Nhạc Việt, Hò Non Mước, Cóc Quân, Duyên Kỳ Ngộ, Chuông Hòa Bình, Lâm Khốc…mang đầy âm hưởng dân tộc. Giáo sư Guy de Lioncourt đã nhiều lần tỏ vẻ thích thú khi nghe "Monsieur Francois" (Người Pháp gọi Hải Linh bằng tên thánh Phanxicô) giải thích tại sao chỗ này thì viết thoáng mỏng, chỗ kia phải đơn giản hóa hòa âm, chỗ khác phải viết theo tinh thần đối âm, chỗ khác nữa lại phải đi cùng chiều thay vì có thể đi ngược chiều… chung qui là cốt đề cao tính giai điệu của nhạc ngữ dân tộc và nhất là tôn trọng thanh điệu (dấu giọng) của ngôn ngữ Việt Nam. Hải Linh là một người du học không mất gốc, một học trò biết tự trọng và được người Thầy xứng danh là bậc Thầy tôn trọng và thán phục quí mến. Từ đó, Hải Linh càng ngày càng xác tín hơn về hướng đi của mình trong công việc đưa nhạc ngữ dân tộc từ bậc giai điệu (đơn điệu) lên bậc đa âm đa điệu, và hai chủ đề chính cho các sáng tác của mình sẽ là: Tôn Vinh Thiên Chúa và Tán Tụng Quê Hương.

Năm 1956, ông trở về Việt Nam, ngoài việc dạy Hợp ca tại Viện Quốc gia Âm nhạc, ông thành lập Ca đoàn Hồn Nước nhằm thực hiện hoài bão của mình là Trình Tấu Sống Động các tác phẩm được soạn ra bằng một Lối Viết Thoáng Mỏng theo tinh thần Á Đông. Thành lập vào tháng 2/1957 thì tháng 6/1957 Ca Đoàn đã sơ diễn tại rạp Thống Nhất trong dịp lễ phát thưởng của trường trung học Nguyễn Bá Tòng. Ngày 23/12/57 Ca đoàn Hồn Nước dưới sự điều khiển của Hải Linh đã được hoan hô nhiệt liệt trong buổi ra mắt công chúng đầu tiên tại rạp Olympic (Saigon). Tiếp tục trong các năm sau, những lần trình tấu của Ca trưởng Hải Linh đều có tiếng vang… Các bản nhạc ông sáng tác trong thời kỳ này gồm có: Ave Maria 3 (Tấu lạy Bà), Ra Đời, Nữ Vương Hòa Bình, Đàlạt Trăng Mờ, Lòng Mẹ, Cung Đàn Bạc Mệnh 1,2,3, Chinh Phụ Ngâm, Chuỗi Cười… (Riêng bài Nữ Vương Hòa Bình đã đoạt giải nhất trong cuộc thi sáng tác cho Đại Hội Thánh Mẫu toàn quốc năm 1959). Trước đó, năm 1958 ông lập gia đình với cô Phạm Thị Ly.

Năm 1961 Hải Linh được học bổng sang nghiên cứu âm nhạc, giáo dục tại Đại học Ohio (Hoa Kỳ). Tại đây, ông cũng được các nhạc trưởng, nhạc công và khán thính giả Hoa Kỳ tán thưởng, nhất là trong lối trình diễn sống động và tinh tế. Năm 1969 ông sang Pháp dự định hoàn thành luận án tiến sĩ về "Cơ cấu giai điệu trong nhạc Việt", nhưng vì một số lý do, nên phải bỏ dở luận án.

Trở về nước năm 1970, ngoài việc dạy nhạc tại Đại học Đà Lạt, Nhạc sư Hải Linh tham gia Ủy ban Thánh Nhạc toàn quốc, tiếp tục củng cố ca đoàn Hồn Nước và thực hiện các cuốn băng: Một Giờ Hợp Ca 1 và 2, đồng thời dạy nhiều lớp ca trưởng tại Saigon và Đà Lạt. Các bản nhạc sáng tác ông trong thời kỳ này: Te Deum, Ave Maria 2, Bộ lễ Nữ Vương Hòa Bình, Hồng Ân Thiên Chúa, Thằng Bờm, Tiếng Thu, Con Bướm Trắng, Đồng Tiền Vạn Lịch … Đại hội Thánh Nhạc Toàn Quốc năm 1972 tại trường Lasan Taberd cũng là một cái mốc đáng ghi nhớ trong giai đoạn này.

Từ năm 1975 đến 1986 ông tiếp tục đào tạo ca trưởng, phần lớn tại tư gia đồng thời cũng dạy đệm đàn, sáng tác cho một ít người, và cũng có những lần mở lớp tập hát, những lần hát Thánh ca đây đó trong khuôn khổ Nhà nước cho phép. Đặc biệt, bài Khúc Ca Mặt Trời được hát lần đầu tiên tại Nhà thờ Đa-kao vào tháng 10 năm 1979 nhân kỷ niệm 50 năm Dòng Phanxicô được thành lập tại Việt Nam. Vào năm 1982, dịp kỷ niệm 800 năm ngày sinh của Thánh Tổ phụ Phanxicô, phần lớn Trường Ca Các Tạo Vật đã hoàn tất và được trình tấu lần đầu cũng tại nhà thờ Đa-kao. Dịp nầy, Hải Linh đã lập Nhóm Quê Hương để vừa học vừa góp tay thực hiện các chương trình đã đề ra cùng với mấy học trò còn lại: Phác họa và khai triển các chương trong 2 cuốn sách "Lối Viết Thoáng Mỏng" và "Lối Trình Tấu Sống Động". Các bài hát khác được sáng tác trong giai đoạn này gồm có: Vinh Danh Thiên Chúa, Phượng Trì, Kinh Lạy Cha, Khúc Nhạc Cảm Tạ, Chúc Tụng Thánh Giuse, Tình Non Nước, Hoan Ca Mùa Trường Xuân, Thơ Thơ 1,Thơ Thơ 2, Tán Tụng Hồng Ân, Tình Chúa Yêu Tôi, Bến Thiên Đàng, Yêu Con Đời Đời, Mùa Hồng Ân, Mẹ Vô Nhiễm, Xuân Về … (Các bài từ Tán tụng Hồng Ân trở đi là soạn chung với một số tác giả khác).

Ngày 8/5/1986 ông rời Việt Nam đi đoàn tụ gia đình tại Mỹ. Ông cư ngụ tại New Orleans, bang Louisiana, cùng nơi với Linh mục nhạc sư Ngô Duy Linh.

Chưa kịp nghỉ ngơi, ông đã tập dượt cho Ca đoàn Hợp tuyển Việt Nam để hát tại Đại hội mục vụ Thánh nhạc toàn quốc tổ chức tại New Orleans chiều ngày 1/7/1986. Tại đây gần 800 người gồm Ca trưởng, nhạc công Dương cầm, Quản cầm và các nhạc sĩ sáng tác công giáo Mỹ đã cảm phục tài nghệ của Nhạc sư Hải Linh.

Kế đó, ông mở các lớp Ca Trưởng tuần tự ở nhiều tiểu bang khác nhau (New Orleans (LA), California, Portland (Oregon), Missouri, Texas…) đồng thời tập dượt cho những Ca đoàn ở nhiều nơi khác nhau để hát trong các dịp lễ. Trong gần 20 tháng ở Mỹ, Nhạc sư đã tập dượt để điều khiển trên 12 buổi ca hát chính thức. Buổi điều khiển có ý nghĩa sau cùng đối với ông có lẽ là đêm Giáng Sinh 24/12/1987 tại họ đạo Đức Mẹ Lên Trời ở Avondale, bang Louisiana, khi bài thánh ca Hang Bê-lem tròn 42 tuổi. Trách nhiệm nặng nề lo tập hát cho Đại lễ Phong Thánh tại Roma năm 1988 cũng là nỗi ưu tư lo lắng nhất cuối đời Nhạc sư. Hải Linh đã sáng tác thêm một số bài hát cho dịp này, như Nhân Chứng Đức Tin, Bài Ca Khải Hoàn…và đã lên chương trình tập dượt ở nhiều nơi.

Ngày 6/1/1988 nhạc sư rời New Orleans đi Los Angeles để tập hát theo chương trình dự tính, và đã từ trần vì bị nhồi máu cơ tim, lúc 6 giờ 30 chiều ngày hôm đó tại bệnh viện Fountain Valley (California). Nơi an nghỉ cuối cùng của ông là nghĩa trang Avodale (Louisiana).

***

Chuyện kể về cố nhạc sĩ Hải Linh không dừng lại ở sáng tác đầu tay Hang Bê-lem mà còn được nhắc nhở nhiều đến các tác phẩm âm nhạc nổi tiếng sau này của ông về đạo cũng như về đời: Trường Ca Các Tạo Vật (dùng lời kinh của thánh Phanxicô, sáng tác chung với Xuân Thảo) gồm 10 bài, Trường ca Ave Maria (phổ thơ Hàn Mặc Tử) gồm 10 bài. Và một số bài thánh ca riêng lẻ như Kính mừng Nữ Vương, Tán tụng hồng ân, Ngài Là Thiên Chúa (Te Deum)… và một số bài thánh ca khác đã được hát trong 40 năm qua.

Về phần nhạc thế tục, cố nhạc sĩ đã để lại trong kho tàng âm nhạc Việt Nam những tác phẩm như: Đại tấu khúc Chinh phụ ngâm (trích thơ Đặng Trần Côn). Tác phẩm này được viết theo nhạc Việt nhưng hình thức vẫn theo lối cổ điển Tây phương, chia làm ba hành âm (mouvement): Từ khi có lệnh chiến chinh "Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt" cho đến khi người chinh phụ tiễn chinh phu lên đường lo việc nước. Cảnh người chinh phụ cô đơn chiếc bóng ở lại nhà săn sóc mẹ già và con thơ "Gà eo óc gáy sương năm trống”. Phần kết kể lại ngày đoàn viên… Đại tấu chuông hòa bình viết cho dàn đại hòa tấu và ban hợp xướng cùng với một số nhạc khí cổ truyền; Nhạc kịch thơ Duyên kỳ ngộ (thơ Hàn Mặc Tử) là một thể loại tiểu nhạc kịch (micro-opera); Trường ca cung đàn bạc mệnh (trích thơ của Nguyễn Du trong tác phẩm truyện Kiều) gồm bốn cung chia ra như sau:

- Cung thứ nhất, gồm 10 bài, tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe

- Cung thứ hai, gồm 6 bài, mô tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Thúc Sinh và Hoạn Thư nghe.

- Cung thứ ba là tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Hồ Tôn Hiến.

- Và cung thứ tư là tiếng đàn của Thúy kiều gảy cho Kim Trọng lúc tái hồi.

Thật đáng tiếc, cố nhạc sĩ Hải Linh đã chưa hoàn tất cung đàn bạc mệnh cuối cùng… Riêng các tác phẩm âm nhạc độc lập (không nằm trong bộ hay trường ca nào) cũng rất đáng chú ý như: Đà Lạt trăng mờ, Ra đời (thơ Hàn Mặc Tử ), Nhạc Việt, Hương quê, Ra khơi, Tình nước non, Cóc quân đả phá thiên đình, Thằng Bờm có cái quạt mo… Về phương diện học thuật, cố nhạc sĩ đã để lại những kinh nghiệm sáng tác, kỹ thuật và phương pháp điều khiển dàn giao hưởng và hợp xướng qua hai cuốn sách mang tên Lối viết thoáng mỏng Lối trình tấu sống động.



***

Cây đại thụ trong làng thánh nhạc Công giáo Việt Nam đã không còn nữa, nhưng bóng mát vẫn còn tỏa rộng. Sự nghiệp của Hải Linh vẫn còn được kế thừa nơi những người ca trưởng ông đã đào tạo trong và ngoài nước, duy chỉ có tài năng của ông là không ai thay thế được. Tuy nhiên di sản ông để lại, những nhạc bản để tôn vinh Thiên Chúa và tán tụng quê hương, sẽ mãi mãi tồn tại với thời gian, nhất là mỗi mùa Giáng sinh trở lại tiếng hát về Hang đá Be lem lại cất lên khắp các thánh đường Công giáo, và âm hưởng còn vang vọng mãi nơi hồn người:

Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời…

Hang Bê-lem

Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời

Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa.

Trông hang Bê lem ánh sáng tỏa lan tưng bừng

Nghe trên không trung tiếng hát thiên thần vang lừng

Đàn hát (réo rắt tiếng hát), xướng ca (dư âm vang xa).

Đây Chúa thiên tòa giáng sinh vì ta.

Người hỡi (hãy kịp bước tới), đến xem (nơi hang Bê lem)

Ôi Chúa giáng sinh khó khăn thấp hèn.

Nửa đêm mừng Chúa giáng sinh ra chốn gian trần

Người đem ơn phúc xuống cho muôn dân lầm than

1- Nơi hang Bê lem thiên thần xướng ca

Thiên Chúa vinh danh chúng nhân an hòa

2- Nơi hang Bê lem chiên lừa thở hơi

Tan giá đêm đông ấm thân Con Người.

3- Nơi hang Bê lem mục đồng xúm quanh

Ca hát vang lừng mến yêu chân thành.

4- Nơi hang Bê lem huy hoàng ánh sao

Đưa lối Ba Vua phương đông đến chầu

5- Nơi hang Bê lem ta quỳ thiết tha

Xin Chúa nhân hiền xuống ơn chan hòa







12 - CAO CUNG LÊN



Ngày 7 tháng 7 năm 2006 đã tắt đi một ngôi sao sáng trên vòm trời thánh nhạc Công giáo Việt Nam. Nhạc sĩ Hoài Đức, người mà hơn 50 năm trước đây cho chào đời những tác phẩm thánh ca mở đầu cho nền âm nhạc Công giáo Việt Nam, đã an nghỉ trong Chúa tại thành phố Saigon sau 83 năm tại thế. Tuy thể xác đi về cùng cát bụi nhưng tinh anh của ông vẫn còn lại mãi mãi cùng với những nhạc bản ông để lại cho người Công giáo Việt Nam, nhất là những bản nhạc giáng sinh được hát lên mỗi năm ngày kỷ niệm Chúa giáng trần.

Hoài Đức sinh ngày 1 tháng 7 năm 1923 tại xã Vĩ Nhuế phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định (ngày nay là xã Yên Đồng, tỉnh Nam Hà). Xã Vĩ Nhuế cũng là nơi giáo quyền xây dựng Giáo Xứ Kẻ Nấp. Năm 1938 chú bé Hoài Đức tốt nghiệp Sơ Học Pháp Việt và vào Tiểu Chủng Viện Hoàng Nguyên cũng năm này. Sau 6 năm học tập, thầy Hoài Đức được cử về giúp xứ Bút Đông. Ngày 1 tháng 9 năm 1945, thày nhập Đại Chủng Viện Xuân Bích Hà Nội. Mới chưa được một tháng, nhân biến cố Quân đội Nhật tiến đánh Đông Dương, Quân đội Trung Hoa chiếm Đại Chủng Viện, các chủng sinh được lệnh tản cư. Tháng 9 năm 1946, Đại Chủng Viện mở cửa lại, thầy Hoài Đức cùng các bạn trở về tiếp tục tu học. Lúc bấy giờ, cha Bề trên và các linh mục giáo sư đại chủng viện đều là người Pháp. Công việc học hành chỉ mới tiến triển được 3 tháng thì phong trào toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Các linh mục người Pháp bị câu lưu. Các thầy được lệnh sơ tán về những địa phương xa Hà Nội. Thầy Hoài Đức trở về lại Bút Đông, giúp cha Trần Tiến Đức. Trong thời gian này thày lấy bút hiệu là Hoài Đức, theo thầy kể thì bút hiệu này là để tỏ lòng mến thương linh mục Trần Tiến Đức là cha bảo dưỡng.

Thời gian tản cư kéo dài từ tháng 12 năm 1946 tới tháng 10 năm 1948, sau đó thầy Hoài Đức trở về Đại Chủng Viện Xuân Bích để tiếp tục học 4 năm Triết học và Thần học. Vì mới tản cư về, thầy cần phải có căn cước, nên lấy tên là Lê đức Triệu, cũng nhân đó khai luôn bút hiệu Hoài Đức vào tờ căn cước. Không biết khi mới sinh ra, cha mẹ thầy đặt cho thầy tên gì, có tài liệu ghi là Lê Danh Hích (?).

Sau 4 năm học ở đại chủng viện, thầy Hoài Đức được lãnh nhận 4 "chức nhỏ", nhưng vì bệnh suy tim nên Đức Giám mục Trịnh Như Khuê đã chỉ định thầy đi giúp xứ Kẻ Noi, rồi Sở Kiện... Vì tình hình chiến sự, thầy bỏ Sở Kiện tìm cách về lại Hà Nội. Niên học năm 1952, thầy được bổ nhiệm làm giáo sư Tiểu Chủng Viện Piô XII (ở Quần Ngựa), lúc ấy linh mục Nguyễn Huy Mai đang là Hiệu trưởng Trường Dũng Lạc, được thuyên chuyển về làm Giám Đốc Chủng Viện.

Rồi biến cố "chia đôi đất nước" ngày 20-7-1954 xảy đến. Ngày 18-7-1954, toàn bộ Tiểu Chủng viện Piô XII trong đó có thầy Hoài Đức, lên tầu di cư vào Nam. Địa chỉ sau cùng của Chủng Viện Piô XII là 223 Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn. Thầy Hoài Đức dạy giáo nhạc tại đây cho tới đầu niên học 1957 mới về lại Đại Chủng Viên Xuân Bích cũng đã di chuyển vào Nam và tọa lạc tại Thị Nghè. Sau khi hoàn tất chương trình "đào tạo linh mục", ngày 6 tháng 6 năm 1960 thầy thụ phong linh mục và vẫn tiếp tục làm giáo sư kiêm giám luật tại Chủng Viện Piô XII.

Năm 1966, Chủng Viện Piô XII chấm dứt hoạt động theo lệnh Toà Thánh, cha Hoài Đức được thuyên chuyển lên Giáo phận Kontum làm giáo sư tại Tiểu Chủng Viện Thừa Sai, năm sau được bổ nhiệm phó Bề trên kiêm quản lý Chủng Viện. Hết niên học 1967-1968, cha được chuyển về Saigon đảm nhận chức vụ Thư Ký Thường Trực Ủy Ban Thánh Nhạc Toàn Quốc do đề nghị của Đức Cha Phạm văn Thiên đặc trách Phụng Vụ và Thánh Nhạc. Thánh 7 năm 1969, cha đã từ nhiệm chức vụ này và được thuyên chuyển lên Ban Mê Thuật làm quản lý tài sản Nhà Chung Ban Mê Thuật. Lúc ấy Đức Cha Nguyễn Huy Mai đang cai quản Giáo phận này. Ở đây cha Hoài Đức kiêm nhiệm Giám đốc Cơ quan Từ thiện Caritas, Chủ tịch phong trào Công lý và Hoà bình. Với những trách vụ kể trên, cha Hoài Đức đã cố gắng xây dựng các cơ sở giáo phận như tu viện, tập viện, nhà dưỡng lão, quán cơm xã hội, khai thác đồn điền cà phê, phân phối các phẩm vật cứu trợ...

Tháng 3 năm 1975, Cách mạng "giải phóng" Ban Mê Thuật, Đức cha Mai và cha Hoài Đức đã ở lại, không di tản. Thời gian này cả hai vị đã gặp rất nhiều khó khăn. Ngày 14 tháng 1 năm 1977 cha Hoài Đức khăn gói lên đường vào trại cải tạo Mê Văn Đặc Lắc. Ở trại này được vài tháng, cha được chuyển ra ngoài Bắc. Sau nhiều lần chuyển từ trại này qua trại khác, năm 1979 cha Hoài Đức cùng một số cha khác (khoảng 20 vị) "định cư" tại trại Thanh Cẩm Thanh Hoá. Tại trại này cha Hoài Đức bị bệnh "tai biến mạch máu não", nhờ một bạn tù người Hoa chữa trị, bệnh thuyên giảm, nhưng sức khoẻ từ đó kém đi rất nhiều.

Tháng 11 năm 1987, cha Hoài Đức được thả về cùng với khoảng 50 bạn tù. Cha ngụ nơi nhà người em họ tại số 491 / 74A Lê văn Sĩ Phường 12 Quận 3 Saigon. Đây là nơi cha được chỉ định cư trú, theo lệnh chính quyền. Vào khoảng năm 1997, bệnh cũ lại bộc phát, cha bị á khẩu, toàn thân dần dần tê liệt và cha đã được chuyển về nhà Hưu Dưỡng Hà Nội (116 / 3 Hùng Vương, P.9, Q.5 Saigon) và mất tại đây.

***

Thánh ca Hoài Ðức



Những bài hát do Hoài Ðức sáng tác hầu như đã đi vào linh hồn người Công Giáo Việt Nam. Có lẽ không một tín hữu người Việt nào ngay từ nhỏ lại không mấp máy trên môi hay chưa từng thưởng thức những bài thánh ca bất hủ như Cùng Ði Bêlem, Mùa Ðông Năm Ấy, Dâng Mẹ, Cung Chúc Trinh Vương... đặc biệt là bản nhạc “Cao Cung Lên” - ca khúc đã đưa tên tuổi Hoài Ðức lên tột đỉnh. Nếu bên Âu Mỹ có những ca khúc bất tử về Giáng Sinh như Silent Night, Jingle Bell thì Việt Nam những “Ðêm Ðông” của Hải Linh và “Cao Cung Lên” của Hoài Ðức vẫn còn sống mãi trong lòng người.

Linh mục nhạc sĩ Hoài Ðức sáng tác thánh ca để đời không bằng số lượng mà là bằng chất lượng tác phẩm. Toàn bộ cuộc đời sáng tác của ngài chỉ có 91 bài. Tuy nhiên nhiều ca khúc của ngài luôn đi vào lòng người, luôn có giá vượt thời gian, vẫn luôn được nhà thờ dùng trong phụng vụ. Không có mùa Noel nào lại không nghe những lời ca du dương của nhạc sĩ Hoài Ðức, như:

Cao cung lên, khúc nhạc Thiên Thần Chúa, hòa trong làn gió, nhè nhẹ vấn vương...” (Cao Cung Lên)

hay “Kìa trông huy hoàng vì sao chiếu soi gần xa khắp miền...” (Cùng Ði Belem)

hoặc “Mùa đông năm ấy, sao sáng soi cuối trời, Mùa đông năm ấy Con Chúa sinh xuống đời...” (Mùa Ðông Năm Ấy)...

Và trong các buổi chầu Thánh Thể, ta luôn luôn nghe được lời cầu xin cho Ðức Giáo Hoàng: “Này Con Là Ðá”. Thậm chí bài sáng tác đầu tiên của ngài “Thánh tâm Giêsu vua đất Việt” sáng tác năm 1945 trong hoàn cảnh chinh chiến, ngày nay vẫn còn nhiều nơi sử dụng.

Nhạc sĩ Hoài Ðức đặc biệt có lòng tôn kính Ðức Mẹ, đã dành tới 18 sáng tác về Ðức Mẹ.

Quá trình sáng tác của Hoài Đức có thể chia làm ba giai đoạn:

Giai đoạn 1: Những ca khúc ngẫu hứng (1945-1949), dù mang tính ngẫu hứng nhưng có những bài ca xuất thần, giá trị vượt thời gian như bài Thánh Tâm Giêsu Vua Ðất Việt, Thiếu Nhi Công Giáo Việt Nam, Cung Chúc Trinh Vương, Ðêm Ðông Âm U... đặc biệt là nhạc phẩm Cao Cung Lên (Giáng Sinh 1945).

Giai đoạn 2: Những ca khúc bài bản (1950-1975), điệu nhạc giản dị, hướng hẳn về bình ca, lời ca lấy từ sách kinh nguyện, Thánh Kinh, Ca Vịnh. Những bài ca nổi tiếng: Bí Tích Nhiệm Mầu, Ngắm Mình Thánh Chúa, Thờ Lạy Chúa... và những ca khúc về Ðức Mẹ.

Giai đoạn 3: Những ca khúc thầm (1977-1987) viết trong thời kỳ ngài bị giam tù, sáng tác chuyển hẳn sang thể loại hợp xướng. Có thể kể một số bài: Cho Ðến Bao Giờ (Ca Vịnh 12), Con Thức Trông Cậy Chúa (CV 62); Hỡi Toàn Cầu (Thánh Vịnh 99), Lạy Chúa Ðừng Trách Mắng Con (TV 6); Nếu Chúa Không Ơn Lại (TV 123), Ngồi Bên Bờ Sông Babylon (TV 136)... Hầu hết những bài thánh ca hợp xướng sáng tác trong giai đoạn này chưa được phổ biến, còn xa lạ với giáo dân.

Phỏng vấn tác giả “Cao Cung Lên” thực hiện năm 1996 do nhà thơ Lê Đình Bảng:

PV: Cao Cung Lên là một hiện tượng, một trong những bản thánh ca Giáng Sinh được nhiều người biết, hát thuộc lòng và mến mộ nhất. Cha có thể cho biết thời gian sáng tác và cảm hứng lúc ấy?

Linh mục Hoài Ðức (Lm. HÐ): Năm 1945, đại chủng viện Xuân Bích tạm đóng cửa, vì quân đội Trung Hoa trưng dụng cơ sở chủng viện để đóng quân, các chủng sinh phải sơ tán về nhà quê, địa phương gần đó. Tôi về Bút Ðông (Nam Ðịnh), xứ sở của linh mục bảo dưỡng tôi là Linh mục Trần Tiến Ðức, và qua Noel năm 1945 ở đó. Cũng chính thời kỳ đó, tôi bắt đầu tập tễnh làm quen với sáng tác thánh ca. Một lần, tôi cùng với cộng đoàn giáo hữu đọc kinh chiều và làm giờ viếng hang đá vừa xong, giữa lúc mọi người về thì hồi chuông nguyện nổi lên. Lúc ấy tôi cũng đang bước trên bậc thang từ trên nền nhà thờ xuống sân bên ngoài, bỗng nhiên trong trí óc tôi nảy ra một cung điệu phảng phất âm thanh của tiếng chuông đang ngân vang trên tháp chuông. Tôi liền bước chậm lại và thả hồn theo tứ nhạc đó, khi xuống tới sân nhà thờ thì trong trí óc đã hình thành xong đoạn điệp khúc Cao Cung Lên. Ngay lúc đó, tôi về phòng riêng chép lại điệp khúc đó và phiên khúc 1 của bài hát thì nguồn cảm hứng tắt ngấm. Tôi liền đưa bản nhạc cho Nguyễn Khắc Xuyên xem, vì Nguyễn Khắc Xuyên cũng đang ở Bút Ðông. Nguyễn Khắc Xuyên khen tứ nhạc hay và hợp với bầu khí Noel, liền nhận lời đặt mấy phiên khúc sau. Nên người nào tinh ý sẽ nhận thấy ngay văn phong của những phiên khúc sau có đôi chút khác với văn phong của điệp khúc và phiên khúc 1.

PV: Ðấy là trang mở đầu của những bài thánh ca bằng tiếng Việt. Như vậy, thưa cha, trong điều kiện còn manh nha, việc khơi dòng thật khó. Vậy chứ, trường hợp và động cơ nào thúc đẩy cha đến với thánh nhạc, thánh ca?

Lm. HÐ: Có thể nói là hoàn toàn ngẫu nhiên. Suốt 6 năm tu học ở tiểu chủng viện Latinh Hoàng Nguyên, tôi không có gì xuất sắc về âm nhạc. Cũng có được tập đàn harmonium vài năm, sau vì kém mắt nên xin thôi. Tiếng thì khàn khàn, đục đục, lại ương ương, không thể hát hay được. Năm 1945, vì thời cuộc phải tạm nghỉ học triết lý ở đại chủng viện Xuân Bích, tôi về với cha nuôi xứ Bút Ðông, có Nguyễn Khắc Xuyên vốn quen biết Hùng Lân rồi. Tôi chưa có ý niệm gì về việc sáng tác nhạc cả. Nhưng chỉ có tấm lòng ước ao khao khát hòa bình cho đất nước, trước mắt là mong có hòa bình để mau được về tiếp tục học tại đại chủng viện. Với tâm tình đạo đức cầu nguyện đó, và với cái vốn ít ỏi hiểu biết về nhạc lý cộng với chút hiểu biết sơ đẳng về tư tưởng thần học, tôi nghêu ngao mấy câu để cầu nguyện xin Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu ban cho đất nước Việt Nam được hòa bình. Khi đã thành hình một bài hát, tôi ghi lại và đem gởi cho anh Hùng Lân làm lễ ra mắt để xin gia nhập nhạc đoàn. Cũng vì thế mà lúc đầu bài hát ấy như sau: “Giêsu, dưới chân Chúa con sấp mình, muôn vàn thiết tha dâng lòng thờ kính. Lòng còn tha thiết tháng năm sống đời an ninh. Chúa ơi nỡ tâm ngoảnh mặt làm ngơ sao đành.” Ðến sau tôi phải sửa lại thế này: “Giêsu, chúng con tới đây sấp mình, chân thành dâng Chúa tấm lòng thờ kính, đoàn con mong ước tháng năm sống đời an ninh, Chúa ơi hãy ban xuống cho Việt Nam thanh bình.”



Ðược anh Hùng Lân khích lệ và chỉ dẫn dần dần, tôi bước vào con đường sáng tác từ đấy, nhưng vẫn không có ý sống trong âm nhạc, và chỉ sáng tác những khi nào có hứng thực về chủ đề nào này ra trong trí óc, và tâm hồn sống với chủ đề đó. Không ham muốn sáng tác nhiều bài.

PV: Cha có thể phác họa lại hoàn cảnh lịch sử và những năm đầu của thánh nhạc, thánh ca Việt Nam?

Lm. HÐ: Có khi phải lấy thời điểm năm 1940. Trước thời điểm đó chưa có thánh nhạc Việt. Khi nói đến thánh nhạc là phải nói đến những bài hát trong phụng vụ. Mà tất cả nền phụng vụ bấy giờ đều được cử hành bằng tiếng Latinh. Thánh Lễ, chầu Thánh Thể phải đọc hay hát bằng tiếng Latinh. Những bài hát đều lấy từ cuốn Paroissien Romain hay cuốn Cantus Pro Festis Solemnioribus, hoặc là cuốn Cantus Officiorum in Cantus Gregoriano, và trong giờ chầu Thánh Thể thì hát những bài in trong sách Cantus Selecti Ad Bennedictionem, hoặc cuốn Cantus ad Bennedictionem (quen gọi là cuốn Biton). Ðôi khi được hát những bài không phải là tiếng Latinh thì hát bài bằng tiếng Pháp, chủ yếu là lấy trong cuốn Cantiques de la Jeunesse. Còn những bài hát bằng tiếng Việt thì chưa có, hay nói cách khác là chưa có ai làm ra cả. Trong miền Nam có cha Phaolô Quy và Phaolô Ðạt có làm một ít bài: “Thanh niên với Ðức Mẹ”, “Thanh niên với Chúa Hài Ðồng”, tập cho các chủng sinh Latinh Hoàng Nguyên, hát được một vài lần rồi cũng rơi vào quên lãng.

Năm 1943 hay 1944, có một linh mục cao tuổi, quen gọi là Cha Già Vượng, ở xứ Nam Ðịnh, một mình đã cho ấn hành những 10 cuốn thánh ca, gồm có những bài ca lấy cung điệu ở những bài ca tiếng Pháp, hay tiếng Latinh, còn lời ngài đặt bằng tiếng Việt Nam, giọng văn đơn sơ, mộc mạc, đã được phổ biến mạnh trong một thời gian.

Còn kể đến bài hát bằng tiếng Việt Nam mà chưa được hát chính thức trong nhà thờ thời ấy, là bộ Vãn Dâng Hoa, được các hội dâng hoa các nơi sử dụng trong mùa hoa Tháng Năm. Nhưng không phải là các bài thánh ca phụng vụ, chỉ hát để dâng hoa kính Ðức Mẹ. Có nhiều bộ Vãn Dâng Hoa, ở địa phận Hà Nội thì khác, ở Bùi Chu thì lại khác. Có khi trong một địa phận, mỗi xứ hát một hay hai Vãn Dâng Hoa khác nhau, đặc biệt về ngôn từ và cung điệu.

Tóm lại, các nghi lễ thời ấy đều làm bằng tiếng Latinh, với linh mục chủ tế trên bàn thờ, còn giáo dân chỉ biết đọc kinh, ngắm lễ bằng tiếng Việt, chứ hát lời kinh bằng tiếng Việt thì chưa có, ngoại trừ Ca Vãn Dâng Hoa.

Rồi vào năm 1940 trở đi, đã xuất hiện những ca khúc Việt Nam hoàn toàn, nghĩa là do người Việt Nam soạn cả phần nhạc và lời, như Lê Thương với bài Ðàn Xuân, Ðặng Văn Hân với bài Men Cùng Sườn Non, Thẩm Oánh với bài Tâm Hồn Anh Tìm Em, rồi tới những bài hát hướng đạo của nhóm Hoàng Quý, như Trên Sông Bạch Ðằng, Lửa Rừng Ðêm, Nhớ Quê, tiếp những bài ca ái quốc như Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước, Tiếng Quân Ca của Văn Cao, nung nấu lòng yêu nước của mọi người nhất là những thanh niên có học. Ðang lúc ấy, Hùng Lân với Thiên Phụng là những thanh niên vào lứa tuổi 20, đã nghĩ ngay đến việc tập hợp một số anh em để thành lập một nhạc đoàn chuyên soạn ra những bản thánh ca hoàn toàn Việt Nam thay cho những bài thánh ca tiếng nước ngoài như trước, thể hiện tinh thần dân tộc độc lập tự do của người Việt Nam, nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh ra đời từ đó.

PV: Cha có thể nhớ lại một số tác phẩm mà cha đã sáng tác từ thủa ban đầu cho đến ngày hôm nay?

Lm. HÐ: Vì có chủ trương không ham sáng tác nhiều nên tôi nhớ mang máng con số những bài hát tôi sáng tác chỉ vào chừng 80 bài thôi; còn một số bài tôi đã nháp rồi thấy không ưng ý hay không thích nữa thì tôi bỏ luôn, cũng vào khoảng ba bốn chục bài nữa. Tôi nói thêm rằng: Thời gian sáng tác nhiều nhất là thời gian học ở đại chủng viện, “ăn cắp” giờ học riêng để làm bài hát. Nhưng luật chủng viện không cho phép, các cha giáo sư nghiêm ngặt về vấn đề đó, thậm chí đã có cha giáo khám túi chủng sinh xem có tờ giấy nháp nào về bài hát không. Ðến khi làm linh mục rồi, ra làm việc mục vụ thì rất ít có cơ hội để sáng tác cho ra hồn nữa. Ðó là kinh nghiệm của riêng tôi thôi.

***

Qua chính lời tác giả bài hát Cao Cung Lên vừa kể trên, chúng ta được biết nhạc bản danh tiếng này được thành hình ra sao và trong trường hợp nào. Hoài Đức cũng cho chúng ta một thoáng nhìn về tình hình giáo nhạc Việt Nam thời kỳ phôi thai với nỗ lực ban đầu của những cây đại thụ trong làng âm nhạc Công giáo như Hùng Lân, Nguyễn Khắc Xuyên…, chính nhờ những vị này, cũng như nhờ Hoài Đức, trong vai trò những người tiền phong, mà ngày nay người Công giáo Việt chúng ta mới có được một nền âm nhạc phong phú dùng trong phụng tự.

Hoài Đức không còn nữa, nhưng những bản thánh ca cha để lại vẫn còn được hát lên hầu như mỗi ngày nơi các thánh đường Công giáo trong và ngoài nước. Riêng nhạc bản “Cao Cung Lên” vẫn còn vút bay như những tiếng chuông vang, như những nốt nhạc của các vị thiên thần Chúa trong ngày lễ giáng sinh đầu tiên, và chắc sẽ còn mãi mãi ngân vang mỗi năm khi mùa lễ Giáng sinh trở lại.

Cao Cung Lên

Cao cung lên khúc nhạc thiên thần Chúa

Hòa trong làn gió nhè nhẹ vấn vương.

Ôi linh thiêng lắng nghe thoang thoảng cung đàn

Một đêm khuya vang vẳng trong tuyết sương

Đàn ơi cứ rung những điệu réo rắt:

Hát khen Con Một Chúa Trời, rày sinh xuống cõi đời

Hỡi người dương thế lặng nghe cung đàn

Mau tìm cho tới thờ kính Vua giáng trần.

1. Thôi hỡi trần gian im tiếng đi mà cung kính.

Chúa Con sinh ra trong máng cỏ hang lừa.

Tuy Chúa là Vua muôn nước suy phục tôn kính.

Chúa bỏ ngai vàng sinh xuống trần đêm xưa.

2. Thôi hỡi ngàn mây đen xám u mờ tăm tối.

Hãy mau tan đi nay Chúa đã xuống đời.

Trên cõi trời cao, sao sáng chân thật đưa lối.

Hãy mang tin lành cho nhân loại nơi nơi.

3. Thôi hỡi trần gian bao tuyết sương cùng gió rét.

Cớ sao nỡ làm cho Chúa lạnh vô ngần.

Ôi Ðấng Toàn Năng xưa quá yêu người tha thiết.

Xuống chịu khổ hèn trên tuyết ngàn dặm sương.

4. Thôi hỡi hồn tôi ghi nhớ trong lòng sâu thẳm.

Chúa sinh đêm nay nên bé nhỏ khó hèn.

Con quyết từ nay yêu Chúa trong tình đằm thắm.

Muốn để đền bù lại cõi đời bạc đen.
 
Đức Thánh Cha chúc an bình và hoan lạc cho mọi người
Bùi Hữu Thư
05:00 26/12/2009
VATICAN, Ngày 25 tháng 12, 2009 (Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI bầy tỏ lời cầu chúc Giáng Sinh cho tất cả mọi người tìm được hạnh phúc thật nơi Hài Nhi Giêsu.

Đức Thánh Cha khẳng định điều này sau khi ban phép lành "urbi et orbi" (cho Thánh Đô Rôma và cho thế giới).

Đức Thánh Cha chúc an bình và hoan lạc cho mọi người
Nói bằng tiếng Ý với các tín hữu tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô, cũng như những người theo dõi trên đài phát thanh và truyền hình, Đức Thánh Cha nhấn mạnh “niềm hy vọng mới” do việc Chúa Kitô Giáng Sinh đã mang đến.

Ngài nói, “Việc chiêm ngắm hang lừa nghèo nàn và thấp hèn tại Bê Lem,” có thể dậy cho các gia đình và cộng đồng một lối sống giản dị, trong sáng và chào mời, đầy những cử chỉ yêu thương và tha thứ.”

Đức Thánh Cha chúc mừng Giáng Sinh bằng 65 ngôn ngữ. Bằng tiếng Anh, ngài nói: “Xin cho việc giáng sinh của Hoàng Tử Hòa Bình nhắc nhở với thế giới hòa bình nằm ở đâu; và xin cho trái tim các bạn được tràn đầy hy vọng và hoan lạc, vì Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta."
 
Vatican giải thích việc nâng Đức Piô XII lên hàng Đáng Kính
Vũ Văn An
05:11 26/12/2009
Theo tin Zenit ngày 23 tháng 12, phát ngôn viên Tòa Thánh, Cha Federico Lombardi, vừa phân phối lời giải thích liên quan đến sắc lệnh gần đây của Đức Bênêđíctô XVI công nhận các nhân đức anh hùng nơi tôi tớ Chúa là Đức Piô XII, và do đó, nâng ngài lên hàng đáng kính. Nguyên văn lời giải thích này như sau:

Việc Đức Giáo Hoàng ký sắc lệnh “về các nhân đức anh hùng” của Đức Piô XII đã làm nẩy sinh một số phản ứng nơi thế giới Do Thái, có lẽ vì ý nghĩa của việc ký nhận này khá rõ ràng trong phạm vi của Giáo Hội Công Giáo cũng như của các nhà chuyên môn thuộc lãnh vực này, nhưng đối với quảng đại quần chúng nói chung và quần chúng Do Thái nói riêng, là những người có lý khi tỏ ra nhạy cảm đối với bất cứ điều gì có liên quan đến thời kỳ lịch sử của Thế Chiến II và cuộc Diệt Chủng, thì việc ấy cần được giải thích.

Khi Đức Giáo Hoàng ký sắc lệnh “về các nhân đức anh hùng” của một Tôi Tớ Thiên Chúa nào đó, nghĩa là của một người nào đó đang được tiến hành án phong thánh, ngài chỉ xác nhận sự đánh giá tích cực từng được Thánh Bộ Phong Thánh đầu phiếu trước đó (sau khi đã thận trọng duyệt xét mọi trước tác và lời chứng) liên quan tới sự kiện: ứng viên đã sống các nhân đức Kitô Giáo và biểu lộ đức tin, đức cậy và đức mến của mình một cách nổi bật, đến một mức độ cao hơn mức độ người ta thường kỳ vọng nơi một tín hữu bình thường. Chính vì thế, ứng viên này có khả năng được đề nghị làm mẫu mực cho đời sống Kitô giáo của Dân Thiên Chúa.

Lẽ dĩ nhiên, việc đánh giá như thế phải lưu ý tới các hoàn cảnh sống của người ấy và do đó phải khảo sát vấn đề dưới cái nhìn lịch sử, tuy nhiên, việc đánh giá này, xét trong yếu tính, quan tâm tới chứng tá cuộc sống Kitô Giáo mà người ấy chứng tỏ (tức mối liên hệ thâm sâu với Thiên Chúa và việc liên tục mưu cầu sự trọn lành theo phúc âm, như Đức Giáo Hoàng đã nói vào Thứ Bẩy tuần qua trong diễn văn đọc trước Bộ Phong Thánh) chứ không quan tâm tới tác động lịch sử của mọi quyết định hành động của người này.

Với niềm an ủi trước đó nhờ dấu chỉ ơn thánh phi thường do Chúa ban qua sự chuyển cầu của Tôi Tớ Chúa, việc phong chân phúc tiếp sau đó trong tương lai cũng có cùng một chiều hướng đề nghị với dân Thiên Chúa một mẫu mực sống tuyệt hảo cuộc sống Kitô Giáo.

Trong dịp phong chân phước cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và cho Đức Giáo Hoàng Piô IX, Đức Gioan Phaolô II từng nói rằng: “Sự thánh thiện được sống trong lịch sử, do đó, không vị thánh nào tránh được các hạn chế và tính điều kiện hóa vốn là thành phần của bản tính con người. Khi phong chân phúc cho một người con của mình, Giáo Hội không ca tụng các quyết định đặc thù có tính lịch sử mà cá nhân này từng đưa ra, nhưng đúng hơn nêu cá nhân ấy làm người để ta bắt chước và tôn kính vì các nhân đức của ngài, đồng thời ca tụng hồng ân Thiên Chúa đã tỏa sáng rực rỡ nơi ngài”.

Bởi thế, (Tòa Thánh) không hề có ý định giới hạn cuộc tranh luận liên quan tới những quyết định cụ thể từng được Đức Piô XII đưa ra trong hoàn cảnh sống của ngài. Về phần mình, Giáo Hội quả quyết rằng những quyết định ấy đã được đưa ra chỉ với ý định trong sáng là để thi hành đến hết khả năng của mình thừa tác vụ Giáo Hoàng với trách nhiệm cao qúy và nặng nề. Dù thế nào, sự chú ý và quan tâm của Đức Piô XII đối với số phận người Do Thái, một điều chắc chắn có liên quan đến việc đánh giá các nhân đức của ngài, cũng đã được chứng nghiệm và nhìn nhận một cách rộng rãi, cả nơi nhiều người Do Thái.

Do đó, phạm vi nghiên cứu và đánh giá của các sử gia, trong lãnh vực đặc thù của họ, vẫn rộng mở, cả trong tương lai. Trong trường hợp đặc thù này, điều dễ hiểu là sẽ có việc yêu cầu được sử dụng khả thể nghiên cứu các tài liệu. Đức Phaolô VI vốn đã muốn mau chóng hỗ trợ việc nghiên cứu tìm tòi này bằng cách cho công bố nhiều bộ Biên Bản và Tài Liệu. Tuy nhiên, về việc mở cửa hòan toàn các văn khố, một vấn đề từng được bàn cãi nhiều trong quá khứ, thì cần thiết phải được tổ chức và lên danh mục một khối tài liệu khổng lồ, một điều cần ít nhất một số năm mới thực hiện được.

Còn về sự kiện các sắc lệnh về nhân đức anh hùng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Giáo Hoàng Piô XII được công bố cùng một ngày, thì điều đó không có nghĩa là từ nay hai án phong thánh này sẽ đi song song cặp đôi. Chúng hoàn toàn độc lập với nhau và mỗi án phong thánh có lịch trình riêng của nó. Do đó, không có lý do gì để cho rằng việc phong chân phúc cho hai vị sẽ diễn ra cùng một lúc.

Cuối cùng, thái độ thân hữu và tôn kính lớn lao của Đức Bênêđíctô XVI đối với dân tộc Do Thái đã được xác nhận rất nhiều lần và đã được công trình thần học của ngài củng cố một cách khó lòng tranh cãi.

Như thế, điều rõ ràng là: không vì bất cứ cách nào, người ta lại có thể coi việc ký nhận gần đây như một hành động thù nghịch chống lại nhân dân Do Thái, và họ có quyền hy vọng rằng nó sẽ không bị coi như một trở ngại đối với con đường đối thoại giữa Do Thái Giáo và Giáo Hội Công Giáo. Đúng hơn, chúng tôi tin tưởng rằng cuộc thăm Đại Hội Đường ở Rôma sắp tới đây của Đức Giáo Hoàng sẽ là một cơ hội để lập lại và tăng cường trong thân ái các mối liên hệ thân hữu và tôn trọng nhau.
 
Ánh sáng Giáng Sinh xóa tan bóng đêm của chủ nghĩa duy vật chất
Nguyễn Hoàng Thương
10:22 26/12/2009
Ánh sáng Giáng Sinh xóa tan bóng đêm của chủ nghĩa duy vật chất

Seoul (AsiaNews) - "Đánh bại nền văn hóa sự chết, vượt thắng chủ nghĩa duy vật chất và các xung đột vốn làm suy đồi xã hội, chia sẻ tình yêu của Chúa Kitô với những người thân cận, xây dựng một nền văn hóa sự sống đích thực". Đó là những gì các giám mục Hàn Quốc kêu gọi người dân qua Thư mục vụ Giáng Sinh gửi đến các tín hữu trong mỗi giáo phận.

Đức Hồng y Nicholas Cheong Jinsuk, Tổng Giám Mục của Seoul, nhấn mạnh rằng vấn đề cấp bách nhất trong xã hội chúng ta là "chủ nghĩa duy vật chất" vốn làm bào mòn "tất cả các giá trị khác". Đức Hồng y cho biết thêm "bao lâu con người còn đặt đồng tiền và của cải lên hàng đầu trong cán cân giá trị" thì họ sẽ còn sống "trong sự cô lập, và một cộng đồng các cá nhân chỉ có thể trở thành nền tảng cho các cuộc xung đột và chia rẽ". Ngài giải thích thêm trong bối cảnh này, chúng ta có xu hướng "chối bỏ giá trị của sự sống". Ngài khẳng định: "thật là cấp thiết để khôi phục các giá trị đích thực" và kêu gọi các nhà lãnh đạo xã hội dân sự "đưa ra các sáng kiến trong lĩnh vực này".

Đức Tổng Giám Mục Andreas Choi Chang-mou của Kwangju thì giải thích rằng: "trong bối cảnh mà nền văn hóa sự chết thống trị thế giới, để sống như con cái của ánh sáng, chúng ta phải đi trong ánh sáng của sự thật". Ngài nhấn mạnh sự cần thiết để sở hữu "lương tâm và sự sáng suốt" và suy ngẫm "về con đường mà Đấng Cứu Độ vạch ra".

Đức Giám Mục Thaddeus Cho Hwan-Gil, Giám quản Tông Tòa Tổng Giáo Phận Deagu, đưa ra lời chúc lành Giáng Sinh của mình bằng cách mời gọi các tín hữu "chia sẻ của cải cho người nghèo". Ngài giải thích: "Trải qua niềm vui này nghĩa là hiểu thấu ánh sáng đích thực của Thiên Chúa và của Giáng sinh."
 
Bài hát mừng Giáng Sinh
Jos. Tú Nạc, NMS
10:27 26/12/2009
BÀI HÁT MỪNG GIÁNG SINH (A Christmas Carol)

Cách đây hơn một trăm năm mươi năm, Charles Dickens, nhà văn người Anh đã viết một câu chuyện vào thời gian Lễ Giáng Sinh. Truyện có tên “Bài hát mừng Giáng Sinh”. Đó là một tác phẩm hư cấu – nghĩa là nó không phải là một câu chuyện có thật. Tuy nhiên, Charles Dickens thích dùng trí tưởng tượng để kể một điều gì đó về những lời giáo huấn của Chúa Giê-su Ki-tô. Dickens đã nói:

“Tôi thích dẫn bạn đọc đến với những lời rao giảng đó một cách lặng lẽ êm đềm – vì nó là nơi khởi thủy của nền tảng đạo đức thánh thiện.”

Vào đêm trước Lễ Giáng Sinh, tuyết trắng phủ đầy trên những đường phố của Luân Đôn. Mọi người có vẻ vui mừng hớn hở … trừ một gã đàn ông, Ebeneger Scrooge.

“Chào ông Scrooge! Chúc ông một Giáng Sinh hạnh phúc!”

Scrooge quay sang người đàn ông ấy.

“Giáng Sinh hạnh phúc à! Đồ bịp bợm Bahai!” Gã nói, “Ông có hạnh phúc về cài gì? Ông nghèo rớt mồng tơi! Ông già thêm một tuổi và không giàu gì hơn. Hãy để tôi một mình. Tôi không mừng Giáng Sinh!”

Những người hát Giáng Sinh vội vàng ngưng tiếng hát khi lão già Scrooge tiến lại gần. Thân hình gầy guộc lều nghều của gã uốn cong khi lê bước. Bất kỳ ai đi cùng đường với gã cũng cảm thấy chán nản buồn rầu. Họ bắt gặp con mắt đỏ ngàu và những lời độc ác của gã. Scrooge không có thời gian dành cho những người nghèo hoặc cần sự giúp đỡ. Gã chỉ ước gì những người nghèo chết đi và để giảm dân số! Gã yêu một thứ duy nhất – tiền. Gã không đếm xỉa gì đến đó là đêm trước lễ Giáng Sinh…gã vội vã bước về nhà qua nhưng con phố đầy bóng tối. Bên trong, gã đốt một ngọn lửa nhỏ. Nhưng khí lạnh dường như không đủ ấm. Rồi Scrooge nghe một âm thanh lạ. Nó là gì? Âm thanh mỗi lúc một to hơn. Cánh cửa ra vào bắt đầu lay động. Scrooge bắt đầu run vì sợ hãi. Cái gì đang xảy ra? Đột nhiên cánh cửa mở toang. Và … cài gì bước vào? Một người? Một sự sống? A … một hồn ma? Hồn ma ấy có gương mặt của Jacob Marley. Marley và Scrooge đã cùng nhau trong công việc kinh doanh. Cả hai đều yêu tiền – và cũng chẳng giúp đỡ người nghèo. Nhưng Marley đã chết, thời gian rất lâu, bảy năm cách đây! Bây giờ ông ta muồn gì ở Scrooge? Hồn ma nói.

“Tôi đến để khuyên ông, Scrooge. Tôi cũng như ông, chỉ chú ý đến bản thân và tiền bạc. Và bây giờ tôi phải mang những xiềng xích nặng nề khi đi bất cứ đâu. Chúng là sự trừng phạt mà tôi phải lãnh nhận. Nhưng những xiềng xích của ông sẽ còn dài hơn nhiều, Scrooge. Ông phải thay đổi cách sống và trở nên một người tốt. Sẽ có ba hồn ma thăm ông trong những đêm sắp tới. Hồn ma thứ nhất sẽ đến trong đêm nay và gõ của một tiếng.”

Rồi hồn ma ấy biến mất.

Crooge sợ hãi chạy đến giường của gã. Có thể giấc ngủ sẽ cho gã yên tâm những ý nghĩ rối bời của mình.

Đột nhiên Scrooge thức giấc. Gã có cảm giác như có cái gì đó bên cạnh giường. Gã quay sang nhìn. Đó là vật hết sức lạ mà gã chưa bao giờ nhìn thấy. Nó có mái tóc trắng giống như một ông già. Nhưng khuôn mặt của nó trông rõ ràng như một đứa trẻ. Một ánh sáng màu vàng chiếu ra từ đỉnh đầu của nó.

“Mày muốn gì ở tao?” Scrooge hỏi hồn ma lạ.

“Ta là Thần Giáng Sinh Quá Khứ.” “Ta sẽ chỉ cho ông về quá khứ của mình, và giúp ông nhớ những điều mà ông đã quên. Hãy theo ta,”

Vị Thần dẫn Scrooge trở về với những năm trước đó. Scrooge đã thấy một cậu bé, cô độc. Cậu bé đang chờ gia đình và bạn bè của mình. Nhưng họ không bao giờ đến. Scrooge đã biết rõ khuôn mặt của cậu bé ấy. Đó chính là gã. Scrooge ơi! Một giọt nước mắt trào ra từ khóe mắt người đàn ông già nua khi ông nhớ về thời thơ ấu cô đơn của mình.

Vị Thần dẫn Scrooge đến một không gian và nột thời gian khác. Lúc này, Scrooge tự thấy chính mình như một người trai trẻ. Gã đã trông thấy một phụ nữ xinh đẹp – vợ mình. Gã buồn bã nhớ bà ta. Bà ta đã bỏ gã. Bởi gã đã yêu tiền hơn gã đã yêu bà.

“Vị thần ơi!” Gã gọi, “Làm ơn dẫn tôi đến một nơi khác. Nhớ đến bà ta là điều quá đau buồn đối với tôi.”

Họ rời khỏi nơi ấy, và khi Scrooge thức giấc, gã vẫn nằm trong giường như trước.

Một giờ đồng hồ nữa, một vị thần khác. “Ta là vị Thần Giáng Sinh Hiện Tại.”, nó nói. Vị thần ấy dẫn đưa Scrooge tới nhà của Bob Cratchit. Cratchit là một công nhân nơi làm việc của scrooge. Scrooge đã bắt Cratchit làm việc vất vả nặng nhọc, và đồng lương ít ỏi. Gia đình Cratchit là một gia đình nghèo nàn, nhưng Scrooge để ý họ vui sướng làm sao khi họ mừng Lễ Chúa Giáng Sinh. Và rồi Scrooge chú ý đến đứa con trai đau yếu của Bob – Tiny Tim. Scrooge thắc mắc và hỏi, “Này vị Thần, thằng bé liệu sống chứ?”

“Nó sẽ không sống nếu tương lai không thay đổi những gì mà ông đã thấy” vị Thần trả lời.

“Không, không” Scrooge nói, “Ôi không,vị Thần nhân hậu! Hãy nói nó sẽ được cứu sống!. Nhưng vị Thần đã biến mất.

Scrooge nhìn lên. Gã thấy một hồn ma đen kịt – vị Thần của Tương Lai. Gã sợ vị thần này nhất. Gã đã trông thấy gì?

Vị thần này lại dẫn Scrooge đến nhà Cratchit lần nữa. Thời gian đã trôi qua, và giờ đây, ngôi nhà phủ đầy buồn thảm. chỗ Tim nàm đã bỏ trống. Gia đình đang than khóc. Thằng bé đã chết. Scrooge quay đi chỗ khác trong buồn bã và bàng hoàng.

Rồi Thần Tương Lai dẫn Scrooge đến một nơi khác. Scrooge thấy mọi người đang nói về một người đàn ông đã chết. “Không ai sẽ nhớ hắn”. người ta nói

“Cái gì sẽ xảy đến với tất cả tiền bạc của hắn?” Người khác hỏi.

Scrooge tự hỏi, “Người đàn ông này là ai?

Hồn ma đen kịt này chỉ ngón tay khẳng khiu của nó về phía nơi mà thi thể của người đàn ông được chôn cất.

Scrooge đọc chữ viết trên phiến đá xám. “Ebeneger Scrooge.”

Scrooge la hét, “Làm ơn! Tôi sẽ thay đổi! tôi chưa muốn chết …không như thế này được! Làm ơn…”

Nhưng hồn ma đã ra đi. Scrooge mở mắt đầy sợ hãi. Gã vẫn ở trong phòng của mình. Gã không chết. Gã còn sống! Gã nhảy ra khỏi giường. Và chạy ra khỏi căn phòng mở toang cửa sổ. Trời đã sáng. Gã hét to trong khí lạnh mùa đông: “Tôi còn sống!”

Ngay tức khắc, gã gừi thực phẩm tới nhà của Bob. Scrooge suy nghĩ, “Tiny Tim sẽ ăn ngon lành, ta chắc chắn điều đó.”

Scrooge vội vã mặc quần áo và đi ra ngoài. Tuyết trắng mịn màng đang rơi. Gã chạy qua những con phố và la lớn, “Mừng Chúa Giáng Sinh!”

Mọi người nhìn gã một cách kỳ lạ. có phải đây là Scrooge? Scrooge chạy đến những nhà nghèo và cho họ tiền bạc của mình. Gã đã có sự thay đổi lần thứ hai. Và gã sẽ dùng nó. Vì lần đầu tiên trong những năm tháng gã cảm thấy hạnh phúc.Ngạc nhiên, người ta chăm chú nhìn gã khi Scrooge già nua chạy một cách sung sướng qua những con phố phủ đầy tuyết.

Và còn Tiny tin thế nao? Ồ, thằng bé không chết – và Scrooge đã trở thành như người bố thứ hai đối với nó. Và TinyTim đã có những lời nói cuối cùng trong câu chuyện Giáng Sinh này. Cậu bé đã nói: “Xin Chúa ban phúc lành cho chúng ta, cho mọi người!”
 
Đôi nét về Mùa Giáng Sinh
LM Lê Công Đức
10:43 26/12/2009


Tại nhiều nước Tây phương, các công sở, trường học và xí nghiệp tiếp tục nghỉ trọn một tuần sau Lễ Giáng Sinh, cho đến Tết Dương Lịch. Tuy nhiên, xét trong khung cảnh gia đình thì đa số các truyền thống tôn giáo cũng như thế tục liên quan đến Lễ Giáng Sinh đều chấm dứt ngay sau ngày 25 tháng 12. Những sắc màu trang trí Nô-en có thể vẫn còn bịn rịn thêm một ít lâu, nhưng phần lớn các sinh hoạt đều nhanh chóng trở về nhịp sống bình thường.

Trong phụng vụ của Giáo Hội thì không thế. Những bài thánh ca giáng sinh vẫn còn tiếp tục cho đến Lễ Hiển Linh, ngày 6 tháng giêng. Hiện nay Lễ Hiển Linh được Giáo Hội cử hành vào ngày Chúa Nhật giữa ngày 2 và ngày 8 tháng giêng. Còn Lễ Thánh Gia sẽ rơi vào Chúa Nhật giữa Lễ Giáng Sinh và ngày đầu năm dương lịch, 1 tháng giêng. Ngày 26 tháng 12 được dành để kính nhớ vị thánh tử đạo đầu tiên: Thánh Stê-pha-nô. Ngày hôm sau, 27 tháng 12, kính nhớ Thánh Gio-an Tông Đồ, tác giả Sách Tin Mừng. Ngày 28 là Lễ Các Thánh Anh Hài, ôn lại câu chuyện trong Phúc Âm về những biến cố xảy ra xung quanh cuộc chào đời của Chúa Giê-su. Ngày 1 tháng giêng, đầu năm mới, là cuối Tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Cuối cùng, mùa Giáng Sinh được khép lại bằng Lễ Hiển Linh. Hang Đá và các loại trang trí khác được thu dọn.. . Hẹn mùa đông năm sau!

Những ngày lễ Các Thánh tử đạo

Ngày nay chúng ta thật khó hình dung trong nhịp sống một năm của mình lại thiếu mất ngày Lễ Giáng Sinh – và thiếu mất bầu khí Giáng Sinh trong phụng tự cũng như ngoài đời sống xã hội. Thế nhưng, đã có một thời như thế. Truyền thống cử hành các ngày lễ mừng kính các thánh tử đạo đã tồn tại trước khi có ngày Lễ Giáng Sinh đầu tiên trong phụng vụ. Ngày nay, ba trong số những ngày lễ ấy được đặt vào liền sau Lễ Giáng Sinh.

Các vị tử đạo được mừng trong mùa Giáng Sinh này tiêu biểu cho ba hình thức tuẫn giáo vốn thường được ghi nhận trong những thế kỷ bị bách hại: Có những người vui lòng chịu chết (như Thánh Stê-pha-nô); có những người khác cũng vui lòng chịu chết, nhưng không bị xử tử (như Thánh Gio-an); và có những người khác nữa bị xử tử không phải do mình chọn lựa (như các Thánh Anh Hài).

Theo truyền thống, Thánh Stê-pha-nô (lễ ngày 26.12) được xem là người môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su chịu đổ máu đào để làm chứng cho đức tin. Tân Ước mô tả ngài là một trong những phó tế tiên khởi, phục vụ cho các nhu cầu của các Kitôhữu Do Thái nói tiếng Hi Lạp ở Giê-ru-sa-lem. Ngài bị bắt bởi Hội Đường trong một cuộc tranh luận giữa các Kitôhữu và những người Do Thái – và sau khi nêu chứng tá với đầy Thần Khí, ngài bị họ ném đá cho đến chết (cf. Cv 6 – 7).

Thánh Gio-an Tác Giả Sách Tin Mừng (lễ ngày 27.12) được truyền thống tưởng nhớ như là “người được Đức Giêsu yêu mến” và là người đã viết Sách Phúc Âm cuối cùng và Sách Khải Huyền. Ngài là một tông đồ ở Ê-phê-sô cho đến khi bị đày sang đảo Patmos. Tại một số vùng trên thế giới, vẫn còn tồn tại một truyền thống độc đáo gắn liền với lễ này: người ta làm phép và phân phát rượu của Thánh Gio-an. Dường như truyền thống này bắt nguồn từ một huyền thọai kể rằng Thánh Gio-an đã có lần uống phải rượu bị bỏ thuốc độc – nhưng ngài vẫn không hề hấn gì!

Việc chọn ngày 28 tháng 12 để kính nhớ Các Thánh Anh Hài là một hệ quả trực tiếp liên quan đến việc cử hành Lễ Giáng Sinh. Trong câu chuyện Chúa Giê-su giáng sinh theo Tin Mừng Mat-thêu (2, 13 – 19) có kể lại cuộc tàn sát các bé trai từ hai tuổi trở xuống – theo lệnh của vua Hê-rô-đê. Câu chuyện kết thúc với cuộc chạy trốn của Thánh Gia sang Ai-cập. Những chi tiết này trong sách Tin Mừng phản ảnh tính cách bạo ngược của vua Hê-rô-đê như được lịch sử ghi nhận: một vị vua sẵn sàng thanh trừng bất cứ ai mà ông coi là mối đe dọa cho quyền lực của mình, dù kẻ đó là người trong gia đình ông. Kể chuyện này, có lẽ Mat-thêu muốn đặt biến cố chào đời của Đức Giêsu trong một viễn cảnh thần học rộng lớn hơn: cũng như dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn đã ra khỏi Ai-cập để hình thành nên dân It-ra-en, thì Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn, Đấng Mê-si-a, cũng sẽ ra khỏi Ai-cập để thiết lập It-ra-en mới – là Giáo Hội.

Thánh gia

Lễ Thánh Gia chỉ mới được mừng bởi Giáo Hội toàn cầu kể từ năm 1920. Nguyên thủy lễ này được đặt vào Chúa Nhật thứ ba sau Lễ Hiển Linh, nay được dời lui về Chúa Nhật giữa Lễ Giáng Sinh và ngày 1 tháng giêng. Lòng sùng kính đặc biệt đối với Thánh Gia vốn đã phổ biến hồi sau thế kỷ 16. Ngày nay, với những thách đố đặt ra cho đời sống gia đình hiện đại, chủ đề gia đình – là tiêu điểm của lễ này – càng có tầm quan trọng đặc biệt. Nhiều giáo xứ vận dụng vào phụng vụ những sáng kiến nhằm giúp các gia đình làm mới lại tình yêu của mình.

Ngày 1 tháng giêng

Việc cử hành ngày Tết Dương Lịch, 1 tháng giêng, với một chủ đề đặc biệt không phải là một truyền thống phổ quát toàn cầu. Các dân tộc khác nhau có những ngày tết khác nhau. Trước đây, nhiều dân tộc – chẳng hạn người Anh - chọn ngày xuân phân (25 tháng 3). Trong Đế Quốc Frankish, cho tới thế kỷ 8, ngày Tết được mừng vào ngày 1 tháng 3. Ở Pháp, trước thế kỷ 15, người ta mừng Tết vào ngày Lễ Phục Sinh. Ở Scandinavia và ở Đức, ngày Lễ Giáng Sinh được chọn làm ngày Tết cho đến thế kỷ 16. Còn ngày 1 tháng giêng vốn đã được Julius Caesar thiết định làm ngày Tết cho Đế Quốc Rô-ma vào năm 45 trước công nguyên – cùng với sự khai sinh của lịch Julian. Năm 1852, Giáo Hoàng Gregory XIII thúc đẩy một cuộc cải cách lịch Julian. Cuộc cải cách này đem lại một phương pháp tính toán và phân chia thời gian vẫn còn hiệu lực cho tới hôm nay. Lịch Gregorian vẫn duy trì ngày 1 tháng giêng làm ngày Tết. Các nước Tin Lành bác bỏ lịch này và, do đó, bác bỏ cả việc mừng Tết vào ngày 1 tháng giêng – đây là trường hợp ở nước Đức cho đến năm 1700, ở Anh và ở các vùng thuộc địa bên Mỹ cho đến năm 1752, và ở Thụy Điển cho đến năm 1753.

Trong lịch sử Kitô giáo cho đến nay, ngày 1 tháng giêng mang trong mình nó khá nhiều chủ đề tôn giáo. Nhưng không có chủ đề nào trong đó có liên hệ với ý nghĩa ‘Tết’ đậm sắc thái thế tục như cảm nhận thông thường trong xã hội chúng ta ngày nay. Đầu tiên, ngày này được mừng một cách đặc biệt bởi vì đây là ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Giáo Hội nhấn mạnh chiều kích thống hối và chay tịnh – để đẩy lùi ảnh hưởng của ngoại giáo trong ngày này (tức việc mừng Tết một cách náo động quá trớn). Năm 567, Công Đồng Tours thứ hai đã lập ra ba ngày giữ chay tương ứng với những ngày đầu tiên của năm mới.

Nhưng, dù nhấn mạnh đến chiều kích thống hối bao nhiêu đi nữa, Giáo Hội vẫn chưa bao giờ thành công trong việc đẩy lùi những tập tục mừng giao thừa năm mới một cách cuồng nhiệt của dân chúng. Vì thế, các chủ đề tôn giáo khác đã lần lượt được vận dụng cho ngày này. Đầu tiên, đó là chủ đề về Đức Maria – bởi vì ngày hôm nay giáo hoàng cử hành phụng vụ tại thánh đường cổ xưa nhất dâng kính Đức Maria. Ban đầu, Giáo Hội dùng ngày này để mừng sinh nhật Đức Mẹ, Đấng đã sinh hạ Chúa Giêsu - như vậy, chủ đề hôm nay vẫn liên quan chặt chẽ với Lễ Giáng Sinh. Về sau, lễ Sinh Nhật Đức Mẹ được dời sang ngày 8 tháng 9.

Ở Tây Ban Nha và ở Gaul, trong thế kỷ 6, Giáo Hội bắt đầu dâng ngày 1 tháng giêng để kính nhớ mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu cắt bì. Điều này phù hợp với trình thuật Thánh Kinh: biến cố này xảy ra tám ngày sau khi Đức Giêsu chào đời (Lc 2, 21). Cho đến thế kỷ 13 thì chủ đề này mới lan tới Rôma, và được bổ sung vào với hai chủ đề có sẵn: kết thúc Tuần Bát Nhật Giáng Sinh và Lễ kính Đức Mẹ.

Ngày nay, ngày 1 tháng giêng tiếp tục là một ngày có ý nghĩa đặc biệt thiêng liêng. Nó kết hợp nhiều chủ đề khác nhau: kết thúc Bát Nhật Giáng Sinh, mừng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa; và gần đây hơn, chủ đề về hòa bình thế giới cũng được gán cho ngày đầu năm mới này. Chủ đề về Đức Giêsu chịu cắt bì đã bị loại bỏ kể từ năm 1969. Dĩ nhiên, những âm thanh và sắc màu của Giáng Sinh vẫn còn đó, rất rõ, trong ngày này.

Tết dương lịch

Chủ đề Tết Dương Lịch chưa bao giờ chính thức len vào trong cử hành phụng vụ 1 tháng giêng của Giáo Hội – dù người ta có thể nghe về chủ đề này khá nhiều trong các bài giảng. Đa số các truyền thống có liên quan đến chủ đề Tết Dương Lịch đều thuộc về bình diện thế tục hơn là bình diện tôn giáo. Truyền thống uống rượu giao thừa, chẳng hạn, vốn đã tồn tại từ xa xưa và có nguồn gốc từ các nghi thức tôn giáo của ngoại giáo. Một số nghi thức ngoại giáo cổ thời trong đêm giao thừa có bao gồm việc đốt lửa mới đầu năm, hiệp thông với người quá cố, thổi kèn, đánh trống, reo hò inh ỏi để xua đuổi tà ma năm cũ…, và chúng ta còn nghe được nhiều dư âm của những nghi thức ấy trong Lễ Halloween – (người Celt trước đây mừng Tết vào cuối tháng 10, tiền thân của Lễ Halloween ngày nay).

Lễ hiển linh

Lễ Hiển Linh (Epiphany) vốn chính thức rơi vào ngày 6 tháng giêng, nhưng vì được dời vào Chúa Nhật nên bây giờ dao động giữa ngày 2 và 8 tháng giêng. Lễ này đánh dấu kết thúc Mùa Giáng Sinh. ‘Epiphany’ có gốc ở từ Hi lạp epiphanein – hàm nghĩa một sự tỏ hiện, xuất hiện, vén mở ra. Từ ngữ này vốn được dùng để mô tả những sự kiện thần khải hoặc những cuộc viếng thăm của các bậc vị vọng. Một cách tự nhiên, các Giáo Hội nói tiếng Hi lạp ở Đông Phương đã áp dụng từ ngữ này để mô tả sự kiện Thiên Chúa xuất hiện trong thân phận phàm nhân. Xuất phát từ ý nghĩa đó, một số Giáo Hội ở Đông Phương đã cử hành lễ ngày 6 tháng giêng để tưởng nhớ việc Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Gio-đan và việc Người làm phép lạ đầu tiên tại Cana. Một số Giáo Hội khác cử hành ngày này để tưởng nhớ cuộc giáng sinh của Chúa. Cuối cùng, cả hai được kết hợp lại.

Nhiều chứng cứ cho thấy rằng việc mừng Lễ Sinh Nhật Chúa ở Ai-cập và ở các Giáo Hội Cận Đông đã có từ rất xa xưa, có lẽ từ trước thế kỷ 3. Tại sao các Giáo Hội Đông Phương chọn ngày 6 tháng giêng làm ngày mừng Sinh Nhật Chúa? Những giả thuyết người ta đưa ra để trả lời câu hỏi này cũng song song với những lập luận giải thích tại sao bên Tây Phương đã chọn ngày 25 tháng 12. Một cách giải thích khá phổ biến – nhưng vẫn đang bị chất vấn – cho rằng ngày đông chí xảy ra vào ngày 6 tháng giêng, theo lịch được sử dụng tại vùng này thuở ấy. Vào thời ấy, những người ngoại giáo cử hành cuộc epiphanein (hiển linh) của thần Aion giữa dân chúng bằng một lễ mừng thấm đẫm ruợu, nước và ánh sáng. Aion là vị thần của thời gian và vĩnh cửu. Các Kitôhữu có lẽ đã vận dụng ngày này để mừng mầu nhiệm Nhập Thể; họ sáp nhập vào phụng vụ những câu chuyện Phúc Âm về những cuộc epiphanein của Chúa Giê-su: biến cố chào đời, biến cố các đạo sĩ viếng thăm, biến cố chịu phép rửa ở sông Gio-đan, biến cố làm phép lạ đầu tiên biến nước thành rượu ở tiệc cưới Cana. Chủ đề hỗn hợp này rất có ý nghĩa đối với các tín hữu Đông Phương thời xưa, bởi vì dân chúng đã không được Đức Giêsu tỏ hiện mãi cho đến ngày Người xuất hiện trên bờ sông Gio-đan, xin Gio-an làm phép rửa.

Một giả thuyết gần đây hơn giải thích lai lịch của ngày 6 tháng giêng (đối chiếu với ngày 25 tháng 12 bên Tây Phương) căn cứ vào tiêu điểm mầu nhiệm Vượt Qua trong đời sống dân chúng. Cái chết và cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu có lẽ đã xảy ra vào ngày 6 tháng tư ở bên Đông, tương đương với ngày 14 tháng Nisan (là 25 tháng ba của Tây Phương, tính theo lịch Julian).

Lễ Hiển Linh được giới thiệu vào Gaul hồi giữa thế kỷ 4, bởi vì các Giáo Hội ở khu vực này của Châu Âu có mối gắn bó chặt chẽ với Đông Phương. Tại Gaul, các chủ đề của Lễ Hiển Linh như: cuộc viếng thăm của các đạo sĩ, biến cố Chúa Giê-su chịu phép rửa, phép lạ ở Cana, và biến cố hiển dung của Người… đã được phát triển.

Đến cuối thế kỷ 4, các Giáo Hội Đông và Tây Phương hội nhập các ngày lễ mừng Sinh Nhật Chúa của nhau. Từ đó, Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh được cử hành ở cả hai bên. Cuộc hội nhập này đã dẫn đến việc tách chủ đề riêng ra cho mỗi ngày lễ. Ngày 6 tháng giêng, Giáo Hội Đông Phương vẫn tiếp tục nhấn mạnh đến các biến cố hiển linh của Chúa theo các câu chuyện Tin Mừng kể trên. Còn ở Giáo Hội Tây Phương, Lễ Hiển Linh được dành để đặc biệt nhấn mạnh cuộc viếng thăm của các nhà đạo sĩ (Mt 2, 1 – 12): Chúa Giê-su hiển linh với dân ngoại!

Các nhà đạo sĩ

Câu chuyện về các nhà đạo sĩ trong Sách Phúc Âm – gắn bó mật thiết với Lễ Hiển Linh – không nhằm gửi đến cho người đọc một biến cố lịch sử. Đúng hơn, đó là phản ảnh về một chiều kích quan trọng của mầu nhiệm Nhập Thể: Đấng Mê-si-a đã đến với mọi dân tộc chứ không chỉ riêng cho dân Do Thái mà thôi, một chủ điểm vốn rất được nhấn mạnh trong Tin Mừng Mat-thêu. Từ Hi lạp ‘magi’ qui chiếu đến một tầng lớp học thức ở Ba-by-lon, có lẽ nhằm chỉ các nhà chiêm tinh. Từ ngữ này phù hợp với tính biểu tượng của những sự kiện phi thường đã dẫn đưa các đại biểu của các dân ngoại đến với Đấng Mê-si-a. Những trích dẫn các sấm ngôn Cựu Ước (chẳng hạn, Is 60, 1 – 6) được tác giả Sách Tin Mừng sử dụng để nhấn mạnh rằng cuộc giáng sinh của Đức Giêsu có một mục tiêu phổ quát. Theo Thánh Vịnh 72 (câu 10 tt.), Vua Giu-đa, một tước hiệu của Đấng Mê-si-a, được hứa sẽ nhận được những tặng phẩm. Vàng, nhũ hương và mộc dược – ba món quà được đề cập trong Sách Tin Mừng – theo truyền thống Đông Phương, là những biểu tượng của sự thần phục. Cũng theo truyền thống, những tặng phẩm này nói lên định mệnh của Đức Giêsu: vàng tượng trưng cho vương quyền của Người, nhũ hương là biểu tượng của thiên tính Người, và mộc dược là dấu chỉ về cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa.

Trải qua bao thế kỷ, câu chuyện Tin Mừng này về cuộc viếng thăm của các nhà đạo sĩ đã được bồi đắp thêm nhiều chi tiết. Con số các nhà đạo sĩ là 3 – đó là điều được thiết định bởi Origen (chết năm 254), vì căn cứ vào 3 tặng phẩm được nhắc đến trong câu chuyện Tin Mừng. Vào thế kỷ 6, các nhà đạo sĩ được chuyển thành các vua (tức Ba Vua) – để khớp với những tham chiếu Cựu Ước (cf. Tv 72, 10; Is 60, 3tt.). Việc mô tả các nhà đạo sĩ như là ba vị vua - với những dáng vẻ riêng của mỗi vị - xuất phát từ những giai thoại được truyền tụng trong thế kỷ 9. Ba vị vua này được mô tả như là tiêu biểu cho ba chủng tộc chính, với danh tánh lần lượt như sau: Melchoir, một ông già da trắng với chòm râu dài bạc phơ, mang vàng làm lễ phẩm; Caspar, trẻ hơn và da màu sẫm hơn, mang nhũ hương; Balthasar, một người da đen, tiến dâng mộc dược.

Lễ truyền tin

Một lễ khác có liên quan chặt chẽ với mầu nhiệm Nhập Thể và, do đó, cũng liên quan với Lễ Giáng Sinh – đó là Lễ Truyền Tin. Lễ này được mừng vào ngày 25 tháng 3 trong Giáo Hội Tây Phương kể từ trước giữa thế kỷ 7. Chủ đề của lễ này nhắc nhớ đến quyết định của Thiên Chúa, quyết định được thông đạt cho Đức Maria thông qua thiên sứ Ga-bri-en rằng Trinh Nữ Maria sẽ là mẹ của một đứa con đặc biệt: “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lc 1, 32). Việc chọn ngày 25 tháng 3 từ những thế kỷ đầu tiên có quan hệ mật thiết với việc chọn ngày 25 tháng 12 cho Lễ Giáng Sinh. Có lẽ vì ngày 25 tháng 3, ngày chết của Đức Giêsu và cũng là ngày lễ Vượt Qua cuối cùng, được các Kitôhữu sơ khai xem là ngày sáng tạo và cũng là khoảnh khắc đầu tiên Người đầu thai. Nếu người ta đã tưởng niệm Sinh Nhật Đức Giêsu hằng năm vào ngày 25 tháng 12, thì cũng là tự nhiên việc người ta tưởng niệm khoảnh khắc đầu tiên Người nhập thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria chín tháng trước đó, ngày 25 tháng 3!

(Lm. Lê Công Đức tổng hợp, theo Catholic Customs & Traditions của Greg Dues, do Twenty-Third Publications xuất bản)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo họ Lạt Sơn Hà Nam có tân linh mục
LM Alphonsô Phạm Hùng
04:24 26/12/2009
Chức Vụ Linh Mục cho Hy Tế Thập Giá

Giáo họ Lạt Sơn xa xôi hẻo lánh nằm giữa các núi đá vôi Hà Nam hôm nay có được ngày vui trọng đại nhất. Kể từ ngày tạo thiên lập địa, hôm nay giáo họ mới có được thánh lễ tạ ơn của tân linh mục xuất thân từ giáo họ. Chú Thỏa ngày nào khăn gói quả mướp đi lên Hà Nội giúp việc cho Đức Cố Hồng Y Phaolô, giờ đây trở về dâng lể mở tay tạ ơn Thiên Chúa đã thương từ ngàn xưa chọn mình làm linh mục của Chúa Kitô. Ông bà cố, gia đình và giáo họ dâng lời cảm tạ ngợi khen Thiên Chúa đã nghe lời khẩn nguyện mà nâng một người con của mình lên hàng tư tế của Chúa Kitô. Ngày lễ mở tay của tân linh mục trong năm linh mục khiến chúng ta suy niệm về chức vụ linh mục mà Chúa Kitô đã ban tân cho linh mục, cho Giáo hội và cả nhân loại để chúng ta cùng dâng lời tạ ơn thiết tha với tân linh mục trong ngày vui lớn hôm nay.

Theo ĐHY Emmanuel Suhard, chức linh mục không phải là một cái gì đó. Chức linh mục là một ai đó. Đấng đó là Chúa Giêsu Kitô. Trong bài phúc âm Gioan chúng ta vừa nghe Đức Giêsu nhận mình là “mục tử nhân lành.” Và chính Ngài định nghĩa cho chúng ta bằng cách nhắc đi nhắc lại hai lần rằng: muc tử nhân lành là người hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Chúa Giêsu Kitô là linh mục tối cao vĩnh cửu. Khi Người giang tay trên thập giá chết cho nhân loại chính Người trở thành linh mục, đấng trung gian duy nhất nối kết trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người; Nguời dâng chính thân mình người làm của lễ của tình yêu và vâng phục. Thập giá là bàn thờ nơi đó Chúa Giêsu vừa là linh mục và là của lể. Chúa Giêsu là linh mục vì ngài là mục tử nhân lành, chết hiến mạng sống mình vì đoàn chiên.

Càng có nhiều sông sâu cách trở, càng có nhiều thung lũng xa cách, người ta càng cần đến những chiếc cầu để nối con người lai với nhau. Một trong những cử chỉ đầy ý nghĩa sâu sắc trong nghi thức truyền chức linh mục mà chúng ta tham dư hôm qua, đó là trước khi lãnh nhận chức linh mục các tiến chức nằm phủ phục giữa cộng đồng dân Chúa và bàn thờ. Linh mục phải hạ mình xuống chết đi cho chính mình để trở thành chiếc cầu trung gian nối tiếp con ngưòi với Thiên Chúa. Linh mục phải để cho ngưòi ta dày xéo, chà đạp lên thân xác mình như chiếc cầu an toàn để dân chúng đến được với Thiên Chúa và Thiên Chúa đến được với con người.

Trong bí tích truyền chức linh mục, một ngưòi không trở nên linh mục nhờ mặc thêm vào mình một chiếc áo. Nhưng nhờ Chúa Thánh Thần, tiến chức được mặc lấy Chúa Kitô mục tử nhân lành và trở nên đồng hình dạng, một hình ảnh sống động của Chúa Kitô trên trần gian. Như Chúa Giêsu Linh Mục là chiếc cầu liên kết Thiên Chúa và con ngưòi, linh mục cũng trở nên chiếc cầu liên kết Thiên Chúa với con người. Vì thế bản chất của chức linh mục gắn liền với hy tế của Chúa Kitô được tái diễn trên bàn thờ. Tiến chức được chiụ chức linh mục để cử hành hy tế thập giá nơi bí tích thánh thể mà trong đó Chúa Kitô tiếp tục giao hoà Thiên Chúa với con ngưòi, công cuộc cứu rổi của Người được hoạt động. Giáo họ Lạt Sơn cũng như biết bao nhiêu giáo xứ trong vùng Hà Nam này đã phải đau khổ thiệt thòi về thiêng liêng trong mấy chục năm qua vì không có thánh lễ; không có thánh lễ vì không có linh mục. Vì thế anh chị em ý thức được hơn ai hết chức vụ linh mục được gắn liền với bí tích Thánh Thể như thế nào.

Nơi bí tích Thánh Thể linh mục trở nên hình ảnh sống động của Chúa Kitô hơn lúc nào hết, vì linh mục cử hành hy tế trong vai của Chúa Kiô linh mục (in persona Christi)-mục tử nhân lành. Chính nơi hy lễ thập giá tại bàn thờ linh mục hiểu rõ hơn lời Chúa Kitô hơn lúc nào hết: mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Có lẽ ngày hôm nay anh chị em có thể thắc mắc: thời nay có ai bắt bớ, bỏ tù, hay giết chết linh mục mà linh mục phải hiến mạng sống mình vì đoàn chiên.

Trong nghi thức truyền chức linh mục hôm qua chúng ta được vinh nghe Đức TGM hỏi các tiến chức trước khi chịu chức: Các con có muốn ngày càng liên kết mật thiết với Đ. Kitô Thượng tế, Đấng đã tự hiến mình cho Chúa Cha làm của lễ tinh tuyền vì chúng ta, và có cùng với Người hiến thân cho Thiên Chúa để cứu độ loài người không?

Và sau khi được truyền chức qua việc đặt tay và xin ơn Chúa Thánh Thần, Đức TGM trao chén thánh cho tân chức nói lên sự liên kết giữa chức vụ linh mục và hy tế Thánh Thể, ngài căn dặn tân chức: Hãy nhận của lễ của dân thánh Chúa dâng lên Thiên Chúa. Hãy ý thức việc con làm, bắt chước mầu nhiệm con cử hành, và rập đời sống con theo mầu nhiệm thập giá Chúa.

Rõ rằng để sống chức vụ linh mục, để trở nên nhịp cầu nối kết Thiên Chúa và con người Giáo Hội mời gọi linh mục chúng tôi phải trở nên mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì đoàn chiên như Đ. Kitô; nghĩa là luôn biến đời sống mình thành hành động hiền tế và thành của lể kết hợp với hy tế của Đ. Kitô dâng lên Thiên Chúa vì lơị ích của đoàn chiên và cả thế giới. Khi linh mục chúng tôi dâng Mình và Máu Chúa Kitô trên bàn thờ đó cũng là lúc chúng tôi dâng cả đời sống con người chúng tôi như của lể yêu thương và vâng lời lên Thiên Chúa. Đời sống linh mục là hy lể thâp giá.

Cha Thỏa thân mến,

Vâng, đời sống linh mục chúng ta là một hy lể thập giá. Hôm nay cha dâng lể mở tay long trọng trống rong cờ mở, mọi nguời xum vầy, nhưng có thể chẳng bao lâu, cha sẽ dâng lễ với chỉ một nhóm người trong âm thầm. Hôm nay nhiều ngưòi cầu nguyện, khích lệ và chúc mừng cha, nhưng có thể rồi mai đây nhiều lúc cha sẽ chỉ tìm thấy mình côi cút lẻ loi, gặp những lời bình phẩm chỉ trích, nhiều khi những hiểu lầm chống đối. Lúc đó xin cho lời mà cha được nghe lúc cha chịu chức lại vang lên trong tâm hồn cha: hây rập đời sống con theo mầu nhiệm thập giá Chúa.

Đời sống linh mục là hy lể thập giá, đời sống linh mục thật là mỏng manh vì linh mục cũng phải mang những yếu đuối bất toàn của con người nhưng đời sống linh mục cũng là đời sống ơn phúc và chan chứa hồng ân vì được kết hợp mật thiết với Chúa Kitô. Chức vụ linh mục thật là cao quí. Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ.

Lời của Thánh Phaolô gửi cho Timothê trong bài đọc thứ hai nhắc nhở linh mục chúng ta: con hãy chớ lãng quên ơn sủng trong con, là ơn là con đã nhận được qua lời tiên tri và việc đăt tay. Ơn Chúa luôn đủ cho chúng ta để chúng ta chu toàn những gì Chúa trao. Xin Chúa Kitô với ân sủng của Thánh Thần của Ngưòi mà cha lãnh nhận hôm qua sẽ tiếp tục hoạt đông trong cha để Chúa Kitô qua cha mà tiếp tục đi “giữa thế gian để giảng dạy, để tha thứ, để an ủi, để liên kết mọi người với trái tim nhân từ của Thiên Chúa.” Amen.
 
Niềm vui Giáng Sinh tại giáo xứ nhỏ bé Mường Cắt – Hòa Bình
Giuse Trần Ngọc Huấn
08:38 26/12/2009
Xuyên qua màn sương đêm và bóng tối dày đặc bao phủ khắp núi rừng Hòa Bình, đoàn xe của Đức Tổng Giám Mục Giuse đã đến với một giáo xứ nhỏ bé nghèo nàn cách xa Tòa Tổng Giám mục Hà Nội khoảng 145km - giáo xứ Mường Cắt (Hướng Nghĩa) để cùng bà con giáo dân nơi đây cử hành phụng vụ và hoan ca mừng Chúa Giáng Sinh. Có thể nói, đây là một Lễ Giáng Sinh đặc biệt nhất từ trước đến nay ở đây bởi lần đầu tiên từ trước đến nay có sự hiện diện của chính vị chủ chăn giáo phận – “Đấng nhân danh Chúa mà đến” - ở giữa họ để cùng chia sẻ niềm vui và đón mừng Chúa Giáng Sinh.

Xem hình ảnh

Giáo xứ Mường Cắt – một địa danh xa lạ chẳng được mấy người biết đến bởi nó nằm giữa một vùng rừng núi hiu quạnh, xa xôi của tỉnh Hòa Bình - là một trong những giáo xứ nằm cách xa Tòa TGM nhất của Tổng giáo phận Hà nội. Đời sống vật chất của người dân nơi đây còn rất nhiều khó khăn, vất vả. Kinh tế của họ gắn với những thửa ruộng bạc màu, những ngọn đồi núi phủ đầy giá lạnh… Khi chúng tôi đến đây, cả vùng gần như chìm trong màn đêm dày đặc và thời tiết lạnh giá, thấp thoáng đây đó những ánh đèn điện le lói chập chờn không đủ làm ấm lòng người mà trái lại càng khiến không gian thêm cô tịch, vắng vẻ.

Hiện nay, giáo xứ Mường Cắt có khoảng 1.350 giáo dân, chủ yếu là người dân tộc Mường, nằm rải rác trên một địa bàn khá rộng do Cha Giuse Nguyễn Khắc Quế làm chính xứ và cha phó Antôn Trần Cao Tích trực tiếp làm việc mục vụ tại đây.

Đoàn xe của Đức Tổng và mọi người xuất phát từ Hà Nội lúc 14h30, đi qua những con đường gồ ghề, sau gần 6 tiếng đã đến Mường Cắt trong sự chào đón vui mừng của mọi thành phần dân Chúa nơi đây. Giáo dân từ các xứ trong vùng Hòa Bình như Mường Riệc, Mường Đổn, Mường Tre, Vụ Bản… cũng tụ họp về đây để tham dự thánh lễ và chia sẻ cho nhau niềm vui trong đêm đón mừng Chúa Giáng Sinh. Chuyến viếng thăm của Đức TGM vào dịp thật trọng đại này đã trở nên một niềm động viên, khích lệ to lớn cho giáo dân nơi đây.

Cùng đi với Đức Tổng Giám mục Giuse đến với Mường Cắt còn có các chủng sinh của Đại chủng viện Hà nội, các bạn sinh viên thuộc Hội sinh viên Công giáo của TGP Hà nội và nhiều giáo dân của các xứ trong nội thành Hà nội. Họ cùng đồng hành cùng vị chủ chăn của mình trong một dịp thật đặc biệt để thực thi một nghĩa cử thật cao cả. Hy sinh những vui thú ồn ào nơi phồn hoa đô thị, ra khỏi căn nhà ấp áp, tiện nghi của mình, họ đến với những người nghèo nơi vùng núi hoang sơ cô quạnh để cùng với vị chủ chăn Tổng giáo phận chung chia niềm vui, cùng đón mừng Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Sinh với họ trong Đêm Hồng Phúc này.

Thánh lễ được cử hành vào lúc 19h45 tại lễ đài nhỏ được dựng lên ngoài trời bởi ngôi nhà thờ nhỏ bé của giáo xứ không thể đủ chỗ cho mọi người tham dự. Giữa bầu khí thiêng thánh đó, niềm hân hoan thánh thiện trào dâng trong lòng mỗi người. Những tiếng cồng chiêng – một nét văn hóa đặc sắc của vùng núi Hòa Bình – hòa với lời thánh ca vang lên trong đêm Thánh mừng Chúa đến.

Đức Tổng Giám mục Giuse, trong bài chia sẻ Tin Mừng, ngài nói: “Giêrusalem là chốn kinh kỳ hoa lệ nhưng mọi người phải tới vùng Belem cô quạnh mới gặp được Hài Nhi Thánh mới giáng sinh. Đến với Mường Cắt này, chúng tôi cảm nhận mình như đang sống lại bầu khí thiêng thánh đó trong đêm Giáng sinh. ở đây thật giống Belem bởi đường núi quanh co tối tăm mờ ảo, thỉnh thoảng mới có một vài ánh sáng le lói. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã khống có một ngôi nhà để ở, Đức Mẹ đã phải hạ sinh Chúa Giêsu ở ngoài trời lạnh giá, trong hang bò lừa thì ở đây, anh chị em cũng giống Chúa Giêsu bởi chúng ta cũng chưa có một ngôi nhà thờ cho hoàn chính, ngôi nhà thờ này thật xiêu vẹo, chật chội và cũng có thể đổ xuống bất cứ lúc nào cho nên chúng ta quy tụ ở ngoài trời này, chúng ta càng trở nên giống Chúa Giêsu hơn nữa. Mường Cắt này thật giống Belem, anh chị em giáo dân nơi này thật giống Chúa Giêsu, cho nên chúng tôi yêu mến nơi đây, yêu mến anh chị em.

Belem là một thị trấn bé nhỏ, nhưng trong đêm Chúa Giáng sinh, Belem lại trở nên trung tâm của niềm vui, có các thiên thần hoan ca rộn rã, có các mục đồng hân hoan thức giấc giữa đêm đông cô lạnh để đến mừng Chúa Giáng sinh, ánh sáng bừng lên, ba vua ở những nơi xa xôi cũng đến đây thờ lạy Chúa. Mường Cắt hôm nay cũng thật giống Belem, chung quanh chúng ta chỉ có núi rừng chìm trong bóng tối dày đặc, sương mờ lạnh lẽo, nhưng chúng ta ở đây mừng lễ này, ánh sáng đã bừng lên, giá lạnh bị xua tan, chỉ còn lại là niềm vui và sự ấm áp trong đêm Thánh. Có một thứ ánh sáng vượt lên hẳn ánh sáng của đèn điện hay mặt trời, đó là ánh sáng của Ngôi Lời Giáng Sinh, hôm nay tôi thấy khuôn mặt anh chị em rạng rõ niềm vui, chính tôi cũng vui tươi ấm áp và mạnh khỏe, bởi Chúa đang Giáng sinh trong tâm hồn chúng ta, ở giữa chúng ta khi chúng ta có lòng bác ái yêu thương, sự hiệp nhất.

Hôm nay, cả giáo phận hướng về Mường Cắt này để hiệp thông với anh chị em trong thánh lễ đêm Giáng Sinh. Ánh sáng bừng lên, chan hòa niềm vui khi chúng ta cùng quy tụ nơi đây ca hát mừng Chúa, dâng lên Chúa những lễ vật đơn sơ và cả tấm lòng chúng ta.

Ước mong, trong Năm Thánh, anh chị em sẽ đem bình an của Chúa đến với tất cả mọi người chung sống ở đây, dù không cùng tôn giáo, không cùng chính kiến và cả chính quyền nữa để nơi đây luôn tràn ngập bình an và tình yêu thương, để Thiên Chúa được vinh danh ở đây. Đó là những điều chúng ta cầu xin với Chúa và là những điều chúng tôi cầu chúc cho anh chị em”.

Thánh lễ kết thúc vào lúc 20h45’. Đức Tổng Giám mục đã trao quà tặng Giáng sinh cho tất cả mọi người hiện diện tham dự thánh lễ. Cha Giuse Nguyễn Khắc Quế đã thay lời mọi thành phần dân Chúa bày tỏ tâm tình cảm phục và tri ân Đức Tổng, quý Cha và quý khách đã về với Mường Cắt trong Đêm Hồng Ân chan hòa niềm vui này.

Cuộc gặp gỡ ý nghĩa này đã trở nên dấu chỉ hữu hiệu nhất cho tinh thần hiệp thông và yêu thương trong đêm mừng Chúa đến. Giữa nơi rừng núi lạnh lẽo giờ bừng lên một ánh sáng mới, một niềm hân hoan mới và một tinh thần mới. Xưa kia Hài Nhi Giêsu giáng sinh trong cảnh nghèo nàn tăm tối nơi hang đá bò lừa, hôm nay dân của Ngài cũng đang quây quần bên vị chủ chăn giáo phận nơi một vùng sơn cước để mừng Ngài đến, để chung chia niềm vui và tình yêu Giáng Sinh của Ngài.
 
Giáo xứ Việt Nam Paris trở về tâm linh cử hành lễ Giáng Sinh
Trần Văn Cảnh
10:16 26/12/2009
GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS TRỞ VỀ TÂM LINH CỬ HÀNH LỄ GIÁNG SINH

Paris. 24/12/2009, một lễ đêm vọng Giáng Sinh, một lễ ngày Giáng Sinh và thăm viếng hang đá bái thờ và tôn kính Chúa Hài Đồng đã được cử hành trọng thể với sự tham dự của nhiều giáo dân.

Cuối năm 1627, ở Kẻ Chợ, Hà Nội ngày nay, cha Đắc Lộ đã cử hành thánh lễ Giáng Sinh đầu tiên ở Đàng Ngoài. Trong tập “Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài”, chương 22 cha kể rằng: “Chúng tôi đã mừng lễ Giáng sinh hết sức long trọng, nghĩa là chúng tôi bắt đầu rửa tội công khai mấy kẻ tân tòng, được tái sinh trong Chúa Kitô vào chính ngày Người giáng sinh. Hơn nữa, trong đêm Noen giáo dân tân tòng sốt sắng và hoan hỉ hát các bài ca sinh nhật và những bài ca tôn giáo khác. Mà vì ban đêm, không cho phép phái nữ vào nhà thờ theo thuần phong mỹ tục xứ này, nên mới tảng sáng, họ đã dậy sớm và đến nhà thờ rất đông. Chúng tôi trình bày ảnh Đức Giêsu hài đồng cho họ bái thờ và hôn kính, mọi người đều tỏ ra xúc động và cảm mến không sao tả được”. Qua mấy lời kể vắn tắt này, cha Đắc Lộ cho thấy ba việc ngài đã làm với các giáo hữu việt nam lúc đó: nghi thức vọng và lễ đêm Giáng sinh, lễ ngày Giáng Sinh và bái thờ và tôn kính Chúa Hài Đồng. Cả ba việc mà các giáo hữu Việt Nam tại thủ đô THĂNG LONG đã cử hành cách nay 382 năm, vào năm 1627, đã được các giáo dân Việt Nam tại thủ đô PARIS lập lại, đặc biệt vào Giáng Sinh 2009, trong những ngày đầu cử hành NĂM THÁNH 2010.

1. Nghi thức vọng và lễ đêm Giáng Sinh

Đã thành thói quen, Giáo Xứ Việt Nam cũng như nhiều cộng đoàn công giáo khác, mỗi năm tới lễ Giáng Sinh, đều thực hiện một nghi thức vọng giáng sinh, trước khi cử hành long trọng thánh lễ đêm Giáng Sinh.

Xem hình xin bấm vào đây

Từ ít lâu nay, với Ủy Viên Phụng Vụ và Thánh ca Huỳnh Thị Anh Thư, nghi thức vọng giáng sinh đã được tổ chức một cách rất văn hóa và được sự đóng góp của các nhóm nhiều tài nghệ và tích cực. Khi thì nghi lễ xoay quanh việc trình diễn thánh ca, lúc thì diễn trình văn thơ, khi lại dùng hoạt hình, lúc lại đối đáp,…nhiều kỹ thuật đã được dùng, nhưng mục đích chính là nhắc nhớ lại hành trình đợi Đấng Cứu Thế.

Tiếp theo nghi thức vọng Giáng Sinh là lễ đêm mừng Chúa Giáng Sinh. Không kể những dịp đặc biệt, mỗi năm có năm lễ lôi kéo giáo hữu tham dự đông đảo. Đó là lễ đêm Giáng Sinh, lễ giao thừa năm mới âm lịch, lễ Lá, lễ Phục Sinh và lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Có lẽ lễ đêm mừng Chúa Giáng Sinh là lễ mà số giáo dân đến tham dự đông hơn cả. Lễ đêm mừng Chúa Giáng Sinh năm nay, số người tham dự đứng chật cả nhà thờ, gian trong cũng như gian ngoài nối dài. Sự sốt sắng tham dự thánh lễ của giáo dân không chỉ tùy thuộc vào lễ nghi trang trọng, vào bài chia sẻ phúc âm thâm thúy của vị chủ lễ mà còn bị ảnh hưởng bới các bài thánh ca mà ca đoàn cùng giáo dân đồng hát. Năm nay, ca đoàn tổng hợp đã đặc biệt chọn hát nhiều bài đa âm cổ kính. Nhưng có một bài thánh ca giáng sinh mà mỗi lần hát, giáo dân đều cảm kích và sốt sắng hẳn lên. Đó là bài “Đêm Đông” của Hải Linh. Vào cuối lễ, khi ca đoàn hát đến bài này, không khí thành đường khác hẳn lên. Người ta có cảm tưởng như dó là tiếng hát của cả một cộng đoàn, thậm chí của cả một dân tộc, hát lên từ tận đáy lòng, muốn cùng hòa nhịp với tiếng ca của các thiên thần, chào đón Đấng Cứu Thế giáng trấn. Tất cả những người quanh tôi, trong những hàng ghế cuối nhà thờ, già trẻ lớn bé, ai ai cũng cao giọng cùng hát bài “Đêm đông”.

2. Lễ ngày Giáng Sinh

Lễ ngày ở giáo xứ thường có 2 lễ: lễ sáng vào lúc 11g 30 và lễ chiều lúc 17 giớ. Dẫu không đông người tham dự bằng lễ đêm. Lễ ngày giáng sinh cũng thu hút một số giáo dân giống như lễ chủ nhật. Năm nay, lễ ngày Giáng sinh đã được đức ông Mai Đức Vinh chủ tế và chia sẻ Lời Chúa.

Đặt vấn đề nên sống lễ Giáng sinh thế nào, Đức Ông nhắc đến mấy số liệu điều tra cho thấy cách sống của xã hội Pháp về lễ Giáng Sinh: 90% các bạn trẻ 15-17 tuổi cho rằng đó là lễ của gia đình. Dưới một khía cạnh khác, 90% toàn dân Pháp cho rằng lễ Giáng sinh đã bị tục hóa thành một lễ thương mại, và 77% các học sinh và sinh viên nghĩ rằng cần phải sống giáng sinh với tinh thần nhiều hơn.

Thực ra lễ Giáng sinh trước nhất là một lễ tôn giáo, lễ của niềm tin, lễ của quà tặng, mà quà tặng lớn nhất là quà tặng do Ngôi Hai Thiên Chúa đã tự tặng mình để cứu chuộc nhân loại. Lễ Giáng sinh, trong đức tin công giáo, là lễ cử hành một mầu nhiệm lớn nhất: mầu nhiệm Ngôi hai giáng trần cứu chuộc nhân loại.

3. Thăm viếng hang đá để tôn kính và bái thờ Chúa Hài Đồng

Trích dẫn ký sự của Cha Đắc Lộ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Khiêm kể lại về ‘‘Người Chứng Thứ Nhất’’, thầy giảng Anrê Phú Yên rằng: Lễ Giáng Sinh năm ấy (1643) đoàn Thày Giảng đang có mặt tại Kinh đô. Và lịch sử Giáo Hội VN đã được ghi một cuộc mừng Lễ Sinh Nhật khá ly kỳ, tổ chức ngay trong dinh ông Tổng trấn Nguyễn Phúc Khê, con bà Minh Đức. Tại đây, thày giảng Anrê Phú Yên, vốn có tài khéo léo dựng nên một hang đá rất đẹp. Máng cỏ ở giữa Thánh Giuse và Đức Mẹ. Giáo hữu khắp vùng lân cận đến viếng Chúa Hài Đồng. Chính ông Tổng Trấn Nguyễn Phúc Khê cùng con cháu, gia nhân đến thờ lạy và triều yết ‘‘Vua vinh hiển xuống thế làm người’’. Không có cha, không có thánh lễ, nhưng đặc biệt có một phụ nữ mạnh dạn và sốt sắng lên tiếng trước mặt giáo hữu và quan khách giảng về sự cao cả Chúa giáng trần. Phụ nữ ấy chính là bà Minh Đức, mẹ quan Tổng Trấn, bà dì của chúa Thượng. (Ngươi Chứng Thứ Nhất. tr. 91).

Giáo xứ Việt Nam Paris được may mắn hơn, có các cha và các thầy, có thánh lễ đồng tế và có không chỉ một mà là 17 hang đá, trong đó 15 hang đá đã dược các địa điểm mục vụ và hội đoàn công giáo tiến hành dựng lên dự thi.

Trước và sau các nghi lễ phụng vụ, giáo dân đông đúc qui tụ chung quanh các hang đá để bái thờ và tôn kính Chúa Hài Đồng.

Phải chăng giáo xứ đã nghe lời đức ông chủ chăn để nói lên rằng: « Lễ giáng sinh là lễ tuyên xưng niềm tin vào ơn cứu độ, vào tình yêu vô biên của Chúa. Lễ giáng sinh cũng là lễ của liên đới, của huynh đệ, của bác ái. 77% các học sinh và sinh viên thật có lý khi nghĩ rằng chúng ta nên trở về với ý nghĩa tâm linh để cử hành lễ Giáng Sinh ».

Paris, ngày 26/12/2009
 
TGM Hà Nội nói: ''Mường Cắt giống BêLem''
Hương Giang
10:17 26/12/2009
HÀ NỘI - Đó là lời Đức Tổng Giuse trong đêm Giáng Sinh (24/12) khi Ngài tới dâng lễ và chúc mừng Noel tại xứ Mường Cắt, xã Mỹ Thành, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Đêm Giáng Sinh tại Mường Cắt năm nay nhộn nhịp và đông vui hơn hắn mọi năm, vì năm nay một giáo xứ “vùng sâu vùng xa”, hẻo lánh, hoang vu lại được đón chính vị chủ chăn của giáo phận tới dâng lễ. Đó là niềm vinh dự và cũng là một kỉ niệm “không thể quên” đối với xứ đạo nhỏ bé này.

Hình ảnh Giáng Sinh trên xứ Mường

Mường Cắt giống BêLem

Chúa Giêsu xưa đã không quản ngại từ trời cao vinh hiển xuống thế làm Người, làm một Người hèn hạ từ lúc sinh ra cho đến khi chịu chết trên Thập giá chỉ vì muốn cứu chuộc nhân loại, muốn đem hạnh phúc tới tất cả mọi người. Hôm nay, Đức Tổng Giuse cũng sẵn lòng rời nơi thủ đô tráng lệ trong đêm Giáng Sinh trở về miền sơn cước – Mường Cắt lạnh lẽo, hoang vu vì muốn đem niềm vui tới những con người còn nhiều khó khăn, vất vả trong cuộc sống.

Xưa kia địa danh Bêlem - nơi Chúa Giêsu giáng trần cũng chỉ là một thành nhỏ thuộc miền Giuđê. Nơi đó không phù hoa, hiện đại như Giêrusalem nhưng trong đêm Giáng Sinh các Thiên Thần lại tụ cả về Bêlem, các mục đồng cũng lũ lượt tuốn đến Bêlem. Mường Cắt trong đêm Giáng Sinh năm nay cũng thế, tuy là vùng đồi núi quanh co, với bóng tối bao phủ nhưng đêm nay nơi ấy lại được sự quan tâm ưu ái nhất so với tất cả những xứ đạo khác trong tổng giáo phận Hà Nội, vì đêm nay nơi ấy có sự hiện diện của Đức Tổng Giuse.

Bêlem ngày nào tuy bé nhỏ, hẻo lánh nhưng lại trở thành trung tâm của niềm vui, trung tâm để mọi người tới thờ lạy Chúa thì Mường Cắt hôm nay cũng được cái vinh dự đó. Mường Cắt đêm nay cũng bừng lên ánh sáng giữa vùng đồi núi âm u, với tiếng đàn nhạc hân hoan ca mừng Chúa át đi tiếng côn trùng thảm thiết thường ngày.

Rồi xưa kia khi Chúa sinh ra, Người cũng không có một ngôi nhà để ở, không có “chăn ấm đệm êm”, mà phải sinh tại hang bò lừa, tại nơi “đồng không mông quạnh”. Và giáo dân Mường Cắt bao nhiêu năm qua cũng đồng cảnh ngộ với Hài Nhi Giêsu khi phải chịu cảnh không có nơi để thờ phượng Chúa. Ngôi nhà thờ xiêu vẹo, có thể đe dọa mạng sống của bất cứ người nào tới gần cũng mới có được từ năm ngoái.

Niềm vui của người dân Mường Cắt

Các mục đồng xưa khi tới Bê lem cũng mang trong mình niềm vui, sự bình an vì được viếng thăm Chúa Hài Đồng thì hôm nay mọi người tới Mường Cắt cũng với tâm trạng đó, đúng như lời Đức Tổng: “ tôi thấy hôm nay ai cũng rạng rỡ niềm vui và chính tôi hôm nay cũng rất vui”. Niềm vui mà mỗi người đang có không phải vì được tập trung đông đúc, được nghe ca hát, được tặng quà mà niềm vui đó xuất phát từ sâu thẳm tâm hồn mỗi con người đó là niềm vui vì được Chúa Giáng Sinh trong lòng mỗi người, niềm vui vì chúng ta có lòng bác ái yêu thương, có sự hiệp nhất.

“Đã lâu lắm rồi ở đây mới có dịp mọi người tập trung đông đủ và nhộn nhịp như hôm nay”, đó là lời nhận định của bác Thanh, một người không theo đạo Công Giáo ở Mường Cắt. Bác cho biết thêm: “trước kia tôi chưa bao giờ vào nhà thờ mặc dù nhà tôi ngay bên đường kia. Tối nay thấy mọi người kéo nhau tới đông nên tôi cùng gia đình cũng khóa cửa sang chơi. Tôi thấy người Công Giáo thật đoàn kết và thật tốt. Mọi người ở tận Hà Nội mà cũng vào đây, lại còn mang quà cho chúng tôi nữa”.

Cụ Liên, năm nay đã ngoài 70 tuổi, cách nhà xứ Mường Cắt gần 10km nhưng nghe tin năm nay Đức Tổng về dâng lễ cụ đã khăn gói về nhà họ hàng ở xứ Mường Cắt mấy hôm nay để chờ đón đêm Giáng Sinh. Cụ cho biết, từ hôm cụ lên Mường Cắt thấy không khí Noel ở đây rất náo nức. Mọi người từ già đến trẻ đều bắt tay vào công cuộc chuẩn bị cho đêm Giáng Sinh. Các em nhỏ thì tập hát, tập múa… chuẩn bị cho những tiết mục văn nghệ của mình. Người lớn thì dọn dẹp nhà thờ, bắc sân khấu, chuẩn bị loa đài, đường điện….”

Chị Dung ở xứ Mường Diệc, cách Mường Cắt khoảng 4 km với trang phục truyền thống của dân tộc Mường rất đẹp cũng tới Mường Cắt từ chiều, chị vui mừng kể: “Noel năm nay được Chúa thương nên nhà nào cũng ăn mừng to lắm, nhà thì thịt lợn, nhà thì thịt gà...”

Sự hiện diện của Đức Tổng cùng các đoàn hội từ Hà Nội vào đã đem niềm vui cho bao con người nơi vùng núi hẻo lánh, hoang vu. Niềm vui đó không chỉ xuất hiện ở bà con Công Giáo nơi Mường Cắt mà nó còn lan tỏa tới mọi ngóc ngách, nẻo khuất nơi núi rừng. Từ những người bán hàng quán mọi hôm ỉu sìu vì đường sá vắng vẻ, nay đông đúc nhộn nhịp là dịp để họ kiếm thêm dăm ba đồng. Rồi những đôi trai gái thường ngày chẳng có nơi hẹn hò nay cũng có cơ hội thỏa sức giãi bày những tâm tư tình cảm với người mình yêu. Những em bé với với những bộ quần áo nhem nhuốc, đầu tóc rối bời… đêm nay cũng phấn khởi vì nhận được những món quá mà hàng ngày không dễ gì có được. Những người không cùng tôn giáo hôm nay cũng có cơ hội hiểu thêm về người Công Giáo “họ đoàn kết và tốt” như thế nào? Và chính chúng tôi những người được theo Đức Tổng vào Mường Cắt cũng rất tự hào vì mình đã góp phần đem niềm vui đến cho người khác. Một đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa!

Chúa xuống trần đã đem niềm vui, niềm hạnh phúc và sự bình an cho tất cả mọi người không phân biệt lương giáo, giàu nghèo…. Và điều đó đã được ứng nghiệm trong đêm Giáng Sinh năm nay tại Mường Cắt. Đây là cơ hội để những người tin theo Đức Kitô có thể giới thiệu Chúa cho những người chưa biết Chúa hoặc hun lại đức tin đó nơi những người khô khan, nguội lạnh. Mong rằng, với sự có mặt của Đức Tổng trong đêm Giáng Sinh năm nay sẽ là động lực để bà con Mường Cắt sống đạo ngày càng tốt hơn trong môi trường còn nhiều khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần. Nguyện Chúa Giáng Sinh luôn đồng hành cũng bà con giáo dân nơi đây để họ có thể làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống đơn sơ, chất phác của mình nơi rừng hoang đồi vắng.
 
Giáng Sinh bác ái đối với 6.000 người Công Giáo của Giáo phận Lạng Sơn
Nguyễn Hoàng Thương
10:22 26/12/2009
Giáng Sinh bác ái đối với 6.000 người Công Giáo của Giáo phận Lạng Sơn

Lạng Sơn (AsiaNews) - Những ngày trước Giáng Sinh đối với 6.000 người Công Giáo sống trong giáo phận rộng lớn Lạng Sơn là thời điểm của sự tương trợ lẫn nhau và giúp đỡ người nghèo cùng người trẻ. Những việc đó bao gồm việc tặng sách và trao học bổng cho sinh viên nghèo cũng như gạo, quần áo, thuốc men, nước uống và mùng màn cho người nghèo.

Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, Giám Mục của Lạng Sơn, là người dẫn dắt cộng đoàn này từ năm 2007. Ngài và 13 linh mục giáo phận, sáu nhà truyền giáo từ bốn dòng tu khác nhau và 28 nữ tu đã đi khắp giáo phận trải rộng 25.000 km2 và bao trùm ba tỉnh để tiếp cận giáo dân của mình. Có khoảng 1,5 triệu người sống ở đây, đa số là người dân tộc thiểu số nghèo (Kinh, Tày, Nùng, Thái, Thổ, Mèo, Dao, Nhắng) được gọi là người Thượng.

Khi sắp đến Giáng Sinh, các hoạt động truyền giáo tại Lạng Sơn có nghĩa là những hoạt động nhỏ của công việc bác ái thường nhật dành cho tất cả mọi người. Kể cả 246 người Công Giáo trên địa bàn tỉnh Hà Giang, cách Tòa Giám Mục Lạng Sơn 400 cây số.

Sau nhiều năm chiến tranh và bị chính quyền đàn áp, những người đi trước có thể trải nghiệm mùa Vọng hôm nay với niềm hy vọng canh tân, được khuyến khích bởi viễn tượng của cộng đoàn nhỏ nhưng ngày càng phát triển của họ.

Đối với người Công Giáo ở Hà Giang cũng như những người sống rải rác tại các tỉnh giáp biên giới với Trung Quốc, Giáng Sinh có nghĩa là nhận được sự giúp đỡ từ cộng đoàn lớn và từ các giáo sĩ.

Cách đây không lâu, Caritas giáo phận đã bắt đầu các dự án nhỏ để giúp tất cả các tín hữu, không chỉ những người trong ở các vùng xa xôi hơn. Dự án gồm việc gửi thuốc men tới các trung tâm y tế cũng như đào giếng để đưa nước đến cho cư dân, nếu không họ sẽ phải đi 15 km mới kiếm được nước. Giáo Hội cũng đã đưa ra sáng kiến tín dụng nhỏ cho phép người dân mua trâu, bò, gà hoặc dê để cải thiện kinh tế địa phương.

Đức Cha Giuse cho hay: "Mùa Vọng mang đến ý nghĩ về một điều gì đó đang đến, Thiên Chúa ngự đến trong tâm điểm của đời sống chúng ta, đến để ở giữa chúng ta và chấm dứt nỗi đau đớn nơi chúng ta".

Đây là lý do tại sao việc giúp đỡ người nghèo của giáo phận càng được tăng cường khi Giáng Sinh cận kề. Mùng màn, quần áo mới, sách vở là những món quà nhỏ nhưng đối với một số người, chúng là thứ duy nhất mà họ có được. Đức Cha Giuse cũng cho biết họ nhớ rằng Giáng Sinh đang đến: "mọi người phải hân hoan vì chỉ khi dự phần vào niềm vui này họ mới có thể khám phá ơn phúc tột bật của sáng tạo".
 
Thánh lễ Giáng Sinh 2009 tại Đảo Cát Bà Giáo Phận Hải Phòng
Mai Đức Lợi
10:23 26/12/2009
HẢI PHÒNG - Đảo cát Bà thuộc Thị trấn Cát Bà Huyện Cát Hải thành Phố Hải Phòng, hòn đảo này rộng 100km2 cách Hải Phòng 30 hải lý, đây là một hòn đảo du lịch, vì có rừng, bãi tắm, vườn sinh thái quốc gia, người dân nơi đây sinh sống chủ yếu là dịch vụ du lịch và đánh bắt hải sản.

Năm nay Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên đã cử Cha Gioan Baotixita Vũ Văn Kiện thành viên của Ban Di dân của Giáo Phận dâng lễ Giáng Sinh cho cộng đoàn tín hữu nơi đây.

Cha Kiện đã dâng Thánh lễ Giáng sinh tại nhà hàng, vì nơi đây chưa có Nhà thờ, số người dự lễ khoảng hơn 400 người, trong đó có khá đông số giáo dân di dân vùng Miền trung đến đây làm nghề đánh bắt hải sản.

Trước Thánh lễ, có chương trình ca Mừng Chúa Giáng Sinh với những những tiết mục biểu diễn của ca đoàn và các em Thiếu nhi Giáo Xứ An Hải thực hiện, sau đó là phần Canh thức Giáng sinh và Thánh Lễ mừng Chúa giáng Sinh.

Trong bài giảng lễ, Cha Kiện đã chia sẻ về hai chữ trật tự. Khởi đầu khi tạo dựng nên vũ trụ, vạn vật và con người Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự có trật tự, nhưng Nguyên Tổ đã làm đảo lộn trật tự mà Thiên Chúa sắp đặt nên con người đã mất trật tự trong đời sống cá nhân, gia đình, tập thể, giao thông, môi sinh……Ngôi Hai Thiên Chúa đến làm Người để tái lập lại trật tự đó. Ngài nói: Ta là Đường, Sự Thật và là Sự Sống, ai đi theo con Đường của Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người, người đó đi theo đúng trật tự. Hôm nay trước máng cỏ Hài Nhi Giêsu, mỗi người hãy kiểm thảo đời sống của mình xem chúng ta có làm mất trật tự trong đời sống cá nhân, cộng đoàn và vạn vật không? Hãy điều chỉnh lại đời sống cá nhân, cộng đoàn bằng ánh sáng Lời Chúa, ánh sáng của mầu nhiệm Giáng Sinh.

Lạy Chúa, xin ban cho cộng đoàn đức tin còn hoang sơ tại Đảo Cát Bà này ngày một lớn mạnh hơn, xin cho nơi hòn đảo du lịch này sớm có được một ngôi nhà thờ để mọi người nơi đây có nơi thực hành đức tin của mình.
 
Một mùa Giáng sinh ngập tràn lửa tình yêu tại Giáo xứ Chính toà – Giáo phận Thanh Hoá
Ủy Ban Văn Hóa Giáo Phận
10:38 26/12/2009
Một mùa Giáng sinh ngập tràn lửa tình yêu tại Giáo xứ Chính toà – Giáo phận Thanh Hoá

Ông già vũ, ông già ca, ông già tặng quà. Ông già béo, ông già gầy, ông già nhí, ông già có râu. Ông già quay phim, ông già lái xe, lại có cả “ông già Isave”...đó là đội hình của gần 40 ông già Noel giáo xứ Chính Toà (GP. Thanh Hoá) trong mùa Giáng Sinh 2009. Không quản ngại đường sá xa xôi, cả cái giá lạnh mùa đông đang khía vào da thịt, những ngày qua các ông già Noel đã đi đến từng ngôi làng, từng góc phố xa xôi nhất để thăm hỏi bà con Giáo dân, đồng thời trao tặng những phần quà nhân ái đến tận tay các cụ già neo đơn, các em thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn với tình yêu và lòng mến Chúa Hài Đồng.

Xem hình xin bấm vào đây

Nằm trong khuôn khổ những hoạt động sôi nổi của Tuần văn hoá, mừng chúa Giáng Sinh 2009, những ngày qua tại Giáo xứ Chính Toà đã diễn ra nhiều hoạt động ý nghĩa xét trên nhiều phương diện, đặc biệt là phương diện tâm linh và văn hoá đời sống.

Sau nhiều ngày tích cực chuẩn bị, BTC và những nghệ nhân khéo tay được mời đến từ nhiều địa phương khác nhau đã cho ra mắt một khung cảnh tuyệt đẹp, trước sự ngỡ ngàng và thán phục của những người đến chung chia niềm vui ngày lễ Noel năm nay.

Phong cách trang trí Noel của Giáo xứ Chính toà năm 2009 mang âm hưởng của những bức tranh thuỷ mặc. Không quá cầu kỳ mà thiên về điểm nhấn và chấm phá để rồi tạo sự hứng khởi trong suy tư và kích thích trí tò mò đi tìm nguồn cội của công cuộc nhập thể làm người của Đức Giêsu Ki tô.

Hình ảnh ngôi nhà Rông được gợi hứng từ nguyên mẫu căn nhà chung của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã cho thấy ý đồ rõ ràng của nhà thiết kế. Ngôi nhà Rông chính là biểu tượng cho sự thống nhất, đoàn kết trong tình yêu của Đức Kitô và Giáo hội hoàn vũ. Hơn thế nó còn chứng tỏ cho mọi người nhất là những bạn trẻ lương dân một thông điệp, rằng Đạo Công giáo luôn ở giữa lòng nước Việt, Đạo công giáo muốn sống hoà nhập với tất cả mọi thành phần dân tộc. Họ sống chung và sống cho những kiếp mọn hèn. “Tôi đã bị cuốn hút vào dòng chảy lịch sử của các bạn. Phong cách bài trí của Nhà thờ vừa mang màu sắc truyền thống nhưng vẫn giàu tính sáng tạo và rất chuyên nghiệp”, anh Trần Vi Lượng, một thầy giáo người ngoại đạo đi xem đêm Noel nhận xét.

Không chỉ dừng lại ở hoạt động trang trí bề ngoài, những ngày qua, hàng ngàn người dân từ khắp nội, ngoại thành TP. Thanh Hoá không phân biệt lương giáo đã tập trung về sân khấu tại Nhà thờ Chính Toà Thanh Hoá để được chìm đắm trong những đêm nhạc. Những tiết mục hợp ca, hợp xướng của trên 450 ca sỹ, nghệ sỹ không chuyên đến từ 11 giáo xứ trong Giáo phận, cùng phong cách biểu diễn chuyên nghiệp thực sự của các ca sỹ, nghệ sỹ đến từ TP. Hải Phòng, Hà Nội và Đoàn nghệ thuật Quân Khu III (đêm 22/12) đã để lại một ấn tượng sâu sắc cho người xem về nền âm nhạc chất lượng cao và đào tạo khá bài bản của đạo Công giáo. Đến với những đêm nhạc này người xem còn lĩnh hội thêm nhiều kiến thức về nền âm nhạc nhân loại, bởi lịch sử nhân loại đã từng ghi nhận những thiên tài âm nhạc như Mô da, Bethoven...vốn nổi danh từ những bản hợp xướng lấy cảm hứng từ Thánh Kinh của người Công giáo.

Diễn tiến những ngày lễ Giáng Sinh tại giáo xứ Chính Toà còn được nhiều du khách thăm quan đánh giá như cung bậc của những bản nhạc, có nốt thăng, nốt giáng hài hoà. Sau những đêm hội âm nhạc là đêm rước chúa Hài đồng diễu hành quanh khuôn viên phạm vi nhà thờ Chính Toà với hàng chục chiếc xe hoa được trang hoàng lộng lẫy rước tượng chúa Hài đồng, các thiên thần và ông già Noel...

Hoạt động cuối cùng trong chuỗi sự kiện mừng chúa Giáng Sinh tại giáo xứ Chính Toà Thanh Hoá được mang tên “hơi ấm ông già Noel”.

Ngày chính lễ Giáng Sinh 25/12, trên 40 ông già Noel do Cha Jos. Phạm Văn Quế làm trưởng đoàn, với tiếng hát và nụ cười nở tràn trên môi cùng những gói quà nặng trĩu đôi vai, họ đã đi để chia lửa tình yêu, để cùng hát với những trẻ thơ, với các cụ già trong ngày Chúa Giáng Sinh. Với mong muốn xoa dịu cuộc đời cơ cực đang hằn lên gương mặt của những mảnh đời cô lẻ.

Mỗi năm, cứ dịp lễ Giáng sinh Giáo xứ lại tổ chức đi thăm hỏi và tặng quà cho người nghèo. Năm 2009 cũng không là ngoại lệ, có điều, đoàn ông già Noel năm nay đông hơn, vui hơn bởi sự góp mặt của các bà mẹ hiếm muộn trong “Hội Isave” của Giáo xứ. Họ đã hát ca và nhảy múa rất nhiều trong suốt cuộc hành trình, bởi tình yêu Thiên Chúa đang “tiếp lửa” cho họ, hơn ai hết họ cảm nhận được sự sống của các “hài nhi đang nhảy mừng trong dạ”. Đó là thông điệp tình yêu vô giá mà Thiên Chúa đã tặng ban cho lòng tin mà họ dành trọn nơi Ngài.

Những hoạt động chào mừng ngày hội Chúa Giáng Sinh rồi cũng sẽ qua đi, nhưng dư âm của ngày lễ Noel vẫn còn đọng lại trong tâm trí nhiều lớp người, từ cụ già đến trẻ thơ, những bạn trẻ nam thanh nữ tú và không ít người đến từ tôn giáo bạn. Dù đến từ đâu hay vì bất cứ lý do gì nhưng tất cả mọi người đều chung một tâm trạng hân hoan và niềm tin như tình yêu của Thượng Đế đang nhen lửa cho cuộc sống của mỗi người hôm nay và mãi mãi./.
 
Hình ảnh đêm mừng đại lễ Giáng Sinh tại giáo xứ Bắc Giang, giáo phận Bắc Ninh, Việt Nam.
Nguyễn Xuân Trường
11:00 26/12/2009
BẮC NINH - Chương trình đêm lễ từ 8g tối đến 12g đêm, gồm 3 phần: Hoan ca mừng Chúa Giáng Sinh, Diễn nguyện mừng Chúa Giáng Sinh và Thánh lễ Đêm Giáng Sinh.

Hình ảnh mừng Chúa Giáng Sinh

Thời tiết đêm lễ thật đẹp không nóng, không mưa, không giá rét, chỉ hơi se lạnh. Ngoài khoảng gần 2000 người Công giáo tham dự đêm lễ, có tới hơn chục ngàn người không Công giáo đến xem và thưởng thức bầu khí lễ Giáng Sinh, trong số ấy có khoảng 3 ngàn người tham dự trọn vẹn cả 3 phần của đêm lễ. Cũng có hàng ngàn người không Công giáo vào nhà thờ chiêm ngưỡng hang đá Belem và thầm cầu xin Chúa Giêsu ban cho điều tốt lành. Ban tổ chức đã phân phát cho họ hàng ngàn tờ bướm nói về ý nghĩa lễ Giáng Sinh và hang đá Belem.

Giáng Sinh đã trở thành lễ thánh và lễ hội của mọi người.

Tuy đông người như thế, nhưng an ninh trật tự rất tốt. Có thể nói đêm lễ Giáng Sinh diễn ra trong cảnh thiên thời, địa lợi và nhân hòa.

Xin Chúa Giêsu Giáng Sinh chúc lành cho tất cả chúng ta.
 
Giáo Xứ Chúa Kitô Vua Ở Fort Worth mừng Chúa Giáng Sinh 2009
Clara Nguyễn Diễm Trang
11:05 26/12/2009
FORT WORTH - Như để chia sẻ với cái băng giá của Bêlem, năm nay giáo xứ Chúa Kitô Vua Fort Worth - Texas đón Chúa Giáng Sinh giữa đêm tuyết rơi trắng xóa. Đường đi đến giáo đường có khó khăn hơn nhưng không vì thế mà ngăn cản bước chân của những trái tim đang thổn thức mong chờ Chúa đến…

Hình ảnh mừng lễ Giáng Sinh

Tuy chỉ dời lại mười lăm phút trễ hơn, mọi nghi thức vẫn diễn ra theo chương trình đã định. Mở đầu là ba Ca Đoàn trình diễn những bài Thánh Ca về Giáng Sinh thật vui tươi và tâm tình. Tiếp theo các em Thiếu nhi Thánh Thể diễn hoạt cảnh Niểm Vui Ơn Cứu Độ thật xuất sắc đã dẫn dắt cộng đoàn sống lại mầu nhiệm Con Chúa làm người. Và rồi “Tiếng Hát Thiên Thần” của Ca Đoàn Phanxicô vang lên đã chính thức báo tin Con Chúa ra đời trong đêm trừ tịch thiêng liêng “Gloria… in ex-cel-sis Deo… Vinh danh Thiên Chúa trên trời…”

Thánh Lễ bắt đầu lúc 9g30 tối do Cha Chánh Xứ Louis Phạm Hữu Độ và Cha Phó Marcô Lê Tiến Hóa cùng đồng tế. Trong bài giảng, Cha Chánh Xứ đã nhắc nhở cộng đoàn ý thức Lễ Giáng Sinh mang một sứ điệp từ Trời cao: “Vinh danh Thiên Chúa trên Trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Chúa Hài Nhi làm nên Lễ Giáng Sinh và làm rạng nét vinh quang của Chúa Cha. Ngài còn mang Bình An từ Trời Cao đến cho nhân loại như là quà tặng của Thiên Chúa. Đêm nay, tâm hồn chúng ta có mở rộng để đón lấy Bình An từ Trời Cao không? Chúng ta đừng khóa lòng mình lại bằng tội lỗi, tính mê nết xấu, và sự thờ ơ với những nỗi thống khổ của tha nhân chung quanh ta. Hạnh phúc chỉ có được khi tâm hồn chúng ta thật sự Bình An. Vì thế, hãy mở rộng tâm hồn để đón Chúa Hài Đồng là nguồn bình an và hạnh phúc vô tận…

“Lạy Chúa Hài Nhi, Chúa đã đến đem sự Bình An. Xin cho chúng con biết mở cánh cửa thiện tâm, thiện chí để đón nhận Ơn Cứu Độ và Bình An của Chúa trong đêm nay và trong suốt đời con”

… Thánh Lễ kết thúc trong niềm hân hoan và ấm áp của những tâm hồn đi tìm kiếm bình an và hạnh phúc mặc dù bên ngoài tuyết trắng vẫn đang rơi…
 
Giáo hạt Cửa Lò mừng Lễ Chúa Giáng Sinh
Cảnh Hồng
11:11 26/12/2009
VINH - Hoà chung với đất trời trời vũ trũ, và toàn thể giáo hội hoàn vũ, cách riêng là giáo xứ Tân Lộc, hạt Cửa Lò hân hoan mừng Chúa Giáng Sinh 2009. năm nay thời tiết thật thuận lợi, trước mấy ngày áp lễ, tiết trời trở nên rét đậm, trời không mưa, không nắng cái lạnh thấu xương, thật là đặc biệt, thế mới đúng là thời tiết của Noel, tuy rét nhưng ai nấy đều cám ơn Thiên Chúa. Tôi có người bạn ở Pháp mail về cho biết thời tiết bên trời tây rất lạnh xuống dưới 10oC, tuyết rơi nhiều và hỏi thăm về tinh thần bà con ta đón lễ.

Hình ảnh mừng Chúa Giáng Sinh

Mấy ngày trước lễ không khí tưng bừng đón Chúa Giáng Sinh khắp toàn giáo hạt thật vui nhộn, nhất là nhà nhà lo trang hoàng đèn ngôi sao, đèn sao chỉ, nhất là cây thông Noel, riêng các giáo xứ trong giáo hạt Cửa Lò nếu chúng ta đi một vòng từ giáo xứ Làng Anh, Lập Thạch, Lộc Mỹ và về tân Lộc Cửa Lò thì thật là đẹp, những đèn ông sao, đèn sao chỉ muôn kiểu muôn màu chăng khắp trên các trục đường to nhỏ, dọc các lối trên các đường làng chăng nhít toàn đèn hoa, ngôi sao năm cánh, sao chỉ điện nhấp nháy, cờ vàng trắng bay phất phới trước cổng vào của mỗi nhà, ông trưởng ban hành giáo xứ Tân Lộc cho chúng tôi biết, Ông và các Ông trong Ban Bác ái giáo họ, giáo xứ mới đi thăm và tặng quà nhân dịp mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho một số anh chị em lương giáo thiếu may mắn trong xứ, Ông cho biết thêm, năm nay tinh thần giáo dân rất hồ hởi hăng say tự giác, mỗi nhà làm hai đèn ngôi sao, hay sao chỉ, một treo tại nhà mình, một treo tại khuôn viên nhà thờ, mỗi nhà còn may một cây cờ vàng trắng treo tại nhà mình. Ra là thế! chẳng trách gì năm nay đèn ngôi sao và đèn sao chỉ nhiều quá trời. Cảnh về đêm các loại đèn được thắp sáng lên thật tuyệt đẹp làm sao? Bóng điện đủ màu sắc nhấp nháy liên hồi. Tất cả toàn giáo xứ, giáo hạt sáng rực một làng hoa bằng ánh sáng điện của các loại đèn. khoảng 18h30’ ngày 24, các con đường của Giáo xứ Tân Lộc người đi lại mỗi về đêm càng đông đúc, nhất là trước sân tiền nhà thờ, tối nay giáo xứ tổ chức đêm diễn nguyện và rước Chúa Hài Đồng, khoảng 19h15 đêm diễn nguyện khai mạc, sau lời khai mạc của Cha Martinô Nguyễn Xuân Hoàng là một bài tấu của đội nhạc hơi toàn chị em phụ nữ của giáo xứ, sau đó là tiết mục Ông già Noel của Ban văn hoá giáo xứ biểu diễn, các tiết mục của anh chị em Sinh viên Công giáo trường du lịch cao đẳng kinh tế thị xã Cửa Lò đem đến bằng bài múa “ Hân hoan chào mừng Noel” thật vui đẹp, nhất là các trò ảo thuật làm mọi người tấm tắc khen ngợi và các tràng pháo tay luôn vang dội chúc mừng, các giáo họ Tân Lộc, Mai Lĩnh, Đức Xuân lần lượt biểu diễn những bài múa, hoạt cảnh về chủ đề Noel. Một đêm diễn nguyện canh thức mừng Chúa Giáng Sinh thật trang nghiêm tốt đẹp, đêm diễn nguyện đã làm cho lòng mỗi người được an bình hạnh phúc và tri ân.

Cuộc rước được cung nghênh kiệu Chúa Hài Đồng một vòng chung quanh phía ngoài nhà thờ, thánh lễ vào klhoảng 23h diễn ra trong sự tôn nghiêm sốt mến. Sáng ngày 25, thánh lễ càng đông đảo, hơn 5000 giáo dân trong giáo xứ tham dự thánh lễ.

Tối ngày 25 chúng tôi đi tham quan một vòng các giáo xứ như Làng Anh, Lộc Mỹ và dừng chân tại giáo xứ Lập Thạch, Cha Phaolô Nguyễn Xuân Tính tiếp chúng tôi, chưa ngồi ấm chỗ Ngài giới thiệu và dẫn chúng tôi ra hai hồ cá lớn của giáo họ Lập thạch, hai hồ thật lớn, diện tích lên đến hơn 50.000m2, hai hồ cá này hàng năm đem lại cho nguồn quỵ của giáo xứ hàng trăm triệu đồng, chúng tôi được biết tại hai hồ lớn này thường được dùng vào những dịp lễ lớn cho các cuộc giao lưu của giáo xứ, như hái hoa dân chủ, thả đèn hoa đăng v v. Tối qua 24 cũng tại hai hồ lớn này đêm canh thức diễn nguyện được Cha quản xứ tổ chức tại đây, các hang đá được kết bè làm nỗi giữa hồ, đường ra hang đá là các chiếc cầu phao tạm. Đêm về đèn điện các màu huyền ảo nhấp nháy khắp nơi kết thành các biểu tượng thật huyền ảo và hoành tráng, Cha Phaolô cho biết sau giờ diễn nguyện và hái hoa dân chủ là cuộc rước Chúa Hài Đồng được cung nghênh từ hồ lớn về nhà thờ xứ để tổ chức dâng thánh lễ nửa đêm, tuy không được chiêm ngưỡng đêm giáng sinh tại xứ Lập Thạch, nhưng qua lời tường thuật của Cha quản xứ chúng tôi cứ tiêng tiếc thế nào ấy. Nhưng rồi cũng được đền bù vì tối nay Cha tổ chức đốt lửa trại vui chơi cho toàn thể các lớp giáo lý từ khối Sơ Cấp đến Tiền Hôn Nhân, chúng tôi được mời ra sân bóng của giáo xứ giữa lúc đang chiêm ngưỡng cây thông Noel bằng điện cao gần 20m trong khuôn viên thánh đường. Sân bóng giáo xứ được một lớp cỏ mềm mại như tấm thảm lớn bao phủ lên toàn sân, một sân bóng thật rộng với diện tích hơn 12.000m2, chung quanh sân bóng là 18 hang đá được chăng bằng điện đủ màu của các lớp giáo lý làm nổi bật một sân bóng đẹp lạ kỳ. Các em thiếu niên, nhi đồng và bà con giáo dân sau giờ chầu Thánh Thể đã tập trung đông đủ, Ông Chủ Tịch HĐ Mục vụ giáo xứ nói lời khai mạc, chúng tôi được Cha sung vào đội giám khảo để đi chấm từng hang đá một, Ban giám khảo đi đến từng hang đá và đưa ra câu hỏi để đại diễn trả lời, thật là đầy ý nghĩa mỗi hang đá là một đề tài sáng tác của tập thể lớp và giáo lý viên. Ban giám khảo đi một vòng cả 18 hang đá giống như 18 trại được bao bọc quanh sân bóng. Sau giờ đi các trại là đốt lửa trại, mỗi người vây quanh đống củi lớn và được Cha cầm lửa sáng đến châm, ngọn lửa cháy bừng cao gất trong đêm làm sáng rực cả một góc trời, thật là vui và hoành tráng, các lớp giáo lý bắt đầu vây quanh đống lửa hát vang những ca khúc về Thiên Chúa, về giáng sinh, cầm tay nhau nối vòng tay lớn v v.

Trời về khuya cái giá lạnh càng bao trùm lên sân bóng, nhưng ai nấy đều thấy ấm áp bởi ngọn lửa mỗi lúc một to cao rừng rực bốc cháy, và những bản nhạc, những bài ca cùng với tuổi trẻ các lớp giáo lý cứ quấn qúyt nhau nhảy múa mãi không thôi.

Thật cám ơn Chúa Hài Đồng đã sinh ra trong đêm cực thánh này, Ngài đã đem ơn cứu chuộc đến cho mọi nhà, mọi người, mọi nơi và mọi thời, Ngài là Chúa sự bình an như lời Thiên Sứ ca tụng trong đêm giáng sinh.
 
Đêm thánh ca giáo phận Thái Bình
Trường Giang
14:46 26/12/2009
THÁI BÌNH - Đêm qua 25/12/2009, tại khuôn viên Tòa Giám Mục Thái Bình diễn ra đêm Thánh Ca mừng Chúa Giáng Sinh, có sự hiện diện của Đức Giám mục Thái Bình, cha G.B. Nguyễn Sơn Hải, chánh xứ Đồng Quan, cha Philíp Nguyễn Văn Hoàng (phó xứ Truyền Tin), cùng với sự tham gia của các ca viên, các em thiếu nhi Thánh Thể thuộc giáo xứ Chính Tòa, Đồng Quan, Cổ Việt và các bạn sinh viên Công Giáo Thái Bình, đây là lần đầu tiên nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng quý khán thính giả.

Do sáng kiến của Đức cha giáo phận, ngài muốn nâng cao phong trào Thánh nhạc trong phụng vụ giáo phận. Tòa giám mục đứng ra tổ chức, thành phần tham dự là các ca đoàn toàn giáo phận, mỗi ca đoàn có số ca viên từ 50 người trở lên tham gia một tiết mục (một bài hợp xướng). Lần đầu tiên tổ chức, các ca đoàn xem ra còn bỡ ngỡ, đắn đo, và cũng có thể vì lý do nhiều anh chị em đi làm xa, cho nên các ca đoàn hiện nay số ca viên còn lại phục vụ tại xứ sở rất ít.

Trong đêm diễn, tuy có ít ca đoàn tham gia, nhưng phần nào đã gây một tiếng vang trong toàn giáo phận, làm tiền đề nền tảng cho các lần tổ chức tới, và cũng là để các ca đoàn, các ca viên phấn đấu và trau dồi nhiều hơn nữa về chuyên môn; cũng là để cho người dân quê lúa Thái Bình tăng thêm nghệ thuật thưởng thức những ca khúc hợp xướng có tính quy mô. Anh Micae Huynh ở giáo họ Rồi Công Tây, xứ Cao Mộc đang học tập ở thành phố Thái Bình tới dự, cảm nhận nét tinh túy của hợp xướng, trong bài “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” của cố nhạc sĩ Hải Linh, do ca đoàn giáo xứ Đồng quan thể hiện đã trầm trồ khen ngợi “con chưa được nghe hợp xướng những bài nhạc Công Giáo bao giờ, ôi tuyệt vời quá!”. Đây là tiết mục đặc sắc nhất trong đêm diễn, từ người điều khiển đến anh chị em ca viên đã thổi hồn cho nhạc phẩm một sự rung cảm trong lòng người nghe.

Xen kẽ các tiết mục hát thánh ca còn có quay số trúng thưởng, đã làm cho sân khấu nóng lên cùng với những ánh đèn pha đủ màu sắc. Trong phần khai mạc và kết thúc buổi giao lưu, Đức cha giáo phận cổ võ, động viên tinh thần các anh chị em ca viên toàn giáo phận hãy cố gắng phát huy phong trào này, nhằm xây dựng nền thánh nhạc giáo phận Thái Bình ngày một quy mô và phát triển tốt hơn về phẩm cũng như lượng. Đồng thời Đức cha hi vọng những lần tổ chức tới đây sẽ có nhiều ca đoàn tham gia và sẽ đóng góp nhiều tiết mục đặc sắc hơn nữa.
 
Tiệc Gây Quỹ giúp nạn Nhân Bão Lụt Việt Nam 2009 tại Houston
VP Liên Đoàn
14:54 26/12/2009
HOUSTON -chiều ngày 23/12/09 vừa qua, tại nhà hàng Kim Sơn, một bữa Văn Nghệ mừng Chúa Giáng Sinh, đồng thời gây quỹ giúp cho đồng bào bão lụt VN, đã được diễn ra, do các Linh Mục, nam nữ Tu Sĩ VN đang du học tại nhiều nơi trên Hoa Kỳ thực hiện.

Hình ảnh đêm diễn nguyện>/a>

Chương trình đã được nhiều giáo xứ, cộng đồng CGVN yểm trợ. Rất đông người đã đến tham dự và hứng thú theo dõi buổi văn nghệ với nhiều sáng tạo độc đáo, và đầy sự thánh thiện, do chính các Cha, Tu Sĩ nam nữ du học trình diễn.

Chúng tôi nhận thấy có sự hiện diện của Đức Cha Dominic Mai Thanh Lương, Giám Mục phụ tá Giáo Phận Orange, CA, LM Giuse Nguyễn Thanh Liêm, Chủ Tịch Liên Đoàn CGVN tại Hoa Kỳ, LM. Vũ Thành, Chủ Tịch Cộng Đồng CGVN tại Houston và là Chánh Xứ Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo VN, cùng đông đảo quý Cha, thầy Sáu, tu sĩ nam nữ các nhà dòng, cũng như chức sắc chính quyền địa phương ở Houston và rất nhiều đồng bào đến tham dự.

Buổi tiệc được đánh giá thành công hết sức tốt đẹp, chính là nhờ sự tiếp tay của quý Linh Mục, nam nữ Tu Sĩ du học, của Cha Joseph Vũ Thành, tất cả quý Linh Mục, Phó Tế, các nhà Dòng nam nữ tại Houston, cũng như tài khéo léo tổ chức của Trưởng Ban Tổ Chức LM. Phạm Hữu Tâm, Bác Sĩ, Tu Hội Tận Hiến; LM. Uông Quang Lượng, Dòng Chúa Cứu Thế, Tuyên Úy nhóm, Thầy Nguyễn Quốc Bảo, Dòng Tên, người có công tìm kiếm học bỗng giúp đông đảo các Linh Mục, nam nữ tu sĩ sang đây du học. Dĩ nhiên, cũng nhờ sự cộng tác tích cực và nhiệt thành, cũng như sự quảng đại giúp đỡ của đông đảo quý cơ sở thương mại, hội đoàn và ân nhân tại Houston và các nơi nữa.

Cha Chủ Tịch Liên Đoàn, Giuse Nguyễn Thanh Liêm, đã chân thành cám ơn Ban Tổ Chức và mọi người đứng ra tổ chức buổi tiệc này. Cha cũng báo cáo tình trạng bão lụt và nhu cầu cần giúp đỡ ở Việt Nam qua chuyến đi thăm viếng vừa mới đây, cũng như kết quả Liên Đoàn gây quỹ giúp bão lụt trong các tháng vừa qua. Mọi người đã hân hoan với tin vui đó, mặc dù, sự đóng góp không là bao, so với nhu cầu giúp đỡ quá bao la tại VN, nhưng cũng nói lên tấm lòng yêu mến quê hương, và nạn nhân bão lụt đang hứng chịu nhiều đau khổ tại Việt Nam của đồng bào sống tại Hoa Kỳ.

Được biết, tiền thu được sau khi khấu trừ các chi phí cho nhà hàng, âm thanh, tổ chức văn nghệ, Ban Tổ Chức sẽ gởi số tiền còn lại về Liên Đoàn CGVN tại Hoa Kỳ, để Liên Đoàn gởi về cho Ủy Ban Bác Ái Xã Hội Việt Nam của HĐGM Việt Nam, giúp phân phối và trợ giúp cho các nạn nhân bão lụt ở Việt Nam.

Cũng được biết, hiện nay có hơn 70 Linh Mục, nam nữ Tu Sĩ từ nhiều Giáo Phận ở Việt Nam đang du học ở nhiều tiểu bang khác nhau. Chương trình này do Thầy Nguyễn Quốc Bảo trách nhiệm tìm kiếm học bỗng từ nhiều năm qua giúp cho Giáo Hội Việt Nam.
 
Thánh lễ đại triều mừng Chúa Giáng Sinh tại TGP Huế
Trương Trí
22:34 26/12/2009
HUẾ - Sau một đêm hân hoan và tưng bừng nhộn nhịp đón mừng Chúa Hài đồng, sáng ngày 25, tại nhà thờ chính tòa Phủ cam, Đức Tổng Giám mục giáo phận Stêphanô Nguyễn như Thể đã dâng thánh lễ mừng Chúa Giáng sinh, cùng đồng tế có Đức Giám mục phụ tá Phanxicô xaviê Lê văn Hồng cùng các linh mục thuộc hạt thành phố, tham dự thánh lễ đại triều có đông đủ tu sĩ nam nữ trong giáo phận, đại diện các giáo xứ.

Hình ảnh Lễ Giáng Sinh tại Phủ Cam Huế

Đoàn rước Đức Tổng Giám mục chủ sự và đoàn đồng tế từ công trường Thánh Giuse tiến vào nhà thờ, đi đầu là Thánh giá đèn hầu và các hội đoàn trong đồng phục trang trọng, giữa tiếng kèn chào mừng vang dội của đội kèn giáo xứ chính tòa Phủ cam.

Mở đầu thánh lễ, Đức Tổng Giám mục đã nói: lễ Giáng sinh đã xen vào trong đời sống xã hội, trong các cơ quan, trong các trường học, trong các nhà hàng, trong tầng lớp trí thức, buôn bán, thợ thuyền và người lao động. Khắp nơi, mọi người ai cũng vui mừng chờ dón lễ Giáng sinh chứ không riêng gì người công giáo. Khắp các nẻo đường đều chen kín người và người cùng xe cộ, nhất là trong thời tiết nắng ấm như năm nay. Trong thánh lễ này, cộng đoàn tham dự đông đảo đến mức chật kín trên các tầng lầu cũng như ngoài hành lang, đứng tràn ra cả ngoài sân. Tuy vậy, buổi lễ vẫn diễn ra thật sốt sắng đầy trang nghiêm.

Cũng trong thánh lễ này Đức Tổng đã nhắc đến sự kiện giáo phận sễ tổ chức lễ bế mạc Năm Thánh tại Thánh Địa LaVang vào ngày 6.1.2011. Hội đồng Giám mục Việt nam, cách riêng giáo phận Huế đang ráo riết chuẩn bị cho ngày đại lễ chắc chắn sẽ có rất đông người tham dự. Đức Tổng cũng chính thức thông báo cho cộng đoàn việc chính quyền tỉnh Quảng trị đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Trung tâm Thánh mẫu toàn quốc LaVang, gồm hơn 19 hecta, cụ thể là 190.100m2. Phần diện tích còn lại khoảng 4hecta, chính quyền tỉnh Quảng trị đã thống nhất sẽ trồng cây xanh, đồng thời nhà nước cũng sẽ hổ trợ để làm 4 con đường vào Thánh địa LaVang, tránh ùn tắc giao thông.

Cuối thánh lễ, Đức Tổng Giám mục đã ban phép lành Tòa Thánh cho mọi người hiện diện. Ông Nguyễn Đình Lục, đại diện giáo xứ chính tòa và cộng đoàn dân Chúa nói lời tri ân Đức Tổng và chúc mừng Ngài nhân lễ Thánh Stêphanô tử đạo tiên khởi, bổn mạng của Đức Tổng vào ngày 26.12. Các em thiếu nhi giáo xứ chính tòa đã lên tặng hoa và chúc mừng Đức Tổng, Đức Giám mục phụ tá và các linh mục đồng tế, đồng thời biểu diển những tiết mục ca múa mừng Chúa Giáng sinh trong vui mừng của năm Thánh giáo hội Việt nam.
 
Thánh lễ tạ ơn của 14 tân Linh Mục tại nhà thờ chính tòa Hà Nội
Giuse Trần Ngọc Huấn
22:36 26/12/2009
HÀ NỘI - Vào lúc 9h00 sáng ngày 27 tháng 12 năm 2009, Chúa nhật lễ kính Thánh Gia Thất, 14 tân linh mục của Tổng Giáo phận Hà nội đã quy tụ về nhà thờ chính tòa để cử hành thánh lễ tạ ơn.

Hiệp thông trong thánh lễ có sự hiện diện của Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt, Đức Cha Lôrensô Chu Văn Minh, quý ông bà cố của các tân chức và đông đảo mọi thành phần dân Chúa.

Bước vào thánh lễ, Cha Antôn Trần Duy Lương – chính xứ nhà thờ chính tòa – đã vui mừng giới thiệu 14 tân linh mục với cộng đoàn phụng vụ. Mọi người cùng hân hoan chúc mừng các tân chức và tham dự thánh lễ cách sốt sắng để cùng với các tân chức cảm tạ ngợi khen Thiên Chúa, cầu nguyện cho chặng đường mục vụ sắp tới của các ngài.

Tân linh mục Phêrô Lại Quang Trung chủ sự thánh lễ. Ngài mời gọi cộng đoàn phụng vụ cùng tạ ơn Chúa với các tân chức và cách riêng cầu nguyện cho các đấng bậc tiền nhân trong giáo phận: các Đức cố Hồng y, Giám mục, linh mục và mọi thành phần dân chúa.

Trong phần chia sẻ Tin Mừng, Đức Cha Lôrensô Chu Văn Minh đã quảng diễn về những hồng ân và ơn gọi đặc biệt mà Chúa đã dành riêng cho các tân linh mục hôm nay. Ngài mời gọi mọi người cùng nhìn lại hành trình ơn gọi cuộc đời và khát vọng dâng hiến của các tân chức để phụng sụ Thiên Chúa và phục vụ mọi người. Ngài nhấn mạnh: Linh mục không có gia đình riêng cho mình, không có người nâng khăn sửa gối nhưng tự nguyện, với ơn Chúa, chọn giáo hội làm gia đình thiêng liêng nhưng hết sức gần gũi của mình.

Các tân linh mục được phong chức ngày 22 tháng 12 vừa qua do Đức Tổng Giám mục Giuse chủ sự. Ngày hôm sau, 23 tháng 12, vào lúc 9h30, các tân chức đồng loạt cử hành thánh lễ “mở tay” tại các giáo xứ quê hương. Và ngày hôm nay, 27 tháng 12, các ngài quy tụ về ngôi nhà thờ Mẹ của Tổng Giáo phận để hiệp với bề trên giáo phận và mọi thành phần dân Chúa dâng lễ tạ ơn cách trọng thể.

Với 14 linh mục mới được phong chức, linh mục đoàn của Tổng Giáo phận Hà nội đã lên tới con số 106 vị, phục vụ trong 141 giáo xứ với khoảng 350.000 giáo dân.