Ngày 16-12-2011
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Gia đình Thánh gia
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
00:05 16/12/2011
LỄ THÁNH GIA, năm B
Lc 2, 22 – 40

Hôm nay, Giáo Hội giới thiệu với mọi Gia Đình Công Giáo về Gia Đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Một Gia Đình lý tưởng, gương mẫu mà mọi Gia Đình Công Giáo phải bắt chước noi theo. Gia Đình Thánh Gia đã sống thế nào để nêu gương cho mọi người noi theo, bắt chước ?
Thiên Chúa đã chọn cho Con của Ngài một hình thức thông thường nhất mà bất cứ ai muốn có mặt trên thế giới này đều phải chấp nhận một gia đình. Chúa Giêsu cũng có một gia đình. Mẹ Ngài là Maria và cha của Ngài là thánh Giuse. Thiên Chúa không muốn cho Con của Ngài từ trên trời xuống như một vị tiên giáng trần hay không như một Phù Đổng Thiên Vương vươn vai lớn mạnh, hay như một vị thần trong một câu chuyện thần thoại nào đó. Chúa Giêsu đã được Mẹ Maria cưu mang trong cung lòng trinh khiết của Mẹ do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúa được giáng sinh nơi hang đá máng lừa nghèo nàn vùng Bêlem...Thiên Chúa đã chọn cho Con của Ngài sinh ra trong cảnh khó nghèo để cảm thông với kiếp sống khó nghèo của đa số người.
Thiên Chúa đã ban cho Con của Ngài một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương, tôn trọng và chăm sóc, chăm lo cho nhau. Gia đình Nagiarét là Gia đình lý tưởng vì trên thuận dưới hòa, yêu thương, tôn trọng và đùm bọc nhau. Xét về mặt thiêng liêng, Chúa Giêsu là Chúa, nên Ngài lớn lao và uy quyền hơn Cha Mẹ của Ngài, nhưng trong Gia đình thánh : Chúa Giêsu luôn tôn trọng, yêu thương, vâng lời Cha Mẹ của Ngài. Ngược lại, Mẹ Maria và thánh Giuse luôn yêu thương, tôn trọng Chúa Giêsu. Cả gia đình thánh luôn luôn trên thuận dưới hòa, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Chính vì thế, thánh sử Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp về Thánh Gia như sau : “ Và Ngài đã xuống với ông bà về Nagiarét. Và Ngài hằng tùng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ hết các điều trong lòng bà. Và Đức Giêsu cứ tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dạng, và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta “ ( Lc 2, 51-52 ).
Vâng, gia đình là nền tảng của xã hội và Gia đình cũng là nền tảng của Giáo Hội. Xã hội mà thiếu vắng các gia đình tốt, gia đình lành mạnh thì chắc chắn không thể có xã hội tốt đẹp được. Do đó, cuộc sống của mọi gia đình phải có đạo đức, thánh thiện thì Xã hội và Giáo hội mới tốt đẹp được. Thực tế, trên thế giới có biết bao gia đình tốt đã lưu danh muôn đời và để lại biết bao ấn tượng tốt cho nhân loại, cho mọi người. Tuy nhiên, bên cạnh các gia đình tốt vẫn còn đó đây một số gia đình xấu. Trước một thế giới văn minh, nhiều gia đình đã xuống cấp trầm trọng : nan ly dị, ly thân, trẻ em bụi đời, nạn mại dâm, phá thai, ma túy, sì ke hầu như càng ngày càng gia tăng. Trước thực trạng ấy, việc đào tạo lớp trẻ, và hướng dẫn Giáo lý Hôn nhân cần phải được quan tâm kỹ lưỡng hơn nữa. Đức cố Giáo Hoàng Piô XI đã viết : “ Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình có qui củ và khuôn phép. Những gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao ‘’.
Lễ Thánh Gia hôm nay là một dịp để chúng ta tự vấn xem gia đình chúng ta như thế nào ? Gia Đình Thánh : Chúa Giêsu, Mẹ Maria, thánh Giuse có là mẫu gương sáng ngời cho mỗi gia đình chúng ta không ? Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay số 22 đã viết : » Bằng việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã hợp nhất với mọi thành phần của nhân loại. Ngài đã làm việc với đôi tay con người, suy nghĩ với tâm trí nhân loại, hoạt động bởi sự chọn lựa, đã yêu thương với một trái tim nhân loại. Ngài sinh ra bởi trinh nữ Maria, Ngài đã thực sự là một con người ở giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự ngoại trừ tội lỗi...Ngài đã trình bày cho chúng ta một con đường, và nếu chúng ta đi theo con đường đó, sự sống và cái chết đã được trở nên thánh thiện và mặc cho nó một ý nghĩa mới “.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa cũng có một gia đình để sống những năm tháng ở trần gian này, xin ban cho mọi gia đình Kitô hữu luôn biết noi gương Thánh Gia để mọi gia đình trở nên nhhững gia đình thánh thiện, đạo đức và gương mẫu. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ

1.Tại sao Chúa lại chọn một gia đình để sống ?
2.Gia Đình Thánh là Gia đình thế nào ?
3.Mỗi gia đình chúng ta muốn trở nên tốt phải làm gì ?
4.Thánh Gia gồm những ai ?


 
Cùng Mẹ đón Chúa
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
10:50 16/12/2011
Trong Chúa Nhật thứ II và thứ III Mùa Vọng, chúng ta đã cùng với Gioan chuẩn bị tâm hồn đón Chúa bằng việc dọn đường. Hôm nay, Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi ta cùng với Mẹ Maria chuẩn bị tâm tình và thái độ đón Chúa đến.

- Đón Chúa đến với tâm tình khiêm hạ.

Cho dẫu từ lúc sinh ra đã được ơn vô nhiễm nguyên tội và ơn trinh khiết vẹn tuyền, Mẹ vẫn sống một cuộc đời âm thầm lặng lẽ như bao thôn nữ khác nơi làng quê Nazarét, một làng quê mà Nathanael đã từng bĩu môi: “Từ Nazaret, làm sao có cái gì hay được” (Ga 1,46). Cho dẫu Mẹ được Thiên Chúa đoái thương chọn gọi làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ vẫn một lòng khiêm hạ nhận mình chỉ là một tôi tớ mọn hèn : “Này tôi là tôi tá Chúa” (Lc 1,38). Cho dẫu Mẹ đã được “quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng” (Lc 1,35), Mẹ vẫn cúi đầu dấu ái trước sự uy nghi của sứ thần Thiên Chúa. Không như vua Hêrôđê, không như bao luật sĩ biệt phái Dothái thời bấy giờ, vốn là những người luôn tự mãn tự phụ cho mình là những kẻ thông thạo Kinh Thánh và nắm giữ chân lý trong đạo, Mẹ Maria luôn nhận mình là hư không trước mặt Thiên Chúa để được Thiên Chúa lấp đầy. Tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn rộng mở để cho ân sủng của Thiên Chúa trào tràn. Mẹ đã gặp gỡ Thiên Chúa, Tạo Hoá của mình, mỗi ngày và ngay lúc này đây Mẹ đã sẵn sàng để đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng Mẹ.

Thiên Chúa vẫn thuờng chọn gọi những người có tâm hồn khiêm hạ như thế để phục vụ cho những chương trình lớn lao của Ngài. Một Môsê nhìn nhận mình là một kẻ ngọng ngịu, một Đavít xác nhận mình xuất thân từ một kẻ chăn chiên vô danh tiểu tốt, một Giêrêmia thừa nhận mình chỉ là đứa trẻ không biết ăn nói, một Gioan Tầy Giả thú nhận mình còn bất xứng hơn cả một người tôi tớ của Đấng Cứu Thế, một Phaolô công nhận mình chỉ là đứa trẻ sinh non, sinh thiếu tháng, v.v….

Đời sống của các ngài và đặc biệt của Mẹ Maria mời gọi mỗi người chúng ta luôn ý thức giới hạn của mình để biết sống khiêm tốn trong thân phận làm người và làm con cái Chúa. Trong đêm Giáng Sinh, những người được diễm phúc đón Chúa Hài Nhi là những con người nhỏ bé nghèo hèn khiêm hạ, như các mục đồng, như 3 nhà đạo sĩ…; chứ không phải như các Thượng tế, các luật sĩ và Biệt phái. Thiên Chúa vẫn thường “nâng cao những người phận nhỏ”. Vì họ tựa như chiếc bình trống rỗng sẵn sàng để cho Chúa đổ đầy. “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư” là vậy.

- Đón Chúa đến bằng tâm tình phó thác xin vâng.

Khi thưa lên lời thưa xin vâng: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (Lc 1,38), Mẹ Maria đã hoàn toàn mở ngõ cho Ngôi Lời nhập thể. Sự ưng thuận của Mẹ đã làm cho trời đất reo vui. Lời xin vâng của Mẹ đã làm cho bình minh ơn cứu độ tỏa rạng và chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa bắt đầu được thực hiện. Dĩ nhiên đó không chỉ là lời thưa xin vâng nơi đầu môi chót lưỡi, mà là một lời xin vâng dấn thân thực sự. Xin vâng khi mang thai mà bị người bạn đời hiểu lầm. Xin vâng khi phải sinh con trong hang đá bò lừa. Xin vâng khi phải bồng Hài Nhi chạy trốn sang Aicập vì bị bạo vương Hêrôđê truy sát. Xin vâng khi cả gia đình phải tá túc tạm bợ nơi đất khách quê người. Xin vâng khi con trẻ Giêsu sống ẩn dật một cách khó hiểu trong cảnh nghèo hèn lẳng lặng suốt 30 năm trường. Xin vâng khi quý tử Giêsu bị người ta chống báng loại trừ, và đỉnh điểm là sự xin vâng trước cảnh con mình bị treo thân nhục nhã trên thập giá.

Tắt một lời, trọn một đời Mẹ đã sống trọn vẹn hai tiếng xin vâng. Xin vâng từ ngày con mình nhập thể trong cung lòng Mẹ cho tới ngày Mẹ ẵm xác con trong tay khi người ta hạ xác xuống khỏi cây thập tự. Và chính nhờ thái độ xin vâng trọn vẹn như thế, Mẹ đã trở thành địa chỉ tốt nhất để tiếp nhận Đấng Cứu Thế đến.

Gương phó thác xin vâng của Mẹ thúc đẩy người Kitô hữu chúng ta biết sống xin vâng nhiều hơn nữa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Có khi ta gặp những người, hay những gia đình được Chúa gởi đến trông thật khó ưa, khó gần, ta nên sẵn lòng đón nhận trong thái độ xin “dzâng” (tiếng Nam, “vâng” cũng là “dzâng”. “Xin vâng” thì cũng phải biết “xin dzâng”. Xin dâng cho Chúa cả những khó gần, khó ưa trong những tương quan với mọi người). Có khi gặp những biến cố buồn sầu thương đau, ta vẫn biết vui lòng chấp nhận. Chấp nhận như là thánh ý Chúa. Rất có thể sau những cuộc gặp gỡ “bất đắc dĩ” hay sau những biến cố “khó chịu” ấy, ta nhận ra sự hiện diện và tác động của Chúa. Từ đó ta được lớn lên về niềm phó thác xin vâng.

- Đón Chúa đến bằng thái độ trọn niềm tin tưởng.

Tiếp nhận lời sứ thần truyền tin, có nhiều điều chưa hiểu, nhưng Mẹ Maria vẫn một niềm cậy tin và phó thác cho Thiên Chúa. Mẹ tin mình sẽ mang thai, cả khi không biết đến chuyện vợ chồng (không phải là tin vào chuyện đại loại như thụ thai trong ống nghiệm hay sinh sản vô tính như thời nay đâu. Mẹ tin là tin vào quyền năng của Thiên Chúa). Mẹ tin mình sẽ sinh hạ Đấng Cứu Thế mà vẫn đồng trinh trọn đời. Mẹ tin mình là Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa, ngay cả khi phải sinh con trong hang đá nghèo nàn trơ trụi…. Mẹ tin vì đối với Mẹ, Thiên Chúa “có thể làm đựơc mọi sự” (Lc 1,37). Bà Êlisabét đã xác nhận điều này: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Nếu Đavít tin tưởng vào chính mình là người có khả năng làm nhà cho Đức Chúa (Bài đọc I), thì Mẹ Maria lại tin tưởng vào chính Thiên Chúa và quyền năng của Ngài trong việc kiến tạo lòng mình thành cung điện cho Ngôi Lời Hằng Hữu. Niềm tin chính là một yếu tố không thể thiếu để Mẹ trở thành cầu nối tiếp nhận và trao ban Đấng Cứu Thế cho đời.

Trong những ngày này, tại các nhà hàng, khách sạn, khu du lịch, khu vui chơi giải trí…., không khí chuẩn bị đón Noel đã tưng bừng rộn rã. Nhiều nơi người ta trang hoàng rất hoành tráng và tốn kém. Có những resort, những khu vui chơi đã bỏ ra cả mấy chục triệu đồng để sửa soạn, để trang trí cho mùa lễ Giáng Sinh. Tuy nhiên ở những nơi đó hiếm khi có bóng dáng Chúa Hài Đồng. Thực tế, người ta tưng bừng chuẩn bị cho Noel vì mục đích vui chơi hay thương mại, chứ không phải vì để đón Chúa. Đơn giản vì họ không có niềm tin. Là Kitô hữu, ta đón Noel phải là đón Chúa. Mà muốn đón Chúa thì cần có niềm tin. Nói cách khác, niềm tin phải là thứ mà ta cần trau dồi, “nâng cấp” hơn hết, để có thể đón Chúa đến với mình, gia đình mình và xứ đạo của mình.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã chuẩn bị một lễ Giáng Sinh “hoành tráng’ nhất, công phu nhất, và dài nhất bằng chín tháng cưu mang trong tin yêu và phó thác. Xin Mẹ cũng giúp mỗi người chúng con chuẩn bị đón Chúa Giáng sinh với tâm tình khiêm tốn, xin vâng và tin tưởng như Mẹ.

Phan Thiết, 17.12.2011
 
Tình Chúa muôn ngàn đời
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
12:25 16/12/2011
Chúa Nhật IV Mùa Vọng B

“Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa đến muôn đời. Qua bao nhiêu thời tình Chúa chẳng vơi…” . Bước vào tuần cuối của mùa Vọng, Hội thánh dẫn đoàn tín hữu dần đến đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa, mầu nhiệm vốn được giữ kín từ ngàn xưa, nay được biểu lộ (x.Rm 16,25-26): Ta sẽ yêu thương con người đến muôn đời và lòng thành tín của Ta được thiết lập trên cõi trời cao.

Sự thành tín là một đặc tính tất yếu của tình yêu đích thực: Trong bất cứ kiểu loại tình yêu nào dù là tình phu thê, tình mẫu tử, phụ tử, tình huynh đệ, tình quê hương, tình đồng chí, đồng bào…tất thảy đều đòi hỏi sự tín thành, thuỷ chung. Tình yêu có thể xuất hiện dưới nhiều sắc độ đậm nhạt khác nhau, nhưng không thể chấp nhận sự đứt gánh nửa chừng hoặc thay lòng đổi dạ kiểu đổi trắng thay đen.

Dòng lịch sử ơn cứu độ mạc khải cách rõ nét tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thiên Chúa là Tình yêu (1Ga 4,8). Dù cho con người có phản bội nhưng Thiên Chúa mãi luôn tín trung vì Người không thể chối chính Người (x.2Tm 2,12-13). Có khi, có thời, Người dìm ta xuống đáy vực sâu hoặc để ta long đong phận khổ, nhưng Người lại kéo ta lên, ủi an, vổ về như mẹ hiền âu yếm con thơ. Sau khi sửa trị chúng ta vì tội lỗi chúng ta, Người lại bồi hồi thổn thức, và Người lại tỏ lòng xót thương (x.Gr 31,16-20).

Lời hứa ban ơn cứu độ từ thưở tổ tiên loài người phản bội đã dần thành hiện thực theo dòng thời gian. Lịch sử ơn cứu độ đã khai mở và khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã thực hiện lời Người đã hứa tự ngàn xưa là sai chính Con Một vào trần gian, thực thi công trình cứu độ. Hứa ban cho Đavít một triều đại vĩnh tồn thì Thiên Chúa đã giữ lời. Một chồi non từ nhà Đavít đã mọc lên và “Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 33).

Thiên Chúa không hề bỏ ta: một nền tảng căn bản của niềm cậy trông. Trong phận người, đặc biệt khi đã trưởng thành thì hầu như ai cũng đã từng trải qua ít nhiều thăng trầm của của cuộc sống. Có thể nói quảng thời gian an bình, hạnh phúc thật vắn vỏi so với dòng đời gian truân, vất vả. Tác giả Thánh Vịnh cảm nghiệm hiện thực này: đời người mạnh giỏi lắm là bảy, tám mươi năm mà toàn là gian lao, khốn khổ (x.Tv 90,10). Sự gian truân, vất vả của cuộc đời chắc chắn có góp phần rèn luyện nhân cách con người, đồng thời giúp con người thăng tiến và đạt đến thành công. Tuy nhiên, nó cũng có thể làm cho nhiều người chán nản, buông xuôi. Nhiều sự ở đời này vẫn thường mang tính lưỡng diện.

Dưới nhãn quan đức tin, khi ta ở trong tình trạng khó khăn, thất bại, khi ta lâm vào những nghịch cảnh, nhất là khi ta ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi thì chước cám dỗ ngã lòng, thất vọng luôn có đó. “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại làm… Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? (Rm 7,19-24).

Thiên Chúa luôn tín trung với lời Người đã hứa. Người không bao giờ bỏ chúng ta. Có được xác tín này thì niềm cậy trông sẽ có đất đâm chồi nẩy lộc. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,5-6).

Không một ai là không có thể được cứu thoát: Với loài người thì rất nhiều trường hợp dường như là không thể, nhưng với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể (x.Lc 1,37 ; Mt 19,26). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý để được cứu rỗi (x.1Tm 2,3-4 ). Dù chỉ một con đi thất lạc, Thiên Chúa cũng bỏ chính mươi chín con chiên trên núi để đi tìm con chiên lạc đàn . Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi phú ban Con Một, thì còn gì mà Người đã không làm cho chúng ta, cho từng người chúng ta?

Mọi người đều được Thiên Chúa yêu thương nhưng không phải tất cả đều nhận được tình yêu của Người. Khi con người cố tình từ chối tình yêu của Thiên Chúa hoặc khi con người ngã lòng thất vọng, không còn tin vào tình yêu của Thiên Chúa thì Người đành chấp nhận chịu cảnh “bất lực”. Tình yêu giả thiết sự tự do đáp trả, cho dù là bé nhỏ hay chỉ là mặc nhiên. Nhà của Đavit, tức vương quyền của ông được Thiên Chúa hứa cho trường tồn là nhờ ông đã có tấm lòng muốn xây cho Thiên Chúa một “cái nhà”. Để thực thi công trình cứu độ cho loài người, Thiên Chúa cũng đã chờ đợi sự đáp trả của một cô thôn nữ làng quê Nagiarét. Chúa Kitô khi sinh thời đã khẳng định chân lý này: Mọi thứ tội đều có thể được tha, ngoại trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần (x.Mt 13,32).

Xin trích ghi ca từ của một bản thánh ca được gợi hứng bởi tâm tình của thánh Tông đồ dân ngoại: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan, hững hờ. Vì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương. Một ngày nào mà ta chối Ngài, thì Ngài phải đành lòng chối ta. Cho dù ta bất tín, dù ta phản bội, thì Chúa vẫn cứ trung thành, vì Ngài không thể chối chính mình”( x.2Tm 2,12-13). Tuy nhiên không phải vì ỉ lại vào lòng tín trung của Thiên Chúa mà chúng ta trì hoản sự hoán cải. Tình Chúa thì muôn ngàn đời, nhưng cuộc đời chúng ta thì có hạn, nhất là chúng ta không biết cái hạn ấy kết thúc vào giờ nào, lúc nào. Đừng chần chờ, đừng lần lữa, hãy đáp trả tình Chúa yêu ngay hôm nay, lúc này.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:03 16/12/2011
GẶP CƯỚP

Một tên cướp ban đêm đột nhập vào một gia đình nghèo khổ, lục sạo khắp nơi mà không tìm được thứ gì đáng giá đồng tiền, thế là nhổ một bãi nước miếng chuẩn bị bỏ đi, chủ nhà năm trên giường nhìn thấy, lớn tiếng nói:

- “Anh đi rồi nhớ đóng cửa dùm tôi nhé”.

Tên trộm bất giác bật cười, nói:

- “Vậy tôi hỏi ông đóng cửa làm gì chứ ?"

Chủ nhà nghèo trả lời:

- “Chỉ là để cản gió ngoài cửa thổi vào mà thôi”.

Suy tư:

Không phải chỉ có nhà giàu mới đóng cửa ban đêm, mà nhà nghèo cũng cần phải đóng cửa nữa, bởi vì nhà giàu vì sợ trộm cướp mới đóng cửa, còn nhà nghèo vì sợ gió lạnh thổi vào nên đóng cửa. Như thế dù nghèo hay giàu thì tối đến cũng phải đóng cửa mới cảm thấy an toàn.

Con người ta có linh hồn và có xác, vì an toàn sinh mạng mà phải đóng cửa kẻo kẻ trộm đến hoặc gió thổi vào có khi trúng gió mà chết, nhưng linh hồn thì chẳng có mấy khi người ta quan tâm, bởi vì nhiều người không biết cửa của linh hồn ở đâu cả ? Xin thưa, cửa của tâm hồn chính là con mắt của chúng ta vậy, cho nên chúng ta cần phải biết lúc nào thì nên đóng “cửa sổ tâm hồn” và lúc nào thì nên mở nó ra.

“Cửa sổ tâm hồn” cần phải đóng lại trước những cám dỗ tham sân si của ma quỷ và thế gian, nhưng cần phải mở ra trước những đau khổ bất công của tha nhân và xã hội, bởi vì một khi “cửa sổ tâm hồn” không biết lúc nào đóng lúc nào mở, thì không những thân xác bị thiệt thòi mà linh hồn cũng sẽ chết đời đời trong hỏa ngục.

Ai hiểu thì hiểu !

-----------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa (CN 4 MV B)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
22:57 16/12/2011
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG

Tin Mừng: Lc 1, 26-38

Với Mẹ, chúng ta cùng mở đường cho Con Thiên Chúa...

"Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói".


Mẹ Ma-ri-a không nói: "Tôi xin vâng, vì tôi sẽ làm mẹ của Thiên Chúa", Mẹ Ma-ri-a cũng không nói: "Vì tôi đã khấn giữ mình đồng trinh, cho nên việc sứ thần nói sẽ không bao giờ có, tôi không đời nào từ bỏ ý định của tôi", nhưng Mẹ Ma-ri-a đã nói: "Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói".

Một lời nói bày tỏ tất cả tâm tình mến yêu, tôn kính và khiêm tốn, một lời nói có sức đem lại cho nhân loại một niềm hi vọng và vui mừng, không hi vọng và vui mừng sao được khi mà cả nhân loại đang chìm đắm trong đau thương do tội lỗi thống trị, không hi vọng và vui mừng sao được, khi mà, chỉ một lời xin vâng rất ngắn gọn mà khiêm tốn, đã làm cho cửa trời đóng bít từ thuở tạo thiên lập địa lập tức mở ra, tuôn tràn ân sủng xuống cho nhân loại, ân sủng đó, không gì khác hơn chính là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người –Chúa Giê-su.

Mẹ Ma-ri-a, Đấng đồng công cứu chuộc loài người, Đấng đã mở đường cho Thiên Chúa có lối đi qua trần gian, Mẹ mở đường không phải như thánh Gioan Tiền Hô đã trở thành tiếng loa vang trong hoang địa kêu gọi mọi tấm lòng thống hối chờ đón Đấng Mes-si-a, nhưng Mẹ mở đường bằng chính tâm hồn mình mở rộng đón nhận trước lời đề nghị quá ư ngặt nghèo với lời hứa giữ mình đồng trinh của mình, Mẹ đã mở đường cho Chúa bằng hai tiếng Xin Vâng đầy khiêm tốn, đơn sơ và đầy phó thác, Mẹ đã mở đường cho Chúa bằng thái độ chấp nhận quyền năng của Thiên Chúa mà không một chút phàn nàn kêu ca... Tiếng Xin Vâng của Mẹ Maria là tiếng hoan ca âm thầm trong cung lòng Mẹ, và trong mọi tâm hồn người công chính mong mỏi chờ Chúa đến, là ánh sao mở đường cho nhân loại bước đi, là tiếng hét kinh hoàng của tội lỗi, là niềm vui và hi vọng cho chúng nhân.

Như vậy, Mẹ Ma-ri-a đã hoàn toàn hi sinh cái tôi của mình để mở đường cho Con Thiên Chúa xuống làm người.

Ngày hôm nay, hầu như tất cả mọi người Ki-tô hữu trên thế giới đều hiểu rất rõ giá trị hai tiếng Xin Vâng của Mẹ Ma-ri-a, hiểu rất rõ là việc làm của lí trí, nhưng đối với quả tim thì hình như rất ít người hiểu rõ giá trị của hai tiếng Xin Vâng ấy. Có rất nhiều người Ki-tô hữu cứ mỗi lúc đến ngày lễ kỹ niệm gì đó của Mẹ, liền hát thật to thật vang lên bài hát “Xin Vâng”, nhất là trong ngày lễ Giáng Sinh, nhưng trong cuộc sống của họ thì tiếng xin vâng của họ rất tương phản với tiếng Xin Vâng mà họ ca tụng Mẹ Ma-ri-a. Họ xin vâng theo kiểu: tôi là mẹ của Chúa nên tôi xin vâng, có nghĩa là, nếu công việc ấy hợp với tôi, có lợi cho tôi nên tôi xin vâng, còn nếu không thì xin miễn bàn...

Với những thái độ ấy, họ đã đóng bít cửa tâm hồn của mình và chưa học được nơi Mẹ hai chữ xin vâng chân thật, để mở đường cho Con Thiên Chúa làm người trong mỗi một tâm hồn, hơn thế nữa, họ đã làm một bức tường kiên cố ngăn chận giữa Thiên Chúa và những con người thiện tâm.

Cùng với Mẹ Ma-ri-a, chúng ta mở đường cho Con Thiên Chúa làm người bằng chính sự khiêm tốn của chính mình: khiêm tốn trong phục vụ, khiêm tốn trong lời nói, khiêm tốn trong cuộc sống đời thường. Cùng với Mẹ, chúng ta mở đường cho Con Thiên Chúa giáng trần bằng sự hi sinh của mỗi người: hi sinh trong cách sống, hi sinh trong phục vụ, hi sinh trong cuộc sống đời thường của mình.

Cùng với Mẹ Ma-ri-a, chúng ta mở đường cho Con Thiên Chúa đến bằng đời sống vui tươi của mình: vui tươi trong lo âu, vui tươi khi bị hiểu lầm, vui tươi khi bị khinh chê, vui tươi khi bị mắng...vốn. Bởi vì chính Mẹ Ma-ri-a đã dùng tất cả những điều ấy để mở đường cho Thiên Chúa làm người trong hai tiếng Xin Vâng của Mẹ.

Chúa nhật IV Mùa Vọng mời gọi mỗi một người Ki-tô sống noi gương Mẹ Ma-ri-a trong chính bổn phận của mình, bổn phận của tôi là linh mục, tiếng Xin Vâng của tôi chắc chắn sẽ khác hẳn với tiếng xin vâng của giáo hữu, bởi vì hơn ai hết, tôi chính là Mẹ Ma-ri-a thứ hai đã làm cho có Chúa Giê-su trên bàn thờ, nên tôi cần phải khiêm tốn thẳm sâu để đền đáp ơn trọng mà Thiên Chúa đã ban cho tôi: thiên chức linh mục. Do đó, mà không những trong khi tế lễ trên bàn thờ, mà ngay cả trong cuộc sống đời thường, tôi cần phải khiêm tốn trong cung cách ăn ở của tôi, để tiếng xin vâng của tôi trở thành công cụ phát quang, mở đường cho Chúa đến trong mọi tâm hồn tín hữu.

Tôi là một nữ tu của Chúa, tôi hiểu rất rõ tiếng xin vâng của Mẹ Ma-ri-a cho nên tôi đã trở thành nữ tu để noi gương Mẹ, đi phục vụ người anh em chị em của tôi, do đó mà tiếng xin vâng của tôi phải cùng cung điệu với tiếng xin vâng của Mẹ Ma-ri-a: khiêm tốn. Bởi nếu tôi không khiêm tốn, thì tôi sẽ trở thành một tảng đá lớn cản đường không cho mọi người đến cùng Chúa, và tất cả những gì tôi làm gọi là phục vụ ấy, sẽ trở nên giả hình trước mặt nhân loại.

Chúa nhật IV mùa vọng, là tiếng đáp xin vâng của mỗi người tín hữu, hối thúc Thiên Chúa mau đến để giải thoát chúng ta khỏi sự thống trị của sa tan và tội lỗi.

Với Mẹ Ma-ri-a, chúng ta cùng mở đường cho Chúa bằng hai tiếng xin vâng trong mỗi giây phút của cuộc đời mình.

-----------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
22:55 16/12/2011
N2T

29. Con bằng lòng sống vì thiên đàng để đem hạnh phúc cho trần gian.

(Thánh Terese of Avila)
 
Mỗi tuần một ''Chuyện Rất Ngắn''
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
22:56 16/12/2011
HUYNH ĐỆ
Đúng giờ cơm, cha phó (mới về giáo xứ) ngồi đợi cha sở để cùng ăn, nhưng đợi gần cả tiếng đồng hồ mà không thấy cha sở đâu cả, cha phó ăn một mình.
Qua ngày thứ hai, thứ ba, cha phó vẫn cứ đợi cha sở cùng ăn, nhưng không thấy ngài, bức xúc quá nên cha phó hỏi người giúp việc sao cha sở không ăn cơm, người giúp việc nói:
- “Cha sở không ăn đâu, ngài thích ăn riêng, lần sau cha cứ ăn đi đừng đợi”.
Cha phó hụt hẩng vì cha sở không hề nói với ngài một tiếng để ngài khỏi đợi…
--------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Gẫm sự đời:Khi phần đông giáo dân tại Taiwan không thiết tha với Tĩnh tâm
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
07:52 16/12/2011
Gẫm sự đời:Khi phần đông giáo dân tại Taiwan không thiết tha với Tĩnh tâm

Chiều hôm qua (15/12) giáo hạt 6 thuộc Tổng Giáo phận Taipei dưới sự hướng dẫn của Cha quản hạt Jos. Nguyễn Ngọc Điệp đã triệu tập một hội nghị mùa Đông nhằm tìm hiểu tình hình các giáo xứ trong giáo hạt hoạt động ra sao nhất là trong dịp Giáng sinh sắp đến này. Thật tình mà nói, là thành viên thuộc giáo hạt này, nhưng những báo cáo đến từ các Cha quản xứ cũng như các thành viên trong hội đồng mục vụ giáo xứ không khỏi làm cho chúng tôi suy nghĩ và lo lắng, nhất là trong vấn đề nâng cao đời sống thiêng liêng.

Mở đầu hội nghị, Cha quản hạt báo cáo tình hình giáo xứ Thánh Gioan mà Cha là quản xứ. Để chuẩn bị cho Mùa Giáng sinh, giáo xứ tổ chức một ngày Tỉnh tâm cho giáo dân nhằm giúp họ có thời giờ để tự vấn lương tâm, giao hoà với Thiên Chúa, chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Đây là công việc bình thường của hầu hết các giáo xứ trên thế giới này. Vâng, bình thường lắm nhưng ở vùng đất mà đa phần là ngoại giáo và giáo dân thì phần đông là pha trộn hay vẫn còn ảnh hưởng của các giáo phái trước khi họ gia nhập vào công giáo thì không bình thường tý nào! Điều dễ thấy nhất là khi tổ chức Tĩnh tâm thì giáo dân rất lơ là, không thiết tha nếu không muốn nói là không cần Tĩnh tâm mặc dù Cha xứ (đặc biệt các Cha xứ người Việt Nam) kêu gọi, khích lệ và thậm chí có nhiều cách thức "khuyến mãi" khác nữa như miễn phí tham gia, mời các Cha giảng phòng có tiếng tăm, giáo xứ sẽ bao cơm trưa, rồi tặng quà, v.v... thế nhưng đến tham dự Tĩnh tâm vẫn cứ lèo tèo, ít ỏi và chả có một chút tâm tình gì!

Vẫn biết rằng Giáo hội Taiwan vẫn còn là một Giáo hội non trẻ và đang trên bước đường kiếm tìm một hướng đi cho riêng mình thuận theo ý Chúa quan phòng, thế nhưng các Cha trong Giáo hạt này vẫn cứ thao thức và không biết phải làm gì. Một giáo hội mà theo cách nói của một Giám mục tại Taiwan này thì đây là một Giáo hội mà trong đó các Giám mục là người Taiwan, Linh mục là người Việt Nam và giáo dân là người Philippines thì cũng đủ biết sức sống của Giáo hội tại nơi đây như thế nào. Công bằng mà nói giáo xứ nào có các Cha Việt Nam thì giáo xứ ấy có vẻ còn sức sống bởi các Cha Việt Nam luôn được tiếng là năng động, thức thời bất chấp tuổi tác. Điều này đã ăn sâu vào tiềm thức của các Cha khi còn sống và sinh hoạt tại Việt Nam. Điều dễ thấy nhất khi đến các Giáo xứ do các Cha Việt Nam đảm nhiệm vào dịp Giáng sinh thì điều đập vào mắt người xem là hang đá và trang hoàng Giáng sinh cho khuôn viên Giáo xứ. Điều này nơi các giáo xứ của các Cha ngoại quốc cũng như các Cha bản địa không thể so bì được. Còn nhớ năm ngoái khi vừa chân ướt chân ráo đến nhận Giáo xứ Mẹ Thiên Chúa, đây là một Giáo xứ thuộc diện "có máu mặt" của địa phận, vào dịp này, tôi thử để giáo dân của giáo xứ này tổ chức thế nào cho việc mừng Đại lễ Giáng sinh. Thấy họp bàn có nhắc đến chuyện trước Thánh Lễ Đêm Giáng sinh, Cha chủ tế sẽ cùng với Giáo dân cung nghinh Chúa Hài Đồng từ ngoài vào Thánh đường để đặt vào hang đá như truyền thống của giáo xứ vẫn làm. Mừng qúa, tôi liền mời Cha bề trên của nhà Dòng đến chủ tế Thánh Lễ Đêm để còn có dịp khen ngợi giáo dân. Tuy nhiên, khi cung nghinh Chúa Hài Đồng, tôi với vỡ lẽ và xấu hổ thẹn thùng. Quý vị có tưởng tượng được không, hang đá mà họ làm chỉ là một cái giỏ loại đựng hoa đường kính khoảng 20 cm và Chúa Hài Đồng, tội nghiệp bé tý tẹo cở 15 cm như một nắm tay lọt thỏm vào trong chiếc giỏ. Chưa hết, khi Cha Bề trên của tôi rước Chúa Hài nhi vào nhà Thờ, không biết để đâu nên mấy ông giúp lễ nói để dưới đất ngay dưới chân bàn Thờ như. .. truyền thống vẫn làm!!!!

Trở lại với vấn đề Tĩnh tâm đang làm đau đầu không ít các cha xứ nơi đây, tôi nghĩ cũng dễ hiểu thôi bởi một giáo xứ vốn có tiếng ở giáo phận mà còn thế thì các giáo xứ khác sẽ ra sao chắc quý vị cũng hiểu được. Một Cha xứ khác trong giáo hạt báo cáo trong giáo xứ của ngài tổ chức Tĩnh tâm. Từ sáng đến trưa số giáo dân đến tham dự đông lắm (khoảng vài chục người thôi nhé). Nhưng khi đến dùng cơm trưa, vì giáo xứ chuẩn bị cơm hộp cho tiện nên sau cơm trưa, ngài thấy số giáo dân tham dự chỉ còn chưa đến một nửa! Thì ra, theo ngài chia sẻ, họ lấy phần cơm hộp của mình và vui vẻ ra về bất chấp buổi Tĩnh tâm vẫn còn đến 3 giờ chiều! Quả đúng như Thánh Phaolô nói "Chúa họ thờ là cái bụng" (Pl 3, 19)! Thật chả bù tý nào cho các giáo xứ tại quê nhà nơi có giáo dân nhiệt tình tham dự, các Cha cứ ngồi toà giải tội đến mệt nghỉ!

Vài sẻ chia với quý bạn đọc nhân mùa Giáng sinh cận kề. Kính chúc quý vị một Mùa Giáng sinh Thánh Thiện, An Bình Thánh Dức và một Năm Mới với nhiều niềm vui và hy vọng. Xin cầu nguyện cho chúng tôi, những Linh mục đang làm việc nơi miền truyền giáo này cũng như tất các các Linh mục truyền giáo trên thế giới để chúng tôi được bám chặt vào Chúa và để Chúa dùng chúng tôi như những công cụ bất toàn và tội lỗi để thực thi công trình cứu độ cho nhân loại.

Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
 
ĐTC nói với Châu Mỹ Latin: Hãy phát triển tình đoàn kết và bảo vệ môi trường
Jos. Tú Nạc, NMS
08:16 16/12/2011
Đức Thánh Cha đã cổ vũ Mỹ Latin và vùng Caribea phục hồi “thiên hướng hy vọng” của mình, trong bài giảng của Ngài tại lễ kỷ niệm độc lập của những quốc gia thuộc đại lục này vào chiều thứ Hai 12/ 12, tại Nhà thờ cổ Vatican. Trong bài giảng của mình, Đức thánh cha cũng cho biết rằng Ngài sẽ có chuyến tông du tới Mễ Tây Cơ và Cuba trước Lễ Phục Sinh tới.

Vị Chủ hăn nói: “Trước mắt, trong lúc kỷ niệm hai trăm năm độc lập đang được cử hành tại những địa điểm khác nhau ở Mỹ Latin, chuyến hành trình này hướng sự hiệp nhất trên đại lục đáng yêu này đang tiến hành tay trong tay với tầm quan trọng đáng chú ý của nó trên sân khấu thế giới.” Trong hoàn cảnh như vậy,Đức Thánh Cha nói tiếp, “Điều quan trọng dành cho những dân tộc khác nhau của nó là được bảo vệ sự tích lũy phong phú đức tin của họ và động năng lịch sử, văn hóa của họ, luôn bảo vệ sự sống con người, sự thụ thai được kết thúc tự nhiên, thúc đẩy hòa bình. Tương tự như vậy, họ phải được bảo vệ bản chất khả tín và sứ mệnh của gia đình, và cùng lúc phải tăng tiến quảng bá những nỗ lực giáo dục, điều mà để chuẩn bị cho cong người một cách đúng đắn và tạo cho họ ý thức được khả năng để họ có thể gặp gỡ vận mệnh của họ trong một phong cách khả kính và hữu trách.” Đức Thánh Cha yêu cầu người dân Mỹ Latin hãy sáng tạo và thăng tiến, “Bằng mọi cách khả năng hành động sao cho tương xứng hơn và những chương trình cụ thể nhắm vào sự hòa giải và tình huynh đệ, phát triển tình đoàn kết và bảo vệ môi trường, những nỗ lực thăng tiến để chiến thắng nghèo đói, thất học và tham nhũng, và trừ khử bất công, bạo lực, tội ác, bất ổn định chính trị, buôn bán ma túy và hối lộ.”

Cùng với sự tham dự tại buổi lễ có các đại diện giám mục đoàn địa phương, Hội Liên hiệp Giám mục Mỹ Latin cùng với những đại diện thuộc những chính phủ khác và nhà những văn hóa, uyên thâm thế giới.
 
Một Giám mục Trung Quốc nói về Giáo hội Trung Hoa
+GM FX Nguyễn Văn Sang
08:23 16/12/2011
Bài phỏng vấn của nhà báo Gianni Valente với Đức Cha Gioan Baotixita Lý Chu Quang Giám mục phó Giáo phận Nam Xương.

Vào dịp 25 năm kỷ niệm các cuộc gặp gỡ quốc tế được tổ chức vào thời gian vừa qua tại Munich – Đức do cộng đoàn Thánh Egidio tổ chức. Đức Cha Gioan Baotixita Lý Chu Quang cũng có mặt, đó là vị Giám mục 46 tuổi thuộc Giáo hội Công giáo Trung Quốc, được sự ưng thuận của Đấng kế vị Thánh Phêrô và các chức bậc trong chính phủ Bắc Kinh, Ngài có vẻ trẻ trung và nhút nhát và hơi lạc lõng giữa những vị lãnh đạo tôn giáo Thế giới họp vào ngày 11-13/09/2011 vừa qua, thế nhưng Ngài đã lên tiếng 1 trong những 35 cuộc họp tại Giáo phận Munich, giọng nói của Ngài cương quyết và tư tưởng trong sáng. Bài diễn văn của Ngài được ám chỉ và trích dẫn có liên quan tới một vấn đề phức tạp xem ra không thể giải quyết nổi của cả ba phái từ hàng thế kỷ nay. Ở Âu Châu, Giáo hội Công giáo và Vương quốc Thiên Hoàng Cổ giống như câu phương ngôn Trung Hoa và Đức Cha Lý đã tới để lưu ý các thính giả rằng: Ngay trong thời buổi toàn cầu hóa “một khoảng cách dài dằng dặc có thể trở nên gần gũi và thân cận” với kinh nghiệm của vị mục tử, Ngài đã quả quyết rằng: “Giáo hội không mất đi chút nào tính phổ quát mà vẫn tôn trọng nền văn hóa Trung Hoa và để ý tới những trường hợp thực tế tại Trung Quốc”.

Đây là nội dung cuộc phỏng vấn:

PV: Thưa Đức Cha, Ngài thật còn trẻ với chức vụ Giám mục?.

Đức Cha Lý: Tôi sinh năm 1965 trong một ngôi Làng ở tỉnh Sán Chỉ, nơi đây có chừng 2000 dân cư và đa số giữ đức tin Công giáo, như vậy tôi đã được lớn lên giữa đám dân cư yêu mến Chúa Giêsu.

PV: Lúc đó là những năm đầy khó khăn mọi người đang sống giữa cuộc cách mạng văn hóa?

Đức Cha Lý: Trong ngôi Làng của tôi không có nhiều vấn đề lắm: có 2 Linh mục vẫn tiếp tục làm mục vụ, đa số là làm các bí tích, hiện nay có 4 hoặc 5 vị và trong cả miền này có tới 38 Linh mục và rất nhiều nữ tu.

PV: Ai đã giúp Đức Cha nhận thấy mình có ơn kêu gọi làm Linh mục?

Đức Cha Lý: Điều đó tôi đã thấy được trong gia đình, tôi đã có một ông chú làm Linh mục và khi tôi còn nhỏ Cha và mẹ tôi đã dạy tôi phải cầu nguyện thế nào khi đọc kinh sáng và tối, lúc đó tôi là cậu con út trong gia đình, nhưng Cha mẹ tôi hay nói rằng: sau này khi lớn lên tôi có thể làm Linh mục. Mẹ tôi rất đạo đức và đã có nhiều ảnh hưởng tới tôi, rồi vai trò quan trọng của một Linh mục mà tôi đã gặp ở Chủng viện địa phận Bắc Kinh và đã trở nên Cha linh hướng của tôi. Tôi vào học ở Chủng viện địa phận Bắc Kinh từ năm 1987 đến 1992, các giáo sư của chúng tôi đều là những Linh mục rất già, chúng tôi phải học Thần học nhờ vào sách vở cũ kỹ trước công đồng Vaticano II.

PV: Tình hình của Giáo hội đã thay đổi thế nào so với những năm Đức Cha còn nhỏ?.

Đức Cha Lý: Khi tôi còn nhỏ đất nước chưa vào thời kỳ mở của, trong các Làng xã, giáo dân sốt sắng vẫn giữ việc thực hành và đời sống đức tin. Hiện nay rất có nhiều khả năng để thực hiện các công việc mục vụ, vào ngày Chủ nhật các nhà thờ đều chật ních, tất nhiên chật hơn và đông hơn trong nhiều nhà thờ ở Âu Châu. Trong các Làng xã khi nghe thấy tiếng chuông, họ đều ra khỏi nhà đi bộ qua các phố phường và cùng hướng về nhà thờ. Những Thánh lễ ngày thường vào sáng sớm cũng rất đông người tham dự. Trong tỉnh của chúng tôi có 120,000 người Công giáo và chừng 50 Linh mục, nhưng chỉ có các xứ lớn mới có Linh mục đóng tại chỗ như vị chủ chăn của cộng đoàn. Còn các Linh mục khác lần lượt đi tới các Làng xã từ xứ này sang xứ khác để ban các bí tích, có điều tốt lành là đa số các vị đều trẻ trung mà so với các Ngài tôi là người già nhất. Tuổi trung bình của các Linh mục là 36 tuổi. Trên bình diện kinh tế, giáo phận có những ngôi nhà ở Thượng Hải mà các lợi tức giúp chi phí cho các hoạt động bình thường.

PV: Điều gì giúp cho việc loan báo Tin Mừng dễ dàng nhất?

Đức Cha Lý: Điều quan trọng nhất có sự hiện điện của các giáo dân, loan báo Tin Mừng và làm chứng trong những nơi mọi người chung sống trong những hoàn cảnh thường ngày, sau đó là những công việc Bác ái cũng rất quan trọng. Nơi chúng tôi, mỗi cộng đoàn tu sĩ được mời gọi giúp đỡ và nâng đỡ một nhóm người thiểu số, chúng tôi là người Công giáo nhưng cũng đi giúp đỡ một số cộng đoàn dân tộc thiểu số, những người không có đức tin Kitô.

PV: Việc rửa tội cho những người không thuộc các gia đình công giáo có nhiều không?.

Đức Cha Lý: Chúng tôi mỗi năm có chừng 3000 người và 2/3 trong số họ là những người trẻ, 1/3 là những người trung niên và cao tuổi, đa số họ sống ở thôn quê, những người xin chịu phép rửa tội là vì họ được lay động nhờ vào các bạn bè là chứng nhân hoặc nhờ những người bạn Kitô vì họ nhận thấy các giáo hữu chăm sóc những người nghèo khổ và những người đang gặp khó khăn.

PV: Cuộc sống thường ngày của những giáo dân đã múc được ở những nguồn nào?

Đức Cha Lý: Thánh lễ là trung tâm của tất cả mọi việc cùng với cầu nguyện và tham dự các hoạt động do giáo xứ đề xuất……

PV: Có một sự sùng kính nào đặc biệt đối với một vài vị Thánh không?.

Đức Cha Lý: Trong miền của chúng tôi có sự sùng kính đặc biệt Thánh Anton và Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu rồi chắc chắn là Đức Trinh Nữ Maria, mọi người đều lấy Đức Mẹ làm Đấng bảo trợ cho đời sống thiêng liêng.

PV: Có những thực tại xã hội nào và có những điều kiện sống nào mà Đức Cha thường gặp trong công việc mục vụ?.

Đức Cha Lý: Việc phát triển nhanh chóng nền kinh tế Trung Hoa đã đặt một số người dưới áp lực, những người này thực sự cần thiết có ai để giúp đỡ họ, mang lại cho họ sự an vui khích lệ, và nâng đỡ họ. Nhiều người trong họ cảm nhận rằng, không thể tự mình thoát khỏi nếu không có sự giúp đỡ, điều đó mở rộng lãnh địa mà Giáo hội được mời gọi để hoạt động, để minh chứng tình yêu của Chúa Kitô đối với mỗi người, người ta không thể dửng dưng trước những tình huống cụ thể đó. Vậy thì phải bảo trợ một công việc mục vụ, là một sự nâng đỡ cụ thể đối với đồng bào chúng tôi trong lúc này, trong cuộc sống đang phải đối mặt với những khó khăn.

PV: Đức Cha đã đọc bức thư của Đức Thánh Cha Benedicto 16 viết cho người Công giáo Trung Hoa năm 2007 chưa? Nếu rồi đối với Đức Cha những khía cạnh nào quan trọng nhất trong bức thư đó?

Đức Cha Lý: Theo quan điểm của tôi, việc Đức Thánh Cha đích thân viết một thư đặc biệt cho người Công giáo Trung Hoa đã trở thành một sự khuyến khích rất lớn cho Giáo hội Trung Quốc, tôi đặc biệt xúc động vì những điều Đức Thánh Cha đã khuyên dạy các Linh mục.

PV: Đức Cha đã được tấn phong Giám mục năm 2010 với sự thỏa thuận của Tòa Thánh, vậy Đức Cha sống cụ thể thế nào để thông công với Giám mục Roma? Và làm thế nào Đức Cha diễn tả được điều đó trong công việc mục vụ thường ngày của Ngài?.

Đức Cha Lý: Những Giám mục khác của Trung Quốc cũng như tôi, không những chúng tôi chỉ đọc và phân phát thư của Đức Thánh Cha cho người Công giáo Trung Quốc năm 2007 nhưng chúng tôi còn phổ biến các diễn văn, bài giảng, thông điệp, phát biểu… chúng tôi nhân bức thư đó ra nhiều và gửi cho tất cả các Linh mục, các xứ họ để mọi người có thể đọc và theo dõi Đức Thánh Cha trong những huấn giáo thường thức hàng ngày và tìm được sự trợ giúp trong hoàn cảnh của mỗi người. Và như vậy là một cách đơn giản nhưng cụ thể để sống hiệp thông với Đức Thánh Cha và mọi người có thể nhận biết, rồi chúng tôi cầu nguyện cho Ngài, tất cả các Linh mục đều cầu cho Ngài và tôi cầu xin cho cả tôi, xin Chúa phù trợ tôi, để tôi trở thành một Giám mục tốt.

PV: Đức Cha nghĩ thế nào về việc Đức Thánh Cha đề cập tới vấn đề Trung Hoa, nếu Đức Cha có thể thưa với Đức Thánh Cha, thì Đức Cha nói thế nào để Đức Thánh Cha hiểu được tình hình cụ thể của Giáo hội Trung Quốc?.

Đức Cha Lý: Sẽ là một ân huệ lớn nếu Đức Thánh Cha có thể thấu hiểu được Trung Hoa, nghĩa là hiếu được nền văn hóa, tình trạng xã hội cụ thể mà Giáo hội Trung Hoa đang sống bây giờ, có nhiều điều phải biết, nhiều điều phải hiểu. Đôi khi có nhiều vị sang bên Trung Quốc được một tuần rồi trở về nhà, lại cư xử như họ hiểu biết tất cả về những người Công giáo Trung Quốc, vậy thực tế những tình huống phức tạp phải được đón nhận và tôn trọng như chính nó đã xuất hiện. Tôi thực sự hy vọng mối liên hệ giữa Trung Quốc và Vatican sẽ được nối lại trong một chiều hướng đứng đắn, điều đó đem lại sự tốt lành cho chúng tôi và cho tất cả Giáo hội.

PV: Nếu Đức Cha có thể cung cấp cho Đức Thánh Cha một dấu chỉ, làm thế nào Đức Cha đã duy trì được đức tin của người công giáo Trung Quốc và vẫn còn tiếp tục nuôi dưỡng nó? Đức Cha nói thế nào để làm chứng cho Giáo hội Trung Quốc có cũng một đức tin như Giáo hội Roma?.

Đức Cha Lý: Một câu hỏi căn bản là phải biết xem các Giám mục Trung Hoa đã sống thế nào và biểu lộ đức tin của các Ngài ra sao, hợp nhất với Đấng kế vị Thánh Phêrô và với tất cả Giáo hội hoàn vũ, đấy là điều tôi nghĩ rằng từ khởi đầu cho đến ngày nay giáo hôi Trung Quốc không sửa đổi một chấm, một phẩy nào trong truyền thống Tông đồ mà họ đã được trao ban, chúng tôi đã không sửa đổi một chấm, một phẩy nào tín lý liên hệ với đức tin và kỷ luật lớn lao của Giáo hội, chúng tôi hợp nhất cùng các bí tích, chúng tôi đọc cùng các lời nguyện trong sự liên tục của việc kế vị các Thánh Tông đồ. Đây là nền tảng của sự hiệp thông chính thức, tất nhiên với tất cả giới hạn của chúng tôi, không tránh được những thiếu sót do sự yếu đuối đối với Giáo hội hoàn vũ mà chúng tôi là một thành phần, chúng tôi chia sẻ với tất cả anh em trên thế giới lòng trung thành với cùng một truyền thống các Thánh Tông đồ, chúng tôi không muốn thay đổi chút nào.

PV: Có một số quan sát viên, trái lại hẳn vẫn còn một số người tìm cách xây dựng một Giáo hội mới độc lập và tam tự, khác với Giáo hội công giáo tông truyền Roma?.

Đức Cha Lý: Đấy là tư tưởng của một số người khác, đây là những ý kiến không phải là của chúng tôi, không một Giáo hội nào có thể tự tại, không một Giáo hội nào có thể sống mà không có ân điển nào của thấn khí Đức Kitô. Tôi xin nhắc lại: Hiện nay ở Trung Quốc không một Giám mục hoặc một Linh mục nào có ý định thay đổi tín lý của Giáo hội ở Trung Quốc, cũng thế, tình yêu Đức Kitô được thể hiện như là một sự đón tiếp và thông cảm trong thế giới ngày nay, mặc dầu cũng còn nhiều điều khác biệt:

Ví dụ: Giữa Trung Quốc và Âu Châu rất khó khăn để hiểu biết nhau, phải tìm những điểm tiếp xúc và đối thoại ngày qua ngày là một con đường duy nhất để những sự khác biệt có thể xích lại gần nhau. Như thế tôi hy vọng Giáo hội hoàn vũ sẽ đón nhận và công nhận Giáo hội Trung Quốc đúng như những thực tại bây giờ “Không cô lập nó, cũng như không đối xử tàn tệ” để sự hiệp thông được lớn mạnh như dấu chỉ của tình yêu Chúa Kitô .

Với tư cách là một Giám mục, tôi hy vọng tinh thần tình yêu của Đức Kitô được lan rộng và cũng chói sáng trong toàn thể nước Trung Hoa.

(Nguồn: Lược dịch từ Báo 30 Ngày của tác giả Gianni Valente, số tháng 9/2011)
 
Pháp: Nhà nguyện dâng kính hai Chân phước Louis và Zélie Martin
Nguyễn Trọng Đa
09:29 16/12/2011
Pháp: Nhà nguyện dâng kính hai Chân phước Louis và Zélie Martin

Một nơi cầu nguyện đặc biệt cho các đôi lứa và gia đình

ROMA - Tại Pháp, một nhà nguyện đầu tiên dành riêng cho hai Chân phước Louis và Zélie Martin, cha mẹ của Thánh Têrêsa thành Lisieux, sẽ được khánh thành ngày 16-1-2012, trong Thánh Lễ lúc 19g, với sự chủ lễ của Đức Giám mục Jerome Beau, giám mục phụ tá Tổng giáo phận Paris, trong Vương cung thánh đường Đức Bà Chiến thắng (Notre-Dame des Victoires, Paris 2e), nơi có nhà nguyện. Đây sẽ là một địa điểm cầu nguyện dành cho các đôi vợ chồng và gia đình.

Một tuyên bố của Tòa Tổng Giám mục Paris cho biết, ông Louis Martin (1823-1894) và vợ của ông là bà Zélie Guerin (1831-1877), cha mẹ của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, đã được tuyên bố "Đấng đáng kính" bởi ĐTC Gioan Phaolô II ngày 26-3-1994, và được phong Chân phước ngày 19-10-2008 tại Lisieux, theo quyết định của ĐTC Biển Đức XVI.

Tòa Tổng Giám Mục Paris đã quyết định chỉnh trang một nhà nguyện của Vương cung thánh đường Đức Bà Chiến thắng, nhằm tiếp nhận thánh tích của các tân Chân phước, và cho phép khách hành hương ngày càng đông có thể dành thì giờ cầu nguyện nhiều hơn trong các phòng tiếp đón.

Nhiều công tác chỉnh trang quan trọng của nhà nguyện đang được hoàn tất, để nhà nguyện có thể trở thành “Nhà nguyện các Chân phước Louis và Zélie Martin", nơi thờ phượng đầu tiên tại Pháp được đặt dưới sự bảo trợ của các Chân phước mới.

Nhà nguyện sẽ có bình thánh tích của các Chân phước - một bản sao bình thánh tích sẽ được dâng tặng ĐTC Biển Đức XVI - một cách bền vững, và sẽ trở thành một địa điểm cầu nguyện dành cho các đôi vợ chồng và gia đình.

Trước đây các tân Chân phước đã đến Vương cung thánh đường Đức Bà Chiến thắng, và chính thánh nữ Têresa cũng đã đến đây. Khi hai người còn độc thân, hai người đã gần gũi với nhà thờ này.

Ông Louis đã học sửa đồng hồ ở Paris. Trước các cám dỗ của thủ đô, ông phó mình đặc biệt cho Đức Trinh Nữ Maria, nên siêng năng đến thánh đường Đức Bà Chiến thắng. Năm 1863, ông đã viết cho vợ mình: "Anh có hạnh phúc rước lễ ở nhà thờ Đức Bà Chiến thắng, nhà thờ này là như một thiên đường trần thế nhỏ. Anh cũng đốt một ngọn nến cầu cho cả gia đình chúng ta".

Chính tại nhà thờ này hai vợ chồng xin lễ cầu nguyện khi thánh nữ Têrêsa lâm bệnh.

Các lá thư của bà Zélie Martin cũng cho thấy niềm tin và tình yêu đối với Đức Bà Bàu Chữa kẻ có tội. Năm 1863, bà đã viết thư cho em trai Isidore Guérin, đang học dược ở Paris:

"Nếu em chỉ đồng ý làm một việc mà chị sẽ nói với em, và em cũng muốn trao nó lại cho chị làm quà, chị sẽ hạnh phúc hơn là em cho chị cả Paris. Đây nhé: Em sống gần nhà thờ Đức Bà Chiến thắng. Thế thì mỗi ngày em chỉ cần vào nhà thờ này một lần, đọc một kinh Kính Mừng trước tượng Đức Mẹ. Em sẽ thấy rằng Đức Mẹ sẽ che chở em một cách đặc biệt, và Đức Mẹ sẽ giúp em thành công trong thế giới này, và rồi sẽ cho em hưởng hạnh phúc đời đời nữa”.

Năm 1629, theo yêu cầu của các linh mục Dòng Âu Tinh, vua Louis XIII xây dựng nhà thờ và đặt tên là Nhà thờ Đức Bà chiến thắng, và sau đó nhà thờ được thêm tước hiệu “Đức Bà Bàu Chữa kẻ có tội”.

Năm 1836, linh mục Desgenettes nhận được linh hứng là cung hiến giáo xứ của ngài cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria. Cha thành lập một Hội lo việc cầu nguyện cho người có tội ăn năn trở lại. Từ đó cho đến nay, nhiều ân sủng đã được ban nhờ lời cầu bầu của Đức Bà chiến thắng, như hơn 37.000 bảng tạ ơn làm chứng.

Giữa lòng Paris, Vương Cung Thánh Đường Đức Bà chiến thắng là một giáo xứ của giáo hạt Bourse-Louvre và là đền thánh Đức Bà của giáo phận.

Từ năm 1992, dưới sự thúc đẩy của các Tổng giám mục, của Đức Hồng Y Jean-Marie Lustiger và Đức Hồng Y André Vingt-Trois, một công tác mục vụ mới được thực hiện với sự hiện diện của một cộng đoàn các nữ tu Biển Đức của Đền Thánh Tâm Montmartre. Mục đích của công tác là làm linh hoạt lòng sùng kính đối với Đức Maria, Đấng Bàu chữa kẻ có tội, bằng các thời điểm mạnh và một đời sống phụng vụ và gia tăng cầu nguyện hàng ngày.

Nhiều người Công Giáo ở Paris và ngoại ô thường xuyên tham gia vào đời sống cầu nguyện của Vương cung thánh đường, và không hiếm khi cộng đoàn vượt quá 800 người. Nhà thờ Đức Bà Chiến thắng cũng có sự rọi chiếu mạnh cho khách hành hương đến từ khắp nơi trên thế giới.

Tổng giáo phận Paris cũng đã trao phó cho Vương cung thánh đường nhiệm vụ cầu nguyện đặc biệt cho tất cả các ý chỉ đụng chạm đến sự sống (phá thai, khuyết tật, bệnh tật, hấp hối...). Chuỗi Mân Côi được đọc mỗi tối các lễ Đức Mẹ để cầu theo các ý chỉ ấy. Một Thánh Lễ cầu cho người bệnh được phát sóng trên Đài phát thanh Đức Bà (Notre Dame) mỗi thứ năm, nguồn tin cho biết. (ZENIT.org 15-12-2011)

Nguyễn Trọng Đa
 
Pakistan: “Anh ấy không đốt Kinh thánh Hồi giáo”
Phạm Kim An
09:30 16/12/2011
Pakistan: “Anh ấy không đốt Kinh thánh Hồi giáo”

Các chứng gian chống Kitô hữu

ROMA - Tổng Giáo Phận Lahore, Pakistan, đã phủ nhận một thông tin phổ biến trên các phương tiện truyền thông, theo đó tín hữu Công giáo Khuram Masih đốt cháy các trang Kinh thánh Hồi giáo. Một phát ngôn viên của tổng giáo phận đã thông báo với tổ chức “Giúp đỡ Giáo hội gặp khó khăn” (AED) rằng các lời cáo buộc trên các phương tiện truyền thông là không có cơ sở.

Chúng tôi đăng bài của Tổ chức AED về vấn đề này.

Người thanh niên 24 tuổi, bị bắt ngày 6-12, đã bị tố cáo cách sai trái bởi người bạn đời Ấn giáo. Hai người đã sống chung với nhau, vì cha mẹ của người thanh niên không cho phép họ kết hôn.

Gia đình người chủ Hồi giáo của ngôi nhà, mà trong đó lứa đôi này sinh sống, đã gây áp lực lên người phụ nữ trẻ và dàn dựng chuyện cho cô, sau khi cô từ chối trở lại Hồi giáo. Cô đã bị đe dọa ném đá đến chết, vì việc sống chung của cô bị coi là gian dâm. Bị đe dọa với cái chết, cô đã buộc phải gọi cảnh sát khẩn cấp, và tố cáo người bạn đời của mình đã đốt các trang sách Kinh thánh Hồi giáo để nhóm lửa nấu trà uống.

Khi cảnh sát đến và không tìm thấy người thanh niên, họ bắt cháu anh làm con tin. Anh Khuram Masih sau đó đến trình diện với cảnh sát để tìm hiểu những gì đang xảy ra. Một đám đông người Hồi giáo giận dữ tụ tập trước đồn cảnh sát, để đốt toà nhà và giết Khuram Masih. Hiện nay, người thanh niên đang ngồi tù và chờ xét xử.

Tổng Giáo Phận Lahore đã thông báo cho chúng tôi rằng gần đây cũng có một sự cố trong một trường học Công Giáo do các nữ tu điều hành. Một học sinh lớp bốn tiểu học đã bị buộc tội xúc phạm Hồi giáo, vì một lỗi chính tả trong một từ tiếng Ả Rập, vốn làm thay đổi nghĩa của từ ấy. Nữ giáo viên và nữ tu hiệu trưởng cũng bị cáo buộc xúc phạm đạo Hồi. Phát ngôn viên của Tổng giáo phận đã gửi thư cho tổ chức “Giúp đỡ Giáo hội gặp khó khăn” (AED), nói rằng ở đó tình hình đã hơi dịu lại, bởi vì các học giả đã thấy rằng nó thực sự là một lỗi chính tả của trẻ em.

Cách đây vài tuần lễ, một luật sư Hồi giáo Pakistan, xin giấu tên vì lý do an ninh, bởi vì ông bảo vệ các nạn nhân của tội phạm thượng, đã tuyên bố với tổ chức “Giúp đỡ Giáo hội gặp khó khăn” (AED) rằng ở Pakistan, 95% các vụ cáo buộc phạm thượng là sai, và các vụ này là nhằm làm hại bị cáo, hoặc trả thù họ.

Luật gọi là chống phạm thượng đã được thông qua tại Pakistan vào năm 1986. Luật quy định tù chung thân cho một người báng bổ Kinh thánh Hồi giáo, và hình phạt tử hình đối với các người báng bổ Tiên Tri Muhammad. Ủy ban Giám mục "Công lý và Hòa bình" của Giáo Hội Pakistan đã thu thập tài liệu các vụ này. Theo khẳng định của Uỷ ban, 38 người, trong đó có 14 Kitô hữu, đã bị buộc tội báng bổ năm ngoái. Tổ chức “Giúp đỡ Giáo hội gặp khó khăn” (AED) hỗ trợ các hoạt động của Ủy ban "Công lý và Hòa bình", vốn cũng giúp các người bị cáo buộc tìm sự trợ giúp về pháp lý.

Tổ chức “Giúp đỡ Giáo hội gặp khó khăn” (AED), mà tài chính chỉ dựa vào các khoản hiến tặng tư nhân, hỗ trợ những người dấn thân vì các người khác, phục vụ Giáo Hội. Mỗi năm, tổ chức tài trợ ít nhất 5.000 dự án, chủ yếu là về mục vụ. Một trong các ước muốn sâu xa nhất của tổ chức “Giúp đỡ Giáo hội gặp khó khăn” (AED) là dấn thân bênh vực sự tự do tôn giáo. Từ khi thành lập vào năm 1947, tổ chức “Giúp đỡ Giáo hội gặp khó khăn” (AED) được xem như tiếng nói của các Kitô hữu bị đàn áp và bách hại. Tổ chức từ thiện này xuất bản "Báo cáo về Tự do Tôn giáo trên thế giới" cứ hai năm một lần, và xuất bản cuốn sách "Người bị bách hại và bỏ quên? Báo cáo về các Kitô hữu bị đàn áp vì đức tin của họ". (Zenit.org 15-12-2011)

Phạm Kim An
 
Một ''cách mạng ngoại giao '' nhỏ ở Vatican
Nguyễn Trọng Đa
09:31 16/12/2011
Một "cách mạng ngoại giao " nhỏ ở Vatican

Tinh giản công việc cho Giáo Triều

ROMA – Đó là một "cách mạng ngoại giao" nhỏ, đã được công bố và thực hiện ngày 15-12 tại Vatican, nhân dịp ĐTC Biển Đức XVI tiếp 11 Đại sứ mới bên cạnh Tòa Thánh đến trình thư uỷ nhiệm, theo Đài phát thanh Vatican.

Thật vậy, khi Đức Giáo Hoàng tiếp 11 Đại sứ, thông thường các nhà báo - không chỉ các đại sứ - nhận được 12 bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng: mỗi diễn văn cho Đại sứ một quốc gia - trong ngôn ngữ chính thức của quốc gia này - và một bài diễn văn chung.

Nhưng sáng 15-1, chỉ có một diễn văn chung được công bố: bài diễn văn riêng cho từng nước được loại bỏ. Đó là một thói quen được thiết lập bởi ĐTC Phaolô VI trước kia, và mỗi Đại sứ cũng trao một bài diễn văn cho Đức Giáo Hoàng.

Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh giải thích sự tinh giản công việc của Phủ Quốc Vụ khanh Toà thánh.

Linh mục Federico Lombardi nói rõ rằng trong buổi trình thư uỷ nhiệm, các đại sứ mới sẽ không trao bài diễn văn cho Đức Giáo Hoàng, và Đức Giáo Hoàng cũng không trao diễn văn cho mỗi đại sứ mới.

Cha cũng xác định rằng việc này không phải nhằm “tránh mệt mỏi cho Đức Giáo Hoàng", nhưng "tinh giản công việc cho Phủ Quốc Vụ Khanh Toà Thánh”.

Trong thực tế, vào thời ĐTC Phaolô VI, số lượng các Đại sứ bên cạnh Toà thánh là khoảng 90 vị, nhưng hiện nay số lượng này gần gấp đôi.

Theo Cha Lombardi, cải cách này cũng sẽ áp dụng cho các đại sứ thường trú, nhưng ĐTC sẽ dành cho các vị nhiều “thời gian gặp gỡ hơn", nhân các buổi tiếp “riêng tư”, chứ không “tập thể”.

Cha Lombardi nhận xét, ngoài ra, cải cách của lễ trình thư uỷ nhiệm này được áp dụng “vì sự đơn giản và phù hợp với các tập tục ngoại giao hiện nay".

Cha nhắc lại rằng Đức Giáo Hoàng có "nhiều cơ hội khác để thể hiện sự gần gũi và quan tâm của Ngài với các nhà ngoại giao", hoặc qua các "sứ điệp đặc biệt" trong "những dịp đặc biệt" hoặc "trường hợp đặc biệt quan trọng".

Cha nhận xét rằng "mỗi năm, ĐTC đều gửi sứ điệp nhân ngày Quốc khánh của mỗi nước, hoặc nhân dịp các ngày kỷ niệm quan trọng, hoặc các sự kiện đau buồn cho người dân ở nước này hay nước khác”. (ZENIT.org 15-12-2011)

Nguyễn Trọng Đa
 
Ái Nhĩ Lan: nhen nhóm hy vọng có chuyến thăm của ĐTC vào năm 2012
Tiền Hô
10:55 16/12/2011
Dublin (Ái Nhĩ Lan), 15 Tháng Mười Hai 2011 (CNA/EWTN News) - Hôm Thứ Tư, Chính phủ Ái Nhĩ Lan đánh tiếng rằng họ sẽ chấp thuận một chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI vào Tháng Sáu năm tới, nhân dịp Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế Dublin. Động thái này đã phá giải những lo ngại của ban tổ chức Đại Hội khi nghĩ rằng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha có thể bị hủy bỏ.

Hôm 14 Tháng Mười Hai, ngoại trưởng Ái Nhĩ Lan Eamon Gilmore đã nói trước một ủy ban quốc hội rằng: "để không có bất kỳ sự hiểu lầm nào, tôi muốn minh định rằng Tòa Thánh nên thông báo với chính phủ về việc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô dự định đến thăm Ái Nhĩ Lan tại một dịp thuận tiện - ví dụ như trong dịp Đại Hội Thánh Thể vào năm tới. Tôi không có nghi ngờ gì về việc chính phủ sẽ phản ứng tích cực".

Hồi Tháng Mười, khi nhận được một câu hỏi tương tự, ông Gilmore cũng đã nói với quốc hội rằng "không đưa ra lời mời thì không phải là một hoạt động đang được xem xét". Khi ấy, ban tổ chức Đại hội Thánh Thể xem tuyên bố của ông như là lời từ chối ý định về một chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng đến Ái Nhĩ Lan. Một tháng sau, ông Gilmore cũng đã đóng cửa Đại Sứ Quán Ái Nhĩ Lan cạnh Tòa Thánh ở Rôma, sau 82 năm tồn tại.

Cũng hôm 14 Tháng Mười Hai, ông Gilmore cho rằng quyết định đóng cửa Đại Sứ Quán ở Vatican hoàn toàn là vì vấn đề tài chính, khi bộ ngoại giao của ông bị "suy giảm ngân sách".

Ông cũng muốn phá giải những "hiểu lầm" về thái độ của chính phủ Ái Nhĩ Lan đối với một chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng. Ông giải thích rằng: "theo thông lệ ngoại giao, lời mời người đứng đầu nhà nước đến viếng thăm một quốc gia khác không cần phải công bố trước công chúng". Thay vào đó, ông nói rằng: "một lời mời chính thức chỉ được công bố sau khi có thông báo nói rằng người đứng đầu nhà nước muốn viếng thăm và ngày giờ đã được chấp thuận".

Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 50 sẽ diễn ra tại Dublin từ ngày 10-17 Tháng Sáu năm 2012. Được tổ chức bốn năm một lần, Đại Hội này tập hợp người Công Giáo từ khắp nơi trên thế giới đến cầu nguyện và nghiên cứu ý nghĩa của Bí Tích Thánh Thể.

Đại Hội tại Dublin dự kiến sẽ thu hút khoảng 25.000 khách viếng thăm mỗi ngày, với 80.000 người tham dự Thánh Lễ Đại Trào tại Vận động trường Croke Park của thành phố. Ban tổ chức đã gửi một lời mời Đức Giáo Hoàng Bênêđictô và vẫn đang chờ đợi phản ứng từ Vatican.

Hôm 15 Tháng Mười Hai, cha Kevin Doran - thành viên ban tổ chức - nói với CNA rằng: "Trọng tâm chính của Đại Hội là để mọi người gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô, nhưng nếu Đức Giáo Hoàng cũng đến thì đó sẽ là một phần thưởng thực sự. Vì vậy, tôi rõ ràng hoan nghênh ý kiến của ông Gilmore".

Cha Doran cho biết trong 6 tháng qua, ngài đã không nhận được "ủng hộ tích cực" nào từ nhân viên ngoại giao của Ái Nhĩ Lan trên toàn thế giới khi ngài đến làm việc để tổ chức Đại Hội này.

Ngược lại, quan hệ giữa Dublin và Rôma đã trở nên căng thẳng kể từ khi Thủ tướng Ái Nhĩ Lan Enda Kenny phát động một cuộc tấn công rầm rộ đối với Giáo hội Công Giáo hồi Tháng Bảy vừa qua.

Ông Kenny cáo buộc Vatican đã cố gắng "làm thất bại một cuộc điều tra" lạm dụng tính dục tại Giáo phận Cloyne, County Cork. Vatican đã bác bỏ lời cáo buộc này. Sau đó, phát ngôn viên của Thủ tướng Chính phủ Ái Nhĩ Lan phải tuyên bố lại rằng ông ấy không đề cập đến bất kỳ sự việc cụ thể nào. Tuy nhiên, ông Kenny đã từ chối rút lại lời nhận xét trên của mình hoặc đưa ra lời xin lỗi.
 
Chính trị đà điểu: nhắm mắt trước đại họa
Linh Tiến Khải
14:32 16/12/2011
Trong các ngày từ 28-11-2011 đến mùng 10-12-2011 hội nghị quốc tế về các thay đổi khi hậu đã diễn ra tại Durban bên Nam Phi, với sự tham dự của phái đoàn hơn 190 quốc gia trên thế giới. Sau 12 ngày nhóm họp và thảo luận, hội nghị đã chấm dứt trong sự hỗn loạn và đã không đạt được sự thỏa thuận nào về tài liệu chung kết liên quan tới việc hạn chế số lượng thán khí thải vào trong không trung. Trước khi hội nghị kết thúc, ông Maite Nkoana Mashabane, ngoại trưởng Nam Phi, Chủ tịch Hội nghị, đã cảnh giác rằng ”không đi tới một thỏa thuận về tài liệu chung kết sẽ là một bước thụt lùi không thể chịu đựng nổi đối với các nỗ lực quốc tế nhằm giải quyết việc hạn chế hâm nóng trái đất. Hệ thống đa phương rất giòn mỏng và sẽ không thể sống sót trước một cú sốc mới”.

Vì có nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, ngoại trưởng Nam Phi đã gia hạn thêm 24 giờ đồng hồ để cho các phái đoàn thảo luận thêm.

Ông cũng tuyên bố rằng 4 tài liệu do hội nghị đưa ra là một giàn xếp không hoàn hảo, nhưng chúng phản ánh kết qủa của các năm thương thuyết các vấn đề về khí hậu do Liên Hiệp Quốc đề ra. Khoảng một trăm trang của tài liệu sẽ kéo dài sự sống của Thỏa hiệp Kyoto ký kết năm 1997, nhắm giảm số lượng thán khí thải vào không trung và áp dụng cho các nước kỹ nghệ phát triển. Ngoài ra, còn có một tài liệu tách riêng yêu cầu các quốc gia thải nhiều thán khí hơn như Trung Quốc và Ấn Độ, chấp nhận thi hành các đòi buộc liên quan tới sự ô nhiễm, trễ lắm là nội trong năm 2020.

Vào chiều ngày mùng 10-12-2011 người ta đã không chắc chắn tài liệu chung kết có được hội nghị chấp nhận hay không. Bà Connie Hedegaard người Đan Mạch, ủy viên Liên Hiệp Âu châu, đã đưa ra lời cảnh cáo cuối cùng các phái đoàn tham dự hội nghị, và lời tuyên bố của bà xem ra là một sự đầu hàng: ”Nếu không có gì hơn những điều tôi đã thấy sáng nay, thì điều này có nghĩa là sẽ không có một thỏa thuận nào cả”. Bên cạnh thỏa hiệp toàn diện do Liên Hiệp Âu châu đề nghị, có việc gia hạn thỏa hiệp Kyoto cho tới năm 2015, nhưng chỉ có hiệu lực từ năm 2020 trở đi.

Ngoài ra còn có việc đề nghị thành lập một ”Ngân qũy xanh” về khí hậu để phân phát 100 tỷ mỹ kim hàng năm cho các nước nghèo nhất từ nay cho tới năm 2020, để giúp các nước này thích ứng với các thay đổi khí hậu, nhưng lại không nói rõ kiểu phân phát như thế nào. Tất cả đều là những chuyện mơ hồ ”trời ơi đất hỡi”, trong khi đó thì nhiều phái đoàn đã sẵn sàng hành lý để ra phi trường lấy máy bay trở về nước, vì không thể nán lại để tham dự phiên họp khoáng đại cuối cùng.

Thật ra, trước khi hội nghị bắt đầu, đựa trên các kinh nghiệm qúa khứ, đặc biệt là sự thất bại thê thảm của hội nghị Kopenhagen, người ta đã không lạc quan chờ đợi sự thành công nào tại Durban. Trong các hội nghị môi sinh từ đầu cho tới nay Hoa Kỳ là quốc gia thải nhiều thán khí vào khí quyển nhất thế giới vẫn luôn luôn từ chối ký nhận các thỏa hiệp, kể cả thỏa hiệp Kyoto. Giờ đây cùng với Hoa Kỳ lại còn thêm Trung Quốc và Ấn Độ, là ba nước khổng lồ thải vào không trung gần phân nửa thán khí toàn thế giới. Và cả ba nước nhất định không chấp nhận giảm số lượng thán khí thải vào khí quyển, lấy cớ là không thể để cho nền kinh tế của mình bị thiệt thòi.

Đề nghị của Liên Hiệp Âu châu đã được các nước quần đảo đại dương châu nhiệt liệt ủng hộ, nhưng vẫn không mạnh đủ, mặc dù có cả sự yểm trợ của Brasil và Nam Phi, là các quốc gia có nền kinh tế đang lên. Sở dĩ các quốc gia quần đảo đã nhiệt liệt ủng hộ đề nghị giải pháp thỏa hiệp toàn diện với các đòi buộc pháp luật quốc tế, vì nếu không ngăn chặn hiện tượng hâm nóng trái đất, thì đá băng bắc cực sẽ tan chảy, mực nước đại dương sẽ dâng cao, và các quốc gia này sẽ có nguy cơ bị ngập lụt, mất đi nhiều phần đất là các đảo của mình, hay tệ hại hơn là sẽ biến mất khỏi bản đồ thế giới.

Các quốc gia nghèo khác cũng ủng hộ đề nghị của Liên Hiệp Âu châu vì họ thuộc khối các nước thải ít thán khí vào khí quyển nhất, nhưng lại phải gánh chịu nhiều thiệt hại nhất vì các tai ương thiên nhiên như: bão tố, lũ lụt, hạn hán, mất mùa, đói kém, như đã và đang xảy ra ngày càng thường xuyên và nặng nề hơn trong các năm qua.

Chẳng nói nhưng cho dù có xảy ra chuyện gì đi nữa thì ba nước Nhật, Nga và Canada thuộc khối G8 mau chóng xuống khỏi chuyến xe lửa môi sinh. Trong khi Trung Quốc và Ấn Độ cũng cảm thấy mình bị cô lập giữa các quốc gia đang trên đường phát triển. Còn Hoa Kỳ thì trước sau như một, vẫn khăng khăng bảo vệ nền kinh tế của mình, không giảm lượng thán khí thải vào không trung, và lại càng khước từ đề nghị giải pháp toàn bộ có bắt buộc pháp lý của Liên Hiệp Âu châu. Để tự bào chữa cho mình, Hoa Kỳ tuyên bố là tiếng không của mình tùy thuộc vấn đề lịch trình thời gian. Và đối với Hoa Kỳ, năm 2020 là chân trời thời gian có lý để đạt một thỏa hiệp mạnh mẽ về môi sinh. Để cho hội nghị Durban khỏi phải thất bại thê thảm như hội nghị Kopenhangen, Nam Phi đã đề nghị kéo dài thỏa hiệp Kyoto cho tới năm 2015.

Trong các bài phát biểu mọi phái đoàn tham dự hội nghị đều ghi nhận và báo động các đại họa thiên nhiên, hậu qủa của nạn hâm nóng trái đất, nhưng khi phải hy sinh các lợi lộc kinh tế, thì các cường quốc cũ cũng như mới đều ”lắc đầu nguây nguẩy” và quyết thực thi đường lối chính trị đà điểu, dấu đầu trong cát, nhắm mắt trước các đại họa. Thật rõ tiếc cho các đại hội quốc tế rầm rộ, nhưng chỉ tốn tiền vô ích!
 
Sứ điệp của ĐTC nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần 45
LM Trần Đức Anh OP
14:37 16/12/2011
NGUYÊN VĂN SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BENEDICTÔ XVI
NHÂN NGÀY HÒA BÌNH THẾ GIỚI LẦN THỨ 45: 1-1-2012


Giáo dục người trẻ về công lý và hòa bình

1. Đầu năm mới, là hồng ân của Thiên Chúa cho nhân loại, với lòng tín thác sâu đậm và quí mến, tôi xin gửi đến tất cả mọi người lời cầu chúc đặc biệt cho thời kỳ chúng ta đang sống, để thời kỳ này được hưởng công lý và hòa bình một cách cụ thể.

Đâu là thái độ chúng ta nhìn về năm mới? Trong Thánh Vịnh 130 chúng ta thấy một hình ảnh rất đẹp. Tác giả Thánh Vịnh nói rằng người tín hữu mong đợi Chúa ”hơn lính canh mong đợi hừng đông” c.6), họ mong đợi Chúa với niềm hy vọng kiên vững, vì biết rằng Chúa sẽ mang đến ánh sáng, lòng từ bi, ơn cứu độ. Sự mong đợi ấy nảy sinh từ kinh nhiệm của dân tuyển, họ nhìn nhận mình được Thiên Chúa dạy cách nhìn thế giới trong chân lý và không để cho mình bị sầu muộn đè bẹp. Tôi mời gọi anh chị em hãy nhìn năm 2012 với thái độ tin tưởng như thế. Quả thực là trong năm đang kết thúc, có cảm thức bất mãn gia tăng vì cuộc khủng hoảng đang đè nặng trên xã hội, thế giới lao động và nền kinh tế; căn cội trước tiên của cuộc khủng hoảng này có tính chất văn hóa và nhân loại học. Dường như một tấm màn đen tối đang che phủ thời đại chúng ta và không cho ta thấy rõ ánh sáng ban ngày.

Nhưng trong tối tăm như thế, tâm hồn con người không ngừng mong đợi hừng đông mà Tác giả Thánh Vịnh nói tới. Sự mong đợi ấy đặc biệt sinh động và cụ thể nơi những người trẻ, và vì thế, tôi nghĩ đến họ, xét vì sự đóng góp mà họ có thể và phải cống hiến cho xã hội. Bởi vậy tôi muốn trình bày Sứ điệp nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ 45 trong một viễn tượng giáo dục: ”Giáo dục người trẻ về công lý và hòa bình”, với xác tín rằng do lòng hăng say và sự theo đuổi lý tưởng, người trẻ có thể mang lại cho thế giới một niềm hy vọng mới.

Sứ điệp của tôi cũng được gửi đến các bậc cha mẹ, các gia đình, và tất cả những thành phần giáo dục, huấn luyện, cũng như tới các vị trách nhiệm trong các lãnh vực khác nhau của đời sống tôn giáo, xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa và truyền thông. Chú ý đến giới trẻ, biết lắng nghe và đề cao giá trị của họ, không phải chỉ là một cơ may, nhưng còn là một nghĩa vụ đầu tiên của toàn thể xã hội, để kiến tạo một tương lai công lý và hòa bình.

Vấn đề ở đây là thông truyền cho người trẻ sự quí chuộng giá trị tích cực của cuộc sống, khơi lên nơi họ ước muốn dành cuộc sống để phục vụ Sự Thiện. Đây là một nghĩa vụ mà tất cả chúng ta phải đích thân dấn thân.

Những lo lắng mà nhiều người trẻ biểu lộ trong thời gian gần đây, tại các miền khác nhau trên thế giới, biểu lộ mong ước có thể nhìn về tương lai với niềm hy vọng vững chắc. Trong lúc này đây, có nhiều khía cạnh mà người trẻ đang lo lắng trải qua: ước muốn nhận được một sự huấn luyện chuẩn bị họ một cách sâu sắc nhất để đương đầu với thực tại, khó khăn thành lập gia đình và tìm được công văn việc làm ổn định, khả năng thực sự góp phần vào giới chính trị, văn hóa, và kinh tế để xây dựng một xã hội có khuôn mặt nhân bản và liên đới hơn. Điều quan trọng là những men ấy và động lực hướng về một lý tưởng mà chúng chứa đựng, được mọi thành phần xã hội quan tâm đúng đắn. Giáo Hội nhìn người trẻ với niềm hy vọng, tín nhiệm và khích lệ họ tìm kiếm chân lý, bảo vệ công ích, có những cái nhìn cởi mở về thế giới, có có những đôi mắt có khả năng thấy được ”những sự mới mẻ” (Is 42,9; 48,6)!

Các vị hữu trách về giáo dục

2. Giáo dục là một cuộc phiêu lưu hứng thú và khó khăn nhất trong cuộc đời. Giáo dục - Educare - từ nguyên ngữ latinh educere - có nghĩa là dẫn ra khỏi chính mình để đưa vào thực tại, hướng đến sự sung mãn làm tăng trưởng con người. Tiến trình này được nuôi dưỡng nhờ cuộc gặp gỡ giữa hai tự do: tự do của người lớn và tự do của người trẻ. Nó đòi tinh thần trách nhiệm của môn sinh, phải cởi mở, để cho mình được dẫn đến sự hiểu biết thực tại, và trách nhiệm của nhà giáo dục, phải sẵn sàng hiến chính bản thân mình. Để được vậy, hơn bao giờ hết, cần có những chứng nhân chân chính, chứ không phải chỉ là những người phổ biến các qui luật và thông tin; cần những chứng nhân biết nhìn xa hơn người khác, vì cuộc sống của họ bao trùm những không gian rộng lớn hơn. Chứng nhân là người sống trước tiên con đường mà họ đề nghị.

Đâu là những nơi trong đó nền giáo dục đích thực về hòa bình và công lý được chín mùi? Gia đình là tế bào nguyên thủy của xã hội. ”Chính trong gia đình mà con cái học được các giá trị nhân bản và Kitô giáo, để có sự sống chung xây dựng và an bình. Chính trong gia đình mà người trẻ học tình liên đới giữa các thế hệ, sự tôn trọng các qui luật, sự tha thứ và đón nhận tha nhân” (1). Gia đình là trường học đầu tiên trong đó người trẻ được giáo dục về công lý và hòa bình.

Chúng ta đang sống trong một thế giới trong đó gia đình, và cả sự sống nữa, liên tục bị đe dọa, và nhiều khi bị phân hóa. Những điều kiện làm việc nhiều khi ít có thể dung hợp với các trách nhiệm gia đình, những lo âu về tương lai, nhịp sống ồ ạt, những cuộc di cư tìm kế sinh nhai thích hợp, hoặc để sống còn, rốt cuộc làm cho cha mẹ khó có thể đảm bảo cho con cái một trong những thiện ích quí giá nhất: đó là sự hiện diện của cha mẹ; hiện diện này giúp tạo nên sự chia sẻ ngày càng sâu đậm hơn về hành trình, để có thể thông truyền kinh nghiệm và những xác tín chắc chắn đã thủ đắc được với năm tháng, những điều này chỉ có thể truyền đạt được nhờ thời gian sống chung với nhau. Với các bậc cha mẹ, tôi muốn nói họ đừng nản chí! Qua tấm gương cuộc sống, họ nhắn nhủ con cái đặt hy vọng trước tiên nơi Thiên Chúa, chỉ từ Ngài mới nảy sinh công lý và hòa bình chân chính.

Tôi cũng muốn ngỏ lời với các vị hữu trách của các tổ chức giáo dục: với tinh thần trách nhiệm cao, họ hãy quan tâm sao cho phẩm giá mỗi người được tôn trọng và được nêu cao giá trị trong mọi hoàn cảnh. Hãy làm sao để mỗi người trẻ có thể khám phá ơn gọi của mình, bằng cách tháp tùng người trẻ để làm cho các năng khiếu Chúa ban được sinh hoa kết quả. Hãy cam kết với các gia đình rằng con cái của họ có thể có được một hành trình huấn luyện không tương phản với lương tâm và các nguyên tắc tôn giáo của cha mẹ.

Ước gì mỗi môi trường giáo dục có thể là một nơi cởi mở đối với siêu việt và tha nhân; là nơi đối thoại, liên kết và lắng nghe, trong đó người trẻ cảm thấy được đề cao giá trị trong các tiềm năng và sự phong phú nội tâm của họ, và học cách quí chuộng anh chị em. Ước gì mỗi môi trường giáo dục có thể dạy cách nếm hưởng niềm vui nảy sinh từ cuộc sống, ngày qua ngày, trong tình bác ái và từ bi đối với tha nhân, và trong sự tích cực tham gia vào việc xây dựng một xã hội nhân bản và huynh đệ hơn.

Kế đến, tôi ngỏ lời với các vị trách nhiệm chính trị, xin họ hãy giúp đỡ một cách cụ thể cho các gia đình và các tổ chức giáo dục thực thi quyền cũng như nghĩa vụ giáo dục. Không bao giờ được quên nâng đỡ thích đáng cho sứ mạng làm cha làm mẹ. Các vị hữu trách chính trị hãy làm sao để không một ai bị phủ nhận quyền được giáo dục và làm sao để các gia đình có thể tự do chọn lựa các cơ cấu giáo dục mà họ coi là thích hợp nhất cho thiện ích của con cái họ. Các nhà chính trị hãy dấn thân tạo điều kiện dễ dàng cho việc đoàn tụ các gia đình bị chia cách vì nhu cầu tìm kiếm công ăn việc làm. Hãy giúp cho người trẻ có một cái nhìn trong sáng về chính trị, như một sự phục vụ đích thực dành cho công ích của tất cả mọi người.

Ngoài ra, tôi cũng không thể không kêu gọi giới truyền thông hãy góp phần vào việc giáo dục. Trong xã hội ngày nay, các phương tiện truyền thông đại chúng có một vai trò đặc biệt: không những thông tin, nhưng chúng còn huấn luyện tinh thần cho những người đón nhận, và vì thế chúng có thể đóng góp đáng kể cho việc giáo dục người trẻ. Điều quan trọng là để ý tới mối liên hệ rất chặt chẽ giữa giáo dục và truyền thông: thực vậy giáo dục diễn ra nhờ truyền thông, việc thông truyền này ảnh hưởng hoặc tích cực hoặc tiêu cực trên sự huấn luyện con người. Cả những người trẻ cũng phải có can đảm sống trước tiên điều mà họ đòi hỏi những người chung quanh. Đó là một trách nhiệm lớn của họ: người trẻ hãy có can đảm sử dụng tự do của mình một cách tốt đẹp và ý thức. Họ cũng là người trách nhiệm về sự giáo dục và huấn luyện bản thân về công lý và hòa bình.

Giáo dục về chân lý và tự do

3. Thánh Augustinô đã tự hỏi: ”Có gì mà linh hồn mong ước nồng nhiệt hơn là chân lý? - Quid enim fortius desiderat anima quam veritatem?” (2). Khuôn mặt nhân bản của một xã hội tùy thuộc rất nhiều nơi sự đóng góp của nền giáo dục để giữ cho yêu cầu không thể bị đè nén ấy được sinh động. Thực vậy, giáo dục liên hệ tới sự huấn luyện toàn diện con người, kể cả chiều kích luân lý và tinh thần của cuộc sống, hướng tới mục đích tối hậu và thiện ích của xã hội mà họ là thành phần. Vì thế, để giáo dục về chân lý, trước tiên cần biết con người là ai, biết bản tính của con người. Khi chiêm ngắm thực tại chung quanh, Tác giả Thánh Vịnh suy tư: ”Khi con thấy các tầng trời, công trình tay Chúa dựng nên, mặt trăng và các vì sao mà Chúa đã tạo thành, thử hỏi con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,4-5). Đây là câu hỏi cơ bản cần phải được đề ra: Con người là ai? Con người là một hữu thể mang trong tâm hồn một niềm khao khát vô biên, một sự khao khát chân lý - không phải thứ chân lý bán phần, nhưng là chân lý có khả năng giải thích ý nghĩa cuộc sống - vì con người đã được tạo thành theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Như thế, trong tâm tình biết ơn, nhìn nhận cuộc sống như hồng ân khôn lường sẽ giúp khám phá chính phẩm giá sâu xa của mình và đặc tính bất khả xâm phạm của mỗi người. Vì vậy, nền giáo dục đầu tiên là học cách nhìn nhận nơi con người hình ảnh của Đấng Tạo Hóa, và nhờ đó, có một thái độ tôn trọng sâu xa đối với mỗi người và giúp tha nhân có được một cuộc sống phù hợp với phẩm giá rất cao cả ấy. Không bao giờ được quên rằng ”sự phát triển đích thực của con người liên hệ tới con người toàn diện trong mọi chiều kích” (3), kể cả chiều kích siêu việt, và không thể hy sinh con người để đạt tới một lợi ích nào đó, dù là kinh tế hay xã hội, cá nhân hoặc tập thể.

Chỉ trong quan hệ với Thiên Chúa, con người mới hiểu ý nghĩa tự do của mình. Và trách vụ của giáo dục là huấn luyện về tự do đích thực. Tự do này không phải là không có rằng buộc trong đó tự do ý chí ngự trị, tự do không phải là chủ trương coi cái tôi là tuyệt đối. Người tưởng mình là tuyệt đối, không lệ thuộc một điều gì hoặc một ai, và tưởng mình có thể làm tất cả những gì mình muốn, thì rốt cuộc sẽ mâu thuẫn với sự thật về chính mình và mất cả tự do. Trái lại, con người là một hữu thể có tương quan, sống trong quan hệ với người khác, và nhất là với Thiên Chúa. Tự do đích thực không bao giờ có thể đạt được bằng cách xa lìa Chúa.

Tự do là một giá trị quí giá, nhưng tế nhị, nó có thể bị hiểu lầm và lạm dụng. ”Ngày nay, một chướng ngại đặc biệt nguy hiểm cho công trình giáo dục là sự hiện diện ồ ạt, trong xã hội và trong nền văn hóa chúng ta, trào lưu duy tương đối, không nhìn nhận điều gì là chắc chắn chung kết, coi cái tôi của mình với những ý muốn hay thay đổi là mẫu mực tối hậu, và dưới cái vẻ tự do nó trở thành một nhà tù đối với mỗi người, vì nó phân tách người này với người khác, thu hẹp mỗi người vào sự khép kín trong cái tôi của mình. Trong chân trời duy tương đối như thể, không thể có một nền giáo dục đích thực: thực vậy, nếu không có ánh sáng của chân lý, thì mọi người, vào một lúc nào đó, sẽ phải nghi ngờ về sự tốt lành của chính cuộc sống và của những quan hệ họp thành cuộc sống, nghi ngờ về giá trị sự dấn thân của mình để cùng với tha nhân xây dựng một cái gì chung” (4).

Để thi hành tự do, con người phải vượt thắng chân trời duy tương đối và nhìn nhận chân lý về chính mình và chân lý về điều thiện và điều ác. Trong thẳm sâu lương tâm của mình, con người khám phá thấy một luật mà mình không tự ban hành, trái lại mình phải tuân hành luật ấy và tiếng nói của luật này kêu gọi con người hãy yêu mến và làm điều thiện, tránh điều ác, lãnh nhận trách nhiệm về điều thiện đã làm và điều ác đã phạm (5). Vì thế, việc thực thi tự do liên hệ mật thiết với luật luân lý tự nhiên, có tính chất phổ quát. Luật ấy biểu lộ phẩm giá của mỗi người, đặt nền tảng cho các quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người, và vì thế, xét cho cùng, nó đặt nền tảng cho sự sống chung đúng đắn và an bình giữa con người với nhau.

Vì thế, việc sử dụng tự do một cách đúng đắn là điều chủ yếu trong việc thăng tiến công lý và hòa bình, nó đòi phải có sự tôn trọng bản thân và tha nhân, dù họ có lối sống khác với mình. Từ thái độ đó nảy sinh những yếu tố mà nếu thiếu thì hòa bình và công lý chỉ là những từ trống rỗng: đó là sự tín nhiệm lẫn nhau, khả năng đối thoại, khả năng tha thứ, - mà bao nhiêu lần ta muốn được, nhưng nhiều khi cũng rất khó trao ban,- lòng bác ái đối với nhau, sự cảm thương đối với những người yếu đuối nhất, cũng như sự sẵn sàng hy sinh.

Giáo dục về công lý

4. Trong thế giới chúng ta, trong đó giá trị nhân vị, phẩm giá và các quyền con người, - tuy có những lời tuyên bố chủ ý-, nhưng chúng đang bị đe dọa nghiêm trọng do xu hướng thịnh hành chỉ theo những tiêu chuẩn lợi ích, lợi lộc và sở hữu, điều quan trọng là không được tách rời ý niệm công lý ra khỏi những căn cội siêu việt của nó. Thực vậy, công lý không phải chỉ là một hiệp ước đồng thuận giữa con người với nhau, bởi vì điều công chính, tự nguyên thủy, không do luật lệ con người xác định, nhưng do căn tính sâu xa của con người. Chính cái nhìn toàn diện về con người giúp ta không rơi vào một quan niệm duy khế ước về công lý và nhờ đó cũng mở ra một chân trời liên đới và thương yêu (6).

Chúng ta không thể không biết rằng một số trào lưu văn hóa tân thời, được các nguyên tắc kinh tế duy lý và cá nhân chủ nghĩa hỗ trợ, đã làm cho niệm công lý xa lạ với các căn cội siêu việt của nó, tách nó khỏi bác ái và liên đới. ”Xã hội con người không phải được cấu thành nhờ các quan hệ quyền lợi và nghĩa vụ mà thôi, nhưng hơn nữa và trước tiên bằng những quan hệ nhưng không, từ bi và hiệp thông. Lòng bác ái luôn biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa cả trong những quan hệ giữa con người với nhau, bác ái mang lại một giá trị hướng thần và cứu độ cho mọi sự dấn thân xây dựng công lý trên thế giới” (7).

”Phúc cho những người đói khát công lý vì họ sẽ được no đầy” (Mt 5,6). Họ sẽ được no đầy vì họ đói khát quan hệ ngay chính với Thiên Chúa, với bản thân, với anh chị em và với toàn thể thụ tạo.

Giáo dục về hòa bình

5. ”Hòa bình không phải chỉ là vắng bóng chiến tranh và không thể thu hẹp vào việc giữ thế quân bình giữa các lực lượng đối nghịch. Không thể đạt được hòa bình trên trái đất nếu không bảo vệ thiện ích của con người, tự do đả thông giữa con người với nhau, tôn trọng phẩm giá con người và cácc dân tộc, chuyên cần thực thi tình huynh đệ” (8). Hòa bình là thành quả của công lý và kết quả của bác ái. Hòa bình trước tiên là hồng ân của Thiên Chúa. Các tín hữu Kitô chúng ta tin rằng Chúa Kitô là hòa bình đích thực của chúng ta: nơi Ngài, trên thập giá, Thiên Chúa đã hòa giải thế gian với Người và đã phá hủy những hàng rào chia cách chúng ta với nhau (Xc Ep 2,14-18); nơi Ngài có một gia đình duy nhất được hòa giải trong tình yêu.

Nhưng hòa bình không phải chỉ là một hồng ân được nhận lãnh, mà còn là một công trình cần được xây dựng. Để thực sự là những người kiến tạo hòa bình, chúng ta phải tự giáo dục về cảm thông; tình liên đới, sự cộng tác, tình huynh đệ, chúng ta phải tích cực giữa lòng cộng đoàn và cảnh giác trong việc thức tỉnh lương tâm con người về những vấn đề quốc gia và quốc tế, và tầm quan trọng của việc tìm kiếm những phương thức thích hợp để tái phân phối tài nguyên, đẩy mạnh sự tăng trưởng, cộng tác vào việc phát triển và giải quyết các xung đột. ”Phúc cho những người xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”, Chúa Giêsu đã nói như thế trong bài giảng trên núi (Mt 5,9).

Hòa bình cho tất cả mọi người nảy sinh từ công lý của mỗi người và không ai có thể trốn tránh nghĩa vụ thiết yếu thăng tiến công lý, theo thẩm quyền và trách nhiệm riêng của mình. Tôi đặc biệt mời gọi người trẻ, vốn luôn hướng về các lý tưởng, hãy kiên nhẫn và kiên trì tìm kiếm công lý và hòa bình, vun trồng sự yêu thích những gì là công chính và chân thực, cả khi điều này đòi phải hy vọng và đi ngược dòng.

Hướng mắt lên nhìn Thiên Chúa

6. Đứng trước thách đố khó khăn trong hành trình công lý và hòa bình, chúng ta có thể bị cám dỗ tự hỏi như Tác giả Thánh Vịnh: ”Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi: ơn phù trợ tôi đến từ nơi nao?” (Tv 121,1).

Tôi muốn mạnh mẽ nói với tất cả mọi người, đặc biệt là người trẻ, rằng: ”không phải các ý thức hệ cứu vãn thế giới, nhưng là nhờ qui hướng về Thiên Chúa hằng sống, Ngài là Đấng tạo dựng nên chúng ta, là người bảo đảm tự do của chúng ta, người bảo đảm những gì thực là tốt và chân thực.. Qui hướng về Thiên Chúa không chút dè dặt, Ngài là mẫu mực nhữnggì là công chính và đồng thời là tình yêu vĩnh cửu. Và điều gì có thể cứu vớt chúng ta nếu không phải là tình yêu?” (9). Tình yêu vui mừng về chân lý, là sức mạnh giúp chúng ta có khả năng dấn thân cho chân lý, cho công lý, cho hòa bình, vì tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả (Xc 1 Cr 13,1-13).

Hỡi những người trẻ thân mến, các bạn là hồng ân quí giá cho xã hội. Các bạn đừng để mình nản chí thất vọng trong những khó khăn và đừng chiều theo những giải pháp giả dối, chúng thường xuất hiện như con đường dễ dàng nhất để khắc phục các vấn đề. Các bạn đừng sợ dấn thân, đương đầu với vất vả và hy sinh, con những con đường đòi trung thành và kiên trì, khiêm tốn và tận tụy. Các bạn hãy tín thác sống tuổi trẻ của các bạn và những ước muốn sâu xa mà các bạn cảm thấy về hạnh phúc, về chân lý, về vẻ đẹp, về tình yêu chân thực! Hãy sống nồng nhiệt giai đoạn này của cuộc sống, giai đoạn rất phong phú và đầy phấn khởi. Hãy ý thức chính các bạn là tấm gương khích lệ cho người lớn, và hễ các bạn càng cố gắng vượt thắng những bất công và tham ô, càng mong ước một tương lai tốt đẹp hơn và dấn thân xây dựng tương lai ấy, thì các bạn càng là những tấm gương cho người lớn. Hãy ý thức về những tiềm năng của các bạn và đừng bao giờ com cụm vào mình, trái lại hãy biết làm việc cho một tương lai rạng ngời hơn cho tất cả mọi người. Các bạn không bao giờ lẻ loi. Giáo Hội tín nhiệm các bạn, theo dõi, khích lệ các bạn và mong muốn cống hiến cho các bạn điều quí giá nhất: đó là khả năng hướng mắt lên nhìn Thiên Chúa, gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Đấng là công lý và hòa bình.

Tôi ngỏ lời với tất cả anh chị em, là những người nam nữ quan tâm đến chính nghĩa hòa bình! Hòa bình không phải là một thiện ích đã đạt được, nhưng là một mục tiêu mà tất cả và mỗi người chúng ta phải khao khát. Chúng ta hãy nhìn về tương lai với niềm hy vọng mạnh mẽ hơn, chúng ta khích lệ nhau trong hành trình, làm việc để mang lại cho thế giới một khuôn mặt nhân bản và huynh đệ hơn, và chúng ta hãy cảm thấy mình được liên kết với nhau trong trách nhiệm đối với các thế hệ trẻ hiện nay và tương lai, đặc biệt qua việc giáo dục họ trở thành những người yêu chuộng hòa bình và xây dựng hòa bình. Chính trên căn bản ý thức ấy, tôi gửi đến anh chị em những suy tư này và tôi gửi đến anh chị em lời kêu gọi: chúng ta cùng liên kết sức mạnh tinh thần, luân lý và vật chất của chúng ta để ”giáo dục người trẻ về công lý và hòa bình”.Vatican ngày 8 tháng 12 năm 2011

+ Biển Đức 16, Giáo Hoàng

Chú thích:
1. Biển Đức 16, Diễn văn trước Chính quyền miền Lazio, Thành phố và Tỉnh Roma (14-1-2011): Osservatore Romano, 15-1-2011, tr.7
2. Chú giải Tin Mừng thánh Gioan, 26,5
3. Biển Đức 16, Thông điệp Caritas in veritate (29-6-2009), 11: AAS 101 (2009), 648; Xc Paolo VI, Thông điệp Populorum progressio (26-3-1967), 14: AAS 59(1967), 264.
4. Biển Đức 16, Diễn văn khai mạc Hội nghị giáo phận tại Vương cung Thánh đường thánh Gioan ở Laterano (6-6-2005): AAS 97 (2005), 816.
5. Xc Gaudium et Spes, 16
6. Xc Biển Đức 16, Diễn văn tại Quốc hội liên bang Đức (Berlin 22-9-2011): Osservatore Romano, 24-9-2011, tr.6-7.
7. Biển Đức 16, Thông điệp Caritas in veritate (29-6-2009), 6: AAS 101 (2009), 644-645.
8. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 2304
9. Biển Đức 16, Canh thức với giới trẻ (Koeln, 20-8-2005): AAS 97 (2005), 885-886.


 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Caritas Việt Nam - Hội nghị thường niên năm 2011 và kỷ niệm 3 năm hoạt động.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
08:29 16/12/2011
XUÂN LỘC - Ngày 13-15/12/2011, Caritas Việt Nam tổ chức Hội Nghị thường niên năm 2011 và kỷ niệm ba năm hoạt động tại TGM Xuân Lộc với chủ đề: “Hiệp thông để thực thi sứ vụ Bác ái”.

Xem hình ảnh

Tham dự hội nghị có 4 vị Giám mục: Đức cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, Gm Gp Xuân Lộc, Chủ tịch UBBAXH - Caritas VN; Đức Cha Tôma Vũ Đình Hiệu, Phó Chủ tịch UBBAXH (Giáo tỉnh Sài gòn); Đức cha Giuse Nguyễn Văn Yến, Phó Chủ tịch UBBAXH(Giáo Tỉnh Hà nội); Đức cha FX Lê Văn Hồng, Phó Chủ tịch UBBAXH (Giáo tỉnh Huế); Lm Đaminh Ngô Quang Tuyên, Tổng Thư ký Ủy ban LBTM; Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, nguyên Giám đốc Caritas Việt Nam và hiện đang là Tổng Thư Ký Ủy ban Công lý Hòa Bình; đại diện Ban tôn giáo Trung ương, Ban tôn giáo Tỉnh Đồng nai; cùng tham dự có hơn 100 đại biểu Caritas của 26 giáo phận, đại biểu của một số Dòng Tu và khách mời.

Từ sáng ngày 13/12, ban tổ chức đã đón tiếp ân cần các đại biểu từ các giáo phận miền Bắc, vùng cao nguyên, miền Tây. TGM Xuân Lộc với cơ sở rộng rãi, khang trang, các tham dự viên được phục vụ tận tình chu đáo.

I. Chiều ngày 13/12.

Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh gặp gỡ các vị Giám đốc Caritas các Giáo phận với lời chào mừng và khích lệ. Ngài ước mong các thành viên mạng lưới Caritas Việt Nam tiếp tục dấn thân mạnh mẽ hơn nữa trong sứ vụ bác ái Kitô giáo.

Cha Vinhsơn Vũ Ngọc Đồng, Giám đốc Caritas Việt Nam, chào đón những tham dự viên và cầu chúc hội nghị diễn tốt đẹp, hy vọng sẽ đem lại những hoa trái cho công việc phục vụ tại các Giáo phận.

Sau đó là Khóa Tập huấn dành riêng cho Quý Cha Giám đốc Caritas 26 Giáo phận.

Nữ tu Lucia Nguyễn Thị Hồng Vân, Tiến sĩ Tâm lý thuộc Dòng Nữ Tử Bác Ái, trình bày đề tài: “Kỹ năng ra quyết định” với những nội dung chính sau:

1. Khẳng định phẩm chất của người lãnh đạo Caritas
2. Định nghĩa quyết định
3. Để có thế quyết định hiệu quả
4. Các phong cách quyết định
5. Một số nguyên tắc trong tiến trình quyết định
6. Các kiểu cách quyết định trong cộng đoàn
7. Xác định phương pháp ra quyết định

Sau nội dung chính, thuyết trình viên chia sẻ thêm về “Dự thảo ngân sách và Quản lý tài chánh” là một trong những đường lối làm việc khoa học để có thể hội nhập vào quốc tế.

II. Ngày 14.12

A. Buổi sáng

Từ sáng sớm, Ban tổ chức chào đón quý Đức Cha, quý Cha và toàn thể quý khách về tham dự Hội nghị.

Đức Cha Chủ tịch UBBAXH tuyên bố khai mạc Hội nghị với lời chào mừng và cầu chúc sức khỏe đến tất cả đại biểu tham dự.

Hôm nay, đánh dấu một biến cố ý nghĩa của Ủy ban Bác ái xã hội – Caritas Việt Nam, đó là ngày lễ kỷ niệm 3 năm hoạt động, sau khi được tái thành lập từ năm 2008. Caritas Việt Nam mới được ba tuổi nên còn rất nhiều giới hạn, hy vọng với những ý kiến đóng góp xây dựng để Caritas Việt Nam tiến bước vững vàng hơn trong tương lai. Đức Cha cũng gởi lời cầu chúc Giáng Sinh và Năm Mới an bình cùng với lời tri ân đến tất cả mọi người.

Cha Vinhsơn Vũ Ngọc Đồng giới thiệu tổng quát chương trình làm việc của Hội nghị Thường niên 2011 và lễ kỷ niệm 3 năm hoạt động Caritas Việt Nam.

A. Phần tham luận

1.Tham luận của Đức Cha Chủ tịch UBBAXH-Caritas Việt Nam.

Đức cha Đaminh mở đầu phần tham luận với chủ đề: “Hiệp thông để thực thi sứ vụ Bác ái”.

Nội dung gồm 2 phần chính: tầm quan trọng của nội tâm trong công tác Tông đồ và Hiệp thông trong việc thực hiện sứ vụ Bác ái.

Cái tâm là quan trọng để thúc đẩy những hoạt động bác ái; làm điều tốt chưa đủ, phải làm với cái tâm tốt nữa mới được. Giữa Hiệp thông và Bác ái có một tương quan sâu đậm và nội tại, vì đều có nguồn gốc là tình yêu. Tinh thần Hiệp thông được diễn tả trong cả hai chiều hướng: giữa người làm bác ái và cả trong mối tương quan giữa các tông đồ bác ái với người dân. Tình hiệp thông phát xuất từ sự hiệp thông trọn vẹn của cộng đoàn Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì vậy, khi thực thi bác ái trong tinh thần hiệp thông, người tông đồ thông truyền Tình Yêu Ba Ngôi vào lòng con người và nâng họ lên hòa nhập vào mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.

Đức Cha nêu mẫu gương Chân Phước Têrêsa Calcutta, một cuộc đời kết dệt bằng những nghĩa cử bác ái trong tinh thần hiệp thông; và đó là nguồn phát sinh sức mạnh vô biên của tình yêu Thiên Chúa.

2. Tham luận của Ủy ban Loan báo Tin Mừng (LBTM)

Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên trình bày chủ đề: “Bác ái là con đường Loan báo Tin Mừng”.

Khởi đi từ Giáo huấn của Chúa Kitô, linh mục thuyết trình cho thấy chọn lựa bác ái của Hội Thánh như một con đường LBTM từ thời các Tông đồ cho đến hôm nay. Ngài cũng cho thấy con đường LBTM của Hội Thánh Việt Nam ngay từ ban đầu là con đường của bác ái. Xã hội Việt Nam còn nhiều bóng tối, vì thế cần có một cuộc Tân LBTM mà việc bác ái xã hội là một bước đi quan trọng.

Ngài cũng nêu một số kiến nghị liên quan đến sự phối hợp giữa Caritas và Ủy ban LBTM cũng như những Ủy ban liên hệ về nổ lực gây ý thức trách nhiệm thực thi bác ái, hỗ trợ thực tế các “điểm nóng bác ái”.

3. Tham luận của ban Tôn giáo Tỉnh Đồng Nai

Đại diện phía chính quyền, ông Trần Thanh Hùng, Trưởng ban Tôn giáo Tỉnh Đồng Nai, bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Caritas Việt Nam vì những đóng góp tích cực sau ba năm tái thành lập, nhất là trong vấn đề an sinh xã hội.

Theo ông Hùng: hoàn cảnh đất nước Việt nam hiện nay, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, trong xã hội xuất hiện không ít những gia đình những người bị tổn thương cần được giúp đỡ. Đây là một trong những vấn đề nhạy cảm khó khăn, không phải ai cũng làm được và làm có hiệu quả.

“Trong hoàn cảnh đó, việc thành lập UBBAXH được chính quyền đón nhận như một tin vui, vì kể từ thời điểm ấy, Hội thánh Công giáo Việt Nam chính thức có một tổ chức góp phần thiết thực và hiệu quả vào việc phục vụ người nghèo khổ. Kể từ khi thành lập đến nay, Caritas Việt Nam với trách nhiệm là “Mục tử cộng đồng”, “một hiệp hội mở rộng cho tất cả mọi người để thể hiện tình yêu bao la của Thiên chúa qua những hoạt động cụ thể, thiết thực, có tổ cức, có kỹ thuật, có hiệu quả cho những người nghèo khổ vầ vật chất cũng như tinh thần”, đã góp phần tích cực trong lãnh vực giáo dục giới trẻ, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, giúp đỡ những người nghèo khó bệnh tật…

Riêng với Caritas Xuân Lộc, nơi mà Giám Mục Ủy Ban cũng đồng thời là chủ chăn của Giáo phận, trong những năm qua đã góp phần quan trọng cùng chính quyền địa phương để giải quyết những vấn đề an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh, nếu quy ra tiền mỗi năm đều đóng góp trên 100 tỉ đồng. Gần đây những chương trình, dự án có quy mô lớn như: Trường Trung cấp nghề Hòa Bình, phòng khám nhân đạo Xuân Hòa, cô nhi viện Thiên bình, Trung tâm chăm sóc hỗ trợ, tư vấn người nhiễm HIV/AIDS và tới đây, dự án Phòng khám đa khoa xuân đức khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo được UBND tỉnh đồng nai chấp thuận chủ trương, sẽ được khởi công xây dựng ngay trên địa bàn Thị xã Long khánh.

Năm nay là năm đầu tiên trong chương trình Ngũ niên mừng kim khánh của giáo phận Xuân lộc; trng địa phận này với 233 giáo xứ, 873.440 giáo dân, gần 200 đan viện cộng đoàn Dòng tu và 30 cơ sở bác ái từ thiện đã đang và sẽ thực hiện công tác bác ái từ thiện xã hội với tôn chỉ “Yêu anh chị em như yêu chính mình”. Tôi hy vọng rằng, các thành viên của Caritas Việt Nam nói chung và Caritas Xuân lộc nói riêng sẽ tiếp tục “đồng hành cùng dân tộc”, thực hiện hoạt động bác ái xã hội theo đúng nội quy quy chế của Hội Caritas theo đúng đường hướng chung của Giáo hội và chính sách pháp luật của nhà nước. Cần tiến hành nhiều hoạt động bác ái từ thiện hơn nữa, đặc biệt chú trọng chiều sâu, chất lượng và hiệu quả của các hoạt động nhất là cộng cuộc xóa đói giảm nghèo, để từng bước làm giảm nguồn gốc đau khổ về vật chất, an ủi về tinh thần như lời phát biểu của của vị Giám mục ủy ban loan báo Tin mừng: ‘Bái ái chính là khởi đầu và là kết thúc của cộng cuộc loan báo Tin mừng. Cần có một tầm nhìn mới và một con tim mới. bác ái không phải là cho, là bố thí mà là trả lại cho người nghèo cái mà họ đáng được hưởng. và cách chúng ta làmbác ái cũng là cách chúng ta đang trả lại cho Thiên /chúa, cách trả này được thể hiện qua những hành động cụ thể với một tâm tình tạ ơn và lòng khiêm cung…”.

Nhân dịp UBBAXH – Caritas việt Nam tổ chức hội nghị thường niên và kỷ niệm 3 năm ra mắt hội đoàn Caritas Việt Nam, tôi xin có đôi lời chia sẽ với hội nghị trong tâm tình mong muốn được đón nhận những thành quả tốt hơn, đẹp hơn của những tấm lòng bác ái, “Chúa sẽ trả công bội hậu cho những ai đã làm theo lời Người”. Xin kính chúc quý Giám mục và toàn thể quý vị đại biểu có mặt trong hội nghị ngày hôm nay lời chúc sức khỏe và bình an. Xin trân trọng cám ơn”.

Sau giờ giải lao, Đức Cha Đaminh tặng quà cho các đại diện chính quyền. Toàn thể Hội nghị chụp hình lưu niệm.

4. Tham luận của Lm Gioan Phương Đình Toại: “Mục vụ chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS”.

Cha Toại trình bày tổng quát về tình hình nhiễm HIV/AIDS hiện nay tại Việt Nam. Ngài cho thấy dấu hiệu đáng mừng là sự giảm bớt những ca nhiễm bệnh; tình trạng kỳ thị, bị bỏ rơi cũng giảm đáng kể và thế giới vẫn đang tìm cách điều trị HIV sớm. Ngài cũng nêu lên những đóng góp của Caritas các Giáo phận trong lãnh vực chăm sóc, mục vụ cho người nhiễm HIV/AIDS với các hoạt động chủ yếu: gây nhận thức về HIV/AIDS, tư vấn, chăm sóc, thăm viếng, điều trị…Ngài trình bày những thách thức và khó khăn đang gặp phải, cũng như những định hướng cho hoạt động tương lai trong vấn đề mục vụ chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS.

5. Tham luận của Thạc sĩ Giuse Phạm Quang Thùy: “Đào tạo và huấn luyện nguồn nhân lực để thực thi hữu hiệu sứ vụ Bác ái”.

Thạc sĩ cho thấy tầm quan trọng của việc đào tạo và huấn luyện nguồn nhân lực trong công cuộc xây dựng và phát triển Caritas Việt Nam. Sau đó, thầy Thùy giới thiệu tổng quát những đề tài các khóa huấn luyện với phương châm 3 Đ: Đúng (linh đạo Caritas, mục đích và nhu cầu); Đạt (Mục tiêu, ứng dụng); Đẹp (Hợp tác, tổ chức). Nội dung chính của việc huấn luyện để phát triển bền vững là 3 T: Tâm (Thiên Chúa là Tình Yêu); Trí (kiến thức chuyên môn) và Tài (kỹ năng nghiệp vụ cần thức) với ý thức rằng: “Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng” (Lc 17,10).

6. Tham luận của Giới Y tế Công giáo

Bác sĩ Huỳnh Tuấn Cảnh, đại diện Giới Y tế Công giáo nêu lên 2 hoạt động nổi bật của Giới Y tế Công Giáo là: Công tác khám bệnh từ thiện và công tác giáo dục giới tính, trợ giúp y tế cho công nhân viên chức, học sinh, sinh viên. Hai hoạt động này đem lại những kết quả thực tế, tốt đẹp cho người bệnh. Tuy nhiên vẫn còn đó những bất cập đáng lưu ý và cần có những thay đổi cần xem xét thực hiện, để việc trợ giúp y tế thực sự mang hiệu quả lâu dài, tốt đẹp cho sức khỏe của người bệnh. BS Cảnh cũng thay mặt cho Giới Y tế, sẵn sàng cộng tác bằng những khả năng của mình, để nối dài bàn tay yêu thương của Thiên Chúa đến mọi người.

7. Thánh lễ tạ ơn

Thánh lễ đồng tế do Đức Cha Đaminh chủ tế, cùng đồng tế có 3 Đức Cha và tất cả các cha tham dự Hội nghị.

Trong bài giảng lễ, Đức Cha Tôma Vũ Đình Hiệu mời gọi các thành viên Caritas sống tinh thần khiêm nhường phục vụ, quan tâm đến những người nghèo khổ, bệnh tật… như chính Đức Giêsu đã nêu gương. Ngài là Đấng Messia mà nhiều người không đón nhận, không tôn vinh, vì Ngài luôn âm thầm đến với người nghèo và tội lỗi. Nhưng Đấng Messia vẫn mãi là Đấng Cứu Độ cho mọi người và mọi thời.

Bữa tiệc huynh đệ trong niềm vui tạ ơn ghi dấu kỷ niệm ba năm hoạt động của Caritas Việt Nam.

B. Buổi chiều

Nội dung là các báo cáo hoạt động bác ái xã hội của Caritas Trung ương và các Giáo phận.

Báo cáo của Caritas Trung ương.

Lm Vinhsơn Vũ Ngọc Đồng SDB, Giám đốc Caritas Việt Nam tổng kết những hoạt động năm 2011 với những nội dung chính:

1. Những sự kiện đáng ghi nhớ của Caritas Việt Nam từ khi thành lập năm 1967, tái thành lập năm 2008. Sự kiện ý nghĩa trong năm 2011 là việc Caritas Việt Nam gia nhập vào Caritas châu Á tháng 03/2011 và Caritas quốc tế tháng 05/2011, tổ chức Hội thảo với các đối tác Misereor, Caritas Đức và Secours Catholique- Caritas Pháp, về chiến lược 2012 – 2016.

2. Hoạt động của Caritas Trung ương với những nỗ lực của các phòng Phục vụ sự sống (chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS, khuyết tật, bệnh nhân phong, bảo vệ sự sống, cứu trợ thiên tai); chương trình học bổng (Con Đường Sáng, Caritas Slovakia); phòng Đào tạo và Truyền thông (tổ chức các khóa Tập huấn, thông tin tạo sự hiệp thông – liên đới…) và phòng Tài chính – kế toán.

3. Đôi nét về hoạt động của Caritas 26 Giáo phận trong các lãnh vực bác ái xã hội khác nhau như: Chăm sóc người Khuyết tật, người nhiễm HIV/AIDS, bệnh nhân phong, bảo vệ sự sống, chăm sóc y tế và bảo vệ môi trường; các dự án thăng tiến con người về nhân bản, tri thức, nghề nghiệp, cho vay vốn phát triển kinh tế; cứu trợ và khắc phục hậu quả thiên tai.

4. Đánh giá chung và dự phóng cho tương lai: rất nhiều nhân viên, hội viên, tình nguyện viên Caritas có nhiệt tâm, nhiệt tình nên các chương trình hoạt động đem lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, khó khăn gặp phải là thiếu nhân sự có chuyên môn, hệ thống tổ chức chưa hợp lý và chặt chẽ. Các Giáo phận đều ước muốn kiện cường tổ chức, đào tạo chuyên môn và mở rộng mạng lưới Caritas Việt Nam đến các Giáo hạt, Giáo xứ. Bên cạnh đó, mỗi Giáo phận còn có những dự phóng đặc trưng trong các lãnh vực, phù hợp với nhu cầu của địa phương.

Cha Vinhsơn cũng trình bày đôi nét về Dự thảo Kế hoạch 5 năm của Caritas Việt Nam (2012 – 2016) và xin sự đóng góp ý kiến của quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ và các thành viên Caritas cho đến cuối tháng 01.2012.

Báo cáo của Caritas các Giáo phận.

Bản báo cáo của 26 Giáo phận đã được Văn phòng Caritas Việt Nam tổng hợp, in thành tài liệu và được trao đến quý Cha Giám đốc Caritas các Giáo phận. Vì thế, trong phần báo cáo trước Hội nghị, mỗi Giáo tỉnh cử đại diện trình bày thay vì tất cả mọi Giáo phận đều thực hiện. Hầu như tất cả các Giáo phận đều có những hoạt động bác ái xã hội chung như đã nêu trên, vì thế chỉ xin đan cử nét nổi bật của các Giáo phận báo cáo hôm nay:

1. Giáo tỉnh miền Bắc: 3 Giáo phận đại diện trình bày gồm có Caritas Lạng Sơn, Caritas Hải Phòng và Caritas Vinh. Ngoài những hoạt động thông thường như khuyến học, chăm sóc người khuyết tật, thăng tiến cộng đoàn…, mỗi Caritas có những điểm mạnh sau:

• Caritas Lạng Sơn nổi bật với chương trình hỗ trợ trẻ OVC (Orphans – HIV Children), tiếp xúc với quý thầy cô giáo và học sinh nghèo để động viên và hỗ trợ cần thiết cho việc thăng tiến giáo dục;

• Caritas Hải Phòng nổi bật với hoạt động chăm sóc mục vụ cho người nhiễm HIV/AIDS, phòng chống và truyền thông về HIV/AIDS.

• Caritas Vinh nổi bật trong lãnh vực cứu trợ và khắc phục hậu quả thiên tai.

2. Giáo tỉnh miền Trung: Caritas Kontum và Caritas Huế đại diện báo cáo

• Caritas Kontum: nổi bật về hoạt động mục vụ cho người mắc bệnh phong. Là một Giáo phận với gần 40 dân tộc, diện tích rộng, Kontum phải nỗ lực rất nhiều để có thể tiếp cận được với những bệnh nhân phong sống âm thầm trong các khu vực vùng sâu, vùng xa.

• Caritas Huế: nổi bật về hoạt động bảo vệ sự sống với các ngôi nhà bảo vệ sự sống, chôn cất thai nhi và các nhóm tư vấn cho các bà mẹ mang thai ngoài ý muốn để họ giữ lại sự sống Chúa tặng ban.

3. Giáo tỉnh miền Nam: Với Caritas Phan Thiết, Long Xuyên và Cần Thơ

• Phan Thiết: là một trong số rất ít Giáo phấn có cơ cấu tổ chức khá ổn định. Hoạt động nổi bật của Caritas Phan Thiết là chương trình tín dụng – quỹ tiết kiệm cho các hộ gia đình nghèo và hỗ trợ học bổng cho các học sinh nghèo hiếu học, tổ chức ngày hội lần thứ nhất dành cho người khuyết tật.

• Long Xuyên: nhiều hoạt động quy mô đã có và vẫn tiếp tục được phát triển, nhất là các trường Khuyết tật, trường dạy nghề, các lớp tin học, Anh văn cho các học sinh nghèo Tại Long Xuyên, có nhiều chương trình học bổng cho các học sinh nghèo như: Con Đường Sáng, Slovakia, Enfants du Mekong, nhóm Thiện nguyện Đức, nhóm Nhân Ái Đền Thánh Giuse…

• Cần Thơ: những bước chập chững, tiệm tiến, nhiêu khê và khiêm tốn đã đem lại một số kết quả tốt đẹp cho người dân. Nổi bật của Caritas Cần Thơ là mối quan tâm đến việc đào tạo và huấn luyện chuyên môn cho các thành viên, hội viên, tình nguyện viên của Caritas Giáo phận và các Giáo xứ.

Chia sẽ của đại diện các Dòng Tu Nam – Nữ và quỹ từ thiện.

1. Cha Antôn Trần Văn Bài – Linh phụ Tu hội Bác Ái – đại diện các Dòng tu nam: hầu hết các Dòng tu đều tham gia hoạt động bác ái xã hội theo Linh đạo của mỗi Dòng. Tuy nhiên, không có một số liệu thống kê tổng hợp đầy đủ, nên Cha Antôn chỉ nêu lên đôi nét hoạt động của Tu hội Bác Ái đã thực hiện trong năm qua như: đón tiếp các nhóm giáo dân đến tĩnh tâm, giúp các em học sinh nghèo, người khuyết tật, già yếu, neo đơn, làm nhà tình thương…

2. Nữ tu Anna Hoàng Thị Tấn – Dòng MTG Xuân Lộc – đại diện các Dòng tu nữ: quan tâm tạo công ăn việc làm cho người nữ nghèo; chăm sóc người khuyết tật, giúp họ hội nhập vào cộng đồng, sống tự lập, dự án cải thiện đời sống người khuyết tật: các lớp may, thêu…; mở lớp học tình thương ở nhiều độ tuổi.

3. Nữ tu Marta Phan Thị Tuyết Hồng – Đại diện Quỹ từ thiện Têrêxa (Teresa Charity) một tổ chức do thầy Phó tế Giuse Vũ Thành An thành lập) với những hoạt động chính sau:

- Cung cấp cơm gạo, chăm sóc cho những cụ già nghèo đói, neo đơn
- Nuôi trẻ mồ côi, con cái của những người nữ mang thai ngoài ý muốn
- Cứu trợ lũ lụt
- Mong hòa nhập vào hoạt động bác ái rộng lớn của toàn thể Hội Thánh Việt Nam.

4. Nữ tu Anna Nguyễn Tấn Xinh – Dòng Thánh Phaolo Thành Chartres (Tỉnh Dòng Sàigòn) giới thiệu đôi nét về hoạt động bác ái của Hội Dòng qua hình ảnh:

- Các mái ấm dành cho người dân tộc: giáo dục đức tin, nghề nghiệp…
- Chăm sóc cho người khuyết tật
- Các Lưu xá, nhà nội trú…

Sau đó là phần chia sẻ nhóm: 3 nhóm theo 3 Giáo tỉnh và 1 nhóm của các Dòng tu về định hướng tương lai cho hoạt động Bác ái xã hội của địa phương.

Kết thúc một ngày làm việc với nhiều nội dung trong ơn lành của Chúa.

III. Ngày 15.12

Kinh sáng và Thánh lễ khởi đầu một ngày mới trong ân sủng và tình yêu Thiên Chúa. Đức Cha FX Lê Văn Hồng chủ tế, Đức Cha Giuse Nguyễn Văn Yến giảng lễ.

Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Tổng Thư Ký Ủy ban Công lý Hòa Bình (UBCLHB), chia sẽ vài tâm tình. Ngài là người đi tiên phong trong một số Ủy ban của HĐGMVN. Ngài bày tỏ lòng biết ơn đối với quý Đức Cha và toàn thể Hội Nghị đã mời tham dự dịp kỷ niệm này và bày tỏ sự sẵn sàng cộng tác của UBCLHB, của cá nhân cũng như các nhóm ngài phụ trách trong các lãnh vực chuyên môn như kinh tế, luật pháp, học thuyết Xã hội của Hội Thánh…

Nội dung chính của buổi sáng gồm 3 phần:

Phần 1: Đúc kết thảo luận nhóm về định hướng hoạt động tương lai.

Đại diện của mỗi Giáo tỉnh và Dòng tu nam – nữ trình bày phần đúc kết thảo luận của mỗi nhóm. Cả ba Giáo tỉnh đều mong muốn phát triển nội lực và tìm cách để hỗ trợ lẫn nhau trong các hoạt động. Một số lãnh vực nổi bật được đưa ra bàn thảo.

Các tham dự viên cũng đóng góp nhiều ý kiến xoay quanh việc phát hành thẻ Hội viên Caritas và nội dung chương trình cho các kỳ họp HNTN. Đa số đều mong muốn đưa Linh đạo Caritas vào chương trình thường huấn của các Linh mục, nhờ đó tinh thần Bác ái được lan rộng và thống nhất tại địa phương.

Phần 2: Cha GĐ Caritas Việt Nam giới thiệu chương trình hành động của năm 2012

Ngoài việc khai triển chương trình hành động như năm ngoái, riêng năm 2012, Caritas Việt Nam muốn khởi sự những dự án phục vụ cho người tạm cư.

Đức Cha Đaminh cũng hướng dẫn thêm một số điểm liên quan đến ngân quỹ của Caritas sao cho phù hợp, sử dụng đúng mục tiêu đề ra trong các dự án và có báo cáo minh bạch sau khi sử dụng.

Vì những vấn đề trao đổi liên quan trực tiếp đến tổ chức hoạt động của các Giáo phận, nên các tham dự viên đóng góp ý kiến rất cụ thể, rõ ràng làm cho bầu khí của HNTN vào những giây phút cuối lại thêm sôi nổi hẳn lên.

Ngoài ra, Hội nghị dành thời gian để xem xét một cách kỹ lưỡng việc phát hành thẻ Hội viên Caritas, xác định lại thành viên và chức năng của Hội đồng Quản Trị (HĐQT)

Tất cả những ý kiến sẽ được HĐQT và văn phòng Caritas Việt Nam đón nhận, nghiên cứu và thực hiện sao cho sứ mệnh phục vụ bác ái ngày càng hữu hiệu hơn, thúc đẩy tinh thần hiệp thông trong Hội thánh Việt Nam và mở rộng hội nhập với đường hướng quốc tế.

Phần 3: Bế mạc Hội nghị

Cha Vinhsơn đúc kết nội dung chương trình HNTN diễn ra từ chiều ngày 13.12 đến trưa ngày 15.12.

Đức cha Đaminh cảm ơn cha Tổng thư ký và các nhân viên trong văn phòng Trung ương đã hết lòng chuẩn bị và tổ chức HNTN 2011, cảm ơn sự hiện diện của quý cha giám đốc và các đại biểu từ 26 Giáo phận, các Dòng tu, các khách mời đã tề tựu, dù mệt nhọc vẫn luôn hăng say. Một bầu khí tốt đẹp của những tâm hồn cùng một ý hướng, cùng một tâm tình cầu nguyện cho tình bác ái được thể hiện trong những ngày qua.

Cha Vinhsơn đại diện ban tổ chức cảm ơn Quý Đức Cha, Quý Cha và toàn thể Quý Đại biểu về tham dự Hội nghị. Lời cảm ơn đặc biệt được gởi đến Đức Cha Đaminh, Đức Cha Tôma, Quý Cha, Quý Thầy và toàn thể những người cộng tác đã đón tiếp, phục vụ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt của các Đại biểu suốt những ngày qua.

Hội nghị thường niên năm 2011 kết thúc trong tâm tình tri ân Thiên Chúa và cảm ơn nhau, cùng mở ra cho một năm mới của Caritas Việt Nam với nhiều đổi mới và nổ lực hơn trong việc phục vụ bác ái. (x. Caritasvietnam.org).

Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong kỳ họp thường niên, từ ngày 25-9-2008, tại Xuân Lộc, đã xác nhận tầm quan trọng và sự cần thiết của Caritas Việt Nam trong Giáo hội Việt Nam. Caritas thật sự đã đổi mới bản chất và phương thức hành động khi Đức Thánh Cha Beneđictô XVI chỉ định vị Hồng y đầu tiên, Oscar Andres Rodriguez, làm Chủ tịch Caritas Internationalis thay cho những người giáo dân giữ chức vụ này từ mấy chục năm nay. Hành động này như muốn xác định Giáo Hội toàn cầu muốn Hiệp hội Caritas đóng vai trò lớn lao hơn trong sinh hoạt của Giáo Hội và người tín hữu cần xác tín rằng “hoạt động bác ái chính là trách nhiệm của mỗi tín hữu và cũng là bản chất của Giáo hội Công giáo” như Đức Thánh Cha đã xác định trong Thông điệp Deus Caritas est (Thiên Chúa là Tình Yêu), số 20.

Caritas: Theo nguyên ngữ Latinh, từ Caritas có nghĩa là bác ái, là tình yêu bao la, là tình thương quảng đại hay hoạt động từ thiện. Việc liên đới với người nghèo và dấn thân phục vụ họ theo giáo huấn và gương sống của Đức Giêsu là một đòi hỏi của bác ái Kitô giáo, đồng thời là sứ mệnh căn bản của Giáo Hội. Giáo hội Công giáo đã khuyến khích thành lập nhiều tổ chức Caritas quốc gia để thể hiện tình yêu thương này ở khắp nơi. Caritas đầu tiên được thành lập vào năm 1897, tại Freiburg, Đức, sau đó được hình thành tại nhiều quốc gia khác như Thuỵ sĩ (1901), Áo (1903), Hoa Kỳ (Catholic Charities, 1910).

Caritas Quốc tế (Caritas Internationalis) là một tổ chức liên kết các hoạt động bác ái trên phạm vi toàn cầu của Giáo hội Công giáo. Tổ chức này được thành lập từ năm 1951, hiện có 162 thành viên Caritas cấp quốc gia. Trụ sở được đặt tại Piazza San Calisto 16, 00153, Roma, Italy. Caritas Quốc tế cứu trợ những người nghèo khổ, tật bệnh hay gặp hoàn cảnh khốn cùng, không phân biệt tôn giáo, quốc gia, chủng tộc, chính trị.

Caritas Việt Nam

- Đầu năm 1965, Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam (HĐGMVN) thành lập Caritas Việt Nam: Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đặc trách; Linh mục G.B. Hồ Văn Vui làm Giám đốc.

- Năm 1968, Caritas Việt Nam do Đức cha Philipphê Nguyễn Kim Điền đặc trách. Caritas Việt Nam bắt đầu nhắm đến các kế hoạch phát triển lâu dài.

- Năm 1969, vì các hoạt động xã hội đòi hỏi nhu cầu chuyên môn nên Caritas Việt Nam cộng tác với trường Cán sự Xã hội của Tu đoàn Nữ tử Bác Ái thánh Vinh Sơn mở 2 khoá đào tạo nhân viên sơ cấp. Sau khi học xong, những cán sự xã hội này về làm việc trong các văn phòng Caritas Giáo phận, phòng phát thuốc, cơ sở dạy trẻ em nghèo, dạy phụ nữ cắt may…

- Năm 1972, Caritas Việt Nam do Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đặc trách. Ngài mở rộng hoạt động bác ái xã hội bằng việc thành lập cơ quan điều hợp các tổ chức, gọi là Hội Hợp tác để xây dựng lại Việt Nam gọi tắt là COREV (Cooperation pour la Réédification du Vietnam). Hội này gồm các thành viên: Caritas Việt Nam, Hội Hồng Thập Tự VN, Tổng Liên đoàn Lao công VN, CRS Hoa kỳ… Hội này được Đức cha Henri Lemaitre, Khâm sứ Toà Thánh, chúc lành và yểm trợ đắc lực. Hội xây dựng được nhiều làng định cư, nhiều trung tâm xã hội.

- Đầu tháng 7-1974, Linh mục Phêrô Trương Trãi, Giáo phận Nha Trang, được cử làm Giám đốc.

- Tháng 6-1976, Caritas Việt Nam được lệnh tạm ngưng hoạt động, bàn giao cơ sở và phương tiện cho Uỷ ban Quân quản TP. HCM.

- Ngày 19-09-2001, Uỷ ban Bác ái Xã hội (UBBAXH) được thành lập trong Đại hội VIII của HĐGMVN, tại Hà Nội, nhưng chỉ chính thức hoạt động sau kỳ họp ngày 26-09-2002, với sự tham dự của đại biểu các giáo phận và các dòng tu để lo các công việc từ thiện, phát triển, cứu trợ khẩn cấp và hoạt động xã hội như hiện nay. Uỷ Ban đã bầu ra Ban Thường trực tại Trung ương cũng như Ban Bác ái Xã hội tại các giáo phận.

Trong tinh thần hội nhập với thế giới, UBBAXH Việt Nam xin phép sử dụng lại tên Caritas Việt Nam và các tên Caritas Giáo phận cho thống nhất ở trong nước và phù hợp với mạng lưới Caritas toàn cầu.

Ngày 2-7-2008, Ban Tôn giáo Chính phủ đã gửi Công văn số 941TGCP-CP chấp thuận cho HĐGMVN tái lập Caritas ở cấp Trung ương và cấp giáo phận.

(Theo quy chế Caritas Việt nam)

Lm Giuse Nguyễn Hữu An, Caritas Phan thiết
 
40 Năm Hồng Ân Của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ
Gioan Lê Quang Vinh
14:00 16/12/2011
40 Năm Hồng Ân Của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ

Khi chú ý nghe Lời Chúa trong Thánh Lễ, người tín hữu giáo dân đôi khi cảm thấy khó hiểu trước những cách dịch như “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón Chúa Kitô”, “Ôi Đá Tảng của tôi, chúc tụng Chúa” hay “Sừng người ngẩng lên trong vinh quang”! Và những kiểu dịch như vậy làm chúng ta thấy xa lạ với Kinh Thánh.

Thánh Công Đồng chung Vaticanô trong Hiến chế Dei Verbum đã long trọng quả quyết rằng “Giáo Hội đã luôn luôn tôn kính Kinh Thánh cũng như đã tôn kính chính Thánh Thể Chúa”. Và Công Đồng cũng dạy: “Lối vào Kinh Thánh cần phải rộng mở cho các tín hữu Chúa Kitô (...). Vì thế, Giáo Hội, như một người mẹ ân cần, liệu sao để có những bản dịch thích hợp và chính xác sang các ngôn ngữ khác nhau, nhất là dịch từ nguyên văn các Sách Thánh.”

Ấp ủ lời của Giáo Hội là Mẹ, cùng với lòng yêu mến muốn phục vụ Lời, cách đây đúng 40 năm, một nhóm linh mục, tu sĩ có khả năng chuyên môn đã gặp nhau tại nữ đan viện Biển đức để bắt đầu một công cuộc có tầm quan trọng lớn lao, là dịch thuật Kinh Thánh. Trong số đó có cha Trần Phúc Nhân, cha Xuân Ly Băng, Sr. Lê thị Hiên, cha Pascal Nguyễn Ngọc Tỉn... Từ đó, Thiên Chúa hoạt động mạnh mẽ trong Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, sau này có thêm các Cha Trần Ngọc Thao, Nguyễn Văn Hoà, Hoàng Đắc Ánh, Trịnh văn Thậm v.v...

40 năm đã qua đi kể từ ngày đầu tiên ấy. Thời gian 40 năm làm mọi người liên tưởng đến cuộc hành trình của dân thánh Chúa trong sa mạc, được nuôi dưỡng bằng manna và bằng chính Lời Thiên Chúa.

40 năm đi qua, con số thành viên chính thức của nhóm là 26, trong đó có những người tạm nghỉ, có vị đã được Chúa gọi về. Thành quả của Nhóm thì thật đáng kể.

Năm 1972, Nhóm đã cho in tác phẩm đầu tiên: Các Giờ Kinh: Phần Thường Niên tuần I. Đến năm 1975 thì Nhóm đã cho ra đời đủ 4 tuần Kinh Phụng Vụ.

Sau biến cố 1975, việc in ấn không còn dễ dàng, cộng thệm những khó khăn đến từ mọi phía. Nhưng Nhóm vẫn tiếp tục in dưới dạng sách quay ronéo Các Giờ Kinh Mùa Vọng, Giáng Sinh, Mùa Chay, Phục Sinh, các sách Nghi thức và một số sách kinh Thánh.

Từ năm 1990 đến nay, Nhóm đã dịch và xuất bản Lời Chúa nhiều hình thức khác nhau. Đặc biệt trong dịp Sinh Nhật thứ 40 này, trọn bộ Kinh Thánh ấn bản mới nhất đã ra đời, làm dấu chứng của ân sủng và tình yêu của Đấng đã đến ngỏ lời với thế gian.

Như Lời Thiên Chúa khi đi vào thế gian này gặp không ít những chống đối hay nghi ngờ, Nhóm CGKPV cũng gặp không ít những ngăn trở, phiền toái và rắc rối. Điều cảm nghiệm được của những người tham dự Lễ Kỷ Niệm 40 năm này có lẽ giống nhau, được hát lên tạ ơn trước tiệc mừng: “Hồng ân Thiên Chúa bao la, muôn đời con sẽ ngợi ca ơn Người”. Cha Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh nói lên trong buổi lễ kỷ niệm: “Tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa”, và Cha Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Vinh sơn Phạm Trung Thành cũng chia sẻ điều ấy khi ngài đại diện các Bề trên lên phát biểu cảm nghĩ.

Bài viết này không nhằm trình bày những thành quả của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, mà chỉ điểm qua đôi nét trong quãng đường dài 40 năm ấy, để cùng với các thành viên của Nhóm, ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa vì Ngài đã ưu ái ban Lời Ngài cho trần gian.

Mừng 40 năm hiện diện là mừng 40 năm hồng ân, và ngay những gian lao trắc trở cũng được Tình Yêu Chúa sử dụng để sinh hoa kết trái ngọt ngào. Cùng với Nhóm Phiên Dịch CGKPV, chúng ta cảm tạ Chúa, và có thể thưởng thức hoa quả của Nhóm nơi website mới khai trương dịp này: http://kinhthanhchomoinguoi.org/

Nguyện xin cho “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (TV.119,105) cho đến muôn đời.

Gioan Lê Quang Vinh
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Báo chí ngoại quốc phỏng vấn ĐHY Gioan B. Phạm Minh Mẫn
Alessandro Speciale
09:38 16/12/2011
WGPSG -- Vào những ngày sau Công nghị 2011 của Tổng Giáo phận TP.HCM, Ông Alessandro Speciale - Phóng viên của Religion News Service và Ucan Agency (PV) - đã thực hiện một cuộc phỏng vấn với ĐHY Gioan B. Phạm Minh Mẫn như sau:

PV: Ngài có thể mô tả tình hình tự do tôn giáo ở đất nước của ngài như thế nào?


ĐHY: Tôi nhận thấy quyền con người trên đất nước Việt Nam, nói chung, là được hệ thống luật pháp quy định thành những cái phép với sự kiểm soát chặt chẽ, với những hạn chế, theo nhận thức của những người làm luật và thi hành luật, và tất nhiên là dưới sự lãnh đạo của người Cộng sản. Tuy nhiên, so với thời gian sau năm 1975, hiện nay có sự đổi mới và mở rộng hơn. Tự do tôn giáo cũng ở trong tình trạng đó. Sự kiểm soát chặt chẽ hay mở rộng còn tuỳ thuộc hoàn cảnh cùng quan điểm của những địa phương khác nhau.

PV: Đâu là những hạn chế chính yếu?

ĐHY: Đối với các tổ chức tôn giáo, hiện nay không có quyền tự do xây trường học và bệnh viện, ngoài những nhà trẻ, những phòng khám, những mái ấm chăm lo người nhiễm HIV/AIDS, trẻ mồ côi, khuyết tật, người mang thai ngoài ý muốn.

PV: Tình hình ơn gọi như thế nào? Chủng viện có nhiều chủng sinh không?

ĐHY: Hiện nay, ơn gọi tại Việt Nam còn rất phong phú. Trong giáo phận của tôi, hiện nay có 250 bạn trẻ đang tham dự các lớp dự tu, chờ được vào Đại chủng viện.

PV: Ngài cảm thấy chủ nghĩa ‘thế tục hóa’ có ảnh hưởng như thế nào ở Việt Nam?

ĐHY: Trọng tâm đời sống của nhiều người hiện nay là cơm áo gạo tiền, chứ không phải đạo đức làm người. Lối sống thế tục ảnh hưởng nhiều lên người dân, nhất là các bạn trẻ. Dầu vậy, vẫn còn đông đảo người Công giáo đi nhà thờ, tham gia các sinh hoạt đạo.

PV: Ngài có thể mô tả như thế nào về mối tương quan hiện tại với chính quyền?

ĐHY: Mối quan hệ giữa Nhà Nước và Giáo Hội có những thay đổi tùy theo thời điểm và địa phương. Nhưng nói chung, hiện nay có phần ít căng thẳng hơn những thập niên trước. Cũng có thể nói là có phần cải thiện. Một số bằng chứng cụ thể là sự hiện diện của vị Đại diện Vatican không thường trú tại Việt Nam, HĐGM.VN nay có nhiều Uỷ ban Mục vụ, một số giáo phận có nhiều tổ chức mục vụ, tổ chức tông đồ giáo dân, một số sinh hoạt đạo không cần phải có phép trên văn bản như trước kia.

PV: Cuộc tranh cãi về tài sản của Giáo Hội diễn biến như thế nào? Tài sản đó có được trả lại cho Giáo Hội không?

ĐHY: Từ sau năm 1975, người dân Việt Nam cũng như các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam không còn quyền sở hữu nhà đất. Nhà Nước chủ trương đất đai là sở hữu toàn dân, người dân chỉ có quyền sử dụng đất, còn Nhà Nước quản lý mọi sự. Đang khi đó, Nhà Nước lại chủ trương kinh tế thị trường. Từ đó, sinh ra nhiều tranh chấp trong xã hội cũng như tình trạng tham nhũng, bất công, đặc biệt trong lãnh vực đất đai. HĐGM.VN đã có văn bản đề nghị Nhà Nước tu chính hệ thống luật pháp, nhìn nhận quyền tư hữu là quyền chính đáng của người dân. Trên thế giới ngày nay, hầu hết các quốc gia đều nhìn nhận quyền tư hữu là một trong những quyền căn bản của con người. Theo tôi biết, nhiều nhân sĩ trí thức ngoài Công giáo, kể cả một số cán bộ, cũng đồng ý với quan điểm này.

PV: Có người nói rằng: các Giám mục “quá mềm” đối với chính quyền. Ngài trả lời như thế nào?

ĐHY: Có những bài viết trên mạng truyền thông phê phán Giám mục này, Giám mục kia chạy theo Cộng sản hoặc là làm tay sai cho Cộng sản, thậm chí còn kết tội Vatican thoả hiệp với Nhà Nước Việt Nam. Có lẽ lý do chính là vì họ thấy các Giám mục không làm theo như họ, không dùng mạng truyền thông lên tiếng phản đối, tố cáo việc này việc kia trong xã hội. Thế nhưng, tôi nhận thấy đại đa số người Công giáo không có cùng cái nhìn như vậy. Còn các Giám mục ý thức sứ mạng chính của Giáo Hội là xây dựng sự hiệp thông và loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu, là Tin Mừng Sự Sống, Tin Mừng Tình Thương, Tin Mừng Bình An cho mọi người. Do đó, các Giám mục theo con đường đối thoại trong ánh sáng chân lý và tình yêu, đã từng góp ý mở đường cho Nhà Nước cải tiến hệ thống luật pháp, nền giáo dục, cách quản trị, nhằm vượt qua những vấn đề nghiêm trọng trong xã hội.

Riêng tôi cũng đã nhiều lần lên tiếng cho người Công giáo, và cho Nhà Nước thấy những bất công trong xã hội, khai mở cho mọi người con đường đổi mới, đổi mới cả cách trị quốc ngày càng mang tính nhân bản, tôn trọng nhân quyền nhân phẩm của mọi người dân, đặc biệt người yếu thế, người lâm cảnh khó khăn. Có người trong Nhà Nước tâm sự với tôi: cái khó nhất trong các công việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, là việc tu thân, là đổi mới suy nghĩ và quan điểm về công bằng xã hội, về nhân phẩm, nhân quyền, về dân chủ, về cách trị quốc. Truyền thống văn hoá Việt Nam quan niệm trị quốc là “dân chi phụ mẫu”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Mặc dù nay thì có những người bảo tôi rằng thời nay thì “con đặt đâu cha mẹ ngồi đó”. Công cuộc đổi mới trong Giáo Hội cũng như trong xã hội, đều cần thời gian và ơn Chúa giúp, cùng sự đồng thuận của con người.

PV: Tại sao hoạt động của Giáo hội trong lãnh vực giáo dục và chăm sóc sức khỏe bị hạn chế? Giáo Hội có thể làm được gì trong các lãnh vực này?

ĐHY: Sau năm 1975, việc chăm lo sức khoẻ và giáo dục mọi người là thuộc độc quyền của Nhà Nước xã hội chủ nghĩa. Gần đây, Nhà Nước có chủ trương xã hội hoá những công việc đó, cho người dân và người nước ngoài tham gia xây trường, xây bệnh viện. Nhưng các tổ chức tôn giáo thì không được tham gia. Hồi tháng 5.2011, hội ý với một số Giám mục trong giáo tỉnh, tôi có đề nghị với Nhà Nước tu chính hệ thống luật pháp, trả lại sự bình đẳng bình quyền cho các tổ chức tôn giáo.

PV: Giáo Hội phản ứng thế nào đối với các tệ nạn xã hội đang ngày một gia tăng trong xã hội – thường do chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa tiêu thụ và những quan niệm đạo đức của phương Tây tác động lên?

ĐHY: Riêng tại Thành phố nầy, tôi cố gắng gây ý thức cho mọi người Công giáo làm hai việc. Một là “phòng”, hai là “trị”. “Phòng” qua việc giúp các gia đình, các cộng đoàn phát triển không những thành cái nôi của sự sống mới, mái ấm của tình thương, ngôi trường đầu tiên giáo dục con cái nên người tốt và hữu ích, mà còn thành một thành trì bảo vệ thế hệ trẻ khỏi lây nhiễm những thói hư tật xấu cùng các tệ nạn xã hội. “Trị” qua việc hợp lực với nhau chăm sóc và phục hồi các nạn nhân tại những trung tâm bác ái nhân đạo, tại những mái ấm tình thương...

PV: Ngài có cái nhìn thế nào về tương lai của Giáo Hội – ví dụ trong 5 năm nữa?

ĐHY: Đại Hội Dân Chúa Việt Nam tháng 11.2010, thống nhất mô hình xây Giáo Hội Mầu nhiệm - Hiệp thông - Sứ vụ, và mời gọi người Công giáo Việt Nam chung sức xây Giáo Hội Việt Nam theo mô hình đó. Công nghị giáo phận tháng 11.2011 tạo cơ hội cho mọi thành phần trong giáo phận, theo mô hình trên, chung sức xây mới gia đình tín hữu là Giáo Hội tại gia, xây mới cộng đoàn tu, cộng đoàn giáo xứ, các tổ chức tông đồ giáo dân, là Giáo Hội tại cộng đoàn, xây mới giáo phận cùng các cơ cấu tổ chức mục vụ, là Giáo Hội tại địa phương. Xây mới ngôi nhà Giáo Hội trên nền vững chắc là Lời Chúa, với bốn trụ cột vững bền là Chân Lý và Tình Thương, Công Lý và Hoà Bình. Trong ngôi nhà chung mới, người người, nhà nhà, trong các cộng đoàn tín hữu, sống trọn vẹn ba mối tình hiệp thông. Một là sống trọn tình hiếu thảo với Chúa là Cha trên trời. Hai là sống trọn nghĩa huynh đệ hợp nhất với anh em đồng đạo. Ba là sống trọn nghĩa huynh đệ đồng cảm và chia sẻ với anh em đồng bào và đồng loại. Sống và toả ra ánh sáng chân lý và tình yêu của Chúa nhằm làm chứng nhân và loan truyền Tin Mừng cứu độ cho mọi người.

PV: Di sản của ĐHY Nguyễn Văn Thuận được Giáo Hội Việt Nam cảm nhận và yêu chuộng như thế nào?

ĐHY: Riêng đối với bản thân tôi - có thể nói là người kế nhiệm ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận - ĐHY Phanxicô là tấm gương cho tôi noi theo: những khó khăn gian khổ, những lời kết tội bất công, Ngài đã biến nó thành cơ hội cho ơn Chúa trong lòng Ngài - đặc biệt ơn đức tin, ơn đức cậy, ơn đức mến - phát triển và đơm bông kết trái, vì sự sống và sự phát triển của mọi người.

PV: Giáo Hội Việt Nam làm gì để thực sự là ‘của Việt Nam’ chứ không phải là ‘hàng nhập’ từ nước ngoài?

ĐHY: Sau Công Đồng Vatican II, đã có những nỗ lực giúp cho Giáo hội Công giáo tại Việt Nam mang bộ mặt Việt Nam. Sau năm 1975, người Cộng sản Việt Nam coi Giáo hội Công giáo là một sản phẩm của Phương Tây, là đồng minh của thế lực Âu Mỹ. Nhưng sau mấy thập niên, nhiều người coi Giáo hội Công giáo là một tổ chức ích quốc lợi dân. Đến nay, tôi cảm thấy việc cần phải làm là bước theo đường lối của Chúa Giêsu, hoà nhập vào truyền thống văn hoá xã hội của dân tộc, tìm nơi đó những hạt giống lời Chúa, vun tưới cho những hạt giống đó phát triển và đơm bông kết trái, góp phần vun đắp nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương cho xã hội đất nước Việt Nam hôm nay.

(Nguồn: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20111212/13895)
 
Thông Báo
Chương trình tặng sách ''Huấn từ của ĐTC Bênêđictô XVI''
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
10:54 16/12/2011
Chương trình tặng sách
Huấn từ của ĐTC Bênêđictô XVI – năm B


Kính thưa Qu‎ý cha,

Để trợ giúp các linh mục trong sứ mạng rao giảng Lời Chúa và làm phong phú bài giảng trong thánh lễ, một vài anh chị em tín hữu giáo dân muốn gửi tặng một số linh mục, đặc biệt là các linh mục tại miền Bắc và vùng sâu vùng xa, mỗi cha 1 cuốn Huấn từ của ĐTC Bênêđictô XVI – năm B (chương trình 500 cuốn Huấn từ).

Vậy chúng con xin Qu‎ý cha gửi tên và địa chỉ cho chúng con theo số điện thoại cô Phương: 0903970119 hay email Chúng con sẽ gửi sách về toà giám mục của Qu‎ý cha sớm hết sức có thể.

Kính chúc Qu‎ý cha tràn đầy niềm vui, an bình và ân phúc của Chúa Hài Đồng.

Kính thư
 
Văn Hóa
Nghe bài hát: Mối Tình Giáng Sinh
Hà Đăng Đàm, ca sĩ: Hà Trâm
11:04 16/12/2011
Buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 11 tháng 12

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 11 tháng 12, Đức Thánh Cha đã nhắc nhớ lần kỷ niệm thứ 63 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến quyền căn bản nhất của con người là quyền được sống từ lúc thụ thai đến cái chết tự nhiên. Ngài nói:

“Trong dịp kỷ niệm thường niên Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, chúng ta nhớ rằng quyền đầu tiên là quyền được sống”.

Đề cập đến lễ Giáng Sinh sắp đến, Đức Thánh Cha khích lệ các tín hữu không nên bị lạc hướng bởi vẻ huy hoàng và những khía cạnh thương mại của không khí lễ hội nhưng nên dành cho ngày lễ này một ý nghĩa đích thực.

“Môi trường bên ngoài mang lại những thông điệp thương mại thường thấy dù trong một cách thế hạn hẹp do bởi cuộc khủng hoảng kinh tế. Các tín hữu Kitô được mời gọi để sống Mùa Vọng không bị xao xuyến bởi những ánh đèn trong khi biết đem những giá trị thích hợp cho mọi sự, và hướng cái nhìn nội tâm về Chúa Kitô”.

Buổi đọc kinh Truyền Tin này đánh dấu Chúa Nhật thứ Ba Mùa Vọng thường được gọi là Chúa Nhật “Gaudete” nghĩa là vui mừng. Dịp này, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã mời gọi cá tín hữu hãy hân hoan chuẩn bị cho ngày lễ Giáng Sinh.

Ngài nhấn mạnh rằng niềm vui đích thực không phải là một tâm trạng chóng qua, nhưng là một hồng ân, nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với con người sinh động của Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha nói:

“Phụng Vụ hôm nay gọi là Chúa Nhật Gaudete mời gọi chúng ta chuẩn bị trong kinh nguyện và những công việc lành thánh để kỷ niệm trong vui tươi biến cố Chúa Giêsu đến giữa chúng ta”.

Theo truyền thống từ lâu đời, cứ mỗi trưa chúa nhật thứ 3 mùa vọng, các em bé ở Roma thường mang tượng Chúa Hài Đồng đến đây xin Đức Thánh Cha làm phép để các em đặt vào hang đá máng cỏ trong gia đình các em. Năm nay có hơn 5 ngàn người gồm các trẻ em và các phụ huynh tháp tùng đến dự buổi đọc kinh truyền tin và xin Đức Thánh Cha làm phép tượng. Trước đó, họ đã tham dự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô vào lúc 10 giờ do Đức Hồng Y Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ, chủ sự.

Kinh Truyền Tin Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm

Hôm 8 tháng 12, Giáo Hội đã mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ngày lễ này đã được thiết định trong lịch Phụng Vụ của Giáo Hội từ năm 1854 khi Đức Giáo Hoàng Piô thứ 9 công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Theo truyền thống lâu đời từ các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm, Đức Thánh Cha đã đến quảng trường Tây Ban Nha đặt vòng hoa và cầu nguyện trước tượng đài Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, đối diện với trụ sở của Bộ Truyền Giáo.

Viên thị trưởng thành phố Rôma là ông Gianni Alemanno đã hiện diện cùng với đại sứ Tây Ban Nha Maria Jesus Figa. Hai vị Hồng Y Tây Ban Nha là Antonio Cañizares và Julian Herranz cũng hiện diện trong buổi lễ.

Trong buổi lễ, Đức Thánh Cha đã cầu nguyện cho những đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đặc biệt cho những người thất nghiệp sớm kiếm được công ăn việc làm. Ngài nói:

“Đức Maria giúp chúng ta nhìn thấy ánh sáng qua lớp sương mù dường như đang che lấp thực tại. Vì thế, cả chúng ta đặc biệt trong những ngày này hãy tiếp tục kêu cầu sự trợ giúp của Mẹ với tâm tình của những người con thảo trong đức tin.”

Dịp này Đức Thánh Cha đã vinh danh các tín hữu bị bách hại. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng chính vì Giáo Hội mang Chúa Giêsu, nên Giáo Hội gặp phải sự chống đối của đối thủ tàn ác, tượng trưng bằng con rồng đỏ khổng lồ. Con rồng đó vốn đã bị chiến bại trên trời, nay đang tấn công người phụ nữ là Giáo Hội, trong sa mạc trần thế. Nhưng trong mọi thời đại, Giáo Hội được ánh sáng và sức mạnh của Chúa nâng đỡ, được Chúa nuôi dưỡng trong sa mạc bằng bánh Lời Chúa và Thánh Thể. Vì thế, trong mọi sầu muộn, qua mọi thử thách, Giáo Hội chịu bách hại, nhưng rốt cuộc Giáo Hội chiến thắng. Chính vì thế Cộng đồng Kitô giáo là sự hiện diện, là bảo đảm tình yêu của Thiên Chúa chống lại mọi ý thức hệ oán thù và ích kỷ.

Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở rằng “Cạm bẫy duy nhất mà Giáo Hội có thể và phải sợ chính là tội lỗi của các phần tử của mình. Thực vậy, trong khi Mẹ Maria vô nhiễm, không vết nhơ tội lỗi, thì Giáo Hội là thánh, nhưng đồng thời cũng bị mang vết tội lỗi chúng ta.”

Thăm viếng tượng đài Đức Mẹ Vô Nhiễm tại quảng trường Tây Ban Nha không chỉ là truyền thống của các vị Giáo Hoàng mà còn là truyền thống của thành Rôma. Mỗi năm vào ngày 8 tháng 12, hàng ngàn người đến đây để cầu nguyện và tạ ơn Đức Mẹ.

Đức Thánh Cha cử hành lễ kỷ niệm 200 năm độc lập của các nước Mỹ Châu La Tinh

Hôm thứ Hai 12 tháng 12, đền thờ Thánh Phêrô đã tràn ngập các quốc kỳ của các nước Mỹ Châu La Tinh nhân thánh lễ kính Đức Mẹ Guadalupe và kỷ niệm 200 năm độc lập của các nước Mỹ Châu La Tinh.

Một bức ảnh lớn của Đức Mẹ Guadalupe hiện diện trên bàn thờ trong thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự toàn bộ bằng tiếng Tây Ban Nha với âm nhạc Creole. Đây là lần đầu tiên Đức Thánh Cha cử hành một thánh lễ như thế. Về ý nghĩa của ngày lễ, Đức Thánh Cha nói:

“Người kế vị Thánh Phêrô không thể để dịp kỷ niệm này trôi qua mà không trình bày niềm vui của Giáo Hội vì những hồng ân dư dật mà Thiên Chúa trong sự tốt lành vô biên của Ngài đã tuôn đổ năm này sang năm khác trên các quốc gia này, là những nước rất sùng mộ và hằng kêu cầu với Đức Trinh Nữ Maria Cực Thánh”.

Điệu bình ca Gregorian thường thấy trong các nghi lễ tại đền thờ Thánh Phêrô hom nay đã tạm nhường bước cho âm nhạc của các đàn guitars, tiếng sáo và tiếng trống Creole.

Trong khung cảnh hàng ngàn người thuộc các nước Mỹ Châu La Tinh đang hiện diện trong thánh lễ, Đức Thánh Cha đã chính thức công bố chuyến viếng thăm kế tiếp của ngài tại Mễ Tây Cơ và Cuba. Đây sẽ là chuyến viếng thăm thứ 2 của ngài tại Mỹ Châu La Tinh. Đức Thánh Cha nói:

“Nhờ sự trợ giúp và ơn Chúa quan phòng, tôi có ý định thực hiện một chuyến tông du trước lễ Phục Sinh sang Mễ Tây Cơ và Cuba để công bố Lời Chúa Kitô và xác tín rằng đây là thời khắc quý báu để rao giảng một đức tin bền đỗ, một niềm hy vọng sống động và một tình bác ái nhiệt thành”.

Hiện diện trong thánh lễ là đại sứ các nước Mỹ Châu La Tinh và đông đảo các vị Hồng Y từ các quốc gia này. Nhiều vị sẽ tháp tùng với Đức Thánh Cha trong chuyến tông du sang Mễ Tây Cơ và Cuba vào năm tới. Chuyến tông du này sẽ diễn ra vào cuối tháng 3 năm 2012.

Đức Hồng Y José Francisco Robles Ortega trở thành tân Tổng Giám Mục Guadalajara

Tổng giáo phận Guadalajara /gua-da-la-ja-ra/ của Mễ Tây Cơ vừa có tân Tổng Giám Mục. Đó là vị Hồng Y 62 tuổi José Francisco Robles Ortega /fran-sis-ko rôb-leu or-te:-ga/, người đang là Tổng Giám Mục Monterrey.

Đức Hồng Y Ortega sẽ thay thế cho Đức Tổng Giám Mục Juan Sandoval Iñiguez năm nay 78 tuổi.

Đức Hồng Y Ortega sinh tại Mascota, Jalisco. Ngài thụ phong linh mục năm 1976 và được tấn phong Giám Mục năm 1991. Ngài thường được biết đến như một chuyên gia vè đối thoại liên tôn. Ngài là một trong các thành viên của Hội Đồng Tòa Thánh về Tân Phúc Âm Hoá.

Văn khố mật của Tòa Thánh sẽ trưng bày bản công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm và những suy tư của Thánh Bernadette

Tháng 2 năm 2012, Văn khố mật của Tòa Thánh sẽ trưng bày khoảng 100 tài liệu quý giá. Trong số này có nguyên bản một bản viết trên giấy da về tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm với tựa đề Bolla Ineffabilis Deus /bol-la in-ef-fa-bi-lis de:-ouz/ được ký bởi Đức Giáo Hoàng Piô thứ 9 vào năm 1854.

Trong số những tài liệu được trưng bày cũng sẽ có một lá thư của Thánh Nữ Marie Bernadette Soubirous /ma-ri-e ber-na-det sou-bi-ruz/ gởi cho Đức Giáo Hoàng Piô thứ 9 vào năm 1876 đề cập đến những thị kiến về Đức Mẹ tại Lộ Đức. Đây là một trong số hiếm hoi những lần Đức Mẹ hiện ra đã được Tòa Thánh chính thức công nhận. Lá thư được viết tay bằng tiếng Pháp bởi chính Thánh Bernadette Soubirous.

Khắp nơi trên thế giới chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh

Bất chấp cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, niềm vui Giáng Sinh vẫn là ngày hội lớn của toàn thế giới.

Chúng ta đang chứng kiến những hình ảnh muôn màu muôn sắc trên đường phố Luân Đôn, Anh Quốc.

Cây thông điện tử cao hàng mấy chục mét vừa được bật sáng tại quảng trường Trafalgar của Luân Đôn trong tiếng reo hò của hàng trăm ngàn người đang tuôn đổ ra đầy đường phố.

Cảnh tượng quý vị và các bạn đang thấy là ánh đèn thắp sáng cả một vùng rộng lớn tại Vịnh Rio của Ba Tây nơi ngày Quốc Tế Giới Trẻ sẽ được tổ chức vào năm 2013.

Tại Strasbourg bên Pháp các thiếu nữ đánh trống mừng đón Giáng Sinh bên cạnh khu chợ phiên đặc biệt nhân dịp Noel.

Trong khi đó dân chúng tại New York, Hoa Kỳ chen chúc nhau tại Rockfeller Center để chờ đón giây phút cây thông Giáng Sinh được bật điện.

Tại Vatican, thủ đô của Giáo Hội Công Giáo các công nhân cũng đang ráo riết trang hoàng cho cây thông Giáng Sinh cao đến 100 feet, tức là khoảng hơn 30 mét do nước Ukraine tặng cho Tòa Thánh. Vào ngày 16 tháng 12, cây thông sẽ được bật điện trong một nghi lễ có sự hiện diện của đại diện Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Giáo Ukraine. Sự hiện diện của cả hai Giáo Hội lớn tại Ukraine trong nghi lễ này là một dấu chỉ rất khích lệ. Trong thời kỳ cộng sản, các tài sản của Giáo Hội Công Giáo đã bị tịch thu giao cho Chính Thống Giáo quản lý. Tranh chấp về tài sản giữa hai Giáo Hội đang được giải quyết từng bước.

Vai trò của phụ nữ trong việc kiến tạo hòa bình

Trong cuộc họp hôm 7 tháng 12, ba phụ nữ đến từ những vùng đất đang hay đã trải qua các cuộc chiến ác liệt và dai dẳng tại Israel, Northern Ireland và Bosnia Herzegovina đã trình bày về vai trò của phụ nữ trong việc kiến tạo hòa bình trong những vùng này.

Sarah Bernstein trong Ủy Ban Đối Thoại với Do Thái Giáo nói:

“Giới truyền thông thường chẳng bao giờ đề cập đến những nỗ lực kiến tạo hòa bình về căn bản đang âm thầm diễn ra. Nhưng thực ra mà nói có nhiều nỗ lực như thế tại Jerusalem, Israel, Palestine, giữa người Do Thái và người Palestine, giữa các tín hữu Do Thái và các tín hữu Kitô và Hồi Giáo”.

Sarah Bernstein là một tín hữu Do Thái, bà cho rằng đối thoại giữa các niềm tin khác nhau trong khu vực Trung Đông là chìa khóa kiến tạo hòa bình.

Sarah Bernstein nói thêm:

“Các cộng đoàn tôn giáo khác nhau sống riêng rẽ ngăn cách và hiếm khi gặp gỡ nhau, đó là lý do tôi tin rằng đối thoại là thiết yếu bởi vì chỉ khi chúng ta có thể lắng nghe nhau chúng ta mới có thể nhận ra tính chất nhân bản chung của các nhóm tôn giáo và chủng tộc”.

Ruth Patterson là một mục sư Tin Lành. Bà tin rằng chính những người đang sống trong các cuộc chiến hay những ai chịu ảnh hưởng bởi các cuộc chiến ấy phải mở lòng mình ra cho những giải pháp sau chiến tranh, chứ không phải là những người quan sát tình hình từ bên ngoài. Bà nói:

“Chúng ta phải cậy nhờ đến quyền năng có trong sự tha thứ. Không phải là vấn đề hãy quên đi vì người ta không thể quên được những vết thương, nhưng là một hình thức nhớ đến có tính chữa lành nơi đó họ đi đến lựa chọn hãy bỏ qua vết thương đó đi để mà tiến bước”.

Aida Abadzic Hodzic, một tín hữu Hồi Giáo, giáo sư tại Đại Học Sarajevo của Bosnia Herzegovina thì cho rằng nhà nước phải nhìn nhận quá khứ và tôn trọng sự thật lịch sử.

“Trước hết anh phải hình thành một nền kinh tế và một bối cảnh chính trị công bằng để đối thoại liên tôn có thể được khởi động và chúng ta phải thành thật. Nếu không chúng ta tiến được một bước thì phải lùi lại hai bước do thiếu bối cảnh chính trị”

Cuộc họp này là một phần trong những sinh hoạt mừng kỷ niệm 25 năm ngày thành lập trung tâm Foyers Unitas tại Rôma nhằm cổ vũ hòa bình. Các diễn giả đều cho rằng kiến tạo hòa bình thế giới là điều không đơn giản nhưng đó là không phải là một điều bất khả thi.

Quảng trường mới nhất của Rôma mang tên các hiệp sĩ Columbus

Khắp Rôma có nhiều quảng trường từ Piazza Navona đến Piazza Venezia. Mỗi quảng trường đều có một lịch sử riêng. Quảng trường mới nhất được dành để vinh danh những người Công Giáo trong đoàn các hiệp sĩ Columbus.

Carl Anderson, thủ lĩnh các hiệp sĩ Columbus nhận xét:

“Chúng tôi dấn thân nhiều hơn và hiện diện nhiều hơn tại Rôma tiếp tục công việc của chúng tôi. Thực sự khi mà đề cập đến vấn đề toàn cầu hóa thì không có nghĩa là các quốc gia xích lại gần nhau hơn nhưng là con người xích lại gần nhau hơn”.

Các hiệp sĩ Columbus có một lịch sử đặc biệt đối với thành Rôma. Trong thế chiến thứ Hai họ giúp giữ liên lạc giữa Vatican và Hoa Kỳ.

Sau khi Đồng Minh thả bom Rôma lần thứ hai, các hiệp sĩ Columbus đã giúp đưa thư của Đức Thánh Cha Piô thứ 12 đến tổng thống Roosevelt yêu cầu không được thả bom vào thành Rôma.

Các hiệp sĩ Columbus cũng đã giúp cho việc giáo dục trong thành phố được duy trì và các nhà trẻ được mở trong suốt thời gian chiến tranh.

Đức Hồng Y Castrillón Hoyos nhận xét:

“Trong thời kỳ khó khăn của chiến tranh, họ đã giúp các công dân Rôma đến với các cơ cấu của Giáo Hội”

Thị trưởng Rôma Gianni Alemanno thì nhận xét rằng:

“Các hiệp sĩ Columbus đã giúp giảm bớt thiệt hại chiến tranh trên thành phố chúng ta và khi đến thời điểm bắt đầu xây dựng các nhịp cầu giữa Hoa Kỳ và Italia thì đó là lúc hoạt động của các hiệp sĩ Columbus bắt đầu triển nở trên lãnh thổ chúng ta”.

Giờ đây ngay bên cạnh danh lam thắng cảnh Terme di Caracalla /ter-mei di ka-ra-ca-la/ (nghĩa là nhà tắm Caracalla) là quảng trường các hiệp sĩ Columbus. Du khách viếng thăm quảng trường có thể hiểu tại sao các hiệp sĩ Columbus đã giúp cứu Kinh Thành Muôn Thuở thoát khỏi bom đạn trong thế chiến thứ hai.

Đức Thánh Cha tiếp tổng thống Serzh Sargsyan của Armenia

Sáng 12 tháng 12, tổng thống Armenia ông Serzh Sargsyan đã được Đức Thánh Cha tiếp kiến tại Vatican. Cùng đi với tổng thống còn có ngoại trưởng nước này và đoàn tùy tùng.

Trong buổi gặp gỡ hai vị đã đề cập đến vai trò của Giáo Hội Armenia Tông Truyền và Giáo Hội Công Giáo trong vùng Âu Á, cũng như tầm quan trọng của việc xây dựng các giá trị luân lý nơi các thế hệ trẻ.

Các vị cũng đã trao tặng qùa lưu niệm. Sau đó, tổng thống đã được Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh là Đức Hồng Y Tarcisio Bertone /ta-si-si-ow be:r-to-nei/ tiếp kiến.

Cuộc viếng thăm của tổng thống Armenia là một phần trong chương trình thăng tiến quan hệ giữa nước này với Vatican và Italia.

Rabbi trưởng tại Anh được Đức Thánh Cha tiếp kiến

Cũng trong buổi sáng hôm 12 tháng 12, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã tiếp Rabbi trưởng Jonathan Sacks của Do Thái Giáo trong Liên Hiệp Các Cộng Đoàn Do Thái Giáo trong khối Thịnh Vượng Chung.

Cùng đi với Rabbi trưởng Jonathan Sacks còn có một đoàn đại biểu Do Thái Giáo.

Hai vị đã thảo luận về tương lai kinh tế và chính trị của Âu Châu và vai trò của đức tin.

Đức Thánh Cha viếng thăm một giáo xứ Rôma

Đức Thánh Cha đã cử hành thánh lễ Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng tại một giáo xứ của Rôma là giáo xứ Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc. Dịp này Đức Thánh Cha đã bày tỏ niềm cảm thông của ngài trước những khó khăn mà các gia đình phải gánh chịu vì cuộc khủng hoảng kinh tế. Ngài cũng nhấn mạnh rằng trong mùa lễ này các gia đình được khích lệ tìm kiếm Chúa hơn là những quà tặng. Đức Thánh Cha nói:

“Thách đố trước mặt chúng ta là hoạch định và vạch ra một hành trình hình thành đức tin đích thực, lôi cuốn tất cả những ai tiếp cận với đời sống Kitô, giúp họ không chỉ được nhận lãnh các Bí Tích mà thôi, nhưng còn là sống với các Bí Tích ấy để nên các Kitô hữu đích thực”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh thêm là tương lai Giáo Hội phụ thuộc vào thế hệ trẻ. Ngài nói:

“Hiện tại và tương lai của lịch sử và đức tin được phó thác cách riêng cho các con là những thế hệ trẻ. Giáo Hội kỳ vọng nhiều nơi lòng nhiệt thành của các con cũng như khả năng nhìn xa trông rộng, hoài bão theo đuổi các lý tưởng, và ao ước của các con cho một cuộc sống viên mãn”.

Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã đặc biệt chào thăm các em đã phụ giúp trong thánh lễ.

Đức Hồng Y John Patrick Foley của Philadelphia qua đời.

Sau một thời gian chiến đấu với bệnh bạch cầu, Đức Hồng Y John Patrick Foley, Tổng Giám Mục Philadelphia đã qua đời hôm 11 tháng 12 ở tuổi 76.

Năm 1984, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 đã cử ngài vào trách vụ chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Truyền Thông. Năm 2007, ngài đã chia sẻ sự kinh ngạc của ngài trước bổ nhiệm này. Ngài nói:

“Tôi nhận được một cú điện thoại từ sứ thần Tòa Thánh rằng Đức Thánh Cha có ý cử tôi vào trách vụ chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Truyền Thông. Tôi nói rằng có nhiều người ở ngay tại Rôma có kinh nghiệm hơn tôi. Nhưng ngài nói: ‘đúng thế’. Chắc chắn là có nhiều người ở Rôma nói tiếng Ý hay hơn tôi. Tôi hỏi ‘tôi có lựa chọn nào khác không?’ và ngài nói ‘chắc là không’. Thế là tôi hứa vâng theo ý của Đức Hồng Y và ngài bảo tôi hay Đức Thánh Cha bảo tôi điều gì thì tôi xin vâng như vậy”.

Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 đã gởi một bức điện cho Đức Tổng Giám Mục Chaput để chia buồn. Trong điện văn, Đức Thánh Cha đã ca ngợi hoạt động của Đức Cố Hồng Y trong lãnh vực truyền thông.

Trong suốt 25 năm, người Hoa Kỳ theo dõi các nghi lễ truyền hình trực tiếp từ Vatican như lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh đã quen thuộc với giọng nói của Đức Cố Hồng Y.

Với sự qua đi của Đức Hồng Y Foley, Hồng Y Đoàn còn 109 vị có quyền bầu Giáo Hoàng.
 
Trình thuật Giáng Sinh theo Thánh Matthêu và Luca
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
23:30 16/12/2011


(Mt 1: 18-25) Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.

Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.

Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.

Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.

Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:

Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.

(Lc 2: 1-20) Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.

Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.

Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.

Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê, lên thành Bêlem, miền Giuđê, là thành vua Đavít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đavít.

Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai.

Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.

Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.

Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng.

Nhưng sứ thần bảo họ: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân:

Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa.

Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.

Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.

Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.

Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.

Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.

Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.

Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.

Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.

(Mt 2: 1-15) Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđêa, thời vua Hêrôdê trị vì, thì có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.

Nghe tin ấy, vua Hêrôdê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao.

Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu.

Họ trả lời: Tại Bêlem, miền Giuđêa, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng:

Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđêa,ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđêa,vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời.

Bấy giờ vua Hêrôdê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện.

Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.

Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.

Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.

Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.

Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôdê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì kìa sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôdê sắp tìm giết Hài Nhi.

Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Aicập.