Ngày 06-11-2018
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Một Ly Sữa
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
05:31 06/11/2018
Chúa Nhật 32 Thường Niên B

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao hai bà goá. Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Các Vua. Chúa Giêsu gặp bà góa trong sân Đền Thờ Giêrusalem. Tiên tri Êlia gặp bà góa ở xứ Serepta. Một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ hai đồng kẽm và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.

Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Ở đó ngôn sứ đã gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa. Bà đã dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Lương thực còn lại để nuôi sống gia đình, bà đã giúp Êlia. Chúa đã trả công bội hậu cho bà và đứa con trai duy nhất thoát cảnh đói khổ. Một bà góa thời Chúa Giêsu. Gầy gò bé nhỏ, ăn mặc rất đơn sơ. Nghèo nàn nhưng bà đem tất cả số tiền mình có, hai đồng tiền kẽm là những gì bà có để nuôi sống mình. Bà dâng vào đền thờ giữa đám đông nhiều người bỏ nhiều tiền vào hòm tiền. Chúa đã khen bà là bỏ nhiều, dâng cúng nhiều hơn những người giàu khác.

Hai bà góa có một đặc điểm giống nhau. Đó là họ đã dâng cả những gì cần thiết nhất cho cuộc sống của mình và gia đình. Bà góa tại Sarepta dâng nắm bột chút dầu cuối cùng. Bà góa tại đền thờ dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình. Hai bà góa được đề cao có phải vì quà tặng mà họ đã cho không? Hiển nhiên là không. Hai đồng kẽm thì có đáng là bao. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì! Thánh Kinh đề cao họ là vì quà tặng ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghém cả tấm lòng người dâng. Đồng kẽm của bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả một tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà. Chiếc bánh nhỏ của bà goá xứ Sarepte là cả một cuộc sống của hai mẹ con trong lúc sắp chết đói.

Của cho không bằng tấm lòng người cho. Cho của mình dư thừa thì chẳng quý gì. Cho cái mình đang cần mới là quý. Và cho cái mình vừa cần vừa tiếc mới là quý nhất.

Của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều. Hai bà góa được đề cao là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và đối với nhà của Chúa. Họ được đề cao nhờ lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho những hành động của hai bà góa có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa. Và chính Chúa đã lên tiếng ca ngợi các bà. Chúa khen bà góa đã cho nhiều hơn tất cả những người khác đã bỏ tiền vào thùng hôm đó. Vì những người kia đã cho cái mà họ dư thừa, còn bà goá này cho tất cả tài sản của bà.

Biết bao người giàu có quý phái sang trọng bỏ tiền vào đền thờ, nhưng Chúa chẳng khen. Chúa chỉ khen bà góa và cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Chúa Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng.

Lối đánh giá của Chúa Giêsu đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác. Có khi chúng ta ca ngợi một người chỉ vì người ấy đã có những đóng góp lớn lao, đã đem lại những kết quả cụ thể, rõ ràng. Có khi chúng ta chê một người vì người đó kém cỏi, thiếu năng lực. Tiếng khen chê của ta thường dựa trên hiệu quả bề ngoài, và ít đụng đến phần nội tâm sâu thẳm. Lối đánh giá của Chúa Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình.Tôi xao xuyến khi bị chê, tự mãn khi được khen. Tôi quá trọng dư luận đến nỗi trở nên nô lệ cho dư luận. Thật ra tôi cần đánh giá mình dựa trên cái nhìn của Chúa. Chúa thấy tôi thế nào thì tôi là thế ấy. Điều quan trọng khiến tôi bận tâm đó là tôi có dâng tất cả bản thân cho Chúa không, chẳng giữ lại gì cho mình, dù chỉ một xu nhỏ. Cần rất nhiều liều lĩnh khi bỏ nốt đồng xu cuối cùng để thực sự trở nên người tín thác trọn vẹn vào Chúa. (Manna).

Việc từ thiện, việc đạo đức, nếu không có lòng yêu mến thì chỉ là phương tiện tìm danh giá và tìm lợi nhuận. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở đâu cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình công cộng với động lực chính là mua tiếng tăm.

Đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với cả tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là của cho quý hóa nhất. Yêu mến thì phải cho. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng. Xét về số lượng khách quan thì số tiền một phần tư xu so với năm, ba chục ngàn hoặc từng mấy trăm ngàn hay một triệu thì thật mỉa mai, thật tức cười. Nhưng với Chúa Giêsu hai đồng tiền nhỏ của người phụ nữ vô danh lại nhiều hơn hết. Điều có nghĩa là những công việc đạo đức và từ thiện, bác ái hơn nhau ở động lực và lý do hay mục đích chứ không phải ở số lượng. Giá trị của việc dâng cúng, việc bác ái không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng.Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta nói: ”Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Chính lúc cho đi là lúc lãnh nhận. Câu chuyện “Một ly sữa” như một chứng từ minh họa cho chân lý ấy.

Trước đây, có một cậu bé nghèo bán hàng rong để kiếm tiền đi học. Một hôm cậu không có được một đồng bạc dính túi mà bụng thì đói.

Cậu quyết định sẽ đến xin ăn tại căn nhà gần đó. Tuy nhiên, khi một cô gái trong nhà ra mở cửa thì cậu ngại quá nên thay vì xin ăn, cậu xin một ly nước lã! Cô gái nhìn thấy dáng vẻ của cậu thì biết rằng cậu đang đói, nên đem cho cậu một ly sữa lớn. Cậu uống chậm rãi, rồi hỏi: “Tôi phải trả bao nhiêu tiền?” Cô gái cười nhẹ và trả lời: “Cậu chẳng phải trả gì cả. Mẹ chúng tôi dạy rằng không bao giờ nhận tiền công khi làm một hành vi tử tế!” Cậu bé nói: “Vậy thế thì…tôi hết lòng cám ơn cô.”

Khi cậu rời ngôi nhà ấy thì chẳng những cậu cảm thấy thân thể mình khỏe mạnh hơn, mà lòng tin vào Thiên Chúa và con người cũng tăng mạnh thêm lên. Cậu từng nghĩ rằng cuộc đời mình khổ cực quá nên nhiều lần có ý muốn bỏ học.

Nhiều năm sau, cô gái ấy trở thành một phụ nữ và mắc bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ gần như bó tay. Cuối cùng họ gửi cô đến một thành phố lớn để mong tìm những chuyên viên chữa trị căn bệnh lạ của cô. Bác sĩ Howard Kelly được mời đến để chẩn bệnh. Khi nghe nói đến tên thành phố cũ của mình, mắt ông ánh lên một cách lạ lùng. Ông đứng dậy ngay để xuống phòng khám. Trong chiếc áo trắng của bác sĩ, ông đến gặp và nhận ra cô ngay. Ông trở về phòng khám và quyết tâm chữa cứu người phụ nữ ấy cho bằng được. Kể từ ngày hôm đó, ông nghiên cứu và theo dõi kỹ tình trạng sức khoẻ của cô. Sau những ngày cam go, căn bệnh đã thua cuộc.

Bác sĩ yêu cầu phòng tài chánh chuyển hoá đơn tính tiền viện phí của cô để cho ông phê trước. Ông nhìn vào tờ hóa đơn, rồi ghi vài chữ bên lề trước khi gửi đến cho cô. Cô rất sợ phải mở tờ hóa đơn ấy ra, vì cô biết rằng cô sẽ trả món nợ ấy suốt cả đời mình. Cuối cùng, cô cũng phải nhìn xuống hoá đơn và dừng lại để ý đến hàng chữ bên lề. Cô đọc thấy: “Đã thanh toán đầy đủ bằng một ly sữa!” Ký tên: Bác sĩ Howard Kelly.

Mắt cô đẫm lệ vì vui mừng và từ trái tim ngập tràn hạnh phúc vươn lên lời nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa! Chính Tình Yêu của Chúa đã lan truyền sang quả tim và bàn tay của con người.”

Cậu bé ngày xưa được tặng một ly sữa trong cơn đói đã trở thành Tiến Sĩ y khoa Howard Kelly, ông đã từng là một bác sĩ lỗi lạc tài ba. Năm 1895 chính ông là người sáng lập Johns Hopkins Division of Gynecologic Oncology (Phân khoa Ung Thư Phụ Sản) tại Đại Học Johns Hopkins, trường Đại Học đầu tiên của Hoa Kỳ dành cho việc nghiên cứu y khoa, được thiết lập năm 1876, tại Baltimore, Maryland.

Bạn, có bao giờ trong cơn đói bạn đã nhận được một hành vi tử tế, và bạn đã đền đáp thế nào với cuộc đời và con người đã tử tế với bạn? Hoặc bạn đã và sẽ làm gì cho một ai đó trong nỗi đói khát tinh thần hay vật chất của một người thân thương hoặc tha nhân Chúa đang gửi đến trong đời?



 
Thi ca suy niệm Chúa Nhật tuần 32 thường niên B
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
09:09 06/11/2018
Chúa Nhật 32 THƯỜNG NIÊN. B
(Mc 12, 38-44)
TẠI TÂM


Coi chừng Luật Sĩ giả hình,
Bên ngoài áo thụng, tâm linh hẹp hòi.
Công trường ưa được đua đòi,
Hội đường ghế nhất, gương soi mắt trần.
Kinh dài giả bộ lắm vần,
Gia tài nuốt hết, chia phần thù lao.
Chúa ngồi đối diện lối vào,
Bỏ tiền cúng hiến, đồng hào cắc xu.
Người giầu dâng cúng đền bù,
Có người bà góa, vài xu bỏ thùng.
Chúa vời môn đệ đến cùng,
Hãy xem, bà góa, bao dung tấm lòng.
Bà còn túng thiếu ăn đong,
Dám cho tất cả, sạch trong túi tiền.
Chắt chiu mong mỏi cửa thiền,
Tinh thần nghèo khó, cõi thiên tìm về.

Luật sĩ là những người có học thức và thông hiểu luật lệ. Họ có quyền giải thích và thêm bớt các chi tiết của bộ luật. Hôm nay Chúa cảnh cáo: Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Có lẽ họ nói một đường, làm một nẻo hoặc nói mà không thực hành, nên Chúa đã trách cứ họ. Họ ưa được người ta chào hỏi và thích xuất hiện giữa đám đông. Họ mong muốn tìm chút vinh hoa cho đời tạm này. Chúa Giêsu tố cáo họ là chỉ thích tỏ lộ ra bên ngoài cái không có trong tâm hồn.

Các luật sĩ là những kẻ kế thừa lãnh đạo dân chúng. Họ được dân chúng kính trọng và được xem là những người đạo đức. Họ đã cố gắng chu toàn các chi tiết luật lệ do chính họ suy diễn ra hơn là giữ chính luật. Họ lạm dụng sự tin tưởng và qúy mến của dân chúng để tìm mối lợi cho chính mình. Chúa Giêsu đã vạch trần những sự giả dối của họ.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nghe những lời các luật sĩ giảng dạy, nhưng đừng bắt chước họ vì họ nói mà không làm. Đọc tới đây chúng ta cũng thấy giật mình vì như chính Chúa đang nói với chúng ta. Nhiều lần chúng ta cũng đã khuyên dạy người này người kia làm điều này, thực hiện điều nọ, nhưng chính chúng ta lại không làm được. Nhất là những người có trách nhiệm giảng dạy như giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và các thầy dạy hay các bậc phụ huynh, chúng ta phải cố gắng không ngừng sống những gì mình giảng dạy. Thực tế cuộc sống, chúng ta phải chấp nhận rằng chúng ta là những con người yếu đuối hay sa ngã phạm tội. Chúng ta còn khoảng cách rất xa với lý tưởng. Như thánh Phaolô dạy: Điều tốt tôi muốn tôi không làm. Điều xấu tôi không muốn, nhưng tôi cứ làm. Chúng ta chỉ có một Thầy dạy tuyệt hảo đó là Chúa Giêsu Kitô.

Giả như khi chúng ta đi khám bác sĩ. Bác sĩ khuyên chúng ta hãy bỏ hút thuốc. Hút thuốc sẽ có hại cho sức khỏe và dễ bị ung thư phổi. Trong khi đó bác sĩ vẫn phì phèo điếu thuốc. Hỏi rằng chúng ta có phải nghe lời ông bác sĩ không? Các Bác sĩ dựa vào những khám phá của khoa học và hậu qủa sẽ xảy ra. Chính bác sĩ không thực hành được. Chúng ta không vì thế mà không nghe lời khuyên của bác sĩ.

Thực hành những lời khuyên đúng, sẽ có ích lợi cho chúng ta. Các vị bề trên giảng dạy đúng đường lối của Chúa, chúng ta có bổn phận lắng nghe, tuân giữ và thực hành. Chúa sẽ nhìn thấu tận tâm can của con người. Chúa Giêsu đã quan sát và biết được đáy lòng của người đàn bà góa, cho dù bà chỉ bỏ có hai đồng tiền vào hòm. Chúa khen bà thật tâm đã bỏ tất cả những gì bà có. Chúng ta sẽ lãnh nhận phần thưởng nếu chúng ta thực hành các điều Chúa dạy với cả tấm lòng thành.

THỨ HAI, TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
(Lc 17, 1-6).
GƯƠNG XẤU


Gương mù tật xấu phơi bầy,
Thế gian ô nhiễm, sa lầy bến mê.
Khốn thay phạm tội gớm ghê,
Gây ra gương xấu, bội thề dối gian.
Thà rằng cột cối đá hàn,
Đẩy xô xuống biển, biến tan cõi đời.
Các con cẩn thận giữ lời,
Thực tình hối cải, ơn trời thứ tha.
Dù rằng lỗi phạm qúa ba,
Cũng nên tha thứ, phôi pha xóa nhòa.
Bảy lần trở lại làm hòa,
Thành tâm hối lỗi, giao hòa bỏ qua.
Chúa thương xóa tội người ta,
Con người yếu đuối, xin tha mọi thời.
Lòng tin bé nhỏ trong đời,
Dù bằng hạt cải, khiến dời núi non.

THỨ BA, TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
(Lc 17, 7-10).
ĐẦY TỚ


Ngoài đồng đầy tớ trở về,
Trông nom coi sóc, mọi bề lo toan.
Nấu cơm dọn bữa liên hoan,
Thắt lưng buộc bụng, khôn ngoan vâng lời.
Chu toàn công việc ở đời,
Chủ ông tốt bụng, đôi lời ban khen.
Dù đây bổn phận sang hèn,
Thi hành theo lệnh, con sen trong nhà.
Phúc thay đầy tớ thật thà,
Yêu thương nâng đỡ, mặn mà giúp nhau.
Các con tôi tớ theo sau,
Thực hành lời dậy, hãy mau thưa rằng:
Chúng tôi vô dụng phải chăng,
Làm điều ủy thác, siêng năng thi hành.
Gắng công trách nhiệm hoàn thành,
Vâng theo thánh ý, ơn lành trao ban.

THỨ TƯ, TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
(Lc 17, 11-19).
PHUNG HỦI


Dọc theo biên giới ngoại dân,
Mười người phung hủi, tiến dần hét la.
Đồng thanh cất tiếng từ xa,
Lậy Thầy, thương xót, chữa da phong cùi.
Chúa thương loan báo tin vui,
Hãy đi trình diện, tới lui đền thờ.
Đi đường phong sạch không ngờ,
Trong lòng vui sướng, chẳng chờ đợi ai.
Một người quay lại công khai,
Ngợi khen lớn tiếng, thiên sai bởi trời.
Sấp mình thờ lạy Chúa Trời,
Tạ ơn Thiên Chúa, dâng lời ngợi khen.
Chín người còn lại nhỏ nhen,
Không ai trở lại, ca khen danh Người.
Chúa truyền đứng dậy vào đời,
Đức tin cứu chữa, ơn trời khấng ban.

THỨ NĂM, TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
(Lc 17, 20-25).
NƯỚC TRỜI


Khi nào Nước Chúa tới gần,
Không ai biết trước, vạn vần đổi thay.
Người ta quan sát đêm ngày,
Nước Trời xuất hiện, giữa ngay trần đời.
Sáng lòe như chớp bầu trời,
Ai mà đoán được, cao vời cõi thiên.
Các con mong ước siêu nhiên,
Một ngày thấy được, Chúa Chiên vĩnh hằng.
Con Người sẽ được vinh thăng,
Tới ngày phán xét, sao băng sáng ngời.
Tiên vàn đau khổ cuộc đời,
Loài người xua đuổi, một thời tẩy chay.
Chối từ phỉ báng đắng cay,
Hy sinh chịu chết, ba ngày phục sinh.
Về trời Chúa ngự uy linh,
Tới ngày sau hết, quang vinh khải hoàn.

THỨ SÁU, TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
(Lc 17, 26-37).
SẮN SÀNG


Thời gian thấm thoát thoi đưa,
Chúa Con cứu chuộc, ơn mưa dạt dào.
Nhắc lời Kinh Thánh năm nào,
No-e thoát khỏi, nước trào mưa tuôn.
Địa cầu hồng thủy ngập luôn,
Triều dâng tiêu diệt, ngàn muôn vạn người.
Người ta ăn uống vui đời,
Say mê lạc thú, xa rời chính tâm.
Dưới thời ông Lót cũng lầm,
Con người vui thỏa, tà tâm chống trời.
Sinh diêm mưa lửa mọi nơi,
Tường thành hủy diệt, mọi người ra đi.
Con Người xuất hiện uy nghi,
Thời gian bất chợt, xét suy kỹ càng.
Hãy luôn tỉnh thức sẵn sàng,
Ngày giờ Chúa đến, ca vang đón chờ.

THỨ BẢY, TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
(Lc 18, 1-8).
KIÊN TRÌ


Chúa truyền môn đệ dụ ngôn,
Siêng năng cầu nguyện, kính tôn Chúa Trời.
Thành kia thẩm phán khinh đời,
Cũng không kính nể con người thế gian.
Trong thành bà góa than van,
Minh oan giúp đỡ, phá tan mưu đồ.
Kẻ thù ám hại mưu mô,
Lâu ngày im tiếng, quạnh cô phát phiền.
Ông không kính sợ cõi thiên,
Không thèm kính nể, nhân viên xóm làng.
Sau cùng xét xử nhẹ nhàng,
Quấy rầy nhức óc, chẳng màng thế nhân.
Bất lương thẩm phán trong dân,
Kiêu căng ngạo mạn, thiệt thân có ngày.
Đêm ngày khấn nguyện cùng Thầy,
Sẽ thương giải cứu, ban đầy ân thiêng.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Trước Thượng Hội Đồng Giám mục về Amazon: Kinh nghiệm trăm năm của các Salesians…
Thanh Quảng sdb
12:26 06/11/2018
Trước Thượng Hội Đồng Giám mục về Amazon: Kinh nghiệm trăm năm của các Salesians…

Manaus (Agenzia Fides) – Một Đại hội Truyền giáo Salesian trong vùng Amazon đã được linh mục bản xứ tên là Justino Sarmento Rezendo nhóm họp và trình bày chia sẻ những viễn kiến... Cuộc họp mặt này đã quy tụ cả trăm tu sĩ Salesian Don Bosco (SDB) và các nữ tu của Dòng Con cái Mẹ Phù hộ của nữ thánh Maria Mazarello (FMA) và nhiều cộng tác viên khác qui tụ về Manaus từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 11, để chia sẻ những công cuộc được con cái của cha thánh Gioan Bosco từ nhiều quốc gia khác nhau thực hiện tại vùng Amazon trong suốt một trăm năm qua, để giúp cho Thượng Hội Đồng và Giáo Hội có cái nhìn cụ thể cho Giáo Hội vùng Amazon.
Cha Juan Bottasso, một người truyền gíao cho Thông tấn xã Fides hay ngài là một người truyền giáo đã sinh sống ở Ecuador 59 năm qua với một mơ ước giúp thăng tiến cho xã hội, đặc biệt xã hội hiện nay, mà theo cha José Juncosa, Viện phó của Đại học Bách khoa Salesian ở Ecuador thì có quá nhiều bạo lực do hậu quả của các cuộc xung đột bắt nguồn từ việc khai thác bừa bãi tài nguyên trong vùng do các công ty của các quốc gia giầu mạnh.
Theo linh mục Diego Clavijo, người đã làm việc tại Achuar ở Peru 18 năm qua cho Fides hay: Trong mọi tường thuật về vùng Amazon, chi tiết quan trọng nhất không thể bỏ qua là những kinh nghiệm mà Giáo hội đã làm tại Amazon, hầu có thể tìm ra những cách thế mới cho Giáo Hội địa phương tại đây, có một khuôn mặt bản địa mà Đức Thánh Cha Phanxicô mong muốn.
Cuộc họp mặt tại Manaus đã bàn về những công tác phục vụ để triển khai các đề xuất có thể giúp thực thi sứ mệnh Salesian ở Amazon trong tương lai, cũng như đề xuất những đường lối mới cho Thượng Hội Đồng sắp tới. Liên quan đến Tu hội Salesian, điều cần thiết là lượng định và giám định lại các công cuộc chăm sóc mục vụ cho dân bản địa trong bối cảnh đô thị hóa hầu thúc đẩy sự hình thành một nền văn hóa bản địa bằng ngôn ngữ địa phương đã được Giáo hội Mẹ nhấn mạnh nhiều là làm thế nào để hình thành được một Giáo Hội biết lắng nghe và chăm sóc việc mục vụ cho giới trẻ.
Các vấn đề liên quan khác mà Đại hội này nhắm tới là gia đình Salesian cần học hỏi để thực thi vai trò cộng tác rất quan yếu của người giáo dân, đặc biệt là nữ giới, những người mà Giáo hội trong vùng Amazon này phải được coi trọng hơn và đáp ứng bổ nhiệm vào những chức vụ chính yếu trong Giáo hội.
Do đó viễn ảnh của các dự án truyền giáo nhằm chăm sóc mục vụ; huấn luyện các Giảng viên Giáo lý; phát triển những nghi lễ phụng vụ có sắc thái Thổ dân da đỏ; việc đào tạo các ứng viên giáo sĩ lẫn tu sĩ có tầm nhìn thực tế và văn hóa vùng Amazon hầu kiến tạo một nền kinh tế văn hóa phát triển hỗ trợ cho các công cuộc truyền giáo mục vụ cho vùng Amazon. (LMM) (Agenzia Fides, 06/11/2018)
 
Tổng thống Ukraine và Đức Thượng Phụ Đại Kết ký hiệp định về quyền tự trị của Chính Thống Giáo Ukraine
Đặng Tự Do
16:15 06/11/2018
Hôm thứ Bẩy 3 tháng 11, Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko và Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô đã có cuộc gặp gỡ tại Istanbul và đã ký một thỏa thuận mở đường cho việc công nhận quyền tự trị của Chính Thống Giáo Ukraine. Việc ký kết thỏa thuận này đã gây ra một làn sóng giận dữ mới tại Mạc Tư Khoa.

Thỏa thuận vừa được ký kết quy định các điều kiện cần thiết mà Chính Thống Giáo tại Ukraine phải đạt được trước khi Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô ban cấp Tomos, tức là quy chế của một Giáo Hội Chính Thống tự trị trong thế giới Chính Thống Giáo.

“Thay mặt người dân Ukraine, tôi rất biết ơn Đức Thượng Phụ Đại Kết và tất cả các giám mục của Tòa Thượng Phụ Constantinope về quyết định hết sức quan trọng và khôn ngoan này, mở ra con đường đến với Thiên Chúa cho đất nước và Giáo Hội Ukraine”, ông Poroshenko nói.

“Thỏa thuận mà chúng tôi ký hôm nay đặt ra các điều kiện để việc chuẩn bị cho việc ban cấp Tomos sẽ được thực hiện hoàn toàn đúng theo với các quy tắc giáo luật của Giáo hội Chính Thống.”

Poroshenko cũng đã tweet: “Hôm nay là một ngày lịch sử. Chúng tôi đã đạt được một thỏa thuận về sự hợp tác giữa Ukraine và Tòa Thượng Phụ Đại Kết, mà chúng tôi vừa ký kết với Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô.”

Vấn đề được ban cấp Tomos sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 3 năm 2019 tại Ukraine. Ông Poroshenko xem việc ban cấp Tomos là một vấn đề then chốt trong kế hoạch tái tranh cử một nhiệm kỳ nữa.

Tòa Thượng Phụ Đại Kết của Chính Thống Giáo được đặt tại Istanbul, trước đây gọi là Constantinople và từng là thủ đô của Đế quốc Byzantine trước khi bị Đế quốc Hồi giáo Ottoman chinh phục vào năm 1453.

Đức Tổng Giám Mục Hilarion, chủ tịch ủy ban quan hệ đối ngoại của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa, cho biết thỏa thuận mới là một trong những quyết định gần đây của Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô “nằm ngoài thẩm quyền tài phán và vi phạm chủ quyền của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa.”

Theo hãng tin TASS của Nga, Đức Tổng Giám Mục cáo buộc Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô đang “đưa ra các chỉ thị từ nước ngoài nhằm làm suy yếu và chia rẽ sự hiệp nhất của Giáo Hội Chính Thống Giáo Nga”.


Source: AFP - Poroshenko, Orthodox patriarch sign accord on independent Ukraine church
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Có được làm diễn nguyện Giáng Sinh sau khi cha giảng không?
Nguyễn Trọng Đa
09:26 06/11/2018
Giải đáp phụng vụ: Có được làm diễn nguyện Giáng Sinh sau khi cha giảng không?

Nói thêm về phận vụ của phó tế

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Giáo xứ của chúng con đã thực hiện diễn nguyện Giáng Sinh sau bài giảng của linh mục, nhưng trước lời nguyện tín hữu. Việc này có được phép không? Linh mục của chúng con đã cố gắng tìm câu trả lời năm nay, nhưng gặp khó khăn. Nhưng con nghĩ rằng con đã tìm thấy câu trả lời trong Sách Bài đọc cho Thánh Lễ thiếu nhi, số 52 nói rằng diễn nguyện không nên diễn ra trong Thánh Lễ. Con biết việc này diễn ra ở rất nhiều giáo xứ ở Mỹ, nên câu trả lời của cha sẽ là rất cần thiết cho chúng con! - G. G., Pasadena, California, Hoa Kỳ.


Đáp: Trước hết, việc không tìm thấy một sự cấm đoán rõ ràng trong các tài liệu phụng vụ không có nghĩa là điều gì đó có thể được thực hiện. Nhiều lạm dụng phụng vụ, nếu không nói là đa số, không được gọi tên, bởi vì không ai có thể thấy trước tất cả những gì mà trí tưởng tượng của con người có thể gợi ra. Sự cấm đoán đặc biệt đối với một số lạm dụng chỉ xuất hiện, sau khi chúng được giáo quyền chú ý tới.

Thông thường chỉ là đủ khi nại đến các nguyên tắc chung, để biết nếu liệu sự gì đó được cho phép hay không. Thí dụ, có nguyên tắc cơ bản nói rằng không một linh mục nào có thể thêm hoặc bớt bất cứ điều gì khỏi phụng vụ, theo sáng kiến riêng của mình. Một nguyên tắc khác có thể áp dụng cho trường hợp của chúng ta được tìm thấy trong huấn thị Redemptionis Sacramentum (Bí tích Cứu Độ), số 75:

“Vì một lý do thần học gắn liền với việc cử hành Thánh Thể hay với một nghi lễ đặc biệt, các sách phụng vụ ấn định hay đôi khi cho phép việc cử hành Thánh Lễ cùng với một nghi lễ khác, đặc biệt những nghi lễ của các Bí Tích. Nhưng, Hội Thánh không chấp nhận một sự tương quan như thế trong những trường hợp khác, đặc biệt khi có những tình tiết có vẻ hời hợt” (Bản dịch Việt Ngữ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam).

Nếu có nhiều hạn chế nghiêm trọng về việc nối kết Thánh lễ với các nghi thức khác, bao gồm cả các nghi thức đã được phê chuẩn chính thức, việc loại trừ các yếu tố phi phụng vụ, chẳng hạn diễn nguyện giáng sinh, chắc chắn được bao gồm trong đó.

Sự việc bạn đọc này sử dụng phần Giới thiệu của Sách Bài đọc cho Thánh Lễ thiếu nhi (the Introduction to the Children’s Lectionary) có một tính hợp lệ nào đó, xét theo việc rằng các quy chế cho nghi thức phụng vụ thiếu nhi cho phép các thích ứng rộng rãi, sự việc rằng một cái gì đó bị cấm cho loại cử hành này có nghĩa rằng “một cách tiên thiên” nó là không được phép trong các Thánh lễ thông thường.

Tuy nhiên, chúng ta phải công nhận rằng phần Giới thiệu của Sách Bài đọc cho Thánh Lễ thiếu nhi không phải là một tài liệu phổ quát. Nó được soạn thảo bởi Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, và tôi tin rằng nó vẫn chưa đạt được hình thức dứt khoát của nó. Điều thú vị là Hội đồng Giám Mục Ý cũng đưa ra lệnh cấm diễn nguyện, các buổi trình diễn và các mục tương tự trong Thánh Lễ thiếu nhi, trong hướng dẫn tiêng của Hội đồng Giám Mục này.

Có lẽ một nguồn phổ quát hữu ích hơn sẽ là Hướng dẫn cho Thánh Lễ thiếu nhi (the Directory for Children’s Masses) do Tòa Thánh ban hành vào tháng 11-1973. Các thích nghi quy vào các Thánh lễ, mà trong đó đa số ngưởi tham dự là trẻ em từ 6 đến 9 tuổi. Các quy định này không áp dụng cho các cộng đoàn thiếu nhi lớn tuổi hơn.

Tôi sẽ cung cấp các chọn lọc của những gì mà tôi tin là các văn bản thích đáng. Có thể tìm thấy tài liệu đầy đủ này tại trang web có tên là www.catholicliturgy.com.

“Chương III, Phần I. Phận vụ và thừa tác trong buổi cử hành

“22. Các nguyên tắc tham gia tích cực và có ý thức là, trong nghĩa nào đó, có ý nghĩa hơn đối với Thánh lễ được cử hành với thiếu nhi. Do đó, mọi nỗ lực nên được thực hiện để gia tăng sự tham gia này, và làm cho nó trở nên mãnh liệt hơn. Vì lý do này, càng nhiều trẻ em càng tốt có các phần việc đặc biệt trong buổi lễ: thí dụ, chuẩn bị địa điểm và bàn thờ (xem số 29), đóng vai trò là lĩnh xướng viên (cantor, xem số 24), hát trong ca đoàn, chơi nhạc cụ (xem số 32), công bố các bài đọc (xin xem số 24 và 47), trả lời trong bài giảng (xem số 48), đọc các lời nguyện tín hữu, mang lễ vật đến bàn thờ, và thực hiện các hoạt động tương tự, vốn là phù hợp với việc sử dụng nhiều người khác nhau (xem số 34).

“Để khuyến khích sự tham gia, đôi khi cần có thêm một số việc bổ sung, thí dụ, việc chèn thêm các lý do tạ ơn, trước khi linh mục bắt đầu đối thoại trong kinh tiền tụng.

“Trong tất cả điều này, cần chú ý rằng các hoạt động bên ngoài sẽ là vô ích và thậm chí có hại nữa, nếu chúng không phục vụ sự tham gia nội tâm của thiếu nhi. Vì vậy, sự thinh lặng thánh có tầm quan trọng của nó ngay cả trong Thánh lễ thiếu nhi (xem số 37). Các em không được phép quên rằng tất cả các hình thức tham gia đạt được đỉnh cao của chúng trong việc rước lễ, khi Mình Máu Chúa Kitô được tiếp rước như là sự nuôi dưỡng tinh thần.

“23. Trách nhiệm của linh mục cử hành Thánh lễ cho thiếu nhi là làm cho buổi lễ trở thành lễ hội, có tính gia đình, và chiêm niệm. Thậm chí còn hơn trong Thánh lễ với người lớn, linh mục là người tạo ra loại thái độ này, vốn phụ thuộc vào sự chuẩn bị cá nhân của ngài, và cách thức diễn xuất và nói năng với các người khác.

“24. Bởi vì Thánh Lễ luôn là hành động của toàn cộng đồng giáo hội, sự tham gia của một số người lớn là điều được mong muốn. Họ có mặt, không như người giám sát, nhưng là như người tham gia thật sự, cầu nguyện với thiếu nhi và giúp các em trong những gì cần thiết…

“Ngay cả trong Thánh lễ thiếu nhi, cần chú ý đến sự đa dạng của các thừa tác, sao cho Thánh lễ có thể nổi bật rõ ràng như là Thánh lễ của cả cộng đồng. Thí dụ, người đọc sách và lĩnh xướng, cho dù là thiếu nhi hoặc người lớn, nên được sử dụng đúng. Bằng cách này, nhiều giọng nói khác nhau sẽ làm cho các em không bị chán.

. “Chương III, Phần 5. Cử chỉ

“33. Xét bản chất của phụng vụ như một hoạt động của toàn thể con người và xét theo tâm lý học của thiếu nhi, sự tham gia qua các cử chỉ và tư thế nên được khuyến khích mạnh mẽ trong Thánh lễ thiếu nhi, nhưng cần phù hợp với độ tuổi các em và phong tục địa phương. Phần lớn phụ thuộc, không chỉ vào các hành động của linh mục, mà còn [29] vào cách thức mà các em tự hành xử như một cộng đồng….

“34. Trong số các hành động được xem xét trong phần 5 này, cuộc rước và các hoạt động khác, vốn liên quan đến sự tham gia thể lý, xứng đáng được quan tâm đặc biệt.

“Việc các em tham gia đoàn rước đi vào nhà thờ cùng với linh mục có thể giúp các em cảm nghiệm một cảm thức của sự hiệp thông đang được tạo ra. Sự tham gia của ít nhất một số trẻ em trong đoàn rước với Sách Tin Mừng làm cho rõ ràng sự hiện diện của Chúa Kitô đang công bố lời Chúa cho dân Ngài. Đoàn rước thiếu nhi với chén thánh và lễ vật diễn tả rõ ràng hơn giá trị và ý nghĩa của việc chuẩn bị lễ vật. Việc lên rước lễ trong đoàn rước, nếu được bố trí đúng cách, sẽ giúp ích rất nhiều cho sự phát triển lòng đạo đức của thiếu nhi.

“Chương III, Phần 6. Các yếu tố trực quan

“35. Phụng vụ Thánh Lễ chứa đựng nhiều yếu tố trực quan, và chúng rất là nổi bật đối với trẻ em. Điều này là đặc biệt đúng với các yếu tố trực quan đặc biệt trong quá trình của năm phụng vụ, thí dụ, tôn kính cây thánh giá, cây nến Phục Sinh, ánh sáng trong lễ Dâng Chúa vào Đền Thờ, và sự đa dạng màu sắc và các nghi thức phụng vụ.

“Ngoài các yếu tố trực quan, vốn thuộc về buổi lễ và địa điểm cử hành, cũng là thích hợp khi đưa thêm các yếu tố khác, để cho phép trẻ em cảm nhận trực quan các công trình tuyệt vời của Thiên Chúa trong sáng tạo và cứu chuộc, và do đó giúp các em cầu nguyện. Phụng vụ không nên xuất hiện như một thứ gì đó khô khan và chỉ đơn thuần là trí thức.

“36. Vì lý do tương tự, việc sử dụng tác phẩm nghệ thuật do chính trẻ em tự chuẩn bị có thể là hữu ích, thí dụ minh họa cho bài giảng, các diễn tả trực quan cho lời nguyện tín hữu, hoặc như là gợi ý cho suy tư.

“45. Trong các bản văn Kinh thánh, “Thiên Chúa đang nói với dân của Ngài… và Chúa Kitô hiện diện với các tín hữu qua lời Ngài”. Vì vậy, các quãng diễn Kinh thánh nên được tránh. Mặt khác, việc sử dụng các bản dịch, vốn có thể đã tồn tại cho huấn giáo thiếu nhi, và đã được huấn quyền chấp nhận, nên được khuyến khích.

“46. Các câu thánh vịnh, được lựa chọn cẩn thận phù hợp với sự hiểu biết của trẻ em, hoặc hát theo hình thức thánh vịnh hoặc Alleluia với một câu đơn giản, nên được hát giữa các bài đọc. Các em nên luôn có phần mình trong ca hát này, nhưng đôi khi một sự thinh lặng suy tư có thể thay thế cho ca hát….

Sau bài trả lời ngày 16-11-2010 của chúng tôi về việc phục vụ của các thầy phó tế, có người hỏi thêm như sau:

“Chúng con có một giáo xứ lớn ở ngoại ô với sáu Thánh lễ ngày Chúa Nhật. Mỗi Chúa Nhật thứ tư của tháng là ‘ngày giảng của các phó tế’, một sự kiện mà chúng con là các phó tế thường xuyên mong muốn với sự háo hức và nhiều niềm vui.

“Khi chúng con có ba phó tế, mỗi người giảng trong hai Thánh lễ. Điều này là rất tốt cho chúng con. Tuy nhiên, gần đây, Giám mục đã thuyên chuyển một phó tế qua giáo xứ khác. Chỉ còn lại hai phó tế giảng cho sáu Thánh lễ. Vấn để nổi lên là về cơ chế cho một phó tế phụ lễ trong ba Thánh lễ. Theo chúng con hiều, chúng con không nên phụ lễ, như là phó tế, hơn hai Thánh lễ trong một tuần lễ.

“Giải pháp mà chúng con đưa ra là chúng con phục vụ như là phó tế trong hai Thánh lễ, và chỉ giảng trong một Thánh lễ khác mà thôi. Chúng con xin nêu câu hỏi: Khi không phục vụ như là phó tế, ngoài việc giảng, chúng con được phép đọc bài Tin Mừng không? Hay là chủ tế công bố bài Tin Mừng? Hình như có sự trái ngược và kỳ dị trong trao đổi vai trò. Một linh mục – cha phó – nhấn mạnh cách thức này. Người bạn phó tế của con nói rằng chữ đỏ là rõ ràng: thầy phó tế, nếu có mặt, phải công bố bài Tin Mừng.

“Nếu phó tế không phải là phó tế phụ lễ, nhưng là phó tế giảng lễ, liệu phó tế này có 'hiện diện' theo đúng nghĩa của Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma (GIRM) không?”

Đáp: Mặc dù câu hỏi này nói đến một tình huống đặc biệt, tôi sẽ nói như sau.

Tôi cho rằng nguyên tắc chung, nói không ai có thể Rước lễ nhiều hơn hai lần trong một ngày, cũng áp dụng cho các phó tế.

Trên cơ sở này, sẽ có khó khăn cho một phó tế phụ ba Thánh lễ trong một ngày. Đúng là không buộc phải rước lễ trong Thánh lễ thứ ba, nhưng sẽ thật kỳ lạ khi thực hiện tất cả các thừa tác phó tế mà lại không Rước lễ.

Tuy nhiên, không có lý do tại sao thầy không phục vụ trong một lễ tối ngày thứ Bảy và hai Thánh lễ ngày Chúa Nhật, hoặc ngược lại. Sự việc rằng cùng một phụng vụ được tuân giữ trong ngày thư Bảy và ngày Chúa Nhật, không vi phạm quy định, vốn cho phép không rước lễ quà hai lần trong một ngày.

Do đó, tôi tin rằng giả thiết của bạn đọc này, khi nói phó tế không phục vụ quá hai Thánh Lễ vào cuối tuần, là không đứng vững.

Đồng thời, tôi sẽ nói rằng nói chung sẽ là không phù hợp với các quy định cho một phó tế đọc bài Tin Mừng hay giảng thuyết, nếu thẩy không hoạt động tích cực trong Thánh lễ. Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma, số 66, nói: “Người diễn giảng thông thường là chính vị chủ tế hay một trong các vị đồng tế được vị chủ tế nhờ, hay đôi khi, tuỳ nghi, là phó tế, nhưng không bao giờ là giáo dân. Trong những trường hợp đặc biệt và có lý do chính đáng, một Giám Mục hay một linh mục hiện diện trong buổi cử hành mà không đồng tế có thể đảm trách việc giảng” (Bản dịch Việt ngữ của Linh mục Phanxicô Xavier Nguyễn Chí Cần, Giáo phận Nha Trang)

Vì vậy, trong khi Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma cho phép một trường hợp ngoại lệ, mà trong đó một Giám mục hoặc linh mục không đồng tế có thể giảng trong Thánh lễ, nhưng không ngoại lệ nào như vậy được nhắm cho một thầy phó tế cả. (Zenit.org 30-11-2010)

Nguyễn Trọng Đa
 
Những Nẻo Tâm Linh Ngoài Kitô Giáo
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
14:41 06/11/2018
Những Nẻo Tâm Linh Ngoài Kitô Giáo

Khoá trình Linh Đạo cơ bản

Trước khi tìm hiểu “sự đa dạng linh đạo” trong khung cảnh Kitô giáo, chúng ta thử dành một cái nhìn thoáng qua những nẻo đường linh đạo của một số tôn giáo lớn (hầu hết xuất phát tại Á Châu)[1] đã và đang dẫn dắt rất đông con người tiến bước về tiêu đích “chân, thiện, mỹ”. Đây cũng chính là việc làm cần thiết mà giáo huấn của Giáo Hội đã xác nhận với 3 mục đích sau :

- “giữ một niềm kính phục sâu xa nhất đối với các truyền thống này và tìm cách chân thành đối thoại với các môn sinh của truyền thống đó”[2],

- “làm tăng triển những giá trị tâm linh, luân lý cũng như các giá trị xã hội-văn hoá nơi những tín đồ thuộc các tôn giáo khác, nhờ việc đối thoại và hợp tác với thái độ thận trọng và bác ái…”[3]

- “quy tụ toàn thể nhân loại thành đoàn Dân duy nhất của Thiên Chúa, kết thành thân thể duy nhất của Chúa Kitô, và xây nên đền thờ duy nhất của Chúa Thánh Thần…hoàn tất ý định của Đấng Tạo Hoá…cùng đồng thanh cất tiếng : “Lạy Cha chúng con”[4]. (Xem thêm : Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu, số 6)[5]

Chúng ta lựa chọn 6 tôn giáo (ngoài Kitô giáo) đại diện cho 3 vùng của Á Châu là Ấn Độ, Trung Hoa và Trung Đông, đó là : ẤN GIÁO, PHẬT GIÁO (Ấn Độ), KHỔNG GIÁO, ĐẠO GIÁO (Trung Hoa) VÀ DO THÁI GIÁO, HỒI GIÁO (Trung Đông), và sẽ tập trung dừng lại 2 chiều kích chính : NGUỒN GỐC GIÁO LÝ và TRUYỀN THỐNG LINH ĐẠO; từ đó, rút ra vài khía cạnh, chiều kích linh đạo tích cực để vận dụng vào con đường hoàn thiện của Tin Mừng.

1. Các tôn giáo xuất xứ từ Ấn Độ :

1.1 : ẤN GIÁO :

a. Nguồn gốc :

Theo “Tự điển tôn giáo giản yếu” thì Ấn giáo (Hinduism) là “tên gọi chung của phương Tây để chỉ cấu trúc và thể chế tôn giáo và xã hội truyền thống của Ấn Độ. Là tôn giáo có nguồn gốc huyền thoại, Ấn giáo không biết tới người sáng lập (khác với Phật giáo, Hồi giáo, hay Kitô giáo), cũng như điển lễ cố định. Điểm chung của mọi tín đồ Ấn giáo là tin vào luật của nghiệp”.[6]

Về lịch sử, trong các tôn giáo lớn nêu trên, Ấn giáo có nguồn gốc lâu đời nhất (xuất hiện khoảng năm 2000 trước Công nguyên) và cũng biến thái phức tạp nhất qua nhiều giai đoạn lịch sử với những cấu trúc đặc biệt phản ảnh trọng tâm giáo lý và biểu hiện thái độ tín ngưỡng với 3 hình thái của 3 thời kỳ sau :

- Thời Vệ-đà giáo (Vedism) từ khoảng năm 2000 – 800 trước Công nguyên (Ấn giáo sơ nguyên) : Đặt nền tảng trên bộ kinh Vệ-đà (Veda), là bộ kinh cổ nhất và quan trọng nhất của Ấn giáo; nội dung chủ yếu của bộ kinh và cũng là trọng tâm đức tin của Ấn giáo trong thời đại nầy chính là mối tương quan giữa con người với các Thần linh và với vũ trụ cần được thể hiện qua lễ tế, cúng bái. Giai đoạn nầy Ấn giáo mang tính đa thần và thuộc hình thức tôn giáo bình dân.[7]

- Thời Ba-la-môn giáo (Brahnanism) từ năm 800 – 200 trước Công nguyên (Ấn giáo chính truyền) : Đặt nền tảng trên 2 bộ kinh chú giải từ bộ kinh Vệ-đà : Bộ Brahmana thiên về nghi thức tế tự, lễ điển; bộ Upanishad thiên về thần học, nghị luận.

- Thời Ấn độ giáo (Hinduism) khoảng từ thế kỷ 2 trước Công nguyên đến nay[8] (Ấn giáo hiện đại) : Vẫn giữ những điểm cốt yếu của Vệ đà giáo và Bà-la-môn giáo nhưng canh cải cho phù hợp với đà tiến của xã hội và tinh lọc trước ảnh hưởng của Phật giáo. Đây cũng là thời kỳ Ấn giáo trở thành quốc giáo của Ấn Độ và phát triển theo hướng triết lý.

b. Nội dung giáo lý và chiều hướng linh đạo :

- Tất cả các nội dung giáo lý cũng như linh đạo và nền phụng tự của Ấn giáo được đều phát xuất từ những bộ Kinh thánh quan trọng (Veda, Bramana, Upanishsad…), những bộ Sử thi huyền diệu như Mahabharata, Ramayana, Bhagavad-Gita (Chí tôn ca)…cùng với bộ Luật Manu. Tất cả làm nên tổng luận giáo lý cũng như nền linh đạo Ấn giáo.

- Về thượng đế quan và nhân sinh quan của Ấn giáo xoay quanh hai phạm trù sau : Brahman : Đại ngã tương đương với thực tại Thần linh, Đấng tối cao và Vũ trụ đại thể bao trùm vạn vật trong đó có Atman là Tiểu ngã tan hoà trong Đại ngã. Để giác ngộ được chân lý Đại ngã và tiểu ngã, nghĩa là thoát khỏi vòng luân hồi (Samsara) do Nghiệp báo (Karma), con người phải gắng sức tu luyện và giác ngộ toàn bộ bản thân. (Xem bài viết của Phúc Trung : Ấn giáo hay Bà la môn giáo)[9]

- Về “linh đạo của Ấn giáo” có thể tóm tắt qua phương thức “4 chặng đường đời”[10]: Chặng ấu thơ thời môn sinh thụ huấn và giác ngộ Veda (brahmacarya); chặng trưởng thành dấn thân vào xã hội (grihastha); chặng khổ luyện trên rừng (vanaprasthya); chặng hành khất thoát tục (sannyasin) và “ba nẻo giải thoát” : nẻo Tri thức (jina-marga) : giác ngộ đại ngã (Brahman); nẻo hành động (karma-marga) : phụng tự và thực hành luân lý; nẻo Sùng tín (bhakti-marga) : thực hành yêu thương và hoán cải. Song hành với 3 “nẻo” trên, từ thế kỷ thứ 2 sau CN, xuất hiện con đường tu thân dưỡng tính mang tên YOGA với những phương thế tích cực ảnh hưởng sâu rộng cho tới hôm nay.[11]

c/. Linh đạo và bài học từ Ấn giáo :

Công Đồng Vatican II trong Tuyên ngôn về mối liên hệ của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Giáo Hội (Nostra Aetate) đã tóm tắt toàn bộ giáo lý, linh đạo và phụng tự của Ấ độ giáo như sau :

“Như trong Ấn giáo, con người tìm hiểu huyền nhiệm thần linh và tìm cách diễn đạt bằng những thần thoại vô cùng phong phú cũng như bằng các nỗ lực suy tư triết lý sâu sắc, đồng thời đi tìm lối thoát khỏi những nỗi lo âu của kiếp người, hoặc bằng nếp sống khổ hạnh, hoặc nhờ tịnh niệm thâm sâu, hay tìm nương ẩn nơi Thượng Đế với lòng kính yêu và tin tưởng.”[12]

Qua nhận định trên của Công Đồng Vaticanô II, chúng ta có thể rút ra các điểm tích cực sau đây trong con đường tâm linh của Ấn giáo :

- Cội nguồn đích thực để con người đạt tới hạnh phúc trọn hảo là trở về, là kết hiệp với Thượng Đế tối cao qua con đường công đức, thực hành lễ tế để thoát “Nghiệp” (Karma Marga).

- Song song với thực hành “công đức” con người phải luôn mài dũa tri thức để biết, để ngộ được mình (Atman) thuộc về Đại ngã (Brahman).

- Sau cùng, bằng sự sùng tín, bác ái, sẻ chia…trong tâm thể bình yên, đợi chờ hạnh phúc vĩnh hằng. (Xem thêm : Ruth S. Anderson trên trang mạng “NHU LIỆU THÁNH KINH”. Mục ẤN GIÁO; và Phan Tấn Thành, ĐỜI SỐNG TÂM LINH I, DẪN NHẬP VÀO CÁC KHOA HỌC TÔN GIÁO, tr. 350-351).

Trong một xã hội quay cuồng, động đạt, bon chen…của não trạng duy vật hưởng thụ và nô lệ cho đam mê vật chất, các đề nghị “giải thoát” của Ấn giáo thật là quý giá và cần thiết.

1.2 : PHẬT GIÁO (Bouddhism):

a. Nguồn gốc :

Nếu Ấn giáo không tìm thấy “Đấng sáng lập” thì Phật Giáo được sáng lập bởi Đức Siddharta Gautama (Tất Đạt Đa Thích Ca), ra đời tại thành Kapilavastu (Ca-tì-la-vệ) thuộc thung lũng sông Hằng, ở vùng Nepal, Ấn độ, vào khoảng năm 563 trước Công nguyên, thuộc bộ lạc Aryan, con trai của vị raiah (tiểu vương) trong giai cấp Kshatriya, tức giai cấp chiến sĩ của vương triều.

Một trong khúc quanh quan trọng và cũng là điểm xuất phát Phật giáo chính là sự “giác ngộ” của Đức Thích Ca sau 49 ngày thiền định, nghiền ngẫm những lẽ sinh diệt của cuộc đời dưới gốc cây Bồ đề (bohdi cũng được gọi là tri thức). Sự “đắc đạo” hay “ánh quang minh” tiếng Phạn gọi là Buddha (Phật) và từ đó gắn liền với tên của Ngài : Đức Phật, tức Đấng Đại giác, Đắc đạo, Quang minh và tên của tôn giáo do Ngài xướng xuất : đạo Phật (Bouddhism)[13]

Xuất thân từ môi trường Ấn giáo và được dạy dỗ các lẽ đạo của tôn giáo nầy, Đức Phật đã tìm ra con đường riêng cho mình, vừa bổ túc những chân lý Ấn giáo mà ngài cho là chưa thoả đáng, vừa đề xuất những phương cách độc đáo để “giải thoát chúng sinh”.

Đức Phật, sau 49 năm ngược xuôi truyền giảng Phật pháp, đã qua đời ở tuổi 80 mà các môn sinh tin rằng “Ngài đã nhập Niết Bàn”, tức đi vào cõi được giải thoát vĩnh viễn khỏi vòng Luân hồi.

Kể từ đó, Phật giáo đã lan rộng khắp Ấn độ , Sri Lanka (Tích Lan), Miến Điện, Thái Lan, Trung Hoa, các nước Đông Bắc Á, Đông Nam Á… và đã trở thành một trong các tôn giáo có tàm ảnh hưởng nhất của thế giới cho tới hôm nay.

b. Nội dung giáo lý và chiều hướng linh đạo :

- Nền tảng Phật pháp : Giáo lý Phật giáo chứa đựng và căn cứ trên ba bộ hợp tuyển kinh sách gọi là TAM TẠNG (TRIPIKATA) : Tạng kinh (Sutra pitaka), Tạng luật (Vinaya pitaka), Tạng luận (Abhidhamma pitaka).

- Do các chuyển biến của lịch sử, việc truyền tải TAM TẠNG phân rẽ theo hai đường : phía Bắc với ngôn ngữ Sancrit làm nên truyền thống Phật giáo Bắc Tông hay Phật giáo Đại thừa, ảnh hưởng các vùng Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cỗ, Mãn Châu, Cao ly, Nhật Bản, Việt Nam….; phía nam với ngôn ngữ Pali, làm nên truyền thống Phật giáo Nam tông, hay Phật giáo Tiểu thừa (nguyên thuỷ), ảnh hưởng các vùng : Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Indonésia…[14]

- Trọng tâm và tiêu đích : Nếu hiểu tôn giáo, tín ngưỡng là một khái niệm luôn gắn kết với một Đấng Thượng Đế, một “Đấng Khác”, thì có lẽ Phật Giáo chỉ dừng lại ở một “triết lý nhân bản”, một “luân lý tu thân”, một “phương thế tự giải thoát”…hơn là một tôn giáo; vì đích điểm của con đường tâm linh nơi Phật giáo không dẫn đến một Đấng Thượng Đế, không đạt tới “Ơn cứu độ từ Đấng Toàn Năng”…mà là một cõi “Niết bàn” đồng nghĩa với một “cõi hư vô tuyệt đối” ! Chính Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, trong tác phẩm “Bước Qua ngưỡng cửa Hy vọng”, nơi câu trả lời liên quan đến Phật giáo, đã nhận xét : đích điểm của Phật giáo là “vô thần”[15].

Cho dù vậy, trong thực hành “Phật pháp”, có rất nhiều giá trị luân lý và tu thân ảnh hưởng tích cực trên con đường hành thiện mấy ngàn năm của nhân loại. Người ta tìm thấy những điểm cốt yếu về luân lý và thực hành tâm linh của Phật giáo qua “bốn lẽ huyền diệu” được mệnh danh là “TỨ DIỆU ĐẾ” (Ariya Saccani) và “tám con đường sự thật” gọi “BÁT CHÁNH ĐẠO”.

b.1/. TỨ DIỆU ĐẾ bao gồm :

- Khổ đế (Dukka) : Bể khổ mênh mông của đời sống với “đại diện” là “ngủ khổ” (Skandas) : sinh, lão, bệnh, tử, ly.

- Tập đế (hay nhân đế - Sameda Dukka) : Nhận thức để khắc phục nguyên nhân của bể khổ với 12 biểu hiện dục vọng, ham muốn gọi là “Thập nhị nhân duyên (Vô minh (mê muội), Hành (hành động tạo nghiệp), Thức (ý thức), Danh sắc (tên và hình, biểu hiện của tái sinh, luân hồi), Lục căn (6 giác quan), Xúc (cảm xúc), Thụ (Lưu giữ tác động bên ngoài), Ái (luyến ái, khao khát), Thủ (bám chặt), Hữu (tồn tại), Sinh (hiện hữu, sống ở đời), Lão - tử (già và chết). Trong “đế” này cũng nhắc tới việc nhận ra “10 phiền não” để loại trừ, trong đó có “Tham, Sân, Si” là những nguyên nhân chủ yếu.

- Diệt đế (Nirodha Dukka) : Hiệu quả tốt lành sau khi đã diệt khổ.

- Đạo đế (Nirodha Gamadukka) : Phương pháp tu hành để diệt khổ, “linh đạo” dẫn tới cõi “Niết bàn”.[16]Bao gồm 8 con đường gọi là “Bát Chánh Đạo)[17]

b.2/. BÁT CHÁNH ĐẠO :

- Chánh kiến (nhận thức đúng đắn).

- Chánh tư duy (Suy nghĩ đúng đắn).

- Chánh ngữ (Lời nói đúng đắn).

- Chánh nghiệp (hành động đúng đắn).

- Chánh mạng (Sinh sống bằng nghề nghiệp đúng đắn).

- Chánh tinh tấn (Nỗ lực, chuyên cần phấn đấu để tiến lên).

- Chánh niệm (tâm niệm đạo đức đúng đắn).

- Chánh định (Tập trung tư tưởng đúng đắn).

Theo quan niệm chung của các nhà nghiên cứu Phật pháp thi 8 con đường trên có thể tập hợp theo 3 nhóm :

- Nhóm 1 (2 Chánh : Chánh Kiến, Chánh Tư duy) liên quan đến chiều kích trí tuệ, sự hiểu biết gọi chung là “TUỆ” (Prajna).

- Nhóm 2 (3 Chánh : Chánh ngữ, chánh nghiệp, Chánh mạng) : Liên quan đến chiều kích tu đức, hoàn thiện bản thân theo luân lý, giới luật gọi chung là “GIỚI” (Shila).

- Nhóm 3 (3 Chánh : Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định) : liên quan đến sự giác ngộ do tâm trí được rèn luyện, gọi chung là “ĐỊNH” (Samadhi).[18]

c. Linh đạo và bài học từ Phật giáo :

Những đề nghị “diệt khổ, diệt dục” để đạt “phật tính”, tiến vào cõi “Niết bàn”… của Phật giáo qua các thực hành rèn luyện tâm trí, trai giới, nhu hoà, an định, từ bi hỷ xả, khắc chế tham sân si…đã trở thành những phương pháp tu tâm dưỡng tính của bao thế hệ con người từ đông sang tây và vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trên nhiều lãnh vực của xã hội con người.

Riêng Giáo Hội Công Giáo với Công Đồng Vatican II đã dành một sự trân trọng đặc biệt đối với Phật giáo qua những nhận định sau trong Tuyên ngôn về mối liên hệ của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo (Nostra Aetate) :

“Phật giáo với nhiều tông phái khác nhau, đã nhận ra sự bất túc tận căn của thế giới vô thường này và đã khai sáng lối đường cho những người chính tâm và thành tín, giúp họ tìm thấy sự giải thoát hoàn toàn hay đạt đến sự giác ngộ tối thượng, nhờ những nỗ lực của bản thân hoặc sự tế độ của ơn trên.”[19]

Và có lẽ chúng ta đều đồng ý với tiến sĩ Nguyễn Như Lai khi truy nhận đức “TỪ BI HỈ XẢ” trong giáo lý Phật giáo gần như trùng khớp với ý nghĩa “Chạnh lòng thương”, lòng trắc ẩn của tình yêu tự hiến trong Tin Mừng; và phải chăng, đó chính là con đường dẫn đến sự hoàn thiện :

“Những ”Trọn hảo của sự Khôn ngoan” (Prajnaparamita) nói rằng: ”Không cần phải dạy cho các Bồ Tát (Bodhisavattva) nhiều giới luật. Chỉ có một giới luật bao gồm mọi giới luật: Khi một Bồ Tát có lòng trắc ẩn vô lường, tức là ngài đã có đủ mọi điều kiện mang đặc tính Phật đà, cũng như ai có giác quan sinh lực (sens vital) thì nơi họ mọi giác quan đều vận hành”[20]

2. Các tôn giáo thuộc Trung Hoa :

2.1. KHỔNG GIÁO (Confucianism) :

a. Nguồn gốc :

Khổng giáo mang tên của chính vị sáng lập là Đức Khổng Tử (Confucius)[21] (hay Khổng Phu Tử), sinh khoảng năm 551 trước Công nguyên tại nước Lỗ, đồng thời với Lão Tử, Phật Thích Ca, Plato, Aristotle…Khổng giáo xuất hiện vào thời nước Trung Hoa thuộc triều đại Đông Chu (771-256 Trước CN) trong bối cảnh xã hội đầy phức tạp, rối ren, bất ổn; nhưng cũng từ đó, đã phát sinh hai luồng tư tưởng quan trọng chi phối toàn bộ văn hoá, xã hội, tín ngưỡng Trung Hoa và ảnh hưởng cho tới mãi hôm nay.[22]

Trong bối cảnh xã hội phong kiến đầy bất ổn và thối nát đó, Đức Khổng dấn thân chu du thuyết giảng những con đường luân lý nhân bản nhằm canh tân các mối tương quan trong xã hội và thăng tiến nhân cách, đạo đức làm người.

Theo nhà nghiên cứu Ruth S. Anderson thì : “Khổng Tử đã dùng những năm cuối cùng của mình để dạy dỗ và biên soạn môt số sách cổ điển của Trung Hoa. Vị sư phụ nầy đã qua đời vào năm 479 T.C và được các đệ tử ông cư tang, than tiếc. Sự tôn kính dành cho ông lớn lên, và theo thời gian, ông đã được thần thánh hóa như một vị thần. Suốt trong triều đại nhà Hán, vào khoảng năm 220 T.C. Hoàng đế triều Hán là Hán Vũ đã được một học giả môn phái Khổng giáo thuyết phục, và tuyên bố Khổng giáo là quan niệm học chính thức của Trung Hoa. Nó đã nhảy một bước lớn để hội nhập vào đất nước.”[23]

b. Nội dung giáo lý và chiều hướng linh đạo :

Xét về mặt tôn giáo-tín ngưỡng theo nghĩa hẹp (tương quan với Thượng đế), thì gần giống như Phật giáo, Khổng giáo chưa phải là một tôn giáo đúng nghĩa cho bằng một “học thuyết, một triết thuyết”, một “tổng hợp đạo lý nhân bản” hướng dẫn làm người, xây dựng xã hội. (Xem thêm khảo luận của Ruth S. Anderson về Khổng giáo)[24]

Nền tảng học thuyết và triết lý của Khổng giáo căn cứ trên hai bộ sách quan trọng, hoặc do chính Khổng tử san định, sưu tập, sáng tác, hoặc do các đồ đệ của ngài biên soạn sau nầy. Hai bộ sách đó là NGŨ KINH và TỨ THƯ.

b.1/. NGŨ KINH :

- Kinh Thư : Chuyên đề lịch sử và các văn kiện liên quan đến cấu trúc đạo đức Trung hoa.

- Kinh Thi : Tuyển tập thơ ca, ca dao tục ngữ cổ đại.

- Kinh Lễ : Nghi thức lễ điển.

- Kinh Dịch : Lẽ biến dịch, đổi thay.

- Kinh Xuân Thu : “biên niên sử của thời Xuân Thu”. Đây là cuốn sách duy nhất tương truyền do chính Đức Khỏng Tử là tác giả, giải thích về nước Lổ vào thời Khổng Tử.

b.2/. TỨ THƯ :

Những điều Khổng Tử dạy hầu hết tập trung nơi NGŨ KINH. Sau nầy, các môn sinh Khổng giáo san định lại các lời dạy của Khỏng Tử và làm thành một bộ sách khác làm nên giá trị phong phú của học thuyết của Khổng giáo. Đó chính là bộ TỨ THƯ :

- Sách Luận Ngữ : Đây là bộ sưu tập về các câu nói của Khổng Tử và của một số môn đệ ông.

- Sách Đại Học : Giáo huấn và đào tạo người quân tử .

- Sách Trung Dung : Mối tương quan giữa bản chất con người với trật tự đạo đức trong xã hội.

- Sách Mạnh Tử. Hệ thống triết lý của Khổng Phu Tử.[25]

b.3/. Các nền tảng luân lý :

- Quan hệ giữa con người và trong xã hội :

TAM CƯƠNG : Quân thần cương (Đạo vua tôi); Phụ tử cương (Đạo cha con); phu phụ cương (Đạo vợ chồng).

NGŨ LUÂN : Quân thần (Đạo vua tôi), Phụ tử (Đạo cha con), Phu phụ (Đạo vợ chồng), Huynh đệ (Đạo anh em), Bằng hữu (Đạo bạn bè).

NGŨ THƯỜNG : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

TAM TÒNG : Tại gia tòng phụ (Phụ nữ còn ở nhà phải nghe theo cha); xuất giá tòng phu (Lấy chồng phải nghe theo chồng); phu tử tòng tử (Chồng qua đời phải nghe theo con trai).

TỨ ĐỨC : Công (khéo léo trong công việc), dung (chỉnh chu trong cung cách), ngôn (cẩn trọng trong lời nói), hạnh (đúng mực trong ứng xử).

- Chân dung NGƯỜI QUÂN TỬ : Lý tưởng đạo đức của Khổng giáo được biểu hiện cách rõ nét và sinh động qua chân dung người QUÂN TỬ. Đây là một nhân cách nghiêm túc chu toàn các đức tính căn bản (Ngũ thường) và hoàn thiện các mối tương quan (Tam cương, Ngũ luân); đồng thời cũng là người hiểu được mệnh trời (Tri Thiên mệnh), sống đạo đức với bản thân, đúng mực nơi gia đình, chính trực trong xã hội và mưu ích nhân loại (Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ).

Như vậy, có thể nói được rằng : giáo lý, linh đạo của Khổng giáo mang chiều kích “nhân bản”, một con đường hướng dẫn tu thân tích đức gần gũi với giai đoạn “Ascétique” (tu đức, khổ chế) của Kitô giáo.

c/. Linh đạo và bài học từ Khổng giáo :

Cuộc “chạm mặt” đàu tiên giữa Khổng giáo và Kitô giáo, dĩ nhiên, không tránh khỏi những đố kỵ, hiểu lầm, thái độ bất bao dung đến từ cả hai phía : những “môn đồ trung tín của Khổng Mạnh” và các Kitô hữu, đặc biệt các thừa sai nước ngoài. Kèm vào đó, những tác động về chính trị, về não trạng bảo thủ của các vương triều phong kiến chọn triết lý Khổng Nho làm nền tảng thiết chế xã hội…đã gây nên những cuộc bách hại khủng khiếp (các chỉ dụ cấm đạo của các vương triều)[26], cùng với những luận điệu bài xích, xuyên tạc (các điều lệ, văn bản, tác phẩm như “Điều lệ hương đảng” của vua Gia Long ban hành 1804, Thập huấn điều của Minh Mạng ban hành năm 1834, Đạo Biện (Tự Đức 1862), Tây Dương gia bí lục của nhóm nho sĩ bài Công Giáo cuối thế kỷ 19…) đầy tính tiêu cực và khích bác lẫn nhau của cả hai phía.[27]

Dù vậy, không thể phủ nhận những trân trọng và đánh giá cao của các thừa sai về các giá trị nhất định của nền văn hoá và tư tưởng Khổng giáo trong thực hành xây dựng và điều hướng giềng mối đạo đức xã hội và con người, cách riêng, góp phần không nhỏ trong tiến trình chuẩn bị, củng cố và đào sâu các giá trị của Tin Mừng, như một số nhận định tiêu biểu của các linh mục thừa sai : linh mục Alexandre de Rhodes[28], linh mục F.Buzômi[29], hoặc Giám Mục Hermosilla (Liêm)… .[30].

Cách riêng trong lãnh vực linh đạo, hay con đường nên thánh, phải kể đến nhận định rất thâm thuý của cụ Giuse Nguyễn Như Lai, trong luận văn tiến sĩ mang tựa đề “Truyền Thống Tôn Giáo Tâm Linh Xã Hội tại Việt Nam” (La Tradition Religieuse Spirituelle Sociale au Vietnam) khi nêu bật giá trị tuyệt vời của hai đức trong “Ngũ thường” : ĐỨC “NHÂN” VÀ ĐỨC “NGHĨA”; đặc biệt là đức “Nhân”, rất gần với ý nghĩa của đức “Ái”, con đường cốt yếu dẫn tới sự thánh thiện Kitô giáo[31] :

2.2. LÃO GIÁO (ĐẠO GIÁO) (Taoism hay Daoism) :

a. Nguồn gốc :

Lão giáo hay Đạo giáo là một tôn giáo xuất hiện đồng thời với Khổng giáo trong địa bàn của nước Trung Hoa thời cổ đại thuộc vương triều nhà Chu bởi một nhân vật sống và hoạt động truyền đạo cùng thời với Đức Khổng Tử mà danh xưng gắn cho vị nầy là “LÃO TỬ”.

Chúng ta thử theo chân của nhà nghiên cứu Ruth Andersen tìm lại đôi nét lịch sử về nhân vật đặc biệt nầy :

“Theo một truyền thuyết của Đạo giáo thì Lão Tử được sanh ra tại làng Chujen, một làng ở huyện Hồ (Hồ Bắc) trong tỉnh Hà Nam, độ chừng năm mươi năm trước Khổng Phu Tử. Ông sống trong thời kỳ của Zoroaster tại Ba Tư (một nhà tiên tri của Ba-Tư - ND) và thời kỳ của các tiên tri Giêrêmi và Êxêchiên của người Hêbơrơ. Ông được chỉ định làm một học giả trông coi Kinh sách trong triều đình nhà Chu. Ông là một con người trầm tĩnh, ít tiếp xúc với xã hội. Ông được xem là một vị thánh hiền, và không bao lâu sau khi ông mất, ông được thờ phượng như một thần linh.

Lão Tử và Khổng Tử sống ở Trung Hoa trong thời kỳ đất nước loạn lạc. (…). Lão Tử đã cố gắng để khôi phục trật tự chính trị xã hội, nhưng ông đã không thành công. Truyền thuyết nói rằng ông đã để Kinh sách của Đạo giáo lại tại Vạn Lý Trường Thành của nước Trung Hoa và đi tìm sự sống vĩnh hằng, trở thành một với Đạo.”[32]

b. Nội dung giáo lý và chiều hướng linh đạo :

Một phần nào giống như Không giáo, Lão giáo thiên về một học thuyết, một triết lý sống hơn là một tôn giáo đúng nghĩa. Theo nhận định của Ruth Andersen thì Lão giáo có thể định nghĩa như sau :

“Từ ngữ Đạo giáo có nghĩa là “một con đường”. Người Đạo giáo tin rằng mọi vật trong vũ trụ đều chuyển động và thay đổi. Nó chuyển động một cách hòa hợp và có trật tự. Con người bị lạc đường do không hòa hợp của mình và những chủ tâm của riêng mình. Con đường cần quay về con đường của sự đơn sơ và khiêm tốn bằng hành động thụ động và một con đường đạo đức đúng đắn. Trong thực tế, Đạo là một triết lý, một tôn giáo, một hệ thống nghi lễ có tính pháp thuật, tất cả đều gom vào thành một.”[33]

Tư tưởng của Lão giáo hay Đạo giáo tập trung trong một tác phẩm tương truyền do chính Lão Tử soạn tác đó là quyển ĐẠO ĐỨC KINH[34]. Sau nầy, có thêm một đồ đệ của Lão Tử là Trang Tử đã san định, bổ túc để làm cho học thuyết “Đạo giáo” mang tính thống nhất, đầy đủ và dễ thuyết phục hơn.[35](Xem thêm về sách ĐẠO ĐỨC KINH[36])

Sau đây là những điểm tích cực trong con đường tu thân tích đức (linh đạo) chúng ta tìm thấy trong Lão giáo :

b.1/. Giáo lý và quan niệm cốt lõi : ĐẠO

Nền tảng giáo lý và triết lý của Lão giáo có thể tập trung ở một từ duy nhất “ĐẠO” :

“Theo các tín đồ Đạo giáo thì Đạo giáo không thể mô tả được, bởi vì nó luôn luôn thay đổi. Nếu người ta có thể cắt nghĩa được, thì nó sẽ không còn là đạo nữa. “Đạo mà có thể luận giải được thì không phải là Đạo tuyệt đối” (Đạo khả đạo phi thường đạo). Người ta nói rằng nó thuộc về hình nhi thượng (métaphisical), vượt ngoài lãnh vực vật lý. Nó là vô hình, và siêu việt trên thế giới loài người (Danh khả danh phi thường danh). Một khía cạnh duy nhất mà con người có thể nhận biết về Đạo là tiến trình hữu hình của thiên nhiên mà theo đó mọi vật dời đổi biến hóa. Thấy những gì nó hoạt động thì một người có thể nói rằng Đạo hiện hữu.”[37]

Từ quan niệm đó. Lão giáo chủ trương thuyết “VÔ VI” :

“Đạo không chỉ là nguyên lý của vũ trụ mà cũng còn là một mẫu mực cho cách cư xử của con người. Trong sự thay đổi không ngừng của Đạo, người ta thấy sự tự do và năng lực. Đạo hứa hẹn hạnh phúc cho những ai chịu phó mình cho nó. Điều nầy xảy ra như thế nào? Bằng việc thực hành sự vô vi, nghĩa là “không hoạt động, không tranh đấu, sinh hoạt vô hoạt động”.[38]

Như vậy có thể tóm tắt học thuyết và linh đạo của Lão giáo qua những điểm sau :

- Một người có thể đạt đến sự kết hiệp với Hữu thể tối cao.

- Một người nên lấy thiện trả ác.

- Một người nên lấy lý trí khống chế cảm xúc.

- Sự sống quan trọng hơn tài sản vật chất.

- Phục vụ kẻ khác là lý tưởng.

- Để trọn vẹn con người phải đi theo ý trời.

c. Linh đạo và bài học từ Lão giáo :

Theo phân tích và đối chiếu của tiến sĩ Nguyễn Như Lai, thì có thể chọn trong giáo lý, học thuyết của Lão giáo 3 điều tương ứng với 3 nhân đức của Tin Mừng : KHIÊM NHƯỜNG, KHÓ NGHÈO VÀ CHIA SẺ BÁC ÁI.

- Khiêm nhường : “Ðạo Lớn tràn lấp, bên phải bên trái. Vạn vật nhờ Ðạo mà sinh ra, mà không một vật nào bị Ðạo khước từ, Xong việc rồi không để tên. Che chở nuôi nấng muôn loài, mà không làm chủ. Thường không ham muốn, nên có thể gọi tên là Nhỏ. Ðược muôn vật theo về mà không làm chủ, nên có thể gọi tên là Lớn. Bậc Thánh Nhơn cho đến ngày cùng, không cho mình là lớn. Cho nên mới thành được việc lớn của mình” (Ch. XXXIV)[39]

- Khó nghèo : “Ăn mặc lộng lẫy, đeo đai và kiếm sắc, đồ ăn thức uống dư dật và của cải đầy tràn... đó chỉ là hang trộm cướp (đạo tặc) chứ đâu phải đường của đại Ðạo” (x.Ch. LIII). (…). Không thể giữ bưng mãi được bình nước đầy, có lúc nó sẽ vơi; Không thể giữ mãi được con dao sắc bén, chầy kíp nó sẽ cùn! Cũng vậy, dùng vàng bạc ngọc ngà chất chứa đầy nhà, chỉ là tự vời kẻ trộm đến. Phú qúy là điều thiên hạ ai cũng muốn, lại còn khoa trương thì không vời họa đến cho mình sao được” (x. Ch. 9)[40]

- Chia sẻ bác ái : “Bậc thánh nhơn không thu giữ, càng vì người mình càng thêm có, càng cho người mình càng thêm nhiều, Ðạo của Trời lợi mà không hại, Ðạo của thánh nhơn, làm mà không tranh” (Ch. LXXXI)[41]

3. Các tôn giáo độc thần thuộc Trung Đông :

3.1. DO THÁI GIÁO (Judaism) :

a. Nguồn gốc :

Do Thái giáo (Judaism) là tên của một tôn giáo độc thần cổ nhất tại vùng Trung Đông của một quốc gia cùng tên : nước Do Thái (Hay còn gọi là nước Giuđa – Jew). Nước Do Thái hay dân Do Thái còn mang nhiều tên gọi tuỳ theo các giai đoạn hay biến cố lịch sử ảnh hưởng sự hình thành, tồn tại được Kinh Thánh ghi lại[42].

Do thái giáo là một “tôn giáo mặc khải”, độc thần, vì tất cả cơ sở của đức tin và các truyền thống tập tục tôn giáo của Do Thái giáo bắt nguồn từ sự mạc khải của Thượng Đế dành cho Abraham, Môsê và các tiên tri. Chính vì thế, lịch sử của dân Do Thái chính là lịch sử của niềm tin tôn giáo; và Kinh Thánh của Do Thái giáo chính là câu chuyện lịch sử thuật lại mối tương quan giữa Đấng Thiên Chúa họ tôn thờ và dân tộc họ, một dân tộc mà họ xác tín, được Thiên Chúa tuyển chọn như một “Dân ưu Tuyển”.

Đặc biệt, Do thái giáo và Kinh Thánh của đạo nầy lại có liên quan mật thiết đến Kitô giáo; và có thể nói, Do Thái giáo chính là “tiền thân” của Kitô giáo. Công Đông Vatican II trong Hiến chế về Giáo Hội đã nhấn mạnh nội dung ý nghĩa nầy như sau :

“Trước tiên là dân tộc đã nhận lãnh giao ước và lời hứa, và từ dân tộc ấy, Đức Kitô đã sinh ra theo thể xác (x. Rm 9,4-5). Họ là dân rất được yêu quý bởi đã được tuyển chọn vì cha ông họ : Thiên Chúa không hối tiếc vì đã ban ơn và kêu gọi họ (x. Rm 11,28-29)[43]

Riêng với Tuyên ngôn “Nostra Aetate”, Công Đồng đã dành cả số 4 để trình bày mối tương quan giữa Do Thái Giáo và Giáo Hội, đồng thời vạch ra lộ trình đối thoại, học hỏi và gặp gỡ :

“Vì người Kitô hữu và Do Thái cùng chung một di sản thiêng liêng thật cao quý, nên công đồng muốn cổ vũ và khuyên nhủ hai bên hãy tìm hiểu và tôn trọng lẫn nhau, đây là điều có thể thực hiện được đặc biệt qua việc học hỏi Kinh Thánh và thần học cũng như qua những cuộc đối thoại huynh đệ”[44]

Và câu chuyện “lịch sử đặc biệt” của dân Do Thái đã khởi đầu với “lời kêu gọi Tổ phụ Abraham” khoảng thế kỷ 18 trước Công nguyên (1800 TCN), diễn ra trên vùng đất Palestine bên bờ Địa Trung Hải và những vùng lân cận cho đến khi đất nước Do Thái hoàn toàn bị tan vỡ dưới gót giày của đế quốc Rôma vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên; và chỉ được tái lập sau gần 2000 năm lưu đày, ly tán, vào năm 1948, để hôm nay trở thành một quốc gia nhỏ bé nhưng mạnh mẽ, văn minh mang tên It-ra-en, sánh vai với các quốc gia hùng mạnh nhất của thế giới. (Xem thêm khảo luận về Do Thái giáo của Ruth S. Anderson trên trang mạng “NHU LIỆU THÁNH KINH” : DO THÁI GIÁO (JUDAISM) [45]

b. Nội dung giáo lý và chiều hướng linh đạo :

Như đã nói trên, đối với dân Do Thái, lịch sử của dân tộc cũng là lịch sử của đức tin. Chính vì thế, toàn bộ sinh hoạt tâm linh (giáo lý, linh đạo, phượng tự…) của Do Thái giáo đều căn cứ vào một bộ sách lừng danh mà cho tới hôm nay, cả thế giới cũng đều gọi chung đó là KINH THÁNH.[46]

Bộ Kinh Thánh của Do Thái giáo không chỉ là “gia bảo thiêng liêng, kho tàng văn hoá…” cho riêng dân tộc, đất nước Do Thái mà còn là một phần căn bản không thể thiếu trong bộ “Kinh Thánh của Kitô giáo”[47] và trong “Kinh Coran của Hồi giáo”[48].

Kinh thánh Do thái giáo, theo quy điển chính thức, kết quả của hội nghị các rabbi Do thái tại Jamnia vào khoảng năm 100 sau CN[49], bao gồm 39 cuốn (theo tên từng cuốn) phân làm 3 nhóm loại sau :

- Nhóm luật pháp (Torah) : 5 cuốn (được gán cho Môsê) : Sáng thế, Xuất hành, Lêvi, Dân số, Đệ nhị luật.

- Nhóm ngôn sứ (Nebhiim) : 6 cuốn tiền ngôn sứ : Giosuê, Thủ lãnh, Samuel (2), Các Vua (2); 12 cuốn hậu ngôn sứ : Isaia, Giêrêmia, Êdêkiel và 12 ngôn sứ nhỏ.[50]

- Nhóm văn phẩm (Kethubhim) : 13 cuốn : Thánh vịnh, Châm ngôn, Gióp, Diễm ca, Rút, Ai ca, Giảng viên, Esther, Daniel, Esdras, Nêhêmia, Sử biên niên (2)

Ngoài bộ Kinh Thánh, Do Thái giáo còn một bộ sách sưu tập những luật lệ truyền khẩu gọi là Talmud mà uy thế chỉ đứng sau bộ Torah để làm kim chỉ nam cho các sinh hoạt sống đạo và ứng xử đức tin của dân Do thái.[51]

Nếu Kinh Thánh là “quy luật đức tin, luân lý, phượng tự…” thì cũng từ đó, Do thái giáo đã rút ra những luật lệ để áp dụng vào việc thể hiện đức tin, thiết chế lễ nghi thờ phượng, đời sống xã hội dân sự…Trong đó, phải kể bảng “Thập Điều” là quy luật tối thượng được chính Thiên Chúa ban cho dân Do thái qua trung gian vị lãnh đạo Môsê. Kitô giáo cũng chọn “bản Thập Điều” nầy là quy luật tối thượng của mình (Chỉ khác ở điều răn thứ 3 : thay vì “giữ ngày Sabat” là “giữ Ngày Chúa Nhật”).

c. Linh đạo và bài học từ Do thái giáo :

Trong viễn tượng lịch sử cứu độ, thì quả thật Do thái giáo chính là “khởi điểm, là tiền thân” của Kitô giáo : Do thái giáo chính là một sự chuẩn bị, tiên báo để Kitô giáo hiện thực hoá, thành toàn. Do thái giáo chính là “Cựu ước” và Kitô giáo chính là “Cựu ước và Tân ước”; cả Cựu lẫn Tân làm nên một “Giao ước duy nhất”, một lịch sử duy nhất, một kế hoạch duy nhất…”.

Vì thế, trân trọng các gái trị Do thái giáo chính là thái độ và đường hướng mục vụ đúng đắn xưa nay của Hội Thánh, như khẳng định của Công đồng chung Vatican II : “Giáo Hội tuyên xưng rằng tất cả các Kitô hữu, con cháu của Abraham theo đức tin, đã được tích chứa ngay trong ơn gọi của vị Tổ Phụ, và sự cứu độ của Giáo Hội đã được tiên báo cách huyền nhiệm trong cuộc xuất hành khỏi miền đất nô lệ của đoàn dân được tuyển chọn. Vì thế, Giáo Hội không thể quên rằng mình đã nhận được mặc khải Cựu ước nhờ chính dân tộc mà Chúa đoái thương ký kết Giao ước cũ do lòng thương xót vô biên của Ngài, và được nuôi dưỡng nhờ gốc rễ ôliu tươi tốt, trên đó những cành ôliu hoang dã là chư dân đã được tháp ghép vào…”[52]

Nếu phải ghi nhận những điểm tích cực mà Do thái giáo mang lại cho con đường hoàn thiện của Kitô giáo, thì đó chính là 3 điểm căn bản nầy : Lời Chúa, Lề luật và Phụng tự. Từ nền tảng căn bản đó, Do thái giáo còn cung cấp một con đường tâm linh sâu xa hướng con người sống hoàn thiện trong mối tương quan liên vị với Thiên Chúa hằng sống, một Thiên Chúa đồng hành với lịch sử của con người mà con người có thể đọc được qua các dấu chỉ như những “Giao ước”. (Xem thêm : Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH I” – DẪN VÀO CÁC KHOA HỌC TÔN GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Chương 13 : Giáo lý các tôn giáo, tr. 341-343)

3.2.. HỒI GIÁO (Islam) :

a. Nguồn gốc :

Cùng với Do Thái giáo và Kitô giáo, Hồi giáo là một tôn giáo độc thần, tôn thờ một Đấng Thượng Đế (God) mà tiếng Ả-rập gọi là Allah.

Tên “Hồi giáo” hay “Islam”, là từ có liên hệ tới từ gốc là “Salam”, một từ Ả-rập có nghĩa là “đầu hàng, phục tùng, bình an và uỷ thác”. Như vậy, Hồi giáo chính là sự “đầu phục Đức Allah”, và người tín hữu đạo Hồi gọi là “Muslims”, tức những người đặt trọn niềm thần phục dành cho Đức Allah.[53]

Đức Muhammad (còn gọi là Ma-hô-mét) sinh khoảng năm 570 sau công nguyên tại thành Mecca (tiếng Ả-rập là Makka) thuộc nước Ả-rập Xê-út, vào một thời mà thành phố nầy là trung tâm và giao điểm thương mại sầm uất giữa Đông Tây cùng với cuộc sống xô bồ, hổn tạp giữa các nền văn hoá và tôn giáo pha tạp. Chính trong bối cảnh đó, đức Muhammad, vốn là một doanh nhân (có vợ là bà chủ doanh nghiệp Khadija lớn hơn ông 15 tuổi, có với nhau được 2 trai 4 gái, trong đó có cô Fatima sống bên cha), sau một thời gian tịnh tâm suy niệm trong một hang động cách Mecca khoảng 5 km, đã nhận được khải thị mà ông xác tín đó là của thiên thần Gabriel. Từ đó, ông bắt đầu rao giảng những giáo lý được mặc khải, sau viết lại thành bộ kinh Koran (Qur’an), Kinh Thánh của Hồi giáo, và ông được tín đồ Hồi giáo truy nhận là vị Đại tiên tri.

Hồi giáo hiện nay có hai dòng chính (phát sinh từ sau cái chết của vị sáng lập với lý do cốt yếu liên quan đến “kế vị”) : Dòng Sunni chiếm khoảng 90%, chủ trương quyền kế vị thuộc các “đồng chí” của Muhammad. Dòng Shiites chủ trương kế vị thuộc dòng tộc của Muhammad.

Cùng với tài tổ chức, sức thuyết phục của một giáo lý mới phù hợp với tâm thức của người Ả-rập, kèm với những cuộc chiến quyết liệt khuất phục mọi người theo đạo, chẳng bao lâu Hồi giáo đã lan rộng ra toàn vùng Ả-rập, Palestine, Ai Cập, Bắc Phi, Ba Tư…

Vào thế kỷ 15 (1453) thủ đô phía đông của đế quốc Rôma là Constatinople lọt vào tay của đế quốc Hồi giáo Ottaman Thổ Nhĩ Kỳ và được đổi tên là Istanbul. Cũng đừng quên, nếu hải quân Hồi giáo chiến thắng trong trận chiến vịnh Lepanto (7.10.1571) thì ngày nay Âu châu đã bị Hồi giáo hoá.[54]

Ngày nay, Hồi giáo là một tôn giáo có số tín đồ đông thứ nhì (trên một tỷ rưỡi người) sau Kitô giáo (bao gồm Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành, Anh giáo); riêng nước Inđônêsia có khoảng 150 triệu tín đồ, quốc gia Hồi giáo đông nhất thế giới. (Xem thêm Ruth S. Anderson).

b. Nội dung giáo lý và chiều hướng linh đạo :

b.1/. Nền tảng giáo lý :

- Kinh Qur’an (hay Koran hoặc Coran) : “Những lời phán truyền của Thượng Đế Allah là toàn bộ nội dung giáo lý Islam. Qur’an là kim chỉ nam đối với tín đồ Islam và là một trong những yếu tố tạo nên nề nếp sống của tín đồ Islam”.[55]

- Luật Sharia : Trích xuất từ kinh Qur’an trở thành các điều răn thực hành của Hồi giáo. Có các khoản dành riêng cho đàn ông và đàn bà.[56]

b.2/. Thực hành đức tin : 5 cột trụ :

1. SHAHADAH là sự tuyên xưng và đồng thời là điều cốt lõi trong đức tin của một tín đồ.

2. SALAT là việc cầu nguyện. Tín đồ Islam phải cầu nguyên năm lần một ngày, vào lúc bình minh, giữa trưa, giữa chiều, khi mặt trời lặn và tối.

3. ZAKAT là sự bố thí. Theo Kinh Koran, một người phải trao cho người khác "những thứ dư thừa".

4. SAWM là việc nhịn ăn. Mọi tín đồ Islam phải nhịn ăn vào ban ngày trong tháng Ramadan, trừ trẻ em, người già và những người ốm đau bệnh tật. Những người đang có việc phải đi xa không phải nhịn ăn, nhưng họ sẽ nhịn bù sau đó.

5 HAJJ là việc hành hương. Ít nhất một lần trong đời, những tín đồ Islam có khả năng phải hành hương tới thánh địa Mecca..[57]

c/. Linh đạo và bài học từ Hồi giáo :

Trước hết, chúng ta thử nghe lại lập trường của Giáo Hội Công Giáo đối với Hồi giáo qua tuyên ngôn của Công Đồng Vatican II :

“Giáo Hội cũng tôn trọng các tín đố Hồi giáo, những người thờ phượng Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và hằng hữu, nhân hậu và toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, Đấng đã ngỏ lời với con người, Đấng đưa ra những phán quyết bí nhiệm mà họ luôn tuân phục với trọn cả tâm hồn, theo mẫu gương tùng phục Thiên Chúa của Abraham, người mà niềm tin Hồi giáo vẫn luôn gắn bó. Dù không nhìn nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng họ tôn sùng Người như vị Tiên tri, kính trọng Mẹ đồng trinh của Người là Đức Maria, và đôi khi cũng sốt sắng cầu khẩn Mẹ. Hơn nữa, họ cũng trông đợi ngày phán xét, ngày Thiên Chúa thưởng phạt mọi người khi sống lại. Chính vì thế, họ tôn trọng đời sống luân lý và thờ phượng Thiên Chúa, nhất là bằng cầu nguyện, bố thí và chay tịnh”.[58]

Qua những nhận định và thái độ như thế, cùng với những gì khám phá được trong thực hành đức tin của người Hồi giáo, chúng ta có thể rút ra những điểm tích cực sau đê vận dụng trong việc tài bồi cho con đường nên thánh :

- Với Chúa : Thiên Chúa luôn là đối tượng “ưu tiên một” để suy phục, yêu mến phụng thờ.

- Với mình : Cầu nguyện và chay tịnh phải là “kỷ luật”, là “quán tính” gắn liền với cuộc sống.

- Với người : Chia sẻ, bố thí : thực thi đức ái.

Chúng ta mới vừa lược qua 6 tôn giáo lớn của Á Châu cùng với một số điểm nhấn trong nội dung giáo lý, linh đạo và việc thực hành đức tin của các tôn giáo nầy như những “giá trị tích cực” có thể rút tỉa cho hành trình nên thánh của người Kitô hữu.

Thật ra, tại Á Châu hay nhiều nơi trên thế giới, còn rất nhiều các tôn giáo khác, các truyền thống tâm linh, các học thuyết, triết lý, việc thực hành niềm tin, linh đạo…mà chúng ta không thể tìm hiểu hết.

Cách riêng tại Á Châu, những niềm tin sâu sắc của Thần Đạo (Shintoism) đã ảnh hưởng sâu đậm trên văn hoá và lịch sử cũng như toàn bộ đời sống của người Nhật Bản, khiến dân tộc nầy cảm thấy “không cần tiếp nhận thêm” tôn giáo nào khác; cũng vậy, đối với người Việt Nam hay Trung Hoa, việc thờ kính tổ tiên, tuy rằng có ảnh hưởng lai tạp bởi các tôn giáo Phật, Lão, Khổng, nhưng gần như đã trở thành một thứ “Đạo Ông Bà” gần như chi phối và ảnh hưởng rất tích cực trên rất đông những người tự nhận không theo tôn giáo nào.

Chính vì thế, việc chúng ta nỗ lực tìm hiểu giáo lý và các thực hành tâm linh của các tôn giáo, tín ngưỡng ngoài Kitô giáo chẳng những không uổng công chút nào mà còn rất ích lợi trong việc khám phá, học hỏi và tài bồi cho chính con đường hoàn thiện của mình, như nhận xét của Cornelis E. trong tác phẩm Valeurs chrétiennes des religions non chrétiennes mà linh mục Mai Đức Vinh đã chuyển ngữ trong bài viết ÐỐI CHIẾU CÁC TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VỚI KITÔ GIÁO :

“Ðôi khi người ta đã tìm cách giải thích thế giới tôn giáo ngoài Kitô giáo như một sự loan báo trước ”những hòn đá chờ đợi”, bị đổ bừa bãi trên công trường của thế giới. Họ miệt mài tìm kiếm cho tới khi tìm thấy trong ”Viên Ðá Góc” một nguyên tắc hay một kỹ thuật kiến trúc gắn bó được hết mọi hòn đá... Ðối với những ai chuyên tìm ý nghĩa Kitô giáo tích cực trong các tôn giáo lớn của Nhân Loại, thì giả thuyết trên thật hấp dẫn. Vậy cần phải phát hiện giá trị của việc mạo hiểm tìm kiếm này”[59]

Phải chăng đó cũng cính là thái độ “biết lắng nghe” để “phân định” mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã lưu ý trong tông huấn gọi mời nên thánh “Gaudete et Exsultate”, một sự “lắng nghe” để được phong phú và để bổ túc những giới hạn, bất toàn của chính mình :

“cần nhớ rằng việc phân định trong cầu nguyện phải được khởi đi từ một sự sẵn sàng lắng nghe: lắng nghe Chúa, nghe người khác, và nghe chính thực tại, vốn luôn chất vấn chúng ta với những cách mới mẻ. Chỉ những ai sẵn sàng lắng nghe mới có tự do để chối từ quan điểm phiến diện và không đầy đủ của mình, nhũng thói quen riêng và cách nhìn sự vật của mình. Như thế, chúng ta thực sự mở ra để đón nhận một tiếng gọi có thể phá vỡ sự an toàn của mình, nhưng dẫn ta đến một cuộc sống tốt đẹp hơn, bởi lẽ cũng không đủ khi mọi sự đều ổn thỏa và bình an. Thiên Chúa có thể đang trao ban cho chúng ta một cái gì đó hơn thế, mà nếu thiếu chú tâm, chúng ta không nhận ra được.”[60]

LM. Giuse Trương Đình Hiền

(Tháng 11/2018)

[1] ĐGH Gioan-Phaolô II, Tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu” (Ecclesia in Asia), Bản dịch Việt ngữ : Lm. Phêrô Nguyễn Quang Sách, số 6 : “Á Châu cũng là chiếc nôi của các tôn giáo lớn trên thế giới -Do Thái Giáo, Kitô Giáo, Hồi Giáo và Ấn Giáo. Đó là nơi phát sinh nhiều truyền thống thiêng liêng khác như Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo, Zoroastrianism, Jainism (Ấn Độ), giáo phái Sikh và Thần Đạo (Nhật). Hàng triệu người cũng theo những tôn giáo truyền thống và bộ lạc, với nhiều cấp độ nghi thức và giáo thuyết. Giáo Hội giữ một niềm kính phục sâu xa nhất đối với các truyền thống này và tìm cách chân thành đối thoại với các môn sinh của truyền thống đó. Những giá trị tôn giáo họ truyền dạy, chờ được hoàn thành viên mãn trong Đức Giêsu Kitô.”.

Nguồn : http://www.simonhoadalat.com;

hoặc : https://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/04/15/tong-huan-giao-hoi-tai-a-chau/3/

[2] Ibid.

[3] HĐGMVN, Uỷ ban Giáo Lý Đức Tin, Công Đồng Vaticanô II (Bản dịch Việt ngữ), nxb. Tôn Giáo 2012, Tuyên ngôn về mối liên hệ của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Giáo Hội (Nostra Aetate), số 2, tr. 742. (Viết tắt : NA)

[4] Ibid. Sắc lệnh về truyền giáo của Giáo Hội (Ad Gentes), số 7, tr. 655-656. (Viết tắt : TG)

[5] ĐGH Gioan-Phaolô II, Tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu” (Ecclesia in Asia), Bản dịch Việt ngữ : Lm. Phêrô Nguyễn Quang Sách, số 6 : “Tất cả những điều trên chỉ cho thấy một cảm thức thiêng liêng nội tâm và sự khôn ngoan về mặt luân lý trong tâm hồn người Á Châu, và đó là cốt lõi mà xung quanh đó được xây dựng một ý thức đang lớn mạnh về thế nào "là người Á Châu". Nhận thức "là người Á Châu" này được khám phá và khẳng định cách tốt nhất không phải trong sự chạm trán và đối nghịch nhau, nhưng trong tinh thần bổ sung và hoà hợp. Trong khung cảnh bổ sung và hoà hợp này, Giáo Hội có thể loan truyền Tin Mừng qua một cách thức vừa trung thành với truyền thống của mình và vừa trung thành với tâm hồn Châu Á.”. (Nguồn : đã dẫn ở trên)

[6] John Bowker, Từ điển tôn giáo giản yếu, dịch giả : Lưu Văn Hy, hiệu đính : Chương ngọc, nxb. Tự điển bách khoa 2011, mục từ HINDUISM Ấn giáo, tr. 343.

[7] Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH I” – DẪN VÀO CÁC KHOA HỌC TÔN GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 316. (X. Bài khảo luận của tác giả Đức Nguyên : Đạo Bà-la-môn (Ấn Độ giáo). Nguồn : https://www.daotam.info/booksv/nvhdcdvctg.htm

[8] Cũng có tài liệu chia thời kỳ nầy làm 2 : Thời Ấn giáo cổ điển (Bà-la-môn) từ thế kỷ 2 trước CN đế thời Trung cố (khoảng thế kỷ 10 sau CN) và thời kỳ Ấn giáo sùng tín (Bhakti) từ thời Trung cổ đến nay. Nguồn : http://www.nhulieuthanhkinh.com/index.php/chng-o/cac-dan-tc-va-tin-ngng/1881-n-giao.html

[9] Phúc Trung. Bài viết : Ấn giáo hay Bà la môn giáo. Nguồn : https://thuvienhoasen.org/a9418/an-giao-hay-ba-la-mon-giao-phuc-trung

[10] Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH I” – DẪN VÀO CÁC KHOA HỌC TÔN GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 350-352.

[11] Ibid. Tr. 352-353.

[12] SĐD, tr. 740-741.

[13] Xem thêm : chuyên đề PHẬT GIÁO của tác giả Ruth S. Anderson trên trang mạng “NHU LIỆU THÁNH KINH”. Nguồn : http://www.nhulieuthanhkinh.com/index.php/chng-o/cac-dan-tc-va-tin-ngng/1945-2018-06-06-10-46-31.html; hoặc tác phẩm : PHẬT HỌC PHỔ THÔNG, QUYỂN NHỨT của Hoà thượng Thích Thiện Hoà, nxb. Tp. Hồ Chí Minh 1997. KHOÁ I, Tr. 15-18.

[14] Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH I” – DẪN VÀO CÁC KHOA HỌC TÔN GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 318-319. (Xem thêm : Hoà thượng Thích Thiện Hoà, PHẬT HỌC PHỔ THÔNG, QUYỂN NHỨT của, nxb. Tp. Hồ Chí Minh 1997. KHOÁ I, Tr. 18-21.)

[15] Gioan-Phaolô II, BƯỚC QUA NGƯỠNG CỬA HY VỌNG, tr. 105 : “Sự “khai ngộ” do Đức Phật thể nghiệm thực sự được tóm kết trong niềm xác quyết rằng thế giới này đầy những tham-sân-si, rằng đó là nguồn mạch sự dữ và đau khổ cho con người. Để giải thoát chính mình khỏi tội ác, con người phải giải thoát chính mình khỏi thế giới này, đòi hỏi phải đoạn tuyệt với những ràng buộc nối liền chúng ta với thế giới bên ngoài – những ràng buộc hiện hữu nơi bản chất của con người chúng ta, nơi tâm thức và cả nơi ngũ quan nữa. Chúng ta càng giải thoát khỏi những ràng buộc đó nhiều, chúng ta trở thành thản nhiên trước những gì thuộc về thế giới đó, và càng tránh được đau khổ, nghĩa là tránh khỏi những sự dữ đến từ thế giới. Chúng ta có thể tiến tới gần Thiên Chúa bằng đường lối này không? Đó cũng không là vấn đề được đặt ra trong “Khai Ngộ” do Đức Phật truyền đạt. Phật giáo theo nhận định rộng rãi là một hệ thống Vô thần (không đề cập đến Thượng Đế hay Trời Đất). Chúng ta không giải thoát chính mình khỏi sự dữ nhờ chính sự Thiện đến từ Thiên Chúa; chúng ta chỉ giải thoát chính mình qua việc tách rời khỏi thế giới vô thường. Hành động tách rời hoàn toàn không phải là việc thông hiệp với Thiên Chúa, nhưng Niết Bàn chỉ là tình trạng hoàn toàn thờ ơ trước thế giới. Ơn cứu độ trên tất cả là sự giải thoát khỏi sự dữ, bằng cách hoàn toàn cách biệt với thế giới huyễn tượng chính là nguồn sự dữ. Đó chính là cao điểm của diễn trình tâm linh trong Phật giáo!”

[16] Hoà thượng Thích Thiện Hoà, PHẬT HỌC PHỔ THÔNG, QUYỂN NHỨT của, nxb. Tp. Hồ Chí Minh 1997. KHOÁ III, Tr. 10-12.

[17] Ibid. Bài thứ 10, Mục E : BÁT CHÁNH ĐẠO. Tr. 156-165.

[18] Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH I” – DẪN VÀO CÁC KHOA HỌC TÔN GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 319-320.)

[19] SĐD (Tuyên ngôn…), số 2, tr.141

[20] Ts. Nguyễn Như Lai : “Truyền Thống Tôn Giáo Tâm Linh Xã Hội tại Việt Nam” (La Tradition Religieuse Spirituelle Sociale au Vietnam), chương VII. ÐỐI CHIẾU CÁC TÍN NGƯỠNG VÀ CÁC TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VỚI KITÔ GIÁO (Confrontation des Croyances et Religions au Vietnam avec Christianisme), Mai Đức Vinh chuyển ngữ, tr. 487-495.

[21] Ruth S. Anderson trên trang mạng “NHU LIỆU THÁNH KINH” : KHỔNG GIÁO (Confucianism) : “Từ ngữ Confucius là một từ tiếng Trung Hoa Khổng Phu Tử , có nghĩa là “thầy Khổng”. Khổng là tên họ, đã được phiên ra hình thức chữ La Tinh thành Confucius do các giáo sĩ dòng Tên (dòng Jesuits) thời trước.”. Nguồn : http://www.nhulieuthanhkinh.com/index.php/chng-o/cac-dan-tc-va-tin-ngng/1944-2018-06-06-10-35-08.html

[22] Trang Wikipedia : Năm 771 TCN, khi Chu U Vương phế truất Thân hậu để đưa Bao Tự lên thay thế, kinh đô nhà Chu đã bị các lực lượng du mục phía đông bắc tràn vào cướp phá do sự xúi giục của Thân Hầu (cha Thân hậu). U vương bị giết và con cả là thái tử Nghi Cữu được các quý tộc chư hầu Trịnh, Tấn, Tần đưa lên làm vua, tức là Chu Bình Vương, dời đô về phía đông năm 771 TCN tới Lạc Dương, tỉnh Hà Nam hiện nay. Từ đây bắt đầu giai đoạn Đông Chu, và chỉ kết thúc khi bị nhà Tần lật đổ vào năm 256 trước Công Nguyên; trong lịch sử Trung Quốc, giai đoạn này được gọi là "Thời Xuân Thu" (771-403 TCN) và "Thời chiến quốc" (403-256 TCN).

Sự phân chia này dựa trên một bộ sử biên niên của Khổng Tử, bộ Kinh Xuân Thu. Bộ này chép sử nước Lỗ từ năm thứ nhất đời Lỗ Ấn Công (722 TCN) đến năm thứ 14 đời Lỗ Ai Công (481 TrCN), gồm 240 năm, năm 479 là năm Khổng Tử mất. Nhiều học giả thấy năm 722 và năm 480 (hoặc năm 479) không đánh dấu một biến cố lớn lao nào trong lịch sử, nên đã chia lại như sau:

- Thời Xuân Thu: 770-403 TCN, từ đời Chu Bình Vương tới cuối đời Chu Uy Liệt Vương.

- Thời Chiến Quốc: 403-221 TCN, từ đời Chu An Vương đến khi nước Tần diệt được Tề và thống nhất Trung Quốc.

Thời kỳ này của nhà Đông Chu cũng được coi là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của tư tưởng và văn hoá Trung Quốc trong lịch sử. Chính trong giai đoạn cai trị này của nhà Đông Chu mà những nhà tư tưởng lớn nhất đã sáng tạo ra những quan niệm khởi đầu về triết học, đạo đức, học thuyết chính trị và văn hoá Trung Quốc.

[23] Ruth S. Anderson trên trang mạng “NHU LIỆU THÁNH KINH” : KHỔNG GIÁO (Confucianism) : Nguồn : http://www.nhulieuthanhkinh.com/index.php/chng-o/cac-dan-tc-va-tin-ngng/1944-2018-06-06-10-35-08.html

[24] Ibid. : “Câu hỏi thường được đặt ra là : “Khổng giáo có phải là một tôn giáo không?” Một số người cho rằng Khổng Tử là người sáng lập ra một trong số các tôn giáo của thế giới. Những người khác thì cho rằng ông là một người theo thuyết bất khả tri luận (agnotic), nếu không nói là một người vô thần. Sự thật có thể nằm ở đâu đó giữa hai sự cực đoan nầy. Nếu Khổng Tử đề cập đến tôn giáo, thì đó là để cho phù hợp với các nghi lễ và sự thờ phượng tổ tiên. Nhưng điều ông quan tâm nhiều hơn, đó là cách dân chúng nên hành xử thế nào trong cuộc sống thường nhật. Ông là một triết gia, ông đã dạy một hệ thống luân lý, một lý thuyết về sự cai trị, và một loạt những mục tiêu xã hội mà chúng đã có ảnh hưởng cho người Trung Hoa trong hai mươi lăm thế kỷ qua.”

[25] Ibid. (Xem thêm : Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH I” – DẪN VÀO CÁC KHOA HỌC TÔN GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 319-320.)

[26] Lm. Mai Đức Vinh. CÁC VĂN KIỆN CẤM ĐẠO. Nguồn : Trang mạng giáo phận Đà Lạt :

http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GiaoHoiVN/LichSu/22VaKienCamDao.htm

[27] Nguyễn Hồng Dương : Mối quan hệ giữa Nho Giáo và Công Giáo ở Việt Nam. “…Sự xuất hiện của Công Giáo ở Việt Nam ngay từ buổi đầu đã là sự kiện tôn giáo đặc thù. Đó là việc truyền bá một tôn giáo hoàn toàn xa lạ với các tôn giáo truyền thống. Chẳng những thế tôn giáo này đã không thừa nhận các tôn giáo đang hiện diện, coi tất cả là tà giáo là đạo dối. Các giáo sĩ Công Giáo dựa vào tín lý, giáo lý Công Giáo tấn công vào hệ tư tưởng Nho giáo, hệ tư tưởng trị nước thời bấy giờ. Về phía Nho giáo để bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình các nhà Nho mà đại biểu của nó là nhà Vua, là các Nho thần, tất nhiên cũng tấn công lại một cách mạnh mẽ những tư tưởng của Công Giáo. Từ đó hình thành nên cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng mang tính học thuật”. Nguồn : Trang mạng Văn Hoá Nghệ An : http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/moi-quan-he-giua-nho-giao-va-cong-giao-o-viet-nam

[28] Alexandre de Rhodes, Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Tr.39-40 : “Thực ra Khổng Tử nhà hiền triết này, trong những sách ông để lại, có nhiều giáo huấn về thuần phong mỹ tục: như khi ông nói, trước hết hãy sửa mình mà muốn thế thì xét mình mỗi ngày ba lần để sửa điều lầm lỗi. Sau đó mới đem tâm trí và chuyên cần xếp đặt, điều khiển gia đình. Và sau khi đã cẩn thận chu toàn chức vụ đầu tiên này chứ không trước khi đó, thì bấy giờ mới lo dìu dắt và cai trị quốc gia. Ông còn luận về nhiều điều liên hệ tới pháp lý dân chính, về xét xử các vụ kiện và thi hành công lý, do đó các tiến sĩ Đàng Ngoài nghiên cứu kinh sách của ông một cách chuyên cần như chúng ta khảo sát hiến pháp hay bộ luật. Ông còn trình bày và phân giải những châm ngôn về chính trị và luật pháp tự nhiên. Vì thế ông không nói trái với những nguyên lí của Kitô giáo và cũng không nói những gì phải bác bỏ hay bị kẻ tin theo lên án”.

[29] Nguyễn Hồng: Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam. T1 Hiện Tại, Sài Gòn 1959, tr.57 : “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt Nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt Nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục nó đã giúp rất nhiều vào công cuộc truyền giáo”.

[30] Những thư chọn trong các thư chung các đấng Vicariô Apôstôlicô và Vicariô Prôvinciale về dòng ông thánh Du Mingô đã làm tự năm 1849, Quyển thứ 2. In tại Kẻ Sặt 1903, tr.63. : “Các quân tử cứ lẽ tự nhiên đã suy đến sự ấy đã kể phép nhất phu, nhất phụ trong ba giềng mối can hệ nhất trong thiên hạ quen gọi là tam cương… Ví bằng người ta cẩn thận giữ cho phải mlễ trong việc nhất phu, nhất phụ thì các việc khác liền được an”.

[31] Ts. Nguyễn Như Lai : “Truyền Thống Tôn Giáo Tâm Linh Xã Hội tại Việt Nam” (La Tradition Religieuse Spirituelle Sociale au Vietnam), chương VII. ÐỐI CHIẾU CÁC TÍN NGƯỠNG VÀ CÁC TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VỚI KITÔ GIÁO (Confrontation des Croyances et Religions au Vietnam avec Christianisme), Mai Đức Vinh chuyển ngữ, tr. 477-481 : “…Ông Tử Cống (Tseu Kong) hỏi đức Khổng Tử: “Ví như có người thi ân bố đức cho khắp cả dân gian, lại hay cứu tế cho đại chúng, thì nên nghĩ cho người ấy ra thế nào? Có nên gọi là người nhân chăng?”. Ðức Khổng Tử đáp: “Sao chỉ gọi là người nhân thôi? Ắt gọi là bậc thánh mới xứng. Vua Nghiêu vua Thuấn cũng khó mà làm xong những việc ấy. Này, người nhân hễ muốn tự lập lấy mình thì cũng lo mà thành lập cho người; hễ muốn cho mình thông đạt, thì cũng lo làm cho người thông đạt; hễ xử với mình thế nào thì cũng xử với người xung quanh mình thế ấy. Ðó là những phương pháp phải thi hành để trở nên người nhân đức vậy” (Ch. VI,28)

[32] Ruth S. Anderson trên trang mạng “NHU LIỆU THÁNH KINH” : ĐẠO GIÁO (LÃO GIÁO – TAOISM – DAOISM)

(Confucianism) : Nguồn : http://www.nhulieuthanhkinh.com/index.php/chng-o/cac-dan-tc-va-tin-ngng/1940-2018-06-06-03-28-21.html

[33] Ibid.

[34] Ibid. : “Huyền thoại cho rằng vào khoảng cuối đời, Lão Tử chu du đến vùng núi phía tây. Nơi đây, người trông coi cửa ải, là một người Đạo giáo, đã van nài ông đừng xuất thế mà không lưu lại những tư tưởng vang danh của ông. Vị thánh hiền nầy đã biên soạn và viết ra một tập khái niệm gồm năm ngàn chữ về đạo (con đường) và quyền lực của nó. Sau khi làm điều đó, ông đã ra đi và không bao giờ còn được người ta nhìn thấy lại nữa. Sách của ông được gọi là Đạo Đức Kinh , nó không phải là một tiểu sử và nó cố để nói ra được những sự kiện từ tư tưởng kỳ dị đó. Nó gồm tám mươi mốt chương ngắn. Con số đó được chọn vì nó là bội số của ba mà người ta nghĩ rằng đó là một con số thiêng liêng. Chương đầu tiên đề cập đến Đạo như là một con đường không thể đặt tên và không thể mô tả được. Nó là ngưỡng cửa mà từ đó mười ngàn tạo vật của trái đất đã xuất hiện. Đạo được ví sánh với nước, vì nước thì mềm yếu và được chứa trong những nơi thấp hơn hết. Nhưng nó đã làm ích cho mọi vật và cuối cùng thắng hơn mọi vật.”

[35] Ibidi. : “Trang Tử, là môn đệ của Lão Tử sống ở thế kỷ thứ tư trước công nguyên, đã thêm vào các câu châm ngôn của Lão Tử, Ông biên soạn sách của mình và các sách khác vào thành một quyển sách và cố gắng thuyết phục dân chúng tiếp nhận Lão Tử thay vì Khổng Tử làm vị đạo sư chính của họ. Ông đã thêm vào cái ý niệm cho rằng các mùa và lịch sử tiến với nhau thành một cái vòng cũng như âm và dương, chúng tạo ra và hủy phá lẫn nhau. Mỗi cái kết thúc thì sẽ trở thành một sự khởi đầu mới. Trang Tử nói rằng, trong lãnh vực xã hội, có yêu thương và có thù ghét. Nhưng không có tình trạng nào lâu dài, hoặc là của sự hòa bình hoặc là của sự thù địch, hay là cách hoạt động thích hợp cho mọi sự vật. Mọi vật đều có Đạo riêng của nó và Đạo đó là thích hợp cho nó.”

[36] Theo trang bách Khoa toàn thư mở (Wikipedia) thi : Đạo Đức Kinh gồm có 81 chương với khoảng 5000 chữ Hán, chia làm 2 phần: Thượng Kinh và Hạ Kinh.

- Thượng Kinh gồm 37 chương, bắt đầu bằng câu: "Đạo khả Đạo phi thường Đạo". Thượng Kinh luận về chữ Đạo nên được gọi là Đạo Kinh.

- Hạ Kinh gồm 44 chương, bắt đầu bằng câu: "Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức". Hạ Kinh luận về chữ Đức nên được gọi là Đức Kinh.

[37] Ruth S. Anderson trên trang mạng “NHU LIỆU THÁNH KINH” : ĐẠO GIÁO (LÃO GIÁO – TAOISM – DAOISM)

(Confucianism). Nguồn : http://www.nhulieuthanhkinh.com/index.php/chng-o/cac-dan-tc-va-tin-ngng/1940-2018-06-06-03-28-21.html

[38] Ibid.

[39] Ts. Nguyễn Như Lai : “Truyền Thống Tôn Giáo Tâm Linh Xã Hội tại Việt Nam” (La Tradition Religieuse Spirituelle Sociale au Vietnam), chương VII. ÐỐI CHIẾU CÁC TÍN NGƯỠNG VÀ CÁC TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VỚI KITÔ GIÁO (Confrontation des Croyances et Religions au Vietnam avec Christianisme), Mai Đức Vinh chuyển ngữ, tr. 481-487

[40] Ibid.

[41] Ibid.

[42] Ruth S. Anderson trên trang mạng “NHU LIỆU THÁNH KINH” : DO THÁI GIÁO (JUDAISM). “Dòng dõi của dân Do Thái được ghi nhận từ thời của Áp-ra-ham, là người thuộc thế hệ thứ mười của dòng dõi Sem, con trai cả của Nô-ê. Do đó họ được gọi là dân Sê-mít (dân tộc của Sem). Dân tộc của Áp-ra-ham cũng được gọi là dân Hê-bơ-rơ, là một từ ngữ có lẽ đến từ dân Habiru ở phía bắc xứ Mê-sô-bô-ta-mi, nơi mà Áp-ra-ham đã sống ở đó một thời gian. Tên Y-sơ-ra-ên đến từ cháu nội của Áp ra ham là Gia Cốp, là một người sau khi vật lộn với Đức Chúa Trời đã được đổi tên thành Y-sơ-ra-ên. Vì vậy, con cháu của ông được gọi là dân Y-sơ-ra-ên. Danh hiệu Do Thái (hay Giu-đa) đến từ con trai của Gia cốp là Giu-đa. Dân tộc nầy được gọi là dân Giu-đa kể từ cuộc lưu đày qua ba-by-lôn. Tuy nhiên, được gọi là Dân của Đức Chúa Trời là điều quan trọng nhất đối với chính người Do Thái. Nguồn : http://www.nhulieuthanhkinh.com/index.php/chng-o/cac-dan-tc-va-tin-ngng/1968-2018-06-07-03-11-34.html

[43] GH 16

[44] NA 4

[45] SĐD. Nguồn : http://www.nhulieuthanhkinh.com/index.php/chng-o/cac-dan-tc-va-tin-ngng/1968-2018-06-07-03-11-34.html

[46] Bài khảo cứu : SƠ LƯỢC VỀ KINH THÁNH. Trang mạng THƯ VIỆN TIN LÀNH : “Danh từ Kinh Thánh, hay Thánh Kinh, trong tiếng Việt được dịch từ chữ Holy Bible trong tiếng Anh. Chữ bible trong tiếng Anh xuất phát từ chữ biblia trong tiếng La Tinh, hay βιβλία trong tiếng Hy Lạp. Đây là một danh từ mô tả số nhiều, trung tính, có nghĩa là “những cuốn sách.” Trong tiếng La Tinh, chữ biblia xuất phát từ chữ biblos (βιβλίον – Hy Lạp). Chữ biblos là từ ngữ chỉ phần bên trong của cây papyrus, là nguyên liệu được người Ai Cập chế biến để làm giấy; do đó chữ biblos có nghĩa là “giấy.” Vì giấy được sản xuất vào thời đó được cuộn tròn cho nên từ ngữ này còn có nghĩa là “quyển.” Về sau danh từ biblos được dùng phổ biến với nghĩa là “sách.” Đến thế kỷ thứ IV, chữ sacra được thêm vào nên từ ngữ biblia sacra có nghĩa là “những sách thánh.” Do tính nhất quán của tất cả các sách trong Thánh Kinh được nhấn mạnh nên chữ biblia sau đó đã được chuyển từ danh từ số nhiều sang danh từ số ít; vì thế ý nghĩa của chữ biblia sacra trở thành “sách thánh,” và chữ “những” không còn nữa. Trong danh từ Hán Việt, các sách tôn giáo dạy đạo lý được gọi là kinh; cho nên chữ biblia sacra khi được dịch sang tiếng Việt đã được các dịch giả gọi là Kinh Thánh.”. Nguồn :

https://www.wiki.thuvientinlanh.org/index.php?title=S%C6%A1_L%C6%B0%E1%BB%A3c_V%E1%BB%81_Kinh_Th%C3%A1nh

[47] Phan Tấn Thành. “ĐỜI SỐNG TÂM LINH I” – DẪN VÀO CÁC KHOA HỌC TÔN GIÁO. NXB. Phương Đông 2015. Tr. 322 : “Kitô giáo chấp nhận Sách thánh của đạo Do Thái, (gọi là Cựu ước : giao ước cũ), và thêm một phần mới gọi là Tân ước (Danh từ Anticum Testamentum – Novum Testamentum do ông Tertulianô đặt ra khoảng năm 200). Tuy nhiên Bộ Cựu ước của Kitô giáo thêm bảy tác phẩm viết bằng Hy lạp (quen gọi là bản dịch LXX) không được xếp vào quy điển Do thái : Tobia, Giuđitha, hai quyển Maccabê, Khôn ngoan, Huấn ca, Baruch. Một cách tương tự như vậy, một vài chương của sách Đaniel (chương 13-14) và Esther (14,4-16,24) viết bằng tiếng Hy lạp không có trong quy điển Do Thái.”

[48] Ibid. Tr. 324.

[49] Quy điển của hội nghị Jamnia chỉ công nhận các sách được viết bằng tiếng Híp-ri (39 cuốn) và loại bỏ 7 cuốn sách thuộc bộ sách được viết bằng tiếng Hi-lạp do 70 luật sĩ dịch sang (được gọi là Bảng 70 (LXX). Sau nầy, Công Giáo chọn 7 cuốn nầy vào số quy điển Cựu ước của Công Giáo nên, theo Công Giáo, Cựu ước có 46 cuốn.

[50] Người Do Thái gom lại thành 8 : 4 tiền ngôn sứ và 4 hậu ngôn sứ.

[51] Ruth S. Anderson trên trang mạng “NHU LIỆU THÁNH KINH” : DO THÁI GIÁO (JUDAISM).

[52] NA 4

[53] Ruth S. Anderson trên trang mạng “NHU LIỆU THÁNH KINH” : HỒI GIÁO (Islami). “Hồi giáo là một phong trào tôn giáo do tiên tri Ma-hô-mét sáng lập vào đầu thế kỷ thứ bảy sau công nguyên. Từ ngữ Hồi giáo (Islam) xuất xứ từ từ ngữ Salam của tiếng Ả-rập, có nghĩa là “đầu hàng, phục tùng, bình an và ủy thác”. Hồi giáo là đức tin đặt nơi Allah, có nghĩa là “Vị thần” (The God). Nó bao gồm mạo từ Al của chữ Ả-rập với từ ngữ Illah của chữ Ả-rập có nghĩa là “Thần” (hay Thượng Đế - God). Do đó chữ Hồi giáo (Islam) có nghĩa là “Sự bình an trọn vẹn đến từ sự hoàn toàn đầu phục Allah”. Những tín đồ Hồi giáo được gọi là người Hồi giáo (Muslims), là một danh từ dẫn xuất từ chữ Hồi giáo (Islam). Với tên gọi đó, họ chứng tỏ rằng họ đã giao phó chính mình cho một Vị Cai trị Thần thánh quản trị, họ quyết định đi theo ý muốn của Vị cai trị Thần thánh nầy trong mọi phương diện của cuộc sống. Người Hồi giáo bác bỏ danh từ người Ma-hô-mét (Muhammaidans), vì họ xem Thượng Đế là trọng tâm của đức tin mình, chớ không phải là Ma-hô-mét. Cũng như Cơ Đốc giáo, Hồi giáo có gốc rễ trong Do- Thái giáo. Nhưng không giống Cơ Đốc giáo, Hồi giáo là một tôn giáo của các tiên tri, trong đó nó nhìn nhận những người quan trọng như Nô-ê, Áp-ra-ham, Jesus và Ma-hô-mét là các tiên tri, được Thượng Đế lựa chọn và kêu gọi, nhưng vẫn là những con người thường.” Nguồn :

http://www.nhulieuthanhkinh.com/index.php/chng-o/cac-dan-tc-va-tin-ngng/1969-2018-06-07-03-31-15.html

[54] Trang “Bách Khoa Toàn thu mở” (Wikipedia) : Trận Lepanto (Tiếng Hy Lạp: Ναύπακτος, Naupaktos, pron. Náfpaktos; colloquial tiếng Hy Lạp: Έπαχτος, Épahtos; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: İnebahtı) là trận hải chiến diễn ra ngày 7 tháng 10 năm 1571 khi hạm đội Liên minh thần thánh (1571) do Giáo hoàng Piô V (1566 – 1572) thành lập, một liên minh bao gồm nước Cộng hòa Venezia, vương quốc Tây Ban Nha (lúc đó bao gồm cả Napoli, Sicilia và Sardinia), Quốc gia Giáo hoàng, nước Cộng hòa Genova, Công quốc Savoie, Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta‎ cùng một số đồng minh khác đánh hạm đội Đế chế Ottoman đại bại. Trận kịch chiến kéo dài 5 giờ đồng hồ ở phần phía bắc của Vịnh Patras, nằm ở phía tây Hy Lạp, nơi lực lượng Ottoman, đang thực hiện cuộc hải hành từ căn cứ hải quân tại Lepanto giáp mặt hạm đội của Liên minh Thần thánh, khởi hành từ Messina. Chiến thắng này mang lại quyền kiểm soát tạm thời biển Địa Trung Hải cho Liên minh, bảo vệ Roma khỏi nguy cơ xâm lược, đồng thời ngăn cản bước tiến của Đế chế Ottoman vào sâu nội địa châu Âu. Trận hải chiến này cũng là trận đánh lớn cuối cùng giữa các chiến thuyền chèo dùng sức người, đồng thời cũng là trận chiến quyết định quan trọng nhất, vì "sau trận Lepanto quả cân xoay chiều, vận may chuyển từ Đông sang Tây, kéo dài cho tới tận ngày nay", và cũng vì "đây là 'bước ngoặt quyết định' trong cuộc chiến kéo dài giữa Trung Đông và châu Âu, cho tới giờ vẫn còn chưa ngã ngũ".

[55] KINH QUR’AN, BẢN DỊCH CỦA HASSAN A. KARRIM, nxb. Tôn giáo Hà Nội, 2001. Lời mở đầu của Wassalam. (Xem thêm : Phan Tấn Thành, ĐỜI SỐNG TÂM LINH I, ghi chú 1, trang 325 : “Ngày nay, các nhà sử học cho rằng sách Coran thành hình qua nhiều chặng : chặng đầu là lời truyền khẩu của Muhammad (+630); tiếp đó, là sự thu thập của califfo Abu Bakr khoảng năm 650. Việc biên soạn sách Coran hoàn tất dưới thời califfo Uthman (644-656).

[56] Theo trang “Bách Khoa Toàn thư mở” (Wikipedia) : Với đàn ông

- Hành lễ 5 lần 1 ngày, nhịn chay trọn tháng Ramadan, đóng Zakat;

- Đối với người làm Imam (chủ lễ) đọc Adhan mỗi khi đến giờ hành lễ nhằm thông báo cho mọi người biết;

- Tích cực học Qur'an và truyền đạo cho vợ, cho con cái;

- Nghiêm cấm giết người vô tội trừ trường hợp gặp phải kẻ giết người hay kẻ phá hoại tôn giáo nếu không sẽ bị hành hình;

- Nghiêm cấm gian dâm, ngoại tình nếu không sẽ bị đánh 100 roi với tội ngoại tình

- Hiếp dâm sẽ bị ném đá đến chết (hoặc tử hình)

- Nghiêm cấm hoạt động tình dục đồng giới

- Luôn dang tay cứu giúp những người nghèo và tuyệt đối không được xúc phạm hay đánh đập họ;

- Không được phép ăn cắp nếu không sẽ bị chặt tay;

- Nghiêm cấm đánh vợ và có những hành vi xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm của vợ, nhưng trường hợp muốn dạy người vợ ngang bướng thì hãy chỉ bảo nhẹ nhàng nếu không được thì đánh nhẹ tay cấm được dùng gậy gộc để dạy vợ nếu người vợ chịu nghe lời thì không được kiếm chuyện rầy rà với vợ;

- Khi cưới vợ cần tặng quà cưới bằng 1 khoản tiền tuỳ theo khả năng.

- Khi cảm thấy không thể chung sống được với nhau thì giải phóng người vợ một cách thỏa đáng và giữ lại tiền cưới nếu người vợ không đòi lại;

- Đối xử tốt với vợ con và gia đình

- Không được phép ăn thịt heo, chó, các loại động vật bị săn bắn, bị thắt cổ chết,... nói chung là không ăn những loại động vật không được cắt cổ theo đúng nghi thức nhưng nếu trong trường hợp bất khả kháng thì được phép ăn những thứ trên để duy trì sự sống;

- Phải dùng những thực phẩm đã được cấp chứng chỉ Halal;

- Không được uống rượu bia hay những loại đồ uống có cồn.

Với phụ nữ

- Hành lễ 5 lần 1 ngày (Fajr, Dhuhr, Asr, Maghrib, Isha'a) và nên hành lễ tại nhà, nhưng khi hành lễ tại masjid tuyệt đối không được hành lễ chung với nam giới

- Tích cực đọc Qur'an.

- Phụ nữ được đeo nữ trang; nam giới bị cấm đeo trang sức bằng vàng, hàng luạ, phải mặc burka che từ cả mặt từ đầu đến chân chỉ hở hai mắt để nhìn

- Cả nam lẫn nữ nên hạ đôi mắt xuống để tránh nhìn thẳng vào người đối diện

- Chỉ cưới với người nam Muslim, vì lý do nếu lấy chồng là người không-muslim thì e rằng sau khi cưới sẻ bị ép buộc bỏ đạo. Nam được phép cưới người Do thái giáo và người Thiên chúa giáo mà không bắt buộc người vợ phải theo đạo. Thiên sứ Mahomed có hai người vợ một là tín đồ Do Thái giáo và một là tín đồ Thiên chúa giáo. Cả hai không bị bắt buộc cải giáo trong ngày cưới, mà họ chỉ cải đạo sau một thời gian đã sống chúng với thiên sứ.

- Các trẻ em gái khi đến trường học phải được xếp lớp học chỉ toàn học sinh nữ, không được cho học sinh nữ ngồi cạnh học sinh nam;

- Phụ nữ nên chăm lo công việc nội trợ ở nhà trong khi chồng đi làm nhưng nếu cần thiết có thể đi làm để trang trải cho cuộc sống;

- Nếu bị bắt gặp ngoại tình bị ném đá đến chết (do ảnh hưởng từ luật Do Thái và Thiên Chúa giáo và luật cổ truyền của các bộ lạc Ả rập)

[57] Theo trang “Bách Khoa Toàn thư mở” (Wikipedia) :

1. SHAHADAH là sự tuyên xưng và đồng thời là điều cốt lõi trong đức tin của một tín đồ. Nó bao gồm việc lặp lại hai câu: "Không có Thượng đế nào khác ngoài Allah", và "Muhammad là Thiên sứ của Ngài". Các tín đồ Islam nhắc lại những câu này hàng ngày khi cầu nguyện. Việc coi Mohammed là sứ giả cuối cùng của Allah đã phân biệt Islam với Kitô giáo và Do Thái giáo.

2. SALAT là việc cầu nguyện. Tín đồ Islam phải cầu nguyên năm lần một ngày, vào lúc bình minh, giữa trưa, giữa chiều, khi mặt trời lặn và tối. Tín đồ có thể cầu nguyện tại bất cứ đâu - tại trường học, nơi làm việc, tại nhà hay ngoài trời - nhưng phải theo quy định. Trước khi cầu nguyện, tín đồ phải ở trong một trạng thái tinh thần và thể xác thanh khiết. Trước tiên họ phải súc miệng, sau đó rửa mặt, cổ, tay và chân.

Buổi cầu nguyện bao gồm việc đọc một số đoạn Kinh Koran, quỳ lạy và chạm đầu xuống đất, thể hiện sự phục tùng Chúa Trời. Tín đồ sử dụng một tấm thảm để quỳ. Khi cầu nguyện, tín đồ phải quay mặt về hướng Mecca, trung tâm tinh thần của Islam. Tại Mecca có Ka'bah, Đại thánh đường lưu giữ Tảng đá đen. Tín đồ Islam tin rằng khi thiên sứ mohammed về với allah tảng đá đòi đi theo nhưng mohammed không cho theo nên tảng đá đứng im lơ lững tại đó.

3. ZAKAT là sự bố thí. Theo Kinh Koran, một người phải trao cho người khác "những thứ dư thừa". Vì thế cột trụ thứ ba liên quan đến việc trao một tỉ lệ nào đó tài sản của một người cho người nghèo và người gặp cảnh không may.

4. SAWM là việc nhịn ăn. Mọi tín đồ Islam phải nhịn ăn vào ban ngày trong tháng Ramadan, trừ trẻ em, người già và những người ốm đau bệnh tật. Những người đang có việc phải đi xa không phải nhịn ăn, nhưng họ sẽ nhịn bù sau đó. Cuộc sống như dừng lại trong tháng Ramadan, nhiều cửa hiệu đóng cửa cho đến sau buổi cầu nguyện trưa. Người Islam tin rằng trong tháng Ramadan, cửa thiên đường sẽ mở ra và cửa địa ngục đóng lại, và mọi lỗi lầm sẽ được tha thứ. Đây là thời gian dành cho sự suy tưởng tôn giáo. Tín đồ hay trở dậy vào ban đêm để đọc Kinh Koran và đến giáo đường nhiều hơn ngày thường. Vào ngày kết thúc tháng Ramadan có một lễ hội lớn với rất nhiều đồ ăn và quà tặng. Đó là lễ Eid al-Fitr, kỉ niệm việc chấm dứt thời kì ăn chay.

5 HAJJ là việc hành hương. Ít nhất một lần trong đời, những tín đồ Islam có khả năng phải hành hương tới thánh địa Mecca. Việc hành hương thể hiện sự phục tùng Chúa Trời và diễn ra vào tháng thứ 12, tháng cuối cùng của năm Islam. Eid al Adha, lễ hiến tế, đánh dấu ngày kết thúc kì hành hương, kéo dài trong mười ngày.

Mỗi năm, hàng triệu tín đồ Islam từ khắp nơi trên Thế giới đổ về Mecca thuộc Ả Rập Xê Út. Những người hành hương mặc áo choàng trắng đơn sơ, bất kể giàu nghèo. Điều này tượng trưng cho đức tin của Islam rằng mọi người đều bình đẳng trước Chúa. Người hành hương không đeo trang sức hay xức nước thơm. Họ phải gạt bỏ phù hoa để tìm kiếm sự tha thứ, dẫn dắt và cứu rỗi linh hồn từ Thượng đế Allah

[58] NA 3, tr. 742

[59] SĐD. (Mai Đức Vinh. ÐỐI CHIẾU CÁC TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VỚI KITÔ GIÁO). Nguồn : http://giaoxuvnparis.org/bai-viet/554-%C3%900i-chieu-cac-tin-ngu0ng-va-t0n-giao-0-viet-nam-v0i-kit0-giao.html

[60] GE 172
 
Văn Hóa
Lá thư Canada : Bùng Lên Ngọn Lửa
Trà Lũ
09:43 06/11/2018
Lá thư Canada : Bùng Lên Ngọn Lửa

Chưa bao giờ tôi thấy những ngày cuối thu đẹp như năm nay. Nhà tôi ở sát bên High Park, công viên lớn nhất và đẹp nhất thành phố Toronto. Trước mắt tôi bây giờ là một bức tranh thiên nhiên đẹp thơ mộng, những đồi cây phong đang đổi màu, màu vàng thường lệ của mùa thu, rồi màu vàng này đang chuyển dần sang màu hồng rồi màu đỏ, đỏ thắm rồi đỏ tía. Ôi đẹp làm sao công viên yêu dấu này. Cây phong có mặt khắp thế giới, nhưng chỉ cây phong ở Canada mới đẹp thơ mộng như thế này vì trong mạch máu của nó có chất đường. Nhờ chất đường này nên lá cây phong mới đổi màu huy hoàng như vậy. Dân Canada đã lấy chất đường này làm thành Maple syrup, một thức ăn thiên nhiên tuyệt hảo. Các du khách quốc tế tới du lịch Canada, khi về ai cũng mua 2 đặc sản làm quà cho bằng hữu, các cụ có biết là 2 thứ gì không? Thưa đó là Maple Syrup và Ice Wine. Ice Wine làm từ trái nho đã đóng băng vào giữa mùa đông, và Ice wine làm từ trái nho miền Thác Niagara thì ngon tuyệt vời. Các cụ nhớ nha, mời các cụ du lịch Canada để xem đồi phong đang đổi màu và uống Ice wine. Cụ nào muốn làm thi sĩ và lấy hứng làm thơ thì xin mời đến Canada ngay dịp này nha.

Đồi phong đổi màu là tin thời tiết, còn tin thời sự đặc biệt tháng này là tin Canada cho phép trồng và buôn bán cần sa tự do. Nơi kỹ nghệ cần sa phát triển mạnh nhất là tỉnh bang Alberta ở miền trung tây, hiện nay số cần sa không dủ cung cấp cho các cơ sở tiêu thụ. Cụ nào biết trồng cần sa thì xin mời tới Canada ngay, cụ đến dây sẽ tha hồ trồng, không còn phải trồng lén trong nhà nữa.

Về ngành giáo dục thì hiện nay, Canada có 4 trường đại học nằm trong danh sách 100 đại học danh tiếng hàng đầu của thế giới : Đại học Toronto, Đại học British Columbia, Đại học McGill ở Montreál và Đại học McMaster ở Ottawa. Đó là xếp theo 100 đại học hàng đầu. Nếu xếp theo 200 đại học hàng đầu thì Canada có những 9 trường lận. Tôi tìm hoài mà chả thấy có tên đại học nào của VN cả. Hèn chi tin báo chí cho biết con cái các lãnh tụ đảng CSVN đang nối đuôi nhau sang đây...

Trong các tin thế giới tuần qua, tôi thích nhất tin ông Thủ tướng Mã Lai sang Tàu. Đó là Cụ Mahathir Mohamad 92 tuổi. Cụ đã làm thủ tướng 22 năm, đã về hưu, nay thấy chính phủ hiện tại đang bị Tàu Cộng bắt nạt và ăn hiếp, cụ bèn tái ứng cử, và cụ đắc thắng vẻ vang. Nhận chức thủ tướng xong cụ bèn sang Tàu. Đối mặt với anh Tàu Cộng, cụ tuyên bố hủy 2 dự án về đường cao tốc và ống dẫn dầu mà Tàu cộng đang đổ tiền vào khai thác ở nước cụ. Cụ Mahathir bảo : Mậu dịch tự do cũng phải là mậu dịch công bằng, cái mậu dịch các ông đang làm ở đất nước chúng tôi thì chỉ làm lợi cho nước Tàu mà thôi. Báo chí không cho biết thêm về phản ứng của Tàu Cộng ra sao. Sao tôi thấy việc này ở Mã Lai giống y như việc đang xảy ra ở Việt Nam, hóa ra nó nằm trong chính sách mưu đồ bá chủ toàn cầu của Trung Cộng. Sau Cụ Mahathir thì thủ tướng VN Nguyễn Xuân Phúc cũng đã sang chầu vua Tàu. Không biết ông Phúc có dám mở miệng nói như ông Mahathir của Mã Lai không. Tổ tiên ơi, xin cứu chúng con khỏi tay con cọp phương bắc này. Năm xưa nó ngủ thì không sao, nay nó đã thức dậy và nó đang tung hoành tàn phá khắp chốn.

Nhưng thôi không nói về anh Tàu Cộng nữa vì mỗi lần nói tới là mỗi lần máu trên đầu sôi lên. Chắc các cụ cũng bị máu sôi lên như vậy, phải không cơ ? À, mà tôi có một cách hạ nhiệt hữu hiệu xin mách các cụ. Đó là mỗi khi giận thằng Tàu qúa thì tôi mở Youtube xem võ sĩ Cung Lê đánh võ sĩ Tàu, hạ đo ván các anh võ sư của Tàu, đã con mắt và lỗ tai quá! Các cụ thử mà coi. Cung Lê đã đánh bại các võ sĩ Tàu rất nhiều trận.

Riêng làng An Lạc của tôi thì tháng Mười Một là tháng nhiều ngày lễ nhất. Cụ Chánh tiên chỉ và bồ chữ ODP là hai vị rất hăng hái và sốt sắng trong việc xin lễ nhà thờ cầu nguyện cho tổ tiên của dân làng và cầu nguyện với cụ Ngô Đình Diệm. Theo hai lãnh tụ làng thì Cụ Diệm là một vị thánh tử đạo. Những người đã dính trực tiếp hay gián tiếp vào việc giết cụ Diệm năm 1963 không biết bây giờ đã mở mắt ra chưa, có còn nghĩ Cụ đàn áp tôn giáo và gia đình trị nữa không. Bây giờ sử sách thêm tài liệu rõ ràng : Cụ từ Mỹ về VN năm 1954 nhưng không phải do Mỹ đưa về. Ban đầu Mỹ được bá cáo là chính phủ của Diệm sẽ không đứng vững được 6 tháng vì tình thế rối loạn ở Miền Nam : Bình Xuyên Bảy Viễn nắm công an, tướng Nguyễn Văn Hinh thân Pháp nắm quân đội, các giáo phái có súng ống riêng... Lại thêm gánh nặng phải định cư cho 1 triệu dân Bắc Kỳ di cư. Thế nhưng thiên tài Ngô Đình Diệm chỉ trong 1 năm đã bình thiên hạ. Lúc đó Hoa Kỳ mới mở mắt, mới thấy cái tài của ông, và bắt đầu phò Ngô Đình Diệm. Ngày 18.5.1957 Ngô Đình Diệm được mời sang Hoa Kỳ và được tổng thống Eisenhower, ngoại trưởng Dulles, chủ tịch liên quân và lưỡng viện quốc hội trải thảm dỏ đón tiếp từ sân bay, hoa giấy tung bay đầy trời New York. Cụ Diệm được gọi là ‘ A Miracle Man’. Năm 1959, Phi Luật Tân cũng phục tài của cụ nên đã trao giải Leadership Magsaysay, một loại Nobel của Đông Nam Á, cho cụ. Cụ Diệm đã nhận rồi biếu số tiền của giải này tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma. Thủ tướng Lý Quang Diệu cũng chỉ mơ ước Singapore được như Saigon. Đầu thập niên 1960 dân Miền Nam được thái bình thịnh trị và ấm no tràn đầy. Số sinh viên được Cụ Diệm cho đi du học khắp nơi là 753 người. Thiền sư Thích Nhất Hạnh vừa đậu cử nhân tại Đại Học Văn Khoa Saigon lúc đó cũng ở trong danh sách các du sinh này. VC nằm vùi không ngóc đầu lên được. Chính tướng VC Văn Tiến Dũng thú nhận VC gài lại miền Nam 60.000 cán bộ nhưng đã bị tiêu diệt gần hết. Thế rồi thời cuộc thế giới biến đổi, Mỹ muốn đem quân vào VN mà cụ Diệm không cho nên Mỹ cho cho thanh tóan Cụ. Mỹ cho tay sai chụp mũ chế độ Diệm đàn áp Phật Giáo. Liên Hiệp Quốc cho phái đoàn sang điều tra và phái đoàn bá cáo là không tìm thấy việc đàn áp. Nhưng chính sách Mỹ lúc đó dứt khoát là không muốn Cụ Diệm cản lối. Phong trào chống cụ Diệm thời 1963 là những tay sai của Hoa Kỳ. Không biết nhóm tay sai này bây giờ đã mở mắt ra chưa và dám can đảm nhận mình là những con rối của Hoa Kỳ chưa. Cụ và bào đệ đã phải nằm xuống trong oan khiên.

Cụ Chánh tiên chỉ làng lúc nào cũng tôn vinh Cụ Diệm là một thánh tử đạo. Cụ bảo sau đó có ông Nguyễn Thanh Hoàng chủ báo Văn Nghệ Tiền Phong của miền Nam đã gửi tiền về xây cất mộ cho cụ ở Lái Thiêu, bây giờ cụ Chánh và ông ODP đang vận động mang hài cốt cụ Diệm về xây lăng ở trước Nhà Thờ Đức Bà ở Saigon...

Nhưng thôi, tôi xin ngưng chuyện Cụ Diệm ở đây, mai mốt ngày rộng tháng dài chúng ta sẽ bàn tiếp. Làng tôi đại đa số là dân theo đạo Chúa nên các ngày lễ lớn dều rủ nhau cùng đi lễ nhà thờ, thường là nhà thờ Cha Paolo. Cha Paolo là người hiểu biết nhiều về VNCH và cái gốc của nhóm chúng tôi nên ngày mồng Hai tháng 11, Ngài cho chúng tôi bày một bàn thờ nhỏ với bức ảnh của Cụ Diệm và hoa nến. Lễ xong chúng tôi đã rước ảnh cụ Diệm về nhà Cụ Chánh và bày lên bàn thờ tổ tiên. Ai cũng đốt hương vái cụ rất sâu. Lễ xong chúng tôi mới bày thức ăn ra bàn, ai cũng bảo đây là bữa giỗ tổ tiên và giỗ Cụ Diệm.

Trong bữa ăn thì anh H.O. lên tiếng : Cả ngày hôm nay làng ta toàn nói về các chuyện nghiêm trang cung kính, quả là quý hoá, nhưng còn thiếu một thứ, đố các vị ta còn thiếu thứ gì ? Mấy cô Huế lên tiếng ngay : Thiếu tiếng cười. Anh H.O. gật đầu ngay. Quả thế. Tôi xin kể chuyện cười, chuyện nhà đạo nha . Rằng có 3 anh chàng kia đi lễ và ngồi chung xe, chẳng may xe bị tai nạn và các anh đều chết. Vì 3 anh đều là người tốt lành nên 3 anh đều được lên thiên đàng. Các anh xếp hàng vào gặp thánh Phêrô giữ cửa thiên đàng. Anh thứ nhất vào và cúi đầu chào thánh Phêrô : Con chào Bác. Thánh Phêrô bèn mỉm cười gật đầu rồi cấp cho anh một căn nhà đẹp. Anh thứ hai vào cũng cúi đầu chào thánh Phêrô : Con chào Bác. Và anh cũng được cấp một căn nhà như anh thứ nhất. Đến anh thứ ba thì anh này cúi đầu chào rất sâu rồi nói : Con chào dượng. Thánh Phêrô cười lớn tiếng tỏ vẻ hài lòng rồi cấp cho anh một biệt thự rất sang trọng. Hai anh kia thấy tên thứ 3 này được biệt thự thì có vẻ không vui bèn hỏi thánh Phêrô : cả 3 chúng con khi sống ở trần gian thì giống y như nhau, lúc chết cũng chết như nhau, tại sao hai chúng con chỉ được 1 căn nhà, còn tên thứ 3 lại được căn biệt thự sang trọng làm vậy ? Thánh Phêrô bèn cười hà hà rồi đáp : Các con không nghe thấy lời nó chào ta à ? Nó gọi ta là dượng, tức là thuộc họ nhà vợ của ta. Ta không cấp cho nó biêt thự thì ta sẽ chết với bà vợ ta, khi ta ở trần gian thì ta có vợ mà, các con hiểu chưa ? Cả làng bò ra cười. Anh H.O. thấy vậy bèn nói tiếp : các bạn nhớ nha, mai sau khi về thiên đàng, lúc gặp thánh Phêrô ở cửa nhớ chào Ngài là dượng nhe.

Cả làng khen câu chuyện anh H.O. là hay vì nó tôn vinh nhà vợ, và xin anh kể tiếp nữa. Anh H.O. được hứng liền kể :

Có một ông xồn xồn kia gặp một người ăn xin ở ngoài đường, người này hom hem hốc hác tiều tụy. Ông xồn xồn bèn hỏi :

- Anh có uống rượu không ?
- Thưa không !
- Anh có hút thuốc không ?
- Thưa không!
- Anh có đánh bạc không ?
- Thưa không?

Ông xồn xồn tỏ ra vui vẻ hứng thú bèn nắm lấy tay người ăn xin rồi bảo : Tôi sẽ biếu anh ít tiền, xin anh theo tôi về nhà để tôi lấy tiền. Về tới nhà, ông xồn xồn gọi vợ ra rồi nói : Em xem cho kỹ nha, ông này không uống rượu, không hút thuốc và không đánh bài, nên ông ta mới ra nông nỗi như thế này đây. Em hãy xem cho kỹ tấm gương này nha.

Cả làng lại vỗ tay, và phe liền ông chúng tôi vỗ tay to nhất. Anh John nghe xong, cười xong, liền xin góp một chuyện. Rằng trong tiếng Anh cũng có một chuyện gần giống như vậy. Rằng có anh con trai kia bữa đó đến nhà người bạn gái. Cô bạn không có nhà. Ông bố cô gái đã tiếp anh. Anh này thấy đây là dịp tốt để xin bố cô cho mình được lấy cô con gái làm vợ. Ông bố liền hỏi anh ta :

- Anh có uống rượu không?
- Thưa không?
- Anh có hút thuốc không ?
- Thưa không.
- Anh có đánh bài không?
- Thưa không.

Ông bố cô gái liền nói : Tôi rất tiếc không thể gả con gái tôi cho anh được, vì nếu tôi gả thì bà vợ tôi sẽ lấy gương anh ra mà xỉ vả tôi hàng ngày ! Tôi không muốn bị xỉ vả như thế !

Cả làng lại cười bò và bảo rõ ràng chuyện tiếng Anh này ăn cắp ý từ câu chuyện VN của anh H.O. trên đây.

Cứ thế, làng tôi vui cười suốt bữa ăn. Bữa nay Cụ Chánh thết làng món tái dê, ngon quên chết. Ông ODP lúc này mới lên tiếng : Tôi có đọc ở đâu đó 4 câu thơ liên hệ tới tái dê, xin đọc để cả làng cùng thưởng thức và chấm điểm :

Tái dê chấm với tương gừng
Ăn xong nó bỗng phừng phừng như dê
Vợ cười sung sướng hả hê
Mình ơi, mai lại tái dê tương gừng.

Các cụ đã thấy làng tôi vui chưa.

Hôm nay vì ăn tái dê ngon quá nên anh John cũng nổi hứng bèn xin kể một chuyện vừa để góp vui, vừa đố mọi người: Rằng khi người ta cấm hút thuốc thì người ta vẽ một điếu thuốc đang cháy rồi gạch chéo một cái lên điếu thuốc. Rằng khi người ta cấm xe bóp còi thì người ta vẽ một cái còi rồi cũng gạch chéo một cái lên cái còi. Vậy khi người ta cấm đẻ nhiều con thì người ta sẽ phải vẽ cái gì để gạch chéo lên trên ? Anh John đố mọi người trong làng mà không ai trả lời được. Xin các cụ giúp ý cho câu hỏi này nha.

Mãi cuối bữa ăn, khi các tiếng cười hầu như đã tàn thì Cụ Chánh tiên chỉ làng mới lên tiếng. Rằng làng ta hạnh phúc qúa, nhưng chúng ta đừng bao giờ quên quê hương VN đang quằn qoại, này biển đông, này đặc khu, này dân miền biên giới đang phải tiêu tiền Tàu, này em bé đi học phải lội qua sông và đang phải học tiếng Tàu. Chúng ta có bổn phận phải làm cháy bùng lên ngọn lửa cứu nước vì quê hương ta đang ở bờ vực thẳm sắp rơi vào tay Tàu Cộng. Lão xin đọc bài thơ của thi sĩ Hoàng Chiều Nhân ở Quebec Canada đã viết ngay từ xưa lời nhắn nhủ chúng ta và con cháu chúng ta đừng quên quê hương. Lời nhắn như vẫn còn đang ngân vang bên tai chúng ta :

Hãy thêm củi vào đây
đốt bùng lên ngọn lửa
và ngồi gần nhau thêm nữa.
Này Hạnh, này Lan... này những người bạn trẻ
những mắt xanh chưa từng khóc ly tan
chưa từng khóc đọa đày thê thiết
Này những Dũng những Hùng những Hiền những Thục...
Này những bạn trẻ yêu đời
Đang sống trong tự do no đủ
Hãy thêm củi vào đây
đốt bùng lên ngọn lửa
Hãy nắm lấy tay nhau
Chia sẻ niềm đau xót
Ta vẫn còn anh em bè bạn
Đang đọa đày trên địa ngục quê hương...

TRÀ LŨ

.
 
Ghi Chú về Kinh Lạy Cha của Raissa Maritain, Chương II, tiết 1
Vũ Văn An
18:14 06/11/2018
Chương II: Ba Lời Cầu Xin Đầu

Tiết 1: Lạy Cha Chúng Con

Chúa Giêsu Kitô dạy chúng ta đọc Lạy Cha Chúng Con, chứ không phải Cha của Con.

Như Thánh Tôma Aquinô đã viết (1), sở dĩ như thế là vì "Tình yêu của Thiên Chúa không bị giới hạn vào bất cứ cá nhân nào, nhưng bao trùm mọi người nói chung; vì Thiên Chúa yêu mọi thứ hiện hữu. Người yêu con người hơn tất cả...Đồng thời chúng ta nên nhớ rằng, mặc dù hy vọng chủ yếu vào sự giúp đỡ của Thiên Chúa, chúng ta có thể giúp đỡ lẫn nhau để có được dễ dàng hơn những gì chúng ta cầu xin.. . Như Thánh Ambrôsiô nhắc nhở chúng ta{2}: 'Nhiều người bé nhỏ, khi tụ tập với nhau và cùng một tâm trí, họ vẫn trở nên lớn mạnh, và lời cầu nguyện của nhiều người không thể nào không được nghe'. Điều này phù hợp với Tin Mừng Mátthêu 18:19: 'Nếu ở trên mặt đất, hai người trong các con đồng ý về bất cứ điều gì họ cầu xin, thì điều ấy sẽ được Cha Thầy ở trên trời thực hiện’. Vì vậy, chúng ta không thổ lộ các lời cầu nguyện của chúng ta như những cá nhân, nhưng với sự nhất trí, chúng ta cùng lớn tiếng 'Lạy Cha chúng con', ngay cả khi mỗi người chúng ta cầu nguyện clausio ostio (cửa đóng then cài).

"Chúng ta cũng hãy suy niệm điều này: niềm hy vọng của chúng ta vươn lên tới Thiên Chúa qua Chúa Kitô, theo thư Rôma 5: 1-2.. . Nhờ Người, Đấng là Con Duy Nhất của Thiên Chúa do bản tính, chúng ta được nhận làm con nuôi.. . như được nói đến trong thư Galát 4: 4-5. Do đó, khi nhìn nhận Thiên Chúa là Cha của chúng ta, chúng ta nên làm thế một cách không hạ thấp đặc quyền của Đấng Con Duy Nhất, Đấng duy nhất có quyền đặc biệt để nói, “Cha của Tôi”.

Ở trên trời

"Vì sao các quốc gia lại nói: 'Vậy thì Thiên Chúa của họ ở đâu?'

"Thiên Chúa của chúng tôi ư? Thiên Chúa của chúng tôi ở trên thiên đàng mà. Người làm bất cứ điều gì Người muốn".

Nói về các Tổ phụ, Thánh Phaolô dạy {4}: các ngài thừa nhận các ngài là những người ‘ngoại kiều và lữ khách trên trái đất’. Vì những người nói những điều như thế đã cho thấy rõ ràng rằng họ tìm kiếm một quê hương.

"Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài”

Và câu này nữa {5}: "Đối với chúng ta, quê hương của chúng ta là ở trên trời; từ đó, chúng ta háo hức chờ đợi Đấng Cứu Tinh của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô; Người sẽ biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta [thân xác của "con người thuộc về đất"{6}]

"để nó có thể là một với thân xác vinh quang của Người [thân xác của người"từ trời mà đến"{7}]

"bởi sức mạnh của quyền lực nhờ đó Người có khả năng bắt mọi sự qui phục Người".

Vậy thì, đâu là trời mà Cha chúng ta hiện đang ở, và nơi có thành phố của chúng ta, và là quê hương mà chúng ta đang khao khát ước mong, và là nơi "cuộc sống của chúng ta được giấu kín với Chúa Kitô trong Thiên Chúa"? Đây là một mầu nhiệm vô cùng vượt quá mọi ý tưởng mà tâm trí con người có thể cố gắng phát biểu bằng các hạn từ ngập ngừng lưỡng lự. Quả là một điều đáng ngạc nhiên khi Cõi Bên Kia, cõi quan trọng đối với chúng ta hơn mọi điều ở dưới thế này, trên đó niềm hy vọng của chúng ta bám vào, và là nơi Thiên Chúa "đã chuẩn bị cho những kẻ Người yêu", càng lôi kéo mọi người chúng ta mạnh mẽ hơn khi tấm màn che phủ nó càng dầy hơn bấy nhiêu - "những gì mắt chưa hề thấy, những gì tai chưa hề nghe, những gì chưa nhập vào trái tim con người.. ." {9}

Tuy nhiên đức tin, theo cách tối nghĩa của nó, dạy chúng ta một điều gì đó về nó. Đôi khi người ta nói {10} rằng Thiên đàng, hay cõi trời, chắc chắn là các linh hồn trong trạng thái có ơn thánh trong đó Ba Ngôi ngự trị, và đặc biệt là linh hồn các thánh{11}.

Thánh Tôma nhận xét{12}: "Có một chướng ngại đối với việc cầu nguyện hay tin tưởng vào Thiên Chúa ngăn cản người ta cầu nguyện. Đó là khái niệm cho rằng cuộc sống con người bị tách biệt khỏi ơn quan phòng của Thiên Chúa. Khái niệm đó do kẻ ác phát biểu trong sách Gióp 22:14: 'Người ẩn mình trong đám mây và không quan tâm tới các vụ việc của chúng ta, và Người lãnh đạm rong chơi trên vòm trời'; cả trong Êdêkien 8:12: 'Chúa không thấy chúng ta, Chúa đã bỏ rơi trái đất'. Nhưng Thánh Tông đồ Phaolô đã dạy ngược lại trong bài giảng của ngài với người Athen, khi ngài nói rằng Thiên Chúa 'không xa mọi người chúng ta; vì trong Người, chúng ta sống, di chuyển và hiện hữu” (Cv 17: 27-28)... Trong Mátthêu 10: 29-31, chúng ta được cho biết: 'Há hai con chim sẻ không bán với giá một xu đó sao? Ấy thế nhưng không một con nào rơi xuống đất mà không có Cha của các con. Các sợi tóc trên đầu của các con đều được đếm cả’... Như thế có nghĩa: mọi điều thuộc con người đều sẽ được phục hồi lúc sống lại. Như chính Chúa chúng ta đã nói thêm, trong cùng một bối cảnh: 'Do đó, đừng sợ, các con tốt hơn nhiều con chim sẻ' (Mt. 10:31). Điều này minh xác đoạn nói rằng: 'Con cái loài người sẽ đặt niềm tin của chúng dưới sự che chở của đôi cánh Ngài' (Tv 36 [35]: 8).

"Hay, mặc dù quả thực Thiên Chúa gần gũi mọi người, nhưng phải nói rằng, với một sự chăm sóc đặc biệt, Người gần gũi những người tốt lành, những người cố gắng tiến lại gần Người bằng đức tin và tình yêu.. . Thật vậy, không những Người ở gần họ: Người thậm chí còn ngự trong họ bằng ân sủng.. . Vì vậy, để gia tăng niềm hy vọng của các thánh, chúng ta được dạy để nói: 'ở trên trời,' tức là, nơi các thánh, như Thánh Augustinô giải thích. Vì, như vị thánh tiến sĩ này từng nói thêm, khoảng cách thiêng liêng giữa người công chính và người có tội dường như cũng lớn như khoảng cách không gian giữa trời và đất…. Đấng đã tạo cho họ các tầng trời sẽ không giữ lại các điều thiện ở trên trời xa lìa khỏi họ".

Tuy nhiên, thiên đàng, hay các tầng trời, hay “những điều ở bên trên”{13}, cũng là và - về yếu tính - trước hết là thế giới khác nơi Thiên Chúa được kính yêu và tuân phục một cách tuyệt đối hoàn hảo bởi các thánh và các thiên thần{14}, nơi con cái Thiên Chúa được tỏ lộ{15}, và là nơi sáng thế được bước vào sự tự do hiển vinh của con cái Thiên Chúa{16}, "trời là nơi tội lỗi đã ngưng lại, trời là nơi vết thương chết chóc không còn nữa{17}, nó là "ánh sáng không thể tiếp cận" nơi ngự trị của Đấng Được Chúc Tụng và có Chủ Quyền Tối cao"{18}; nó là vũ trụ của diệu kiến (vision béatifiante), là Giáo hội chiến thắng và là Giêrusalem trên cao, vốn đã tồn tại từ nguyên thủy với các thiên thần thánh thiện luôn trung thành với Thiên Chúa, và sẽ đạt được sự viên mãn của nó với các thân xác sống lại và sau đó "thành thiêng liêng" của người công chính, được hình thành "giống như người từ trời mà đến"{19}, khi Chúa Kitô sẽ "đặt dưới chân Người kẻ thù cuối cùng" đó là "sự chết". Sau đó, Người sẽ phán: 'mọi sự từ nay đã quy phục'"{20}.

Đây là thế giới nơi Cha ngự, vì là thế giới đã được thần thiêng hóa - như Người ngự trong linh hồn các thánh ở dưới thế này, nhưng một cách cao hơn - hoàn toàn như ở nhà và hài lòng, vì không gặp bất cứ chướng ngại vật nào đối với tình yêu của Người nữa. Đó là một thế giới mà chúng ta biết được sự hiện hữu nhờ mặc khải, nhưng bản chất và luật pháp của nó chúng ta không thể hiểu thấu. Đó là một tầng trời mà bầu trời xanh là tấm màn che mà quá bên kia nó, tầm nhìn của chúng ta không vượt qua được. Vào ban đêm, nó lấp lánh với các vì sao, nhưng chúng ta không có kính thiên văn để mang những ngôi sao đêm của đức tin này lại gần chúng ta hơn.

Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và thế giới khốn khổ của chúng con. Xin ban ơn để chúng con có thể chinh phục bằng tình yêu quyền lực đang thống trị thế giới này mà Ngài đã dành cho Lucifer từ lúc tạo ra hắn, và quyền lực đó vẫn còn bất chấp tội lỗi của hắn, và tội lỗi của chúng con đã khiến chúng con làm nô lệ cho nó.

Tình yêu này là chính sự sống ơn thánh của Chúa, mà chúng con phải tiếp nhận và trung thành gìn giữ.

Quyền lực của chúng con hệ ở lòng trung thành với ơn thánh của Chúa.

Quyền lực của Lucifer hệ ở vương quyền tạo vật của hắn đối với những điều thuộc thế giới này.

Quyền lực của Chúa Giêsu hệ ở lòng trung thành cao cả của Người – Người, Đấng Thiên Chúa nhập thể trong thân xác đớn hèn của chúng con - Chúa Giêsu Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng đã chiếm cho Nhân Tính của Người "quyền lực để quy phục mọi sự cho chính Người".

Danh Cha cả sáng

Trích dẫn Thánh Gioan Kim Khẩu, Thánh Tôma viết, "Người dâng lời cầu nguyện xứng đáng lên Thiên Chúa không nên cầu xin điều gì trước sự vinh hiển của Cha, nhưng chỉ nên xin mọi điều sau khi ngợi khen Người."

Danh Cha hiển thánh. “Thiên Chúa sẽ được ai thánh hóa, vì Người là Đấng thánh hóa?” {22} Nhưng Người từng phán: “Hãy nên thánh vì Ta là Đấng thánh” {23}. Chính bằng cách thánh hóa mình, chúng ta tôn vinh Danh Cha của chúng ta {24}. Do đó chúng ta có thể sửa chữa sự bất công do thế giới sai lầm này làm cho Người: "Danh Ta liên tục bị phỉ báng suốt ngày" {25}. Chính Chúa Giêsu đã làm cho Danh này được vinh quang hoàn hảo.

"Con đã tôn vinh Cha trên trái đất.

"Con đã bày tỏ danh Cha cho những kẻ Cha đã ban cho Con từ giữa thế gian.

"Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con, Con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai Con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương Con, ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa" {26}

Và Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta giới luật này: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” {27}

Vì vậy chúng ta nên cầu xin để Danh Cha được cả sáng trong chúng ta; và không chỉ trong chúng ta, như nhận xét của Tertullianô {28}, nhưng còn trong mọi người, đặc biệt là những người mà ơn thánh Thiên Chúa vẫn đang chờ đợi, và trong những người mà chúng ta coi như kẻ thù, vì chúng ta cũng được yêu cầu phải cầu nguyện cho họ.

Danh Cha cả sáng.

Chúng ta biết rằng trong các ngôn ngữ Semitic, chữ Danh có nhiều sức mạnh đến nỗi khi biểu thị cho người mang danh, nó tiết lộ một cách nào đó chính yếu tính của họ. Với sự diễn tiến của thời gian, chữ này đã dần dần mất đi sức mạnh ma thuật mà nó đã được mặc cho thuở đầu, và do đó việc biết tên có nghĩa ban quyền lực trên người mang tên {29}. Cái tên “vừa chỉ định vừa che đậy người mang tên"{30}, tuy nhiên vẫn duy trì cho người Do Thái thời văn hóa Hy Lạp một giá trị hiện thực một cách mạnh mẽ và thậm chí quá hiện thực đến nỗi biết và đọc lên tên của một ai đó là để biểu lộ chính người đó như thể bằng cách nắm lấy họ sau tấm màn che. Danh Cha là chính Cha, chính Cha như đã được chỉ định trong bí mật giấu kín của Cha.

Tuy nhiên, nói cho đúng, chỉ ở nơi Thiên Chúa mới có sự đồng nhất giữa Tên và Người Mang Tên. Khác xa những tên mà chúng ta dùng để chỉ Thiên Chúa, Tên đang là vấn đề trong lời cầu xin đầu tiên của Kinh Lạy Cha là Tên khôn tả, là Tên tồn hữu mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể phát âm được và hoàn toàn đồng nhất với chính Thiên Chúa". Khi Giacóp hỏi Thiên Thần vào sáng sớm:" Hãy nói cho tôi biết, tên của Ngài là gì? " Người đã trả lời, 'Tại sao anh lại hỏi Tên Tôi?' Không thể nào thốt lên cái tên thật kỳ diệu này, cái tên được đặt lên trên mọi cái tên vốn được đặt trong thế giới hiện tại hay trong thế giới sắp tới”{31}.

Quả là mầu nhiệm của mặc khải Thiên Chúa! Tên được đặt trên mọi tên khác này có thể được chỉ định - nhưng ở một khoảng cách xa, khoảng cách xa vốn tách biệt Thể Vô Cùng với thể hữu hạn {32} - bằng một cái tên mà đôi môi chúng ta có thể thốt ra. Đó là cách Tên khôn tả lần đầu tiên được mạc khải cho Môsê, và được biểu thị một cách mầu nhiệm bằng một kết từ tứ tự (tetragrammaton, YHWH). Ở một thời điểm nào đó trong lịch sử của họ, người Do Thái – nhờ một cảm quan sợ hãi đầy tôn kính và run rẩy thánh thiện, trong đó luận lý học trong cách họ đồng nhất hóa phần nào tên với người mang tên đã được đẩy đến giới hạn cùng cực của nó - đã quyết định không còn đọc tên đó nữa (33). Chữ Adonai (Chúa tôi) từ đó đã thay thế cho chữ Gia-vê.

Nhưng cái tên khôn tả không những được mạc khải cho Môsê từ giữa bụi cây bừng cháy và ngọn lửa bừng bừng, mà còn ở trong một ký hiệu - "Ta là Đấng Hữu”, hay "Ta là Đấng Tự Hữu” (và là Đấng một mình Ta biết)" – một điều không thể đọc lên được và không thể giải mã được đối với dân Thiên Chúa.

Nó cũng đã được Chúa Giêsu mạc khải cho tất cả chúng ta, trên những nẻo đường và đồi núi tầm thường nơi Người và các môn đệ của Người đã rao giảng - và trong một chữ được phát âm dễ dàng hơn cả bởi các con cái nghèo hèn nhất của loài người.

Vì cho đến lúc đó, không còn vấn đề người ta muốn dùng một cái tên để biến một điều không thể nào chuyển tải được như Tên Thiên Chúa ở trong Thiên Chúa thành các ký hiệu nhân bản nữa (như thể Tên "Ta Tự Hữu" trên núi Hôrép { 34} cũng như mọi tên khác qua đó Thiên Chúa tự mạc khải cho chúng ta, không phải là một ký hiệu trong số các ký hiệu khác mà hình ảnh tạo vật có thể cung cấp cho tâm trí chúng ta).

Lần này, đây là vấn đề một cái tên rất đơn giản bằng ngôn ngữ của chúng ta, một cái tên tuyên bố ngay từ thoạt đầu (như xứng hợp với một mặc khải vốn không được dành riêng cho bất cứ một mình dân tộc nào, nhưng được lên khuôn cho mọi dân tộc đến tận cùng trái đất) rằng sự phản ảnh trong hình ảnh tạo vật là phương thế duy nhất nhờ đó Thiên Chúa có thể được biết đến và tự làm cho Người được chúng ta biết đến. Người là Cha của tất cả chúng ta, và là Chúa Cha mà từ Người đã phát sinh ra Ngôi Lời không được tạo dựng, nhập thể trong Chúa Giêsu."Nếu các con yêu mến Thầy, các con phải giữ các điều răn của Thầy. Và Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Bào Chữa khác, để Người ở bên các con mãi mãi”... "Nếu ai yêu mến Thầy, thì người ấy sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến với người ấy" {37}... “Bất cứ điều gì các con xin Chúa Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con"{38}. " Như Cha, lạy Cha, Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha thế nào, xin cho chúng cũng có thể ở trong Chúng Ta như vậy"{39}.

Nhờ thế, chúng ta đọc một hơi: Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi, Đấng dựng nên trời và đất, lạy Cha, Cha của chúng con, Đấng ngự trên trời; Cha của Con duy nhất và Cha của chúng con, những anh em của Người nhờ được nhận làm con nuôi, lạy Cha, Cha của chúng con, Đấng ngự trên trời.

Và do chính Tên Cha này, chúng ta được dạy rằng Người là Tình Thương, là Lòng Thương Xót và là Sự Tốt Lành.

Tuy nhiên, hỡi linh hồn khốn khổ của tôi ơi, đừng tin rằng với tên Cha hay Yêu Thương và Tốt Lành này, sự phân cách giữa Người và ngươi lại ít lớn lao hơn là với tên mà chúng ta bị cấm không được nói ra {40}. Vì Người vượt quá mọi hiểu thấu và sự siêu việt của Người càng làm cho việc ngươi càng biết Người, Người càng trở nên vô minh (inconnu) nhiều hơn. Người hiện hữu một cách vô cùng tốt đẹp hơn bất cứ điều gì khác, nhưng cũng bởi chính sự kiện đó, Người hiện hữu một cách hoàn toàn khác với bất cứ điều gì khác. Người là Cha - một cách vô cùng tốt đẹp hơn bất cứ ai trong chúng ta là cha, nhưng cũng bởi chính sự kiện đó, một cách hoàn toàn khác với cách mà bất cứ ai trong chúng ta là một người cha. Người yêu ngươi – một cách vô cùng tốt đẹp hơn bất cứ tạo vật nào có thể yêu, nhưng cũng bởi chính sự kiện đó Người yêu ngươi một cách hoàn toàn khác, một cách mà ngươi tuyệt đối không thể nào tưởng tượng được.

Và khi cuộc thử thách lớn xẩy đến với ngươi, điều hoàn toàn khác này do tình Phụ Tử của Người và tình yêu của Người sẽ đóng đinh ngươi vào thập giá,

Ôi Thập Giá Thần Linh, cây gỗ đắng đót,

Giá máu mua Phúc Thật
{41},

còn tàn nhẫn hơn cả sự hoàn toàn khác biệt của hữu thể Người.

*

Khi suy niệm tất cả những điều này, chúng ta thấy nếu chúng ta cố gắng phát biểu bằng các ngôn từ khác ý nghĩa của lời cầu xin đầu của Kinh Lạy Cha, chúng ta nên nói:

Ôi Lạy Thiên Chúa, Duy Nhất và Ba Ngôi, là Cha của chúng con, Ôi Ngôi thứ nhất của Ba Ngôi, là Cha của Con Một và là Cha của chúng con, những kẻ được Chúa cho làm con nuôi,

Xin vinh danh sự thánh thiện khôn tả của Cha; xin Danh Cha, một Dánh chính là Cha, được tỏ hiện, ca tụng và ngợi khen trong chúng con và trong mọi tạo vật. Ita fac nos vivere, ut per nos te universi glorificent {42}: xin cho chúng con biết sống sao cho qua chúng con mọi vật trên thế giới đều vinh danh Cha.

_______________________________________________________________________________________

{1} Thánh Tôma Aquinô, Compendium Theologiae, II, cap. 5; trong Opuscula Theologica (Turin: Marietti, 1954), t. I, n. 557 và 558.

{2} Chính xác hơn, khi gán cho Thánh Ambrôsiô (Ambrosiaster, in Rom., cap. 15, P.L., 17, 186-187).

{3} Tv. 113:10 (Bản Phổ Thông Tv. 113, pt. 2:2).

{4} Dt. 11:13-16.

{5} Pl. 3:20-21.

{6} 1Cr. 15:47.

{7} Ibid., 15:48-49.

{8} Cl. 3:3.

{9} Thánh Phaolô, 1 Cr. 2:9. (Xem Is 64:3, và Grm 3:16).

{10} M. J. Lagrange, L’Évangile de Notre-Seigneur Jésus-Christ p.321

{11} Xem Thánh Cyriliô thành Giêrusalem, Catéchèses mystag., IX, P.G., 33, 1177: 'Các tầng trời cũng có nghĩa những ai mang trong họ hình ảnh của người thiên giới, nơi Thiên Chúa ngự và bước đi”; và Thánh Augustinô, De Serm. Dom. in monte, lib. II, cap. 5:. In coelis, id est, in sanctis et justis (ở trên trời, tức là, ở trong các thánh và người công chính)" P.L., 34, 1276.

{12} Compendium Theologiae, II, cap. 6 (Marietti), t. 1, n. 562 tới n. 564.

{13} Thánh Phaolô, Cl. 3:1-2.

{14} Xem Thánh Augustinô, Ep. ad Probam, P.L., 33, 502 (n. 21); và De Serm. Domini in monte, lib. II, cap. 6, P.L., 34, 1278.

{15} Thánh Phaolô, Rm. 8:19.

{16} Ibid., 8:21.

{17} Thánh Ambrôsiô, De Sacram., lib. VI, n. 20, P.L., 16, 451.

{18} Thánh Phaolô, 1 Tm. 6, 1-16.

{19} " Thánh Phaolô, 1 Cr. 15:44 và 49.

{20} Ibid., 15: 26-27.

{21} Compendium Theologiae, II, cap. 8 (Marietti), t. I, n. 572; – Thánh Gioan Kim Khẩu, Hom. 19, in Matt. 6, n. 4, P.G., 57, 279.

{22} Thánh Cyprianô, De Orat. Domin., n. 12, P.L., 4, 527.

{23} Lv. 11:44.

{24} Như Cha Lagrange đã chỉ ra rất đúng, sự thánh thiện không thể nào với tới của Thiên Chúa đòi được thông truyền. Xin cho Danh Người cả sáng là xin cho việc hoàn toàn hoàn thành công trình thánh thiện vốn là của Người, và trong đó, những người sống trong ơn thánh của Người được liên kết mọi thời (xem Lagrange, Evang. selon saint Matthieu, p. 128, n. 9).

{25} Is 52:5.

{26} Ga 17:4 và 6; 18:25-26.

{27} Mt. 5:16.

{28} Xem De Oratione, cap. 4, P.L., I, 1157.

{29} "Nói Tên như thể ban quyền lực trên người mang tên, ‘ấn tín của tên’, một cách nào đó, là việc bước vào thông đạt với bản chất thâm hậu nhất của người mang tên” Louis Gardet, Mystique musulmane (Paris: Vrin, 1961), p. 199. Nhận định này cũng áp dụng cho tư duy Do Thái Giáo; và thậm chí, như chính tác giả xác định, cả cho tư duy Phật Giáo, và đến một mức nào đó, cho cả tư duy Kitô Giáo Phương Đông (“Kinh của Chúa Giêsu”)

{30} Louis Gardet, "Al-Asma" trong L'Encyclopédie de l'lslam (2e éd.).

{31} St 32:29; Tl 13:17-18. Xem Thánh Tôma Aquinô trong Librum B. Dionysii De divin. Nomin. Expositio, cap. 1, lect. 3, Marietti, 1950, n. 96 (bản dịch miễn phí lấy từ Degrés du Savoir, p.31). -- Xem I Contra Gent., I, cap. 31: "Nếu ta biết được yếu tính Thiên Chúa như ở trong chính nó và cho nó một cái tên xứng với nó, có lẽ ta sẽ phát biểu nó bằng 1 cái tên duy nhất. Đó chính là lời hứa của tiên tri (Dcr 14:9, được Thánh Tôma dành cho nghĩa cánh chung cao nhất) với những ai sẽ được thấy Người trong yếu tính của Người: ‘Vào ngày đó, sẽ chỉ có một Giavê và danh Người sẽ là duy nhất’”.

Đức Cha Journet bình luận rất hay rằng “sẽ không phải là một cái tên kêu vang có thể tự nói ra trong bất cứ ngôn ngữ nào trong các ngôn ngữ của con người. Đó sẽ là một cái tên bằng lửa và ánh sáng, một cái tên thiêng liêng, tràn ngập và tồn tại. Tên ấy sẽ được công bố nơi trái tim các thánh và các thiên thần đang ngụp lặn trong Người như bọt biển giữa đại dương bởi chính yếu tính thần linh, một yếu tính mà tự nó nó sẽ có khả năng chuyển giao cách tinh trong và viên mãn. Tuy nhiên, trên thực tế, không tạo vật nào chiếm hữu được nó đến có thể múc cạn nội dung của nó và giới hạn được sự phong phú của nó: vì tuyệt đối phải là Thiên Chúa mới có thể biết cách tuyệt đối Thiên Chúa là chi” (Charles Journet, Connaissance et Inconnaissance de Dieu, Egloff, Fribourg et Paris, 1943, p. 58).

{32} Ở đây là vấn đề nhận thức của ta về Thiên Chúa. Nếu, đàng khác, là vấn đề nhận thức của Thiên Chúa về chúng ta và sự quan tâm mà qua đó ơn quan phòng của Người săn sóc ta, thì ta phải nói, như trên đã nói (tr. 32-33) rằng Thiên Chúa không ở xa chúng ta, Người ở rất gần con người.

{33} Cha Lagrange viết rằng “Không phải trước nhất vì người Do Thái sợ người ngoại giáo sử dụng thánh danh này một cách ma thuật mà họ cấm dùng tên này giữa chính họ với nhau: đúng hơn vì Người Do Thái coi tên này như một mầu nhiệm đáng sợ nên người ngoại giáo dùng nó trong các nghi lễ ma thuật của họ. Thời thượng cổ, nó là gia tài chung của người Do Thái; nó không bị cấm đối với họ. Ngược lại, họ đọc tên này với lòng yêu mến trong những lúc tỏ bầy lòng sốt mến của họ. Sự dè dặt thời văn hóa Hy Lạp ngụ ý cho thấy nhiều người Do Thái đã trờ nên quá phàm tục đến không thể dùng nó” (M. J. Lagrange, Le Judaisme avant Jésus-Christ, Paris, 1931, p. 459). Cũng nên nói rằng, và theo ý kiến tôi sẽ chính xác hơn, khi nói rằng sự dè dặt này phát sinh từ việc người ta càng ngày càng cảm thấy sự kính sợ do sự siêu việt của người mang tên này gợi hứng.

{34} Xh 3:14.

{35} Nói theo ngôn từ của các nhà triết học, là sự loại suy của nhận thức thuần lý thượng tư duy (connaissance rationelle ana-noétique) hay thượng loại suy đức tin (suranalogie de la foi) (Xem J. Maritain, Les Degrés du Savoir, pp.432-447; 478-484).

{36}Ga 14:15-16

{37} Ibid. 14:23.

{38} Ibid. 15:16.

{39} Ibid. 17:21.

{40} Coi ở trên, p. 42, n. 1.

{41} Raïssa Maritain, "O Croix," trong Au Creux du Rocher (Paris: Alsatia, n.d.).

{42} Thánh Gioan Kim Khẩu, Hom. 19, in Matt., 6, n. 4, P.G., 57, 279, được Thánh Tôma trích dẫn, Compendium Theologiae, II, cap. 8 (Marietti). n. 572.

Kỳ sau: Tiết 2: Nước Cha Trị Đến
 
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu 05/11/2018: Tổng kết Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
03:53 06/11/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Bức Tâm Thư của các Nghị phụ Giám mục gửi Giới Trẻ.

Bức Tâm Thư của các Nghị phụ Giám mục gửi Giới trẻ: “sự yếu đuối và lỗi lầm của chúng tôi không phải là một trở ngại cho niềm tin mến của các bạn.”

Trong một bức thư được đọc tại buổi lễ kết thúc Thượng Hội Đồng về Giới trẻ, các giám mục nghị phụ đã viết thư cho những người bạn trẻ: “sự yếu đuối và lỗi lầm của chúng tôi không phải là một trở ngại cho niềm tin mến của các bạn.”

“Những yếu điểm của chúng tôi không găn cản sự dấn thân của các bạn,” các nghị phụ viết trong bức thư đề ngày 28/10 rằng “Giáo hội là Mẹ của anh chị em; Người Mẹ ấy không bao giờ bỏ rơi các bạn”.

Đức Thánh Cha Phanxicô, đại diện cho tất cả những người lớn tuổi trong Thánh lễ kết thúc Thượng Hội Đồng, khiêm tốn xin lỗi những người trẻ; Đức Thánh Cha nói: “Cha muốn đại diện tất cả những người lớn để nói với chúng con, những người trẻ: Hãy tha thứ cho chúng tôi vì chúng tôi thường không lắng nghe các con...”

Đức Thánh Cha giảng tiếp: “Là Giáo Hội của Chúa Kitô, chúng tôi muốn lắng nghe chúng con bằng trái tim yêu thương, vì cuộc đời của chúng con thật là quý giá trong mắt của Chúa, vì Thiên Chúa luôn trẻ trung và Ngài yêu quí trẻ thơ và những người trẻ; và trong cái nhìn của Cha và tất cả, cuộc sống của chúng con thật quý giá, nó cần được thăng tiến trong tương lai...”

Đức Thánh Cha Phanxicô thường nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lắng nghe trong suốt Thượng Hội Đồng kéo dài gần một tháng với hơn 260 các giám mục nghị phụ.

Đức Thánh Cha nói: “Chương đầu tiên của tài liệu của phiên họp Thượng Hội Đồng được xuất bản vào tối thứ Bảy có tựa đề “Một Giáo hội lắng nghe.” Những người trẻ tuổi “bày tỏ mong muốn được lắng nghe, được thừa nhận, được cùng đồng hành”.

Lắng nghe là “bước đầu tiên trong cuộc hành trình của đức tin,” Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong bài kết luận của Ngài. “Hãy là người tông đồ bằng đôi tai để lắng nghe trước khi nói.”

Suy ngẫm về câu chuyện phúc âm về việc Chúa Giêsu chữa lành người mù Bartimaeus, Đức Thánh Cha Phanxicô nói, “Chúa Giêsu cần thời gian, Ngài cần thời gian để lắng nghe. “

“Rất nhiều người trẻ cũng giống như Bartimaeus, đang tìm kiếm ánh sáng trong cuộc sống của họ. Họ tìm kiếm sự sống, nhưng thường hay tìm kiếm những lời hứa xuông và ít tìm kiếm những gì thực sự cần quan tâm tới.”

Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến khích người Công Giáo là những người bạn thân quen, những người cùng kiếm tìm sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha nói “Không phải vì chúng ta là Công Giáo nên chờ mong các anh chị em khác tìm đến gõ cửa của chúng ta, nhưng ngược lại, chúng ta nên ra đi, đến với tha nhân, không phải vì mình mà vì Chúa Giêsu”.

Chúa Kitô “sai chúng ta đến nói với mọi người rằng: “Thiên Chúa yêu thương các bạn, các bạn hãy mở lòng mình ra để được yêu mến”.

“Chúng ta hãy tự hỏi, là những Kitô hữu, chúng ta đã trở thành những người lân cận, sẵn sàng bước ra khỏi lòng mình và tiếp đón tha nhân như là 'một người anh chị em của mình', những người mà Thiên Chúa luôn khao khát kiếm tìm và yêu thương.”

“Là một bạn láng riềng, có nghĩa là chúng ta luôn mang lại sự tươi mới của Thiên Chúa cho cuộc sống của anh chị em của chúng ta”.

Đức Thánh Cha nói: “Đức tin phải đi đôi với việc làm, chứ không suông là lý thuyết. Khi gặp gỡ với Chúa Giêsu trong cuộc sống, khơi lên sức sống cho Giáo Hội. Tiếp theo sau đó, tha nhân không cảm nghiệm được những thành quả bằng những lời nói suông mà bằng chính hành động xuyên qua cuộc sống của chúng ta.”

2. Tài Liệu Sau Cùng đã được thông qua

Vào chiều thứ bảy 27/10, Tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng Giám Mục thường lệ lần thứ XV gồm 3 phần, 12 chương, 167 đoạn và dài 60 trang đã được chấp thuận tại Đại Sảnh Thượng Hội đồng.

Đức Hồng Y Da Rocha cho hay: Bản văn đã được tiếp nhận với một tràng vỗ tay. Đó là “kết quả của tinh thần đồng đội thực sự” về phía các nghị phụ Thượng Hội Đồng, cùng với các người tham gia khác và “đặc biệt, các người trẻ”. Do đó, tài liệu tập hợp 364 sửa đổi, hay tu chính. “Hầu hết trong số này”, Đức Hồng Y cho hay “chính xác và mang tính xây dựng”. Hơn nữa, toàn bộ tài liệu được thông qua với 2/3 đa số phiếu thuận cần thiết.

Nguồn cảm hứng cho Tài liệu sau cùng của Thượng hội đồng về tuổi trẻ là tình tiết nói về các môn đệ Emmau, được thánh sử Luca thuật lại. Nó đã được đọc trong Đại Sảnh Thượng hội đồng bởi Tổng Tường Trình Viên, Đức Hồng Y Sérgio da Rocha, các thư ký đặc biệt, Cha Giacomo Costa và Cha Rossano Sala, cùng với Đức Giám Mục Bruno Forte, một thành viên của Ủy ban soạn thảo bản văn.

3. Nội dung của Tài Liệu Sau Cùng

Tài Liệu Sau Cùng được chia thành ba phần.

Phần thứ nhất: “Người đi với họ”

Phần đầu của tài liệu xem xét các khía cạnh cụ thể của đời sống người trẻ. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của trường học và giáo xứ. Nó thừa nhận sự cần thiết của việc người giáo dân phải được đào tạo để đồng hành với người trẻ đặc biệt bởi vì rất nhiều linh mục và giám mục quá bận rộn. Tài liệu ghi nhận vai trò không thể thay thế của các cơ sở giáo dục Công Giáo. Thách thức mà tài liệu bàn tới là sự cần thiết phải suy nghĩ lại vai trò của giáo xứ về sứ mệnh ơn gọi của nó bởi vì nó thường không hữu hiệu và không được năng động lắm, nhất là trong lĩnh vực giáo lý.

Thực tại người trẻ về di dân, lạm dụng, “văn hóa vứt bỏ” cũng nằm trong phần một. Về lạm dụng, Tài liệu Thượng Hội Đồng kêu gọi phải có sự “cam kết vững chắc trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt không để cho sự lạm dụng như thế được lặp lại, bắt đầu với việc lựa chọn và đào tạo các người được trao phó các vai trò lãnh đạo và giáo dục”. Thế giới nghệ thuật, âm nhạc và thể thao cũng được thảo luận về việc sử dụng chúng như là “các tài nguyên mục vụ”.

Phần hai: “Mắt họ mở ra”

Tài liệu Thượng Hội Đồng gọi người trẻ là một trong những “nơi chốn thần học” trong đó Chúa tự làm cho Người hiện diện. Nhờ họ, tài liệu nói, Giáo hội có thể tự đổi mới mình, rũ bỏ “sự nặng nề và chậm chạp của mình”. Nó cho hay: Sứ mệnh, là một “la bàn chắc chắn” cho tuổi trẻ vì nó là sự tự hiến mang lại hạnh phúc đích thực và lâu dài. Nối kết chặt chẽ với khái niệm sứ mệnh là ơn gọi. Mỗi ơn gọi phép rửa là một lời kêu gọi sống thánh thiện.

Hai khía cạnh khác được đề cập trong phần hai có thể trợ giúp trong việc phát triển sứ mệnh và ơn gọi của người trẻ, là đồng hành và biện phân.

Phần thứ ba: “Họ lên đường không chậm trễ”

Hình tượng về Giáo Hội trẻ được các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng trình bày là Maria Magdalêna, nhân chứng đầu tiên của Phục Sinh. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng khẳng định rằng mọi người trẻ, kể cả những người có tầm nhìn khác nhau về cuộc sống, đều ở trong trái tim của Thiên Chúa.

“Cùng đi với nhau” là năng động tính có tính thượng hội đồng được các nghị phụ đem ra ánh sáng trong phần ba. Họ mời các Hội đồng Giám mục khắp thế giới tiếp tục diễn trình biện phân với mục đích khai triển được các giải pháp mục vụ chuyên biệt. Định nghĩa được cung cấp về “tính thượng hội đồng” là một phong cách đối với sứ mệnh, một phong cách biết khuyến khích chúng ta chuyển từ “tôi” sang “chúng ta” và xem xét sự đa dạng các khuôn mặt, các nhạy cảm, các nguồn gốc và văn hóa. Một yêu cầu được lặp đi lặp lại tại đại sảnh, là việc thành lập “Sách chỉ dẫn thừa tác vụ tuổi trẻ về nguyên tắc ơn gọi” ở bình diện quốc gia, có thể giúp các nhà lãnh đạo giáo phận và giáo xứ hội đủ điều kiện để được huấn luyện và hành động “với” và “cho” người trẻ, giúp vượt qua một sự phân mảnh trong việc chăm sóc mục vụ của Giáo Hội.

Tài liệu Thượng Hội Đồng nhắc nhở các gia đình và cộng đồng Kitô giáo về tầm quan trọng của việc đồng hành với người trẻ để khám phá hồng phúc tính dục của họ. Các giám mục nhìn nhận sự khó khăn của Giáo Hội trong việc truyền đạt “vẻ đẹp của viễn kiến Kitô giáo về tính dục” trong bối cảnh văn hóa hiện tại. Tài liệu nói rằng việc cấp bách là tìm ra “những cách thích hợp hơn có thể được diễn dịch một cách cụ thể thành sự khai triển ra các nẻo đường đào tạo đổi mới”.

Cuối cùng, Tài liệu mang các chủ đề khác nhau được bàn thảo tại Thượng Hội Đồng vào một lực đẩy ơn gọi duy nhất, đó là, lời kêu gọi nên thánh. “Các khác nhau về ơn gọi đều hội tụ vào lời kêu gọi nên thánh duy nhất và phổ quát”. Qua sự thánh thiện của rất nhiều người trẻ sẵn sàng từ bỏ cuộc sống giữa thời bách để mãi trung thành với Tin Mừng, Giáo Hội có thể đổi mới sự hăng hái thiêng liêng và sức sống tông đồ của mình.

4. Tổng Giám Mục Ái Nhĩ Lan nói: Tuổi trẻ cần sự nhất quán trong tín lý Công Giáo, không cần những thay đổi

Trong một thế giới thay đổi liên tục, những người trẻ cần Giáo hội trở thành một nguồn mạch ổn định với những giáo huấn nhất quán, một nhà lãnh đạo Công Giáo hàng đầu của Ái Nhĩ Lan đã cho biết như trên hôm thứ Sáu 26/10.

Đức Tổng Giám Mục Eamon Martin của Armagh, và cũng là giáo chủ Công Giáo toàn Ái Nhĩ Lan nói: “Những người trẻ đang khao khát những điểm tham chiếu ổn định, những hình thái bỏ neo cố định, những điều mà họ có thể bám víu vào, chứ không phải những gì cứ liên tục thay đổi”

Ngài nhấn mạnh rằng: “Giáo hội phải trình bày cách rõ ràng và không sợ hãi một thông điệp đôi khi đi ngược lại trào lưu mà những người trẻ đang trải qua và nghe thấy ở những nơi khác.”

Phát biểu tại một cuộc họp báo tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên, ngài nói: “một trong những thông điệp tôi chắc chắn sẽ mang về nhà là tầm quan trọng của một Giáo Hội dám mạnh dạn trình bày không chút sợ hãi thông điệp của mình - một thông điệp quá thường khi đi ngược lại trào lưu văn hóa - trước một thế giới trong đó người trẻ đang chết đuối và đang bị ngạt thở.”

Đức Tổng Giám Mục đã lưu ý rằng ngày nay những người trẻ trên toàn thế giới đang phải đối mặt với những áp lực rất nặng nề. Đó có thể là thực tại nghèo đói và nạn buôn người ở một số quốc gia, hay tỷ lệ mắc bệnh tâm thần gia tăng và cảm giác “hoàn toàn lạc lối” có thể được tìm thấy ở nhiều xã hội phương Tây.

Giữa những thách thức này, ngài bày tỏ hy vọng rằng Giáo hội có thể nói với họ: “Nghe này, bạn có lý do để sống, có lý do để hy vọng, có lý do để tiếp tục giữ lấy món quà quý giá là cuộc sống mà bạn đã được trao ban.”

Ngài nhấn mạnh rằng: “Tôi mong muốn Giáo Hội đừng chạy theo những thời trang và đừng thay đổi liên tục hết điều này tới điều khác với hy vọng rằng cách nào đó nó sẽ thu hút nhiều người trẻ hơn. Không có như vậy đâu!”.

Đức Tổng Giám Mục Martin cũng đề cập đến một trong những vấn đề nổi bật ở Ái Nhĩ Lan, là việc hợp pháp hóa phá thai gần đây thông qua một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng Năm vừa qua. Ngài cho biết cuộc bầu cử hợp pháp hóa phá thai đã được thông qua với khoảng 66 phần trăm số phiếu - chỉ 34 phần trăm số phiếu chống lại việc hợp pháp hóa phá thai.

Nghiên cứu cuộc trưng cầu dân ý này chặt chẽ hơn, ta có thể thấy tỷ số những người bênh vực sự sống còn bi đát hơn trong giới trẻ. Đức Tổng Giám Mục nhận xét cay đắng rằng: “Chỉ có khoảng 17% thanh niên ủng hộ sự sống. Thật là kinh hoàng.”

Ngài đặt câu hỏi: “Tại sao những người trẻ, những người nhiệt tình với cuộc sống, những người nhiệt tình với công lý - lại dễ dàng bị thuyết phục rằng nếu họ loại bỏ quyền cơ bản là quyền được sống, thì cách nào đó họ đang trở thành một người từ bi hơn?”

Đức Tổng Giám Mục cho biết sau cuộc trưng cầu dân ý, ngài đã nói chuyện với một vài người trẻ, những người đã bỏ phiếu để bảo vệ cuộc sống của thai nhi và những người đã vận động cho chính nghĩa phò sinh. Ngài cho biết họ hoàn toàn chán nản, cảm thấy như thông điệp của họ “đã bị từ chối.”

Nhưng điều mà Tổng Giám mục Martin nhận thấy nơi chứng tá “can đảm” và “đi ngược trào lưu văn hóa” của họ là Giáo Hội giờ đây càng cần nhiều hơn “những nhà truyền giáo cho cuộc sống. Chúng ta cần nhiều hơn những người dũng cảm lên tiếng.”

Đó sẽ là một trong những thông điệp mà ngài sẽ mang về quê hương mình từ Thượng Hội Đồng Giám Mục về người trẻ, đức tin, và sự phân định ơn gọi.

Cuối cùng, ngài nói: “đừng từ bỏ thực tế là có rất nhiều người trẻ vẫn sẵn sàng đứng lên để bênh vực giáo huấn của Giáo Hội trong lĩnh vực quan trọng này.”

5. Nhận định về dự thảo Phúc Trình sau cùng của Thượng Hội Đồng tuổi trẻ năm 2018

Nhận định đầu tiên: dự thảo phúc trình sau cùng tốt hơn người ta tưởng. Điểm son là đã sử dụng trình thuật Emmau trong Luca 24 làm cái “khung” Thánh Kinh cho toàn tài liệu. Lại có cả một tiết rất mạnh lên án việc lạm dụng tình dục bởi bất cứ người nào; thành thực nhìn nhận việc thiếu trách nhiệm của các giám mục trong việc áp dụng kỷ luật đối với các linh mục lạm dụng; và thừa nhận việc này gây trở ngại lớn lao cho việc truyền giảng Tin Mừng. Dự thảo phúc trình sau cùng còn một điểm son nữa là đã nối kết phép rửa với việc truyền giáo, phản ảnh thách đố của Đức Phanxicô, một thách đố mà vì các tranh chấp gần đây, bị người ta lãng quên phần nào, đó là Đạo Công Giáo phải trở thành một Giáo Hội của các môn đệ hồi tâm triệt để, lúc nào cũng ở trong trạng thái truyền giáo.

Tuy nhiên, có một số vấn đề vẫn còn bất cập. Như đoạn nói về việc lạm dụng tình dục. Đoạn này nên được củng cố hơn nữa và làm cho khả tín hơn nữa đối với hàng ngũ giáo dân nếu không coi chủ nghĩa giáo sĩ trị là nguyên nhân duy nhất. Không ai không thừa nhận chủ nghĩa giáo sĩ trị là một vấn đề trong Giáo Hội, nhất là ở Châu Mỹ La Tinh. Nhưng biến nó thành lý do duy nhất của việc giáo sĩ lạm dụng tình dục là bỏ qua việc trục trặc chức năng tính dục (sexual dysfunction), một trục trặc rõ ràng là nguyên nhân hàng đầu của lạm dụng tính dục bởi bất cứ người nào. Có đủ chứng cớ không hàm hồ và có tính thực nghiệm cao độ cho thấy có sự nối kết giữa một số hình thức trục trặc chức năng tính dục và việc giáo sĩ lạm dụng tình dục, ta nên thừa nhận điều này.

Bất cập thứ hai có thể là việc nói đến ơn gọi làm cha làm mẹ. Chức phận làm mẹ được ca ngợi nhiều trong dự thảo phúc trình, nhưng chức phận làm cha ít được nói đến, giống như nền văn hóa Phương Tây hiện nay, một nền văn hóa có đặc trưng là bỏ qua hay tối thiểu hóa chức phận làm cha, đem lại nhiều hậu quả không tốt.

Dự thảo phúc trình sau cùng dường như sa vào lối nói mới trong việc nhấn mạnh đến việc phải “xây dựng” căn tính con người, một lối nói quá gần một cách nguy hiểm với ý niệm hậu hiện đại coi mọi khía cạnh trong căn tính con người, kể cả căn tính tính dục, chỉ là chuyện khẳng định (assertion) chứ không phải thực tại. Đó không phải là điều ta biết được từ mặc khải, và bất cứ hàm hồ nào về điểm này cũng đòi được sửa chữa.

Suốt thời gian Thượng Hội Đồng, nhóm thảo luận nói tiếng Đức nhấn mạnh rằng giáo huấn của Giáo Hội về tính dục và đạo đức học về tình yêu nhân bản cần được “nói rõ chi tiết” (elaborated) theo nhân học và thần học. Làm như thể việc này chưa bao giờ được thực hiện, phớt lờ cả Thần Học Thân Xác của Thánh Gioan Phaolô II. Thuật ngữ “nói rõ chi tiết” này xuất hiện khá nhiều trong dự thảo phúc trình sau cùng, nó cần được bổ túc, sửa chữa, thậm chí bỏ đi.

Cũng nên khẳng định một cách tích cực về đức khiết tịnh, vốn là toàn vẹn tính của tình yêu, ơn gọi của mọi con người. Không ai chối cãi nhiệm vụ của Giáo Hội là giảng dậy đạo đức học của mình về tình yêu nhân bản một cách thuyết phục và hấp dẫn. Nhưng nếu cho rằng Đạo Công Giáo không lưu ý bao nhiêu trong việc nói đến nó cho tới nay là điều ngớ ngẩn và là một hình thức lấy lòng nền văn hóa duy tục hiện hành.

“Biện phân” được thảo luận rất nhiều trong tài liệu nhưng hầu như luôn theo chiều cảm giới. Giản lược “biện phân” vào chuyện cảm xúc và cảm quan chủ quan khiến Thượng Hội Đồng không còn chỗ bàn tới sinh hoạt tâm trí, tới nhu cầu thông thạo giáo lý như một phần không thể thiếu trong việc đào luyện của Kitô Giáo hoặc bàn tới thần học, coi nó như một phương thế để biện phân. Trong cả các phiên họp toàn thể lẫn trong các thảo luận nhóm, đã có nhiều lời phê bình về xu hướng phản tri thức này của Tài Liệu Làm Việc, nhưng các quan tâm này đã không được phản ảnh trong dự thảo phúc trình sau cùng.

6. Phản ứng của Đức Thánh Cha và tổng thống Donald Trump về vụ tàn sát người Do Thái

Đức Thánh Cha Phanxicô đã phó dâng linh hồn các nạn nhân của vụ thảm sát tại hội đường Do Thái ở Pittsburgh và bày tỏ về sự gần gũi của ngài với cộng đồng Do Thái trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 28 tháng 10 với khoảng 10 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Ðức Thánh Cha nói:

“Tôi bày tỏ sự gần gũi với thành phố Pittsburg ở Mỹ, và đặc biệt là với cộng đoàn Do thái, bị thương tổn hôm 27 tháng 10 vì một cuộc khủng bố kinh hoàng tại hội đường Do thái. Xin Ðấng Tối cao đón nhận những người quá cố vào trong an bình của Chúa, an ủi gia đình họ và nâng đỡ những người bị thương. Trong thực tế, tất cả chúng ta đều bị thương tổn hành vi bạo lực vô nhân đạo này. Xin Chúa giúp chúng ta dập tắt ngọn lửa oán thù đang bùng lên trong các xã hội chúng ta, củng cố ý thức nhân đạo, tôn trọng sự sống, các giá trị luân lý và dân sự, và sự kính sợ Thiên Chúa là Tình Thương và là Cha của tất cả mọi người”.

Phản ứng trước vụ thảm sát này tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump nói:

“Chúng ta phải đứng về phía các anh chị em Do Thái của chúng ta để đánh bại chủ nghĩa bài Do Thái và đánh bại các thế lực thù hận. Phải như thế. Qua nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải chịu đựng sự bách hại khủng khiếp. Các bạn biết điều đó. Chúng ta đều đã đọc qua. Chúng ta đều đã được học về điều này.”

Đối với tay súng bị bắt và những người khác mưu toan tấn công tín hữu các tôn giáo, tổng thống nói, “chúng ta phải tái lập án tử hình. Họ phải trả giá tới cùng. Họ không thể làm như thế. Họ không thể làm điều này trên đất nước chúng ta. Chúng ta phải vạch ra một giới hạn và khẳng định dứt khoát : Không bao giờ nữa.”

Phát ngôn viên Nhà Trắng Sarah Sanders thông báo hôm thứ Hai rằng tổng thống Trump và đệ nhất phu nhân Melania Trump dự định đến thăm Pittsburgh vào ngày thứ ba để “bày tỏ sự ủng hộ của người dân Mỹ và nỗi đau buồn với cộng đồng Pittsburgh.”

Tuy nhiên, 11 nhà lãnh đạo Do Thái trong vùng, tức giận vì lập trường không cấm mua bán súng ống của tổng thống Trump, đã tuyên bố rằng tổng thống không nên đến.

7. Viện Nghiên cứu Gia đình của Đại học Utah cho biết những phụ nữ có nhiều người tình là những người bất hạnh nhất trong đời sống hôn nhân

Nicholas Wolfinger, một nhà xã hội học tại Viện Nghiên cứu Gia đình của Đại học Utah cho biết những phụ nữ Mỹ không có tình nhân nào trước khi gặp người phối ngẫu của mình có nhiều khả năng có được một cuộc hôn nhân “rất hạnh phúc”.

Trong khi đó, một tỷ lệ rất thấp về hạnh phúc hôn nhân được tìm thấy nơi những phụ nữ có nhiều tình nhân trước đám cưới, và một tỷ lệ còn tệ hại hơn được tìm thấy nơi những phụ nữ đã bước thêm một hay nhiều bước nữa. Ông Nicholas cho biết thêm rằng đối với nam giới, sự hài lòng về hôn nhân vẫn còn rất cao dù cho đương sự đã từng trải qua một vài mối tình, nhưng đối với phụ nữ tỷ lệ này là rất thấp.

Bradford Wilcox, một nhà xã hội học khác tại Viện Nghiên cứu Gia đình nhận xét rằng ngày nay trong xã hội Mỹ nhiều phụ nữ có khuynh hướng “sống thử” trong những cuộc hôn nhân không có giấy giá thú cho đến khi họ gặp được người trong mộng. Theo Bradford Wilcox, phần đông những phụ nữ nghĩ như thế là những người bất hạnh nhất trong hôn nhân.

“Vào thập niên 2010, chỉ có khoảng 5% cô dâu còn là trinh nữ. Tuy nhiên, chỉ 6% các cuộc hôn nhân của họ tan biến trong vòng năm năm. Tỷ lệ này lên đến 20 phần trăm đối với hầu hết mọi người.”

Trong nghiên cứu mới nhất này, Viện Nghiên cứu Gia đình của Đại học Utah mô tả những người phụ nữ hạnh phúc nhất mà họ tìm thấy là những người có ít người tình trước khi cưới, tham dự thường xuyên các nghi lễ tôn giáo và có thu nhập hơn 78,000 Mỹ Kim một năm.

8. Đại hội quốc tế các nữ tu Công Giáo và Phật Giáo

Bảy mươi nữ tu đến từ 16 quốc gia đã có cuộc gặp gỡ tại Đài Loan từ ngày 14 đến 18 tháng 10 để chia sẻ ý tưởng và trao đổi về đời sống chiêm niệm.

Đây là đại hội liên đới quốc tế đầu tiên dành cho các ni cô và các nữ tu. Đại hội nói lên sự hiểu biết lẫn nhau và những gắn bó hữu nghị của các tôn giáo trước một thế giới đang cần đến hy vọng và những chia sẻ ủi an hơn bao giờ.

Đại hội đã qui tụ 70 ni cô và nữ tu đến từ Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Sri Lanka, Miến Điện, Thái Lan, Singapore, Hồng Kông, Campuchia, Phi Luật Tân, Ba Tây, Ý, Đức, Na Uy và Hoa Kỳ.

Đại hội kéo dài 4 ngày đã thảo luận các vấn đề như: nguồn gốc, sự tiến hóa và hiện trạng của đời sống viện tu đối với phụ nữ trong Phật giáo và Kitô giáo; Thiền định Phật giáo và Chiêm niệm Kitô giáo.

Trong một tuyên bố chung, các nữ tu cho biết Đại hội nuôi dưỡng sự hiểu biết hỗ tương dành cho nhau và liên kết tình bạn giữa họ thành những nhịp cầu nối kết những con đường tâm linh khác nhau giữa họ.

Các ni cô Phật giáo và các nữ tu Công Giáo phát biểu rằng họ có thể là nhân chứng cho một thực tại về một cuộc sống sung mãn đầy ý nghĩa và an vui giữa một thế giới bị thống trị bởi những chủ nghĩa tiêu thụ, duy vật và duy cá nhân.

Họ cũng nhấn mạnh tới tầm quan trọng của đời sống chiêm niệm trong việc mang lại sự dịu hiền, từ tâm, niềm hy vọng và chia sẻ ủi an cho những ai đang khát khao niềm an bình.

Đại hội được Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn của Vatican tổ chức, phối hợp với Tu viện Phật giáo Phật Quang Sơn ở Đài Loan, Hiệp hội các bề trên tổng quyền dòng nữ tại Đài Loan và Phong trào Đối thoại Liên Dòng và Viện tu.