Ngày 26-11-2015
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:00 26/11/2015
66. LÀM NHÀ BÊN ĐƯỜNG.
N2T

Có người làm một căn nhà bên cạnh con đường lớn, lúc nhà sắp hoàn thành, có một người qua đường nói:
- “Anh nên mở cửa sổ về hướng đông, như thế, khi mặt trời xuất hiện thì ánh sáng liền dọi vào trong nhà.”
Thế là chủ căn nhà tháo dỡ căn nhà và làm lại.
Lần thứ hai cái nhà sắp làm xong, lại có người qua đường nói:
- “Xây nhà thì nên làm cửa sổ về hướng nam, như thế mới bảo đảm được mùa đông thì ấm mùa hè thì mát.”
Thế là chủ căn nhà lại để cho người ta dỡ nhà và làm lại cái mới.
Người qua đường rất đông, đề xuất ý kiến thì mỗi người mỗi khác, chủ căn nhà cảm thấy ý kiến của họ rất là có lý, nhà làm rồi dỡ, dỡ rồi lại làm, ba năm đã trôi qua mà căn nhà vẫn làm chưa xong.
(Hậu Hán thư)

Suy tư 66:
Chúng ta là những tín hữu đang xây dựng căn nhà tín ngưỡng của mình trên nền tảng đức tin.
Căn nhà mà chúng ta xây khác với những căn nhà bê tông cốt sắt: chúng ta lấy đức tin làm nền móng, lấy khiêm tốn làm rường cột, lấy đức cậy làm tường và lấy đức ái làm mái che; chúng ta đang xây nhà, vật liệu cần thiết để hoàn thành chính là ơn sủng của Thiên Chúa, ma quỷ là tên qua đường phá hoại, nó nói với những tín hữu giữ đạo thờ ơ: “Giữ đạo làm gì cho mệt, Chúa có ban phát gì đâu mà giữ với không giữ đạo ?” thế là họ càng thêm thờ ơ nguội lạnh với Thiên Chúa, cho nên nền đức tin bị lún, cột khiêm tốn bị gãy, tường đức cậy bị rạn nứt, và mái che đức ái bị dột, tốc mái… họ trở nên người “không nhà cửa” để trú ngụ sau khi nhắm mắt xuôi tay...
Chúng ta là những tín hữu đang xây nhà với vật liệu vĩnh viễn từ trời gởi xuống là ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa, cho nên chúng ta không ngu dại gì nghe lời tên cám dỗ để bỏ bê công việc của chúng ta.
“Mặc cho ma quỷ đảo điên
Ta đây vẫn cứ điềm nhiên xây nhà...

Ngôi nhà đó chính là niềm tin của chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

-----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:03 26/11/2015
N2T

15. Trong tu viện, một chớp nhoáng mà được thần lực vui vẻ của Thiên Chúa, thì có thể dư dật bù đắp cho họ khi họ khước từ tất cả vì Chúa.

(Thánh Camillus de Lellis)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"

-------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:56 26/11/2015
67. ÔNG BIÊN THIỀU.
N2T

Thời đông Hán Hoàn đế, có một người dạy học tên là Biên Thiều, rất có tài nghệ, nhưng rất thích ngủ gục.
Bởi vì rất mập nên da bụng trệ xuống, hành động chậm chạp, tóm lại là dáng vẻ rất mệt nhọc, cho nên các học trò thường cười thầm ông ta.
Một hôm, Biên Thiều giảng một bài dài nên mệt đứ người, bèn để cho học trò ôm sách đi về, còn mình thì nhắm mắt mà ngủ, tiếng ngáy rất lớn. Học trò bèn tặng cho ông ta một câu vè:
- “Biên hiếu (tổ) tiên,
bụng béo phệ,
biếng đọc sách,
nhưng ham ngủ”.

Tiếng cười của học trò làm cho ông thức giấc, sau khi thức dậy thì ông vừa đi vừa suy nghĩ, và nhanh chóng ngâm một câu vè:
- “Biên là họ,
Hiếu là tự,
bụng béo phệ,
hộp ngũ kinh,
nhưng ham ngủ,
nghĩ việc qua…”.

Bọn học trò đều kinh sợ, thầy giáo xuất khẩu thành chương, đặt vè và cũng để dạy người !
Mấy học trò chơi khăm ấy mặt mày đỏ ửng vì xấu hổ, ngoan ngoãn ngồi học bài.
(Hậu Hán thư)

Suy tư 67:
Hồi còn nhỏ, đi học tiểu học trường làng do các dì phước dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm (thường gọi là dòng Phú Xuân- Huế) dạy, tôi bị dì phước dạy lớp năm quất mười roi giữa sân cột cờ, và ba roi trong lớp vì tội nghịch và phá, cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in câu chuyện phá phách và bị ăn đòn ấy. Mà lạ thật, tôi không hề giận dì phước ấy như giận các dì phước khác, càng lớn lên, càng thấy mình bị ăn đòn là...xứng đáng. Khi tôi về lại thăm quê hương dâng lễ mở tay ở làng quê, dì phước ấy đến dự và tặng tôi một áo alba thêu hoa văn rất đẹp, nói: “Mặc dâng lễ để nhớ cầu nguyện cho chị”. Đúng là dì phước.
Học trò là học trò, thầy cô là thầy cô, phân biệt rất rõ ràng. Thầy cô là người đem lại tri thức cho chúng ta, công ơn chẳng khác chi cha mẹ. Vậy mà, có những học sinh chận đánh thầy cô giữa đường, có những học trò chơi “oai” hơn đó là “thuê” ba má mắng vốn và chửi thầy cô, bôi nhọ thầy cô, những ba má này quên mất mình là ai, là con của con mình hay là dân đánh thuê chém mướn,và những học trò như thế, chắc chắn sẽ là mối nguy cho đất nước và cho gia đình.
Thiên Chúa không sai lầm khi ban quyền dạy dỗ cho các thầy cô giáo, Ngài không trực tiếp truyền tri thức và kiến thức cho nhân loại, nhưng thông qua những thầy cô giáo dạy chúng ta biết thế nào là sự vận chuyển của vũ trụ, biết thế nào là kính trên nhường dưới, biết thế nào là nên người công dân tốt. Do đó mà câu “tôn sư trọng đạo” có lẽ cũng cần phải xê xích ngang hàng “thảo kính cha mẹ”, bên “tám lạng bên mười cân” đều quan trọng như nhau.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:58 26/11/2015
N2T

16. Không nên xem nhẹ việc xin khoan thứ.

(Thánh John Berchmans)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"

--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Dẫn Nhập & Lời Nguyện Giáo Dân Chủ Nhật I Mùa Vọng 29 Năm C.11.2015
Lm Francis Lý văn Ca
02:43 26/11/2015
Dẫn Nhập Chúa Nhật I Vọng C 29.11.2015

Đầu Lễ: Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay, chúng ta bắt đầu năm mới của Giáo Hội, Mùa Xuân của Giáo Hội bắt đầu với Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng. Mùa Vọng là Mùa Trông Đợi Chúa Giáng Sinh, kỷ niệm ngày Chúa xuống thế lần thứ I, nhưng Ngài cũng sẽ đến lần nữa vào ngày thế mạt. Cho nên tư tưởng chính của mùa Vọng quy về Hai Biến Cố Chính: CHÚA ĐẾN TRẦN GIAN.
Phụng vụ của ngày lễ hôm nay nhấn mạnh đến 2 tư tưởng: Đặc điểm của ngày Chúa đến và những việc chuẩn bị cho ngày nầy. Ngày Chúa đến là ngày khủng khiếp cho những ai không chuẩn bị. Ngày đó lại là ngày vô cùng hoan lạc cho những ai luôn sẵn sàng chờ ngày nầy, bằng cuộc sống tình thức đợi chờ.
Đối với những ngưòi Công Giáo, chúng ta chuẩn bị đón Chúa, không phải bằng những việc mua sắm quà cáp để tặng cho nhau, nhưng là sự chuẩn bị tâm hồn, để đón rước Chúa vào lòng, vào gia đình bằng chính đời sống canh tân. Mùa Vọng đã đến, ước gì mỗi người trong chúng ta hãy cố gắng dọn một máng cỏ nơi tâm hồn thật xinh đẹp, thánh thiện, để đón Chúa Hài Đồng ngự đến trong Đêm Cực Thánh. Nếu được như thế, mỗi năm khi mừng lễ Giáng Sinh, thì chính sự chuẩn bị của chúng ta trong lộ trình Mùa Vọng sẽ mang một ý nghĩa đặc biệt đối với mỗi người trong chúng ta.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, xin kính mời Cộng Đoàn cùng hợp tiếng với Ca Đoàn bắt đầu năm Phụng Vụ Mới của Giáo Hội với Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng hôm nay.

TRƯỚC BÀI I:
Đối với những ai đang tỉnh thức đợi chờ ngày Chúa đến để đón Người thì ngày đó sẽ là một ngày vui lớn lao, vì Chúa giải thoát họ ra khỏi cảnh lầm than cơ hàn. Chúng ta là những kẻ đang chờ ngày Chúa đến phán xét kẻ sống và kẻ chết. Vậy tâm trạng hiện tại của chúng ta đang chờ đợi như thế nào? Lo âu, vui buồn hay hân hoan?

TRƯỚC BÀI II:
Thái độ chờ đợi không phải với tâm trạng tiêu cực như ăn không ngồi rồi, nhưng phải tích cực chu toàn bổn phận của mình trong đời sống hằng ngày và hướng đến anh chị em trong những việc bác ái cụ thể.

TRƯỚC BÀI PÂ:
Phúc Âm nhắc nhở chúng ta về thái độ phải tỉnh thức, cầu nguyện trong lúc đợi chờ. Luôn hướng tâm hồn lên cùng Chúa, để có thể đứng vững trước mặt Đấng Chí Công.


Lời Nguyện Giáo Dân

Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn". Giờ đây, chúng ta đang tỉnh thức và dâng lên Chúa những ý nguyện cầu sau đây:

1. Chúng ta cầu nguyện cho toàn thể Giáo Hội đang tiến đi trong niềm cậy trông vào việc Chúa sẽ đến trong vinh quang. Xin cho Giáo Hội luôn trung thành trong sứ điệp rao truyền tình thương của Chúa cho nhân loại. Chúng ta cùng nguyện xin.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

2. Chúng ta cầu nguyện cho những ai, vì hoàn cảnh, cuộc sống đã lôi kéo họ vào nơi trụy lạc. Xin ban cho họ ánh sáng của niềm hy vọng, với ơn Chúa ban, họ sẽ trở về và mong chờ ngày Chúa đến. Chúng ta cùng nguyện xin.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

3. Xin cho chính chúng ta, hiểu rõ giá trị của ơn cứu rỗi mà Chúa giáng trần đã mang vào thế gian. Xin cho chúng ta là những sứ giả của Tin Mừng, đem Chúa đến cho anh chị em đồng loại. Đặc biệt là những người cùng chung huyết thống. Chúng ta cùng nguyện xin.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

4. Chúng ta cầu nguyện cho những anh chị em sắp bước vào đời sống hôn nhân Công Giáo trong năm mới nầy. Xin cho những ngày đợi chờ tìm hiểu nhau trong sự học hỏi giáo lý hôn nhân Công Giáo, sẽ là những hành trang hữu ích cho họ sau nầy. Chúng ta cùng nguyện xin.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

5. Xin Chúa ban ơn yên nghỉ cho các tôi tớ của Chúa đã qua đời…. đặc biệt những linh hồn mồ côi không còn ai để nguyện cầu… Chúng ta cùng nguyện xin.

Xin Chúa nhậm lời chúng con.

Linh mục:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu được giá trị cao cả của Tin Mừng Giáng Sinh, bằng cách sống tỉnh thức và gia tăng tinh thần tỉnh thức đó trong phục vụ và bác ái đối với tha nhân. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài giảng của Đức Phanxicô trong Thánh Lễ tại Đại Học Nairobi
Vũ Văn An
05:28 26/11/2015
Lời Chúa nói với chúng ta trong thẳm sâu lòng ta. Hôm nay, Chúa nói với ta rằng ta thuộc về Người. Người dựng nên ta, ta là gia đình của Người, và Người sẽ mãi mãi có mặt ở đó cho ta. Người nói với ta: “các con đừng sợ, Ta đã chọn các con và ta hứa sẽ chúc phúc cho các con” (xem Is 44:2).

Ta nghe lời hứa trên trong bài đọc 1 hôm nay. Chúa nói với ta rằng trong sa mạc, Người sẽ giáng mưa xuống trên đất khô cằn; Người sẽ khiến con cái dân Người trổ sinh như cỏ nội hoa đồng xanh um. Ta biết rằng lời tiên tri này đã ứng nghiệm trong việc Chúa Thánh Thần đổ xuống vào ngày Ngũ Tuần. Nhưng ta cũng thấy nó được ứng nghiệm tại bất cứ nơi nào Tin Mừng được rao giảng và những dân tộc mới trở thành chi thể của gia đình Thiên Chúa, tức Giáo Hội. Hôm nay, chúng ta hân hoan khi thấy nó ứng nghiệm trên lãnh thổ này. Nhờ việc rao giảng Tin Mừng, anh chị em cũng đã trở nên thành phần của gia đình Kitô Giáo vĩ đại.

Lời tiên tri của Isaia mời gọi ta nhìn vào chính các gia đình của ta, và nhận ra chúng quan trọng như thế nào trong kế hoạch Thiên Chúa. Xã hội Kenya đã từ lâu vốn được chúc phúc với một cuộc sống gia đình vững mạnh, biết trọng kính sự khôn ngoan của người cao niên và biết yêu thương trẻ nhỏ. Sự lành mạnh của bất cứ xã hội nào cũng tùy thuộc sự lành mạnh của gia đình. Vì gia đình, và vì thiện ích của xã hội, đức tin của chúng ta vào Lời Thiên Chúa mời gọi ta hỗ trợ các gia đình trong sứ mệnh của họ trong xã hội, chấp nhận con cái như là hồng phúc dành cho thế giới, và bảo vệ phẩm giá của mỗi người nam nữ, vì tất cả chúng ta đều là anh chị em trong một gia đình nhân loại duy nhất.

Vâng nghe lời Chúa, chúng ta cũng được mời gọi chống lại các thực hành chuyên cổ vũ sự ngạo mạn nơi đàn ông, xâm hại và hạ giá người đàn bà và đe dọa sự sống của những trẻ chưa sinh. Chúng ta được mời gọi tôn trọng và khuyến khích lẫn nhau, và vươn tay ra với những người thiếu thốn. Các gia đình Kitô hữu có sứ mệnh đặc biệt này: chiếu tỏa tình yêu Thiên Chúa, và phân phối nước ban sự sống của Thần Khí Người. Ngày nay, sứ mệnh này quan trọng một cách đặc biệt, vì ta đang mục kích sự lớn mạnh của nhiều sa mạc mới do nền văn hóa duy vật và dửng dưng với người khác tạo nên.

Trong các bài đọc hôm nay, Chúa còn ban cho ta một lời hứa nữa. Như Đấng chăn Chiên Lành luôn dẫn ta trên các nẻo đường đời, Người hứa sẽ cho ta được cư ngụ trong nhà Người mãi mãi (xem Tv 23:6). Cả ở đây nữa, ta thấy lời Người hứa đã ứng nghiệm trong đời sống Giáo Hội. Trong Phép Rửa, Người dẫn ta tới suối nước thảnh thơi và làm linh hồn ta sống động trở lại; trong Phép Thêm Sức, Người xức dầu cho ta bằng dầu ban hân hoan và sức mạnh thiêng liêng; và trong Phép Thánh thể, Người dọn bàn ăn cho ta, bàn ăn gồm mình và máu Người, để cứu rỗi thế giới.

Ta cần các hồng phúc ơn thánh ấy! Thế giới chúng ta cần các hồng phúc ấy! Kenya cần các hồng phúc ấy! Chúng tăng sức mạnh cho ta để ta trung tín trong nghịch cảnh, trong lúc xem ra ta đang bước đi “trong thung lũng bóng tối tử thần”. Nhưng chúng cũng thay đổi trái tim ta. Chúng làm ta thành những môn đệ trung thành hơn của Thầy chí thánh, thành bình chứa lòng thương xót và từ bi nhân hậu trong một thế giới đầy thương tích vì ích kỷ, tội lỗi và chia rẽ. Đây là các hồng phúc mà Thiên Chúa, trong sự quan phòng của Người, giúp ta có khả năng góp phần xây dựng xứ sở anh chị em trong sự hòa hợp dân chính và tình liên đới huynh đệ, trong tư cách những người nam nữ của đức tin. Một cách đặc biệt, chúng là các hồng phúc cần được chia sẻ với giới trẻ, những người, ở đây cũng như ở những nơi khác trên lục địa vĩ đại này, vốn là tương lai của xã hội.

Ở đây, giữa lòng đại học này, nơi các tâm trí của các thế hệ mới đang được lên khuôn, tôi đặc biệt kêu gọi giới trẻ của quốc gia. Các bạn hãy để các giá trị vĩ đại của các truyền thống Phi Châu, hãy để sự khôn ngoan và sự thật của Lời Chúa, và tính lý tưởng đầy quảng đại của tuổi trẻ các bạn hướng dẫn các bạn trong công trình lên khuôn một xã hội mỗi ngày một công chính hơn, bao gồm hơn và biết tôn trọng nhân phẩm hơn. Ước chi các bạn luôn quan tâm tới các nhu cầu của người nghèo, và bác bỏ tất cả những gì dẫn tới thiên kiến và kỳ thị, vì những điều này, ta biết, không thuộc về Thiên Chúa.

Tất cả chúng ta đều quen thuộc với dụ ngôn của Chúa Giêsu về người đàn ông xây nhà trên cát, hơn là trên đá. Khi gió ập tới, nó sụp đổ cái rầm (xem Mt 7:24-27). Thiên Chúa là đá tảng trên đó chúng ta được mời gọi xây nhà. Người cho ta biết điều này trong bài đọc thứ nhất, và Ngưới hỏi ta “Có Thiên Chúa nào khác ngoài Ta không?” (xem Is 44:8).

Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu sống lại nói rằng “mọi quyền bính trên trời và dưới đất đã được ban cho Ta” (Mt 28:18), Người muốn nói với ta rằng Người, vì là Con Thiên Chúa, Người chính là đá tảng. Không có đá tảng nào ngoài Người. Là Cứu Chúa duy nhất của nhân loại, Người muốn lôi kéo mọi người nam nữ mọi thời và mọi nơi về với Người, để Người đem họ tới Chúa Cha. Người muốn tất cả chúng ta xây dựng đời ta trên nền tảng vững chắc của lời Người.

Đó là lý do tại sao, sau khi Người phục sinh và vào lúc trở về với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ của Người lệnh truyền truyền giáo vĩ đại, lệnh truyền mà ta nghe thấy trong bài Tin Mừng hôm nay: “do đó, các con hãy tra đi và làm muôn dân thành môn đệ, bằng cách rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ tất cả những gì Ta đã truyền cho các con”.

Và đó là nhiệm vụ mà Chúa trao cho mỗi người chúng ta. Người yêu cầu ta thành các môn đệ truyền giáo, nam nữ, biết tỏa sáng sự thật, vẻ đẹp và sức mạnh thay đổi đời sống của Tin Mừng. Những người nam nữ thành máng chuyển ơn thánh Chúa, giúp lòng thương xót, lòng nhân hậu và sự thật của Người có khả năng trở thành những viên gạch xây ngôi nhà chắc chắn. Căn nhà tổ ấm nơi anh chị em cuối cùng có thể sống hoà thuận và tôn trọng lẫn nhau, vâng theo thánh ý Thiên Chúa chân thật, Đấng, trong Chúa Giêsu, đã chỉ đường cho ta tới thứ tự do và hòa bình mà mọi tâm hồn đều khát mong.

Xin Chúa Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành, đá tảng trên đó chúng ta xây dựng đời ta, hướng dẫn anh chị em và gia đình anh chị em trên đường nhân lành và thương xót mọi ngày trong đời anh chị em. Xin Người chúc lành cho mọi người Kenya bằng sự bình an của Người.

“Anh chị em hãy mạnh mẽ trong Đức Tin! Đừng sợ hãi!” vì anh chị em thuộc về Thiên Chúa.

Mungu awabariki! (Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em!)
Mungu abariki Kenya! (Xin Thiên Chúa chúc lành cho Kenya!)
 
Tin phép lạ Thánh Thể đang chảy máu tại Salt Lake City, Hoa Kỳ.
Trần Mạnh Trác
16:28 26/11/2015


Tin tức cuả các đài TV điạ phương và từ Giáo Phận Salt Lake City cho biết một ủy ban đã được thành lập để điều tra sự việc 'Mình Thánh đang chẩy máu' tại nhà thờ thánh Xavier ở vùng ngoại ô Kearns cuả thành phố Salt Lake City, Tiểu Bang Utah.

Bản thông cáo cuả Giáo Phận có nội dung như sau:

"Sau những báo cáo gần đây về những loan truyền cuả việc một 'Mình Thánh đang chảy máu' tại nhà thờ thánh Phanxicô Xavier ở Kearns. Đức ông Colin F. Bircumshaw, Giám Quản Giáo Phận, đã bổ nhiệm một ủy ban đặc nhiệm gồm nhiều thành phần chuyên môn khác nhau để điều tra sự việc. Công việc của ủy ban đang tiến hành. Kết quả sẽ được tuyên bố công khai.

'Mình Thánh' hiện đang được Giáo Phận canh giữ. Trái ngược với những tin đồn, Giáo Phận không có kế hoạch trưng bày và tổ chức tôn kính 'Mình Thánh' ấy.

Dù kết quả của cuộc điều tra có là thế nào, chúng ta hãy sử dụng thời gian này để canh tân niềm tin và ý thức rằng phép lạ vĩ đại là sự hiện diện thật của Chúa Giêsu Kitô vẫn diễn ra ở mỗi Thánh Lễ.

Đức Ông. M. Francis Mannion

Chủ tịch Uỷ ban "


Được biết ủy ban, ngoài thành phần giáo sỹ, còn bao gồm một giáo sư tiến sỹ dạy môn neurobiology (sinh học thần kinh).

Những 'phép lạ Thánh Thể' đã từng xảy ra nhiều lần trong lịch sử, và thông thường thì các cuộc điều tra cuả Giáo Hội sẽ kéo dài hằng chục năm trời trước khi được công nhận là một phép lạ. Người ta chưa biết Toà Thánh Vatican đã được thông báo về sự việc này chưa.

Dù thế đã có đông đảo giáo dân tụ tập hằng ngày tại nhà thờ thánh Phanxicô Xavier để đọc kinh lần chuỗi.

Sự việc xảy ra từ tuần trước, một bé trai đã đi theo đoàn người lên rước lễ và đã được trao cho Mình Thánh. Người nhà cuả em sau khi nhìn thấy sự việc thì vội báo cho vị linh mục là em chưa được xưng tôi lần đầu, và do đó vị linh mục đã lấy lại 'Mình Thánh' và, theo thể lệ áp dụng trong muà lạnh thường xảy ra những bệnh truyền nhiễm, 'Mình Thánh' đó đã được bỏ vào một ly nước.

Thông thường thì khi một 'chiếc bánh miến' bỏ vào nước thì chỉ trong vài phút là rữa ra, nhưng 'Mình Thánh' không những đã không rữa mà còn bắt đầu rỉ máu.

Ba ngày sau, người ta vẫn thấy 'Mình Thánh' nổi trên nước và máu vẩn còn tươi. Tin đồn lan ra, nhà thờ tràn ngập tín hữu củng như người hiếu kỳ. Cha xứ đã có lần đem 'Mình Thánh' ra trưng bày cho công chúng, nhưng sau đó đã đem về Giáo Phận để điều tra.

Trong ngày Lễ Tạ ơn này, người ta vẫn còn kéo nhau tới nhà thờ thánh Phanxicô Xavier để được tham dự vào một biến cố linh thiêng nhiệm màu.
 
Bài giảng Thánh Lễ đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Kenya
VietCatholic Network
22:28 26/11/2015
Sáng thứ Năm ngày 26 tháng 11, tức là ngày thứ hai trong chuyến tông du Kenya, Đức Thánh Cha đã có cuộc gặp gỡ với đại diện các tôn giáo bạn vào lúc 8:15 sáng tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh tại Nairobi.

Vào lúc 10:00 ngài đã dâng Thánh Lễ trong khuôn viên của trường Đại học Nairobi.

Trong bài giảng bằng tiếng Ý, và được dịch từng đoạn ra tiếng Anh, Đức Thánh Cha đã dựa vào các bài đọc trong thánh lễ để rút ra những nhận xét và bài học thực hành về vai trò của gia đình và sứ mạng của các tín hữu loan báo Tin Mừng.. Ngài nói:

(Bản dịch của Vũ Văn An) Lời Chúa nói với chúng ta trong thẳm sâu lòng ta. Hôm nay, Chúa nói với ta rằng ta thuộc về Người. Người dựng nên ta, ta là gia đình của Người, và Người sẽ mãi mãi có mặt ở đó cho ta. Người nói với ta: “các con đừng sợ, Ta đã chọn các con và ta hứa sẽ chúc phúc cho các con” (xem Is 44:2).
Ta nghe lời hứa trên trong bài đọc 1 hôm nay. Chúa nói với ta rằng trong sa mạc, Người sẽ giáng mưa xuống trên đất khô cằn; Người sẽ khiến con cái dân Người trổ sinh như cỏ nội hoa đồng xanh um. Ta biết rằng lời tiên tri này đã ứng nghiệm trong việc Chúa Thánh Thần đổ xuống vào ngày Ngũ Tuần. Nhưng ta cũng thấy nó được ứng nghiệm tại bất cứ nơi nào Tin Mừng được rao giảng và những dân tộc mới trở thành chi thể của gia đình Thiên Chúa, tức Giáo Hội. Hôm nay, chúng ta hân hoan khi thấy nó ứng nghiệm trên lãnh thổ này. Nhờ việc rao giảng Tin Mừng, anh chị em cũng đã trở nên thành phần của gia đình Kitô Giáo vĩ đại.

Lời tiên tri của Isaia mời gọi ta nhìn vào chính các gia đình của ta, và nhận ra chúng quan trọng như thế nào trong kế hoạch Thiên Chúa. Xã hội Kenya đã từ lâu vốn được chúc phúc với một cuộc sống gia đình vững mạnh, biết trọng kính sự khôn ngoan của người cao niên và biết yêu thương trẻ nhỏ. Sự lành mạnh của bất cứ xã hội nào cũng tùy thuộc sự lành mạnh của gia đình. Vì gia đình, và vì thiện ích của xã hội, đức tin của chúng ta vào Lời Thiên Chúa mời gọi ta hỗ trợ các gia đình trong sứ mệnh của họ trong xã hội, chấp nhận con cái như là hồng phúc dành cho thế giới, và bảo vệ phẩm giá của mỗi người nam nữ, vì tất cả chúng ta đều là anh chị em trong một gia đình nhân loại duy nhất.

Vâng nghe lời Chúa, chúng ta cũng được mời gọi chống lại các thực hành chuyên cổ vũ sự ngạo mạn nơi đàn ông, xâm hại và hạ giá người đàn bà và đe dọa sự sống của những trẻ chưa sinh. Chúng ta được mời gọi tôn trọng và khuyến khích lẫn nhau, và vươn tay ra với những người thiếu thốn. Các gia đình Kitô hữu có sứ mệnh đặc biệt này: chiếu tỏa tình yêu Thiên Chúa, và phân phối nước ban sự sống của Thần Khí Người. Ngày nay, sứ mệnh này quan trọng một cách đặc biệt, vì ta đang mục kích sự lớn mạnh của nhiều sa mạc mới do nền văn hóa duy vật và dửng dưng với người khác tạo nên.

Trong các bài đọc hôm nay, Chúa còn ban cho ta một lời hứa nữa. Như Đấng chăn Chiên Lành luôn dẫn ta trên các nẻo đường đời, Người hứa sẽ cho ta được cư ngụ trong nhà Người mãi mãi (xem Tv 23:6). Cả ở đây nữa, ta thấy lời Người hứa đã ứng nghiệm trong đời sống Giáo Hội. Trong Phép Rửa, Người dẫn ta tới suối nước thảnh thơi và làm linh hồn ta sống động trở lại; trong Phép Thêm Sức, Người xức dầu cho ta bằng dầu ban hân hoan và sức mạnh thiêng liêng; và trong Phép Thánh thể, Người dọn bàn ăn cho ta, bàn ăn gồm mình và máu Người, để cứu rỗi thế giới.

Ta cần các hồng phúc ơn thánh ấy! Thế giới chúng ta cần các hồng phúc ấy! Kenya cần các hồng phúc ấy! Chúng tăng sức mạnh cho ta để ta trung tín trong nghịch cảnh, trong lúc xem ra ta đang bước đi “trong thung lũng bóng tối tử thần”. Nhưng chúng cũng thay đổi trái tim ta. Chúng làm ta thành những môn đệ trung thành hơn của Thầy chí thánh, thành bình chứa lòng thương xót và từ bi nhân hậu trong một thế giới đầy thương tích vì ích kỷ, tội lỗi và chia rẽ. Đây là các hồng phúc mà Thiên Chúa, trong sự quan phòng của Người, giúp ta có khả năng góp phần xây dựng xứ sở anh chị em trong sự hòa hợp dân chính và tình liên đới huynh đệ, trong tư cách những người nam nữ của đức tin. Một cách đặc biệt, chúng là các hồng phúc cần được chia sẻ với giới trẻ, những người, ở đây cũng như ở những nơi khác trên lục địa vĩ đại này, vốn là tương lai của xã hội.

Ở đây, giữa lòng đại học này, nơi các tâm trí của các thế hệ mới đang được lên khuôn, tôi đặc biệt kêu gọi giới trẻ của quốc gia. Các bạn hãy để các giá trị vĩ đại của các truyền thống Phi Châu, hãy để sự khôn ngoan và sự thật của Lời Chúa, và tính lý tưởng đầy quảng đại của tuổi trẻ các bạn hướng dẫn các bạn trong công trình lên khuôn một xã hội mỗi ngày một công chính hơn, bao gồm hơn và biết tôn trọng nhân phẩm hơn. Ước chi các bạn luôn quan tâm tới các nhu cầu của người nghèo, và bác bỏ tất cả những gì dẫn tới thiên kiến và kỳ thị, vì những điều này, ta biết, không thuộc về Thiên Chúa.

Tất cả chúng ta đều quen thuộc với dụ ngôn của Chúa Giêsu về người đàn ông xây nhà trên cát, hơn là trên đá. Khi gió ập tới, nó sụp đổ cái rầm (xem Mt 7:24-27). Thiên Chúa là đá tảng trên đó chúng ta được mời gọi xây nhà. Người cho ta biết điều này trong bài đọc thứ nhất, và Ngưới hỏi ta “Có Thiên Chúa nào khác ngoài Ta không?” (xem Is 44:8).

Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu sống lại nói rằng “mọi quyền bính trên trời và dưới đất đã được ban cho Ta” (Mt 28:18), Người muốn nói với ta rằng Người, vì là Con Thiên Chúa, Người chính là đá tảng. Không có đá tảng nào ngoài Người. Là Cứu Chúa duy nhất của nhân loại, Người muốn lôi kéo mọi người nam nữ mọi thời và mọi nơi về với Người, để Người đem họ tới Chúa Cha. Người muốn tất cả chúng ta xây dựng đời ta trên nền tảng vững chắc của lời Người.

Đó là lý do tại sao, sau khi Người phục sinh và vào lúc trở về với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ của Người lệnh truyền truyền giáo vĩ đại, lệnh truyền mà ta nghe thấy trong bài Tin Mừng hôm nay: “do đó, các con hãy tra đi và làm muôn dân thành môn đệ, bằng cách rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ tất cả những gì Ta đã truyền cho các con”.

Và đó là nhiệm vụ mà Chúa trao cho mỗi người chúng ta. Người yêu cầu ta thành các môn đệ truyền giáo, nam nữ, biết tỏa sáng sự thật, vẻ đẹp và sức mạnh thay đổi đời sống của Tin Mừng. Những người nam nữ thành máng chuyển ơn thánh Chúa, giúp lòng thương xót, lòng nhân hậu và sự thật của Người có khả năng trở thành những viên gạch xây ngôi nhà chắc chắn. Căn nhà tổ ấm nơi anh chị em cuối cùng có thể sống hoà thuận và tôn trọng lẫn nhau, vâng theo thánh ý Thiên Chúa chân thật, Đấng, trong Chúa Giêsu, đã chỉ đường cho ta tới thứ tự do và hòa bình mà mọi tâm hồn đều khát mong.

Xin Chúa Giêsu, Đấng Chăn Chiên Lành, đá tảng trên đó chúng ta xây dựng đời ta, hướng dẫn anh chị em và gia đình anh chị em trên đường nhân lành và thương xót mọi ngày trong đời anh chị em. Xin Người chúc lành cho mọi người Kenya bằng sự bình an của Người.

“Anh chị em hãy mạnh mẽ trong Đức Tin! Đừng sợ hãi!” vì anh chị em thuộc về Thiên Chúa.

Mungu awabariki! (Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em!)

Mungu abariki Kenya! (Xin Thiên Chúa chúc lành cho Kenya!)
 
Đức Phanxicô gặp các linh mục tu sĩ Kenya: theo chân Chúa Giêsu tới Thập Giá, Người sẽ lo liệu việc phục sinh.
Vũ Văn An
21:36 26/11/2015
Trong cuộc gặp gỡ các linh mục và tu sĩ Kenya vào hôm qua 26 tháng 11, tại Trường St Mary ở Nairobi, có lúc bỏ cả bài nói chuyện soạn sẵn, Đức Phanxicô nói với họ đừng để các cơn cám dỗ làm sao lãng việc theo chân Chúa, vì trung thành và phục vụ Tin Mừng sẽ bảo đảm hạnh phúc và thành công trong thừa tác vụ và việc làm môn đệ Chúa.

Có dịp, chúng tôi sẽ trình bầy phần nói ứng khẩu này của Đức Phanxicô. Sau đây là nguyên văn bài nói chuyện soạn sẵn của ngài với hàng giáo sĩ, tu sĩ và chủng sinh Kenya:

V./ Tumsifu Yesu Kristu! (Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô!)

R./ (Milele na Milele. Amina.) (Bây giờ và mãi mãi. Amen)


Anh em linh mục thân mến

Anh chị em sống đời thánh hiến thân mến

Các chủng sinh thân yêu,

Cha rất vui được hiện diện với các con, được thấy niềm vui trên gương mặt các con và được lắng nghe lời nói và giọng hát hạnh phúc và đầy hy vọng của các con. Cha cám ơn Đức Cha Mukobo, Cha Phiri và Dì Michael Marie về những lời chào đón nhân danh các con. Cha cũng cám ơn Các Dì Dòng Felician vì sự hiếu khách hôm nay của các dì.

Nhưng trên hết, cha cám ơn các con về sự đóng góp tích cực cho Giáo Hội và xã hội Kenya của rất nhiều người tận hiến, và của các linh mục. Cha xin các con chuyển lời hỏi thăm đầy âu yếm của cha tới các anh chị em của các con, những người không thể đến đây với chúng ta hôm nay, và đặc biệt tới các vị cao niên và già yếu trong các cộng đồng của các con.

“Xin Thiên Chúa, Đấng đã khởi sự một công trình tốt đẹp nơi các con đem công trình này tới chỗ hoàn tất vào ngày của Chúa Giêsu Kitô!” (Pl 1:6). Chiều nay, cha muốn biến lời cầu nguyện tận đáy lòng của Thánh Tông Đồ Phaolô này làm của cha, với lòng biết ơn việc các con trung thành phục vụ Chúa giữa dân Người.

Hàng ngày, đi lại tại các bệnh viện và nhà cửa giữa người bệnh, người đau đớn, người nghèo và người bị khinh bạc, các con đã công bố lòng thương xót và cảm thương đầy yêu thương của Thiên Chúa. Tại các giáo xứ, các trường học và các viện giáo dục, các con đã làm việc để giáo dục giới trẻ thành các Kitô hữu và các công dân chính trực. Các cố gắng đã được sử dụng rất tốt. Các con đã giúp xây dựng đời sống thiêng liêng và luân lý của xã hội trên các nền tảng vững chắc của lòng trung thực, của công lý, liên đới và sử dụng tự do có trách nhiệm. Một cách đặc biệt, các con đã phục vụ như những dấu chỉ sống động của tình hiệp thông trong Giáo Hội, một hiệp thông ôm ấp mọi con người và mọi ngôn ngữ, không loại trừ bất cứ ai, nhưng mưu cầu cứu rỗi cho mọi người.

Cha yêu cầu mọi người các con trân qúi ơn gọi của mình như một hồng phúc Chúa ban và giữ cho ngọn lửa nhiệt thành của các con luôn sống động. Lời khích lệ này xin được đặc biệt ngỏ với các tu sĩ nam nữ và các người tận hiến đang hiện diện ở đây. Tâm hồn trẻ trung của các con bừng lửa trước vẻ đẹp của một đời sống bước theo chân Chúa Kitô, tận hiến cho Thiên Chúa và cho người lân cận của các con.

Bằng việc hàng ngày thưa “vâng” với lời Chúa mời gọi bước chân theo Người trong đức trong sạch, nghèo khó và vâng lời của Tin Mừng, các con đã cho Người tất cả những gì các con hiện có, tất cả những gì các con hiện là. Dù chúng ta sống và làm việc tông đồ trong thế gian, nhưng lòng chúng ta phải tập chú vào thiên đàng. Hãy để cho việc cầu nguyện, cầu nguyện bản thân, cầu nguyện phụng vụ hay cầu nguyện cộng đoàn, trở thành trung tâm ngày sống của các con. Ở đây, cha muốn cám ơn các tu sĩ dòng kín về việc tông đồ kín đáo của họ, một việc tông đồ đóng góp rất lớn vào việc sinh hoa trái của sứ mệnh Giáo Hội tại xứ sở này.

Anh em linh mục thân mến, ơn gọi của các con mời gọi các con theo gương Chúa Kitô, Đấng Chăn Chiên Lành, ra đi tìm người nghèo, người bệnh, những người đang cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Đây chính là nguồn vui của ta, được trở thành người loan báo và thừa tác viên của lòng Người cảm thương và yêu thương mọi người, không phân biệt ai. Giữa nhiều bổn phận và phân tâm của thừa tác mục vụ, việc cầu nguyện, tình huynh đệ linh mục, kết hợp trong tâm trí với các giám mục của các con, và năng lui tới với ơn thánh của bí tích Thống Hối, phải là nguồn sức mạnh và là thành lũy chống cơn cám dỗ tế vi của tinh thần mê thế gian. Chúa mời gọi chúng ta trở thành các thừa tác viên của ơn thánh Người bất chấp các giới hạn và yếu đuối của ta. Là thầy cả thượng phẩm đời đời của ta, Đấng nhờ đau khổ mà trở nên hoàn hảo (Dt 2:10), Người sẽ tăng sức mạnh cho chứng tá của các con đối với sức mạnh biến đổi của thập giá Người và niềm vui trước chiến thắng trường cửu của Người.

Các chủng sinh trẻ trung thân mến, các con cũng rất gần gũi đối với trái tim cha! Những năm tháng chuẩn bị và biện phân này là khoảng thời gian tràn đầy ơn thánh, lúc các con trở nên xác tín đối với thánh ý Chúa dành cho đời các con. Về phần các con, điều này đòi sự trung thực, tự biết mình và có ý hướng trong sạch; nó cũng cần được nâng đỡ bằng việc cầu nguyện bản thân, tự do nội tâm thoát khỏi mọi tìm kiếm cái tôi hoặc dính bén không xứng đáng. Trên hết, phải coi đây là thời của niềm vui thiêng liêng, một niềm vui dâng trào trong trái tim các con, một trái tim luôn mở cửa đón nhận lời Chúa và sẵn sàng khiêm cung hy sinh mọi sự để phục vụ dân thánh của Người.

Các bạn thân mến, Tin Mừng mà chúng ta rao giảng và cố gắng sống theo không phải là con đường dễ dàng; nó hẹp nhưng nó đổ đầy trái tim ta bằng một niềm vui khôn tả. Một lần nữa, cha xin mượn lời Thánh Tông Đồ mà bảo đảm với các con rằng “Tôi luôn hân hoan cầu nguyện cho tất cả anh chị em” (Pl 1:4). Cha xin các con cầu nguyện cho cha, và cha phó thác mọi người các con cho tình yêu trổi vượt mà ta vốn biết nơi Chúa Giêsu Kitô. Với tâm tình âu yếm lớn lao, cha ban phép lành của cha cho mọi người các con.

Mungu awabariki! (Xin Thiên Chúa chúc phúc cho các con!)
 
Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ hàng giáo sĩ Kenya
VietCatholic Network
22:25 26/11/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Như chúng tôi đã tường thuật, sáng thứ Năm 26 tháng 11, lúc 10:00 sáng, Đức Thánh Cha đã dâng Thánh Lễ trong khuôn viên của trường Đại học Nairobi.
Lúc 15:45, Đức Thánh Cha có cuộc gặp gỡ với hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ, và các chủng sinh, tại các sân thể thao của trường St. Mary. Đức Phanxicô khích lệ hàng giáo sĩ Kenya đừng để các cơn cám dỗ làm sao lãng việc theo chân Chúa, vì trung thành và phục vụ Tin Mừng sẽ bảo đảm hạnh phúc và thành công trong thừa tác vụ và trong việc làm môn đệ Chúa.
Đức Thánh Cha nói: (Bản dịch của Vũ Văn An)

Anh em linh mục thân mến
Anh chị em sống đời thánh hiến thân mến
Các chủng sinh thân yêu,

Cha rất vui được hiện diện với các con, được thấy niềm vui trên gương mặt các con và được lắng nghe lời nói và giọng hát hạnh phúc và đầy hy vọng của các con. Cha cám ơn Đức Cha Mukobo, Cha Phiri và Dì Michael Marie về những lời chào đón nhân danh các con. Cha cũng cám ơn Các Dì Dòng Felician vì sự hiếu khách hôm nay của các dì.

Nhưng trên hết, cha cám ơn các con về sự đóng góp tích cực cho Giáo Hội và xã hội Kenya của rất nhiều người tận hiến, và của các linh mục. Cha xin các con chuyển lời hỏi thăm đầy âu yếm của cha tới các anh chị em của các con, những người không thể đến đây với chúng ta hôm nay, và đặc biệt tới các vị cao niên và già yếu trong các cộng đồng của các con.

“Xin Thiên Chúa, Đấng đã khởi sự một công trình tốt đẹp nơi các con đem công trình này tới chỗ hoàn tất vào ngày của Chúa Giêsu Kitô!” (Pl 1:6). Chiều nay, cha muốn biến lời cầu nguyện tận đáy lòng của Thánh Tông Đồ Phaolô này làm của cha, với lòng biết ơn việc các con trung thành phục vụ Chúa giữa dân Người.

Hàng ngày, đi lại tại các bệnh viện và nhà cửa giữa người bệnh, người đau đớn, người nghèo và người bị khinh bạc, các con đã công bố lòng thương xót và cảm thương đầy yêu thương của Thiên Chúa. Tại các giáo xứ, các trường học và các viện giáo dục, các con đã làm việc để giáo dục giới trẻ thành các Kitô hữu và các công dân chính trực. Các cố gắng đã được sử dụng rất tốt. Các con đã giúp xây dựng đời sống thiêng liêng và luân lý của xã hội trên các nền tảng vững chắc của lòng trung thực, của công lý, liên đới và sử dụng tự do có trách nhiệm. Một cách đặc biệt, các con đã phục vụ như những dấu chỉ sống động của tình hiệp thông trong Giáo Hội, một hiệp thông ôm ấp mọi con người và mọi ngôn ngữ, không loại trừ bất cứ ai, nhưng mưu cầu cứu rỗi cho mọi người.

Cha yêu cầu mọi người các con trân qúi ơn gọi của mình như một hồng phúc Chúa ban và giữ cho ngọn lửa nhiệt thành của các con luôn sống động. Lời khích lệ này xin được đặc biệt ngỏ với các tu sĩ nam nữ và các người tận hiến đang hiện diện ở đây. Tâm hồn trẻ trung của các con bừng lửa trước vẻ đẹp của một đời sống bước theo chân Chúa Kitô, tận hiến cho Thiên Chúa và cho người lân cận của các con.
Bằng việc hàng ngày thưa “vâng” với lời Chúa mời gọi bước chân theo Người trong đức trong sạch, nghèo khó và vâng lời của Tin Mừng, các con đã cho Người tất cả những gì các con hiện có, tất cả những gì các con hiện là. Dù chúng ta sống và làm việc tông đồ trong thế gian, nhưng lòng chúng ta phải tập chú vào thiên đàng. Hãy để cho việc cầu nguyện, cầu nguyện bản thân, cầu nguyện phụng vụ hay cầu nguyện cộng đoàn, trở thành trung tâm ngày sống của các con. Ở đây, cha muốn cám ơn các tu sĩ dòng kín về việc tông đồ kín đáo của họ, một việc tông đồ đóng góp rất lớn vào việc sinh hoa trái của sứ mệnh Giáo Hội tại xứ sở này.

Anh em linh mục thân mến, ơn gọi của các con mời gọi các con theo gương Chúa Kitô, Đấng Chăn Chiên Lành, ra đi tìm người nghèo, người bệnh, những người đang cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Đây chính là nguồn vui của ta, được trở thành người loan báo và thừa tác viên của lòng Người cảm thương và yêu thương mọi người, không phân biệt ai. Giữa nhiều bổn phận và phân tâm của thừa tác mục vụ, việc cầu nguyện, tình huynh đệ linh mục, kết hợp trong tâm trí với các giám mục của các con, và năng lui tới với ơn thánh của bí tích Thống Hối, phải là nguồn sức mạnh và là thành lũy chống cơn cám dỗ tế vi của tinh thần mê thế gian. Chúa mời gọi chúng ta trở thành các thừa tác viên của ơn thánh Người bất chấp các giới hạn và yếu đuối của ta. Là thầy cả thượng phẩm đời đời của ta, Đấng nhờ đau khổ mà trở nên hoàn hảo (Dt 2:10), Người sẽ tăng sức mạnh cho chứng tá của các con đối với sức mạnh biến đổi của thập giá Người và niềm vui trước chiến thắng trường cửu của Người.

Các chủng sinh trẻ trung thân mến, các con cũng rất gần gũi đối với trái tim cha! Những năm tháng chuẩn bị và biện phân này là khoảng thời gian tràn đầy ơn thánh, lúc các con trở nên xác tín đối với thánh ý Chúa dành cho đời các con. Về phần các con, điều này đòi sự trung thực, tự biết mình và có ý hướng trong sạch; nó cũng cần được nâng đỡ bằng việc cầu nguyện bản thân, tự do nội tâm thoát khỏi mọi tìm kiếm cái tôi hoặc dính bén không xứng đáng. Trên hết, phải coi đây là thời của niềm vui thiêng liêng, một niềm vui dâng trào trong trái tim các con, một trái tim luôn mở cửa đón nhận lời Chúa và sẵn sàng khiêm cung hy sinh mọi sự để phục vụ dân thánh của Người.

Các bạn thân mến, Tin Mừng mà chúng ta rao giảng và cố gắng sống theo không phải là con đường dễ dàng; nó hẹp nhưng nó đổ đầy trái tim ta bằng một niềm vui khôn tả. Một lần nữa, cha xin mượn lời Thánh Tông Đồ mà bảo đảm với các con rằng “Tôi luôn hân hoan cầu nguyện cho tất cả anh chị em” (Pl 1:4). Cha xin các con cầu nguyện cho cha, và cha phó thác mọi người các con cho tình yêu trổi vượt mà ta vốn biết nơi Chúa Giêsu Kitô. Với tâm tình rất âu yếm, cha ban phép lành của cha cho mọi người chúng con.

Mungu awabariki! (Xin Thiên Chúa chúc phúc cho các con!)
 
Top Stories
Cambodge: La formation des prêtres au Cambodge : un acte de foi dans un contexte de précarité
Vincent Sénéchal /Eglises d'Asie
12:35 26/11/2015
Cambodge: La formation des prêtres au Cambodge: un acte de foi dans un contexte de précarité
26/11/2015 - par le P. Vincent Sénéchal

Il y a cinq mois, quasiment jour pour jour, Mgr Olivier Schmitthaeusler, vicaire apostolique de Phnom Penh, ordonnait prêtre Pierre Sok Na. Ce jeune prêtre rejoignait ainsi le petit groupe des prêtres cambodgiens (ils sont désormais au nombre de huit) au service des quelque 22 000 catholiques de ce pays très majoritairement bouddhiste.

Cette ordination est l’occasion de revenir sur un aspect central de la jeune Eglise du Cambodge, à savoir la formation de ses futurs prêtres au sein du grand séminaire Saint-Jean-Marie-Vianney de Phnom Penh. L’article ci-dessous, présenté en mai 2015 à l’occasion d’un colloque organisé à l’Université catholique de Corée, à Séoul, en Corée du Sud, a été rédigé par le P. Vincent Sénéchal.

Ordonné prêtre en 2001 au titre de la Société des Missions Etrangères de Paris, le P. Sénéchal est missionnaire au Cambodge, où, entre autres choses, il enseigne l’Ecriture sainte au séminaire de Phnom Penh.

La formation des séminaristes dans le contexte de l’Eglise au Cambodge: ce sujet me tient particulièrement à cœur en tant que membre d’une société missionnaire, les Missions Etrangères de Paris, dont la tâche première reçue du Saint-Siège en 1658 a été de former des prêtres pour les Eglises locales en Asie. A ce titre, je participe à la formation des séminaristes comme professeur d’Ecriture Sainte au Séminaire Saint-Jean-Marie-Vianney de Phnom Penh depuis 2010.

Le Cambodge est un cas particulier puisque nous y travaillons dans un cadre de première évangélisation, que l’Eglise y est ultra-minoritaire (1) et qu’il n’y a pas encore eu l’érection de diocèses dûment constitués. Les trois territoires ecclésiastiques qui recouvrent le territoire cambodgien et ses 15,4 millions d’habitants sont appelés vicariat ou préfectures apostoliques et n’ont pas encore canoniquement le rang de diocèses. Il existe actuellement trois territoires ecclésiastiques au Cambodge: le vicariat apostolique de Phnom Penh et ses 14 500 catholiques pour 6 millions d’habitants; la préfecture apostolique de Battambang et ses 6 000 catholiques pour 5,4 millions d’habitants; et la préfecture apostolique de Kompong Cham qui compte environ 3 000 catholiques pour 4 millions d’habitants (2). Il y a un seul grand séminaire pour tout le Cambodge, le Séminaire Saint-Jean-Marie-Vianney de Phnom Penh, qui compte actuellement huit séminaristes. Il n’y a pas de petit séminaire mais un foyer vocationnel (Saint-Mickael) qui compte cette année six jeunes et un groupe de rencontre pour jeunes hommes qui réfléchissent à leur vocation, le groupe Emmanuel, qui compte cette année quinze membres. Nous le voyons, nous nous situons dans le cadre d’une Eglise aux effectifs réduits, mais dont les fideles sont cependant jeunes, à l’image du pays dont la moyenne d’âge était de 24,1 ans en 2014 (3).

Une autre particularité de l’Eglise au Cambodge est que la plupart des fideles sont d’origine étrangère, venant du Vietnam dans leur grande majorité, et c’est également le cas pour le clergé, les religieux et les religieuses, qui sont eux aussi étrangers à 91,7 % (4). Dans ce contexte, la formation de prêtres locaux est une priorité indéniable.

Pour le sujet qui nous occupe, la pierre de touche à partir de laquelle nous allons analyser la formation des séminaristes au Cambodge sera le Concile Vatican II (1962-1965). La période 1965-2015 est suffisamment vaste pour pouvoir être découpée en plusieurs sous-périodes pour ce qui concerne le séminaire du Cambodge: les années de l’établissement du séminaire à Phnom Penh selon l’esprit de Vatican II (1964-1970); le séminaire fermé durant les années de guerre (1970-1990); la refondation du séminaire dans les camps de réfugiés en Thaïlande (1991-1992); le séminaire déplacé à Battambang (1992-1998); enfin, le séminaire rétabli à Phnom Penh (1998-2015).

Cette période (1965-2015) fut marquée par une grande instabilité. La formation des séminaristes durant les dernières décennies s’est effectuée dans le contexte chaotique d’une Eglise qui a été quasiment anéantie par la guerre (le nombre des catholiques était de 65 000 en 1970, seulement 5 000 en 1990, avant de remonter à 23 500 aujourd’hui), qui est ultra-minoritaire puisqu’elle représente seulement 0,15 % de la population, et où la plupart des fidèles, du clergé et des religieux sont étrangers.

Dans ce contexte donc, comment la formation des futurs prêtres s’organise-t-elle aujourd’hui ? Comment prend-elle en compte l’enseignement de l’Eglise concernant la formation des séminaristes ? Y a-t-il des adaptations locales propres ? De quels types de prêtres la mission au Cambodge a-t-elle aujourd’hui besoin ?

Voila quelques-unes des questions auxquelles nous nous efforcerons de répondre dans les lignes qui suivent. Pour cela, nous serons à la croisée de plusieurs disciplines: il faudra décrire la sociologie religieuse du pays et son influence sur les candidats à la prêtrise; nous aurons à parcourir succinctement l’histoire de la mission et à décrire les séminaires successifs qui ont formé jusqu’ici les prêtres locaux du Cambodge; il nous faudra également dégager les grandes lignes de l’enseignement de l’Eglise concernant la formation des séminaristes depuis le Concile Vatican II; enfin, il nous faudra analyser la formation qui est prodiguée actuellement et enquêter sur le profil de prêtres que requiert l’annonce de l’évangile au XXIe siècle dans ce pays. En bref, il nous faudra nous muer tour à tour en sociologue, historien, ecclésiologue et missiologue. Cette interdisciplinarité est une des limites de notre enquête car nous ne sommes évidemment pas spécialiste de chacune de ces disciplines.

Une autre limite à laquelle nous avons été confronté durant notre recherche est la rareté des publications concernant la formation des prêtres au Cambodge depuis le Concile Vatican II. Aussi avons-nous interrogé un certain nombre d’acteurs de cette formation, et avons-nous demandé l’accès à certains documents du séminaire qui nous ont été aimablement fournis par le Père Robert Piché, actuel recteur du Séminaire Saint-Jean-Marie-Vianney de Phnom Penh, et par son prédécesseur immédiat le Père Bruno Cosme. Nous remercions chaleureusement chacun des formateurs et les deux évêques qui ont accepté que nous les interviewons ou qui nous ont fournis des informations dans le cadre de communications personnelles (5).

Notre propos sera organisé comme suit: après une première partie consacrée à présenter le contexte socioreligieux du Cambodge, nous regarderons comment s’est organisée la formation des prêtres du Cambodge depuis les années 1950. Cette deuxième partie de notre article nous donnera l’occasion d’évaluer la place donnée à l’enseignement de l’Eglise dans cette formation. Enfin, notre troisième et dernière partie posera la question du type de formation souhaitable pour les candidats au sacerdoce aujourd’hui au Cambodge.

1.) Le contexte socioreligieux au Cambodge comme arrière-fond de la formation des candidats à la prêtrise

Selon les époques, le vicariat apostolique du Cambodge a fait partie de la mission de Cochinchine (partie sud du Vietnam actuel), en a été détaché, a été attaché au Laos, puis à nouveau à la Cochinchine, avant finalement de prendre les contours actuels du pays en 1955. Assez tôt, devant le très faible intérêt des Cambodgiens pour la religion chrétienne et leur retour fréquent aux pratiques traditionnelles après le baptême, il semble que les missionnaires – portugais comme français – ont considéré le peuple khmer comme « inconvertible » (6). Durant le protectorat français, l’effort des missionnaires a alors porté en grande partie sur le soin des chrétientés annamites. Il n’est donc pas étonnant qu’entre 1888 et 1939, le séminaire de la mission du Cambodge, d’abord situe à Culao Gieng (Cochinchine) puis déplacé à Phnom Penh en 1912, ait formé 115 prêtres, tous vietnamiens, parmi lesquels 34 seulement étaient originaires du Cambodge (7). Il fallut attendre 1957 pour voir l’ordination du premier prêtre khmer, le Père Simon Chhem Yen, soit quatre cents ans après le début de la présence catholique au Cambodge, laquelle remonte à 1555 avec l’arrivée du dominicain portugais Gaspard Da Crux à la cour du souverain khmer à Lovek.

Récemment, l’origine des séminaristes s’est diversifiée. Depuis la réouverture du séminaire dans les camps de réfugiés de Thaïlande en 1991, et jusqu’à la rentrée 2014, on totalise vingt-cinq jeunes qui sont entrés au séminaire: treize Khmers, huit Vietnamiens, deux dont l’un des parents est khmer et l’autre vietnamien, et deux Montagnards (minorités ethniques). Parmi ces vingt-cinq jeunes, dix étaient des nouveaux convertis et quinze issus de familles catholiques.

Le contexte religieux est à prendre en compte dans la formation des séminaristes. De par leur situation ultra-minoritaire, les catholiques du Cambodge sont nécessairement en contact, même réduit, avec les religions environnantes, en particulier avec l’animisme et le bouddhisme. Même pour des jeunes issus de familles catholiques, le contact avec ce contexte socioreligieux environnant est important. Bien souvent, les catholiques eux-mêmes se laissent entraîner à des pratiques animistes ou bouddhistes. Il est donc pertinent de prendre en compte cet arrière-fond socio-religieux que nous allons décrire comme une donnée de base préexistante à la formation presbytérale des jeunes qui entrent au séminaire.

De quel arrière-fond socio-religieux parlons-nous ? La péninsule où se trouve le Cambodge fut longtemps appelée péninsule indochinoise. Même si ce nom est maintenant tombé en désuétude, il avait l’avantage de bien décrire la situation des peuples qui y vivent. Le Cambodge, le Vietnam, la Thaïlande et le Laos sont en effet situés entre deux grandes puissances et civilisations: l’Inde d’un côté, la Chine de l’autre; d’où le nom d’Indochine pour le territoire présent dans l’entre-deux. Historiquement, les cultures du Cambodge, de la Thaïlande et du Laos ont été influencées principalement par l’Inde, avec une influence chinoise plus restreinte. La culture vietnamienne, au contraire, a été massivement influencée par la Chine, avec seulement quelques influences mineures venant de l’Inde, principalement au Champa, ce royaume hindouisé que le Vietnam a conquis durant son expansion vers le sud de la péninsule.

L’influence indienne se laisse percevoir facilement au Cambodge dans les strates religieuses successives. Le monde religieux de la grande majorité des Khmers se réfère en effet à la fois à l’animisme, au brahmanisme et au bouddhisme, ces deux dernières religions venant du monde indien. Le bouddhisme theravada est religion d’Etat depuis 1989 et constitue la religion de la quasi totalité de la population (8), même si, dans les faits, le bouddhisme a intégré et « digéré » les deux premières strates religieuses antécédentes.

Le socle animiste est extrêmement prégnant, y compris pour une partie des fideles catholiques, et même pour certains séminaristes et prêtres. Les Khmers considèrent que toute personne possède un esprit qui en est le « maître », que les humains doivent se concilier les génies fonciers vénérés comme véritables maîtres du terroir, enfin que les esprits des morts rodent autour des vivants. Ces croyances animistes sont très répandues tant au Cambodge que dans la diaspora, à la ville comme à la campagne, et dans toutes les classes de la société (9).

La strate religieuse qui est venue se superposer à l’animisme est le brahmanisme. Sa présence date certainement de ce qu’on a coutume d’appeler « l’indianisation de l’Asie du Sud-Est », qui a commencé dès le premier millénaire avant J.-C (10). Les traces de l’influence brahmanique sont repérables entre autres dans la langue (cf. les termes issues du sanskrit et du pali), les monuments (cf. les différents complexes de temples et l’abondance de linga, piliers phalliques symbolisant l’énergie créatrice), la statuaire, les fêtes (cf. le rituel du mariage traditionnel), la conception du roi comme deva-raja (11), la présence de bakous (prêtres brahmaniques) au palais royal, la symbolique d’une colline centrale ou d’un temple montagne comme représentation symbolique du mont Meru, centre du monde, séjour des dieux et lieu de communication entre la terre et le ciel (12).

Dans les faits, les Khmers ont fusionné les univers issus de l’animisme et du brahmanisme. Comme l’écrit Alain Forest (1992, p. 13), « d’emblée, l’observateur est frappé par la profusion des êtres qui peuplent l’univers khmer. Aux représentations divinisées des éléments – le sol, le soleil, la lune, etc. –, s’ajoutent en effet les dieux et déesses du panthéon indien: Indra, Vishnou / Nârâyana, Civa et sa çakti Umâ Bhagavatî, Ganeça, Brahmâ, les gardiens des quatre Orients, pour ne citer que les plus courants, ceux qui sont nommes et apparaissent clairement dans une masse d’autres divinités et êtres célestes. Aux animaux auxquels demeure vaguement attaché le souvenir d’anciennes croyances et mythologies, tels le crocodile ou le serpent, vient se mêler un bestiaire de nâga, de garuda et de yaksa. Autour des génies protecteurs rode un peuple de fantômes, de revenants, d’esprits de malemort ou de farfadets… » (13).

Enfin, le bouddhisme est la dernière tradition majeure qui informe en profondeur la pensée religieuse des Khmers, et ce depuis de longs siècles. Il fut d’abord adopté sous sa forme Mahayana par les souverains khmers à partir du milieu du XIIe siècle mais ne s’imposa vraiment comme culte officiel qu’à partir de 1336 ap. J.-C sous sa forme Theravada (14). Le bouddhisme en terre cambodgienne a réinterprété les systèmes religieux précédents et les a intégrés dans sa vision du monde et de l’humain. Son influence sur les séminaristes khmers d’origine rurale est importante. Elle touche souvent inconsciemment la conception du monde, vu comme formé de trois étages: celui du bas (celui des enfers, monde des esprits); celui du milieu (notre monde, celui des humains et des animaux); celui d’en haut (ciel des dieux de l’hindouisme). Elle touche la conception de l’homme, comme être composé d’énergies vitales, dont les actes produisent un fruit (phâl), bon ou mauvais, que l’on appelle mérite (bonn) ou démérite (bap). Elle influe sur la conception de l’au-delà post-mortem par la croyance en la transmigration des êtres ou réincarnation (15).

Ce contexte socio-religieux a une influence non seulement sur les séminaristes mais aussi sur le vocabulaire utilise pour dire la foi. Depuis le début des années 1990, l’enseignement des séminaristes du Cambodge se fait en khmer (16). Mais cela ne va pas sans difficultés, car le vocabulaire à disposition est principalement bouddhique et brahmanique, et il n’est pas adapté à la théologie chrétienne. Il est par exemple très difficile de traduire les mots Dieu, création, résurrection, péché ou encore prière en cambodgien car ils restent entendus par les interlocuteurs selon la cosmologie et l’anthropologie brahmano-bouddhique habituelle (17). Après vingt-cinq ans d’enseignement des séminaristes et des catéchistes en langue khmère, un lexique est maintenant à peu près en place concernant les grands concepts théologiques. Un premier lexique avait été publié à la fin des années 1990 par le Père François Ponchaud, qui a réalisé un remarquable travail de pionnier en la matière. Cependant, le corps enseignant du séminaire s’est étoffé et les enseignants venus par la suite utilisent parfois de nouveaux termes, ce qui fait qu’il n’y a pas encore aujourd’hui d’unanimité dans l’emploi de certains mots. Ne doutons pas cependant qu’une certaine harmonisation du vocabulaire théologique se réalise progressivement à l’usage.

Pour terminer cette première partie sur le contexte socio-religieux au Cambodge et son influence sur la formation au séminaire, il convient de pointer une évolution récente qui influe sur les séminaristes actuels: il s’agit de la croissance économique et des changements technologiques rapides qui influent sur le Cambodge ces dernières années, son entrée dans le monde globalisé et l’avènement des nouveaux moyens de communication (smartphones, Facebook, etc.). La société cambodgienne actuelle est comme écartelée entre tradition et changement rapide. Depuis la stabilisation politique du Cambodge après la fin de la guérilla des Khmers rouges en 1998 puis son entrée dans ASEAN (Association of Southeast Asian Nations) le 30 avril 1999, l’exode externe (vers la Thaïlande, la Corée ou la Malaisie) ou l’exode interne (principalement vers Phnom Penh) n’a fait que s’amplifier. Selon Annat et Delux (2008, p. 337), cet exode interne touche principalement la tranche d’âge des 20-29 ans. F.-X. Demont (2014) décrit très bien les effets de cet exode interne: « La naissance du monde ouvrier, en plus du développement urbain, a entraîné une modification en profondeur de la société rurale cambodgienne. Jusqu’à ces dernières années, la société était communautaire. Les individus ne pouvaient pas faire de tort au groupe, se différencier ou même sortir du groupe pour une raison ou une autre (…). Le fait que des individus quittent leur groupe social pour aller travailler et vivre dans un groupe recomposé loin de leur société natale engendre des situations nouvelles. L’individu se retrouve seul et doit apprendre à gérer sa vie, ses ressources. (…) Cette émergence de l’autonomie de fait des individus, de la prise en compte par la société des besoins et des aspirations individuels est nouvelle. A son tour, la société cambodgienne voit la naissance du concept de personne » (18).

Ces changements rapides et récents ont été particulièrement visibles dans les mouvements politiques qui ont suivi les élections de 2013. Grâce aux réseaux sociaux sur Internet et les smartphones, des dizaines de milliers de personnes, en grande majorité des jeunes des usines et des étudiants, ont manifesté presque quotidiennement fin décembre 2013 dans les rues de Phnom Penh, réclamant la liberté en tous domaines. Comme l’indique F. Ponchaud (2014) « les élections du 28 juillet 2013 ont été une véritable révolution culturelle » (19).

Les séminaristes actuels sont donc des jeunes baignés dans une société à forte influence culturelle animiste, brahmaniste et bouddhiste, dans laquelle le concept d’individu détaché de son groupe d’origine est en train de naître du fait de changements sociaux récents. Comment ce contexte socio-religieux est-il pris en compte dans la formation presbytérale ? Comment s’est organisée la formation des séminaristes depuis plusieurs décennies au Cambodge ? Voici les questions qui vont nous occuper dans notre deuxième partie.

2.) La formation des prêtres du Cambodge de 1955 à 2015

Ecrire l’histoire de la formation des prêtres du Cambodge à partir de la moitié du XXe siècle jusqu’à aujourd’hui nous permettra d’aborder à la fois l’enseignement de l’Eglise concernant la formation des prêtres depuis le Concile Vatican II ainsi que l’histoire récente de l’Eglise au Cambodge. Nous choisissons de commencer par présenter cette histoire à partir du milieu des années 1950 car, en regardant d’abord la situation qui précède immédiatement le Concile, cela nous permettra de mettre en lumière la nouveauté que le Concile a apportée concernant la formation des prêtres au Cambodge.

Un séminaire intermissions pour le Laos et Cambodge

Une date importante de la décennie 1950 pour l’Eglise au Cambodge est le 20 septembre 1955, date a laquelle le Saint-Siege détacha les provinces de Cochinchine du vicariat apostolique de Phnom Penh, de sorte de faire coïncider les frontières de ce vicariat apostolique avec les frontières du Cambodge (20). Juste avant cette division, le vicariat apostolique de Phnom Penh (Cochinchine inclue) comptait 126 000 fideles, presque tous vietnamiens, sur une population d’environ quatre millions et demi d’habitants. Il y avait alors 25 missionnaires français, 77 prêtres locaux vietnamiens et 17 grands séminaristes (21). Parmi ces derniers, ceux d’origine vietnamienne (presque tous) étaient formés au grand séminaire de Saigon (Cochinchine). Pour les quelque grands séminaristes d’origine khmère, parmi lesquels Simon Chhem Yen, le premier prêtre khmer ordonné en 1957, ils furent formés pour la plupart en France (Montpellier et Issy-les-Moulineaux). Si les grands séminaristes d’avant le concile étaient donc formés à l’étranger, au Vietnam et en France, le petit séminaire se faisait en revanche à Phnom Penh. Selon Mgr Ramousse, cette formation dispersée était une difficulté, car elle ne favorisait pas la cohésion du futur presbyterium du vicariat apostolique de Phnom Penh (22).

Le Concile Vatican II fut un événement qui marqua en profondeur l’Eglise au Cambodge. Il apportait notamment un nouveau regard sur les autres religions, invitait les baptisés à rejoindre les non-chrétiens et recommandait l’emploi des langues vernaculaires dans la liturgie. Mgr Ramousse devint vicaire apostolique de Phnom Penh au début du Concile et commença activement à appliquer celui-ci au Cambodge. A partir de 1964, devant les problèmes de visa touchant les séminaristes vietnamiens du Cambodge en formation à l’étranger, Mgr Ramousse décida de rouvrir un grand séminaire à Phnom Penh (23). La douzaine de séminaristes rappelés par Mgr Ramousse furent formés dans un premier temps à l’évêché, jusqu’à ce que la construction du nouveau grand séminaire, un bâtiment de quarante chambres, soit achevée en mars 1966.

Ce grand séminaire était inter-pays, à la fois pour le Laos et le Cambodge. Ces deux pays se trouvaient confrontés à un même problème, à savoir le petit nombre de candidats au sacerdoce. Selon Mgr Ramousse, « le rétablissement du grand séminaire à Phnom Penh avait pour but de former des prêtres selon ce que le Concile Vatican II demandait. Cela faisait suite à l’établissement de la Conférence épiscopale Laos Cambodge (CELAC). En refondant le grand séminaire à Phnom Penh, les évêques voulaient former des prêtres selon l’esprit du Concile Vatican II » (24).

Dans le compte-rendu de la réunion des évêques de la CELAC tenue à Vientiane du 24 au 28 mai 1968, on peut lire que les évêques souhaitaient donner une formation proprement missionnaire aux séminaristes: « Ils doivent être préparés à l’évangélisation des non-chrétiens et non pas seulement à la pastorale auprès des chrétiens. La formation donnée tout au long des études ainsi qu’au cours de stages hors du séminaire, aidant les futurs prêtres à acquérir une connaissance réelle et profonde du milieu non chrétien, de la mentalité religieuse païenne, et les habituant autant qu’il est possible au contact et au dialogue avec les non-chrétiens ».

Cette orientation des évêques à propos de la formation des grands séminaristes s’accordaient bien avec la référence qui revient à plusieurs reprises dans les comptes-rendus de la CELAC, à savoir le n° 16 du Décret missionnaire Ad Gentes. On peut en effet y lire:

« Ces exigences communes de la formation sacerdotale, même pastorale et pratique, selon les dispositions du Concile, doivent se combiner avec le zèle à prendre en considération le mode particulier de penser et d’agir de son propre peuple. Les esprits des élèves doivent donc être ouverts et rendus pénétrants pour bien connaître et pouvoir juger la culture de leur pays; dans les disciplines philosophiques et théologiques, ils doivent saisir les raisons qui créent un désaccord entre les traditions et la religion nationales, et la religion chrétienne. De même, la formation sacerdotale doit tenir compte des nécessités pastorales de la région; les élèves doivent apprendre l’histoire, le but et la méthode de l’action missionnaire de l’Eglise, et les conditions particulières d’ordre social, économique, culturel de leur propre peuple. Ils doivent être éduqués dans un esprit d’œcuménisme et préparés comme il convient au dialogue fraternel avec les non-chrétiens » (25).

Pour Mgr Ramousse, la formation des séminaristes du Cambodge à Phnom Penh devait permettre a ces derniers de s’ouvrir à la culture du pays, de l’apprécier, pour y être pleinement missionnaire. Un des grands changements apporté par Vatican II pour la formation dans les séminaires concerne donc le rapport des séminaristes avec l’extérieur, autrement dit le rapport au monde. Comme le souligne P. Molac (2014, p. 50), avant Vatican II, les séminaristes « sortaient peu du séminaire. Cantonnés à la sortie hebdomadaire à la maison de campagne au XIXe siècle, progressivement il avait été admis qu’ils puissent aider au catéchisme paroissial et avec les autorisations nécessaires, aux camps de jeunes, de scouts et aux patronages. Désormais à partir des années du Concile Vatican II, il est demandé une formation pastorale, partie intégrante de la formation et confiée à un curé de paroisse expérimenté ».

Les évêques de la CELAC avaient bien vu cet enjeu de formation et voulu pour les séminaristes des stages comprenant un contact suffisant avec les non-chrétiens. Lors de la session extraordinaire de la CELAC les 12 et 13 octobre 1968 à l’évêché de Vientiane, ceux-ci déclarent:

« Actuellement, les séminaristes du Cambodge accomplissent une année de probation entre le premier et le deuxième cycle d’études. On leur confie une fonction d’instituteur catéchistes, de préférence dans une chrétienté où le prêtre ne réside pas habituellement. Ils reviennent régulièrement au séminaire pour les retraites et les recollections. L’emploi de surveillant au petit séminaire a été exclu comme ne permettant pas une initiation véritable au ministère, ni un contact suffisant avec les gens (chrétiens et non-chrétiens). Cette probation peut se faire sous forme de travail en atelier ou en usine, pour ceux qui en feraient la demande. Jusqu’ici, il n’y a pas eu de volontaires. Des stages d’une durée plus longue peuvent être accordés à ceux qui le demandent pour éprouver leur vocation, ou être imposés par le conseil du séminaire ».

L’équipe formatrice du séminaire s’efforça de travailler selon ces directives. Le Père Lesouëf, MEP, ancien recteur du grand séminaire de Saigon (1952-1961), fut nommé premier recteur de ce grand séminaire rétabli à Phnom Penh. L’équipe des enseignants comptait surtout des missionnaires du Cambodge. Un missionnaire du Laos, le Père Marion, OMI, en faisait également partie. Pendant une année, il y eut trois ou quatre grands séminaristes du Laos dans ce séminaire.

Cependant, malgré le désir de mettre les séminaristes en contact avec la culture du Cambodge, la langue de formation restait encore le français, car, tant au Laos qu’au Cambodge, anciens protectorats français, les séminaristes avaient reçu une éducation française dans le secondaire. Mais selon F. Ponchaud, « la nomination fin mai 1966 des Pères Vincent Rollin et Emile Destombes dans l’équipe du séminaire était un signe clair envoyé par Mgr Ramousse. Ce dernier faisait le choix de jeunes professeurs pro-khmers, qui plaidaient ouvertement pour une khmérisation de l’Eglise au Cambodge » (26).

La « khmérisation » de l’Eglise au Cambodge fut un sujet important de la décennie 1960 (27). Depuis des siècles, l’Eglise au Cambodge présentait principalement un visage étranger formé de missionnaires français et de fidèles vietnamiens. Ainsi en 1965, les catholiques du Cambodge étaient composés en majorité de fidèles vietnamiens (50 000) et d’une minorité de cambodgiens (5 000) (28). Depuis Mgr Miche et le début du protectorat, les nouveaux missionnaires apprenaient d’abord le vietnamien pour s’occuper des chrétientés vietnamiennes du Cambodge, et ensuite éventuellement le khmer. L’apostolat auprès des Khmers était délaissé au profit de l’entretien des communautés vietnamiennes. Dans les années 1960, l’arrivée de jeunes missionnaires (François Mangel, Vincent Rollin, Emile Destombes, François Ponchaud) animés par l’esprit du Concile Vatican II et motivés par l’apostolat auprès des Khmers, fut un soutien important pour Mgr Ramousse qui souhaitait aller dans cette direction.

Cependant, cet élan de khmérisation au grand séminaire fut perturbé par trois événements plus ou moins inattendus. D’abord, le recteur du grand séminaire, André Lesouëf, fut nommé préfet apostolique de Kompong Cham le 26 septembre 1968 (29). Ensuite, Mgr Ramousse décida de fermer le grand séminaire de Phnom Penh lors de l’année 1968-1969 et d’envoyer tous les séminaristes en milieu khmer pendant une année. Peut-être la nomination du Père Lesouëf comme préfet apostolique hâta-t-il la décision de fermer le séminaire pendant une année, même si, officiellement, Mgr Ramousse et le Père F. Ponchaud indiquent que ce fut le constat d’une méconnaissance de la langue et de la culture cambodgienne par les séminaristes qui fut à la base de cette décision. Enfin et surtout, c’est l’événement de mars 1970 connu sous le nom de kap Youeun (« fendre les Vietnamiens ») qui vida définitivement le séminaire. En mars 1970, au moment du coup d’Etat par le maréchal Lon Nol qui renversa le Roi Sihanouk, une chasse aux Vietnamiens entraîna la mort de centaines de catholiques vietnamiens et poussa des centaines de milliers d’autres (30) à regagner leur patrie d’origine. Dès lors, le grand séminaire de Phnom Penh fut fermé et ne devait jamais rouvrir à cet endroit (31). A Phnom Penh, il ne rouvrit finalement qu’en 1998, mais sur un autre site (32).

A la suite de l’envoi en stage des grands séminaristes (1968-1969) et de la fermeture du séminaire (1970), la formation de futurs prêtres pour le Cambodge connut une éclipse qui correspond à la nuit de privation de liberté religieuse que le pays vécut pendant plus de vingt ans. Il y eut d’abord la guerre civile (1970-1975), suivie du régime des Khmers rouges (1975-1979) et enfin l’occupation vietnamienne (1979-1990). Entre 1970 et 1975, de nombreux missionnaires et fidèles furent tués alors que les paroisses isolées étaient les victimes de la guerre entre les troupes communistes et les troupes pro-américaines du gouvernement de Phnom Penh. Entre 1975-1979, la quasi-totalité des prêtres, religieux/religieuses et fidèles restant fut décimé par les privations, le travail forcé et les exécutions sommaires. Pendant la période vietnamienne, un grand nombre de survivants fuirent le pays en partant en Europe, Amérique du Nord ou en Australie.

Quand on se penche sur la formation des séminaristes durant la période des années 1960, le dynamisme impulsé par la CELAC est évident. Il y eut non seulement la création du grand séminaire de Phnom Penh et l’ouverture aux cultures locales, mais aussi la mise en place d’une pastorale de recherche des vocations et une refonte de la pédagogie des petits séminaires. Ainsi en 1968, les évêques, suivant en cela Optatam n° 3, préconisèrent d’organiser les études des élèves des petits séminaires de telle sorte que ceux-ci puissent sans difficulté les poursuive ailleurs s’ils venaient à choisir un autre état de vie. Ils demandèrent aussi qu’avant que les séminaristes entreprennent les études ecclésiastiques proprement dites, on leur fournisse le même bagage humaniste et scientifique qui ouvre aux jeunes gens de leur nation l’accès aux études supérieures (33). En 1969, il fut décidé d’établir l’œuvre des vocations avec au Cambodge un responsable au plan national qui fut le supérieur du petit séminaire. Et les évêques demandèrent qu’on établisse un directoire des prêtres et des religieuses, des journées de prière pour les vocations, des conseils aux familles (34). Ils prévoyaient aussi pour 1970 l’organisation d’un stage pour les séminaristes du Cambodge incluant l’étude de la langue khmère, de la culture locale et du bouddhisme. Cette même année, le compte-rendu de la session CELAC du 27 février à Louang Prabang mentionne: « Le séminaire de Phnom Penh est fermé, les évêques se sont entretenus principalement du problème du personnel du séminaire pour les deux années à venir. La reprise des cours est prévue pour la fin de septembre 1970. » Comme déjà vu plus haut, cette réouverture ne se produisit pas à la date prévue.

Le redémarrage du séminaire dans les camps de réfugiés

Ce n’est qu’au début des années 1990 que le séminaire put redémarrer, dans les camps de réfugiés de Thaïlande en 1991 d’abord, puis à l’intérieur du Cambodge (à Battambang) en 1992 ensuite. Les séminaristes provinrent de la diaspora, des camps de réfugiés et de l’intérieur du Cambodge. Au Canada, deux jeunes hommes originaires du Cambodge avaient émis le désir de devenir prêtre: Tonlop Sophal et Un Son (35). Dans les camps de réfugiés installés à la frontière khméro-thaï, quatre jeunes (36) s’étaient manifestés. Enfin, à Phnom Penh, un jeune homme, Nget Viney, avait lui aussi demandé à se former.

Le séminaire redémarra donc dans les camps en 1991. Toute la formation se faisait en khmer, ce qui était une première dans l’histoire de l’Eglise au Cambodge. C’était une formation en osmose avec la formation des catéchistes. Ils avaient une hutte en bambous pour eux dans le camp où ils vivaient seuls car les étrangers n’étaient pas autorisés à vivre dans les camps. La vie était rythmée par la prière commune et la participation aux activités pastorales. Un professeur du camp leur donnait des cours de khmer; un séminariste leur donnait des cours de français et le Père F. Ponchaud des cours de Bible de temps en temps. Ils étaient suivis par le Père Bernard Dupraz, le Père François Ponchaud et Sœur Gilberte Masson.

Dans sa lettre pastorale de 1996, Mgr Ramousse écrivait: « La priorité donnée à l’établissement de l’Eglise au Cambodge doit se concrétiser par la priorité donnée à former un clergé diocésain, une tâche d’autant plus urgente que tous les prêtres khmers ont disparu. Dans les camps de refugiés, nous avons organisé une pastorale des vocations. Nous avons ensuite créé un « grand séminaire » à Battambang, avec des jeunes hommes issus des camps de refugiés et d’autres qui avaient quitté le pays » (37).

Pour Mgr Ramousse, « la formation de séminaristes diocésains devait être la priorité absolue. Particulièrement dans le cadre d’une Eglise détruite et qui devait se reconstruire. Il est du devoir du missionnaire, même seul, de s’adjoindre un ou deux jeunes pour participer à la mission du prêtre. Même dans les camps, même dans les conditions les plus difficiles. C’est important dans le cadre d’une Eglise particulière détruite qui doit renaître. Et la renaissance a eu lieu au Cambodge: on est passé de 3 000 catholiques en 1990 à 20 000 en 2015 » (38).

L’installation à Battambang

En 1992, le séminaire des camps est passé de l’autre côté de la frontière pour s’installer au Cambodge avec le Père Dupraz. F. Ponchaud (2003, p. 32), décrit ainsi cette installation du séminaire à Battambang: « En 1992, avant le retour des réfugiés, Bernard Dupraz s’est installé à Battambang. Il a loué une maison appelée « Belle Rizière ». Viney l’a rejoint, officiellement comme cuisinier, puis Son comme chauffeur. Ly et Wang ont traversé la frontière secrètement et les ont rejoints, officiellement comme gardien et comme jardinier. En cette période, Battambang manquait de tout, et donc les quatre jeunes hommes allaient de temps en temps à la frontière où le Père Ponchaud et la Sœur Gilberte les attendaient avec des sacs de crayons et des cahiers, cachés sous de vieux vêtements pour tromper la vigilance des gardes-frontière thaïlandais. C’est ainsi qu’a commencé le séminaire ».

A cette époque, le redémarrage du séminaire au Cambodge accompagna la reconstruction de l’Eglise au Cambodge dont la première étape consistait à rassembler les catholiques survivants en communautés et à en prendre soin. Les temps étaient difficiles. Les gens manquaient de tout. Il y avait de l’insécurité. En 1993, le Père Dupraz parvint à récupérer le terrain historique de la paroisse de Battambang et du couvent des sœurs de la Providence attenant, qui étaient occupés par l’administration et par des particuliers, et il y installa la paroisse et le séminaire. Il fallut débroussailler pour installer le séminaire dans des locaux très délabrés. La chrétienté de Battambang n’avait pas été dispersée comme celle de Phnom Penh. Il y avait encore des chrétiens autour du terrain et c’était un milieu khmer.

Mgr Ramousse se souvient: « Le secteur couvert par le Père Dupraz était très grand et sa charge très lourde. Il était à la fois supérieur du séminaire, professeur de théologie, et surtout seul prêtre dans la préfecture apostolique de Battambang (39), donc à ce titre « curé » d’une zone couvrant une superficie équivalente à un tiers du Cambodge. Les séminaristes faisaient office de quasi vicaires. Le Père les envoyait dans les postes reculés comme Svay Sisophon, Siem Reap, Pursat ou Chomnaom tous les week-ends. Les séminaristes devaient écrire des comptes-rendus de leur travail chaque semaine. Le Père Dupraz analysait les situations pastorales avec les séminaristes et leur partageait ce qu’il vivait. C’était une formation sur le tas, indexée sur le développement et la reconstruction de l’église. »

Du fait de ces circonstances, la formation au séminaire n’était pas très académique mais plutôt pratique et très pastorale. Le Père Dupraz était un prêtre diocésain proche de l’Association des prêtres du Prado (40) et il forma les séminaristes khmers dans l’esprit du Prado, à savoir à être très proche des gens, à mener une vie pauvre, sans alcool, et à servir les communautés paroissiales tous les samedis et dimanches.

Au démarrage en 1992, le Père Dupraz était seul avec les séminaristes. A partir de 1993, le Père Ponchaud vint régulièrement pour assurer les cours d’Ecriture Sainte, puis, à partir de 1997, le Père Jean-Marie Birsens, jésuite, donna des cours de philosophie et assura un service de direction spirituelle. Comme dans les camps, la formation se faisait en langue khmère, et au démarrage, à part la Bible, il n’y avait pas de documents disponibles en khmer pour enseigner la philosophie et la théologie. Comme l’écrit Y. Ramousse: « Pour bénéficier des avantages d’une formation dans leur propre culture et langue, et dans le contexte pastoral d’une Eglise locale en renaissance, les séminaristes font leurs études en khmer. A cout terme, cette solution est assez onéreuse: à la difficulté de trouver une équipe de professeurs s’ajoute celle d’élaborer un nouveau vocabulaire philosophique et théologique. Mais à long terme, c’est une grande chance pour l’Eglise locale. Après avoir complété leur formation au séminaire interdiocésain, quelques-uns d’entre eux pourront poursuivre des études à l’étranger. Avec ces études en vue, et pour faciliter la formation permanente du clergé diocésain, tous doivent apprendre une langue étrangère (français ou anglais) » (41). Du fait de ce choix d’une formation en khmer, le Père F. Ponchaud a traduit douze commentaires bibliques durant la décennie 1990 et jeté les bases d’une documentation pour les études bibliques en langue khmère.

Le choix d’une formation en langue locale s’expliquait aussi par le faible niveau d’études des séminaristes à leur entrée au séminaire, en raison de la guerre. Il leur aurait été difficile de suivre les cours du séminaire dans une langue étrangère. Seul Nget Viney avait étudié à l’université, principalement la philosophie marxiste. Paul Lay pouvait cependant lire des livres en vietnamien. Le français restait encore la langue étrangère de référence au séminaire et la bibliothèque était en français. Mais cette situation devait bientôt changer tant la langue anglaise gagnait du terrain rapidement au Cambodge. En tout état de cause, les séminaristes ne maîtrisaient pas encore suffisamment ni l’une ni l’autre de ces langues pour pouvoir être envoyés suivre des études à l’étranger. Mais comme l’espérait Mgr Ramousse, ce put être le cas après leur ordination.

En 1998, les ordinaires des trois juridictions ecclésiastiques du Cambodge firent une évaluation. Il leur apparut que l’Eglise recevait de nouveaux missionnaires, que Phnom Penh se reconstituait comme capitale économique et intellectuelle du pays, que les Père Dupraz et Birsens travaillaient bien mais étaient un peu seuls et devaient faire face à une charge de travail trop lourde. La formation pastorale donnée aux séminaristes était excellente, mais l’évaluation montrait que c’était trop leur demander que d’agir en quasi vicaires; cela se faisait surtout au détriment de leur formation intellectuelle.

Aussi les ordinaires décidèrent-ils de repenser la formation et de déplacer le séminaire à Phnom Penh. François Ponchaud (2003, p. 32) écrit: « Le 6 mars 1998, le Conseil des évêques pris la décision de transférer le séminaire à Phnom Penh et, en novembre, il put ouvrir dans ses nouveaux locaux. Cette décision permit d’étoffer l’équipe des professeurs et d’ouvrir le séminaire aux influences étrangères présentes dans la capitale. La supervision du séminaire fut confiée au Père Omer Giraldo Ramirez, un prêtre de la Société des Missions Etrangères de Colombie (IMEY), avec l’assistance du Père Bruno Cosme (MEP). »

Le déplacement à Phnom Penh

En octobre 1998, le « nouveau » séminaire ouvrit à Phnom Penh. Il fut installé dans les locaux de l’ancienne école de langue de la mission, appelée Cambodian Catholic Cultural Center (CCCC). Il y avait alors huit séminaristes, quatre « anciens » et quatre « nouveaux ». Les quatre nouveaux furent tous envoyés faire un stage d’une année chacun dans une paroisse avant de commencer la formation du séminaire proprement dite, mais ces quatre jeunes arrêtèrent tous leur formation durant cette année. Quant aux quatre autres séminaristes considérés comme « anciens », qui avaient commencé leur formation vers le presbytérat en 1991 ou 1992, le Père Giraldo et le Père Cosme fixèrent un terminus ad quem pour d’éventuelles ordinations diaconales et presbytérales. Ils décidèrent aussi d’un calendrier pour les institutions au lectorat et à l’acolytat, car après six ans à Battambang, les séminaristes n’avaient reçu aucune des ces institutions.

Avant l’ouverture du séminaire en octobre, les Pères Giraldo et Cosme avaient visité plusieurs séminaires d’Europe et d’Asie et s’étaient informé des documents ecclésiaux concernant la formation des futurs prêtres. Ils en avaient retiré quelques principes, notamment celui d’organiser la vie au séminaire selon les critères de Pastores Dabo Vobis et de la Ratio des séminaires publiée par les évêques de France, et celui de prendre le Catéchisme de l’Eglise catholique comme base de la formation intellectuelle. Ils s’appliquèrent à bien séparer le for interne du for externe, et s’efforcèrent d’obtenir un bon équilibre entre formation humaine, spirituelle, intellectuelle et pastorale. La vie spirituelle quotidienne était rythmée par la messe, l’office et l’oraison personnelle quotidienne. Des efforts de traduction furent entrepris pour rendre disponibles en khmer les offices de laudes, du milieu du jour, des vêpres et des complies. Une traduction de Dei Verbum ainsi que l’élaboration d’une synopse furent aussi complétées.

Les PP. Giraldo et Cosme demandèrent également conseil à des missionnaires d’expérience sur la façon d’organiser la formation. Le Père Cosme évoque des réunions et discussions avec le Père Jim Noonan, Sœur Luise Ahrens, le Père John Bart et le Père Toni Vendramin (42). Cette instance de réflexion fut en définitive l’ancêtre du Conseil du Séminaire instauré officiellement quelques années plus tard (43).

En 1999, à la demande des évêques, le Père Cosme fonda le groupe Emmanuel, un groupe pour aider les jeunes hommes à réfléchir à la vie consacrée comme prêtre ou religieux. Les rencontres, organisées en week-ends sur une période de deux années, permettent aux jeunes jusqu’à aujourd’hui de mieux connaitre la vie des prêtres et des religieux, ainsi que d’identifier les obstacles éventuels à un engagement. Chaque jeune doit choisir un directeur spirituel. La création de ce groupe fut d’autant plus importante que, comme le précise Mgr Ramousse, « un grand séminaire ne peut fonctionner qu’avec une pastorale des vocations forte ».

Comme dans les camps et à Battambang, l’enseignement au séminaire était en khmer avec quelques documents en français. La bibliothèque de Battambang, qui était uniquement en français, avaient été déménagée à Phnom Penh. Mais le Père Giraldo n’étant pas francophone, et surtout en raison de la prédominance nouvelle de l’anglais au Cambodge et en Asie en général, il fut décidé de ne continuer à enseigner le français qu’aux quatre « anciens » tandis que les quatre nouveaux séminaristes se mettraient à l’étude de l’anglais comme première langue étrangère.

Le volume horaire des études fut augmenté par rapport au séminaire de Battambang. Le Père Giraldo enseignait la philosophie et s’était adjoint un professeur de philosophie de l’Université royale qui avait fait son doctorat au Japon. Le Père Cosme enseignait la théologie dogmatique, la sacramentaire et la morale. Le Père Ponchaud enseignait la Bible. Des sessions d’études thématiques furent organisées en faisant appel à des professeurs de l’étranger.

Durant ces années, le séminaire reçu également, pour une expérimentation d’une année, plusieurs générations de séminaristes étrangers (français, indien, thaïlandais). Il ne s’agissait pas tant pour eux de suivre les cours, qui étaient en langue locale, que de vivre la vie commune avec les séminaristes khmers, avoir un engagement caritatif à l’extérieur et découvrir une autre langue et culture. Le séminaire développa également des liens avec le séminaire du Laos, pays faisant partie de la même conférence épiscopale et dans lequel certaines problématiques pastorales ressemblent à celles du Cambodge. Le séminariste Un Son fut envoyé au Laos en 2000 puis quelques enseignants et séminaristes du Laos vinrent à Phnom Penh plusieurs années de suite. La réflexion commune et ces contacts ouvraient le séminaire de Phnom Penh sur l’extérieur.

Le 10 juin 2001, les quatre séminaristes les plus avancés furent ordonnés diacres, et ils devinrent prêtres le 9 décembre suivant, portant le nombre de prêtres locaux pour tout le Cambodge à cinq personnes. Ces ordinations vidèrent le séminaire et il ne resta officiellement comme grands séminaristes durant la première moitie de l’année 2002 que deux jeunes hommes: Hout Bora et Nep Tao. Plus encore, étant donné que Mgr Susairaj, le préfet apostolique de Kompong Cham, avait décidé d’envoyer Hout Bora se former aux Philippines, il ne resta finalement qu’un seul grand séminariste. Cependant, deux autres jeunes hommes, Sok Na et Phan Borey, qui avaient manifesté leur désir mais n’avaient pas encore obtenu le baccalauréat, logèrent au séminaire tout en poursuivant leurs études au lycée. Le problème du petit nombre fragilisait l’existence même d’un grand séminaire pour le Cambodge.

Le Père Mario Ghezzi, PIME, qui rejoignit le séminaire comme directeur spirituel en septembre 2002, se souvient de ce moment critique. Le Père Ghezzi avait rejoint le séminaire alors que le Père Cosme, qui venait de prendre la suite du Père Giraldo comme nouveau recteur du séminaire, s’y retrouvait seul formateur. Cette année-là, les cours avaient été ouverts à quelques laïcs. Le Père Schmitthaeusler fut inclus dans le corps enseignant pour l’Histoire de l’Eglise. Selon le Père Ghezzi, il n’y avait à son arrivée « qu’un seul grand séminariste, Nep Tao, lequel avait un faible niveau d’éducation générale et était un converti récent. En 2002-2003, qui était ma troisième année d’apprentissage de la langue khmère, je donnais à tour de rôle avec le Père Bruno [Cosme] des conférences spirituelles inspirées de Pastores Dabo Vobis et j’assurais un peu de direction spirituelle. Puis à partir de septembre 2003, je commençais à enseigner. J’utilisais principalement le Catéchisme de l’Eglise catholique pour enseigner. J’avais également demandé au Père Ponchaud de traduire des parties de Gaudium et Spes. Mais Tao ne comprenait que très difficilement. Il a d’ailleurs arrêté le séminaire pendant les grandes vacances 2004 » (44). A la fin de l’année 2003-2004, l’évaluation du Père Ghezzi fut sombre: « Je ne voulais plus enseigner de cette façon, pour un séminariste seulement. Les deux laïcs avaient aussi arrêté et ne venaient seulement que pour quelques leçons. Un certain moment, il n’y avait plus de grand séminariste » (45).

Les années 2002-2006 furent donc des années délicates durant lesquelles l’existence même du séminaire pouvait par moment paraître compromise. Cependant, deux jeunes furent admis à la rentrée 2004, et surtout les deux lycéens Sok Na et Phan Borey s’affermirent dans leur vocation et s’approchèrent rapidement de la fin du lycée, si bien qu’à la rentrée 2006, deux séminaristes (Phan Borey et Muong Ros) purent commencer la philosophie, suivis une année après par Sok Na. Une décision importante à ce moment-là fut d’envoyer ces deux, puis trois séminaristes, étudier la philosophie à l’Université royale de Phnom Penh. Cet envoi à l’université était d’abord motivé par le fait que l’Eglise au Cambodge n’avait pas les moyens de faire la philosophie elle-même au séminaire pour ces jeunes. Cela permettait également de leur donner un diplôme d’Etat et d’être confronté à des jeunes de leur génération. Il faut ajouter que les missionnaires italiens PIME étaient très actifs à la Faculté de Philosophie de l’Université royale à cette époque.

En 2007, Se Saat rejoignit le séminaire. Son profil était différent puisqu’il avait fait des études d’anglais à l’université avant d’entrer au séminaire. Il put donc s’inscrire d’emblée en Faculté de Philosophie. Parallèlement, les études de philosophie de Phan Borey, Muong Ros et Sok Na donnaient satisfaction: ils étaient en général dans les premiers de leur promotion et en furent souvent élus délégués. A chaque fête du séminaire (rentrée, Noël, fin d’année), ils invitaient leurs amis de l’université à participer et ceux-ci venaient nombreux.

A mesure que ces quatre séminaristes s’approchèrent de la fin de leur quatre années de licence, la question se posa de savoir comment procéder pour le cycle de théologie: fallait-il organiser un cycle de théologie au séminaire de Phnom Penh pour quelques séminaristes ou bien les envoyer finir leurs études à l’étranger ? Entre les missionnaires intéressés par la formation des futurs prêtres diocésains, le débat fit rage quelque temps. Finalement, en 2009, les évêques décidèrent de faire la théologie au Cambodge et demandèrent au Père Cosme de préparer un cycle de théologie de trois ans.

Celui-ci prépara un programme qu’il soumit aux évêques et au Conseil du séminaire. Des enseignants du pays et de l’étranger furent sollicités. Parmi eux se trouvaient quelques nouveaux missionnaires arrivés quelques années plus tôt (les PP. Hemelsdael, Kim Taejin, Vincent Sénéchal), des missionnaires plus expérimentés (Père Cosme, Père Ghezzi, Père Tonlop Sophal, Père Evans, Père Salorzano, M. Bill Burns), deux professeurs du grand séminaire de Hô Chi Minh-Ville, un docteur en droit canon du diocèse de Chantaburi (Thaïlande). A l’occasion d’une visite, le cardinal de Hong Kong, Mgr Zen Ze-kiun, s’enthousiasma de l’ouverture de ce cycle de théologie et se proposa lui-même pour enseigner le cours d’eschatologie, ce qu’il fit en 2010.

En octobre 2010, le Père Cosme fut remplacé par le Père Piché, de la Société des Missions Etrangères de Québec (SME), comme recteur du séminaire. Une religieuse des Sœurs de la Providence de Portieux, une novice des Daughters of Mary Help of Christians (FMA) s’inscrivirent comme étudiantes régulières en théologie, ce qui permit d’avoir une classe de théologie de quatre personnes. Si le lexique du vocabulaire théologique et philosophique pour exprimer la foi catholique en langue khmère avait été particulièrement développé et précisé en vingt ans (1990-2010), en particulier grâce au Père Ponchaud, un certain nombre de notions demandaient encore à être précisées. Les réunions du corps enseignant, surtout en 2010 et 2011, furent le lieu de discussions sur la pédagogie à adopter et sur les moyens d’harmoniser le vocabulaire khmer utilisé par les enseignants. Il apparut que c’est le partage du lexique de chacun et la force de l’usage qui ferait tendre à cette harmonisation.

Des livres de théologie dogmatique, sur la Trinité, en christologie, en morale ou encore en histoire de l’Eglise furent traduits et utilisés avec les étudiants. En 2012, le nouvel évêque de Phnom Penh, Mgr Schmitthaeusler, demanda au Père François Ponchaud de traduire les documents du Concile Vatican II et au Père François Hemelsdael de traduire le Catéchisme de l’Eglise catholique. Tous deux réalisèrent le tour de force de remplir cette mission en une année et fournirent ainsi aux enseignants et séminaristes des documents précieux dont beaucoup de peuples ne sont pas encore dotés dans leur langue maternelle.

Le 23 novembre 2013, Phan Borey et Muong Ros furent ordonnés diacres à Phnom Penh et devinrent prêtres respectivement le 22 novembre et le 6 décembre 2014, le premier à Kompong Cham, le second à Battambang. Leur compagnon Sok Na fut lui ordonné diacre le 18 juin 2014 et a été appelé par Mgr Schmitthaeusler pour être ordonné prêtre le 27 juin 2015. A la rentrée de septembre 2014, cinq jeunes hommes ont intégré le séminaire Saint-Jean-Marie-Vianney.

Depuis la réouverture du séminaire dans les camps de réfugiés de Thaïlande en 1991, et jusqu’à la rentrée 2014, on totalise donc vingt-cinq jeunes qui sont entrés au séminaire: treize Khmers, huit Vietnamiens, deux dont l’un des parents est khmer et l’autre vietnamien, et deux Montagnards (minorités ethniques). Parmi ces vingt-cinq jeunes, dix étaient des nouveaux convertis et quinze issus de familles catholiques (46). Tous ont reçu une éducation selon les programmes gouvernementaux, soit à l’école gouvernementale elle-même, soit dans une ONG appliquant le programme du gouvernement. Jusqu’en 2004, on observe que la plupart des candidats sont entrés au séminaire avec un niveau d’études inférieur au baccalauréat. Aucun n’a fait de cursus complet dans une école catholique puisqu’il n’existe pas encore de filière catholique complète comme c’était le cas avant le génocide Khmer rouge (1975-1979).

Si l’on considère que 80 % des catholiques au Cambodge aujourd’hui sont d’origine vietnamienne, il est notable que 50 % des entrées au séminaire durant cette période ait été le fait de jeunes Khmers. Parmi ces treize jeunes, sept sont des nouveaux convertis venant du bouddhisme, dont les parents ne sont pas catholiques.

Si les chiffres restent modestes, puisqu’on ne compte que sept (bientôt huit) prêtres locaux et huit séminaristes, une dynamique, certes fragile, est en train de se consolider. L’impulsion donnée par les évêques à la pastorale des vocations (nuits de prière mensuelles pour les vocations, groupes de réflexion sur la vocation Emmanuel et Good News, rassemblement de plusieurs centaines de jeunes au plan national pour la journée mondiale des vocations, soutien au foyer vocationnel Saint-Mickael, pastorale des jeunes dynamique, etc.) laisse espérer un développement continu du séminaire et du clergé local dans les années à venir. Et la bonne implication des évêques vis-à-vis du séminaire, en particulier de l’évêque de Phnom Penh, qui est l’évêque responsable, est un soutien important. Non seulement Mgr Schmitthaeusler célèbre la messe, dîne au séminaire et rencontre les séminaristes une fois par mois, mais il y enseigne également lui-même, en particulier la doctrine sociale de l’Eglise.

3.) Former des prêtres aujourd’hui. Quelques débats ? Quels prêtres pour le Cambodge ?

Après avoir étudié le contexte socio-religieux au Cambodge comme arrière-fond de la formation des candidats à la prêtrise (première partie) puis nous être penchés sur l’histoire de la formation des prêtres du Cambodge à partir de la moitié du XXe siècle jusqu’à aujourd’hui (deuxième partie), nous voudrions maintenant dans cette dernière partie regarder comment s’organise la formation des séminaristes aujourd’hui, évoquer quelques débats en cours et réfléchir aux types de prêtres dont la mission au Cambodge a aujourd’hui besoin.

L’organisation de la formation aujourd’hui

Depuis la rentrée 2014, une refonte du programme d’études du séminaire est entrée en vigueur, à la demande des évêques. Auparavant, de 2006 à 2014, les séminaristes faisaient la philosophie en quatre ans à l’Université royale et la théologie en trois ans au séminaire. Cette pratique se motivait surtout par le manque de professeurs dans l’Eglise au Cambodge pour assurer les cours de philosophie, et aussi parce que cela avait l’avantage de ne pas couper les séminaristes de la société khmère.

Selon Mgr Schmitthaeusler (interview), « il existe trois raisons majeures à cette refonte des programmes. D’abord, l’expérience a montré que l’enseignement philosophique à l’Université royale n’était pas adapté aux besoins d’un étudiant en théologie, car c’était un enseignement encore trop marqué par la philosophie marxiste. Or, le vocabulaire dont les séminaristes ont besoin tourne autour de la métaphysique, vocabulaire qu’ils n’apprennent pas à l’université. De plus, cet enseignement était trop scolaire et ne poussait pas les étudiants à se questionner. Enfin, la nécessité de mettre les séminaristes de philosophie en contact avec le monde n’est pas si évidente. En effet, nos séminaristes ne sortent pas du petit séminaire et sont déjà dans le monde puisque, à la différence du reste de l’Asie, nous n’avons pas de petit séminaire au Cambodge. Et les jeunes qui sont entrés au grand séminaire ces dernières années n’ont pas fait montre d’une vocation très affirmée. Ils ne sont en général pas sûrs de leur vocation. Or, avec ce système de philosophie à l’université, ils devenaient des étudiants comme les autres. Les études prenaient le pas sur le discernement et la vie spirituelle ».

A partir de ce constat, les évêques ont demandé au Père Piché de remplacer le programme précédent (quatre ans de philosophie à l’Université royale suivis de trois ans de théologie au séminaire) par une année propédeutique claire suivie par un cycle d’études de six ans, le tout étant enseigné au séminaire. Ce cycle de six années comportera pour chaque année des cours de langues, de philosophie et de théologie.

Il y a plusieurs avantages à ce nouveau système. En particulier, les cours de philosophie suivis par les séminaristes pourront plus facilement être mis en lien avec les études théologiques. Les professeurs de philosophie seront mixtes: certains viennent de l’Eglise catholique et d’autres viennent de l’université mais sont embauchés par le séminaire. Il y a également une plus grande respiration pour la théologie, car les cours de théologie ne sont plus concentrés sur trois ans mais ventilés sur six ans. Les séminaristes des années 2006-2014 se plaignaient d’avoir rongé leur frein pendant les quatre ans de philosophie avant de pouvoir commencer la théologie, et ensuite le cycle de théologie en trois ans leur paraissait lourd a digérer car il fallait tout voir en trois ans. Il faut ajouter aussi que la disproportion philosophie (quatre ans) / théologie (trois ans) n’était pas habituelle dans un séminaire où l’on a plutôt d’habitude deux années de philosophie suivie de quatre années de théologie. Ce nouveau programme permettra aussi d’insister davantage sur l’apprentissage de l’anglais. Car pour accéder aux textes majeurs, le but est que l’anglais soit parfaitement maîtrisé.

Dans ce programme, la propédeutique est pensée comme une année introductive. Les séminaristes reçoivent durant cette année des cours d’introduction qui leur permettent d’entrer dans le cycle. Une autre nouveauté concerne leur formation pastorale durant l’année propédeutique. Au lieu d’aller directement en paroisse tous les dimanches, les séminaristes de propédeutique suivent l’évêque trois week-ends par mois. Ils l’accompagnent dans ses visites de paroisses, les célébrations diocésaines, etc. Ils ne sont donc pas pris de suite dans la pastorale d’un endroit particulier mais découvrent le vicariat apostolique de Phnom Penh en accompagnant son pasteur.

Ce nouveau système, dont la première promotion d’étudiants est actuellement en année propédeutique, possède évidemment quelques limites, en particulier le fait qu’il faille compter avec des étudiants de niveaux différents selon leur entrée dans le cycle. Mais le grand point positif, c’est de donner plus de temps aux étudiants pour assimiler les cours de théologie.

Quelques débats en cours

Depuis les années 2000, un débat a porté sur le fait de former les futurs prêtres au Cambodge, au lieu de les envoyer étudier à l’étranger. La question s’est particulièrement posée en 2009 lorsque le recteur du séminaire a demandé aux évêques s’il devait préparer un cycle de théologie à Phnom Penh ou envoyer les séminaristes pour leur théologie à l’extérieur. On peut avancer des arguments solides pour chacune de ces deux positions. Et il est aussi possible de penser d’autres voies intermédiaires. Nous présentons ici les arguments de chacune de ces positions, de façon un peu schématique, de sorte de bien saisir les enjeux.

Les partisans d’un envoi des séminaristes à l’étranger avancent en premier lieu la question du petit nombre de séminaristes. Selon eux, il n’y a pas assez de séminaristes pour avoir une vie communautaire dynamique au Cambodge. Ils mettent aussi en avant le problème de la langue khmère, qu’ils estiment trop limitée au niveau du vocabulaire théologique. Ce problème est redoublé du fait que les enseignants sont presque tous des étrangers (hormis les Pères Tonlop Sophal et Paul Lay), et que cela ne facilite pas la compréhension de l’enseignement. Un argument supplémentaire porte sur l’ouverture des séminaristes à l’universel. Selon les partisans de cette position, avoir un séminaire au Cambodge n’aide pas les futurs prêtres à s’ouvrir à l’Eglise universelle et cela les enferme dans leur propre culture, y compris la culture ecclésiale du pays. L’accès à la langue anglaise devient un trait commun des élites cambodgiennes de ce début de XXIe siècle, disent-ils, et les jeunes Khmers se bousculent pour aller à l’étranger. Aussi, selon ce point de vue, c’est une erreur de ne pas envoyer les séminaristes à l’extérieur, pour qu’ils puissent parler l’anglais couramment et puissent accéder aux livres théologiques dans cette langue, car les documents en khmer sont encore trop peu nombreux. Les partisans de cette position reconnaissent que ce qui est fait au séminaire de Phnom Penh dans le contexte actuel est bon. Mais ils estiment qu’il pourrait être fait mieux encore en envoyant les séminaristes à l’étranger, par exemple aux Philippines, à Rome ou en Thaïlande. Le Cambodge entre dans l’ASEAN, disent-ils. Cette globalisation de la société civile doit être prise en compte pour le séminaire également.

A l’inverse, les partisans d’une formation au Cambodge parlent de l’établissement d’un séminaire au Cambodge comme d’une participation essentielle à la construction de l’Eglise locale. Tous les pays qui ont aujourd’hui des grands séminaires bien établis, disent-ils, ont commencé modestement et ont développé graduellement une formation de qualité. Cela passe par l’élaboration d’un vocabulaire théologique dans la langue du pays et la production par les enseignants de documents en langue locale, ce qui contribue à incarner le langage de la foi dans la langue du pays. Les débuts sont certainement toujours laborieux, mais en envoyant les séminaristes se former à l’étranger, on ne fait que reporter à plus tard ce nécessaire travail d’insémination de la culture d’un pays par le langage de la foi catholique. L’expérience montre que les séminaristes qui vont étudier à l’extérieur, une fois de retour, cherchent souvent leurs mots dans leur propre langue maternelle pour exprimer le langage théologique qu’ils viennent d’apprendre dans une autre langue. L’évaluation menée par le Père Cosme en 2009 montrait aussi que le niveau d’anglais des séminaristes de l’époque était jugé trop faible encore pour aller étudier à l’étranger, par exemple à Singapour ou au Philippines. Pour la pastorale des vocations, la présence de séminaristes au Cambodge même est également importante car appelante pour d’autres jeunes. Et enfin, étudier ensemble sur place favorise pour les futurs prêtres locaux la cohésion au sein du presbyterium et l’attachement a leur diocèse.

Parmi les solutions intermédiaires, on pourrait penser un séminaire local avec un bon nombre de professeurs invités venant de l’étranger qui enseigneraient en anglais, ce qui est d’ailleurs déjà un peu le cas au séminaire de Phnom Penh. Mais cela ne saurait remplacer la plongée complète dans un univers anglophone qui est non seulement la solution la plus efficace pour apprendre l’anglais, mais aussi la plus onéreuse au niveau financier. Une autre voie consisterait à envoyer les séminaristes compléter leur formation à l’étranger une fois devenu prêtres, après quelques années de pastorale. Cette façon de faire est d’ailleurs préconisée par Ad Gentes n° 16:

« On devra aussi choisir des prêtres capables qui, après une pratique pastorale d’une certaine durée, pourront mener à bon terme des études supérieures dans des universités même étrangères, surtout à Rome, et dans d’autres instituts scientifiques, en sorte que les jeunes Eglises aient à leur disposition des prêtres venant du clergé local, dotés d’une science et d’une expérience convenables, pour remplir les fonctions ecclésiastiques plus ardues » (47).

En définitive, les évêques ont tranché en 2009 en faveur de l’organisation d’un cycle de théologie au séminaire de Phnom Penh. Après cinq ans d’expérience, le programme complet des études vient d’être réajusté, ce qui est aussi une façon de procéder conforme à Optatam Totius (48). De ce point de vue, l’Eglise au Cambodge agit vraiment dans la continuité du Concile Vatican II.

Un autre débat récurrent porte sur l’absence de petit séminaire au Cambodge. Pour certains missionnaires asiatiques, cette absence est vécue comme une anomalie et un handicap pour le développement des vocations de prêtres diocésains. Il y eut bien un petit séminaire à Phnom Penh jusqu’en 1975 mais celui-ci a été emporté dans la tourmente de la guerre. Dans les années 1990, le bâtiment du petit séminaire a été racheté pour devenir la paroisse Saint-Joseph actuelle.

Les missionnaires européens ne vivent pas l’absence de petit séminaire de la même façon car, dans leurs pays, ne subsistent plus en général que les grands séminaires. Les petits séminaires ont disparu car ils ne faisaient plus sens. La question qui se pose est celle de savoir si dans le contexte du Cambodge l’établissement d’un petit séminaire ferait sens ?

La question n’est pas vraiment nouvelle. En juin 1969, lors de la réunion de la CELAC à Phnom Penh, les évêques du Laos et du Cambodge s’étaient interrogés sur ce point: « A la question de savoir s’il est nécessaire que chaque vicariat ait son petit séminaire, on répond que non. Mais on pense que chaque vicariat peut avoir son probatorium sous une forme ou sous une autre (école ou foyer) » (49). En fait, la différence entre un probatorium-foyer et un probatorium-école est que, dans le premier cas, les élèves suivent les cours d’une autre institution scolaire tandis que dans le second, le probatorium est un établissement scolaire lui-même (= petit séminaire) (50).

Aujourd’hui au Cambodge, l’Eglise possède un certain nombre de foyers généraux pour étudiants (CCSC, Ste Claire, St Paul, Tep Im) et élèves (Saint-Jean-Baptiste, Saint-François, Saint-Augustin, Kompong Thom, Kompong Cham, Battambang etc.). Elle ne possède en revanche qu’un seul probatorium-foyer ou des jeunes hommes discernent leur vocation tout en étudiant à l’extérieur: le foyer Saint-Mickael. Le petit nombre de prêtres actuel permettrait difficilement de dégager quelqu’un pour s’occuper d’un petit séminaire à plein temps. En revanche, l’évêque de Phnom Penh a formulé le souhait d’augmenter le nombre de probatorium-foyers dans son vicariat.

Quels prêtres pour le Cambodge aujourd’hui ?

Voila la question que nous avons posée à plusieurs des interviewés (51). Avant de faire la synthèse de leurs réponses, précisons qu’un des dilemmes des prêtres au Cambodge, qu’ils soient étrangers ou locaux, est de trouver leur voie entre deux figures: celle du bonze et celle de l’humanitaire. Les catholiques expliquent volontiers à leurs amis bouddhistes que les prêtres sont des hommes religieux semblables aux bonzes. Pourtant, la figure approchante dans le catholicisme serait plutôt celle du moine contemplatif. Et l’activité soutenue des prêtres dans le domaine caritatif les faits souvent considérer comme des humanitaires.

Dans ce contexte, de quels types de prêtres le Cambodge actuel a-t-il besoin ? Les réponses des interviewés laissent apparaitre que le Cambodge du XXIe siècle a besoin de prêtres humainement solides et stables, car la société est actuellement très instable, et qui soient des hommes ayant une vie spirituelle forte centrée sur l’eucharistie et sur le Christ. Cet équilibre humain et spirituel est important pour avoir une identité forte et ouverte. Ces prêtres doivent être capables d’entrer dans le dialogue interreligieux et ne pas s’enfermer dans le monde catholique, car nous nous trouvons dans le contexte d’un Cambodge où les catholiques sont une goutte d’eau dans une société presque entièrement bouddhiste. Ils doivent être capables d’entrer dans les théologies asiatiques et d’expliquer la foi simplement et avec conviction. Une autre caractéristique demandée aux prêtres du Cambodge pour ce début de XXIe siècle, c’est d’avoir le sens de l’Eglise universelle et le sens de l’Eglise locale. L’Eglise au Cambodge depuis plusieurs décennies est une Eglise catéchuménale. Les séminaristes doivent apprendre à aimer l’Eglise dans laquelle ils entrent et comprendre qu’ils doivent s’y impliquer dès la première année de séminaire. Ils doivent être des hommes ayant un grand cœur pour le peuple, qui peuvent penser, réfléchir et traduire l’Evangile pour le rendre compréhensible aux simples gens.

Pour terminer, laissons la parole au Père Piché, actuel recteur du séminaire de Phnom Penh, qui résume sa ligne de conduite: « Pour la formation des séminaristes, je me base sur Pastores Dabo Vobis et la Ratio Fondamentalis. Le Père Cosme, qui était le recteur précédent, avait déjà presque tout mis en place selon ces textes. J’essaie de former des prêtres qui aient la source en eux; des prêtres qui soient animés de l’intérieur, de sorte que ce qui les pousse à agir soit en eux. Je n’insiste pas tellement sur le cadre. Car s’ils veulent devenir prêtres, ils vont suivre le cadre. Mais j’insiste sur le fait d’avoir en soi-même le contact avec le Seigneur qui pousse à aller de l’avant. Nous voulons former des prêtres qui soient de bons pasteurs, soucieux d’être missionnaires, d’aller vers les non-chrétiens. Donc les deux points importants sont le contact avec le Seigneur et le souci des non-chrétiens. Le reste peut s’apprendre. Avoir ce double état d’esprit est le plus fondamental. Aussi j’insiste beaucoup sur la vie spirituelle des séminaristes et sur leurs motivations. Pourquoi est-ce que je fais telle ou telle activité ? Est-ce que je veux devenir prêtre pour les avantages matériels ? Si c’est le cas, cela ne tiendra pas. J’insiste enfin sur l’amitié entre prêtres, qui commence dès la vie commune au séminaire. »

Conclusion

Nous arrivons au terme de notre parcours sur la formation des prêtres au Cambodge durant ces cinquante dernières années. Notre analyse a mis en lumière les efforts intenses de l’Eglise au Cambodge pour appliquer les directives du Concile Vatican II et former des prêtres qui soient des pasteurs spirituels et missionnaires, à l’aise au sein de la société cambodgienne. Les difficultés ont été et restent nombreuses: le manque de formateurs, le petit nombre de séminaristes, la nécessité de forger un vocabulaire théologique catholique, le manque de documents d’enseignement en langue khmère, les vicissitudes de l’histoire, en particulier la guerre.

Le Concile Vatican II a poussé l’Eglise au Cambodge à se « khmériser » et à entrer en dialogue de foi et d’annonce plus en profondeur avec la société cambodgienne. L’établissement de la Conférence épiscopale Laos-Cambodge (CELAC) a été un moteur puissant d’application du Concile. La création d’un séminaire dans les camps de réfugiés puis à Battambang dans un contexte de très forte précarité fut un acte de grande foi ! Le 1er mai 2015, Mgr Schmitthaeusler a ouvert l’enquête diocésaine concernant Mgr Joseph Chhmar Salas et ses 36 compagnons, présumés martyrs du temps des Khmers rouges. Souhaitons qu’elle aboutisse assez rapidement, de sorte que l’Eglise donne aux séminaristes du Cambodge des grands frères dans la foi qui soient des saints portés sur les autels et qui les soutiennent dans leur formation et dans leur futur ministère pastoral et missionnaire.

Notes

* L’article du P. Vincent Sénéchal a été publié, dans une version raccourcie, dans la Revue MEP (n° 509, octobre 2015). Le présent texte en est le texte complet.
On compte 23 500 catholiques pour 15,4 millions d’habitants, soit 0,15 % de la population.
Le nombre d’habitants de chaque territoire ecclésiastique est issu de l’addition des chiffres de population pour les provinces qui le composent. En 2015, le vicariat apostolique de Phnom Penh est composé des provinces de Kompong Speu, Kampot, Kandal, Koh Kong, Kep, Phnom Penh, Preah Sihanouk et Takeo. La préfecture apostolique de Battambang est composée des provinces de Bantey Meanchey, Battambang, Kompong Chhnang, Kompong Thom, Uddor Meanchey, Pailin, Pursat, Preah Vihir et Siem Reap. La préfecture apostolique de Kompong Cham est composée des provinces de Kompong Cham, Kratie, Mondolkiri, Prey Veng, Rattanakiri, Stoeung Treng et Svay Rieng. Pour la population par province, cf. Brinkhoff, T., The provinces of the Kingdom of Cambodia (2015). Retrieved March 17, 2015, from http://www.citypopulation.de/Cambodia-Cities.htlm). Le nombre de catholiques par territoire ecclésiastique m’a été communiqué par chacun des ordinaires: Mgr Olivier Schmitthaeusler, vicaire apostolique de Phnom Penh; Mgr Enrique Figaredo, préfet apostolique de Battambang et Mgr Antonysamy Susairaj, préfet apostolique de Kompong Cham.
Selon le site statistiques-mondiales.com: http://www.statistiques-mondiales.com/cambodge.htm
Il y a sept prêtres locaux pour soixante-douze prêtres au total; quinze religieuses locales sur cent cinquante trois religieuses; aucun religieux du pays sur trente neuf religieux au total. Les soixante-douze prêtres sont issus de dix huit nationalités différentes. Cf. Directory of the Catholic Church in Cambodia, publié par le Catholic Social Communications of the Catholic Church in Cambodia, 2015.
Nous avons interviewé Mgr Olivier Schmitthaeusler, vicaire apostolique de Phnom Penh depuis 2010 et évêque responsable du Séminaire Saint-Jean-Marie Vianney (interview réalisée le 5 mars 2015); Mgr Yves Ramousse, vicaire apostolique émérite de Phnom Penh, en poste de 1963 a 1997 (interview réalisée le 7 mars 2015); le Père François Ponchaud, professeur d’Ecriture Sainte au Séminaire dans les années 1960, puis durant les décennies 1990 et 2000 (interview réalisée le 23 janvier 2015); le Père Robert Piché, actuel recteur du Séminaire de Phnom Penh (interview réalisée le 20 janvier 2015); le Père Bruno Cosme, son prédécesseur, recteur du Séminaire de 2002 à 2010 (interview réalisée le 12 février 2015) et enfin le Père Mario Ghezzi, directeur spirituel au Séminaire de 2002 a 2007 et professeur de Sacramentaire (interview réalisée le 5 mars 2015).
Ramousse Y. (2009), p. 28; Ponchaud F. (2006), p. 91.
Ponchaud F. (2006), p. 124.
96,93 % des Khmers se disent bouddhistes, selon le recensement de 2008 (http://data.un.org/Data.aspx?d=POP&f=tableCode%3a28). Selon Procheasas, 2005, p. 123, ce chiffre était de 96,4 % en 1998, mais les auteurs notaient que ce chiffre était susceptible de sous-estimer les minorités, peut-être du fait de la prudence des intéressés.
Ponchaud, F. (2006), pp. 300-306.
Crochet, S. (1997), pp. 16-17.
Cf. le rite de l’intronisation royale du roi Sihamoni en 2004, les funérailles du roi Norodom Sihanouk en février 2013 et tous les rituels brahmiques qui ont accompagné ces cérémonies. Le roi préside également tous les ans la cérémonie du « sillon sacré », geste de défloration de la terre vierge, qui, dans l’univers des paysans khmers, est indispensable à la production agricole.
Ponchaud F. (2006), p. 306-309.
Forest renvoie aux ouvrages de référence de Poree-Maspero, 1962, 1964 et 1969.
Procheasas (2005), pp. 125-126.
Sur tous ces points, cf. Ponchaud, 2006, pp. 310-315.
Durant la première partie du XXe siècle, le vicariat apostolique de Phnom Penh comprenait les provinces du sud de la Cochinchine et l’usage du khmer n’allait pas de soi pour la formation des séminaristes, qui étaient formés en français, langue « neutre » aussi bien pour les Vietnamiens que pour les Khmers. Ce fut encore le cas dans la seconde moitie des années 1960 où le séminaire de Phnom Penh formait des jeunes gens du Cambodge et du Laos. L’usage du khmer comme langue de formation des séminaristes se justifie pleinement aujourd’hui. Le Cambodge est un pays assez homogène ethniquement et linguistiquement. S’il y existe seize minorités linguistiques selon Filippi (2008), celles-ci n’empêchent pas la suprématie du khmer. Selon Procheasas (2005, 144), l’enquête socioéconomique sur échantillon de 1999 donne les résultats suivants par zone écologique: à Phnom Penh, 87,54 % des enquêtés déclarent ne pas parler d’autre langue que le khmer et 12,46 % des enquêtés qui parlent une autre langue que le khmer parlent comme première langue: l’anglais (36,92 %), le français (21,06 %), le chinois (19,87%) et vietnamien (18,52 %); dans les plaines 98,17 % des enquêtés déclarent ne pas parler d’autre langue que le khmer; dans la région du Tonlé Sap 97,30 % des enquêtés déclarent ne pas parler d’autre langue que le khmer; dans la zone côtière, 97,19 % des enquêtés déclarent ne pas parler d’autre langue que le khmer; enfin, dans les plateaux (montagnes), 91,04 % des enquêtés déclarent ne pas parler d’autre langue que le khmer. Pour cette dernière zone, les 8,96 % des enquêtés qui parlent une autre langue que le khmer parlent comme première langue: le lao (54,13%), une langue des minorités (40,76 %), le vietnamien (3,60 %).
Cf. Ponchaud F. (2006), pp. 324-333.
Demont F.-X. (2014), p. 17
Ponchaud F. (2014), p. 8.
Selon Mgr Ramousse (communication personnelle, 24 novembre 2011), lors de la séparation de 1955, il fut demandé aux prêtres locaux (tous vietnamiens) de choisir leur rattachement au vicariat apostolique de Phnom Penh ou à l’un des diocèses cochinchinois nouvellement créés. Une très grande majorité choisit de servir dans les nouveaux diocèses. Aussi fut-il décidé que ces nouveaux diocèses paieraient une compensation financière au vicariat apostolique de Phnom Penh, ce qui fut le cas pendant quelques années.
Ponchaud, 2006, p. 365.
Ramousse, interview.
CELAC (1964-1975), compte-rendu de la réunion de la CELAC du 20-23 avril 1964, à Vientiane (Laos), p. 5: « Le vicaire apostolique de Phnom Penh se voit dans la nécessité d’ouvrir un grand séminaire chez lui: la plupart de ses séminaristes sont de race vietnamienne, considérés comme étrangers au pays; S’ils font leurs études à l’étranger, ils doivent revenir tous les six mois obtenir un visa, sinon ils perdraient leur droit de demeurer au Cambodge; en plus, si leurs études sont faites au Vietnam, le gouvernement en prend ombrage; impossible de les envoyer ailleurs; en plus, s’ils allaient à Penang ils se trouveraient en milieu de culture anglaise, alors qu’ils ont reçu une formation française dans le secondaire. Si les fonds sont trouvés, cette année le grand Séminaire ouvrira avec une vingtaine de jeunes gens; la philosophie universitaire (baccalauréat français) se faisant en cette établissement. Il y aurait un avantage pour le Laos à y envoyer ses grands séminaristes: même usage de la langue française pour les études dans les deux pays, même genre de population, proximité, etc. Il est évident que l’existence de ce grand séminaire au Cambodge pourra rendre de grands services aux missions du Laos. Dès maintenant cela permettra plus de liberté pour opter entre la vie religieuse et la vie séculière. Il n’y aura plus la quasi nécessité d’envoyer nos grands séminaristes en Europe ou milieu et études ne sont pas adaptés à eux. »
Ramousse, interview téléphonique.
Concile Vatican II, Ad Gentes, N° 16.
Ponchaud F., interview.
Sur ce sujet, cf. Ponchaud F. (2006), pp. 151-165.
CELAC (1964-1975), compte-rendu de la réunion de la CELAC du 5-8 juillet 1965, à Phnom Penh (Cambodge), p. 5.
Le 26 septembre 1968, le Saint-Siège divisa le vicariat apostolique de Phnom Penh en trois juridictions ecclésiastiques nouvelles, à savoir: au Sud le vicariat apostolique de Phnom Penh, au Nord-Ouest la préfecture apostolique de Battambang et à l’Est la préfecture apostolique de Kompong Cham. Mgr Ramousse restait vicaire apostolique de Phnom Penh tandis que Mgr Paul Tep Im et Mgr André Lesouëf devenaient préfets apostoliques respectivement de Battambang et de Kompong Cham.
Au moins 250 000, chiffre communiqué par F. Ponchaud.
Situe sur la presqu’ile de Chrouy Chanvar, le séminaire construit en 1965-1966 existe toujours mais n’a pu être récupéré par l’Eglise, comme tous les bâtiments d’avant-guerre. L’ancien évêché de Phnom Penh est actuellement la mairie de la capitale. L’ancien petit séminaire abrite aujourd’hui la paroisse Saint-Joseph, appelée aussi Phsar Tauch, mais cet emplacement a du être racheté. L’Eglise au Cambodge n’a pu récupérer aucune de ses propriétés d’avant-guerre sans contrepartie et le séminaire de Chrouy Chanvar est actuellement une propriété privée.
Selon Mgr Ramousse (interview), « en 1970, pendant trois mois, le Séminaire devint un centre de réfugiés pour les catholiques vietnamiens qui voulaient quitter le Cambodge à la suite des pogroms antivietnamiens ». Le Père Ponchaud (interview) précise également que les moines du monastère bénédictin de la Mer Tranquille (Kep) sont venus s’y réfugier par la suite.
CELAC, session extraordinaire, 12-13 octobre 1968 à Vientiane.
CELAC, session de juin 1969 à Phnom Penh.
Tonlop Sophal fut envoyé au séminaire Saint-Irénée (Lyon, France) jusqu’à la fin de ses études et fut ordonné à Phnom Penh en 1995. Un Son fut envoyé au séminaire de Vienne (France) et rejoignit ensuite le séminaire de Battamang en 1992.
Ce chiffre de quatre jeunes hommes est donné par F. Ponchaud (2003, p. 31), lequel nous a précisé (interview) qu’il y avait Suon Hangly, Paul Lay (aussi appelé Wang), Phok Sovuthy et un jeune Vietnamien qui est ensuite parti à Fribourg (Suisse). Paul Lay et Pierre Soun Hangly ont été ordonnés prêtres en 2001. Phok Sovuthy a quitté le séminaire en avril 1992, au moment où le séminaire a été déplacé au Cambodge, à Battambang.
Ramousse Y. (1996), p. 68.
Ramousse Y., interview.
La préfecture apostolique de Battambang, érigée en 1968, a eu un prêtre local, Mgr Paul Tep Im Sotha, comme premier préfet. En 1992, le Père Dupraz était le seul prêtre de cette préfecture, dont Mgr Yves Ramousse était devenu l’administrateur apostolique le 21 décembre de la même année.
L’Association des Prêtres du Prado a été fondée en 1860 par le bienheureux Antoine Chevrier, prêtre du diocèse de Lyon, en vue de l’évangélisation « des pauvres, des ignorants et des pécheurs ». Ce sont des prêtres diocésains. Ils sont appelés par leur vocation à aller en particulier vers les pauvres et les non croyants, et à chercher à toujours mieux connaître le Christ et son Evangile. Ils se stimulent en ce sens au moyen d’une vie d’équipe, qui se réalise dans des rencontres régulières et, quand le ministère le permet, dans le cadre d’une vie commune. Institut séculier clérical de droit pontifical, l’Association des Prêtres du Prado dépend immédiatement et exclusivement du Saint-Siège pour son gouvernement et son organisation interne. Ses Constitutions renouvelées ont été approuvées par la Congrégation pour les Religieux et les Instituts séculiers le 7 juin 1987. Les Prêtres du Prado sont sous la pleine juridiction de leurs évêques. Les prêtres du Prado sont dans une cinquantaine de pays. Actuellement, quatre régions sont organisées en « Prado érigés », avec leurs assemblées particulières, leur responsable régional et leur Conseil. Elles ont la possibilité d’admettre à la première formation et aux engagements. Ce sont la France, l’Espagne, l’Italie et le Moyen-Orient. Il existe à Lyon un séminaire du Prado qui prépare des jeunes au sacerdoce dans l’esprit du P. Chevrier, en vue d’un ministère diocésain. (Source: http://lyon.catholique.fr/?Les-prêtres-du-Prado)
Ramousse Y. (1996), p. 68.
Cosme B., interview.
Selon le Père Ghezzi (interview), ce conseil a été créé en 2005 et comptait comme membres le Père Cosme, le Père Ghezzi, le Père Fidanza, Mme Salay Sangkhum et un autre membre dont le Père Ghezzi a oublié le nom.
Ghezzi, interview.
Ghezzi, interview.
Voici la liste des 25 jeunes entres au séminaire du Cambdoge entre 1991 et 2014: LAY Paul [1991-2001]; SOUN Hangly [1991-2001]; Phok Sovuthy [1991-1992]; UN Son [1992-2001]; NGET Viney [1992-2001]; HOM Sok [1997-1999]; CHAOM Saly [1997-1999]; VONG Thim [1998-1999]; LONG Somphoas [1998-1999]; HOURT Bora [1999-2004]; PITCH Neth [1999-2000]; NEP Tao [2001-2004]; SOK Na [2001-2015]; PHAN Borei [2001-2014]; MUONG Ros [2004-2014]; TOUCH Sitha [2004-2006]; SE Sat [2007-...]; SOK Khoeun [2013-…]; SAM Khian [2010-…]; KANN Vanna [2013-2015]; SOK Somnang [2014-…]; VEN Kan [2014-…]; YI Dara [2014-…]; PRAK Bunhong [2014-…]; HENG Sophat [2014-…]. Parmi ces 25 jeunes, on compte 13 Khmers, huit Vietnamiens, deux de parents l’un khmer et l’autre vietnamien et deux Montagnards; six ont été ordonnés prêtres et un diacre en vue de devenir prêtre; dix ont quitté le séminaire; huit continuent actuellement leur formation vers la prêtrise. Il faut remarquer la très forte proportion de Khmers mais une inversion récente s’est opérée puisqu’en 2014-2015, six des huit séminaristes sont d’origine vietnamienne, les deux autres étant khmer et montagnard. Les noms soulignés sont ceux des séminaristes qui ont été ordonnés prêtres sauf un dans cette liste, SOK Na, qui a été ordonné diacre le 17 juin 2014 et dont l’ordination presbytérale est prévue pour le 27 juin 2015.
Concile Vatican II, Ad Gentes, N° 16.
Optatam Totius n.1: « Etant donné la diversité si grande des peuples et des régions, il n’est possible de poser que des lois générales. Aussi établira-t-on dans chaque nation ou rite un « régime de formation sacerdotale » particulier, qui sera fixé par les conférences épiscopales, révisé à des temps déterminés et approuvé par le Siège apostolique. Les lois universelles, ainsi, seront adaptées aux circonstances particulières des lieux et des temps, afin que la formation sacerdotale réponde toujours aux nécessités pastorales des régions où le ministère doit être exercé. »
CELAC (1964-1975), compte-rendu de la réunion de la CELAC juin 1969, à Phnom Penh, p. 9.
CELAC (1964-1975), compte-rendu de la réunion de la CELAC octobre 1968, à Vientiane, p. 6.
Cf. la liste des interviewes en note 5.


Bibliographie
Annat, G. & Delux, L. (2008). La jeunesse cambodgienne entre rêve, pragmatisme et désenchantement. In A. Forest (Ed.), Cambodge contemporain (p. 317-361), Paris: IRASEC Les Indes Savantes.
CELAC (1964-1975), Compte-rendus des Reunions de la Conference Episcopale Laos-Cambodge (CELAC). 1964-1975.
Crochet, S. (1997). Le Cambodge. Paris: Karthala.
Demont, F.-X. (Oct 2014), Des défis pour le Cambodge. In Missions Etrangères de Paris n. 498, p. 16-20.
Filippi, J.-M. (2008), Recherches préliminaires sur les langues des minorités du Cambodge, Phnom Penh: Funan / Unesco.
Forest, A. (1992). Le culte des genies protecteurs au Cambodge. Analyse et traduction d’un corpus de textes sur les neak ta. Paris: L’Harmattan.
Molac, P. (2014), Panorama historique de l’evolution de la formation des candidats au presbyterat. In Pelchat, M. (Dir.), La formation presbyterale aujourd’hui (pp. 35-52), Montreal: Novalis.
Ponchaud, F. (Oct 2014). Cambodge 2014, la situation politique et sociale. In Missions Etrangères de Paris n. 498, p. 8-15.
Ponchaud, F. (2003). The Church in Cambodia Facing the World (1992-2002). Phnom Penh: Cambodian Catholic Cultural Center.
Ponchaud, F. (2006). La cathedrale de la riziere. Histoire de l’Eglise au Cambodge. Tours, Editions CLD. 2e edition.
Poree-Maspero, E. (1962), Etudes sur les rites agraires des Cambodgiens, Paris/La Haye: Mouton, vol. 1; vol. 2 et vol. 3.
Procheasas (2005), Cambodge, population et societe aujourd’hui, Paris: L’Harmattan.
Ramousse, Y. (1996). A Church is Reborn: Evaluation of a Pastoral Approach. In Ponchaud, F. (2003). The Church in Cambodia Facing the World (1992-2002). Phnom Penh: Cambodian Catholic Cultural Center, pp. 67-78.
Ramousse, Y. (2009). The Missions Etrangeres in Cambodia. In Moussay, G. (Ed.), The Missions Etrangeres in Asia and the Indian Ocean (pp. 27-47), Paris: Les Indes Savantes.


(Source: Eglises d'Asie, le 26 novembre 2015)
 
Cambodge: Itinéraire du Père Suon Hang-ly : une histoire cambodgienne
Eglises d'Asie
12:34 26/11/2015
26/11/2015 - Pierre Suon Hang-ly est Cambodgien. Né en 1971 au village de Kbal Koh (ce village a aujourd’hui disparu à cause du Mékong qui grignote le terrain) dans la province de Kandal, sur la rive du Mékong opposée à Phnom Penh, il est prêtre de l’Eglise catholique depuis le 9 décembre 2001. Arrivé à Paris en 2007 pour y faire des études, il retournera cette année dans son pays.

Son témoignage, exceptionnel, donne à voir la vie d’un Cambodgien qui a traversé tout jeune enfant la guerre, le régime des Kh
mers rouges puis l’occupation vietnamienne. Il donne à voir son périple, des confins de son pays aux camps de réfugiés en Thaïlande, puis son retour au Cambodge. Il donne à voir son cheminement spirituel, du bouddhisme vécu auprès de son père à sa conversion au christianisme et à l’appel au sacerdoce.

Un témoignage rare, recueilli à Paris au printemps 2015 par le P. Bernard Jacquel, MEP, et paru initialement dans la Revue MEP (n° 505 et 506 de mai et juin 2015).

« J’avais 4 ans quand les Khmers rouges sont arrivés au pouvoir. Tous les habitants de Kbal Koh, le village dont je suis originaire, ont été déplacés. Ma famille a dû se rendre dans le district de Phnom Srok, au village de Nam Tao, près de la frontière thaïlandaise.

Nous étions quatre enfants, tous des garçons, j’étais le plus jeune, l’aîné de mes frères avait 14 ans, le second en avait 12 et le troisième 8. Mes grands-parents qui vivaient avec l’une de mes tantes dans une autre maison du village étaient avec nous, une autre famille faisait partie du même convoi, nous devions être une vingtaine de personnes à partir dans cette direction tandis que les autres villageois étaient envoyés ailleurs. Nous, nous avons pris le train qui de Phnom Penh rejoignait Sway Sisophon en passant par Pursat et Battambang.

De ce qui nous est arrivé, je n’ai pratiquement jamais parlé, certains missionnaires m’avaient pourtant suggéré de le mettre par écrit, mais je n’ai jamais voulu le faire... J’étais un enfant trop petit pour comprendre et pour avoir peur de ce qui se passait du moment que mes parents et mes aînés prenaient soin de moi. Ce dont je me souviens ne forme pas une histoire suivie mais se rappelle à moi à travers quelques images. La peur, je ne l’ai connue que plus tard.

Nous laissions donc notre village en n’emportant que peu de choses avec nous. Mon père, je l’ai su plus tard, avait fait disparaître certains papiers qui auraient pu le compromettre aux yeux du nouveau pouvoir. Comme il était pêcheur, il avait emporté son carrelet.

Quand nous sommes arrivés à destination, on nous a attribué une maison dans un hameau: elle n’était pas neuve; elles avaient été habitées comme toutes ses voisines mais leurs occupants, tout comme nous, avaient été envoyés ailleurs. Nous allions devoir vivre là pendant trois ans huit mois et vingt jours...

Très vite, mes trois frères aînés ont dû partir, affectés à une autre unité de travail je ne sais où et je suis resté seul avec mes parents.

De ces premiers jours je me rappelle seulement un grand préau où on avait rassemblé une foule d’enfants. Combien étions-nous, je ne saurais le dire, plusieurs centaine de petits. Il y avait un tableau noir, je ne le voyais que de loin par dessus la tête des autres... Quelqu’un y a écrit ou dessiné quelque chose, je serais bien en peine de dire quoi... On nous a parlé longtemps et je n’ai rien compris à ce qui se disait, j’étais trop petit et perdu au milieu de tous ces enfants, je n’avais envie ni d’écouter ni de regarder quoi que ce soit. Il n’y a pas eu d’autres rassemblements du même genre; après, on nous a donné du travail.

Nous partions en groupe en forêt pour couper une herbe à longue tige qu’on appelle antrean khet, nous la coupions en tronçons et on la mettait dans de grandes fosses où elle pourrissait pour fournir de l’engrais.

La faim, la peur au ventre

Je me rappelle aussi les travaux de la moisson du riz – de novembre à mars où nous allions aider à rassembler les épis, et l’une de mes frayeurs: un jour avec quelques gamins de mon âge, nous avons ramassé en cachette des épis qui traînaient dans la rizière après la récolte et j’ai vu arriver des soldats, des enfants de 13 ans armés de fusils, je tremblais de peur et nous sommes allés nous cacher dans des buissons. Nous avions faim.

Au début de notre séjour, nous avions reçu une mesure de riz par jour, ce qui suffisait à notre famille, mais un peu plus tard, cette mesure avait été réduite de moitié, et plus tard encore nous ne recevions plus rien du tout, les repas étaient devenus collectifs... Il y avait des champs autour de la maison, du riz, du manioc mais il était interdit d’y toucher... Nous allions chaparder quelquefois.

Mes parents partent le matin au lever du jour et sont absents toute la journée, occupés à des travaux collectifs dont j’ignore tout. Au Cambodge, proche de l’équateur, la durée des jours et des nuits est à peu près égale tout au long de l’année. Ils reviennent un peu avant la nuit, vers cinq heures et demie. Les repas du soir aussi sont devenus collectifs: on les prend sous un préau. Ma mère, pendant les deux premières années, faisait partie des cuisinières, elle faisait attention à moi et j’ai eu plus de chance que bien d’autres à ce moment-là.

La deuxième année, on mange encore le soir en famille. La dernière année, midi et soir, on n’avait plus qu’une soupe de riz salée et nous rentrions à la maison avec la faim au ventre; une fois chez nous, nous partagions le peu de nourriture que mes parents avaient pu trouver durant la journée.

Je me rappelle un de ces repas du soir, à l’époque où les rations de riz étaient devenues insuffisantes. J’ai fini ma part, mais j’ai encore faim: ma mère me donne de la sienne.

Mon père va puiser de l’eau à la mare. Il réussit à rapporter, sans se faire voir, des pastèques qui poussaient là au milieu... Je suis en train d’en manger, j’en ai la bouche pleine, quelqu’un vient à notre porte: pris de panique à l’idée que nous soyons découverts, je veux avaler ma bouchée et je m’étrangle... il faut attendre que le visiteur s’éloigne pour que ma mère accoure et glisse son index au fond de ma gorge.

La nuit, la maison n’est éclairée que d’une seule lampe à huile de poisson: c’est un vieux petit bol ébréché avec un peu d’huile de poisson, d’où émerge la mèche. Quand on a fini de manger, je vais dormir sur le bat-flanc. Mes grands-parents et ma tante vivent dans une maison voisine de la nôtre...

Que faisaient mes grands-parents pendant la journée ? Je ne m’en souviens pas. Je me revois un soir aller porter des feuilles de bétel à ma grand-mère qui chiquait ! On se voyait les uns chez les autres avant que le soleil se couche mais après chacun restait chez soi.

Tous les jours sont pareils. Il y a des fêtes nationales: ces jours-là, on fait de la musique et du théâtre, mais rien qui me fasse vraiment envie comme une fête qu’on attend. Je ne savais pas grand chose des fêtes.

La dernière année, mon frère avait été pris par des soldats en train de ramasser des pousses de manioc; elles avaient été arrachées en bottes dans un champ voisin par des gens qui en avaient laissé tomber une partie sur leur chemin: mon frère avait été tabassé et s’était enfui. Après cela, il est resté caché dans un manguier et je me revois allant lui apporter de la nourriture, il reste caché jusqu’à l’arrivée des Vietnamiens qui ont mis fin à notre exil.

Maintenant, nous sommes « libres », nous allons pouvoir retourner chez nous ! Mais avant de partir, mon père et mes deux aînés qui ont maintenant 17 et 15 ans vont régler leurs comptes avec celui qui jusque-là a été le chef du village et qui maintenant n’était plus rien ! Trois ans plus tôt, mon père avait emporté de chez nous les quelques affaires que nous avions pu prendre: son filet de pêche, vous savez, ce carrelet que le pêcheur une fois entré dans l’eau déploie devant lui... Le chef du village avait réquisitionné et détenait chez lui ce précieux outil de travail qui en route allait nous être bien utile.

Le retour

Nous avons rassemblé nos affaires et un matin nous sommes partis, mes parents, mes frères et moi, ma tante et mes grands-parents et d’autres gens encore. Nous quittons le village par un petit chemin de terre, nos ballots sur le dos, nos hardes, nos nattes, des seaux et un peu de vaisselle. Et le filet... Il fallait aussi porter les grands-parents...Et faire très attention: on entendait le bruit des bombardements et des armes, nous devions souvent nous cacher dans les fossés près des rizières. J’ai vu des cadavres le long du chemin.

Nous avons ainsi rejoint la route nationale où, à cette époque de guerre et de débandade, il y avait de la circulation. Les adultes ont fabriqué des chariots avec ce qu’ils ont trouvé aux alentours: des roues, des planches, nous avons mis nos affaires dessus et en route... Nos familles se sont séparées: ma tante et mes grands-parents sont partis de leur côté et nous du nôtre. On m’a mis sur le chariot avec les affaires et les quatre hommes de la famille se mettaient tour à tour dans les brancards pour tirer. Le soir, on bivouaque, on dort à proximité de la route, le filet de mon père est un précieux atout, il y a de l’eau et des poissons partout au Cambodge ! Ma mère, qui avait réussi à cacher quelques bijoux pendant notre exil, s’en sert comme monnaie d’échange. Il n’y a pas d’autre monnaie en circulation à cette époque-là; quelquefois, on mendie.

Nous sommes ainsi allés à pieds des abords de la frontière thaïe jusqu’à Siem Reap. Ma mère avait les pieds tout écorchés à force de cheminer sur l’asphalte. Nous avons dormi plusieurs nuits à proximité des douves d’Angkor Vat où nous allions à la pêche... Mes frères faisaient de la récupération, ils ramassaient tout ce qu’ils trouvaient et pouvait s’échanger contre de la nourriture. Avec mes frères, j’ai découvert les temples: je vois encore courir les Viêts de haut en bas des marches escarpées du sanctuaire central d’Angkor Vat ! Moi, avec mes petites pattes, j’avais peur de m’y aventurer !

Nous avons repris la route après une ou deux semaines. Nous avons été pris en charge par des soldats Viêts qui nous ont conduits en camion jusqu’à Kompong Thom.

De tout cela, je crois que pas plus mes frères que mes parents n’ont jamais raconté grand chose... Des années plus tard, en 2004, avec mes frères, j’ai eu l’occasion de retourner à Siem Reap et de remonter jusqu’à la frontière, jusqu’au village où nous avions vécu, nous n’avons pas retrouvé notre maison d’exil mais nous avons retrouvé deux familles que nous avions connues, et là, pour la première fois – j’avais donc plus de trente ans d’âge – j’entendais parler des événements qui avaient bouleversé notre vie. Vous me poussez à vous en parler à mon tour. Des missionnaires MEP m’avaient demandé eux aussi d’écrire ce qui nous était arrivé mais jamais je n’avais voulu en écrire une ligne !

Nous sommes donc arrivés en camion à Phnom Penh. C’était l’année 1980. Nous avons vécu trois mois dans le quartier de Boeug Tompong. Nous nous sommes fabriqués une maison avec des planches et des tôles ondulées ramassées ici et là. Mes frères sillonnaient la ville pour ramasser ce qui traînait: les vieilles machines à coudre étaient très recherchées, les pendules aussi ! Encore fallait-il qu’ils ne se montrent pas trop car les Viêts s’étaient réservé le secteur de la récupération. Ces trouvailles s’échangeaient contre du maïs, du blé. Mais le riz était rare. Nous ne mangions pas à notre faim, nous étions faibles. Je restais souvent assis dans un coin, las, anémié.

Nous avons eu la variole, mes frères et moi, nous allions nous plonger dans le marigot pour calmer notre fièvre et nos démangeaisons. C’est à ce moment-là que j’ai appris à nager. Un jour, j’ai dû avaler une potion qui, paraît-il, devait me guérir: elle était faite de vers de terre et de feuilles de la plante qu’on appelle « langue d’éléphant » le tout pilé avec de l’eau...

Il y avait une île en face de Phnom Penh, sur le Mékong, Chbar Ampov (‘le champ de canne à sucre’) qui est aussi le nom d’un marché. Nous avons traversé avec nos hardes et nos planches. Là, mon père va à la pêche, ma mère vend le poisson en échange d’autres nourritures. Après trois mois, nous décidons de gagner l’autre rive du Mékong et de retourner nous établir dans notre village, à Kbal Koh, d’où nous étions partis en 1975. Nous avons assemblé toutes les planches que nous avons pu pour fabriquer un radeau, nous avons mis dessus toutes nos affaires. Mes frères avaient trouvé de l’aide et des nageurs pour pousser notre embarcation à travers le fleuve et la guider dans sa traversée; ce devait être en mars ou avril 1981, quand les eaux sont calmes, que le courant n’est pas trop fort.

Arrivés au village, nous n’avons pas pu récupérer ce qui nous avait appartenu et ni terrain ni maison n’étaient disponibles pour nous établir... Alors nous avons repris notre lente navigation en remontant le fleuve jusqu’au village de Pôthom. Là, le chef du village nous a attribué une maison et un petit terrain autour ainsi que deux petites rizières insuffisantes pour nos besoins, mais nous nous sommes mis à cultiver quelques légumes, nous avions des poules qui couraient autour de la maison; ma mère ne vend pas leurs œufs, elle les leur laisse couver, elle ne vend que la volaille. Elle fabrique aussi pour les vendre, des nouilles nombagnchok, à base de riz... Elle s’est procuré une vieille machine à coudre qui lui sert bien.

Je suis allé pour la première fois à l’école alors que j’avais 8 ans passés. Nous n’avions classe que le matin... Pour la première fois, j’ai ouvert un livre (sous le régime des Khmers rouges, on n’en voyait plus aucun). J’ai enfin appris à écrire ma langue.

Et c’est à cette époque qu’on a vu se rétablir l’usage de la monnaie. Mon père, pendant tout un temps, vend de la glace pilée: il a un appareil à manivelle, elle réduit la glace en paillettes, ça fait un petit tas qu’on arrose de sirop, les enfants aiment ça et en achètent pour quelques riels.

Il s’occupe de la rizière: semailles en décembre, repiquage en janvier et moisson en mai et juin. C’est une région où on plante du riz par période de trois mois; par contre, dans beaucoup de provinces du pays, on commence les semailles en juin et juillet, repiquage en août- septembre, moisson à partir de novembre. Quant à la pêche dans le Mékong, c’est également une activité saisonnière, de décembre à mars, mais même en saison on ne pêche que quinze jours d’affilé dans le mois. Nous pêchons aussi dans les lacs, on peut y pécher tout le temps. En période de hautes eaux, quand l’eau forme de vrais lacs, on prend une barque; en basses eaux, on va à pieds d’un point d’eau à un autre. On met les filets en place dans l’après-midi et on va les retirer vers trois ou quatre heures du matin. Au petit matin, on va vendre le poisson au marché. Il m’est arrivé ainsi de passer la nuit tout seul sur ma barque, c’était plus tard.

Mon frère aîné est parti. Nous sommes en 1982, la période est trouble, nous vivons sous le régime des Viêts qui occupent notre pays, qui combattent les Khmers rouges et qui nous imposent des règlements humiliants: par exemple, il nous est interdit de faire et d’écouter notre musique traditionnelle. L’Histoire qu’on nous enseigne est celle du communisme. Pour les études supérieures, c’est en vietnamien ou en russe uniquement qu’elles se font. Mon frère aîné est trop âgé pour aller à l’école et il est alors soumis au service militaire; il doit aller faire la guerre dans l’armée vietnamienne. Pour y échapper, il se cache. Il passera la frontière, ira se réfugier dans un camp en Thaïlande. Il y restera jusqu’en 1992.

Le second de mes frères est allé à l’école, mais, en 1987, il a fini ses études et il est soumis également au service militaire. Il est assez malin pour éviter d’aller faire la guerre avec les Vietnamiens; il apprend à conduire et devient chauffeur de camion.

Mon troisième frère quitte l’école à son tour en 1988. Des trois, c’est le plus débrouillard. Tout comme le second, il ne s’éloignera pas de Phnom Penh. Ils auront la possibilité de revenir assez souvent à la maison où ils continuent d’aider nos parents. Je travaille bien sûr avec eux depuis plusieurs années. En 1989, j’ai mon certificat de fin d’études, je quitte l’école. J’ai 19 ans. Je vais moi aussi faire ma vie.

Depuis que nous sommes libres chez nous, nous pouvons exprimer notre appartenance religieuse au grand jour et reprendre nos pratiques traditionnelles. C’est pour moi une découverte que ce monde de la religion entièrement réprimée sous le régime des Khmers rouges. J’ai observé, depuis que nous sommes rentrés chez nous, les usages de la pagode. Je suis Khmer et donc bouddhiste. Pour acquérir des mérites, je fais les offrandes matinales aux bonzes. J’ai appris tout cela. Un jour, ma mère me recommande d’aller à l’église. J’apprends qu’elle est chrétienne, que je suis moi-même baptisé, que mon frère aîné l’est également (tandis que les deux cadets ne le sont pas). Y a-t-il, me demandé-je, une religion qui puisse égaler le bouddhisme en importance ?

Il faut se souvenir que le régime des Khmers rouges sous lequel j’avais grandi avait supprimé toute activité, toute manifestation, tout signe religieux: les pagodes – chaque village a la sienne – avaient été affectées à des usages profanes (stockage du riz, lieu de rassemblement); les bonzes avaient été embrigadés comme le reste de la population dans des unités de travail et avaient disparu de notre paysage. Ce fut seulement à partir de 1982 qu’on revit leurs toges safran. Moi qui n’en avais gardé aucun souvenir, je les découvrais ainsi que la place traditionnelle, centrale, de la pagode parmi nos enclos. Mon père avait recommencé à pratiquer sa religion et je le suivais à la pagode. Ainsi je devins simplement et comme naturellement un bouddhiste fidèle et je n’imaginais pas un instant de devenir autre chose...

Chrétien

En 1989, un prêtre américain des Maryknoll – venu au Cambodge au sein de l’une des nombreuses ONG qui s’efforçaient de soulager la misère du pays et qui parlait khmer – venait dire la messe dans une paroisse viêt proche de chez nous. On voyait aussi, paraît-il, deux catéchistes, des Khmers – j’ai appris plus tard qu’ils étaient envoyés par Emile Destombes (MEP). Ma mère ainsi que ma tante les connaissaient et, se rappelant les pratiques de leur foi chrétienne, avaient sans que j’y prenne garde repris le chemin de l’église. C’est à ce moment-là que ma mère m’apprit que j’étais baptisé et me poussa à m’y rendre moi-même. Il y avait tout au plus un kilomètre à faire pour cela.

C’est ainsi que j’ai connu les chrétiens et compris que je leur appartenais. Je m’étais fait connaître comme l’un des leurs sans savoir exactement ce que voulait dire être baptisé, et j’ai suivi régulièrement un catéchisme... En fait, il n’y avait pas de bâtiment d’église, juste une maison comme les autres où se tenaient les assemblées, avec les Viêts qui disaient les prières dans leur langue. Mais la messe se célébrait en khmer.

L’année suivante, en 1990, la communauté des chrétiens du Cambodge put enfin exprimer publiquement et librement son adhésion à l’Eglise: pour la première fois depuis 1975, elle a pu se réunir en nombre, le jour de Pâques de cette année-là. Comme tous les lieux de culte chrétiens avaient été systématiquement détruits par les Khmers rouges et les très rares restés debout avaient été spoliés, cette grand-messe de Pâques nous rassembla dans une salle de cinéma empruntée pour la circonstance. Je me rappelle ma joie de ce jour-là. J’avais reçu peu de temps auparavant le sacrement de réconciliation et communié pour la première fois.

Mais à Noël 1990, comme je quittais la paroisse et la fête après la messe de la nuit (je me souviens qu’on nous avait projeté une vidéo, grande attraction pour nous tous !), j’ai été arrêté par des soldats. Ils m’ont emmenés, coincé entre deux d’entre eux sur une pétrolette, jusqu’à une caserne, un centre d’entraînement. J’y ai été enfermé trois jours avec d’autres qui avaient été raflés tout comme moi. Ainsi j’étais pris et bon pour le service militaire dans l’armée viêt.

Comme je vous l’ai dit, le second et le troisième de mes frères Ros Sochea et Ros Sichoeun étaient soldats: ils se sont arrangés pour me faire libérer. Ros Sichoeun connaissait quelqu’un à Chrui Changwar, la pointe de terre en face de Phnom Penh où se rejoignent le cours du Mékong et du Bassac. Cet homme-là était fonctionnaire: c’est à lui qu’on m’a confié pour une opération risquée... Il s’agissait ni plus ni moins que de me faire passer clandestinement en Thaïlande, tout comme mon frère aîné qui s’y trouvait réfugié depuis 1982 et dont nous n’avions depuis aucune nouvelle.

Fugitif

Voici comment je suis parti. Ma mère m’avait donné de l’argent pour payer les passeurs et subvenir à mes besoins: 40 dollars américains, ce qui représentait une belle somme: pour ce prix-là, on pouvait s’acheter une machine à piler la glace et gager sa vie avec ! ou encore nourrir toute une famille pendant un mois.

Le fonctionnaire que Ros Sichoeun connaît m’accompagnera jusqu’à la frontière. Nous nous rendons à la gare de Phnom Penh, nous prenons le train qui, à vitesse très lente, nous amène à Pursat, à 160 km. Il fait nuit quand nous arrivons. Au petit matin suivant, on nous fait monter à l’arrière d’un camion bâché. Nous sommes tout un groupe entassé là-dedans, nous allons en Thaïlande pour des motifs divers, la plupart pour y faire des affaires, quelques-uns comme moi cherchant à fuir leur pays sous domination viêt... J’avais la peur au ventre et je priais, faisant le vœu de servir l’Eglise... Les routes étaient défoncées et il nous a fallu encore une journée complète pour aller de Pursat à Battambang, à 120 km environ. Là, mon guide me conduit chez un autre fonctionnaire qu’il connaît et nous passons la nuit. Le jour d’après, nous reprenons le train qui nous amènera près de la frontière, à Svay Sisophon où nous arrivons un peu avant la nuit: ce jour-là, nous avons fait environ 80 km. A la descente du train, nous prenons une carriole à cheval et nous arrivons au village de Nimet pour la nuit. Je trouve là une dizaine de personnes qui tout comme moi se préparent à passer clandestinement en Thaïlande et à rejoindre les camps de réfugiés.

Le lendemain matin, je me vois enturbanné de mon krama (foulard en coton typique du Cambodge), une palanche à l’épaule, à transporter des corbeilles de poissons séchés... Je peux passer facilement pour l’un de ces paysans qui essaient de vendre comme ils peuvent leurs produits le long des chemins. Notre petite troupe marche à la queue leu-leu... Dans ce temps de précarité et de débrouille, nos dégaines ne peuvent surprendre personne... Nous allons ainsi toute la journée, sur une piste dont nous prenons grand soin de ne pas nous écarter car les terrains dans la région sont infestés de mines... Quelquefois on rencontre un soldat, il nous arrête et nous laisse passer moyennant le tribut de quelques cigarettes.

Nous arrivons ainsi à la frontière. Là, une femme me repère qui connaît ma famille et me reçoit chez elle. C’est à ce moment-là que mon guide depuis Phnom Penh me quitte et poursuit sa route. Je vais passer toute la journée dans ce hameau tranquille. Ma protectrice m’a trouvé une place à bord d’un véhicule avec les autres réfugiés. Un camion bâché vient nous prendre à la nuit tombée; nous y restons debout à l’arrière accrochés des deux mains aux barres du plafond. Le passage de la frontière se fait sans difficulté. Nous débarquons en Thaïlande en pleine nuit, au camp de réfugiés de Site II. C’était dans les premiers jours d’avril 1991.

Réfugié

Un homme m’accueille d’abord chez lui pour le reste de la nuit. Le matin, je découvre le camp, le fouillis à perte de vue de centaines de cabanes de bambou et de feuillages... Je vais recherche mon frère. Moyennant un peu de monnaie – j’avais pu échanger quelques-uns des dollars de ma mère contre de la monnaie thaïe –, je me fais transporter d’une venelle à l’autre, sur le porte-bagage d’un vélo. Je finis par tomber sur quelqu’un qui connaît l’un de mes cousins appartenant au comité d’entraide dans l’une des paroisses du camp. Et c’est ainsi, à la fin de la journée, que je vois arriver sur leur vélo mon frère que je n’avais revu depuis presque dix ans et sa femme, ma belle-sœur. Il m’emporte sur son porte-bagage.

On m’a donné des bons d’achat qui me permettent d’avoir de la nourriture. Qu’est-ce que je fais au long de ces premiers jours ? Le matin, j’aide à la corvée d’eau, je fends du bois pour le feu domestique, bref, j’essaie de me rendre utile à la maison; ma belle-sœur m’emmène pour me présenter aux gens qu’elle connaît. Pendant ce temps-là, mon frère gagne un peu d’argent en faisant le vélo-taxi. Et puis je me rends dans l’une des deux paroisses du camp, celle de Nongchian.

C’est trois mois plus tard que je fais la connaissance de Bernard Dupraz, un prêtre fidei donum du diocèse de Chambéry; par son intermédiaire, je vais bientôt rencontrer les Pères Robert Venet et François Ponchaud (MEP) et Sœur Gilberte... Avec eux travaille un séminariste, David: il m’apprendra mes tout premiers mots de français... Tout ce monde vit ordinairement à quelque distance du camp, à Aragn, à une heure de voiture. Nous, nous ne pouvons pas sortir du camp qui est ceint de barbelés, mais eux ils viennent régulièrement parmi nous et c’est par leur intermédiaire qu’on a des nouvelles de l’extérieur mais pas du Cambodge.

Vocation

« J’ai entendu dire que vous aimeriez devenir prêtre »: c’est la deuxième fois qu’on me fait cette réflexion à peu près dans les mêmes termes ! La première fois, c’était ma tante, au Cambodge, et la seconde ici, au camp. Prêtre ? A ce moment-là, je n’y pensais pas et cette curiosité me paraissait déplacée. Pourtant je ne pouvais plus faire taire la question, elle me revenait sans cesse. Au bout de trois mois, c’était en août, il m’a semblé que je pouvais répondre.

C’est ainsi qu’en septembre, ayant déclaré mon intention, je fais la connaissance de Vothi, qui lui aussi pensait au sacerdoce. Nous avons fait ensemble une cabane de bambou qui nous servait à tous les deux. Lui, il travaillait au camp, dans une association des Pères de Maryknoll, qui s’occupait des personnes âgées. Moi, je continuais à étudier le français grâce à un autre réfugié qui me l’enseignait et puis j’étais bien engagé à la paroisse: je faisais du catéchisme, j’animais la liturgie, y compris en l’absence de prêtre, je me suis mis aussi à commenter l’Evangile... Cette expérience de prédicateur ne m’a pas toujours fait que des amis ! Il m’est arrivé de reprocher à la communauté son comportement quand les dimanches où le prêtre ne pouvait venir, beaucoup de ses membres négligeaient de se rassembler ! Ou de reprocher au comité d’entraide son manque d’équité... Et tout ça ne plaisait pas non plus à mon frère.

Libre !

En novembre, notre cabane a reçu un nouvel occupant, Paul Lay. Nous resterons ensemble jusqu’en avril de l’année suivante, c’est-à-dire jusqu’au jour où il nous a enfin été permis de rentrer chez nous, après les accords de Paris sur le Cambodge: nous étions libre. Nous pouvions enfin rentrer libres chez nous; nous sommes alors partis tous les trois et nous avons fait route comme nous avons pu jusqu’à Battambang: nous y étions pour Chaul Chnam Thmey, les trois jours du Nouvel An khmer, du 13 au 15 avril. C’était la fête !

Puis nous rendons à Phnom Penh où nous sommes reçus par le P. Emile Destombes à la Caritas Cambodge, près du stade olympique. C’est à ce moment là que Vothi nous quitte... Viney se joint à nous un peu plus tard.

Peu de temps après, nous sommes de retour à Battambang où est affecté Bernard Dupraz, qui reste notre responsable. Nous louons une maison, David est là aussi avec Sœur Gilberte.

Le temps du séminaire

En 1993, Unson se joint à notre groupe: il revenait du Canada où il avait réussi à se réfugier depuis la Thaïlande, peu après l’arrivée au pouvoir des Khmers rouges, et là, pendant trois ans, il avait été bonze. Ensuite, il était parti pour le Canada où il avait reçu le baptême. Et voilà que lui aussi pensait à devenir prêtre... C’est ainsi qu’a commencé notre séminaire: David nous enseignait le français et la musique. Bernard Dupraz assurait la direction spirituelle. Nous n’avions pas de livres: Bernard utilisait sa bibliothèque et traduisait pour nous des passages du Concile Vatican II.

Cette année-là, Gilberte part pour Phnom Penh. David était retourné en France et avait été remplacé par d’autres volontaires qui avaient pris sa succession auprès de nous.

En 1994, nous déménageons dans l’ancienne maison des Sœurs de la Providence de Portieux, qui avait été confisquée et que l’Eglise a rachetée.

En 1995, Sok et Sokly partagent notre existence: nous sommes six séminaristes.

Les cours s’organisent: Bernard Dupraz nous enseigne la théologie, François Ponchaud l’Ecriture Sainte, un jésuite, Jean-Marie Bersain, assure la formation générale et la philosophie... Un professeur laïc vient nous donner des cours de biologie.

La messe quotidienne est à 6 heures. Le matin, nous allons faire les courses au marché. Pour tenir la maison, nous formons trois binômes qui prennent leur tour de semaine: préparation des repas, vaisselle et nettoyage. Les cours ont lieu de 9 à 11 h.

Les samedis et dimanches, chacun de son côté, nous allons dans les communautés chrétiennes: nous faisons du catéchisme aux enfants, rencontrons les catéchumènes adultes; il nous arrive d’assurer la présidence de la prière en l’absence des prêtres et de commenter l’Evangile au cours des assemblées dominicales. Nous allons rendre visite au gens chez eux. Nous transportons des malades nécessiteux à Battambang pour les soins.

En 1996, nous sommes neuf séminaristes. Mais certains s’en vont bientôt.

En 1998, le séminaire quitte Battambang pour s’établir à Phnom Penh. C’est le P. Omer, un missionnaire colombien, qui devient notre supérieur. Le P. Bruno Cosme, MEP est le directeur spirituel... La vie nous semble à ce moment-là plus facile: nous bénéficions de 12 dollars par mois d’argent de poche et nous avons une cuisinière, alors plus de courses à faire ni de repas à préparer !
Nous disposons enfin d’un bréviaire en khmer traduit par Bruno, nous continuons aussi de le dire en français.

Les cours nous sont assurés maintenant par le P. Omer, Bruno et François Ponchaud, par le P. Ashley, un jésuite irlandais, par un Khmer, professeur à l’université qui enseigne la philo... Le Père Michel Trimaille (MEP) viendra de Paris pour des sessions sur l’Evangile de saint Marc. Nous prenons cinq heures de cours de français hebdomadaires à l’Alliance française.

Nous restons quatre au séminaire, Paul Lay, Viney, Unson et moi-même, et nous sommes ordonnés diacres en juin 2001. Ensuite, je passe six mois avec l’Ancien, Robert Venet, devenu le curé de Sihanoukville... Moi le jeune, je jouais de la guitare ce qui attirait du monde !

Nous avons été ordonnés prêtres le 9 décembre de la même année par Mgr Emile Destombes, devenu évêque de Phnom Penh en 1997: belle et grande fête en plein-air sous de vastes auvents de toile, dans la cour de la paroisse principale de Psatouch. Je suis envoyé à Kampot pour collaborer avec le P. Olivier Schmitthaeusler dans son secteur: nous nous partagerons le travail pastoral pendant cinq ans dans les nouvelles communautés chrétiennes qui éclosent dans la région.

Etudiant à Paris

En 2006, Paul Lay est envoyé en France pour compléter ses études, Viney le suit l’année suivante et moi je les rejoints en 2007. Viney a des ennuis de santé et doit interrompre ses études en 2008, Paul a terminé sa maîtrise (pastorale catéchétique) en 2009 et moi je suis toujours ici ! Je retournerai cette année au Cambodge, après avoir soutenu mon mémoire de maîtrise, je suis en train d’en terminer l’écriture... c’est long et laborieux ! Mon sujet ? « L’Amour de Dieu, source de Vie chrétienne selon la spiritualité de saint François de Salle ».

Accompagner le travail du Bon Berger

Des Khmers se convertissent comme je l’ai fait. Parmi les nouveaux baptisés, il y en a beaucoup qui s’éloignent sans bruit de la pratique communautaire... Comment aider les Cambodgiens à approfondir la foi qu’ils ont accueillie ?

Comment, Cambodgien venu du bouddhisme, comprendre la foi de Jésus ? Comment passer de cette conception du « mérite » qui soutient la pratique des bouddhistes à l’accueil de la grâce, de cette gratuité de Dieu sans mérite de notre part ? Comment passer d’une croyance en la réincarnation qui permettrait d’envisager après cette vie-ci, une reprise meilleure de la vie, à condition qu’on la mérite, comment de cette croyance en la réincarnation passer à la foi en la résurrection ?

Comment, en khmer, parler de l’amour du Père ? Il y a des pères qui maltraitent leurs enfants, certains qui vendent leurs filles pour de l’argent: cela se voit dans un pays aussi pauvre, aussi éprouvé que le mien. La conscience culpabilisante du jeu, du vol m’est venue assez tôt en raison de la vie que j’ai dû mener... Les gens qu’on abandonne à eux-mêmes, ceux qu’on laisse mourir comme ça, et la débrouille pour s’en tirer, la peur pour soi... Alors, à ceux qui ont cette expérience de la vie et cette mémoire, comment parler de l’amour de Dieu, source de la vie chrétienne... Comment parler d’une vie qui ne serait pas seulement une vie pour soi mais une vie pour les autres que Dieu Père aime tout autant que nous ?

Moi-même, venu dans mon adolescence à cette idée qu’il fallait accumuler des mérites, j’ai réalisé assez vite que cette accumulation n’est pas ce qui sauve... La conscience du péché avec la reconnaissance sans peur d’un Dieu qui pardonne et de la parole qui guérit – j’ai une dette envers Lui –, c’est cela qui sauve.

Enfin, dans le camp en Thaïlande, il y avait des étrangers qui prenaient soin des gens, mais pourquoi pas des Khmers aidant d’autres Khmers ? Et si on ne commence pas tout de suite, quand est-ce qu’on s’y mettra ?... C’est au camp que j’ai décidé que j’accompagnerais le travail du Bon Berger pour aider les Khmers à vivre et à suivre son bon chemin… »

Propos recueillis par le P. Bernard Jacquel, MEP
Brève chronologie du Cambodge (1970-1991)
18 mars 1970: un coup d’Etat, organisé par le général Lon Nol, destitue Norodom Sihanouk, chef de l’Etat, qui s’exile à Pékin. La monarchie est abolie. La République sera proclamée le 9 octobre.
17 avril 1975: les Khmers rouges, dirigés par Pol Pot et Khieu Samphan, entrent dans Phnom Penh et prennent le pouvoir. Ils instaurent la République démocratique du Kampuchéa et déclenchent un génocide qui fera près de 2 millions de victimes, sur une population totale de 8 millions.
7 janvier 1979: les Vietnamiens prennent le contrôle du pays et installent la République populaire du Kampuchéa. Les Khmers rouges prennent le maquis.
22 juin 1982: formation d’un gouvernement de coalition en exil, antivietnamien. Présidé par Norodom Sihanouk à Pékin, et reconnu par l’ONU, il regroupe les sihanoukistes, les républicains et les Khmers rouges.
Octobre 1989: fin du retrait officiel de l’armée vietnamienne.
Janvier 1985: Hun Sen est nommé Premier ministre à Phnom Penh.
23 octobre 1991: les accords de Paris, signés par les Cambodgiens, l’ONU, et 18 pays garants, placent le pays sous tutelle de l’ONU jusqu’à l’organisation d’élections libres.
Les accords de Paris
Les accords de Paris sur le Cambodge du 23 octobre 1991 ont permis de mettre fin à la guerre civile entre les forces de l’Etat du Cambodge, les Khmers rouges et les autres factions de la résistance nationale cambodgienne.
Cette guerre civile débuta avec l’invasion vietnamienne du pays en 1979. Ces accords ont mis en place une autorité provisoire de l’ONU pour préparer une nouvelle Constitution et le retour de la monarchie au Cambodge.
Ils furent signés par les représentants de 18 pays et par les 12 membres du Conseil national suprême cambodgien mis en place le 17 juillet 1991 à Paris, au Centre des conférences internationales de l’avenue Kléber:
- Le Prince Norodom Sihanouk, président du Conseil national suprême
- Les représentants de l’Etat du Cambodge: Hun Sen, Dith Munty, Sin Sen, Tea Banh, Hor Namhong, Im Chhun Lim
- Les représentants des Khmers rouges: Khieu Samphân, Son Sen
- Les représentants du Front national de libération du peuple khmer: Son Sann, Ieng Mouly
- Les sihanoukistes (FUNCINPEC): le Prince Norodom Ranariddh


(Source: Eglises d'Asie, le 26 novembre 2015)
 
Inde: Islam : les voies du réformisme en Asie méridionale
Eglises d'Asie
12:38 26/11/2015
26/11/2015 - Dans l’actualité dramatique de ces dernières semaines, nombreux ont été ceux qui ont noté que les attentats du 13 novembre à Paris faisaient écho aux attentats qui avaient ensanglanté Bombay en novembre 2008. Même mode opératoire avec l’attaque simultanée de plusieurs cibles en milieu urbain et nombre élevés de victimes. Ce triste parallèle est l’occasion de souligner que l’Asie du Sud est depuis plus de deux siècles l’un des centres majeurs où se pense l’islam.

Face à l’expansion de l’Europe, les grands empires où s’était épanoui la civilisation islamique, que ce soit l’empire ottoman, safavide ou moghol, n’ont pas été en mesure de résister à l’irruption en leur sein d’acteurs plus avancés d’un point de vue technique, militaire et commercial. Au sein de l’islam, de la crise déclenchée par l’expansionnisme européen sont apparues différentes tentatives de réforme, en vue de repenser, de façon plus ou moins radicale, la tradition islamique elle-même. De cette tentative réformiste, l’Inde, plus exactement l’Asie méridionale, a été l’un des centres principaux.

Comme l’explique dans l’article ci-dessous Aminah Mohammad-Arif, sous la domination coloniale britannique émergent en Inde des personnalités profondément influencées par le rationalisme européen, mais on y voit aussi naître le mouvement le plus efficace de récupération de l’identité islamique, le tabligh, répandu aujourd’hui à travers le monde entier, et la puissante école Déobandi.

Aminah Mohammad-Arif est chargée de recherches au Centre d’études de l’Inde et de l’Asie du Sud du CNRS. Directrice de publications de la revue électronique The South Asia Multidisciplinary Academic Journal, elle a notamment publié, avec Christophe Jaffrelot, Politique et religions en Asie du Sud (Editions de l’EHESS, 2012). A la croisée de l’anthropologie politique et de la sociologie des religions, les recherches d’Aminah Mohammad-Arif portent sur l’articulation entre islam et situations minoritaire et diasporique en contexte sud-asiatique. Son article est paru dans la revue Oasis dont la livraison de juin 2015 était consacrée à l’islam : « L’Islam à la croisée des chemins. Tradition, réforme, djihad. »

Oasis est née en 2004 à Venise, d’une intuition du cardinal Angelo Scola, pour promouvoir la connaissance réciproque et la rencontre entre le monde occidental et le monde à majorité musulmane.

Les voies du réformisme en Asie méridionale par Aminah Mohammad-Arif

Les mouvements réformistes de l’Islam sunnite (1) en Asie du Sud présentent une remarquable diversité, dans le temps (périodes pré- et post-coloniales), dans l’espace (l’Islam étant majoritaire au Pakistan et au Bangladesh, minoritaire dans l’Inde indépendante) ou encore dans ses formes (quiétiste, politique, djihadiste). Ils se caractérisent à la fois par le fait qu’ils ont connu l’influence exogène du renouveau religieux qui s’est produit ailleurs en terres d’Islam et par une volonté endogène de réévaluer l’Islam à l’aune de la modernité introduite par le contexte colonial et post-colonial. Si tous se traduisent par des tentatives de « purger » les conceptions et les pratiques considérées comme constituant le fondement de la tradition islamique des innovations et des agrégats locaux, ces mouvements réformistes sont traversés par des différences portant notamment sur l’éducation et la diffusion des idéologies, le rapport aux autorités religieuses traditionnelles, et plus généralement le rapport au politique. Ils ont donné lieu à un activisme multidimensionnel en Asie du Sud, que j’examinerai après avoir présenté un aperçu historique, mais ils exercent également une influence ailleurs dans le monde musulman.

Le réformisme islamique a émergé, à partir du XVIIIe siècle, dans le sillage de Shah Waliullah (1703-1762), théologien et mystique de Delhi. Tout comme son contemporain, Muhammad ibn ‘Abd al-Wahhâb (1703-1792), fondateur du wahhabisme (2), Shah Waliullah, s’inspirant des œuvres du théologien de Damas Ibn Taymiyya (1263-1328), jette les bases du réformisme islamique dans la région. Son projet de « purification » de l’Islam rencontre initialement peu d’écho. Mais la perte du pouvoir politique des musulmans en faveur des Britanniques a d’importantes répercussions sur leurs conceptions et pratiques religieuses. C’est dans ce contexte qu’émerge la Tariqa-i Muhammadiyya dont le fondateur, Sayyid Ahmad Barelwi (1786-1831), s’inspirant de réformistes locaux tel Shah Abdul Aziz (1745-1823, fils de Shah Waliullah) et de réformistes originaires d’autres pays comme le Yémen (tel ‘Alî al-Shaukânî, mort en 1834) milite en faveur d’une réforme religieuse et sociale : s’érigeant à la fois contre le rôle des saints comme intercesseurs entre Dieu et les hommes et contre les sommes colossales dépensées dans les sanctuaires soufis, il prône tout d’abord l’abolition du culte des saints ; il s’élève aussi contre les coutumes qu’il croit influencées par l’hindouisme, comme le remariage des veuves ; il se prononce également en faveur de la suppression des cérémonies ostentatoires et coûteuses, lors des divers rites de passage notamment ; enfin, il insiste sur l’importance de certaines pratiques islamiques tombées en désuétude comme le pèlerinage à La Mecque et le djihad.

Après l’intensification de la présence britannique à partir de 1857, de nouveaux courants formalisent et pérennisent les idées réformistes du siècle précédent. Tous insistent sur le caractère supérieur et distinct de l’Islam à la fois par rapport au Christianisme (en réaction aux missionnaires et aux colons britanniques) et à l’Hindouisme (à une époque où les hindous se sont eux aussi engagés dans un processus de redéfinition de leur religion).

De Deoband le mouvement le plus important

Le plus important de ces mouvements, fondé en 1867 par Muhammad Qasim Nanautawi (1833-1877) et Rashid Ahmad Gangohi (1829-1905), est celui des Deobandi, qui tirent leur nom de la ville de Deoband, située au nord de Delhi. Leur originalité réside avant tout dans leur projet d’enseignement et de diffusion de l’Islam. Ils adoptent des méthodes d’instruction modernes tout en excluant de leur programme l’anglais et les sciences « occidentales » et promouvant à la place l’étude du Coran, des hadîths, de la loi et des sciences islamiques. Transformant progressivement Deoband en l’un des centres majeurs d’enseignement religieux en Asie du Sud, ils créent aussi le plus important réseau de madrasas de l’époque. En dépit de ses velléités réformistes, Deoband demeure néanmoins conforme à la tradition hanafite en matière de théologie et de droit, et tolère le soufisme comme pratique spirituelle individuelle. D’autres mouvements émergent à la même période brisant ce conformisme. Le premier, à tendance fondamentaliste, est le Ahl-i Hadith (Gens de la Tradition), fondé en 1864. Tirant son inspiration de la pensée du théologien Nazir Husain (1805-1902), le mouvement n’admet que le Coran et les hadîths comme sources de droit, et rejette les enseignements de l’école hanafite, mais aussi le soufisme sous toutes ses formes. Il prône le retour à l’Islam des ancêtres (salaf) des premières générations de l’Islam, et incarne, à ce titre, la version salafiste de l’Islam sud-asiatique.

L’autre tendance anticonformiste est celle des modernistes qui non seulement refusent la tutelle des oulémas mais plaident aussi en faveur d’une limitation du religieux à la sphère privée. Leur leader, Sayyid Ahmad Khan (1817-1898), préconise en outre de concilier l’étude de la loi islamique avec celle de l’anglais et des sciences exactes, élaborant même une théologie rationaliste innovante. Tout comme pour les Deobandis, l’enseignement représente un volet important de son projet de réforme. Il fonde ainsi en 1875, à Aligarh, le Mohammedan Anglo-Oriental College (qui deviendra en 1920 l’Aligarh Muslim University), une université à l’anglaise d’où sortiront des générations d’intellectuels occidentalisés. Nombre de ces derniers se rallieront plus tard au mouvement séparatiste qui débouchera sur la création du Pakistan. Enfin, la Nadwatu’l ulama, fondée en 1892 par Muhammad Ali Monghiri (1846-1927), aspire à concilier les diverses tendances du réformisme tout en modernisant l’enseignement islamique, mais ces tentatives se solderont par un échec, les oulémas de la Nadwa devenant avant tout des représentants d’un réformisme conformiste.

Le début du siècle suivant est marqué par l’introduction de deux sortes d’innovation, le prosélytisme et le projet d’Etat islamique, pierres angulaires de l’activisme islamique contemporain. Ces projets sont portés par deux mouvements respectifs : la Tablighi Jamaʻat et la Jamaʻat-i Islami. La première, dont le nom même signifie « prédication » (tablîgh), a été fondée en 1927 par Muhammad Ilyas (1885-1944), un ‘âlim de la mouvance de Deoband qui, par la prédication, entend répondre à la concurrence engagée dans la première moitié du XXe siècle entre hindous et musulmans pour conquérir ou reconquérir des convertis. La seconde a été créée en 1941 par Abul Ala Mawdudi (1903-1979), théoricien majeur de la notion d’Etat islamique. Rejetant l’autorité des oulémas traditionnels, il défend l’idée que l’Islam représente un cadre de référence applicable à tous les domaines de la vie sociale, politique et individuelle. La présence britannique en Inde contribue à politiser sa vision de l’Islam, qu’il érige en fondement idéologique de l’Etat. Le projet annoncé par Muhammad Ali Jinnah en 1940 de former un Etat séparé pour les musulmans, mais fondamentalement laïque, incite Mawdudi à créer en réaction, l’année suivante, un mouvement politico-religieux, la Jamaʻat-i Islami, dont la mission est de rassembler une élite, composée d’hommes pieux et « vertueux », chargée d’investir le champ politique et social afin d’établir un Etat islamique universel.

Activisme à trois dimensions

Loin de s’essouffler avec la fin de la colonisation britannique, l’activisme des mouvements réformistes n’aura au contraire cesse de se développer dans les trois pays issus de la partition de 1947, l’Inde, le Pakistan occidental et le Pakistan oriental qui deviendra le Bangladesh en 1971, en dialogue cette fois avec la modernité postcoloniale. On peut décliner cet activisme sous trois formes – quiétiste, politique et djihadiste – présentant des variations assez importantes selon la position majoritaire ou minoritaire de l’Islam dans les pays concernés. Un même mouvement peut aussi privilégier à un moment donné une forme d’activisme sur une autre, voire combiner de façon synchronique ou diachronique diverses formes d’activisme.

La ligne quiétiste et le prosélytisme

Le prosélytisme représente l’activité phare de l’activisme quiétiste, et concerne l’ensemble des grands mouvements réformistes, chacun adoptant des méthodes de prédication assez diverses, qui elles-mêmes rencontrent des succès variables. En condition majoritaire comme minoritaire, le prosélytisme est avant tout d’ordre interne, visant la réislamisation des musulmans ordinaires par la réforme de leurs pratiques conformément à l’idéologie des mouvements respectifs.

On l’a vu, le mouvement le plus emblématique de ce type d’activisme est la Tablighi Jamaʻat qui a non seulement érigé le prosélytisme en doctrine de base mais qui rencontre aussi le plus franc succès auprès des populations musulmanes dans la plupart des pays sud-asiatiques. Dès l’origine de ce mouvement fondamentalement piétiste, des techniques très précises ont été mises au point : les adeptes doivent consacrer une partie précisément définie de leur emploi du temps à porter, en groupe, la bonne parole de maison en maison, et à exhorter les musulmans à vivre selon les six principes définis par le fondateur du mouvement (la profession de foi, les prières canoniques, la connaissance de Dieu et sa remémoration, le respect de chaque musulman, la sincérité de l’intention et la consécration de son temps au prosélytisme). L’attention des adeptes devant exclusivement porter sur l’approfondissement de leur foi, il leur est interdit de s’engager dans des controverses religieuses et de discuter de politique dans le cadre des activités du mouvement.

Les autres mouvements réformistes, comme le Ahl-i Hadith et la Jamaʻat-i-Islami, accordent aussi une place prédominante au prosélytisme dans leurs activités. Le cas de la Jamaʻat-i Islami est particulièrement intéressant. En Inde, la condition minoritaire de l’Islam l’a contrainte à réorienter son programme qui, à l’origine, visait une islamisation par le contrôle des appareils d’Etat, vers la réforme individuelle des musulmans par le biais du prosélytisme. Au Pakistan, la déception de la Jamaʻat-i Islami face aux concessions très limitées de l’Etat pour islamiser ses institutions (cf. infra) l’a incitée à recentrer ses activités vers la réislamisation de la société. Pour ce faire, en Inde comme au Pakistan, elle mobilise divers procédés comme la diffusion abondante de la littérature de ses principaux idéologues, l’utilisation des nouveaux moyens de communication, la création de branches estudiantines sur les campus universitaires, la formation de cercles d’études du Coran, ou encore le travail caritatif. Son impact sur les sociétés demeure toutefois négligeable compte tenu de son caractère élitiste.

L’activisme quiétiste est surdéterminant en Inde par rapport aux autres formes d’activisme du fait de la condition minoritaire de l’Islam. Cette forme d’activisme se retrouve aussi de façon significative au Pakistan et au Bangladesh, mais ces pays se distinguent de l’Inde par le fait que l’activisme politique – violent ou non – y est surdéveloppé.

L’option politique

Au Pakistan, les plus importants mouvements islamiques, les Deobandis et la Jamaʻat-i Islami (mais aussi les Barelwis qui représentent l’Islam non réformé) se sont constitués en partis politiques dans les années 1950, se livrant à des formes soutenues et variées d’activisme politique (participation aux élections, mobilisations de rue, etc.). Ces groupes militent principalement en faveur de l’établissement de la charia pour réguler le droit personnel et codifier le dispositif juridique du pays. Leurs gains électoraux ne sont guère significatifs (ils ne mobilisent qu’environ un cinquième de l’électorat) mais leurs pressions sur les gouvernements successifs ont abouti à une islamisation partielle des institutions, symbolisée surtout par l’établissement des châtiments islamiques appelés hudûd. Parmi ces mouvements, la Jamaʻat-i Islami, dont le projet d’Etat islamique est le plus abouti, a joué un rôle prééminent dans les tentatives d’islamisation. Le succès de ces mouvements jusqu’aux années 1990 tenait avant tout à leur instrumentalisation par des partis laïques, l’Islam étant une source majeure de légitimation politique. Face au bilan mitigé de l’islamisation des institutions, les mouvements islamistes, comme la Jamaʻat-i Islami, ont depuis réorienté leurs activités vers le champ social.

La lutte pour l’application de la charia s’inscrit dans une logique d’appropriation de l’Islam par les mouvements réformistes sunnites – majoritaires au Pakistan à 80% environ – qui prétendent représenter les seuls vrais musulmans. Cette vision a pour corollaire un militantisme hostile aux minorités religieuses (chrétiens notamment) et sectaires (chiites duodécimains et ahmadis (3) en particulier) qui s’est traduit par des pressions exercées sur l’Etat, dès les années 1950, pour les éliminer. Ainsi, d’abord soumis à l’interdiction d’occuper les plus hautes fonctions de l’Etat depuis la Constitution de 1973, les ahmadis ont été déclarés non-musulmans par un amendement de 1974, puis interdits de se dire musulmans et de pratiquer les rites islamiques par une ordonnance de 1984. Quant aux chrétiens (2% de la population), ils sont les principales victimes des amendements successifs de la loi sur le blasphème sous les pressions réussies des islamistes sur l’Etat pakistanais.

Au Bangladesh, où le particularisme bengali a été affirmé au détriment de l’Islam, les mouvements islamistes, à travers notamment la Jamaʻat-i Islami, sont néanmoins revenus dans l’arène politique, militant, mais avec moins de succès encore qu’au Pakistan, pour l’islamisation des institutions, tout en possédant une capacité de mobilisation significative. La marginalisation des minorités religieuses et sectaires (comme de faire déclarer les ahmadis non-musulmans) représente aussi un pan important de leur programme.

En contexte minoritaire, l’activisme politique jouit d’une marge de manœuvre très réduite. Les partis islamiques, qui se sont formés dans diverses régions de l’Inde, ont eu jusqu’à présent une portée marginale, les musulmans indiens préférant se tourner vers les partis laïques.

La modalité djihadiste

Le troisième mode d’expression de l’activisme islamique en Asie du Sud s’exprime par le recours à une violence que les acteurs ont drapée dans le manteau de l’Islam en l’assimilant à un djihad. C’est particulièrement vrai au Pakistan : alors que l’usage de la violence fut dans un premier temps limité et ponctuel (émeutes anti-ahmadis des années 1950 par exemple), un basculement s’est produit quelques décennies plus tard vers une violence érigée en principal mode opératoire par certains groupes. Elle s’est développée sur deux terrains principaux qui s’entrecroisent parfois : le sectarisme, qui oppose principalement les sunnites aux chiites, et les conflits régionaux en Afghanistan et au Cachemire.

Face à la crainte des autorités pakistanaises que les chiites ne tombent dans le giron de l’Iran après la révolution islamique de 1979, des groupes radicaux sunnites ont émergé au milieu des années 1980, soutenus par l’armée et les services secrets, et soupçonnés d’être financés par l’Arabie Saoudite. La guerre d’Afghanistan, qui a attiré nombre de djihadistes pakistanais en herbe, a conféré une dimension nouvelle à l’idée de djihad au Pakistan, réservée jusque-là aux conflits avec l’Inde, en transformant des organisations militantes, comme le Sipah-i-Sahaba (SSP) issu de la mouvance deobandi, en groupes paramilitaires gagnés par la culture de la kalachnikov et influencés par le militantisme des talibans. Après le 11 septembre, la violence a connu une nouvelle escalade alimentée par le soutien d’al-Qaida aux groupes les plus radicaux comme le Lashkar-i Jhangvi (issu du SSP). Ces violences, qui ont fait des milliers de victimes, se traduisent par des attaques contre des mosquées chiites, des assassinats de personnalités, etc. L’activisme djihadiste s’est aussi développé sur un autre terrain, celui du conflit au Cachemire, qui oppose l’Inde au Pakistan depuis la partition. Il mobilise à la fois des groupes initialement actifs en Afghanistan, comme le Harkat-ul-Ansar, et des organisations, soutenues par les services secrets pakistanais et l’armée, créées spécifiquement pour mener le djihad au Cachemire comme le Jaish-i-Muhammad, proche de la mouvance des Deobandi, et le Lashkar-i Tayyiba d’obédience Ahl-i-Hadith.

Si certains groupes pakistanais ont établi des branches au Bangladesh, l’activisme djihadiste y est moins développé en l’absence de proximité de foyers alimentant la violence islamiste. Reste que certains groupes, comme le Bangladesh Islami Chhatra Shibir, la branche estudiantine de la Jamaʻat-i-Islami (qui s’était elle-même illustrée par ses exactions pendant la guerre d’indépendance du Bangladesh à laquelle elle était opposée) ont fréquemment recours à la violence contre leurs opposants musulmans mais aussi contre la minorité hindoue en s’attaquant notamment à ses temples.

Quant à l’Inde, exception faite du Cachemire où le djihad se confond avec la lutte pour l’autonomie depuis les années 1990, l’activisme djihadiste est apparu dans les années 2000 en réaction essentiellement aux violences perpétrées par les nationalistes hindous contre la minorité musulmane. Ces attaques sont souvent attribuées aux Indian Mujahidin, un groupe assez mystérieux, soupçonné d’être composé des éléments les plus extrémistes du Student Islamic Movement of India, une organisation estudiantine, initialement proche de la Jamaʻat-i Islami indienne, qui s’est radicalisée après la destruction de la mosquée d’Ayodhya en 1992 (4).

Propagation outre les confins

L’influence du réformisme sud-asiatique a rayonné bien au-delà des frontières sud-asiatiques. Elle s’est tout d’abord exercée par l’exportation des modèles de piété et de prédication de la Tablighi Jamaʻat, devenue le plus important mouvement missionnaire musulman dans le monde, vers diverses régions, principalement l’Asie du Sud-Est et l’Asie centrale, mais aussi l’Afrique et l’Europe via les diasporas installées dans ces régions. On observe ensuite au Moyen-Orient un impact significatif d’oulémas comme Abul Hasan Ali Nadwi (1914-1999) qui, dans la tradition de la Nadwa, s’était engagé dans une vaste politique de traduction d’ouvrages religieux en arabe ; enfin, les idées de Mawdudi sur la notion d’Etat islamique et sur la légitimation de la violence contre les régimes corrompus, ont exercé un impact considérable sur les islamistes du Moyen-Orient, comme les Frères musulmans d’Egypte.

Le réformisme islamique en Asie du Sud, débouchant sur un activisme à multiples facettes, partiellement dépendant de la position majoritaire ou minoritaire de l’Islam, correspond donc à une réalité complexe impliquant des acteurs aux missions et modes opératoires différenciés et jouissant de niveaux d’influence et de succès très variables. Si la transformation des individus et de la société relie tous ces mouvements, la place conférée au politique peut varier considérablement. Pendant la période contemporaine, force est de constater que ce réformisme s’inscrit aussi dans des logiques qui dépassent les idéologies et dans lesquelles prime une instrumentalisation politique du religieux. Enfin, il s’illustre par une créativité qui lui offre un rayonnement au-delà des frontières sud-asiatiques, témoignant de la multipolarité en Islam et, sinon d’une nouvelle centralité, au moins d’un éclatement géographique où d’autres régions que le Moyen-Orient offrent des modèles exportables qui circulent et sont réappropriés.

Courte bibliographie
Mariam Abou-Zahab, Olivier Roy, Réseaux islamiques : la connexion afghano-pakistanaise, Autrement, Paris 2002.
Marc Gaborieau, Un autre islam : Inde, Pakistan, Bangladesh, Albin Michel, Paris 2007.
Christophe Jaffrelot (éd.), Le Pakistan, Fayard, Paris 2000.
Denis Matringe, Un islam non arabe : horizons indiens et pakistanais, Téraèdre, Paris 2005.

Notes
Cet article traitera exclusivement du réformisme sunnite par manque de place.
Cfr. l’article par Hamadi Redissi dans ce numéro de la revue (NDLR) : http://www.oasiscenter.eu/fr/la-revue/l-islam-%C3%A0-la-crois%C3%A9e-des-chemins-tradition-r%C3%A9forme-djihad#section10
Le fondateur de la secte des Ahmadis, Mirza Ghulam Ahmad, se proclama Mahdi (Messie), provoquant la fureur des oulémas qui y voyaient une façon de s’attribuer des fonctions prophétiques, alors que le dogme considérait Muhammad (Mahomet) comme « sceau » des prophètes.
La mosquée a été détruite en 1992 par des militants hindous, qui réclamaient depuis longtemps la « propriété » du site de la mosquée, considéré comme le lieu de naissance du dieu Rama (NDLR).

(Source: Eglises d'Asie, le 26 novembre 2015)
 
Corée du Sud: Lancement d’une chaîne de prière pour l’Eglise en Corée du Nord
Eglises d'Asie
12:39 26/11/2015
26/11/2015 - « L’Eglise de Corée du Nord dans mon cœur », telle est le nom de la chaîne de prière lancée par l’archidiocèse catholique de Séoul, le 24 novembre dernier, à quelques jours de l’entrée dans l’Année Sainte de la miséricorde. « Le pape François a annoncé un Jubilé de la miséricorde. La péninsule coréenne est l’une des régions qui a le plus besoin de la miséricorde de Dieu », a déclaré le cardinal Andrew Yeom Soo-jung, archevêque de Séoul et administrateur apostolique de Pyongyang, lors de la messe du jour.

« L’année 2015 marque le 70ème anniversaire de la division de la Corée. En se préparant à célébrer le Jubilé de la miséricorde, l’archidiocèse de Séoul veut se souvenir de l’Eglise catholique en Corée du Nord qui, depuis cette période, vit des moments difficiles », a poursuivi l’archevêque de Séoul. « J’invite tout un chacun à s’unir à ce mouvement de prière, en conservant à l’esprit les fidèles catholiques du Nord, et en leur montrant notre amour et notre sollicitude grâce à nos prières continuelles. En tant qu’archevêque de Séoul et administrateur apostolique de Pyongyang, je n’ai jamais oublié l’Eglise catholique en Corée du Nord ainsi que nos frères et sœurs qui s’y trouvent. Ils ont toujours été dans mes prières et demeurent dans mon cœur », a-t-il encore confié.

En août 2014 déjà, c’était dans cette même cathédrale Myeongdong de Séoul, que le pape François avait présidé une messe pour la réconciliation de la péninsule coréenne, en invitant les Coréens à prier « pour que naissent de nouvelles opportunités de dialogue, de rencontre et de dépassement des différences », et pour que soit reconnu que « tous les Coréens sont frères et sœurs, membres d’une unique famille et d’un unique peuple (…) ».

Selon l’agence Fides, la chaîne de prière « L’Eglise de Corée du Nord dans mon cœur » a été diffusée à toutes les communautés paroissiales, afin qu’elles s’engagent, tout au long de l’Année Sainte, à réciter quotidiennement « la Prière pour la Paix et la Réconciliation », pour la communauté catholique en Corée du Nord. Selon le service de communication de l’archidiocèse de Séoul, « cette chaîne de prière est également ouverte à toute personne souhaitant s’unir à la prière pour l’Eglise en Corée du Nord ».

Coïncidence ou pas, deux jours après le lancement de la chaîne de prière, ce sont les autorités des deux Corées qui avaient prévu de se rencontrer, le 26 novembre, à Panmunjom (1). Lors de cette rencontre, il était prévu que les deux délégations abordent les questions de l’amélioration des relations entre les deux pays, ainsi que de possibles entretiens à haut niveau qui pourraient relancer une coopération économique et humanitaire avec le Nord.

En 1945, avant l’invasion soviétique de la partie Nord de la Corée, on y comptait 57 paroisses et quelques 5 200 catholiques et, à Pyongyang, les chrétiens représentaient 13,5 % de la population. Aujourd’hui, il est très difficile d’avoir des statistiques fiables sur le nombre de chrétiens encore présents en Corée du Nord.

D’après l’ONG Portes Ouvertes (2), il y aurait 300 000 chrétiens en Corée du Nord, et 60 000 seraient derrière les barreaux ou en camps de travail, en raison de leur foi. Des chiffres impossibles à recouper de manière indépendante.

Selon les statistiques de Pyongyang, 3 000 catholiques « pratiquent librement leur foi », sous la tutelle de l’Association catholique coréenne, entièrement contrôlée par le régime, et en l’absence de tout clergé. Pour les Nations Unies, ils ne seraient que 800.(eda/nfb)

Notes
(1) Panmunjom est le point de rencontre dans la zone démilitarisée qui sépare les deux Corées.
(2) Portes Ouvertes est une ONG internationale chrétienne évangélique de soutien aux chrétiens persécutés dans le monde.

(Source: Eglises d'Asie, le 26 novembre 2015)
 
Văn Hóa
Lá thư Paraguay: Thanksgiving : Tạ ơn trời - Tạ ơn người
Lm. Antôn Trần Xuân Sang, SVD.
10:24 26/11/2015
PARAGUAY – THANKSGIVING : TẠ ƠN TRỜI - TẠ ƠN NGƯỜI

Chuyện bầu cử

Paraguay vừa trải qua một cuộc bầu cử trên toàn quốc để lựa chọn các vị thị trưởng, tỉnh trưởng, quận trưởng và các ủy viên hội đồng các cấp cho nhiệm kỳ 5 năm.

Lần thứ hai trong đời với tư cách là một nhà truyền giáo có thường trú nhân tại Paraguay, chúng tôi cũng đi bầu cử để chọn các ứng viên mình ưng ý vì đây là nhiệm vụ bắt buộc cho tất cả các công dân và thường trú nhân để chu toàn nghĩa vụ và quyền công dân của mình. Trường học chúng tôi được chọn làm một trong những tụ điểm bỏ phiếu vì là trường lớn và khá ngăn nắp và chính quyền đã gởi giấy xin phép chúng tôi bằng văn bản để sử dụng trong những ngày bỏ phiếu.

Để trở thành ứng cử viên cho các chức vụ này thì các ứng viên phải hội đủ điều kiện theo hiến pháp qui định như : phải là công dân của Paraguay, không bị thi hành án, tuổi từ 18 trở lên và dĩ nhiên phải là người biết đọc, biết viết. Có một anh em linh mục cùng Dòng người Paraguay gốc Brazil làm việc ở một xứ khá nghèo và vị linh mục này “nổi máu anh hùng” muốn dấn thân làm chính trị để người dân bớt khổ nên muốn xin hồi tục để làm ứng cử viên quận trưởng của vùng này. Dù đã được cha bề trên và các vị hữu trách trong Dòng khuyên răn, vị linh mục này vẫn không nghe và quyết chí rũ áo nhà tu để làm ứng cử viên. Nhà Dòng cuối cùng phải tôn trọng tự do của người anh em này và gởi hồ sơ lên Tòa Thánh để chờ sự xem xét tiến trình hồi tục.

Tuy nhiên, trong giai đoạn cuối cùng trước khi công bố chính thức danh sách các ứng cử viên trên toàn quốc tranh cử vào ngày 15 tháng 11 vừa qua, tòa án quốc gia đã loại ứng cử viên nửa linh mục, nữa giáo dân này, và thế là người anh em này đã mất cả chì lẫn chài vì đã bất tuân lệnh bề trên. Paraguay dù là quốc gia Công Giáo nhưng hiến pháp qui định rõ là ai muốn đảm nhận một chức vụ gì trong bộ máy chính trị như nghị sĩ quốc hội, tỉnh trưởng, quận trưởng, thống đốc… thì phải ở tình trạng dân sự 100%. Nhớ hồi năm 2008 khi ông Lugo đắc cử tổng thống dù trước đây ông là một giám mục Công Giáo và ông đã từ chức 4 năm trước đó, vẫn còn gặp nhiều khó khăn đến phút cuối trước khi ông nhận chức. Còn Việt Nam mình không biết hiến pháp qui định thế nào mà vẫn thấy các các tướng lãnh quân đội, công an, các chức sắc tôn giáo gồm các nhà sư và có cả linh mục Công Giáo lại nằm trong Quốc Hội và không biết ai bầu bán những người này.

Trước những ngày bầu cử, phải thật sự nói rằng bầu khí rất sôi nổi của những ứng viên vận động tranh cử. Họ hứa hẹn đủ điều và những đảng lớn thường có những buổi tiệc tùng gây quĩ và phô trương để đánh bóng tên tuổi các ứng viên của mình. Thậm chí họ còn dùng tiền để mua lá phiều của những người nhẹ dạ và thiếu hiểu biết. Còn những người hiểu biết thì người ta ít để ý đến những cuộc vận động nhưng luôn tìm hiểu xem những ứng viên nào biết lo cho dân dù ứng viên đó không thuộc các đảng phái lớn. Thủ đô Asunción nơi chúng tôi đang sống là một điển hình. Vị đương kiêm Tổng Thống thuộc đảng Cololado (Đảng Đỏ) và vị đương kim thị trưởng cũng thuộc đảng của vị tổng thống, muốn ứng cử nhiệm kỳ II trong 5 năm tới. Họ đã dùng tiền, dùng quyền và các đảng viên của họ rất đông ở thủ đô để phô trương sức mạnh, và theo những thăm dò trước bầu cử thì ứng cử viên này nắm phần thắng là 85%. Tuy nhiên, ngay ngày bầu cử, tính đến 17h chiều thì kết quả đã hoàn toàn ngược lại. Vị ứng viên ít tên tuổi thuộc giới truyền thông đã đánh bại ứng viên lắm quyền nhiều tiền của Đảng Colorado đến hơn 10 điểm và toàn bộ đảng viên của đảng này phải thừa nhận thất bại trong cay đắng, và ứng cử viên thua cuộc dù đau đớn lại rất tử tế khi gọi điện chúc mừng người chiến thắng và ngậm ngùi rời ghế của mình sau 5 năm không làm gì nhiều cho thành phố của mình.

Tuy không phải là kỳ Tổng Tuyển Cử, nhưng qua đó chúng tôi thấy rằng người dân nước nhỏ bé này đã thực thi quyền dân chủ là đi bỏ phiếu để lựa chọn những người đại diện cho quê hương, cho thành phố mình. Không phải như một số nước độc đảng là từ trên bổ nhiệm những người ở đâu đâu đến lãnh đạo và những người đó chẳng hề quan tâm gì đến người dân mà chỉ sợ làm phật lòng cấp trên. Ở đây người ta chỉ biết sợ mất lòng dân vì ý dân là ý trời. Chính người dân chứ không phải cấp trên là người quyết định ai sẽ là người lãnh đạo mình, và cũng chính họ là người sẽ truất phế những người lãnh đạo bị xem là tham nhũng, vô trách nhiệm, thất hứa với cử tri trong lúc vận động tranh cử. Mong lắm thay những nhà cầm quyền ở quê hương mình biết lắng nghe tiếng nói của người dân và chu toàn trách nhiệm của vị lãnh đạo mà đừng vị sợ cấp trên khiển trách, để người dân ngày càng bớt khổ và tin tưởng hơn vào nhà cầm quyền.

Kết thúc năm học

Ở các nước Á châu và Bắc Mỹ thì năm học thường kết thúc vào cuối tháng 5 và sau đó là kỳ hè. Còn ở bên Nam Mỹ này thì năm học kết thúc vào cuối tháng 11 và tuần đầu tiên của tháng 12 là lễ tốt nghiệp cho các em học sinh cấp II lên cấp III và cấp III ra trường. Bởi thế, tháng này đối với chúng tôi, những người vừa làm công tác giáo dục, vừa kiêm nhiệm thêm giáo xứ thật sự bận rộn cho các sinh hoạt bề nổi cũng như chuẩn bị kỳ ra trường cho các em học sinh cuối cấp. Cuối năm cũng là mùa hè nên trời rất oi bức và năm nay bị ảnh hưởng của hiện tượng “El Niño” nên mưa nắng thất thường cũng ảnh hưởng không ít đến các sinh hoạt học vấn của cả thầy và trò. Tuy nhiên vì ở thành phố nên các em có đủ phương tiện hơn các em ở nhà quê và đôi lúc cũng phải linh động cho phép các em đến trễ do mưa bão hay nạn kẹt xe mà không bị đánh giá hạnh kiểm xấu về lỗi này mặc dù quy định của trường tư thục khá khắt khe.

Như có lần chúng tôi đã chia sẻ, học sinh ở đây không giỏi về lý thuyết và học thuộc lòng như học sinh Việt Nam mình. Tuy nhiên về thực nghiệm thì các em rất giỏi và đầy sáng tạo vì các giáo viên luôn sát cánh với các em, động viên và giúp các em trổ hết tài năng mình có trong tất cả mọi lĩnh vực và chính chúng tôi nhiều khi cũng ngạc nhiên khi dự giờ hay chấm điểm thi đua những sản phẩm mà tự tay các em làm. Từ cấp 1 đến cấp 3 các em khá tự tin khi được hỏi những vấn đề về thời sự nóng bỏng trong nước và quốc tế, về những dự định trong tương lai của các em và chúng tôi nhận thấy rằng ở một nước dân chủ như Paraguay này, không một ai có quyền cấm đoán các em những gì các em muốn diễn tả, nhưng luôn tạo mọi điều kiện kiện tốt nhất để các em có thể đạt được ước mơ, nguyện vọng của mình nếu điều đó được xem là chính đáng.

Lớp học cuối cùng của các em học sinh cấp III thật ấn tượng khi các em hóa trang theo lớp học phân ban của mình và vui đùa múa nhảy để nói lời tạm biệt với các thầy cô và lớp đàn em khiến bầu khí trong sân trường thật náo động với nhiệt huyết của tuổi trẻ. Ai mà cấm đoán chuyện này là xảy ra chuyện ngay vì đây là truyền thống của học sinh ra trường và đã là truyền thống, một luật bất thành văn thì không ai có thể sửa đổi được dù đôi lúc, theo văn hóa Á Đông mình, những hoạt động này hơi quá lố.

Trung tuần tháng 12 sẽ là kỳ hè của học sinh và quý thầy cô giáo cho đến giữa tháng 2 năm tới và theo luật ở đây thì đầu tháng 12 mọi người sẽ được lãnh 3 phần lương là lương tháng 11, lương tháng 12 và lương “tháng 13”- đây là khoảng lương thưởng cho dịp Giáng Sinh nên các công ty tư nhân khá đau đầu khi chi trả một khoảng lương khủng cho dịp cuối năm này.

Thanksgiving : Tạ ơn Trời – Tạ ơn người

Thế giới vừa chứng kiến trận khủng bố kinh hoàng ở Thủ Đô hoa lệ Paris vào thứ Sáu ngày 13 tháng 11 vừa qua khiến hàng trăm người vô tội chết và bị thương. Những “con thú” đội lốt người nhân danh thượng đế quỷ vương của họ giết hại những người vô tội một cách hèn nhát và sau đó đưa ra những thông điệp ngông cuồng để làm cho thế giới phải hoảng sợ. Chính họ đã làm khổ người khác, nhất là những người di dân vì bây giờ đi đâu cũng bị kiểm soát gắt gao vì người ta nghi ngờ lẫn nhau. Tội ác này bọn khủng bố không chóng thì chầy sẽ phải trả giá nhưng luôn để lại những hậu quả khôn lường cho thế giới và ảnh hưởng rất lớn đến Hồi giáo vì bây giờ bất cứ ai nghe nói đến từ này đều hoảng sợ và xa lánh.

Giữa tháng 11 này Tỉnh Dòng Paraguay chúng tôi có kỳ Đại Hội để duyệt xét lại những dự án truyền giáo đã đề ra trong những năm qua và đưa ra những dự án cho những năm tới. Tỉnh Dòng cũng đã quyết định trong năm tới sẽ đảm nhận một vùng truyền giáo xa xôi nhiều thách đố và trao lại một số giáo xứ lâu đời của Dòng cho Giáo phận. Dĩ nhiên có phiếu thuận và phiếu chống khi hoạch định một dự án, nhưng nếu cuộc sống luôn dễ dàng và trôi chảy thì đâu có gì để mà bàn thảo nữa. Ba anh em trẻ Việt Nam và một anh em người Indonesia dù đang làm việc ở những giáo xứ khá bề thế lại xin đi thị sát vùng truyền giáo mới và sau đó sẽ tính đến chuyện lâu dài trong năm tới. Các nhà truyền giáo người Âu Châu ở đây người trẻ nhất là 65 không thể đi được vì bệnh tật và tuổi tác, trong khi các anh em người Phi châu là những nước nghèo nhưng lại sợ dấn thân!

Hôm nay ở Hoa Kỳ và một số quốc gia khác trên thế giới mừng lễ Thanksgiving (Lễ Tạ Ơn). Xin mượn ngày hôm nay để nói lên lời tạ ơn : Tạ ơn Trời và tạ ơn người đã cho con có được như ngày hôm nay dù đôi lúc con muốn quỵ ngã vì yếu đuối, vì lầm lỗi và vì nhiều nguyên nhân khách quan hay chủ quan khiến con không biết con có phải là con không nữa. Xin mượn lời Thánh Vịnh của Thánh Vương Đa-vít để tri ân Trời và tri ân người : “Lạy CHÚA, con xin tán dương Ngài,vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con. Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ, con kêu lên cùng Chúa, và Ngài đã cho con bình phục. Lạy CHÚA, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống”. (Xc. TV 30). Xin tạ ơn Chúa đã luôn gìn giữ và nâng đỡ con mọi người dù con bất tín với Người. Xin cảm ơn gia đình, ân nhân, bằng hữu đã luôn nâng đỡ con trong những lúc khó khăn. Xin cầu chúc mọi người một lễ Thanksgiving vui vẻ và chúng ta cùng nhau dâng lời tạ ơn Chúa :

“Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,

muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 107,1).

Paraguay, Thanksgiving-26 tháng 11 năm 2015

Lm. Antôn Trần Xuân Sang, SVD.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Niagara Thác Đổ
Nguyễn Ngọc Liên
22:00 26/11/2015
NIAGARA THÁC ĐỔ
Ảnh của Nguyễn Ngọc Liên
Niagara nắng hoặc mưa
Từ bao niên kỷ vẫn chưa cạn giòng
Nước đâu mà rộng mênh mông..
(Trích thơ của Hoa Tym Tým)