Ngày 14-11-2010
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Giữ đạo ngày hôm nay quá “phẻ”
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
09:29 14/11/2010
Giữ đạo ngày hôm nay quá “phẻ”

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM (2010)

Dưới ánh sáng của Lời Chúa, và qua chứng từ cuộc sống thánh thiện của bao vị thánh nhân trong suốt gần 2000 năm lịch sử lử hành của Giáo Hội, chúng ta có thể khẳng quyết rằng: cuộc hành trình nên thánh của mọi người đều phải đi qua con đường “tử đạo”, con đường mà trích sách Khải huyền đã định nghĩa là: “từ đau khổ lớn lao mà đến và đã giặt áo mình trong Máu Con Chiên”; cũng là con đường mà Sách Khôn Ngoan hôm nay nói tới: “Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu” (BĐ1); và cũng chính là con đường yêu thương đến độ như thư gởi giáo đoàn Rôma trong Bài đọc 2 hôm nay nhắc đến: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh”.

Và như thế, chúng ta cũng có thể nói được rằng: Tử Đạo chính là thái độ, là hành vi, là cung cách ứng xử của những ai quyết chọn Đức Kitô và bước theo Ngài cách quyết liệt như chính Đức Kitô tuyên bố trong trích đoạn Tin Mừng Luca: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27)

Và điều đó đã được cụ thể hoá nơi chứng từ cuộc sống và cuộc tử đạo của 117 Chứng Nhân anh hùng tử đạo Việt nam mà chúng ta có thể đọc thấy qua một số chứng từ cụ thể:

- Thánh Phêrô Cao đã tâm nguyện: “Xin cho con chịu đau khổ vì danh Đức Ki-tô, được đón nhận ngành lá tử đạo về tới bến thiên đàng”

- Thánh Phêrô Quí với những dòng thơ gởi cho mẹ hiền:

“Dù trăng trói, gông cùm tù rạc
Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề
Miễn vui lòng cam chịu một bề
Cho trọn đạo trung thần hiếu tử”


- Thánh Phaolô Tịnh can đảm thưa với quan án: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tùy ý. Nhưng linh hồn là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”

- Thánh Phaolô Khoan đã hát lên lời nguyện hiến tế cuộc đời: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài”

- Thánh Anrê Kim Thông: “Thà tôi bị lưu đày và phải chết vì Chúa, chứ tôi không chối đạo”…

Tất cả những lời chứng can đảm và trung thành với tình yêu Chúa Kitô đó không bao giờ là một sự “bột phát hờn căm khi chạm phải bước đường cùng” như tiếng hô của một Nguyễn Văn Trỗi, trước khi bị xử bắn: “đã đảo đế quốc Mỹ...”, hay là tiếng kêu thất vọng oán thán rũa đời, cất lên khi đã đến gần cửa chết như lời chửi đổng mang chất thơ của thi sĩ Cao Bá Quát:

Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời


Khi tìm về lịch sử của các vị Chứng Nhân Tử Đạo Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng: Họ khác nhau về giới lớp, về thân phận xã hội, về trình độ tri thức, về chức vụ giữa cộng đoàn...nhưng họ đều giống nhau: thuộc trọn về Chúa Kitô và coi cái chết nhẹ như lông hồng, bởi chưng họ đều xác tín về cuộc phục sinh vinh thắng ở bên kia ngưỡng cửa sự chết như chứng từ sau đây:

Thầy Mậu đại diện cho anh em nói với quan: "Thưa quan, chúng tôi mong ước tìm về bên Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy". Ông Án Khảm vui vẻ nói với mọi người: "Cha con chúng tôi hôm nay vào nước Thiên Đàng đây". Linh mục Hạnh cũng tươi tĩnh đi chào mọi người: "Anh em ở lại nhé ! Chúng tôi đi về Thiên Đàng đây". Ông Cỏn thấy người anh em sụi sùi nước mắt, ông nói: "Sao anh lại khóc, lẽ ra phải mừng cho tôi chứ ?".

Vâng,Tử đạo là thế đó. Chứng Nhân là thế đó. Tình yêu đến cùng dành cho Đức Kitô là thế đó. Và dĩ nhiên, sự thánh thiện Kitô giáo là thế đó.

Trông người lại nghĩ đến ta. Ngày nay, chuyện “Bách Hại” tàn khốc như một pháp lệnh, một chủ trương công khai của thời Tự Đức Minh Mạng đã qua rồi. Những gông cùm, trăng trói, lửa đốt, voi dày; những tùng xẻo bá đao, treo cổ, đâm chém, lưu đày biệt xứ, phân sáp, giam cầm…cũng không còn thể hiện đường hoàng như án phạt đứng đắn dành cho những ai xưng mình là Kitô hữu, là thuộc trọn về Giáo Hội…Mà đâu đâu, trên đất nước chúng ta cũng thấy đông vui lễ lạc, các nhà thờ luôn chật kín giáo dân trong những ngày Chúa Nhật-lễ trọng. Trong khi đó, hiến pháp của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt nam lại rành rành điều khoản “tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng” của đồng bào…

Và như thế, giữ đạo ngày hôm nay quá “phẻ”.

Vì có ai, có thế lực nào bắt buộc tôi đạp lên Thánh Giá Đức Kitô đâu ?

Vì có chính quyền nào ra sắc lệnh buộc tôi phải bỏ đạo Chúa Kitô đâu ?

Vì có chủ trương nào áp lực tôi khước từ những giá trị của Phúc Âm, những lời dạy của

Kinh Thánh, những tín điều của Giáo Hội đâu ?...

Xin đừng vội chủ quan. Có thể chúng ta đang bị ru ngủ trước cái vẻ hào nhoáng của lễ lạc bên ngoài, của những ngôi nhà thờ to lớn, của những Trung Tâm Mục vụ tiện nghi…mà chúng ta không nhận ra một cuộc “Bách Hại Mới” đầy nguy hiểm và độc địa đang tác động, đang gặm nhắm niềm tin của Dân Chúa Việt Nam hôm nay.

Đó là cuộc bách hại của sự ham mê tiền bạc và sự giàu sang.

Đó là cuộc bách hại của sự kiếm tìm hưởng thụ tiện nghi và sung sướng vật chất.

Đó là cuộc bách hại của sự lười biếng làm việc lành phúc đức và hy sinh hãm mình.

Đó là cuộc bách hại của sự hèn nhát tuyên xưng đức tin và thể hiện vai trò ngôn sứ.

Đó là sự bách hại của nảo trạng chủ nghĩa cá nhân và tự do phóng túng.

Đó là sự bách hại của những thoả hiệp đen tối với các thế lực chính trị và đương quyền để mong sống an nhàn thư thái.

Đó là sự bách hại của chủ trương tương đối hoá các nghiêm lệnh luân lý ngàn đời của Thiên Chúa và Giáo Hội trong các lãnh vưc hôn nhân-gia đình hay công bằng xã hội…

Đứng trước những cuộc “bách hại mới” đó, phải chăng rất nhiều người trong chúng ta đã “chối đạo”, đã “đạp lên thánh giá Chúa Kitô”, đã “vứt bỏ Tin Mừng”…bằng cách:

- khi chúng ta sống ích kỷ nhỏ nhen không bao giờ biết cho đi và phục vụ.

- khi chúng ta tìm kiếm bạc tiền và chức quyền danh vọng bằng mọi thủ đoạn bất lương.

- khi chúng ta yếu nhược trước những bất công và lãnh đạm thờ ơ trước những khổ đau nghèo đói của anh chị em đồng loại.

- khi chúng ta vứt bỏ lời thề ước của hôn nhân để tự do luyến ái ngoại tình.

- khi những người mẹ giết con bằng hành vi phá thai, nạo thai.

- khi những thanh niên nam nữ Công Giáo vứt bỏ các nguyên tắc luân lý của hôn nhân, tính dục, vứt bỏ đức trong sạch, nết na, để yêu cuồng sống vội, đam mê buông thả.

- khi chúng ta coi trọng những cuộc nhậu nhẹt say sưa, những mánh mung lợi nhuận hơn là những cuộc họp mừng Chúa Nhật.

- khi chúng ta chia rẽ, hận thù và phá đỗ mối giây hiệp nhất, hiệp thông trong cộng đoàn.

- Khi chúng ta hèn nhát tìm kiếm sự thoả hiệp và đầu hàng với các thế lực độc tài, đen tối vì không dám đứng lên tranh đấu cho sự thật, tự do, lẽ công bằng và những quyền căn bản của con người…

Trong tinh thần của Năm Thánh Giáo Hội Việt Nam khi “nhìn lại quá khứ để tạ ơn Chúa và lắng nghe bài học lịch sử…tri ân các bậc tiền nhân, các ân nhân và chứng nhân đã gieo vãi và vun tỷồng hạt giống đức tin trên quê hương đất nước nầy, đồng thời ý thức giá trị cao quý của hồng ân đức tin để sống và làm chứng cho Tin Mừng, tích cực xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô trong môi trường Chúa sai chúng ta đến…”. (Thư HĐGMVN gởi cộng đồng Dân Chúa công bố Năm Thánh), thì việc mừng kính các Thánh Tử Đạo hôm nay phải là một lời đoan hứa mới, một quyết tâm mới trước Anh Linh Tiên Tổ: quyết tâm thành một Kitô hữu sẵn sàng thuộc về Đức Kitô và Tin Mừng trên mọi nẽo đường cuộc sống; một kitô hữu can đảm thực thi những lời dạy Phúc Âm, những việc đạo đức hằng ngày, những bổn phận trong gia đình, những ứng xử khoan dung, yêu thương và tha thứ, như quyết tâm đơn sơ, chân chất của người nông dân Nam Bộ, thánh Tử đạo Phaolô Hạnh: “Làm Kitô Hữu cho đến chết”. Amen.

.
 
Đồng hành
Giuse Trần Việt Hùng
10:02 14/11/2010
Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy (Jn 13:15).

1. Chuyến Tàu Lửa

Ai có dịp đi thăm thành phố Nữu Ước hoặc các thành phố lớn trên thế giới, sẽ nhìn thấy hệ thống xe điện ngầm. Nói là Subway nhưng thực ra tàu điện có khi đi trên và có khi đi dưới lòng đất. Bản đồ tàu điện ngầm đi chằng chịt như mạng nhện. Mỗi ngày có cả triệu lượt người lên tàu xuống tàu. Nơi trạm dừng có hai dấu chỉ lên hoặc xuống phố (up town và down town). Đây là hai chỉ dẫn chính để mọi người tìm hướng đi. Biết rằng có nhiều loại tàu, chữ và số khác nhau để phân biệt. Mỗi tàu điện có điểm khởi hành và điểm tới khác nhau. Có tàu đi tốc hành, có tàu đi chậm hơn để dừng tất cả mọi trạm ngắn.

Tại trạm tàu điện, người lên kẻ xuống tấp nập và có đủ mọi thành phần trên tàu. Trong tàu điện có đủ mọi loại hạng người: Người già, người trẻ, kẻ lớn người bé, kẻ giầu người nghèo, kẻ sang người hèn đều như nhau. Nơi đó không có phân biệt tôn giáo, chính trị, màu da hay quốc tịch. Bạn lên tàu trước, bạn ngồi trước. Người lên tàu sau, khi không còn chỗ ngồi thì bạn đứng. Người ta đứng chen nhau như nêm nhưng rất trật tự. Ít có ai đi từ trạm đầu tới trạm cuối. Ai cũng phải xuống trạm để tới địa chỉ cần đến. Mỗi người chỉ đồng hành với người khác một khoảnh khắc. Có một trường hợp hy hữu đã xảy ra cách đây mấy năm. Có một người đã đi đến trạm sau cùng, nhưng không xuống trạm. Khi những người đi kiểm soát và lau dọn các toa tàu, họ mới nhận ra là ông đã đi đến cùng trạm cuộc đời từ lúc nào không ai hay biết. Lý do vì đôi khi những người chung quanh tưởng ông đang ngủ, không dám đánh thức.Ông đã chết từ bao giờ!

2. Bước Vào Đời

Chỉ có một bác tài xế điều khiển cả chuyến tàu lửa dài 6 hay 7 toa nối với nhau. Chẳng có ai đi thu tiền hay xoát vé trên tàu, vì mọi người đã trả tiền qua cổng rồi. Chúng ta có thể ngồi trong tàu hoặc chuyển sang tàu khác và đi mãi quanh quẩn từ trạm này sang trạm nọ mà không phải trả thêm tiền, miễn là đừng ra khỏi cổng. Cứ đúng thời biểu là tàu điện khởi hành, cho dù có khách hay không có. Nhiều khi xe rộng chỗ thênh thang nhưng đôi khi đông khách không còn chỗ đứng. Thời biểu cứ 10 hay 15 phút lại có một chuyến tàu. Nhiều khi chỉ trễ 30 giây, chúng ta có thể lỡ một chuyến tàu. Chúng ta lại phải đợi chuyến tàu kế tiếp. Như vậy chúng ta phải mất thêm 15 phút đợi chờ. Nên người ta cứ phải vội vã bước tới để kịp chuyến tàu. Nhìn cảnh người ta chờ tàu, xem ra ai cũng vội bước.

Trên cùng chuyến xe lửa, có nhiều người cùng đồng hành với chúng ta nhưng chỉ một khoảng đường thôi. Chúng ta chỉ biết vài người đứng bên cạnh, số khách còn lại chúng ta chẳng biết họ là ai. Nhưng chắc một điều là chúng ta cùng trên một chuyến tàu. Tất cả các toa tàu khác cũng thế, lúc nào cũng có kẻ vào người ra. Quan sát những người trên xe, chúng ta nhận thấy đủ mọi thành phần: người ăn xin, người lao công, học sinh, bác sĩ, luật sư, giáo sư và các người kinh doanh. Có người ngồi trầm ngâm một mình, có kẻ ngủ, có vị đọc báo, người đọc sách, kẻ ngắm cảnh, có người nói truyện phôn và người chơi điện tử… Nếu ai đó có bạn đồng hành thì oang oang kể mọi thứ truyện. Khi tàu tới trạm dừng lại, có một số người bước ra, chẳng ai quan tâm. Người ta chỉ biết và để ý tới những ai cùng đi hoặc là quen biết nhau mà thôi.

3. Chuyến Xe Cuộc Đời

Chuyến xe là hình ảnh cuộc đời. Chúng ta ngồi suy gẫm cuộc đời lữ hành cũng như thế. Chuyến xe cuộc đời vẫn lăn bánh. Dòng đời cứ trôi, mọi vận hành trong vũ trụ vẫn sinh động, dù có mặt của chúng ta hay không có mặt ở đời. Chúng ta được hiện hữu trong đời là một hồng ân cao cả. Chúng ta đang được chia phần sự sống với mọi loài thụ tạo. Chúng ta được đồng hành với nhau trên đời. Không ai trong chúng ta là chủ sự sống để có thể hiện hữu từ đầu đến cuối. Chúng ta chỉ đồng hành với người khác một khoảnh khắc của dòng đời. Mỗi người chỉ có một cơ hội bước vào đời. Khi cơ hội qua thì cuộc đời cũng trôi theo. Chúng ta không thể níu kéo thời gian và cuộc sống. Một ngày qua là chúng ta tiến dần đến trạm phải dừng. Thời gian không đợi chờ ai cả.

Chúng ta biết rằng hằng ngày có biết bao trẻ thơ sinh ra với tiếng khóc chào đời. Mỗi ngày có biết bao nhiêu người đã ra đi. Chúng ta chỉ biết họ qua con số thống kê trên sách vở, báo chí. Hình như những người mà chúng ta không quen biết sống hay chết thế nào chẳng có liên đới gì đến chúng ta. Chúng ta chỉ quan tâm đến những người mà chúng ta yêu thương và quen biết. Có nhiều người cùng đồng hành với chúng ta trong một khoảng thời gian và không gian trên đường đời nhưng mấy khi chúng ta quan tâm tới họ. Tình cảm chúng ta dành cho họ nhiều hay ít tùy theo lòng mộ mến của chúng ta đối với họ. Chúng ta chỉ có thể đo lường tình cảm đó, khi người bạn đồng hành phải ra đi vĩnh viễn. Những giọt nước mắt xót thương cho người quá cố tùy theo sự thân thiết như ba mẹ, ông bà, anh chị em, con cái cháu chắt, họ hàng, các thân nhân, ân nhân và bạn hữu xa gần, Khi chia biệt mà không có một chút thương nhớ thì tình nghĩa đâu có gì là gắn bó.

4. Đồng Hành

Những người thân thuộc đầu tiên là cha mẹ và anh chị em trong gia đình, rồi đến bà con họ hàng nội ngoại. Từ khi chúng ta có trí khôn và bắt đầu đến trường học khai tâm là chúng ta bắt đầu đồng hành. Các bạn bè của tuổi thơ có ấn tượng rất đẹp và những kỷ niệm đậm nét thời thơ ấu. Thời trung học là thời gian đẹp nhất để xây mộng và lưu lại những kỷ niệm khó quên. Thời kỳ của mộng mơ qua những lá thư lạc danh nhẹ nhàng tình cảm, những vần thơ tình e ấp chớm nở, những lưu bút gợi nhớ và những buổi chiều thơ mộng. Chúng ta cùng chung trường, chung lớp và cùng chung đích hướng, đây là thời gian tuyệt vời để kết bạn. Những kỷ niệm xảy ra trong thời điểm này được ghi nhớ mãi trong cuộc đời.

Tuổi mười tám, đôi mươi là tuổi bắt đầu lăn xả vào đời. Mỗi người ra đi một phương và chọn lý tưởng cho riêng mình. Môi trường thay đổi, có kẻ vào quân ngũ, có người đi lập gia đình và kẻ khác tiến thân trong lãnh vực riêng tư. Đồng hành trên đường đời đã có nhiều thay đổi. Tuy cùng chung sống đó nhưng mỗi người có những mục đích phải theo, phải đạt. Vòng xoay cuộc đời cứ tiếp tục, chúng ta được may mắn bước vào hiện hữu trong hoàn cảnh hôm nay. Thử hỏi chúng ta quen biết được bao nhiêu bạn bè. Chúng ta đón nhận bao người trẻ sinh sau đẻ muộn hơn chúng ta. Họ cũng bước vào đời và cùng đồng hành với chúng ta. Càng có nhiều liên hệ, cuộc sống của chúng ta càng mở rộng. Sự liên đới với nhau trong cuộc sống là qua sự đồng hành với nhau. Đồng hành được xây dựng trên tình cảm trao cho nhau. Càng thân thương, càng gần gũi. Càng hiểu biết yêu thương, càng gắn bó. Chính sự gắn bó này làm thành ý nghĩa của cuộc đời.

5. Bạn Tri Kỷ

Chúng ta ai cũng có nhiều bạn nhưng cũng có nhiều loại bạn bè. Bạn bè cùng chung trường, cùng làm việc, cùng sở thích, cùng sinh hoạt, cùng hội đòan và cùng ý hướng. Trong số bạn bè có những bạn tri kỷ. Không phải ai cũng có thể trở thành bạn tri kỷ được. Chúa Giêsu gọi các môn đệ là bạn hữu: Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết (Jn 13:15). Bạn tri kỷ là người bạn mà chúng ta có thể chia sẻ chân tình và tin tưởng. Chúng ta có thể tìm thấy nơi họ sự an toàn và là nguồn vui hạnh phúc. Bạn thật không bao giờ phản bội hay làm hại bạn. Không như bạn Giuđa tìm cái hôn để phản bội Thầy mình. Đức Giêsu bảo hắn: "Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?"(Lk 22:48.)

Trong cuộc sống, chúng ta cần xây dựng tình liên đới để cùng chia xẻ đời sống. Chúng ta sống là sống cùng và sống với người khác. Có một lần vào dịp Lễ Giáng Sinh, tôi cùng đồng tế với các linh mục ngoại quốc, trong phần gợi ý nhập lễ của cha chủ tế, tôi đã lo ra. Lo ra vì nghĩ đến tất cả mọi người mà tôi đã quen biết cách này hay cách khác. Tâm trí của tôi rảo qua từng khuôn mặt từ những người trong gia đình, họ hàng, những bạn bè, thân hữu, cộng đoàn giáo dân và những người tôi hứa cầu nguyện cho. Trí khôn rảo thật nhanh, trong vòng vài phút đồng hồ, tôi đã nhớ hơn cả 500 người. Tôi rất vui khi nhớ đến mọi người và dâng lời cầu nguyện cho họ. Tôi cảm thấy rất an ủi và phấn khởi. Ngay trong bài giảng hôm đó, tôi đã chia sẻ tư tưởng gợi nhớ cầu nguyện này. Họ là những người đồng hội, đồng thuyền và đồng hành với tôi trong cuộc sống. Thật là có ý nghĩa trong ngày Chúa Giáng sinh đem bình an cho con người.

6. Những Bước Lặng Lẽ

Có những mảnh đời cô đơn thấy cảm thương. Cả một đời họ chỉ quanh quẩn trong làng quê, xứ đạo và nơi cuộc sống gia đình. Những gắn bó đơn sơ với bà con láng giềng đã làm nên lẽ sống. Họ lớn lên, trưởng thành, an lão tại một quê nghèo và rồi ra đi một mình. Họ cũng đã đi trọn hành trình một cuộc sống. Tuy đơn sơ đạm bạc nhưng khi ra đi, họ cũng có những người bà con cô bác hay tang gia khóc thương và đưa tiễn tới nơi an nghỉ sau cùng. Họ đã đồng hành với xóm làng và với bà con gia đình. Đời họ có ý nghĩa. Cuộc sống có cùng đích.

Tôi có những kinh nghiệm mục vụ rất thương tâm, có một vài trường hợp những ông già, bà lão sống những ngày cuối đời nơi viện dưỡng lão một cách cô đơn và buồn tẻ. Tôi cũng biết rất nhiều người già cả mà không có một người thân nhân nào. Tôi cứ tự hỏi cả một cuộc đời 70 hay 80 năm tuổi đời, họ không có được ai cùng đồng hành hay sao mà về già đơn côi như thế. Tôi không thấy con, cháu, bạn bè hay láng giềng ghé thăm. Tôi không biết họ dùng thời gian son trẻ vào những cách sống nào mà về già lại cô đơn như thế. Hơn nữa, khi họ qua đời mới thấy thảm thương và thấm thía cuộc đời. Họ nhắm mắt xuôi tay, không biết gia tài có còn lại gì? Nhưng không có một người thân tiễn đưa ra nơi an nghỉ. Dịch vụ văn phòng lo cho một cỗ quan tài rẻ tiền. Chỉ có một người tài xế nhà quàng chở xác ra nghĩa trang mai táng trong cô đơn giá lạnh. Một đời người đã qua!

7. Đồng Hành Khác Hướng

Đôi khi chúng ta cùng đồng hành và cùng chung hướng nhưng không cùng chung cuộc sống. Đã có biết bao nhiêu cuộc sống hôn nhân gia đình bị đổ vỡ, thất bại và chia ly. Một trong những lý do là sự thất tín. Người ta thường nói: Một sự bất tín, vạn sự không tin. Đã mất niềm tin nơi nhau thì khó có thể sống đời với nhau. Có những bạn bè thân thích hoặc anh em ruột thịt đã đồng hành với nhau khi quẫn bách và gian khổ nhưng khi thành đạt lại chia rẽ và tố khổ nhau. Không thiếu những cặp vợ chồng hay anh chị em ruột thịt đem nhau ra tòa để kiện cáo và kết án nhau vì một mối lợi nào đó. Nhiều người đã cùng đồng hành một thời gian nhưng cuối cùng mỗi người phải đi một hướng.

Ngoài ra, con người còn có sự bất trung và bội phản. Muốn lợi ích cho riêng mình mà không quan tâm đến những tình cảm người khác dành cho mình. Đúng là nuôi ong tay áo. Đôi khi chính những người thân trong gia đình mà thù ghét nhau vì một ý hướng nào đó. Thánh Luca ghi lại lời Chúa Giêsu: Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em (Lk 21:16). Có những người đồng hành nhưng không đồng hướng. Tuy cùng đi chung một tàu và sống cùng trong một môi trường xã hội nhưng đôi khi chúng ta khác biệt về lẽ sống, về niềm tin và về ý thức hệ. Chúng ta gọi là cùng đồng hành nhưng mục đích thì khác nhau nên chúng ta vẫn còn một khoảng cách. Chúng ta có thể đối xử với nhau bằng mặt và bằng sự giao tế xã hội nhưng vẫn có một cái gì sâu thẳm không thể lấp đầy.

8. Chọn Lựa

Một câu truyện giúp chúng ta tìm xem ai là người quan trọng nhất trong cuộc đời mình. Giáo sư mời một sinh viên lên làm bài trắc nghiệm: Giáo sư nói: Em hãy viết lên bảng tên của 20 người mà em khó có thể rời bỏ. Anh làm theo. Trong số tên đó có tên của gia đình, bạn bè, hàng xóm và người thân. Giáo sư nói: Em hãy xoá tên của một người mà em cho rằng không quan trọng nhất! Anh liền xoá tên của người hàng xóm. Giáo sư lại nói: Em hãy xoá thêm một người nữa!. Em xoá tiếp tên của một đồng nghiệp. Giáo sư nói tiếp: Em xoá thêm tên một người nữa đi. Một người không quan trọng nhất trong cuộc đời, anh lại xoá tiếp…

Cuối cùng, trên bảng chỉ còn lại ba cái tên, bố mẹ, vợ, và con. Cả giảng đường im phăng phắc, mọi người lặng lẽ nhìn vị giáo sư, cảm giác dường như đây không còn đơn thuần là một trò chơi nữa rồi! Giáo sư bình tĩnh nói tiếp: "Em hãy xóa thêm một tên nữa!" Anh chần chừ, rất khó khăn mới đưa ra được sự lựa chọn, anh đưa viên phấn lên và gạch đi tên của bố mẹ! "Hãy gạch đi một cái tên nữa đi!" Tiếng của vị giáo sư lại vang lên bên tai. Anh sững người, rồi như một cái máy, từ từ và kiên quyết gạch bỏ tên của đứa con trai. Và anh bật khóc thành tiếng với dáng điệu vô cũng đau khổ.

Vị giáo sư chờ cho anh bình tĩnh lại hồi lâu và hỏi: "Lẽ ra người thân thiết nhất với em, phải là cha mẹ và đứa con, bởi cha mẹ là người sinh thành và dạy dỗ em nên người, đứa con là do em dứt ruột sinh ra, còn người vợ thì có thể tìm người khác thay thế được, vậy tại sao, với em người vợ lại là người mà em khó rời xa nhất?" Cả giảng đường im lặng, chờ nghe câu trả lời. Chàng trai bình tĩnh và từ tốn nói:"Theo thời gian, cha mẹ sẽ là người sớm nhất rời bỏ tôi vì tuổi già, con cái khi trưởng thành, cũng chắc chắn sẽ rời xa tôi, còn người luôn ở bên tôi, làm bạn với tôi suốt đời, thực sự chỉ có vợ tôi mà thôi !"

Chúng ta nghĩ thế nào về câu truyện trên đây? Thực sự không dễ để chọn lựa để từ bỏ một người thân. Nhất là những người ruột thịt trong gia đình của mình. Mỗi người đều có những sợi giây ràng buộc linh thiêng, rất khó để phải xa cách. Chỉ khi sự việc đến là phải đến và chúng ta phải chấp nhận thì dễ hơn là chọn lựa. Nhưng trái lại, nếu giáo sư hỏi chúng ta có thể hy sinh mạng sống để cứu ai trong các người thân. Có lẽ câu hỏi cũng không dễ chọn câu trả lời. Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Jn. 15:13).

Tóm lại, con người chúng ta là con người xã hội. Cuộc đời là một chuyến xe một chiều đi tới cùng đích. Đời sống con người có thể lên hay xuống (up and down). Người ta nói rằng năm chìm bảy nổi, chín cái lênh đênh. Chúng ta không thể lữ hành đơn côi trong cuộc sống. Chúng ta sống là sống cùng và với người khác. Ngoài những người thân trong gia đình, mỗi người tự tìm cho mình những đồng bạn. Bạn bè như thể chân tay ví rằng giầu vì bạn, sang vì vợ mà. Chúng ta hãy biết chọn bạn mà chơi, chọn mặt mà gởi vàng. Xưa Chúa Giêsu đã chọn các tông đồ như là những người bạn thân khi Chúa còn ở dưới thế. Xin Chúa mở tâm trí chúng con, để chúng con biết chọn những người bạn đích thực để cùng đồng hành và đồng hướng đạt tới cuộc sống viên mãn ngày sau.

Bronx, New York
 
Đức Kitô Vua Tình Yêu
Phanxicô Xaviê
10:14 14/11/2010
Thiên Chúa là tình yêu. Thánh Gioan đã nói như vậy về tình yêu cao cả Chúa Giêsu dành cho nhân loại, Chỉ có Vua Tình Yêu mới có thể nhẫn nại, yêu thương trước những ngỗ nghịch của con người. Tình yêu của Ngài được trao ban cho tất cả mọi người, không phân biệt tốt – xấu. Vì thế mà anh trộm tội lỗi mới có cơ hội được mạc khải huyền nhiệm Nước Trời. Cùng với tâm tình của anh trộm lành, và với toàn thể Giáo Hội, chúng ta tôn vinh Đức Giêsu Kitô là vị Vua cao cả của hoàn vũ, đồng thời xin Chúa đón nhận chúng ta vào vương quốc vĩnh cửu của Ngài.

Tuy từ lâu, Kinh Thánh đã mạc khải về Vương Quyền của Đức Kitô, nhưng Giáo Hội vẫn đắn đo tìm hiểu mãi đến năm 1925 ĐGH Piô XI mới quy định lễ này trong toàn Giáo Hội. Bài sách Samuel sẽ đưa chúng ta vào tham dự việc phong vương cho Đavit. Chung quanh ông, mọi chi tộc và kỳ mục Israel đồng thanh nhất trí tôn ông làm Vua Israel. Triều đại ông khai mở một kỷ nguyên sáng chói nhất trong lịch sử Dân Chúa. Nó cho chúng ta biết nguồn gốc Vương Quyền của Đức Kitô vì chính Người vẫn được dân Cựu Ước chờ đợi như là Con Vua Đavit sẽ đến trị vì trên Dân Người. Cũng như Đavit đã hiệp nhất dân Israel thế nào thì Đức Kitô cũng sẽ qui tụ toàn thể nhân loại trong một dân duy nhất.

Để mọi người qui phục vương quyền của ông, Đavit phải có cốt nhục với đồng bào của mình, phải vào sinh ra tử cho đất nước, và nhất là ông phải được Thiên Chúa chọn. Vì làm vua nơi Dân Chúa không phải như nơi các dân tộc của những quốc gia khác, nói đến vua chúa là người ta nghĩ ngay đến cai trị và lãnh đạo. Nhưng nơi Israel, làm vua trước hết là chăn dắt dân như mục tử và phải hiểu việc lãnh đạo ở đây theo cung cách của người chăn chiên. Đavit hội đủ những điều kiện ấy. Ông vua mục tử đầy nhân ái và đạo đức này, được xức dầu làm chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn, là hình ảnh báo trước vế Vua Thiên Sai sẽ đến cứu dân. Cũng như Đavit đã vào sinh ra tử cho dân trước khi được dân công nhận, Đức Kitô cũng phải đi qua khổ nạn thập giá mới đạt tới vinh quang.

Trước mắt những kẻ chống đối và thù địch, Chúa Giêsu bị treo trên thập giá là một thất bại, một sự nhục nhã. Ngay cả với các môn đệ lúc bấy giờ cũng là đường cùng, hy vọng đã vụt tắt. Nhưng chính trong sự khốn cùng, đen tối của thập giá ấy lại sáng lên một niềm tin của anh trộm lành, đồng số phận bị treo lên với Chúa. “Khi nào về Nước Ngài xin nhớ đến tôi”, anh trộm lành đã tin và nhận ra người cùng bị treo với mình thuộc một vương quốc khác, hơn hết đó là một vị Vua. Cũng thế, viên sĩ quan canh gác, những đám đông dân chúng chứng kiến cái chết của Đức Giêsu đã phải hối hận ăn năn và nhận ra Người chính là Con Thiên Chúa. Từ nơi thập giá mà người đời cho là thất bại, là sự nhục nhã, Chúa Giêsu đã tỏ bày Vương Quyền của Người. Đó là Vương Quyền không chia sẻ và truyền ngôi theo thế tục, vì Nước của Người không thuộc về thế gian này. Đây còn là cách thế biểu lộ uy quyền khác hẳn với mọi đế chế hay quyền bính của thế gian. Không bằng vũ lực, nhưng bằng tự hạ nhục nhã của tình yêu dâng hiến mạng sống vì nhân loại.

Chúa Giêsu không dùng sức mạnh để chiến thắng, không dùng những điều kỳ điệu để thuyết phục lòng tin, và cũng không dùng quyền năng của mình để thống trị. Người dùng tình yêu thương mà phục vụ, vì vậy Vương Quyền của Đức Kitô là biểu lộ sức mạnh của một tình yêu phục vụ. Trong thư gủi tín hữu Côlôsê, Thánh Phaolô đã xác quyết: Đức Kitô làm bá chủ nuôn loài, tất cả được tạo dựng và cứu độ bởi Người, trong Người và với Người. Thánh Phaolô đặc biệt muốn lưu ý chúng ta đến việc phục sinh. Chính mầu nhiệm sống lại đã làm Đức Giêsu trở thành trưởng tử giữa các loài thọ tạo, để ai theo Người và nhận sự hướng dẫn, lãnh đạo của Người sẽ được Chúa cho khỏi chết trong tội lỗi mà được sống lại trong ân sủng. Như Chúa đã từng nói: Khi nào được treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta. Và trên thập giá Người đã bị treo lên, chính lúc ấy Chúa đã kéo mọi người lên với Người. Từ anh trộm lành, viên sĩ quan cho đến mọi người tin vào Chúa qua muôn thế hệ, tất cả đều được kéo lên.

Chính trong tận cùng của nỗi đau, của cái chết, đã nảy sinh công chính, hòa bình và niềm hy vọng một cuộc sống mới trong Nước của Đức Giêsu Kitô. Vương Quốc của Ngài chính là vương quốc của tình yêu. Và Đức Giêsu là vị Vua của tình yêu đã chiến thắng đau khổ và sự chết, mang lại cho con người sự sống bất tử trong tình yêu Thiên Chúa.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Việc chống đối phục vụ cho chiến tranh vì lương tâm có lựa chọn, có thêm những nỗ lực mới
Bùi Hữu Thư
07:38 14/11/2010
Hoa Thịnh Đốn (Cơ Quan Thông Tấn Công Giáo Hoa Kỳ: CNS) – Khi Hoa Kỳ có việc động viên, tình trạng chống đối việc đầu quân vì lương tâm đã được tất cả những người phản đối mọi cuộc chiến và không muốn phục vụ trong quân đội hưởng ứng.

Nhưng đã nhiều thập niên qua, quốc gia này đã chỉ thâu nhận những quân nhân tình nguyện, việc chống đối vì lương tâm lại xẩy ra đối với những người đã tình nguyện đầu quân, nhưng một khi vào quân ngũ, họ lại có những uẩn khúc về luân lý đối với cuộc chiến họ phải tham gia.

Một chiến dịch mới đang tìm cách cho họ có một lối thoát dễ dàng hơn về tình trạng được mệnh danh là chống đối vì lương tâm có lựa chọn.

Anh Logan Mehl-Laituri đã phục vụ trên sáu năm trong Bộ Binh Hoa Kỳ, kể cả 14 tháng trên chiến trường Iraq như một quan sát viên Pháo Binh tiền phong, chịu trách nhiệm điều khiển các vũ khí tác xạ trúng đích.

Còn anh Camilo Mejia đã phục vụ gần chín năm trong Bộ Binh Hoa Kỳ và Dân Vệ Quốc Gia tại Florida, và đã được thăng cấp Trung Sĩ Nhất. Năm 2003 anh được gửi đi Iraq làm tiểu đội trưởng một tiểu đội tác chiến, ngay trước khi anh hoàn tất tám năm quân ngũ.

Mặc dù cả hai người có nhiều năm kinh nghiệm trong quân ngũ và đã tình nguyện để đi tác chiến, cả hai đã quyết định có những nghi ngờ quan trọng về tình trạng luân lý của cuộc chiến này, và họ muốn bỏ cuộc.

Mehl-Laituri thành công trong việc đạt được tình trạng giải ngũ danh dự. Còn Mejia lại theo một đường lối khác, chính anh không khuyên người khác noi theo.

Sau khi đã phục vụ tại Iraq được sáu tháng, anh được đi phép về thăm nhà trong hai tuần. Mejia quyết định không trở lại căn cứ vì anh có những nghi ngờ trầm trọng về luân lý đối với cuộc chiến.

Sau năm tháng trốn tránh, anh đã họp báo để giải thích tình trạng của anh và anh đầu thú với giới chức quân sự. Anh bị đưa ra tòa án quân sự và bị kết án là đào ngũ và bị lên án chín tháng tù.

Cả Mejia lẫn Mehl-Laituri đều cố gắng vận động để được hưởng quy chế chống đối vì lương tâm. Mejia đã hết đường chống án lên các tòa án quân sự và hiện nay đã xin tòa án Liên Bang xét xử.

Hiện nay cả hai người đều đang đi thuyết trình để hỗ trợ cho một phúc trình mới của Uỷ Ban Tìm Kiếm Sự Thật về Lương Tâm trong Chiến Tranh. Uỷ ban này có một gia trang tại: www.conscienceinwar.org. Ủy Ban kêu gọi tái duyệt xét quy luật của Quân Đội Hoa Kỳ cho phép các cá nhân được phản đối phục vụ trong một cuộc chiến đặc biệt nào đó.
 
Tông huấn "Lời Chúa" của Đức Bênêđictô XVI (1)
Vũ Văn An
18:53 14/11/2010
Ngày 11 tháng 11 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã ban hành Tông Huấn “Lời Chúa” dựa vào các khuyến cáo của Cuộc Họp Thường Lệ Lần Thứ Mười Hai của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Vatican trong các ngày 5-26 tháng Mười năm 2008, năm kính Thánh Phaolô. Chủ đề của cuộc họp đó là “Lời Chúa trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội”. Đây là một tông huấn quan trọng của Đức Bênêđíctô XVI, khiến Đức Tổng Giám Mục Nikola Eterovíc, Tổng Thư Ký Thượng Hội Đồng gọi ngài là “Giáo Hoàng của Lời Chúa” (Zenit, 12/11/2010). Thuật ngữ này quả không ngoa, vì hẳn ai cũng rõ: ngài vốn là chủ tịch của Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, một Ủy Ban từng cho công bố một tài liệu quan trọng về việc giải thích Thánh Kinh trong Giáo Hội Công Giáo vào năm 1993. Tài liệu thông sáng này không những được các giới trong Giáo Hội chào đón, mà còn được nhiều học giả bên ngoài Giáo Hội hoan nghênh (xem The Interpretation of The Bible In The Church, edited by J.L. Houlen, SCM Press Limited, London, 1995). Nhận thấy đây là một văn kiện quan trọng, chúng tôi sẽ lần lượt chuyển nó sang tiếng Việt.

NHẬP ĐỀ

“Lời Chúa tồn tại đến muôn thuở muôn đời. Lời ấy chính là Tin Mừng đã được rao giảng cho anh em” (1 Pr 1:25; xem Is 40:8). Với lời quả quyết trích từ Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô, chúng ta đang đứng trước mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng đã tự mạc khải bằng chính ơn phúc lời Người. Lời tồn tại muôn đời này đã bước vào thời gian. Thiên Chúa nói Lời Người theo ngôn ngữ con người; Lời Người đã “trở thành xác thịt” (Ga 1:14). Đó chính là Tin Mừng. Đó chính là lời công bố đã từ bao thế kỷ qua truyền đến chúng ta ngày nay. Phiên Họp Toàn Thể Thường Lệ Lần Thứ Mười Hai của Thượng Hội Đồng Giám Mục, tổ chức tại Vatican từ ngày 5 tới ngày 26 Tháng Mười Năm 2008, đã lấy chủ đề: “Lời Chúa trong Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội”. Đó là một kinh nghiệm sâu sắc của cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, Lời của Chúa Cha, Đấng vốn hiện diện tại nơi có 2 hay 3 người tụ họp nhau nhân danh Người (xem Mt 18:20). Với Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng này, tôi muốn đáp ứng lời thỉnh cầu của Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng xin được công bố cho Dân Chúa các thành quả phong phú từng phát sinh từ các buổi thảo luận tại Thượng Hội Đồng cũng như các khuyến cáo do các cố gắng chung của chúng ta đưa ra (1). Do đó, tôi muốn duyệt lại công trình của Thượng Hội Đồng dựa vào các văn kiện của nó: Bản Sơ Đồ, Tài Liệu Làm Việc, Phúc Trình Trước và Sau Thảo Luận, các bản góp ý, cả những bản được phát biểu tại phòng Thượng Hội Đồng lẫn các bản viết, phúc trình của các nhóm thảo luận nhỏ, Sứ Điệp Sau Cùng gửi Dân Chúa và trên hết, một số đề nghị đặc thù được các nghị phụ coi là có ý nghĩa đặc biệt. Qua đó, tôi muốn chỉ ra các phương thức căn bản để tái khám phá Lời Chúa trong đời sống của Giáo Hội như một nguồn suối bất tận luôn luôn đổi mới. Đồng thời, tôi muốn nói lên niềm hy vọng rằng Lời Chúa sẽ mỗi ngày một trở nên tâm điểm trọn vẹn hơn của mọi sinh hoạt trong Giáo Hội.

Để niềm vui của chúng ta nên trọn

Trước hết, tôi muốn nhắc tới vẻ đẹp và niềm sảng khoái của cuộc gặp gỡ đổi mới với Chúa Giêsu mà tất cả chúng ta đã cảm nghiệm được trong suốt cuộc họp của Thượng Hội Đồng. Do đó, hiệp nhất với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi xin ngỏ cùng mọi tín hữu bằng lời của Thánh Gioan trong thư thứ nhất của ngài: “chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Giêsu Kitô, con của Người” (1 Ga 1:2-3). Thánh Tông Đồ nói với chúng ta về việc “nghe, thấy, chạm đến và chiêm ngưỡng” (xem 1 Ga 1:1) Lời hằng sống, vì chính sự sống đã được tỏ bày rõ ràng nơi Chúa Kitô. Được mời gọi hiệp thông với Chúa và với nhau, ta phải công bố ơn phúc này. Theo quan điểm rao giảng, trước mặt Giáo Hội và trước mặt thế giới, cuộc họp của Thượng Hội Đồng đã như một nhân chứng cho ta thấy vẻ đẹp khôn thấu của cuộc gặp gỡ Lời Chúa trong hiệp thông Giáo Hội. Chính vì vậy, tôi khuyến khích mọi tín hữu hãy đổi mới cuộc gặp gỡ bản thân và cộng đoàn của họ với Chúa Kitô, Lời hằng sống đã trở nên hữu hình, và trở thành sứ giả của Người, để ơn phúc sự sống và hiệp thông đầy thần linh này được truyền bá trọn vẹn hơn trên khắp thế giới. Thực thế, chia sẻ sự sống Thiên Chúa, tức Ba Ngôi tình yêu, chính là niềm vui trọn vẹn (xem 1 Ga 1:4). Và Giáo Hội được hồng ân và có bổn phận nhất thiết phải truyền đạt niềm vui ấy, một niềm vui vốn phát sinh từ cuộc gặp gỡ với chính ngôi vị Chúa Kitô, Lời Thiên Chúa ở giữa chúng ta. Trong một thế giới thường coi Thiên Chúa như dư thừa hay xa lạ, ta hãy cùng Thánh Phêrô tuyên xưng rằng chỉ một mình Người mới “có lời hằng sống” (Ga 6:68). Không có ưu tiên nào lớn hơn điều này: giúp con người thời nay có khả năng gặp gỡ Thiên Chúa nhiều hơn, Đấng Thiên Chúa đang nói với ta và đang chia sẻ tình yêu của Người để ta được sống sung mãn (xem Ga 10:10).

Từ Hiến Chế “Lời Chúa” tới Thượng Hội Đồng về Lời Chúa

Theo một nghĩa nào đó, với Cuộc Họp Thường Lệ Lần Thứ Mười Hai của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa, ta biết ta đang đề cập tới chính trọng tâm của đời sống Kitô Giáo, trong liên tục tính với cuộc họp trước của Thượng Hội Đồng về Phép Thánh Thể như Nguồn Suối và Tuyệt Đỉnh Đời Sống và Sứ Mệnh của Giáo Hội. Thực thế, Giáo Hội được xây dựng trên Lời Chúa; Giáo Hội được sinh ra và sống bằng Lời ấy (2). Trong suốt lịch sử của mình, Dân Chúa luôn tìm được sức mạnh nơi Lời Thiên Chúa, và cả ngày nay nữa, cộng đồng Giáo Hội cũng đang lớn lên nhờ nghe, cử hành và học hỏi Lời ấy. Ta phải nhận rằng trong mấy thập niên gần đây, đời sống Giáo Hội đã trở nên nhạy cảm hơn đối với chủ đề này, nhất là đối với mạc khải Kitô Giáo, thánh truyền sống động và Sách Thánh. Bắt đầu với trriều đại của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, ta có thể nói: trong sinh hoạt Giáo Hội, đã có nhiều can thiệp hơn nhằm thúc đẩy người ta ý thức nhiều hơn tới tầm quan trọng của Lời Chúa và việc học hỏi Thánh Kinh (3), mà đỉnh cao là Công Đồng Vatican II, nhất là việc công bố Hiến Chế Tín Lý về mạc khải Thiên Chúa, tức hiến chế “Lời Chúa” (Dei Verbum). Hiến chế này là dấu mốc lớn trong lịch sử Giáo Hội: “Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng… với lòng biết ơn, nhìn nhận ơn ích lớn lao mà văn kiện này đã đem đến cho đời sống Giáo Hội trên bình diện giải thích, thần học, tu đức, mục vụ và đại kết” (4). Các năm giữa khoảng thời gian đó cũng đã chứng kiến sự gia tăng ý thức về “chiều kích Ba Ngôi và lịch sử cứu độ của mạc khải” (5) căn cứ vào đó, Chúa Giêsu Kitô đã được nhìn nhận là “đấng trung gian và sự viên mãn của mọi mạc khải” (6). Giáo Hội không ngừng công bố cho mọi thế hệ biết rằng Chúa Kitô “hoàn tất và hoàn hảo hóa mạc khải. Mọi sự có dính dáng tới sự hiện diện và sự tự mạc khải của Người đều can dự vào việc hoàn thành điều này: lời và việc, các dấu lạ và phép lạ của Người, nhưng trên hết là cái chết và sự phục sinh của Người và sau hết là việc người sai Thần Khí sự thật đến” (7).

Mọi người đều ý thức được sự thúc đẩy lớn lao mà Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” từng đem lại cho việc làm sống lại sự quan tâm đối với Lời Chúa trong đời sống Giáo Hội, cho suy tư thần học đối với mạc khải Thiên Chúa và cho việc học hỏi Sách Thánh. Trong 40 năm qua, huấn quyền Giáo Hội cũng đã ban hành nhiều tuyên bố về các vấn đề này (8). Khi cử hành Thượng Hội Đồng này, Giáo Hội, vì ý thức được cuộc hành trình liên tiếp của mình dưới sự dìu dắt của Chúa Thánh Thần, nên đã cảm thấy có bổn phận phải suy gẫm nhiều hơn nữa về chủ đề Lời Chúa, để xem sét lại việc thực thi các chỉ thị của Công Đồng, và để giáp mặt với các thách đố mới mà thời hiện đại đang đặt ra cho các tín hữu Kitô Giáo.

Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa

Trong kỳ họp lần thứ mười hai, các giám mục khắp thế giới đã tụ họp quanh Lời Chúa và tượng trưng đặt bản văn Thánh Kinh làm tâm điểm cho cuộc họp, ngõ hầu nhấn mạnh như mới điều mà ta liều mình coi như việc đương nhiên trong cuộc sống hàng ngày: đó là sự kiện Thiên Chúa nói và trả lời các vấn nạn của ta (9). Ta đã cùng nhau lắng nghe và cử hành Lời Chúa. Ta thuật lại cho nhau mọi điều Thiên Chúa làm giữa Dân Người, và ta chia sẻ với nhau mọi hy vọng và quan tâm của ta. Tất cả những việc này giúp ta nhận ra rằng ta chỉ có thể thâm hậu hóa mối liên hệ của ta với Lời Chúa trong cái “chúng tôi” của Giáo Hội, trong việc lắng nghe và chấp nhận lẫn nhau. Bởi đó, ta biết ơn nhiều lời chứng về đời sống Giáo Hội tại nhiều nơi trên thế giới đã được phát biểu trong các đóng góp tại phòng Thượng Hội Đồng. Cũng là điều cảm động được nghe các vị đại biểu anh em từng nhận lời mời của chúng ta đến đây tham dự cuộc họp thượng hội đồng này. Tôi đặc biệt nghĩ tới bài suy gẫm do Đức Bartholomaios I, Thượng Phụ Đại Kết của Constantinople, trình bày với chúng ta, một bài suy gẫm mà các Nghị Phụ đánh giá rất cao (10). Ngoài ra, lần đầu tiên trong lịch sử, Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng đã mời một giáo sĩ Do Thái Giáo tới để trình bày với ta lời chứng qúy giá về Thánh Kinh Do Thái, vốn cũng là một phần trong Sách Thánh của ta (11).

Nhờ thế, ta có thể vui mừng và biết ơn nhìn nhận rằng “trong Giáo Hội ngày nay cũng đang có một Lễ Hiện Xuống, nói cách khác, Giáo Hội cũng đang nói bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, không phải chỉ là bề ngoài, theo nghĩa mọi ngôn ngữ lớn trên thế giới đều có đại diện trong Giáo Hội, nhưng một cách sâu sắc hơn, trong Giáo Hội còn hiện diện nhiều cách cảm nghiệm Thiên Chúa và thế giới khác nhau, rất nhiều nền văn hóa khác nhau, vì chỉ có thế, ta mới nhìn ra sự rộng lớn mênh mông của kinh nhgiệm nhân bản và do đó, sự rộng lớn mênh mông của Lời Chúa (12). Ta cũng có thể nhìn thấy một lễ Hiện Xuống đang tiếp diễn; nhiều dân tộc vẫn còn đang mong chờ Lời Chúa được công bố trong chính ngôn ngữ và văn hóa của họ.

Tôi làm sao quên không nhắc đến việc: trong suốt Thượng Hội Đồng, chúng ta luôn được chứng tá Thánh Tông Đồ Phaolô tháp tùng! Quả là một ơn quan phòng khi Cuộc Họp Thường Lệ Lần Thứ Mười Hai diễn ra trong năm kính Thánh Tông Đồ vĩ đại của Các Dân Tộc nhân kỷ niệm hai ngàn năm ngày sinh của ngài. Cuộc sống của Thánh Phaolô hoàn toàn được đánh dấu bằng lòng nhiệt thành truyền bá Lời Chúa. Làm sao không bị đánh động bởi những lời đầy khích lệ của ngài nói về chính sứ mệnh rao giảng Lời Chúa của mình: “Tôi làm mọi sự cho Tin Mừng” (1 Cor 9:23); hay, như ngài viết trong Thư Gửi Tín Hữu Rôma: “Tôi không xấu hổ vì Tin Mừng; nó là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu rỗi bất cứ ai có lòng tin” (1:16).

Bất cứ khi nào ta suy niệm Lời Chúa trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội, ta đều không thể không nghĩ tới Thánh Phaolô và cuộc sống của ngài hiến mình cho việc truyền bá sứ điệp cứu rỗi trong Chúa Kitô cho mọi dân tộc.

Tự ngôn trong Tin Mừng Thánh Gioan làm kim chỉ nam

Với tông huấn này, tôi muốn công trình của Thượng Hội Đồng có hiệu quả thực sự đối với đời sống Giáo Hội: trong mối liên hệ bản thân với Sách Thánh, trong việc giải thích chúng trong phụng vụ và giáo lý, và trong việc tìm tòi có tính khoa học, để Thánh Kinh không phải chỉ là lời của quá khứ, mà là lời đang sống và hợp thời. Để đạt được điều đó, tôi muốn trình bày và khai triển công khó của Thượng Hội Đồng bằng cách không ngừng tham chiếu Tự Ngôn trong Tin Mừng Thánh Gioan (Ga 1:1-18), là tự ngôn giúp ta hiểu căn bản đời sống ta: Ngôi Lời, từ nguyên thủy vốn ở với Thiên Chúa, nay đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (xem Ga 1:14). Đây là một bản văn tuyệt vời, một bản văn mang đến cho ta một tổng hợp về toàn bộ niềm tin Kitô Giáo. Từ chính kinh nghiệm bản thân được gặp và bước theo Chúa Kitô, Thánh Gioan, mà truyền thống vốn nhận diện như là “môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương” (Ga 13:23; 20:2; 21:7, 20), “đạt được một sự chắc chắn sâu xa: Chúa Giêsu là Sự Khôn Ngoan nhập thể của Thiên Chúa, Người là Lời đời đời đã trở nên con người hay chết” (13). Ước chi Thánh Gioan, người “đã thấy và đã tin” (xem Ga 20:8) cũng giúp chúng ta biết tựa vào ngực Chúa Kitô (xem Ga 13:25), nguồn máu và nước (xem Ga 19:34) vốn là các biểu tượng của các bí tích trong Giáo Hội. Theo gương Thánh Tông Đồ Gioan và các tác giả linh hứng khác, ước chi ta để Chúa Thánh Thần dẫn ta tới một tình yêu lớn hơn đối với Lời Chúa.
 
Đức Thánh Cha Benedict XVI được coi như là Đức Giáo Hoàng của Phúc Âm
Bùi Hữu Thư
22:10 14/11/2010
Các giám mục thảo luận về Huấn Dụ "Verbum Domini"

VATICAN, ngày 12, tháng 11, 2010 (Zenit.org).- Có lẽ cần phải chú tâm trở lại với Phúc Âm, chính vì thế mà Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2008 đã có chủ đề là Lời Chúa trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội.

Đây là lời đề nghị cuả Đức Hồng Y được chỉ định, Gianfranco Ravasi, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hóa, khi ngài trình bầy Huấn Dụ "Verbum Domini," là tài liệu sau thượng hội đồng và là kết quả cuả hội đồng này.

Huấn dụ thứ hai của Đức Thánh Cha Benedict XVI được phổ biến ngày Thứ Năm, và được ký ngày 30 tháng 9 là ngày lễ Thánh Giêrôm.

Đức Hồng Y Marc Ouellet, tổng trưởng thánh bộ Giám Mục, cũng như Đức Tổng Giám Mục Nikola Eterović, tổng thư ký và Đức Ông Fortunato Frizza, thư ký phụ tá thượng hội đồng giám mục, cũng tham gia trong việc trình bầy tài liệu.

Đức Tổng Giám Mục Eterović giải thích rằng tiêu đề của tài liệu “Lời Chúa”, ám chỉ sự tiếp diễn liên tục giữa Cựu Ước và Tân Ước.

Ngài ghi nhận rằng có nhiều mục tiêu của tài liệu, kể cả việc tái khám phá Lời Chúa như suối nguồn vĩnh cửu của việc canh tân giáo hội và cổ võ cho việc tân Phúc Âm hoá.

Đức Hồng Y được chỉ định, Gianfranco Ravasi nói tài liệu này có tính cách “thần học và mục vụ cao siêu.”

Ngài cũng nói rằng đây là một lời mời gọi dẫn giải Thánh Kinh đúng đắn. Về phương diện này, Đức Hồng Y tương lai lưu ý về sự nguy hại của các nhóm thần học cơ bản, “đôi khi đã sử dụng bản dịch của một bản dịch từ tiếng Anh ra.”

Ngài nói, đối với thuyết cơ bản về Phúc Âm, “trung thành về từ ngữ trở nên bất trung đối với nội dung.”

Đức Tổng Giám Mục Eterović cũng nói về các công cụ giúp đào sâu việc suy niệm điệp văn của Lời Chúa. Ngài không những chỉ đề cập đến phụng vụ, mà còn nhắc đến các sứ vụ truyền giáo và các chuyến hành hương.

Và ngài nói Đức Thánh Cha Benedict XVI, ngoài việc tổng hợp các điểm chính của thượng hội đồng, còn làm sáng tỏ các chủ đề bằng các yếu tố trong huấn quyền của ngài.

Đức Tổng Giám Mục nói, "Người ta có thể kết luận rằng, Đức Thánh Cha Benedict XVI có thể được mô tả là Đức Giáo Hoàng của Lời Chúa.”

Mầu nhiệm tình yêu

Đức Hồng Y Ouellet nói tài liệu này cho thấy “Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta như một mầu nhiệm của tình yêu vô biên trong đó từ muôn thuở Chúa Cha đã bầy tỏ Lời Người trong Chúa Thánh Thần.”

Ngài tiếp, "Ngôi Lời, ngay từ nguyên thủy đã ở với Thiên Chúa, và cũng là Thiên Chúa, bầy tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa trong đối thoại của tình yêu giữa Ba Ngôi thiêng liêng và mời gọi chúng ta tham gia.”

Đức Hồng Y chỉ dẫn rằng "Verbum Domini" đáp ứng cho nhu cầu của Giáo Hội vào lúc khởi đầu của thiên niên kỷ thứ ba. Ngài giải thích rằng trong thế kỷ 20 có một ý thức ngày càng gia tăng về nhu cầu cuả Lời Chúa trong các vấn đề như việc cải tổ phụng vụ, giáo lý và học hỏi Thánh Kinh, nhưng “vẫn có một sự khiếm khuyết phải lấp đầy về đời sống thiêng liêng của Dân Chúa."

Đức Hồng Y tiếp, "Dân Chúa có quyền phải được trọn vẹn linh hứng và nuôi dưỡng bởi một lối tiếp cận Thánh Kinh bằng nhiều lời cầu nguyện hơn và của giáo hội hơn.”

Ngài cũng đề cập đến trên 40 trang Đức Thánh Cha Benedict XVI dành cho nhu cầu phải trình bầy một Khoa Chú Giải theo một đường lối “trong sáng và xây dựng”, và ngài cũng khuyến khích các học giả Thánh Kinh, thần học gia, và chủ chiên tham gia vào “một cuộc đối thoại xây dựng về đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội.”

Đối với Đức Hồng Y Ouellet, "Verbum Domini" nhấn mạnh về các yếu tố như chiêm niệm cá nhân, phụng vụ, và đời sống cá nhân và cộng đồng của các tín hữu.

Ngài tiếp, "Huấn dụ cũng tái đề xướng các hoạt động truyền giáo và phúc Âm hóa, và canh tân ý thức của Giáo Hội là được yêu thương và sứ mệnh của Giáo Hội là để rao giảng Lời Chúa một cách hùng mạnh và đáng tin tưởng. "
 
Top Stories
Father Rosica's Address to Vocation Director Convention
Rosica
16:17 14/11/2010
"Reflections on Pastoral Leadership and Ministry in the Church of 2010 and Beyond"

MILWAUKEE, Wisconsin, NOV. 13, 2010 (Zenit.org).- Here is the keynote address Basilian Father Thomas Rosica, the C.E.O. of the Salt and Light Catholic Media Foundation, delivered Sept. 14 to the 47th Convention of the National Conference of Diocesan Vocation Directors, the Midwest Association of Theological Schools, and the Seminary Division of the National Catholic Education Association. The address is titled "Reflections on Pastoral Leadership and Ministry in the Church of 2010 and Beyond."

* * *

Dear Friends,
Brothers and Sisters in Christ,

Thank you for the privilege of addressing this important and impressive international assembly of the National Conference of Diocesan Vocation Directors [NCDVD]; the Midwest Association of Theological Schools [MATS] and the Seminary Division of the National Catholic Education Association [NCEA]. Your invitation to me arrived over two years ago and I have given much thought to the theme you have chosen and the presentation I am about to give. I come to you as a member of a Religious Congregation -- the Basilian Fathers -- whose roots are in the diocesan priesthood of early 19th century France. Our raison d'être in the beginning was the formation of the local clergy in the aftermath of the French Revolution.

My reflections are based on many years of experience with those preparing for priestly ministry in the Church -- in both diocesan seminaries and religious life -- as well as with young priests, and those who work in seminaries, theological faculties and formation settings. In addition to working with those preparing for ministry, the experiences of teaching Sacred Scripture to candidates for ministry, of working in university chaplaincy, preaching priests' retreats, leading a World Youth Day, serving in congregational administration and heading a National Catholic Television Network in these turbulent times have offered me invaluable insights into the lives and hopes of young adults today. I have learnt much about the challenges facing those in ministry, and those whom we strive to serve.

Doing the will of the Lord

My starting point for this address is found in the homily of Pope Benedict XVI at the Mass for the Inauguration of his Petrine Ministry on April 24, 2005. In that very moving, programmatic address, Benedict XVI said: "Dear friends! At this moment there is no need for me to present a programme of governance. …My real programme of governance is not to do my own will, not to pursue my own ideas, but to listen, together with the whole Church, to the word and the will of the Lord, to be guided by Him, so that He himself will lead the Church at this hour of our history."

Imagine Joseph Ratzinger, now Benedict XVI, one of the greatest theologians and minds of the Church, announcing to the Church and the world that he has come not to do his own will, but to listen, together with the whole Church, to the word and the will of the Lord, to be guided by the Lord, so that the Lord himself will lead the Church at this hour of our history! What powerful words to be taken to heart for each of us entrusted with priestly and pastoral ministry!

These words are very fitting for the theme of this conference in Milwaukee: "Thy will be done." The will of God is first of all the comprehensive plan of God for the universe and history. It is the marvelous plan through which the Father, "destined us for adoption as his children through Jesus Christ, according to the good pleasure of his will" (Ephesians 1:5). The same expression "thy will be done" can refer also to any singular expression of the will of God. This "will" must be done first of all by God; it is God who fulfills his plan of salvation for the world.

Far from meaning some kind of passive, helpless abandonment to fate or circumstance, the "will of God" surpasses our wildest imagination and dreams, and reveals God's immense, providential, merciful care for each and everyone of us. To allow God's will to be done in us requires a conscious, decided "yes" or "fiat" on our part, and a sweet and sometimes bittersweet surrender so that something great may happen in us, through us, because of us and even in spite of us.

A vocation is not self-centered but comes to maturity in the context of a living, breathing, faith community. Allow me to share with you some reflections on our life together in the Church. What are the implications of doing God's will in vocation and formation ministry in the Church today? What are the challenges and opportunities before us as we try to understand and do the will of God, and as we help the young people entrusted to us to discern God's will for them? How is our priesthood related to the priesthood of Jesus, the eternal high priest? How is the will of God manifested to us? How is the will of God done in and through us?

I would also like to address several important questions that are surfacing among those preparing for ministry, and those recently ordained. Why are candidates for ministry and newly ordained priests raising questions about the validity and enduring significance of the teachings of the Second Vatican Council? Why does there seem to be a fascination with old liturgical practice and things that appear to be external and superficial? Why is the divide growing between younger priests and older priests? How can we foster dialogue and build bridges between the generations of the presbyterate?

The Prophetic Priesthood of Jesus Christ

Before we speak of formation for ministry and the exercise of our priestly ministry, we must look carefully at the priesthood of Jesus Christ. Jesus was not a priest after the Jewish tradition. He did not belong to the line of Aaron but to that of Judah, and thus the path of priesthood was legally closed to Him. The person and activity of Jesus of Nazareth did not follow in the line of the ancient priests, but in that of the tradition of the prophets of ancient Israel. As Pope Benedict pointed out in his homily for the Solemnity of Corpus Christi in Rome on June 3, 2010: "Jesus distanced Himself from a ritualistic conception of religion, criticizing the approach that attributed value to human precepts associated with ritual purity rather than to the observance of God's commandments; that is, to love for God and for neighbor, which 'is much more important than all whole burnt offerings and sacrifices'.. .. Even His death, which we Christians rightly call 'sacrifice', was completely unlike the ancient sacrifices, it was quite the opposite: the execution of a death sentence of the most humiliating kind: crucifixion outside the walls of Jerusalem"

Unlike the Levitical priests, the death of Jesus was essential for his priesthood. He is a priest of compassion. His authority attracts us- because of his compassion. Ultimately, Jesus exists for others, he exists to serve. He has been tested in all respects like us- he knows all of our difficulties; he is a tried man; he knows our condition from the inside and from the outside -- only by this did he acquire a profound capacity for compassion. For one must have suffered in order to truly feel for others. The priesthood of Christ involves suffering. Jesus truly suffered and He did so for us. He was the Son and had no need to learn obedience, but we do, we needed it and we will always need it. Thus the Son assumed our humanity and, for us, allowed Himself to be 'educated' in the crucible of suffering, he allowed himself to be transformed by suffering, like the seed which to bring forth fruit must die in the earth. Without this fundamental principle and vision, any of our efforts to form the Church of Jesus Christ are in vain.

The lasting significance of Vatican II

When Pope Benedict met with the Roman Curia to offer his first Christmas greetings as Pope back in December 2005, he offered a long analysis of the legacy left by the 1962-1965 gathering of the world's bishops (known as the Second Vatican Council). This papal address is absolutely essential to our understanding of what Benedict is trying to offer the Church through his Pontificate.

One of the most important duties and responsibilities of the Successor of Peter and Vicar of Christ is to preserve the unity of the Church. Benedict, in particular, feels deeply responsible for unity, and cares for hose who still today find themselves outside of ecclesial communion, but also of those who find themselves in a state of tension within it, and he invites all to a reciprocal openness within the unity of the same faith… that same unity and faith which inspired John XIII fifty-one years ago to convene the Council, and moved and animated Paul VI, John Paul I and John Paul II in their heroic efforts to give flesh and blood to the Second Vatican Council.

Nevertheless, there have been several significant events, statements, and misunderstandings these past years that have left us all perplexed. Are we turning the clock back on Vatican II? Are we trying to erase what the Council taught? In particular, in the area of liturgy, is there an effort to go backward rather than forward? I have been concerned that among younger clergy and even those in formation, there seems to be a greater interest in and familiarity with recent "Motu Proprios" rather than Conciliar documents. There appears to be a trivialization, a fastidious and affected attention to externals more than a deep desire to find meaning, and foster reverence and respect for the Sacred Liturgy.

The pillar of the renewal of priestly life is the liturgy. If the priest does not rediscover the true meaning of the liturgy in his life, he cannot find himself. The liturgy is the place of education to communion. The protagonist of the liturgy is Christ, not the Pope, the Cardinals in Rome, and not even the parish priest. By living the liturgy, we can enter into the life of God, and only thus can we priests journey effectively with the men and women of our time and of all time. Nevertheless the liturgical reform must concern itself not only with texts and ceremonies, rubrics and rituals, vestments and the number of candlesticks on altars, but also with the spiritual hungers of human communities that we serve. Without authentic evangelization, participation in the liturgy is ultimately hollow– an aesthetic pastime or a momentary palliative; without the works of justice and charity, participation in the liturgy is ultimately deceptive, playing church rather than being church.

Nor can we forget that permission for the "Extraordinary Rite" of the Mass was granted for the sake of unity in the Church and nothing else. "The Extraordinary Rite" is exactly that: extraordinary. What is ordinary is what the vast number of our faithful celebrate each week. To impose what was meant to be "extraordinary" on ordinary situations does a great disservice to the unity of the Church and goes against the intent of the Holy Father. To misuse the special permission of the Holy Father for the Extraordinary Rite for political motives causes division. We must be about the work of unity in a Church that is often so divided.

Another perplexing reality I have encountered, especially among those in formation and those newly ordained, has been in the area of Sacred Scripture and preaching. A number of students, usually in their final years of the Master of Divinity or Master of Pastoral Theology program have complained saying they would never take another Scripture course again; that their previous Scripture courses had nothing to do with the reality of the church and liturgy and that the courses were "without a soul". This topic was addressed numerous times at the recent 2008 Synod of Bishops on the Word of God in the Life and Mission of the Church, a Synod which I experienced in a very significant way, having served as the English language media attaché to this historic, world-wide gathering at the Vatican.

One cause of the present disinterest and seeming impasse in Scriptural studies has been the atomization and dissection of the Scriptures, and a lack of integration of biblical studies with faith and lived spirituality. Are today's Catholic Scripture scholars and teachers adequately prepared to draw from their exegetical knowledge and their own life of faith and prayer to help fellow Catholics discover the meaning of the biblical Word today?

In his 2001 brilliant and synthetic Apostolic Letter Novo Millennio Ineunte at the close of the Great Jubilee, Pope John Paul II highlighted seven pastoral priorities that are key to effective pastoral ministry today: holiness, prayer, Sunday Eucharist, sacrament of reconciliation, the primacy of grace, and listening to the Word and proclaiming the Word. The Word of God must be at the centre of our priestly lives and ministries. It is fundamental to the preparation of those preparing for priestly ministry. Unless we build our lives upon its rock-solid foundation, we will not have any roots.

Moving Beyond Ideology

We must be honest and admit that today, some of us are still stuck in the ideological battles that followed the Second Vatican Council. Perhaps we are frozen in categories of left and right; traditional vs. avant-garde; male vs. female; hierarchical vs. lay-led, or prophetic vs. static. Excessive tensions arising from Church politics, gender issues, liturgical practices, language, confusion over the "spirit of Vatican II" and not the whole message of the Second Vatican Council -- all of these influence today's candidates for ministry in the Church. Our inter-ecclesial and inter-community fixations and polarizations on all sides of the ecclesial spectrum can distract us from addressing with requisite depth and discernment the issues facing us today.

Many of today's young adults, including young priests and those discerning or preparing for ordained ministry, are searchers and seekers who desire to be truly Catholic. They seek nourishment in piety and devotion in ways very different from our own. They engage freely and generously in the works of social justice. They refuse to allow themselves to be ensnared by political or politically correct polarization or fashionable ideologies which are ready to exploit their human potential.

Whatever is not purified and transformed within us is transmitted to others- especially to the next generation. When we sell ourselves to cynicism and despair, meanness of heart, smallness of spirit and harshness in ecclesial discourse, we betray our deepest identity as bearers of joy, hope and truth. The manifestations of the Spirit must be accompanied by positive energy- because they are liberating. They ultimately set people free, and do not lead them into depression, sadness, cynicism, indifference or anger.

We must honestly ask ourselves individually and collectively: What ideologies have dominated our lives? How do we minister beyond ideology? What have been the dominant ecclesial ideologies at work among us? Is joy present in our priestly witness? What prevents me as an individual and us as a community from giving a robust, joyful witness to Jesus Christ, the Catholic Faith and the Church?

Many of us are afraid of the new generation, of their robust sense of Catholicism, their manifestations of piety, their desire to "reclaim" many things that have been lost or forgotten. Deep down inside of many of our hearts, we would like clones of ourselves, and not new, free, thinking beings of a new age. There is a great wisdom to the Church's ban on human cloning!

The younger generation easily uses the word "solid" to describe those who are rooted in tradition and unafraid to manifest authentic piety and devotion. The younger generation is wary of those who equivocate and speak around issues rather than addressing them. What can we learn from their questioning? We must learn that we have to avoid the temptation to fudge -- to adapt the Catholic faith so as to make it palatable to modern tastes and expectations. This so-called "accommodationist" approach generally fails. There is a risk in this approach that the Christian message becomes indistinguishable from everything else on offer in the market stalls of secularized religious faith. We have to be convinced that the fullness of the truth and beauty of the message of Jesus Christ is powerfully attractive when it is communicated without apologies or compromise.

The Second Vatican Council recommends that older priests show understanding and sympathy toward younger priests' initiatives; and it advises young ones to respect the experience of older priests and to trust them; it suggests that both treat each other with sincere affection, following the example of so many priests of yesterday and today; the parish priest and other priests, including the religious, are called upon to testify to communion in everyday life.

The resurgence of triumphalism, juridicism and clericalism

Among a particular segment of the Church today, and among some of our young people preparing for ministry or recently ordained, there is a resurgence of triumphalism. The triumphalist approach would like Church leaders and pastors to exercise authority through aggressive condemnation and excommunication and believes that the Church not only has the truth but also all the answers to every modern dilemma! How many of this group would like to use a Catholic Television Network to be the voice piece for such an ecclesial view! Woe to me if I do that with Salt + Light Television!

Jesus Christ is indeed the Truth, and the fullness of that truth is found in the Roman Catholic Church, but we must seek out with humility and in light of the Gospel how to respond to the many and varied demands of living in today's world. The Church must always proclaim the truth in love and charity. We do not impose the gospel on the world, but propose its alternative vision of compelling beauty, a beauty rooted in faith and reason. We seek to persuade by grace, truth and beauty through our liturgies, our pastoral programs and teaching moments.

Recently we have received a number of requests from our younger viewers and some younger clergy to "feature" the "old vestments" on our liturgical broadcasts. A fascination with such displays is symbolic of an ongoing "restorationism" in various pockets of the Church and represents an attempt to return to a triumphal past that the young never knew. In the midst of a world-wide pandemic of sex abuse, insistence on these elements is even more disconcerting. What does this message communicate to the world around us?

Again among a particular segment of the Church today, and among some of our young people, there is a resurgence of juridicism that searches out laws new or old to justify personal positions or ideologies in the Church. Juridicists take great delight in focusing on liturgical practices. They often create unnecessary hoops for people to jump through. While the Church needs law to insure good order, the purpose of all laws in the Church is the same as for all the works of the Church: for us, for our good and for our salvation.

There is also an emerging clericalist perspective that exaggerates the authority of the priest or bishop creating a new authoritarianism. The clericalist operates as if ordained ministers are entitled to special status and privilege in the Church and in society. It becomes even more pronounced when vocations are few, and those who are preparing for ministry and those recently ordained manifest a certain sense of entitlement because they have responded to the call while many others have not! Therefore they think that they deserve even more respect in this day and age. Clericalists gives little merit to collaboration with the laity and the involvement of laity. I encounter this on a daily basis in a pocket of our television viewers who would be content with a whole series of "talking head" priests, sisters and Church leaders who simply "talk at people" rather than engage them in mature, adult conversation.

Whenever we are manipulated by or become instruments of political pressure groups or tactics that would like to give the Church such new forms of triumphalism, juridicism, and clericalism, we fail in our mission of helping people to grow into a living, breathing, hopeful Church.

One of the great insights that came to me during the recent "Year of St. Paul" was Paul's tremendous spirit of collaboration with his co-workers. It was not simply a personal style or political ploy imposed by necessity but flowed from the deepest experience of his faith and his theological convictions. Paul of Tarsus knew that every gift, no matter how brilliant, was subordinate to the gift of charity and the bonding of the community. This must be our approach if the church is to be renewed and our mission to the world sustained.

Our current ecclesial reality

How could I stand here before the Seminary Rectors, heads of theologates and Vocation Directors of the United States and Canada without speaking about the ways that we are being pruned as a Church community, as the presbyterate and the episcopate during these very challenging days for the world Church? Over the past year in particular, the tsunami of headlines about abuse of minors by priests and religious in Ireland, Germany, Austria and numerous other countries, and re-runs of old stories from various places have brought the Church to her knees once again. To watch television networks or read the newspapers, one would think that the sexual abuse of children is a uniquely Catholic problem, one indeed facilitated by a wicked lot of priests and bishops.

Is it not true that many of us in the Church today feel like we are caught in a flash flood that is unexpected, powerful, destructive and filled with despair? The refrain sounds all too familiar: "Vocations are down, scandals are up. Problems are more and more complex, and demands are increasing. Complaints are more frequent and more strident. We are dealing with an aging population. We seem to have moved from "mission to maintenance." We feel battered and bruised. The flame seems to have gone out and our influence is terribly diminished. And the list goes on and on… Many of us have been hoodwinked into discouragement.

The media exerts a powerful influence on the thinking, the attitudes and the faith of people. The flash flood bears down with immense force on all of us. Some view our present situation with great pessimism and grow disheartened, depressed, and even cynical. Others don't want to admit what is happening and go whistling in the dark, clinging to the illusion that things definitively past can be recovered and the claims and facts of the present ignored. The media, magnifying various cases of pedophilia throughout the world, have forgotten the great majority of priests and religious who have lived out and continue to live out their fidelity happily and with total and freely given dedication, and whose only goal is to seek God and do good for others.

Just as the Risen Lord entrusted himself into the hands of pathetic, broken people in the beginning, he does the same to us. The full significance of the Ascension of the Lord reminds us that Christ accepts our lack of self-confidence in ourselves. He accepts the shadowy and dark areas of our humanity. He accepts our capacity for deceit, betrayal, abuse, greed and power. And having accepted us, he calls us, gives us the eternal commission to be his people, and sends us to serve him and love him. No one has described this better than John Henry Cardinal Newman who will be proclaimed "blessed" next Sunday. Cardinal Newman wrote:

"He calls us again and again,
in order to justify us again and again-
and again and again, and more and more,
to sanctify and glorify us.
It were well if we understood this;
but we are slow to master the great truth,
that Christ is, as it were,
walking among us, and by his hand, or eye, or voice,
bidding us follow him."

Five holy role models for our time

Throughout last year, we were invited to reflect on the life, message and example of St. John Vianney during the Year of the Priest. The Curé of the little village of Ars in France offered to each of us a sterling example of holiness and virtue, especially through his ministry of reconciliation. Let me offer you five exemplary models of ecclesial ministers who embody a way and message for our own times.

Blessed John Henry Cardinal Newman

The beatification of Cardinal Newman on Sunday September 19, 2010 in Birmingham is a very important event for the universal Church. This 19th-century theologian is considered by many to have anticipated the Second Vatican Council. In all his anticipation he was always very careful to keep a moderate balance. He never went over the top. Rather than highlight his brilliance of theological synthesis and grasp of history, I would like to stress one of his outstanding human qualities: his understanding of friendship.

Friendship is a positive experience in a person's emotional life. In the Church there is still much fear of friendship. Pathologies are not channeled if one is not helped to develop a healthy life. Unhealthy and negative friendships, which because of this are not proper friendships, must not close us off from the essential value of these bonds of preference that open us to the love of others and help us to understand who God is. Newman truly speaks heart-to-heart -- "cor ad cor loquitur" -- a phrase that he took from St. Francis de Sales, as his personal motto.

Cardinal Newman often wrote to his friends as carissimi -- "dearest ones" -- but his was a more innocent age, far less suspicious of strong expressions of love between persons of the same sex. Newman was not afraid to be very close to a few people. He once wrote in a letter: "The best preparation for loving the world at large, and loving it duly and wisely is to cultivate an intimate friendship and affection for those who are immediately about."

Are we able to foster such friendships today among priests and among the people we serve? Can such intimate friendships exist for us? Men and women often have intense friendships with members of their own sex, friendships that have no sexual component; yet we are at a loss to speak about them or even afraid to do so. Today "friend" is one you add to a social networking profile on the web. You can "friend" someone or "unfriend" them with the stroke of your keyboard. "Friend" is also a euphemism for a sexual partner outside marriage. Can a man nowadays even own up with pride to having a dear and close friend, another man to whom he is devoted?

The French writer François Mauriac once wrote about friendship: "If you are friends with Christ many others will warm themselves at your fire... On the day when you no longer burn with love, many will die of the cold." I am certain that the "kindly light" and flame in Cardinal Newman's heart gave and continues to give life and warmth to millions of people. And the source of the unquenchable fire was Newman's deep friendship with Jesus Christ. We need Newman's kindly light and brilliant example today more than ever.

Blessed John XXIII

In 1958, at nearly 77 years old, Cardinal Angelo Roncalli was elected Pope upon the death of Pius XII. He was expected by many to be a caretaker and transitional Pope, but he astonished the Church and the world with his energy and reforming spirit. He expanded and internationalized the college of cardinals, called the first diocesan synod of Rome in history, revised the Code of Canon Law, and called the Second Vatican Council with the specific purpose of renewing the life of the Church and its teachings and reuniting Christians throughout the world.

In his opening address on October 11, 1962 [the date established as his feast and not the customary date of one's death], at the beginning of the Vatican Council, Pope John said, "In the every day exercise of our pastoral ministry, greatly to our sorrow we sometimes have to listen to those who, although consumed with zeal, do not have very much judgment or balance. To them the modern world is nothing but betrayal and ruination. They claim that this age is far worse than previous ages and they go on as though they had learned nothing from history -- and yet history is the great teacher of life."

On that same night of October 11, 1962, the day of the opening of the Second Vatican Council, Papa Giovanni appeared at his window in answer to the chanting and singing below from a crowd estimated at half a million people assembled in St. Peter's square. Many were young people who came in procession with candles and singing. His impromptu window speech that night is now part of Rome's legends. He cried out to the crowd:

"Carissimi giovani, carissimi giovani, Dear children, I hear your voice." In the simplest language, he told them about his hopes for the Council. He pointed out that the moon, up there, was observing the spectacle. "My voice is an isolated one," he said, "but it echoes the voice of the whole world. Here, in effect, the whole world is represented." He concluded: "Tornando a casa. .. As you return to your homes, give your little children a kiss -- tell them it is from Pope John."

The emotion was palpable. The "patriarch" who was bearing the burden of age and sickness, gave and generated love with all his being. For all of the lofty words, words, words and texts that went into the Council, the historic nocturnal gathering on October 11, 1962 -- the opening night of Vatican II ¬-- was infused with the deep and stirring humanity of its author. Angelo Giuseppe Roncalli was a human being, more concerned with his faithfulness than his image, more concerned with those around him than with his own desires. He truly embodied the words, "not my will but Your will be done." With an infectious warmth and vision, he stressed the relevance of the Church in a rapidly changing society and made the Church's deepest truths stand out in the modern world.

Blessed Jerzy Popieluszko, Martyr for the Truth

The recent beatification of the Polish Priest and Martyr, Jerzy Popieluszko offers us a magnificent model of courage, boldness, conviction and faith. He was born on this very day, September 14, 1947, the Feast of the Triumph of the Cross, in the village of Okopy in eastern Poland.

August 1980, saw the beginning of the Solidarity trade union. Fr. Jerzy regularly attended the trials of Solidarity activists, sitting prominently in court with their families so that the prisoners could see they were not forgotten. Jerzy was neither a social nor a political activist, but a Catholic priest. He wasn't a forceful speaker, but someone of deep conviction and integrity. His sanctity lay in fundamental righteousness that gave people hope even in horrendous situations. He knew that all totalitarian systems are based on terror and intimidation. The Communists saw him as an enemy because he freed people from fear of the system.

On October 19, 1984, he was kidnapped by security agents on his way back to Warsaw after a visit to a neighboring town. He was savagely beaten until he lost consciousness and his body was tied up in such a way that he would strangle himself by moving. His weighted body was then thrown into a deep reservoir. The massive turnout of people for his funeral sent shock waves deep into the Communist establishment.

The blood of his martyrdom has become the seed of faith for his homeland and for the church. At this moment in history, when the priesthood and the church have suffered much because of the past "sins of the fathers," the life and death of Fr. Popieluszko remind us what the priesthood and the Roman Catholic Church are all about.

The Servant of God, Fr. Michael McGivney

Fr. Michael McGivney, a parish priest in Hartford, Connecticut lived in 19th century America. He ministered to his flock with Christ-like compassion and recognized the material and spiritual poverty of so many members of the Catholic community of his day. He understood that it was part of the lay vocation to become actively involved in offering assistance to brothers and sisters in need. He knew that it is not only priests and religious who have a vocation, but that every Christian is called by Christ to carry out a particular mission in the Church. He died at the young age of 38 years old, leaving a lasting legacy in founding and establishing the Knights of Columbus, a lay Catholic fraternal organization that now has close to 1.8 million members worldwide.

Like the Good Samaritan, Christ's care for the sick and the suffering was an inspiration to Fr. McGivney who, as a priest, sought to be a living sign of Christ for the people he served. Fr. McGivney and his brother Knights throughout history have been binding the wounds of those they discovered lying by the wayside of history and helping restore them to health and strength. In so doing, they imitate Christ, who came that we might have life in abundance.

St. André of Montreal -- Brother André Bessette, CSC

The last example I hold up for you is not a priest but a Brother of Holy Cross, André Bessette, C.S.C. Born Alfred Bessette on August 9, 1845, in Saint-Grégoire d'Iberville, Quebec, he was one of 12 children and suffered from a chronic stomach ailment that kept him out of school and often without work. A few years after his father's death, his mother died, but their piety and trust in God had deeply influenced young Alfred. When he reached the age of 18, he set out for New England in search of employment. He spent four years working in cotton mills and farms in Connecticut, Massachusetts and Rhode Island. In 1867 he returned to Canada and sought the help of his childhood parish priest, Father André Provençal. The priest encouraged the young man to pursue his desire to enter into religious life.

When Alfred entered the novitiate, Father Provençal sent a letter to the novice master saying, "I am sending a saint to your congregation." The Holy Cross brothers had initially turned the less than five-foot-tall André away from seeking a religious vocation because of his delicate health. In reference to his assignment as doorman, he once quipped, "When I joined this community, the superiors showed me the door."

For more than 40 years, André contented himself with his humble tasks of welcoming visitors, cleaning the premises and running errands. He put himself at the service of everyone, especially the students, whom he would look after when they were ill. Many visitors would come to the college and ask André to pray for their loved ones who were ill, and many claimed they had been healed. News of his power to heal spread as people began to recover. In response to the many healings and conversions, Brother André would always insist it was the work of St. Joseph, not himself.

Brother André's special affection for St. Joseph inspired him to build a church in his honor. Using the small sums he received cutting students' hair, as well as donations, the brother was able to build a modest structure in 1904, which he continued to expand as more funding became available. Brother André was named the oratory's custodian in 1909 as hundreds and then thousands of pilgrims made their way to Mount Royal to meet Brother André and pray to St. Joseph. Brother André died on January 6, 1937, at the age of 91. Between his death and burial, more than 1 million people came to pay tribute to him. Beatified in 1982 by Pope John Paul II, Brother André, the humble porter of Mount Royal will be proclaimed a saint on October 17, 2010 in Rome.

Brother André Besette is a gentle yet powerful witness who reminds us that in the midst of all of our pastoral endeavors, we must strive for humility, practice hospitality, and love the poor. Who can say why was André chosen? In a truly beautiful circular letter to the Holy Cross family earlier this year, former Holy Cross Superior General Fr. Hugh Cleary, CSC wrote: "But perhaps André was chosen, like Mary and Joseph, because in the eyes of this world he was no one; he possessed nothing, nothing possessed him."

What struck me forcefully in the story of Brother André was the intuition and wisdom of his parish priest, Fr. André Provençal, who encouraged the young Alfred to pursue his desire to enter into religious life. Fr. Provençal sent a letter to the novice master saying, "I am sending a saint to your congregation."

I hope and pray that we who have been entrusted with vocational promotion and seminary formation may never forget one of the most important duties we have: to discern, recognize and acknowledge holiness in the young men entrusted to us. We must be discerners of holiness, fishers of men and not keepers of aquariums. Our task is not only to teach and form future ministers, but to call forth saints for the new millennium.

Holiness is the calling card of the Church. It is the face of the Church as we have seen in the remarkable lives of Jean Marie Vianney of Ars, John Henry Newman of Birmingham, Angelo Roncalli of Sotto il Monte and the Vatican, Jerzy Popieluszko of Warsaw, Michael McGivney of Hartford, and André Bessette of Montreal. Each of these men did not get caught up in the quarrels, squabbles and passing things of their age. They based their lives on God's Word, immersed themselves in the liturgy of the Church, drew strength from the Eucharist and the Sacraments, and put their devotion into practice through clear teaching, compassionate loving, gentle yet firm shepherding, patient suffering, and generously serving the poor. They allowed God's will to be done in their lives on a daily basis. The Lord worked through their doubts, strengths and human weaknesses to unite the Church. Their action on Jesus' behalf was all very positive, hopeful, courageous, and straightforward. Their active faith in him and their decisive following of him are the unchanging quintessence of the Church's vocation. They are the real heroes and role models for those who wish to serve the Lord in ordained ministry and religious life today.

The Lord entrusted himself into our hands

Priesthood is not, first and foremost, something we do, but someone we are. It is not an earned trophy. It is about an intimate relationship to the vine who is Christ. The Character of Christ the High Priest is branded on our hearts. We must never imagine that it is ourselves alone, in new-found power and privilege, who accomplish saving actions. It is Jesus, the Christ, who baptizes and preaches and spreads the feast of His body and blood and provides for the helpless and heals the hurt and grants us peace. He does it though weak, human beings like you and me. Who of us can ever be worthy of such a great calling? To victims, we must be an advocate; for the aimless, we must be shepherds; for the disheartened, heralds of good news; for sinners, disturbers of conscience; and for the guilty, forgivers. Let us take heart and be encouraged by the witness of the apostles and martyrs of the Early Church and the contemporary Church and never be afraid of giving our lives whole-heartedly to the Lord of the harvest. We come not to do our will but the will of the One who has called us and sent us.

Let me leave you with the deeply moving words of Pope John Paul II in his final homily at Canada's 2002 World Youth Day in Toronto. This great ecclesial event was prepared and took place under the terrible shadow of the sex-abuse crisis that erupted in the USA in early 2002. The Holy Father's words were so important and consoling then as they are today:

"Even a tiny flame lifts the heavy lid of night. How much more light will you make, all together, if you bond as one in the communion of the Church! If you love Jesus, love the Church! Do not be discouraged by the sins and failings of some of her members. The harm done by some priests and religious to the young and vulnerable fills us all with a deep sense of sadness and shame."

"But think of the vast majority of dedicated and generous priests and religious whose only wish is to serve and do good! There are many priests, seminarians and consecrated persons here today; be close to them and support them! And if, in the depths of your hearts, you feel the same call to the priesthood or consecrated life, do not be afraid to follow Christ on the royal road of the Cross! At difficult moments in the Church's life, the pursuit of holiness becomes even more urgent. And holiness is not a question of age; it is a matter of living in the Holy Spirit…"

May our will always be the will of the one who sent us: Jesus the Good Shepherd. Our real program of governance and pastoral ministry is not to pursue our own ideas, but to listen, together with the whole Church, to the word and the will of the Lord, to be guided by Him, so that He himself will lead the Church at this hour of our history. May God's will be done in us, through us, in spite of us, and yes, even because of us.

Thank you.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Nam Úc, Mừng Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Jos. Vĩnh SA
00:55 14/11/2010
Nam Úc, Mừng Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Thánh Lễ lúc 9 giờ 30 sáng, Chúa nhật ngày 14/11/2010 Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc đã tổ chức Thánh Lễ long trọng mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam.

Trước khi cử hành Thánh Lễ, Ban Phụng Vụ đã lên trước cộng đoàn đọc về hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam tiền nhân anh dũng, đã hy sinh mạng sống, đổ máu đào minh chứng đức tin. Sau đó ca đoàn cất hát thánh ca nhập lễ, đoàn rước di hành 117 vị Thánh Tử Đạo Việt Nam gồm có các vị cao niên với những bộ quốc phục sặc sỡ xanh đỏ và đoàn đồng tế áo đỏ ở cuối hội trường, từ từ tiến lên gian cung thánh. Khi di ảnh các Thánh Tử Đạo được đặt an vị trên bàn thờ. Chủ Tế thánh lễ Đ/ô Phaolô Nguyễn Minh Tâm và đoàn rước tiến đến trước bàn thờ các Thánh dâng hương, khấn nguyện trước linh vị 117 Thánh Tử Đạo.

Cùng đồng tế Thánh Lễ, có linh mục Giuse Phạm Quang Tuyến chánh xứ Hải Lâm, (gần Phước Tỉnh) GP Bàrịa, Vũng Tàu sang thăm Nam Úc.

Click Xem Hình Tại Đây

Đặc biệt trong Thánh Lễ hôm nay có 4 em thiếu nhi được xưng tội rước lễ lần đầu, chuẩn bị lãnh nhận bí tích thêm sức vào tối thứ Sáu ngày 19/11/2010 sắp tới.


Sau Thánh Lễ mọi người đã qui tụ trên sân hóng mát “Cánh Buồn” vừa uống cà phê, vừa xem triển lãm hạnh tích và tiểu sử của từng vị thánh tử đạo trong tổng số 117 vị, do phong trào Cursillô trưng bày và nghe băng đọc chuyện hạnh tích của từng vị thánh tử đạo do nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn đọc và kể.
 
Đại hội Truyền thống Sinh viên TGP Hà Nội lần thứ XIII
Gioan Đình Sơn
12:16 14/11/2010
HÀ NỘI - Như tin đã đưa, đại hội truyền thống sinh viên của Tổng Giáo phận Hà Nội lần thứ XIII được diễn ra trong hai ngày, 13- 14 tháng 11 năm 2010 tại Giáo xứ Yên Kiện- Giáo phận Hà Nội.

Từ sáng tới đêm ngày 13, khoảng 3000 sinh viên đến từ nhiều trường đại học đã có những chương trình vui chơi bổ ích và thi đua lành mạnh để mừng ngày sinh nhật lần thứ XIII của mình.

Hình ảnh đại hội

Sáng ngày 14, tất cả các bạn sinh viên của 25 đơn vị tham gia đã chuẩn bị tất cả các khâu nhanh chóng để đón chào Đức Tổng Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn- vị cha chung của Tổng Giáo phận Hà Nội đến thăm và dâng Thánh lễ tạ ơn.

Đúng 9 giờ, đoàn đồng tế khởi đi từ khu nhà mặc áo và tiến ra mặt tiền nhà thờ giáo xứ Yên Kiện, nơi diễn ra Thánh lễ tạ ơn do Đức Tổng Giám Mục Chủ tế. Cùng đồng tế với ngài có 10 linh mục đến từ nhiều giáo phận khác nhau. Ngoài ra còn có đông đảo nam nữ tu sĩ và khoảng 4000 sinh viên và bà con giáo dân tham dự.

Trước khi bước vào Thánh lễ, cha Gioan Lê Trọng Cung- đặc trách sinh viên và giới trẻ Giáo phận Hà Nội nói: Chúng ta cùng nhau dâng lời tri ân Thiên Chúa vì những hồng ân Ngài đã ban cho hội sinh viên công giáo của chúng ta từ khi hình thành cho tới ngày hôm nay, giờ đây chúng ta cùng hướng về vị cha chung và quý cha đồng tế để hiệp dâng Thánh lễ….

Quan tâm đến thế hệ trẻ, Đức Tổng Giám Mục Phêrô nói với sinh viên trước khi bước vào Thánh lễ: Các con quy tụ nhau nơi đây để mừng lễ sinh nhật lần thứ XIII của sinh viên công giáo Tổng Giáo phận Hà Nội, vào đúng chúa nhật kính trọng thể các thánh tử đạo Việt Nam, cha gửi tới các con lời chúc mừng sâu sắc; đó là lời cầu chúc các con luôn được ở trong tình yêu của Chúa Cha, trong ân sủng của Chúa Con và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần. Nhờ tình yêu ân sủng này, các con có thể sống xứng đáng là con cháu của các thánh tử đạo và tiếp nối chứng tá của các ngài trong chính môi trường sống sinh viên của các con…

Trong phần chia sẻ Tin Mừng, Đức Tổng Giám Mục Phêrô đã nhấn mạnh đến từ “thế gian” được nhắc đi nhắc lại 7 lần trong đoạn Tin Mừng ngắn ngủi (Ga 17, 11b- 19). Thế gian mà Chúa đã sai đến, trên quê hương chúng ta, cụ thể là mảnh đất tổng giáo phận mà chúng ta đang sinh hoạt. Thế gian này còn nhiều bất cập, bất toàn nhưng Chúa Giêsu không xin Cha cất chúng ta ra khỏi thế gian mà Ngài chỉ xin Cha gìn giữ chúng ta đừng để chúng ta bị lệ thuộc vào thế gian này mà để chúng ta thánh hóa, canh tân, đổi mới thế gian này theo tinh thần Tin Mừng của Chúa Giêsu.

Chúng ta sống và thi hành sứ mạng của Giáo hội giữa thế gian này nhờ vào tình yêu của Thiên Chúa biểu lộ cách mạnh mẽ qua việc Ngài chấp nhận để người Con duy nhất của Ngài chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Một tình yêu lớn lao như thế phải chiến thắng mọi cám dỗ, thử thách như lời thánh Phaolô khẳng định: “Ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô? Hay là gian truân buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao? Không gì có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”

Chính tình thương của Chúa đã mang lại cho Giáo hội Việt Nam thân yêu vô vàn những chứng nhân thánh thiện và can đảm để minh chứng đạo của chúng ta là đạo thật, Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa thật, là Chúa và là Cha của hết mọi người. Nếu không phải là Đạo thật, là Chúa thật thì làm sao hiểu được đời sống thánh thiện và cái chết anh hùng của vô vàn chứng nhân tử đạo; gồm ông già, người trẻ, thiếu nhi, đàn ông đàn bà, người có địa vị cao cũng như kẻ thấp hèn. Họ chấp nhận nhiều cái chết khác nhau, cách nào cũng độc ác, kinh sợ. Nhưng họ không sợ hãi mà còn vui vẻ, hiền từ, quảng đại, tha thứ và tràn đầy niềm hy vọng. Vậy, cái chết của họ phải là cái chết của những người sống có niềm tin sâu xa, tuyệt đối phó thác vào Đấng mình thờ và được Ngài thêm sức để sống trung thành và chết cho niềm tin của mình.

Sự long trọng kính nhớ hôm nay không thêm vinh quang gì cho các ngài nhưng tưởng nhớ, tôn vinh, cảm tạ các ngài lại mang nhiều lợi ích cho chúng ta là con cái của các ngài. Trước hết, vì là con cái nên chúng ta có quyền tin rằng các ngài luôn cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước tòa Chúa, và lời cầu của các ngài chắc chắn rất đắc lực. Ngoài ra, các ngài còn là gương sáng cho chúng ta noi theo vì các Ngài có cùng dòng máu với chúng ta, cùng sống trên một quê hương, cùng chung một phong tục, cùng nói một thứ tiếng. Ngày nay, chúng ta không thể bắt chước các ngài bằng cách đổ máu ra để tuyên xưng đức tin, nhưng có nhiều cách khác để noi gương các ngài mà làm chứng nhân cho Chúa qua những hy sinh, can đảm như lời Chúa Giêsu cầu nguyện cùng Chúa Cha để xin cho chúng ta “ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian”.

Hướng về các bạn sinh viên, Đức Tổng Giám Mục tiếp: Các con thân mến, thế gian thì tìm kiếm tiền bạc, địa vị, quyền lực trong khi chúng con là những môn đệ của Chúa thì được mời gọi sống khó nghèo, từ bỏ để được vào Nước trời, sống khiêm tốn để phục vụ và thi hành Lời Chúa như lời Kinh Hòa bình của thánh Phanxicô: “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…”. Như vậy, sống yêu thương, sống quảng đại, sống tha thứ, sống công bằng, sống chân thật luôn đòi hỏi chúng con hy sinh, từ bỏ. Chúng ta phải đấu tranh gian lao, cương quyết để chọn lựa sống theo giới răn của Chúa mà quay mặt chống trả các quyến rũ của xa hoa, nhục dục, dối trá, bạo lực… Những giây phút đấu tranh để chọn lựa theo Chúa không phải là dễ nhưng tiếng Chúa luôn mời gọi chúng con tha thiết và bền bỉ.

Hơn hết, các con phải can đảm và hy sinh, phải biết chấp nhận từ bỏ và quên mình, phải rất khiêm tốn và quảng đại như người tôi tớ của Chúa và cũng là người cha, người thầy, người bạn, người anh của chúng ta là Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận mà Tòa thánh vừa công bố mở hồ sơ xin phong thánh cho Ngài. Ngài trung thành với Chúa, chứng nhân cho Sự thật, đấu tranh cho Công lý và Hòa bình. Hơn cả, ngài là vị mục tử nhân lành, khiêm tốn, yêu thương và phục vụ hết mọi người.

Trước khi kết thúc Thánh lễ, cha Gioan- đặc trách sinh viên đã giới thiệu với Đức Tổng Giám Mục, quý cha và cộng đoàn 5 thành viên trong Ban lãnh đạo mới của sinh viên công giáo Tổng giáo phận Hà Nội. Sau đó, anh trưởng có lời tạ ơn Chúa, tri ân Đức Tổng Giám Mục, cha đặc trách, quý cha và cộng đoàn. Trong bài cảm ơn, anh cũng không quên nhắc đến các ban ngành và chính quyền các cấp đã tạo điều kiện cho ngày truyền thống của sinh viên Tổng giáo phận Hà Nội được thành công tốt đẹp.

Ngay sau đó là nghi thức trao phần thưởng cho 25 đơn vị tham gia và trao giải thưởng:

1. Giải nhất là nhóm sinh viên Di Trạch
2. Giải nhì thuộc về nhóm sinh viên Phát Diệm
3. Giải ba là nhóm sinh viên Hải Hà

Cuối cùng là nghi thức sai đi do Đức Tổng Giám Mục Phêrô chủ sự. Ngọn lửa được thắp từ cây nến phục sinh và trao đến tay từng bạn sinh viên tham dự. Thật là ý nghĩa khi đại hội truyền thống sinh viên lần này kết thúc bằng nghi thức sai đi, để các bạn sẽ mang ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô đi vào lòng đời, đi vào môi trường sống của từng bạn và ước mong ngọn lửa ấy sẽ bùng cháy lên.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
''Thiên Chúa chúng nó ở đâu?''
Gioan Lê Quang Vinh, VNRs
10:09 14/11/2010
Muốn giúp một bạn nhỏ đi bán sách báo, tôi cho bạn ấy vào lớp học để bán cho học viên. Nhìn vào bìa tờ báo sau khi học viên đã mua xong, tôi bất ngờ khi thấy có giới thiệu một bài viết trong đó “Tuyên bố của Hawking: Chúa không tạo nên vũ trụ!”

Có cảm giác như mình cộng tác vào việc tuyên truyền điều sai lạc, nhưng không thể giải thích dài trong lớp, tôi chỉ nói: “Các bạn mua tờ này là để học các từ tiếng Anh trong đó thôi, chứ bài vở nội dung và tư tưởng trong đó không phải lúc nào cũng đúng!”

Tôi chưa đọc bài viết trong tạp chí nói trên, nhưng nhìn cách người ta quảng cáo bài báo, tôi cho rằng người ta muốn tuyên truyền cho chủ thuyết nào đó hơn là muốn đề cao tinh thần khoa học. Chẳng biết bài báo ấy trích từ đâu và chính xác đến bao nhiêu.

Tôi nghe bố Vũ Khởi Phụng nói về Hawking từ những ngày Internet chưa phổ biến, khi ở Việt nam chưa mấy ai nghe tên ông. Hawking là một nhà vật lý thiên văn có tài năng đặc biệt. Trước đây, ông đã từng viết trong cuốn “Lịch sử vũ trụ” rằng Chúa đóng vai trò quan trọng trong vụ nổ Big Bang. Nhưng sau này ông lại phủ nhận tư tưởng ấy của mình và cho rằng “Không cần thiết phải cần đến Chúa để giải thích cho sự hình thành của vũ trụ đang tồn tại này”.

Xuất hiện trong một chương trình truyền hình có tên “Larry King Live” của Mỹ mới đây, Hawking một lần nữa khẳng định: “Chúa có thể tồn tại, tuy nhiên khoa học có thể giải thích được vũ trụ mà không cần đến một Đấng Sáng Tạo”.

Có thể từ hai câu trên của Hawking mà người ta ghép lại và hiểu thành “không có Chúa”.

Dù sao thì vẫn có một điểm cực kỳ quan trọng mà giữa thời đại con người muốn phủ nhận Thiên Chúa, họ cố tình quên. Đó là các nhà khoa học không có quyền tuyên bố có Thiên Chúa hay không. Đơn giản là vì điều ấy vượt ra ngoài khả năng, sự nghiên cứu và thẩm quyền của các nhà khoa học.

Giáo Lý Công Giáo dạy rằng chỉ với lý trí, chưa cần đến mạc khải, con người vẫn có khả năng nhận ra Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo, như lời Thánh Phaolô viết trong thư Rôma. Và theo nguyên lý chứng minh, người ta chỉ chứng minh điều có, không ai chứng minh cái không! Luật pháp các nước văn minh cũng qui định người ta không buộc và không thể chứng mình điều mình không làm. Người ta nói: “Tôi không có tiền” chẳng hạn thì không thể bảo họ chứng minh được.

Những nỗ lực chứng minh không có Đấng Tạo Hóa có vẻ như đề cao khoa học, thật ra lại là thái độ coi thường khoa học vì bắt nó phải đóng một vai trò mà nó không thể kham nổi. Và rõ ràng điều ấy trái với tinh thần khoa học vì như trên đã nói, khoa học không thể chứng minh cái không có. Thử nghĩ làm sao một nhà thiên văn dám chứng minh một hành tinh nào chưa tìm ra là không có mặt!

Thật ra có rất nhiều nhà khoa học nhờ khám phá ra sự kỳ diệu của vũ trụ mà vững tin vào Thiên Chúa là Đấng tác thành mọi sự. Nhà thiên văn Newton khi nhìn vào viễn vọng kính đầu tiên của ông và cũng là đầu tiên của thế giới, đã thốt lên: “Tôi thấy Thiên Chúa đi qua ông kính của tôi”. Năm 1968, khi các phi hành gia Apollo 8 gửi điện văn từ vũ trụ về địa cầu, họ cất giọng đọc “Từ nguyên thủy Thiên Chúa đã tạo thành trời và đất” và rồi đọc chương 1 sách Sáng Thế, từ câu 1 đến câu 9. (xem http://nssdc.gsfc.nasa.gov/planetary/lunar/apollo8_xmas.html)

Chúng ta không nhằm lý luận về Thiên Chúa và khoa học ở đây. Chúng ta chỉ thật sự không hiểu tại sao nhiều người hăng hái chống đối sự hiện hữu của Thiên Chúa. Có những con người vì quyền lực và vì lợi lộc riêng họ phải loại Thiên Chúa ra khỏi đời sống và khỏi xã hội. Nhưng cũng có rất nhiều người coi việc loại trừ Thiên Chúa là “thời thượng”, mình cần hùa vào để có vẻ “tân thời”. Đó là chưa kể lý do muốn cho xã hội “giật gân”.

Một số trường học bây giờ ra thông báo không cho sinh viên nói về tôn giáo trong trường, thậm chí ở một đại học dân lập, trưởng phòng đào tạo có đạo, chủ nhiệm bộ môn có đạo, vẫn ra lệnh bắt sinh viên đi học ngày Đại Lễ Giáng Sinh. Dường như mọi thứ đang rối tung lên vì con người đang co rúm lại trước nhiều áp lực vô hình, mà họ quên mất lời Đức Giêsu: “Chỉ sợ Thiên Chúa là Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn ngươi vào hỏa ngục”.

Ngày hôm nay khoa học đã tiến bộ đủ, loài người cũng đã văn minh lắm, thế giới cũng đã đi qua những thời kỳ phát triển về nhiều mặt. Đã đến lúc con người hồi tâm chiêm nghiệm về những đoạn đường của nhân loại và của từng con người trong vô biên của vũ trụ. Chính lúc này, lời Thánh Augustinô lại vang vọng rõ ràng: “Chúa dựng nên con cho Chúa, nên hồn con cứ mãi thao thức băn khoăn cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”.

Không phải khoa học có thể chứng minh về Thiên Chúa. Nhưng những ưu tư khắc khoải trong tâm hồn và trong cuộc đời mỗi con người mới giúp con người nhận ra đâu là nguồn cội đời mình. Cố bám víu vào hư ảo, loại bỏ nguồn cội, con người tự biến mình thành dòng nước ao tù, không có suối nguồn, không có biển khơi. Cuối cùng là ao khô, nước cạn, chỉ còn rêu xanh.

Ngày xưa dân ngoại chế nhạo dân Chúa bằng cách hỏi rằng “Thiên Chúa chúng nó ở đâu?”. Câu trả lời cho họ là những kỳ công Chúa thực hiện cho Dân thánh của Người. Câu hỏi nhạo báng đó lại lặp lại ở thời đại này, như một minh chứng rằng cho dù loài người có tiến bộ bao nhiêu, thì thần dữ vẫn khống chế những con người cứng lòng để họ chống báng Ngài.

Vũ trụ, sự sống cùng các nguyên lý khoa học là công trình của Đấng Tạo Hóa. Dùng chính công trình của Chúa để chống lại Ngài không phải là hành động khôn ngoan. Những người không am tường về khoa học mà vẫn lợi dụng khoa học để rải những tin đồn sai trái lại càng không khôn ngoan. Cầu xin cho mọi tâm hồn thiện chí không bị mê hoặc vì xã hội vàng thau lẫn lộn, trong đó thau nhiều hơn vàng.

“Thiên Chúa chúng nó ở đâu?” Hãy nhìn công trình của Chúa: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa. Không trung loan báo việc tay Người làm”. Người tin Chúa đừng lo, vì “Nếu mà Chúa chẳng đỡ bênh ta, khi thiên hạ nhằm ta xông tới, hẳn là họ đã nuốt sống ta rồi, lúc đùng đùng giận ta như vậy” (Tv.19; Tv. 123; Tv.124)
 
Văn Hóa
Nhạc: Đêm Hồng Phúc
Phạm Đức Huyến
08:01 14/11/2010