Ngày 10-11-2020
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thứ Tư 11/11: Không ai tạ ơn, ngoài người ngoại bang này - Suy Niệm của Lm. Nguyễn Trọng Thiên, SVD
Giáo Hội Năm Châu
05:10 10/11/2020


Phúc Âm: Lc 17, 11-19

"Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đi qua biên giới giữa Samaria và Galilê. Lúc Người vào một làng kia thì có mười người phong hủi đón gặp Người, họ đứng đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi". Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ : "Hãy đi trình diện với các tư tế". Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn: Anh ta lại là người Samari. Đức Giêsu mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này". Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi: lòng tin của anh đã cứu chữa anh".

Ðó là lời Chúa.
 
Không cần gì nữa
Lm. Minh Anh
05:12 10/11/2020
KHÔNG CẦN GÌ NỮA
“Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, chỉ làm bổn phận đấy thôi”.

Kính thưa Anh Chị em,

Dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, cách nào đó, gây khó chịu; ông chủ xem ra thờ ơ, độc đoán; lời Chúa Giêsu dạy, khi làm xong mọi việc, hãy nói, “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, chỉ làm bổn phận đấy thôi” xem ra cũng khó chấp nhận. Vậy mà cách cư xử của ông chủ lại cho thấy điểm nhấn cốt lõi ở đây; đó là thái độ khiêm nhường của người tôi tớ, kẻ ‘không cần gì nữa’ vì đã được chủ tín nhiệm.

Theo Sr. Barbara E. Reid, một học giả Thánh Kinh hiện đại, cách dịch “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng” không lột hết ý nghĩa so với nghĩa đen của bản gốc Hy Lạp; bà đề nghị dịch câu này là, “Chúng tôi không cần gì nữa”. Và sẽ rất thú vị khi chúng ta suy nghĩ đến sự khiêm tốn của người môn đệ Chúa Giêsu; sau khi làm tốt mọi việc, họ sẽ nói với Ngài, “Chúng con ‘không cần gì nữa’, ngoài Chúa”.

Thông thường, sau khi hoàn thành tốt một công việc, chúng ta tìm kiếm sự công nhận và khen ngợi, không chỉ từ con người, nhưng từ cả Thiên Chúa; chúng ta muốn được chú ý. Cho dù đây là một ước muốn ‘tự nhiên’, nhưng nó ‘không siêu nhiên’; đó không phải là ước muốn khiêm tốn nhất. Khiêm tốn ở nhiều mức độ và mức độ sâu sắc nhất cho phép chúng ta lặp lại những lời trên một cách ý nghĩa nhất, “Chúng con ‘không cần gì nữa’, ngoài Chúa”.

Trước tiên, phải nhận ra rằng, việc Thiên Chúa cho chúng ta cộng tác với Người đã là một hồng ân; ý muốn của Thiên Chúa đặt cho chúng ta một nghĩa vụ bắt nguồn từ tình yêu nhưng không của Người; cách nào đó, chúng ta tự xem mình là một tôi tớ, nhưng tôi tớ của tình yêu. Khi hoàn tất việc Chúa trao, chúng ta sung sướng vì làm điều đẹp lòng Người; và đó phải là nguồn vui đích thực, chứ không phải là sự công nhận của một ai. Mặt khác, tốt lành biết bao khi thấy điều thiện người khác làm, chúng ta thừa nhận; làm điều đó, chúng ta không xây dựng thêm ‘cái tôi’ của họ nhưng là để ngợi khen Chúa về điều tốt đã được thực hiện. Cũng thế, khi người khác công nhận ý muốn của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng ta, chúng ta chấp nhận sự khen ngợi của họ nhưng đó không phải là lý do để tự hào mà là để khiêm tốn nhận ra rằng, Thiên Chúa thật tốt lành, ý muốn của Người được thực thi. Từ đó, chúng ta sống trong niềm vui tạ ơn, khi biết rằng, giờ đây, ‘không cần gì nữa’ vì Chúa được vinh hiển.

Việc ôm lấy ý muốn của Thiên Chúa như một ‘nghĩa vụ thánh’ sẽ giúp chúng ta hoàn thành nó cách ‘thánh’ hơn. Vì thế, khi việc thực thi ý của Thiên Chúa được xem là một điều phi thường, chúng ta sẽ dễ kiêu ngạo và không xây dựng được cho mình một thói quen thích hợp để chu toàn, vì lúc thế này, lúc thế khác; nhưng khi coi đó là một ‘nghĩa vụ thánh’, một cái gì đó rất bình thường trong tình yêu của đứa con đối với Cha, chúng ta sẽ dễ dàng ôm lấy nó một cách trọn vẹn; chúng ta sẽ ‘không cần gì nữa’, vì lẽ đang sống trong sự hiện diện yêu thương và tín nhiệm của Cha. Bấy giờ, bổn phận là con đường nên thánh; chu tất tốt đẹp ‘nghĩa vụ thánh’ là con đường nhanh nhất để ‘làm thánh’.

Thánh Phaolô cũng có cái nhìn này khi ngài nhắc Titô, “Vì chúng ta, Đức Kitô đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta, khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện”; hăng say làm việc thiện, chuyên chăm bổn phận với một ước trrong duy nhất là được chính Chúa, đó là nên thánh. ‘Không cần gì nữa’ cũng là tâm tình của Chúa Giêsu, “Của ăn Tôi là làm theo ý Đấng đã sai Tôi”; và Ngài đã sống trọn vẹn tâm tình đó mãi đến những phút cuối trên thập giá, “Mọi sự đã hoàn tất”.

Một em bé học vẽ với cha vốn là một hoạ sĩ nổi tiếng. Mỗi ngày, vâng lời cha, em chỉ biết vẽ; không cần ai khen, ai chê; tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, em vẽ hàng trăm bức tranh. Cho đến một ngày kia, cuộc triển lãm tranh được tổ chức; phòng tranh của người cha dành được giải nhất với những bức tranh đẹp nhất, được đấu giá cao nhất. Ngoài hai bố con, nào ai biết, tất cả tranh trong phòng trưng bày đều là của cô bé với chữ ký bên dưới là của người cha.

Anh Chị em,

Như cô bé hoạ sĩ ‘không cần gì nữa’ ngoài việc vâng lời, làm đẹp lòng cha; cũng thế, những việc chúng ta nhận lãnh từ Thiên Chúa được làm trong yêu thương, vâng lời cũng có giá trị trước mặt Người như vậy; đến nỗi, Thiên Chúa sẽ tự nhận những gì chúng ta làm là của Người. Còn gì hạnh phúc hơn!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, mỗi ngày, xin cho con biết rằng, con ‘không cần gì nữa’ ngoài việc sống trong sự hiện diện đầy yêu thương trước thánh nhan Chúa và làm những gì Chúa muốn một cách tốt đẹp nhất”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:21 10/11/2020

20. Tĩnh tâm là hạnh phúc duy nhất.

(Thánh Augustinus)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


-----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:24 10/11/2020
79. DẶN DÒ CỦA TIÊN NỮ

Đổng Vĩnh vì người mà nói lời chân thật, thảo hiếu với cha mẹ, khiến cho thượng đế cảm động, bèn sai một tiên nữ giáng trần làm vợ anh ta, các tiên nữ đều đến đưa tiễn.

Lúc tạm biệt, các tiên nữ phấn khởi chúc phúc cho cuộc giáng trần của tiên nữ ấy, và nói:

- “Đi nhân gian lần này, tiên vàn xin chị đi nghe ngóng chút xíu, coi có chàng trai nào biết nói thật và có hiếu, thì nhất định là phải viết thư gởi về cho tụi em nhé !”

(Thời Hưng tiếu thoại)

Suy tư 80:

Tiên nữ là chuyện thần tiên nên được...lấy chồng, nhưng các thiên thần và các thánh nữ thì là có thật nên các ngài không lấy chồng, vì các vị ấy có một vị phu quân tuyệt vời, đó chính là Đức Chúa Giê-su.

Thời nay không có chuyện tiên nữ giáng trần để lấy chồng, nhưng có chuyện các tiểu thơ con nhà giàu, học giỏi, nết na đức hạnh đi tu làm tôi tớ phục vụ Thiên Chúa trong mọi người, đó là các nữ tu ở Việt Nam và ở khắp nơi trên thế giới đang ngày đêm phục vụ, cầu nguyện, hy sinh cho lý tưởng tận hiến...

Thời nay không có chuyện nữ tu đòi lấy chồng, nhưng vẫn có chuyện nữ tu tình nguyện đi đến nơi đất khách quê người để phục vụ và truyền giáo, họ ra đi đem tuổi đời thanh xuân dâng hiến cho Đấng mà mình yêu mến trong những con người bất hạnh, nghèo khó và bị đời hất hủi...

Các tiên nữ -dù đã làm tiên- nhưng vẫn ngấm nghé đòi kiếm chồng ở trần gian, bởi vì đó là “tiên dõm” và là tiên trong truyện thần thoại hoang đường, nhưng các nữ tu dù ở trần gian nhưng không mê trần gian mà chỉ muốn phục vụ mà thôi, bởi vì các nữ tu là những nàng tiên đích thực của mọi người...

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Chỉ Một Bước Chân
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
22:28 10/11/2020
Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Chỉ Một Bước Chân

Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo”.

Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn một trăm ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong dòng thời gian bị bách hại, các Kitô hữu phải trải qua một trong những thử thách đức tin là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các Kitô hữu bước qua. Đôi khi chỉ là hai cây gỗ bắt chéo nhau. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình dã man. Ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.Bước qua là được tiếp tục sống an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất cả mạng sống. Chỉ cần một bước chân thôi là mọi sự thay đổi. Đã có người bước qua, và cũng có người không.

Có người bị khiêng qua thánh giá nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận, đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế; các ngài vẫn khẳng khái nói không, không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.

Đứng trước thập giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.Giây phút đứng trước thập giá là giây phút quan trọng.Quyết định không bước qua thập giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa dứt khoát : theo Đức Kitô hay theo vua quan? Theo Đức Kitô là vác thập giá, sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô. Giây phút quyết định ấy chỉ có các Ngài với Thiên Chúa, chỉ có linh hồn với cõi phúc vô biên. Giây phút ấy không bị ảnh hưởng bởi gia đình, tổ quốc, nhân sinh. Người chết trong máu tử đạo đã coi nhẹ nghĩa phu thê, đã xem thường đường phụ tử. Họ khao khát một tình yêu vô biên mỹ lệ như giải ngân hà sao sa vời vợi, như vầng nhật nguyệt huy hoàng khôn tả. Các Ngài đã hoan hỉ chấp nhận chết để được sống một cuộc đời mà không mỹ từ nào diễn tả nổi, không bút hoạ nào vẽ thành và không hùng biện nào tuyên dương cho trọn. Người chết trong gông cùm mòn mỏi đã đặt tổ quốc đàng sau những giá trị vĩnh cửu. Ước vọng của họ không phải là được người đời tưởng niệm, được hậu thế tôn phong. Họ chết là vì đức tin thúc đẩy. Họ chỉ muốn thực hiện điều đã từng nghe biết : “Ai tuyên xưng danh Ta trước mặt trần gian, Ta sẽ tuyên danh nó trước mặt Cha Ta trên trời” (Mt 10,32). (x.Thiên Hùng Sử trang 4).

Thánh Nữ Inê Lê Thị Thành, sinh tại làng Bái Điền, địa phận Thanh Hóa, vào khoảng năm 1781; nhưng sau này theo mẹ về quê sống tại làng Phúc Nhạc, địa phận Phát Diệm. Năm lên 17 tuổi bà kết duyên cùng ông Nhất và sinh được 2 trai, 4 gái. Vì con trai đầu lòng tên Đê, nên theo tục lệ thời ấy, dân chúng gọi hai người là ông bà Đê. Suốt 60 năm trời, cuộc đời của bà êm đềm trôi qua trong nghĩa vụ làm người vợ thảo, mẹ hiền.

Thế rồi, vào lối tháng 3 năm 1841, có 4 linh mục thừa sai về đến làng Phúc Nhạc. Họ chia nhau ẩn trú mỗi người tại một nhà giáo dân. Bà Đê được vinh dự che dấu cha Thành trong nhà mình. Nhưng một ngày kia, ông Đễ, một giáo dân thường hay theo giúp cha Thành, đã thay lòng đổi dạ, ham tiền thưởng nên đi mật báo với quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Thế là quan tổng đốc bất thần đem 500 quân về vây làng Phúc Nhạc vào rạng sáng Phục Sinh, 14-4-1841. Cha Thành và cha Ngân nhanh chân trốn kịp. Cha Nhân trốn trên gác bếp vô tình để gấu áo lò ra ngoài kẽ ván nên bị bắt. Cha Lý, đang ẩn bên nhà ông trùm Cơ, lúng túng không tìm được đường tẩu thoát, nên chạy sang nhà bà Đê ẩn núp. Bà dẫn cha ra vườn sau, dấu cha dưới đường mương, rồi mẹ con bà lấy rơm rác phủ dấu che cha. Nhưng quan quân đã thấy cha Lý chạy sang nhà bà Đê, nên kéo đến vây kín, lục soát thật kỹ, cuối cùng họ đã bắt được cha Lý, bắt luôn bà Đê áp giải về Nam Định. Với tuổi cao sức yếu, lại phải mang gông cùm nặng nề, đoạn đường từ Phúc Nhạc về đến Nam Định đã trở thành chặng đàng thánh giá, con đường dẫn đến Núi Sọ.

Tại Nam Định, bà đã bị lôi ra tòa, bị đánh đập nhiều lần nơi công đường, khi thì bằng roi, khi thì bằng cây củi lớn, nhưng bà vẫn một mực trung kiên tuyên xưng đức tin.

Lính vừa đánh vừa lôi bà dẫm lên thánh giá. Bà vùng ra rồi nằm sụp xuống ôm lấy thánh giá. Bà cầu nguyện: Chúa con ơi, xin thương con, con không bao giờ bỏ Chúa đâu. Họ cậy con là đàn bà yếu đuối mà ép lôi con dẫm lên thánh giá. Con không bỏ Chúa đâu, con không bỏ Chúa đâu. Xin thương giúp con.

Quan: Con mụ già này to gan thật. Được, để ta xem ngươi to gan đến đâu. Quân bây đâu.Đem rắn độc ra cho ta.Túm áo túm quần nó lại. Thả rắn độc vào mình nó, để xem nó to gan đến đâu, xem Chúa nó có cứu nó được không? Lính thi hành. Nhưng bà vẫn bình tĩnh đứng yên. Quan đi từ khoái chí đến kinh ngạc, rồi giận dữ.

Quan: Lôi nó vào ngục, đánh cho nó thêm một trận nhừ đòn. Đánh cho toát máu, cho áo quần nó phải đẫm máu mới thôi.

Cô Nụ, con bà Đê đến xin thăm nuôi mẹ. Một người lính lôi bà Đê ra. Vừa thấy mẹ, cô Lucia Nụ òa lên khóc vì thấy mẹ quá tiều tụy, áo quần rách nát, đẫm máu. Nhưng bà vẫn vui vẻ an ủi con.

Cô Nụ: Mẹ, sao áo quần mẹ tả tơi, đẩm máu thế này.

Mẹ: Con ơi, con đừng có khóc. Con hãy vui mừng với mẹ, vì mẹ đang mặc áo hoa hồng đây. Áo này là áo đau khổ vì Chúa mà. Con phải vui mừng với mẹ mới đúng.

Cô Nụ: Mẹ, sao mẹ khổ thế này!

Mẹ: Con ơi, con đừng khóc nữa. Mẹ đang sung sướng kia mà. Mẹ sắp được chết cho Chúa đây, còn gì phúc hơn. Con phải mừng với mẹ, cám ơn Chúa với mẹ mới đúng chứ. Con hãy về đi, về đi và cho mẹ gởi lời thăm hỏi mọi người. Các con hãy cố gắng giữ đạo cho sốt sắng, rồi một mai mẹ con ta sẽ lại đoàn tụ trên thiên đàng.

Bên cạnh những cực hình của ngục tù, đòn vọt, bà Đê lại mắc thêm bệnh kiết lỵ. Chính trong cảnh tù đày, đòn vọt, bệnh tật này, bà đã nhìn lên Đức Giêsu tử nạn, để tìm thấy lẽ sống cho đời mình, để múc lấy sức mạnh vác thánh giá cho đến hơi thở cuối cùng.Và cũng như Đức Giêsu trên thánh giá, bà đã cầu nguyện cùng Chúa trong cơn hấp hối: Lạy Chúa... xưa Chúa đã chết cho con... thì nay con xin hết lòng vâng theo Ý Chúa...Xin Chúa tha thứ cho họ... cũng như tha hết... mọi tội của con. Rồi bà gục đầu tắt thở trong tay cô Nụ.

Cô Nụ: Mẹ, và ôm xác mẹ khóc nức nở.

Bà Đê đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 12-7-1841, sau ba tháng bị giam cầm, thọ 60 tuổi. Lính đã đến đốt ngón chân bà để biết chắc bà đã chết. Sau đó thi hài bà được đem chôn tại Năm Mẫu, sau lại được cải táng đưa về Phúc Nhạc. Vị thánh nữ đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam.(x.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Trong Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo, Linh mục Vinh sơn Bùi Đức Sinh, trang 216-220).
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.

Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác.Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn. Ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống. Ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời. Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa, bởi lẽ “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).

Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Đây là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ.

Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.

Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh Giá, Thánh Thể không có ý nghĩa. Không có Thánh Thể, Thánh Giá chỉ là thất bại.Từ Thánh Giá đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh Giá đến tình yêu Thánh Thể.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhờ sức mạnh của Thánh Thể nên đã chọn Thánh Giá cách tuyệt đối và quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Là con cháu của các ngài, xin cho chúng con luôn khôn ngoan trong những chọn lựa của đời sống hàng ngày. Amen.
 
Một hành động của Ân sủng
Lm. Minh Anh
23:52 10/11/2020
MỘT HÀNH ĐỘNG CỦA ÂN SỦNG
“Còn chín người kia đâu?”.

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ thật bất ngờ khi nói, việc quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa của một trong mười người cùi, được Chúa Giêsu chữa lành, giúp chúng ta thấu cảm hơn với Bí tích Thánh Thể. Vì lẽ, trong tiếng Hy Lạp, để cám ơn ai, người ta nói, ‘εὐχαριστία’, ‘eucaristia’, có nghĩa là ‘Bí tích Thánh Thể’, ‘một hành động của ân sủng’.

Từ người nhận đến người cho, Tin Mừng hôm nay thuật lại những hành động của ân sủng. Không còn gì để mất, những người cùi bị ruồng bỏ liều lĩnh thực hiện một lời cầu xin; niềm hy vọng duy nhất của họ là Chúa Giêsu. Đứng xa xa, họ thừa nhận sự bất lực khi đồng thanh cất lên ‘điệp khúc lòng thương xót’, “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Chúa chữa lành họ, ‘một hành động của ân sủng’, họ hài lòng ra đi; tuy nhiên, Ngài khá thất vọng, “Còn chín người kia đâu?” vì lẽ, chỉ một người quay lại; anh sấp mình dưới chân Ngài, thực hiện ‘một hành động của ân sủng’, ‘eucaristia’, tạ ơn, vì anh đã được cứu.

Việc tạ ơn của người ngoại giáo là một hành vi đúng đắn và cần thiết, Chúa Giêsu đánh giá cao lòng biết ơn của anh. Tại sao hành vi biết ơn lại quan trọng với Ngài đến thế? Theo một cách thức nào đó, khi tỏ lòng biết ơn, đơn thuần, chúng ta trả lại cho Chúa những gì xứng với Người. Như những người phong cùi; họ bất lực mọi sự ngoài việc khẩn xin; trước Thiên Chúa, chúng ta cũng thế thôi, “Xưa kia, chúng ta cũng lầm lạc”, điều Thánh Phaolô đã nhắn gửi Titô và cả chúng ta, những người cùi thiêng liêng đang cầu xin lòng thương xót Chúa; vì thế, nếu đón nhận quà tặng mà không biết cảm tạ, chúng ta cũng sẽ tự liệt mình xuống hạng người chỉ biết ‘tiêu thụ ân sủng’ mà không có khả năng thực hiện ‘một hành động của ân sủng’, đó là biết ơn, ‘eucaristia’. Thiên Chúa muốn cứu chúng ta ngay trong tình trạng vô ơn đó.

Vậy thì đâu là động lực của lòng biết ơn? Khi tạ ơn, chúng ta không còn là ‘người nhận thụ động’; nhưng trở thành ‘người cho tích cực’, trả cho người đã ban những gì chúng ta không xứng. Khi trở thành ‘người cho’, chúng ta được Chúa đặt lên một cấp độ khác, cấp độ có khả năng nhận được nhiều hơn từ Người. Bằng cách tạ ơn, người cùi có khả năng nhận được nhiều hơn từ Chúa Giêsu. Thật vậy, anh ta đã nhận được nhiều hơn, anh được cứu; được cứu là ‘một hành động của ân sủng’ lớn lao nhất; giờ đây, anh có khả năng lớn lên trong sự thiết thân với Chúa… biết đâu anh là một trong những môn đệ của Chúa Giêsu.

Một người cha kể, “Một đêm kia, lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ nói, “Ba ơi, con sẽ đếm sao trời”. Sau đó, tôi nghe giọng êm đềm của con gái, “1, 2, 3, 4…” và tôi cứ chăm chú đọc báo. Âm thanh dễ chịu đó vẫn cất lên đều đều, “123, 124, 125…”; đến đây, bỗng nó ngừng lại, con gái quay sang nói với tôi, “Ba ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế!”. Tôi giật mình và nói với Chúa, “Chúa ơi, để con đếm thử, con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành của Chúa”, và càng đếm, tim tôi dường như càng thắt lại; không phải vì âu sầu nhưng vì hồng ân Chúa đang đè nặng tim tôi đến nỗi tôi ngộp thở, và tôi thốt lên như con gái, “Lạy Chúa, con không dè, đời con lại có quá nhiều hồng ân Chúa đến thế!”.

Hôm nay, Chúa Giêsu mời chúng ta đi vào trong tương quan cá vị với Ngài, tương quan Thánh Thể; ở đó, chúng ta cũng sẽ đếm các ơn Ngài ban và hẳn, chúng ta sẽ nói với Chúa rằng, “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” như tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca hôm nay. Thế nhưng, không là những người ‘thụ động với ân sủng’, chúng ta sẽ là những ‘cộng sự viên của ơn cứu độ’; cùng Chúa Kitô, chúng ta sẽ thực hiện ‘một hành động của ân sủng’, sẽ sống một đời tạ ơn, một đời Thánh Thể, để thu hút và đem ơn cứu độ và sự chữa lành của Thiên Chúa cho thế giới, cho các linh hồn.

Anh Chị em,

Trong tương quan Thánh Thể, cùng Chúa Kitô, chúng ta dâng hy tế tạ ơn lên Chúa Cha; đó cũng là ‘một hành động của ân sủng’, vì bấy giờ, lời ca tụng tạ ơn từ môi miệng chúng ta không còn là ‘nhân linh’, nhưng là ‘thiên linh’; thật xúc động khi chúng ta đọc lại lời này, “Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban; bởi chưng, những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, một đôi khi, xin cho con chịu ngồi đếm những ơn lành Chúa ban; nhờ đó, mỗi giây phút của ngày sống của con, là ‘một hành động của ân sủng’ khi con biết tạ ơn, trả lại cho Chúa những gì Chúa đáng nhận; đồng thời, cho con càng biết ra đi đến tận cùng thế giới, trao ban ân sủng và lòng thương xót Chúa cho anh chị em con; như thế, con đang nói với Chúa ‘eucaristia’, con đang sống Thánh Thể”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Dead Man Walking: Cuộc Đồng Hành Bên Chúa Của Một Tử Tội
Emily Nguyễn
16:38 10/11/2020
Năm 1993, một cuốn sách mang tựa đề “Dead Man Walking” tạm dịch là “ Hành Trình Cuối Cùng của Tử Tội”, do một nữ tu có tên gọi là Sơ Helen Prejean viết về đời sống và tâm tư của những người tù đang sống trong các trại giam chờ ngày thi hành án tử, đã đạt được sự thành công đáng kể: có số bán chạy nhất, được đề cử Pulitzer Prize, và dĩ nhiên, sự ủng hộ mạnh mẽ của các tôn giáo, đoàn thể và cá nhân đang tích cực chống đối án tử hình. Cuốn sách thậm chí đã gợi hứng cho sự ra đời của một cuốn phim cùng tên vào năm 1995. Và từ đó Sơ Helen Prejean bỗng trở thành nổi tiếng, nổi tiếng đến nỗi đạo diễn phim phải nhờ Sơ làm cố vấn cho các tài tử có thể đóng trọn vai trò của mình.

“Dead man walking” là cụm chữ thường xuyên được cai tù ở các trại giam xướng lên trước khi có một tử tội bước ra khỏi phòng giam lần cuối để được dẫn đến phòng nhận án tử. Có nhiều lý do được đưa ra để giải thích lịch sử của cụm chữ mang tính truyền thống pha chút tàn nhẫn này. Nhưng đa số đều đồng ý với nhau ở chỗ mục đích của việc xướng lên cụm chữ đó là để cảnh báo cho nhân viên và các phạm nhân khác biết rằng một tử tù đang trên đường đến nơi lãnh nhận cái chết dù muốn hay không, và mọi người đều phải biết mà đề phòng sự bất trắc có thể xảy ra vì tử tù thường là những người chẳng còn gì để mất, rất liều lĩnh và hung hãn, nên có thể trở nên bạo động và có những phản ứng điên rồ trước khi phải chết.

Hai vai chính được trao cho tài tử thượng thặng là Sean Penn và Susan Sarandon. Được biết chỉ riêng vai sơ Helen thôi đã đem lại cho bà Susan Sarandon hàng loạt giải thưởng cao quý về điện ảnh, mà trong đó giải Oscar (1996) là đáng kể nhất. Sean Penn cũng được đề cử nhận giải Oscar và đoạt nhiều giải thưởng quan trọng khác cho vai diễn của anh trong cuốn phim Dead Man Walking. Ngay cả đạo diễn và nhà soạn nhạc của cuốn phim cũng được đề cử nhận giải Oscar.

Cuốn phim với số vốn là 11 triệu đô la Mỹ đã thu về con số kỷ lục là 86.4 triệu đô, được những nhà phê bình phim ảnh đánh giá cao tới 94% về mức độ thành công. Những tờ báo lớn như The Los Angeles Times, Washington Post hết lời khen tặng, như “Cuốn phim manh tính cách thông minh, quân bình và thảm thương này đã phô bày cho ta thấy trận chiến khốc liệt giữa hai thế lực thiện và ác”

Một lần nữa, tên tuổi của tác giả lại được nhắc đến như một xác tín về sự thành công của đứa con tinh thần mà bà đã cưu mang trong suốt nhiều năm ròng rã bằng mồ hôi và tâm huyết của mình, hay nói đúng hơn, bằng kinh nghiệm sống thật của một người đã hiến mình cho tha nhân.

Tuy thế, tác giả -sơ Helen- vẫn cho rằng giải thưởng cao quý nhất dành cho cuốn phim và những người đã dốc toàn lực vào việc tạo ra nó vẫn thuộc về những người có cùng một quan điểm phò sinh như mình. Đó là những người vẫn ngày đêm tranh đấu để giá trị và nhân phẩm con người được tôn trọng, dù cho họ là người lương thiện hay bất hảo, để bản tính “thiện” của họ có cơ hội vượt thắng cái “ác” và từ đó sẽ giúp cho họ cơ hội nhìn lại chính mình và nhận chân sự thật, như kinh thánh đã nói “Sự thật sẽ giải thoát anh em”

Bình thường con người vốn nặng lòng xét đoán hay ngần ngại mỗi khi phải tiếp xúc huống hồ là thăm viếng hay an ủi những phạm nhân, nhất là tử tù. Người Ky tô giáo cũng không ngoại lệ. Chúng ta có khuynh hướng thích viếng thăm bệnh nhân, trẻ mồ côi, người già hay neo đơn, viếng thăm những người gặp thiên tai hay thảm cảnh, nhưng chẳng mấy ai mặn mà với điều răn “Viếng thăm kẻ tù rạc” nhất là những tội nhân mang án phạt nặng nề. Sơ Helen đã làm điều ngược lại, bà đã đến thăm viếng và làm bạn, thậm chí cố vấn tinh thần cho hàng loạt những phạm nhân hiện đang thụ án tử hình trong các trại giam trên đất Mỹ (khỏang 3000 người).

Sơ Helen là ai?

Thoạt nhìn người nữ tu đơn sơ giản dị, người lúc nào cũng điểm nụ cười vô tư trên môi, khó ai có thể hiểu sức mạnh “mềm” của bà đến đâu đối với đời sống tinh thần của những con người được xem là “đồ bỏ”, đáng nguyền rủa và xa lánh nhất trong xã hội. Những người mà quãng đời còn lại chỉ được tính bằng tháng hay vài năm, kể từ khi phán quyết sau cùng của tòa án hình sự được tuyên đọc. Thế nhưng, đối với sơ Helen, họ chính là bạn tâm tình, là người sơ viếng thăm và trò chuyện còn thường xuyên hơn cả chính người nhà của họ. Đối với sơ, họ vẫn là hình ảnh của Chúa lúc bị loài người ghê tởm và xa lánh. Chúng ta có thể lý giải rằng, vì sơ đã chọn Chúa là lẽ sống của đời mình nên sơ vui lòng xem đó là một vinh dự khi đến với họ để “đem ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu “. Hãy nghe lời tâm sự của sơ với ký giả của tờ St Anthony Messenger vào năm 1991: “Đối với tôi, hình tượng của Giáo Hội Chúa nằm ở cả hai bên tả và hữu của cây thánh giá, với cả người thân của nạn nhân lẫn thủ phạm gây ra tội lỗi đó”. Với suy tư đó, sơ vừa đến thăm phạm nhân để an ủi và khuyến khích họ giảng hòa với Thiên Chúa với con ngưới thật của chính họ, sơ cũng thành lập một hội có tên là “Survive” (có nghĩa là Sống sót) với mục đích giúp cho gia đình các nạn nhân xấu số của tội ác tại thành phố New Orleans đối phó với nỗi đau khổ và nhớ thương về người thân của họ đã bị tước đoạt mạng sống bởi những người tử tội mà sơ cố vấn. Được thừa hưởng tài ăn nói lưu loát của cha là một vị luật sư, cũng như bằng tình thương đơn sơ không ranh giới của một bậc tu hành, sơ Helen đã không gặp nhiều trở ngại gì trong việc bắc cầu thông cảm, hay ít nhất là lấp bớt hố sâu thù hận trong lòng người nhà của những nạn nhân nói trên. Điều này được thể hiện rõ trong cảnh quay kết thúc cuốn phim “Dead Man Walking” khi đạo diễn cho chiếu cảnh người cha của nạn nhân (là ông Lloyd LeBlanc ) quỳ bên sơ Helen cầu nguyện cho người tử tội (tức Patrick Sonnier) đã giết con ông một cách dã man mấy năm về trước.

Hạt giống đức tin đã nẩy mầm ra sao?

Chào đời vào ngày 21 tháng 4 năm 1939 trong một gia đình trí thức và nề nếp, cô bé Helen đã được nuôi dưỡng bằng đức tin Công Giáo của người cha là một luật sư và người mẹ, một y tá. Dường như Helen đã thụ hưởng cả tài hùng biện của cha lẫn trái tim rất nhân hậu của người mẹ, là những nhân tố trọng yếu giúp sơ hoàn thành sứ mạng biện hộ và phục vụ những thành phần bị coi là hạng phế thải của xã hội sau này.

Một đặc điểm trong đời sống gia đình của Helen lúc sơ còn thiếu thời là thói quen lần chuỗi Mân Côi của cả nhà vào mỗi buổi tối. Lòng sùng kính Đức Mẹ và thói quen lần hạt ấy đã theo sơ trong suốt quãng đời phục vụ. Sau này, sơ vẫn nhắc lại lòng biết ơn cha mẹ là những người kỹ sư tâm hồn tuyệt vời nhất, đã tạo nên và dạy dỗ sơ biết Chúa, biết yêu thương nhân loại bằng cả tấm lòng.

Năm 1957 khi vừa tròn 18 tuổi và gia nhập tu hội thánh Giu-se thành Medaille, sơ chỉ đưa ra được một lý do duy nhất là “Tình thương của cha mẹ tôi dành cho tôi quá lớn, mà nếu tôi không đáp đền tình thương ấy bằng cách đem chia sớt cho người khác thì thật là một thiếu sót trầm trọng”. Có lẽ cũng bởi sơ là người có trái tim bao la khác thường như vậy, mà sau hơn 2 thập niên vâng lời bề trên làm nhiệm vụ giảng dạy tại một trường trung học cấp 2 của nhà dòng, sơ Helen đã không thể ngờ được rằng ơn kêu gọi của sơ không chỉ đơn thuần có thế, khi được bề trên giao cho nhiệm vụ mới. Và sơ đã mặc nhiên chấp nhận bước vào cuộc thử thách mang tính đột biến, đầy cam go và hoàn toàn mới mẻ đối với một người vốn sinh ra và lớn lên chưa hế tiếp cận với bạo lực như sơ: đó là sứ vụ làm tuyên uý cho một trại giam những người chờ ngày lãnh án tử hình ở thành phố New Orleans.

Thật ra, khi trao cho sơ Helen trọng trách này -trong một dự án đặc biệt và mới mẻ được gọi là Dự Án Gia Cư Giu Se- Bề trên Jean Pierre Medaille đã nhìn ra ở sơ Helen một bản lãnh và lòng thương xót vô biên dành cho con người, là những vũ khí đặc biệt có thể xử dụng trong việc tranh giành những linh hồn tội lỗi đang chơi vơi giữa sự sống và cái chết về cho Chúa và những giá trị nhân bản, để tranh đấu cho họ nếu chịu một bản án bất công, và nếu thất bại, để cho họ trước khi cuộc sống phải bị kết liễu một cách bi thảm sẽ được “nhìn thấy một ánh mắt và gịong nói đầy cảm thông và quan tâm”.

Lạy Chúa, con đây!

Sơ Helen Prejean từ năm 1981 có thêm nhiệm vụ mới là trao đổi thư từ và thăm viếng những người tử tù đang chờ ngày lãnh án. Vào năm 1984 khi sơ lần đầu tiên được chứng kiến tận mắt cảnh hành quyết một người tử tù mà sơ vẫn viết thơ an ủi và động viên tinh thần, một ý nghĩ mới lại manh nha trong đầu người phụ nữ quả cảm và nhân hậu này: tranh đấu để loại bỏ án tử hình trên khắp tiểu bang Louisiana và toàn nước Mỹ vì tính chất dã man và bất công của nó.

Sơ tâm sự “Chứng kiến cảnh người tử tù này bị hành hình vào ngày 5 tháng 4 năm 1984 cũng như là lần rửa tội thứ 2 dành cho tôi vậy. Tôi không thể nào đứng nhìn người khác bị giết rồi mình bỏ đi như thế được. Như một bí tích thánh thể, kẻ bị hành hình đã để lại một dấu ấn hằn sâu trong trái tim tôi”.

Và cứ như thế, một sứ mạng mới được Sơ khởi xướng, đến nay đã trở thành một phong trào làn rộng khắp nước Mỹ với những hoạt động thuần tuý tôn giáo và đầy nhân bản như: giảng thuyết khắp nơi về bản chất phi nhân và phản đạo đức của án tử, viết thỉnh nguyện thư lên các nhà lãnh đạo quốc gia và tôn giáo xin ủng hộ việc loại bỏ án tử hình, tổ chức những buổi thắp nến cầu nguyện trước những trại giam có người sắp lãnh án tử, lập danh sách những phạm nhân có dấu hiệu oan ức trong vụ án v..v.. Trên trang nhà hiện nay của Sơ có danh sách những phạm nhân đang ngồi tù chờ ngày thụ án (trong đó có vài người Việt), những người bị kết án oan ức nhưng đã được tha bổng vì tìm ra chứng cớ ngoại phạm (hiện có tới 25 người, kể từ năm 1973 đến nay)

Thế nào là “yêu tha nhân như chính mình”?

Helen Prejean là một nữ tu, nhưng sơ không chỉ đơn thuần là người đem kinh thánh và lời cầu nguyện đến để “giảng đạo” cho những người bị thế gian xét đoán là tội lỗi, mà là một người đến để thực thi một điều răn mà bất cứ người tín hữu Ki Tô giáo nào cũng cảm thấy “nói dễ khó làm”: Đến để yêu thương và cầu cho linh hồn kẻ tội lỗi được tìm thấy sự thật, và khi tìm thấy được sự thật rồi sẽ lãnh nhận ơn tha thứ và cứu rỗi để dù mạng sống họ có bị lấy mất nhưng linh hồn họ sẽ ra đi trong thanh thản và quan trọng là sẽ được cứu rỗi, bởi lời hứa bất di bất dịch của Chúa Giê su trong Phúc Âm thánh Gioan (8:32): “sự thật sẽ giải thoát anh em”. Xa hơn nữa, sơ còn xử dụng chuỗi tràng hạt để tìm cả sự bình an và hoà giải cho những người ở hai thái cực của lòng thù hận là gia đình nạn nhân và thủ phạm như sơ đã từng tâm sự với ký giả của tờ Messenger.

Cuốn phim đoạt nhiều giải Oscar “Dead Man Walking” đã được kết thúc với cảnh sơ Helen đang lần hạt với người cha của nạn nhân như một biểu tượng của lòng vị tha và bác ái dành cho kẻ thù. Đó cũng là phản ảnh trung thực của những gì xảy ra ở ngoài đời giữa sơ và ông Lloyd LeBlanc, cha ruột của một cô gái trẻ bị chính người thủ phạm mà ông và sơ Helen đang cầu nguyện cho. Thói quen hàng tháng gặp mặt để chung lời cầu nguyện, cho đến bây giờ, Sơ và ông LeBlanc vẫn giữ.

Để thuyết phục được người khác làm được điều này, bằng một trạng thái an bình và tỉnh táo, phải chăng giáo hội cần đến một vị thánh sống? Sơ Helen thì không nghĩ vậy, mà chỉ cười thật giòn giã và trả lời rằng “Đó chính là do Chúa quan phòng đấy thôi”.

Bằng quan niệm “Nếu không có Chúa trong đời sống, thì không thể nào có mối quan hệ sống động giữa việc cho đi và nhận về” Sơ Helen đã xác tín sự quan phòng của Chúa đã định sẵn cho mỗi người trong chúng ta, bất kể là người thánh thiện hay kẻ tội lỗi, chỉ cần chúng ta nhìn nhận sự thật và mở cửa đón Ngài vào lòng mình.

Tìm Chúa ở đâu?

Khi mới nhận nhiệm vụ tiếp xúc và cố vấn tinh thần cho Matthew Poncelet ở trại tù Louisiana sơ Helen bị cuốn hút bởi những tình tiết có sức thuyết phục của người thanh niên mà sơ nghĩ là bị hàm oan này, và sơ đã không ngần ngại gõ đủ mọi cửa công cửa quyền để kêu oan cho anh ta. Cũng vì thế, Sơ trở thành đối tượng của nhiều lời đả kích và chê trách đến từ mọi phía, nhất là gia đình những nạn nhân của vụ án. Ai cũng cho là sơ đã bị Poncelet bịt mắt và bị lừa.

Một tháng trước khi lên ghế điện (xin mở một ngoặc kép tại đây là là tiểu bang Louisiana chỉ cho phép hành hình tội nhân bằng ghế điện, nhưng sơ Helen và đạo diễn phim muốn thay bằng hình thức chích thuốc độc cho bớt phần dã man), ngay khi mọi nỗ lực kháng án lên tận toà thượng thẩm Louisiana cũng đã thất bại, Poncelet còn cả quyết anh ta vô tội, và đổ hết lỗi cho đồng phạm của mình, bất chấp sự thách thức nhìn nhận sự thật của người cố vấn tinh thần mà anh coi như thân thích còn hơn cả thân nhân ruột thịt.

Nhưng đoạn kết của câu chuyện mới là điều đáng nói.

Như một sự lạ khó hiểu, Poncelet trong những ngày cuối cùng của đời mình, khi trầm ngâm lắng nghe những đoạn Kinh Thánh và thánh ca -đặc biệt là bài “Be Not Afraid” (Đừng sợ) của sơ Helen hát bên tai, đã thú nhận sự tham gia vào tội ác của mình, và nói lời xin lỗi với gia đình nạn nhân trước giây phút lên ghế điện “ Tôi hy vọng cái chết của tôi sẽ đem lại sự bình an cho gia đình của ông bà “ Sau đó Poncelet hóm hỉnh nháy mắt với sơ Helen đang ngồi lặng lẽ cầu nguyện với cánh tay hướng về phía anh từ ở bên kia tấm kính chắn trong phòng nhân chứng như muốn được thông phần với chặng thánh giá cuối cùng mà anh đang phải cố vác trong cuộc lữ hành trần thế, rồi ra hiệu cho nhân viên nhấn nút điện cao thế đưa anh vào cõi chết một cách bình thản.

Theo lời Sơ Helen viết trong cuốn tự truyện, lời thú nhận từ chính miệng của thủ phạm Poncelet đã có sức mạnh vạn năng làm biến đổi tất cả những thành kiến và ác cảm dành cho người tử tù vốn bị cho là hung ác và ngoan cố có hạng. Ai cũng ngạc nhiên tự hỏi có phải do sự thành tâm và kiên trì của sơ Helen đã hoán cải anh, khi Poncelet -từ một kẻ dường như chẳng biết sợ ai và trong nhiều năm chưa bao giờ tỏ vẻ hối hận về những tội ác đã gây ra cho nhiều người - lại có một sự thay đổi lạ kỳ như vậy?

Hay đó chính là một sự can thiệp nào cao hơn, mầu nhiệm hơn chỉ xảy ra khi một người tội lỗi biết khiêm tốn hạ mình nhận chân sự thật trước toà án lương tâm và trước mặt Đấng Phán Xét tối cao của muôn loài thụ tạo là Thiên Chúa? Câu trả lời chỉ có Poncelet biết.

Nhưng với những ai lòng tin tuyệt đối vào Chúa Quan Phòng đều hiểu được rằng, khi câu chuyện về cái chết của tử tù Poncelet đến tai chúng ta, thì hẳn trước mặt Chúa anh đã không còn là người tội lỗi nữa, đã có diễm phúc được hưởng ơn cứu rỗi như người tử tội trên đồi Calve năm xưa đã được Chúa Giê Su tha thứ và bảo rằng “Ngay hôm nay anh sẽ được vào nước Thiên Đàng với ta”
 
Phúc trình McCarrick: một trang buồn thảm mà Giáo Hội đang học hỏi được
Vũ Văn An
19:03 10/11/2020
Trên đây là tựa đề bài xã luận do giám đốc xã luận của Bộ Truyền Thông, Andrea Tornielli, viết và phổ biến trên trang mạng Tòa Thánh VaticanNews. Tập chú của bài xã luận là: chỉ từ 2017 mới có những tin tức khả tín về những lời tố cáo tác phong tồi bại của cựu Hồng Y McCarrick và khi có các tin tức khả tín, Giáo Hội đã hành động một cách mau chóng và kiên quyết. Chúng tôi xin chuyển sang Việt Ngữ nguyên văn bài xã luận:



Vào thời điểm Theodore McCarrick được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Washington vào năm 2000, Tòa thánh đã hành động dựa trên thông tin phiến diện và không đầy đủ. Những gì bây giờ được đưa ra ánh sáng là những quên sót, đánh giá thấp và lựa chọn sau này được chứng minh là sai lầm, một phần là do sự kiện này là trong diễn trình lượng giá theo yêu cầu của Rôma vào thời điểm đó, những người được hỏi đã không luôn tiết lộ tất cả những gì họ biết. Cho đến năm 2017, chưa bao giờ có bất cứ cáo buộc chính xác nào liên quan đến việc lạm dụng hoặc quấy rối hoặc gây tổn hại tình dục cho một vị thành niên. Ngay sau khi nhận được báo cáo đầu tiên từ một nạn nhân vốn là một vị thành niên vào thời điểm vụ lạm dụng được thực hiện, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phản ứng nhanh chóng đối với vị Hồng Y lớn tuổi, người đã nghỉ hưu trong tư cách đứng đầu tổng giáo phận vào năm 2006, bằng cách trước hết tước bỏ chiếc mũ đỏ của ông và sau đó loại ông khỏi bậc giáo sĩ. Đó là điều trích dẫn từ Phúc trình về Nhận thức Thể chế và Việc ra Quyết định của Tòa Thánh liên quan đến Cựu Hồng Y Theodore Edgar McCarrick (1930 đến 2017) do Phủ Quốc Vụ Khanh công bố.

Một đáp ứng chi tiết

Chính việc biên soạn và xuất bản Phúc trình, do tính sâu rộng và nội dung của nó, đã đáp ứng yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, muốn việc ra quyết định liên quan đến McCarrick phải được điều tra kỹ lưỡng và kết quả cuộc điều tra phải được công bố.

Phúc trình cũng chứng tỏ hành động chăm sóc mục vụ của Đức Giáo Hoàng đối với cộng đồng Công Giáo Hoa Kỳ, những người bị tổn thương và đau khổ khi McCarrick được bổ nhiệm và thăng thưởng tới chức vụ cao trong Giáo hội. Cuộc điều tra được tiến hành trong hai năm nay đã được bắt đầu khoảng cuối mùa hè năm 2018, trong nhiều tuần lễ căng thẳng đáng kể lên đến đỉnh điểm là lời tố cáo của cựu Sứ thần Tòa thánh tại Washington, Carlo Maria Viganò, người, trong một chiến dịch truyền thông quốc tế, đã công khai kêu gọi sự từ chức của Đức Đương kim Giáo hoàng.

Không có cáo buộc lạm dụng tình dục các vị thành niên cho đến năm 2017

Điểm mạnh của Phúc trình không chỉ nằm ở tính đầy đủ của nó mà còn ở cái nhìn tổng quan mà nó cung cấp. Từ cái nhìn tổng quan này, một số điểm chủ chốt xuất hiện mà ta cần xem xét. Điểm đầu tiên liên quan đến những sai lầm đã được thực hiện; những điều này đã dẫn đến việc thông qua các quy định mới trong Giáo hội, giúp tránh việc lịch sử tự lặp lại. Yếu tố thứ hai là, cho đến năm 2017, không có cáo buộc chuyên biệt nào liên quan đến việc lạm dụng tình dục các vị thành niên do McCarrick vi phạm. Đúng là vào những năm 1990, một số lá thư nặc danh ám chỉ việc lạm dụng vị thành niên đã được các vị Hồng Y và tòa sứ thần ở Washington nhận được, nhưng không cung cấp bất cứ chi tiết, tên hoặc hoàn cảnh nào: những bức thư này đáng tiếc bị coi là không đáng tin cậy vì thiếu các yếu tố cụ thể. Thực thế, lời buộc tội chuyên biệt đầu tiên liên quan đến một vị thành niên chỉ xuất hiện cách đây ba năm, dẫn đến việc mở ngay lập tức một diễn trình giáo luật kết thúc với hai quyết định của Đức Giáo Hoàng Phanxicô - quyết định đầu tiên là tước bỏ chiếc mũ đỏ khỏi vị Hồng Y hưu trí và thứ hai đã loại ông khỏi bậc giáo sĩ. Những người đứng ra làm chứng chống lại McCarrick khi diễn trình giáo luật diễn ra phải được khen ngợi vì đã giúp sự thật của họ được biết đến và cần được cảm ơn vì đã làm như vậy trong khi phải vượt qua nỗi đau của việc nhớ lại tất cả những gì họ đã kinh qua.

Lượng giá trước chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng

Phúc trình cho thấy tại thời điểm đầu tiên ông được đưa vào danh sách ứng viên giám mục (1977), cũng như khi ông được bổ nhiệm tới Metuchen (1981), và sau đó tới Newark (1986), không ai trong số những người được hỏi ý kiến cung cấp thông tin tiêu cực liên quan đến hành vi luân lý của Theodore McCarrick. Việc “lượng giá” không chính thức đầu tiên về một số cáo buộc liên quan đến hành vi của Tổng giám mục Newark lúc bấy giờ đối với các chủng sinh và linh mục từ giáo phận của ông chỉ xuất hiện vào giữa những năm 1990, trước chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến thành phố đó. Chính Đức Hồng Y Tổng Giám mục của New York, John O’Connor, đã thực hiện cuộc lượng giá: ngài đã hỏi những người khác, kể cả các giám mục Hoa Kỳ, để biết thông tin và sau đó kết luận rằng không có “cản trở” nào đối với chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng đến thành phố mà McCarrick là mục tử tại thời điểm đó.

Lá thư của Hồng Y O’Connor

Điểm quan trọng trong vụ này chắc chắn là việc McCarrick được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Washington. Trong những tháng khi xuất hiện việc McCarrick có thể được chuyển đến tòa ở Hoa Kỳ mà theo truyền thống vốn do một Hồng Y lãnh đạo, đáng chú ý trong một số ý kiến tích cực có ảnh hưởng đến con người của ông là ý kiến tiêu cực của Đức Hồng Y O’Connor. Dù thừa nhận rằng ngài không có thông tin trực tiếp nào, Đức Hồng Y giải thích trong một bức thư, đề ngày 28 tháng 10 năm 1999, gửi cho Sứ thần Tòa thánh, rằng ngài tin Việc bổ nhiệm McCarrick đến một văn phòng mới là một sai lầm: thực thế, nguy cơ xảy ra một vụ tai tiếng nghiêm trọng có đó vì những tin đồn rằng trong quá khứ McCarrick đã ngủ chung giường với những thanh niên trưởng thành tại nhà xứ và các chủng sinh ở một căn nhà ở bãi biển.

Quyết định đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Về phương diện này, điều quan trọng là phải làm nổi bật quyết định ban đầu của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Thực thế, Đức Giáo Hoàng đã yêu cầu Sứ thần xác minh cơ sở của những lời buộc tội này. Một lần nữa, cuộc điều tra bằng văn bản không có bất cứ bằng chứng cụ thể nào - thực vậy, ba trong số bốn giám mục từ New Jersey được hỏi ý kiến đã cung cấp thông tin mà Phúc trình tiết lộ là “không chính xác và không đầy đủ”. Mặc dù Đức Giáo Hoàng đã biết McCarrick từ năm 1976, gặp ông trong chuyến đi đến Hoa Kỳ, nhưng ngài đã chấp nhận lời đề nghị của Sứ thần Tòa thánh tại Hoa Kỳ lúc đó là Gabriel Montalvo và sau đó của Tổng trưởng Bộ Giám mục lúc bấy giờ là Giovanni Battista Re, bỏ việc ông ta làm ứng viên. Các ngài lập luận rằng ngay cả khi không có các chi tiết chuyên biệt, không nên chấp nhận rủi ro khi chuyển vị giáo phẩm đến Washington. Các ngài tin rằng những lời buộc tội dù bị cho là vô căn cứ nhưng có thể xuất hiện trở lại và gây ra những vụ bối rối và tai tiếng. Do đó, McCarrick dường như có định mệnh phải ở lại Newark.

Lá thư của McCarrick gửi cho Đức Giáo Hoàng

Một điều gì đó đã xảy ra làm thay đổi hoàn toàn tiến trình các sự kiện. Chính McCarrick, sau khi biết rõ mình là một ứng viên, và các dè dặt đối với mình, đã viết thư cho Đức cha Stanislaw Dziwisz lúc ấy, thư ký riêng của vị Giáo hoàng người Ba Lan vào ngày 6 tháng 8 năm 2000. McCarrick tuyên bố mình vô tội và thề rằng ông đã “chưa từng có quan hệ tình dục với bất cứ người nào, nam hay nữ, già hay trẻ, giáo sĩ hay giáo dân”. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đọc lá thư và tin chắc rằng vị Tổng Giám mục Hoa Kỳ này nói sự thật và những “tin đồn” tiêu cực chính xác là như thế - chỉ là những tin đồn vô căn cứ, hoặc ít nhất chưa được chứng minh. Do đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, hành động qua các chỉ thị chuyên biệt truyền đạt cho Quốc vụ khanh lúc bấy giờ là Angelo Sodano, người đã xác lập rằng McCarrick nên được phục hồi trong danh sách ứng viên rút gọn. Và cuối cùng, chính ngài là người đã chọn McCarrick cho tòa Washington. Phù hợp với các lời khai được trích dẫn trong Phúc trình, để hiểu rõ hơn bối cảnh của thời kỳ đó, cũng có thể hữu ích khi nhớ lại rằng trong những năm ngài còn là Tổng Giám mục ở Ba Lan, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chứng kiến việc chế độ sử dụng các cáo buộc sai lầm để làm mất uy tín của các linh mục và giám mục.

Quyết định của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô

Hơn nữa, vào thời điểm ông được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Washington, không có nạn nhân nào - người lớn hay vị thành niên - liên lạc với Tòa thánh hoặc với Sứ thần tại Hoa Kỳ để trình bày một cáo buộc về bất cứ tác phong không đứng đắn nào được quy cho Tổng giám mục. Hơn nữa, không có gì không phù hợp về tác phong của McCarrick đã được báo cáo trong những năm ông làm Tổng giám mục ở Washington. Vào năm 2005, khi những cáo buộc quấy rối và lạm dụng đối với người lớn một lần nữa lại nổi lên, Đức tân giáo hoàng, Bênêđíctô XVI, nhanh chóng yêu cầu Hồng Y người Mỹ từ chức, người mà ngài vừa gia hạn nhiệm vụ thêm hai năm. Năm 2006, McCarrick rời vị trí đứng đầu Tổng giáo phận Washington, trở thành Tổng giám mục hưu trí của nó. Phúc trình chứng minh rằng trong thời kỳ này, Đức Tổng Giám Mục Carlo Maria Viganò, với tư cách là người Đại diện của Đức Giáo Hoàng, đã báo cáo thông tin về việc McCarrick có thể liên lụy với những người lớn, một thông tin đã phát xuất từ Tòa sứ thần gửi tới các cấp trên của mình ở Phủ Quốc Vụ Khanh, nêu bật tính nghiêm trọng của nó. Tuy nhiên, trong khi báo động, ngài cũng hiểu rằng không có sự kiện nào được chứng minh. Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tarcisio Bertone đã trình bày vấn đề trực tiếp với Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI. Trong bối cảnh đó, khi không có nạn nhân nào là vị thành niên, và vì đương sự là một Hồng Y đã rời bỏ chức vụ, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã không mở một diễn trình giáo luật chính thức để điều tra McCarrick.

Khuyến nghị, không phải trừng phạt

Trong những năm sau đó, bất chấp những dấu chỉ McCarrick nhận được từ Bộ Giám mục phải sống một cuộc sống yên tĩnh và kín đáo hơn và từ bỏ việc xuất hiện thường xuyên trước công chúng, vị Hồng Y vẫn tiếp tục di chuyển đó đây, từ nơi này sang nơi khác của quả địa cầu, kể cả Rôma, nói chung với sự hiểu biết và ít nhất là sự chấp thuận ngầm của Sứ thần Giáo hoàng. Đã có rất nhiều cuộc thảo luận về bản chất thực sự trong lời yêu cầu mà McCarrick nhận được từ Tòa thánh phải sống một cuộc sống ẩn dật hơn. Từ các tài liệu và lời khai hiện đã được công bố trong Phúc trình, có thể thấy rõ ràng là "các biện pháp trừng phạt" không hề được áp đặt. Đúng hơn, chúng là những khuyến nghị, được đưa ra bằng miệng, gửi cho ông vào năm 2006 và sau đó bằng văn bản vào năm 2008, mà không nói rõ rằng đây là mong muốn rõ ràng của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI. Chúng là những đề nghị vốn giả định thiện chí và sự sẵn sàng tôn trọng của McCarrick. Sự kiện vị Hồng Y vẫn tiếp tục hoạt động, vẫn tiếp tục du hành, và vẫn đã hoàn thành nhiều sứ mệnh khác nhau ở các quốc gia khác nhau (trong đó có thông tin hữu ích), mặc dù ông không được Tòa thánh ủy nhiệm, cho thấy hoạt động của ông được dung thứ. Sau khi nhận được một cáo buộc mới chống lại McCarrick vào năm 2012, Viganò, người trong thời gian đó đã được bổ nhiệm làm Sứ thần tại Hoa Kỳ, đã nhận được chỉ thị từ Bộ trưởng Bộ Giám mục để điều tra. Tuy nhiên, Phúc trình cho thấy ngài đã không thực hiện tất cả các cuộc điều tra đã được yêu cầu nơi ngài. Hơn nữa, qua việc tiếp tục làm theo cùng phương thức vốn được sử dụng cho đến thời điểm đó, ngài đã không thực hiện các bước quan trọng để hạn chế hoạt động của McCarrick hoặc các chuyến du lịch trong nước và quốc tế của ông ta.

Diễn trình được Đức Phanxicô mở ra

Khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô được bầu, McCarrick đã hơn tám mươi tuổi và do đó, bị loại khỏi mật nghị bầu Giáo Hoàng. Các chuyến đi theo thông lệ của ông không có gì thay đổi, và Đức Tân Giáo hoàng không được cung cấp tài liệu hoặc lời khai nào để ngài nhận thức được mức độ nghiêm trọng của những cáo buộc, liên quan đến người lớn, chống lại cựu Tổng giám mục Washington. Những gì được truyền đạt tới Đức Giáo Hoàng Phanxicô là: đã có những cáo buộc và "tin đồn liên quan đến tác phong vô luân với người lớn" trước khi McCarrick được bổ nhiệm đến Washington. Theo quan điểm của ngài, các cáo buộc đã được điều tra và đã bị Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bác bỏ, đồng thời nhận thức rõ rằng McCarrick vẫn hoạt động trong triều Giáo hoàng của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, nên Đức Giáo Hoàng Phanxicô không cho rằng cần phải sửa đổi “diễn trình đã được các vị tiền nhiệm chấp nhận”. Do đó, điều không đúng [khi nói] ngài hủy bỏ hoặc làm suy yếu các biện pháp trừng phạt hoặc hạn chế đối với vị Tổng Giám mục hưu trí. Như đã đề cập, mọi điều đã thay đổi, khi cáo buộc lạm dụng tình dục một vị thành niên đầu tiên xuất hiện. Đã có đáp ứng ngay lập tức. Một diễn trình giáo luật nhanh chóng đã kết thúc bằng biện pháp sa thải nghiêm trọng và chưa từng có một cựu Hồng Y khỏi bậc giáo sĩ.

Giáo hội đã học được gì

Điều đáng kể trong số lượng khổng lồ các lời khai và tài liệu hiện được cung cấp qua bản Phúc trình, chắc chắn là một trang bi thảm trong lịch sử gần đây của Đạo Công Giáo, một câu chuyện đau lòng mà toàn thể Giáo hội đã học được. Thực thế, người ta có thể đọc một số biện pháp mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã thực hiện sau Cuộc họp tháng 2 năm 2019 về việc Bảo vệ các vị thành niên qua lăng kính vụ McCarrick. Thí dụ, người ta có thể thấy điều này là trong Tự Sắc Vos estis lux mundi, có chứa các chỉ thị liên quan đến việc trao đổi thông tin giữa các Bộ sở và giữa Rôma và các Giáo hội địa phương, sự tham dự của Vị Giám Mục Giáo đô vào cuộc điều tra ban đầu, định mức cho thấy các cáo buộc phải được thẩm định nhanh chóng, cũng như việc hủy bỏ bí mật giáo hoàng. Tất cả những quyết định này đã xem xét những gì đã xảy ra, học hỏi từ những gì không hữu hiệu, từ những thủ tục không được thực hiện đúng cách, từ những đánh giá thấp đáng tiếc đã được thực hiện ở nhiều bình diện khác nhau. Giáo hội tiếp tục học hỏi từ cuộc chiến đấu chống lại hiện tượng lạm dụng tình dục, kể cả trong trường hợp này. Điều này cũng trở nên rõ ràng vào tháng 7 năm 2020 với việc công bố Vademecum (Thủ Bản) của Bộ Giáo lý Đức tin mời các mục tử và người đứng đầu các dòng tu không tự động vứt bỏ các đơn tố cáo nặc danh.

Khiêm tốn và sám hối

Do đó, trên đây là bức tranh tổng thể xuất hiện từ tài liệu được trình bày trong Phúc trình, sau khi dựng lại một thực tại chắc chắn có tính chi tiết và phức tạp hơn so với những gì đã được biết cho đến nay. Trong hai thập niên qua, Giáo Hội Công Giáo đã tiến tới chỗ nhận thức rõ hơn nỗi thống khổ khôn tả của các nạn nhân, sự cần thiết phải bảo đảm việc bảo vệ các vị thành niên, tầm quan trọng của các chuẩn mực có khả năng chống lại hiện tượng này. Giáo hội cũng đã tiến tới chỗ nhận thức rõ hơn về sự cần thiết phải bảo vệ chống lại sự lạm dụng đối với những người trưởng thành dễ bị tổn thương, và nhận thức rõ hơn về sự cần thiết phải bảo vệ chống lại sự lạm dụng quyền lực. Đối với Giáo Hội Công Giáo, ở Hoa Kỳ và ở Rôma, vụ Theodore McCarrick - một giáo phẩm sở hữu trí thông minh và sự chuẩn bị đáng kể, có khả năng kết nối nhiều mối quan hệ cả trong chính trị cũng như giữa các tôn giáo - vẫn còn là một vết thương chưa lành, trước hết và quan trọng nhất cho những nỗi đau và nỗi khổ gây ra cho nạn nhân của ông. Vết thương này không thể chỉ được điều trị bằng luật lệ mới hoặc các quy tắc ứng xử hữu hiệu hơn bao giờ hết, bởi vì tội ác cũng là một tội lỗi. Để chữa lành vết thương này, cần có sự khiêm nhường và sám hối, cầu xin Chúa tha thứ và chữa lành.
 
Tuyên bố của Đức Hồng Y Parolin và của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ về Phúc trình McCarrick
Vũ Văn An
22:04 10/11/2020

Cùng ngày với việc công bố Phúc Trình McCarrick, Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, và Đức Tổng Giám Mục Gomez, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã ra các tuyên bố sau đây:

Tuyên bố của Đức Hồng Y Pietro Parolin về Phúc trình McCarrick

Bản Phúc trình về Nhận thức Định chế và Diễn trình ra Quyết định của Tòa Thánh về Cựu Hồng Y Theodore Edgar McCarrick, mà Phủ Quốc Vụ Khanh soạn thảo dựa vào ủy nhiệm của Đức Giáo Hoàng, đã được công bố hôm nay. Đây là một bản văn quan trọng, bao gồm một cuộc khảo sát cẩn thận mọi tài liệu có liên quan của các văn khố tại Tòa thánh, tại Tòa sứ thần ở Washington và các giáo phận của Hoa Kỳ có liên hệ theo nhiều phương diện khác nhau. Cuộc điều tra phức tạp cũng được tích hợp với thông tin thu được từ các cuộc phỏng vấn với những nhân chứng và những người có kiến thức về sự kiện, để có được một bức tranh hoàn chỉnh nhất có thể có và một nhận thức chi tiết và chính xác hơn về thông tin liên hệ.

Chúng tôi công bố Phúc trình với lòng buồn sầu vì những vết thương mà các biến cố này đã gây ra cho các nạn nhân, gia đình họ, Giáo hội ở Hoa Kỳ và Giáo hội Hoàn vũ. Như Đức Giáo Hoàng, tôi cũng đã có khả năng xem các lời khai của các nạn nhân chứa trong Công Báo mà Phúc trình đã dựa vào và được lưu trữ trong các văn khố của Tòa thánh. Sự đóng góp của chúng có tính nền tảng. Trong Thư gửi Dân Chúa vào tháng 8 năm 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết, liên quan đến việc lạm dụng các vị thành niên, “Với sự xấu hổ và ăn năn, chúng tôi, như một cộng đồng Giáo hội, thừa nhận rằng chúng tôi đã không hiện diện ở những nơi đáng lẽ chúng tôi phải hiện diện, chúng tôi đã không hành động kịp thời, nhận ra mức lớn lao và tính nghiêm trọng của sự thiệt hại gây ra cho rất nhiều sinh mạng ”.

Như có thể thấy từ kích cỡ của phúc trình và từ số lượng các tài liệu và thông tin có trong đó, sự thật đã được theo đuổi, cung cấp tài liệu hữu ích cho việc trả lời các câu hỏi được vấn đề nêu ra. Như đã biết, cuộc điều tra chiếm hai năm làm việc và nay bản văn được công bố, ta có thể hiểu tại sao nó lại chiếm nhiều thời gian như thế. Lời mời gọi mà tôi muốn gửi tới bất cứ ai đang tìm kiếm câu trả lời là hãy đọc toàn bộ tài liệu và đừng để bị dẫn sai vào việc tin rằng có thể tìm thấy sự thật ở phần này chứ không phải ở phần khác. Chỉ từ cái nhìn và nhận thức tổng thể về những gì đã được tái dựng trong các diễn trình ra quyết định liên quan đến cựu Hồng Y McCarrick, ta mới có thể hiểu được điều gì đã xảy ra.

Trong hai năm qua, trong khi cuộc điều tra dẫn đến Phúc trình này được tiến hành, chúng tôi đã thực hiện các bước quan trọng để bảo đảm sự chú ý nhiều hơn đến việc bảo vệ các vị thành niên và các biện pháp can thiệp hữu hiệu hơn để tránh lặp lại một số quyết định đã làm trong quá khứ. Bộ giáo luật đã được Tự sắc Vos estis lux mundi làm phong phú thêm, cung cấp việc tạo ra các cơ chế ổn định để nhận các báo cáo lạm dụng và thiết lập một thủ tục rõ ràng để điều tra các báo cáo của các giám mục phạm tội hoặc những người đã bảo vệ những người chịu trách nhiệm. Và ngoài Tự sắc, có những công cụ được tạo ra tiếp theo sau cuộc họp tháng 2 năm 2019 về việc bảo vệ các vị thành niên. Chẳng hạn, tôi nghĩ đến sự can thiệp hồi tháng 12 năm ngoái, liên quan đến bí mật Giáo hoàng đối với các khiếu nại, các phiên xét xử và quyết định liên quan đến các trường hợp lạm dụng trẻ em và những người dễ bị tổn thương; và các trường hợp không báo cáo, hoặc che đậy những kẻ lạm dụng. Tôi cũng nghĩ đến việc công bố Vademecum (Thủ Bản) về các thủ tục xử lý các trường hợp lạm dụng trẻ em, được công bố hồi tháng 7 năm ngoái bởi Bộ Giáo lý Đức tin.

Đức Thánh Cha viết trong Thư gửi Dân Chúa, “Nhìn lại quá khứ, nỗ lực xin tha thứ và tìm cách sửa chữa tổn hại đã gây ra sẽ không bao giờ đủ cả”, và ngài nói thêm: “Nhìn về tương lai, chúng ta không chừa cố gắng nào để tạo ra một nền văn hóa có khả năng ngăn chặn những tình huống như vậy xảy ra, nhưng cũng để ngăn chặn khả thể chúng bị che đậy và tiếp diễn mãi. Nỗi đau của các nạn nhân và gia đình họ cũng là nỗi đau của chúng ta, vì vậy điều khẩn thiết là chúng ta tái khẳng định cam kết của mình đối với vấn đề bảo đảm việc bảo vệ các vị thành niên và những người trưởng thành dễ bị tổn thương”. Đọc tài liệu sẽ cho thấy: tất cả các thủ tục, kể cả việc bổ nhiệm giám mục, đều phụ thuộc vào sự cam kết và lòng trung thực của những người liên quan. Không thủ tục nào, dù là chi tiết nhất, mà không có sai sót vì nó liên quan đến lương tâm và quyết định của những người đàn ông và đàn bà. Nhưng Phúc trình cũng sẽ có hiệu quả về phương diện này: khiến tất cả những người tham gia vào các lựa chọn đó nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của các quyết định hoặc thiếu sót của họ. Đây là những trang giấy nhằm khuyến khích chúng ta suy ngẫm sâu xa và tự hỏi bản thân xem chúng ta có thể làm gì nhiều hơn nữa trong tương lai, học hỏi từ những kinh nghiệm đau đớn trong quá khứ.

Tôi muốn kết luận bằng cách nói rằng nỗi đau bao giờ cũng được đi kèm bằng một tầm nhìn hy vọng. Để những sự thật này không bị lặp lại, cùng với những chuẩn mực hữu hiệu hơn, chúng ta cần có một tấm lòng hoán cải. Chúng ta cần những mục tử đáng tin cậy, biết loan báo Tin Mừng, và tất cả chúng ta phải ý thức rõ rằng điều này chỉ có thể thực hiện được với ơn thánh của Chúa Thánh Thần, tin tưởng vào lời Chúa Giêsu phán: “Không có Thầy, anh em không làm được gì”.

Tuyên bố của Đức Tổng Giám Mục Gomez, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ về Phúc trình McCarrick

Tôi hoan nghênh phúc trình cuộc điều tra của Tòa thánh về nhận thức và việc ra quyết định của Tòa thánh liên quan đến Theodore McCarrick trong suốt sự nghiệp lâu dài của ông trong tư cách linh mục, giám mục và Hồng Y. Chúng tôi đang nghiên cứu những phát hiện này và chúng tôi biết ơn Đức Thánh Cha Phanxicô về quan tâm mục vụ của ngài đối với gia đình Thiên Chúa ở Hoa Kỳ và sự lãnh đạo của ngài trong việc kêu gọi Giáo hội có trách nhiệm giải trình và minh bạch nhiều hơn trong việc giải quyết các vấn đề lạm dụng và xử lý sai các khiếu nại lạm dụng ở mọi bình diện.

Đây là một chương bi thảm khác trong cuộc đấu tranh lâu dài của Giáo hội để đối đầu với tội ác lạm dụng tình dục của các giáo sĩ. Đối với các nạn nhân của McCarrick và gia đình họ cũng như mọi nạn nhân sống sót sự lạm dụng tình dục bởi các giáo sĩ, tôi bày tỏ sự đau buồn sâu xa và lời xin lỗi sâu thẳm nhất của tôi. Qúy vị hãy biết rằng anh em giám mục của tôi và tôi cam kết làm bất cứ điều gì trong khả năng của chúng tôi để giúp qúy vị tiến lên phía trước và bảo đảm rằng không ai phải gánh chịu những gì qúy vị đã buộc phải gánh chịu.

Đối với tất cả những người đã bị lạm dụng bởi một linh mục, giám mục hoặc một người nào đó trong Giáo hội, tôi thúc giục qúy vị hãy báo cáo việc lạm dụng này cho cơ quan thi hành pháp luật và các thẩm quyền Giáo hội. Qúy vị có thể tìm thông tin chi tiết về cách thức và nơi báo cáo lạm dụng tại www.usccb.org/commitists/protection-children-young-people/how-report-abuse.

Phúc trình này nhấn mạnh nhu cầu chúng ta phải ăn năn và lớn lên trong cam kết phục vụ dân Thiên Chúa. Tất cả chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện và phấn đấu cho sự hoán cải của lòng mình, và để chúng ta có thể bước theo Chúa Giêsu Kitô với lòng chính trực và đức khiêm nhường.
 
VietCatholic TV
Các Giám Mục Mỹ nhóm họp. Chính trị gia Công Giáo là phúc lộc hay lại là tai hoạ cho Giáo Hội?
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
05:08 10/11/2020

1. Phiên khoáng đại trực tuyến của Hội Ðồng Giám Mục Hoa Kỳ

Từ ngày 15 đến 19 tháng 11 năm 2020, các Giám mục Hoa Kỳ sẽ nhóm họp Hội nghị thường niên. Nội dung của các buổi thảo luận sẽ tập trung vào các vấn đề di cư và tị nạn.

Hàng năm, vào tháng 11, các Giám mục Hoa Kỳ có Hội nghị thường niên. Năm 2020, do đại dịch, khóa họp sẽ được tiến hành dưới dạng trực tuyến, thay vì nhóm họp tại chỗ ở thành phố Baltimore như mọi năm.

Trước đó, khóa họp mùa xuân đã bị hủy bỏ để bảo vệ sức khỏe và sự an toàn của các Giám mục và của tất cả những người tham gia khóa họp. Ðó là lần đầu tiên trong lịch sử của Hội nghị thường niên, một khóa họp phải bị hủy bỏ. Quy chế của Hội đồng Giám mục quy định rằng Hội nghị thường niên phải được triệu tập ít nhất một lần trong năm, vì thế, dù khóa họp này này diễn ra dưới dạng trực tuyến nhưng cũng đáp ứng yêu cầu này.

Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ sẽ bỏ phiếu để bầu các Chủ tịch của tám Ủy ban thường trực. Các Ủy ban này giải quyết các lĩnh vực: tự do tôn giáo, các ưu tiên và kế hoạch, giáo dục Công Giáo, truyền thông, sự đa dạng về văn hóa trong Giáo hội, giáo lý, quyên góp quốc gia và các hoạt động cho sự sống.

2. Các giám mục phải có phép của Tòa Thánh mới được lập dòng tu.

Hôm 4 tháng 11 năm 2020, Ðức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông thư dưới dạng tự sắc, thay đổi khoản giáo luật số 579, đòi các giám mục phải được phép của Tòa Thánh trước đó thì mới có thể thành lập các dòng tu.

Khoản giáo luật số 579 cho đến nay khẳng định rằng: “Trong lãnh thổ của mình, các giám mục giáo phận có thể thành lập các hội dòng tận hiến bằng nghị định hợp thức, miễn là phải bàn hỏi ý kiến của Tòa Thánh”.

Theo khoản luật cũ này, các giám mục chỉ buộc phải hỏi ý kiến Tòa Thánh, vì thế sau khi hỏi ý kiến, dù Tòa Thánh có đồng ý hay không, các giám mục vẫn có thể thiết lập dòng tu thành sự, bằng nghị định hợp thức.

Nay Ðức Thánh Cha sửa đổi khoản luật đó và qui định rằng: “Trong lãnh thổ của mình, các giám mục giáo phận có thể thành lập hữu hiệu các hội dòng tận hiến bằng nghị định hợp thức, nếu trước đó có phép của Tòa Thánh bằng văn bản”.

Quyết định này của Ðức Thánh Cha dưới dạng tự sắc, được công bố trên báo Quan sát viên Roma của Tòa Thánh, và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10 tháng 11 năm 2020 và sau đó, được công bố trên Công báo của Tòa Thánh (AAS).

Tông thư của Ðức Thánh Cha mở đầu với lời khẳng định trích từ Tông huấn “Niềm vui Tin mừng” (Evangelium gaudium, 139), rằng: “Một dấu chỉ rõ ràng về tính chất chân chính của một đoàn sủng, là đặc tính Giáo hội của đoàn sủng ấy, khả năng của họ hội nhập hài hòa trong đời sống Dân Thánh của Thiên Chúa để mưu ích cho tất cả mọi người. Các tín hữu có quyền được các mục tử cảnh báo về tính chất xác thực của các đoàn sủng của những người coi mình là những vị sáng lập. Việc phân định các đoàn sủng xem có đặc tính Giáo hội và đáng tín nhiệm hay không, đó là điều thuộc về trách nhiệm của các vị chủ chăn của các Giáo hội địa phương... Tuy nhiên, Tòa Thánh có nhiệm vụ đồng hành với các vị chủ chăn trong tiến trình phân định để đưa tới sự nhìn nhận của Giáo hội đối với một dòng mới, hoặc một tu đoàn mới thuộc quyền giáo phận.”

Trong thực tế, sở dĩ Ðức Thánh Cha ban hành tự sắc trên đây vì đó đây có một số lạm dụng hoặc những quyết định không đúng, hoặc không thích hợp của một số giám mục giáo phận, khi thiết lập các dòng tu trong giáo phận thuộc quyền, như công đồng chung Vatican đã cảnh giác trong số 19 của Sắc lệnh “Ðức mến trọn lành”.

Tình trạng này đưa tới nguy cơ có quá nhiều các dòng tu tương tự nhau, với nguy cơ phân hóa có hại thành những nhóm quá nhỏ bé, như điều số 12 trong Tông huấn về “Ðời sống Thánh hiến”, đã nhận xét. Vì thế, các dòng tu mới và các tu đoàn tông đồ mới phải được Tòa Thánh chính thức nhìn nhận. Do vậy, chỉ có Tòa Thánh mới có thẩm quyền phán đoán chung kết.
 
Tin vui: Bộ Tư pháp Hoa Kỳ quyết định mở cuộc điều tra sâu rộng về các cáo buộc gian lận bầu cử
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:32 10/11/2020

1. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ quyết định mở cuộc điều tra sâu rộng về các cáo buộc gian lận bầu cử

Hôm thứ Ba 10 tháng 11, Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ Bill Barr đã công bố một chỉ thị cho các quan chức cao cấp trong chính phủ về một cuộc điều tra liên quan đến những cáo buộc về những điều “bất thường” trong cuộc bầu cử tổng thống vào tuần trước.

Ông William Pelham Barr, sinh ngày 23 tháng 5 năm 1950, là một luật sư người Mỹ, từng là Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ thứ 77 từ năm 1991 đến năm 1993 trong nhiệm kỳ tổng thống George Bush, tức là ông Bush cha.

Vào ngày 7 tháng 12 năm 2018, Tổng thống Donald Trump đã đề cử Barr một lần nữa giữ chức Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ. Ông bắt đầu giữ chức vụ này từ 14 tháng 12, 2019.

Trong chỉ thị được công bố hôm 10 tháng 11, Bộ trưởng Bill Barr cho biết:

“Tôi yêu cầu các bạn điều tra ngay các cáo buộc đáng kể về việc bỏ phiếu và kiểm phiếu bất thường trước khi chứng nhận kết quả các cuộc bầu cử trong khu vực pháp lý của các bạn trong những trường hợp nhất định, như tôi đã chỉ ra trong vài trường hợp cụ thể”.

Chỉ thị do ông Barr ký ngày hôm qua, tuyên bố rằng người Mỹ đáng được quyền tin tưởng vào kết quả của cuộc bầu cử.

“Giờ đây, cuộc bỏ phiếu đã kết thúc, người dân Mỹ đáng được quyền tin tưởng một cách khách quan rằng cuộc bầu cử của chúng ta được tiến hành theo cách thức phản ánh chính xác ý chí của cử tri,” ông Barr nói.

“Bộ Tư pháp Hoa Kỳ có nghĩa vụ bảo đảm rằng các cuộc bầu cử liên bang được tiến hành theo cách mà người dân Hoa Kỳ có thể hoàn toàn tin tưởng vào tiến trình bầu cử và chính phủ của họ.”

Chỉ thị này, được gửi tới Trợ lý Bộ trưởng Tư pháp về Hình sự, Bộ phận Dân quyền và Bộ phận An ninh Quốc gia, cũng như Giám đốc FBI, chỉ ra rằng các biện pháp thông thường của Phân bộ Tội phạm Bầu cử, gọi tắt là ECB, thuộc Cơ quan Liêm chính Sự vụ sẽ không có hiệu quả trong việc đưa ra công lý trong cuộc bầu cử này.

“Trong những trường hợp họ được tham vấn, thông lệ chung của ECB là đưa ra lời khuyên rằng thông thường không nên xem xét các bước điều tra công khai cho đến khi cuộc bầu cử được đề cập đã kết thúc, kết quả của nó đã được chứng nhận và tất cả các cuộc kiểm phiếu lại và các tranh chấp liên quan đến cuộc bầu cử đã kết thúc,” ông Barr nói và nhấn mạnh rằng: “Một cách tiếp cận thụ động và chậm trễ như vậy có thể dẫn đến các tình huống mà các hành vi sai trái trong bầu cử không thể được sửa chữa trên thực tế.”

Bộ trưởng Tư pháp cũng gợi ý rằng lời khuyên của ECB chỉ thực tế khi các trường hợp gian lận bầu cử chưa đủ nhiều để có thể “tác động đến kết quả của một cuộc bầu cử”.

“Mặc dù trong quá khứ hầu hết các cáo buộc về các hành vi sai trái trong bầu cử chỉ có quy mô nhỏ đến mức chúng sẽ không ảnh hưởng đến kết quả của một cuộc bầu cử và do đó, cuộc điều tra có thể được hoãn lại một cách thích hợp, nhưng điều đó không phải lúc nào cũng xảy ra,” ông nói và nhận xét rằng do tình hình đại dịch coronavirus, một số lớn các lá phiếu đã được gởi qua đường bưu điện tạo điều kiện cho những trò gian lận có tác động rất lớn.

Ông Barr cũng chỉ ra rằng việc Bộ Tư pháp mở cuộc điều tra “công khai” không thể bị xem là tác động vào cuộc bầu cử vì cuộc bỏ phiếu đã kết thúc. Điều này có nghĩa là vào thời điểm này Bộ Tư Pháp có toàn quyền điều tra các cáo buộc về gian lận bầu cử tri lớn đến mức chúng có thể đã tác động đến kết quả của cuộc bầu cử ở một số tiểu bang.

“Các cuộc điều tra và xem xét như vậy có thể được tiến hành nếu có những cáo buộc rõ ràng và đáng tin cậy về những bất quy tắc, mà nếu đúng, có thể ảnh hưởng đến kết quả của một cuộc bầu cử liên bang ở các tiểu bang riêng lẻ”.

Ông Barr cho biết thêm, bất kỳ cuộc điều tra nào về những bất thường được coi là không ảnh hưởng đến kết quả của các cuộc bầu cử gần đây đều có thể được hoãn lại cho đến khi có giấy chứng nhận kết quả bầu cử. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng các nhân viên của Bộ Tư Pháp phải thận trọng và “duy trì cam kết tuyệt đối của Bộ đối với sự công bằng, trung lập và không đảng phái”. Barr cũng nói rằng chỉ thị này chưa có nghĩa là Bộ Tư Pháp đã tin rằng có các hành vi gian lận đã ảnh hưởng đến kết quả của cuộc bầu cử ở bất kỳ tiểu bang nào.

“Thay vào đó, tôi trao thẩm quyền và hướng dẫn này để nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết kịp thời và thích hợp các cáo buộc về việc bỏ phiếu và kiểm phiếu bất thường để tất cả người dân Hoa Kỳ, bất kể ứng cử viên hay đảng phái ưa thích của họ, có thể hoàn toàn tin tưởng vào kết quả cuộc bầu cử của chúng ta”.

Bộ trưởng Barr kết luận rằng:

“Người dân Mỹ và các nhà lãnh đạo mà họ tự do bầu chọn xứng đáng được hưởng quyền được có một cuộc bầu cử trung thực”.


Source:Life Site News

2. Cuộc viếng thăm của Ðức Hồng Y Parolin tại Thụy Sĩ bị hủy vì dịch.

Bộ ngoại giao Thụy Sĩ cho biết cuộc viếng thăm của Ðức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, dự kiến từ ngày 7 đến 9 tháng 11 năm 2020 bị hủy bỏ vì đại dịch Covid-19.

Chính phủ Liên bang Thụy Sĩ đã mời Ðức Hồng Y Parolin viếng thăm, nhân dịp kỷ niệm 100 năm tái lập quan hệ ngoại giao giữa Thụy Sĩ và Tòa Thánh. Theo chương trình dự kiến sẽ có buổi lễ kỷ niệm tại Ðại học Fribourg, cuộc gặp gỡ với ngoại trưởng Thụy Sĩ, cuộc viếng thăm Ðền thánh Nicola de Flue, bổn mạng Thụy Sĩ và gặp gỡ Hội đồng Giám mục Thụy Sĩ, sau đó là thánh lễ tại Ðền thánh Ðan viện Biển Ðức Einsiedeln.

Hội đồng Giám mục Thụy Sĩ lấy làm tiếc vì cuộc viếng thăm của Ðức Hồng Y Quốc vụ khanh không tiến hành được vì Coronavirus lan lây mạnh tại nước này.

Chính phủ Liên bang đã ban hành qui luật, theo đó các buổi lễ tôn giáo chỉ được phép tối đa 50 người tham dự, tuy nhiên 23 bang tại nước này có thể ấn định những hạn chế nghiêm ngặt hơn.

Ví dụ, chính quyền bang Neuchatel ban đầu hoàn toàn bãi bỏ các lễ nghi tôn giáo, nhưng sau đó đã thay đổi và cho phép tối đa năm người tham dự. Tại bang Genève, các buổi lễ tôn giáo có tín hữu tham dự bị cấm cho đến ngày 29 tháng 11 năm 2020. Bang Jura và một số bang khác cũng ban hành lệnh giới nghiêm nhưng vẫn cho phép cử hành các buổi lễ có tín hữu tham dự, tối đa 50 người. Tại bang thủ đô Berne, tối đa 15 người, và tại bang Valais, tối đa 10 người được dự lễ.

Parolin swiss

3. Tổng thống Belarus tiếp tục cáo buộc Ðức Tổng giám mục Kondrusiewicz.

Trong buổi tiếp kiến Ðức Tổng giám mục Venjamin, tân thủ lãnh Giáo hội Chính thống Nga, tại Belarus hôm 2 tháng 11 năm 2020, tổng thống Lukashenko ca ngợi Chính thống giáo và tiếp tục vu khống Ðức Tổng giám mục Kondrusiewicz về điều mà ông gọi là “đã sang Ba Lan để tham khảo về cách thức phá hoại đất nước Belarus”.

Với lời cáo buộc này, tổng thống Lukashenko đã cấm không cho Ðức Tổng giám mục Kondrusiewicz trở về Belarus ngày 31 tháng 8 năm 2020, sau khi ngài đi hành hương tại Ðền thánh Ðức Mẹ Jasna Gora, nhân lễ kính Ðức Mẹ Nữ Vương Ba Lan, ngày 26 tháng 8 năm 2020.

Việc cấm về nước này là một hành động trả thù Ðức Tổng giám mục vì ngài đã kêu gọi chính quyền Belarus trả tự do cho những người biểu tình ôn hòa chống kết quả cuộc bầu cử tổng thống ngày 9 tháng 8 năm 2020, với kết quả là tổng thống Lukashenko được tái cử lần thứ sáu, với hơn 80% số phiếu. Dân chúng tố giác sự gian lận bầu cử nên tiếp tục biểu tình phản đối cho đến nay.

Hãng tin Asia News, truyền đi ngày 3 tháng 11 năm 2020 cho biết mặc dù các cuộc đàn áp của nhà nước Belarus, các cuộc biểu tình và đình công phản đối vẫn tiếp tục, tổng thống Lukashenko ngày càng gặp khó khăn nên đã tìm kiếm sự ủng hộ của Giáo hội Chính thống Nga ở Belarus, như chiếc neo cuối cùng.

Thông cáo của Phủ tổng thống công bố ngày 2 tháng 11 năm 2020, sau buổi tiếp kiến Ðức Tổng giám mục Venjamin, cho biết tổng thống Lukashenko đã tuyên bố rằng: “Nếu có tổ chức nào, dù là xã hội hay tôn giáo tìm cách 'phá hoại quốc gia' thì dĩ nhiên tôi bó buộc phải phản ứng.”

Tòa Thánh đã can thiệp với chính quyền Belarus để Ðức Tổng giám mục Kondrusiewicz cũng là Chủ tịch Hội đồng Giám mục được trở về nước, nhưng cho đến nay không thành công.


Source:Asia News