Ngày 04-11-2017
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh lễ Chúa Nhật Thứ 31 Mùa Quanh Năm 05/11/2017 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
03:49 04/11/2017
Bài Ðọc I: Ml 1, 14b - 2, 2b. 8-10

"Các ngươi đã đi sai đường lối, và làm cho nhiều người vấp phạm lề luật".

Trích sách Tiên tri Malakhi.

Chúa các đạo binh phán rằng: Ta là Vua cao cả, và danh Ta đáng kính sợ trong các dân tộc. [Ta sẽ làm cho các ngươi phải túng thiếu.]

{Và bây giờ, trên các ngươi có án lệnh này, hỡi các tư tế: Nếu các ngươi không nghe, và nếu các ngươi không lưu tâm mà tôn vinh danh Ta, Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ phóng (sự) chúc dữ xuống trên các ngươi; và Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi.}

Các ngươi đã đi sai đường lối, làm cho nhiều người vấp phạm lề luật và huỷ bỏ giao ước Lêvi, Chúa các đạo binh phán như vậy. Bởi thế, Ta để cho các ngươi bị khinh rẻ và đốn mạt trước mọi dân tộc, vì các ngươi đã không tuân giữ đường lối của Ta, và vị nể trong khi thi hành lề luật. Chớ thì mỗi người chúng ta không có một người cha sao? Chớ thì không phải có một Thiên Chúa tạo thành chúng ta sao? Vậy tại sao mỗi người chúng ta lại khinh rẻ anh em mình mà phản bội giao ước của tổ phụ chúng ta?

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 130, 1. 2. 3

Ðáp: Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của Chúa.

Xướng: Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn.

Xướng: Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con. -

Xướng: Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời.

Bài đọc II: 1 Tx 2, 7b-9, 13

"Chúng tôi muốn trao phó cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn mạng sống chúng tôi nữa".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, chúng tôi đã trở thành như những kẻ bé mọn giữa anh em. Như người vú nuôi nâng niu con cái mình thế nào, thì chúng tôi yêu thương anh em đến nỗi chúng tôi rất vui lòng trao phó cho anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống chúng tôi nữa: vì anh em đã nên thiết nghĩa với chúng tôi. Anh em vẫn còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em. Bởi thế chúng tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, vì anh em nhận lãnh lời Thiên Chúa do chúng tôi rao giảng, anh em đã nhận lãnh lời ấy không phải như lời của người phàm, mà như lời Thiên Chúa, và thực sự là thế, lời đó hoạt động trong anh em là những kẻ đã tin.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ep 1, 17-18

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.

Hoặc đọc: Alleluia, alleluia! Anh em chỉ có một cha là Cha trên trời, anh em chỉ có một lãnh đạo là Đức Ki-tô - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 23, 1-12

"Họ nói mà không làm".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là Thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha: vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo: vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi.

"Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".

Ðó là lời Chúa.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Trước thềm chuyến tông du Miến Điện của Đức Thánh Cha, bà Aung San Suu Kyi thăm Rakhine
Đặng Tự Do
02:18 04/11/2017
Lãnh đạo Miến Điện Aung San Suu Kyi đã đi thăm khu vực xung đột ở miền bắc bang Rakhine lần đầu tiên vào hôm thứ Năm 2 tháng 11, trong khi chính phủ của bà cho biết họ có kế hoạch hồi hương cho hàng trăm ngàn người Hồi giáo Rohingya đã chạy trốn bạo lực trong những tháng vừa qua.

Những động thái này cho thấy nhà cầm quyền Miến Điện đặc biệt quan tâm tới chuyến tông du của Đức Thánh Cha và muốn nhân cơ hội này thanh minh cùng cộng đồng quốc tế.

Bà Suu Kyi đã đến thành phố Sittwe là thủ phủ của bang Rakhine và sau đó đi đến phía bắc Rakhine, nơi có nhiều ngôi làng của người Hồi Giáo Rohingya. Trong chiến dịch tranh cử vào năm 2015, bà đã viếng thăm miền Nam Rakhine, nơi không có nhiều xung đột.

Chuyến đi của bà Suu Kyi gây bất ngờ cho các phương tiện truyền thông. Tuy nhiên, phát ngôn nhân của bà Suu Kyi là Zaw Htay giải thích rằng chính phủ không công bố trước kế hoạch của chuyến đi này với các phương tiện truyền thông vì những quan ngại về an ninh.

Hơn 600,000 người Rohingya từ miền bắc Rakhine đã trốn sang Bangladesh kể từ hôm 25 tháng 8, khi lực lượng an ninh Miến Điện bắt đầu những điều họ gọi là một chiến dịch “ra tay trước” nhằm đối phó với những cuộc tấn công của quân nổi dậy vào các đồn cảnh sát. Liên Hiệp Quốc cáo buộc chiến dịch này là một phản ứng không tương xứng và chỉ là cái cớ để che đậy một chính sách thanh lọc sắc tộc.

Chiến dịch của quân đội Miến Điện bao gồm việc đốt phá các ngôi làng Rohingya và những vi phạm nhân quyền tràn lan. Những người chạy trốn khỏi Rohingya đã mô tả những hành động tàn bạo của quân Miến Điện như hãm hiếp phụ nữ, đốt nhà và bắn chết những người đàn ông Hồi Giáo.

Bà Suu Kyi trong thời gian qua đã bị chỉ trích mạnh mẽ từ cộng đồng quốc tế. Họ yêu cầu bà phải làm nhiều hơn để chấm dứt bạo lực và lên án những người có trách nhiệm trong các vụ vi phạm nhân quyền.
 
Chương trình chi tiết chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Miến Điện và Bangladesh
Đặng Tự Do
11:01 04/11/2017
Chúa Nhật 26 tháng 11

Lúc 21:40 Chúa Nhật 26 tháng 11, theo giờ Rôma, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành từ phi trường Fiumicino của Rôma để bay sang Yangon, bắt đầu chuyến tông du thứ 21 của ngài bên ngoài Italia.

Yangon trước đây là thủ đô của Miến Điện với đầy đủ các cơ sở hạ tầng như sân bay, các cơ sở hành chánh và kinh tế. Tuy nhiên, từ ngày 6 tháng 11 năm 2005, thủ đô của Miến Điện đã được chính thức dời về Nay Piy Taw cách thủ đô cũ Yangon 320 km về phía Bắc.

Thứ Hai 27 tháng 11

13:30 chiều ngày thứ Hai 27 tháng 11, máy bay của Đức Thánh Cha sẽ đáp xuống phi trường quốc tế Yangon. Tại đây sẽ có các nghi lễ chào đón Đức Thánh Cha Phanxicô.

Thứ Ba 28 tháng 11

Sau một ngày nghỉ ngơi, trưa thứ Ba 28 tháng 11 vào lúc 14:00 giờ địa phương, Đức Thánh Cha sẽ đáp máy bay đi Nay Piy Taw là thủ đô mới của Miến Điện.

Sau hơn một giờ bay, Đức Thánh Cha sẽ đáp xuống sân bay Nay Piy Taw vào lúc 15:10.

Sau lễ nghi đón tiếp chính thức tại phi trường Nay Piy Taw, Đức Thánh Cha sẽ đi xe về dinh tổng thống nơi sẽ diễn ra cuộc gặp gỡ chính thức với các nhà lãnh đạo dân sự Miến Điện.

Tại dinh tổng thống, lúc 16:00, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc hội đàm với tổng thống Htin Kyaw trong nửa giờ, trước khi có cuộc gặp gỡ với bà Aung San Suu Kyi vào lúc 16:30. Bà Suu Kyi vừa là bộ trưởng ngoại giao, vừa là cố vấn tối cao của chính phủ dân sự Miến Điện.

Lúc 17:15, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo dân sự Miến Điện và ngoại giao đoàn tại Trung tâm Hội Nghị quốc tế của thủ đô Nay Piy Taw.

Lúc 18:20, Đức Thánh Cha sẽ từ giã thủ đô Nay Piy Taw để đáp máy bay trở về phi trường quốc tế Yangon và lên xe về Tòa Tổng Giám Mục, kết thúc ngày thứ hai trong chuyến tông du Miến Điện.

Thứ Tư 29 tháng 11

Tất cả các sinh hoạt của Đức Thánh Cha trong ngày thứ Tư 29 tháng 11, sẽ diễn ra tại thủ đô cũ Yangon.

Lúc 9:30 sáng, Đức Thánh Cha sẽ cử hành thánh lễ tại sân thể thao Kyaikkasan.

Sau thánh lễ tại đây, Đức Thánh Cha sẽ trở về tòa Tổng Giám Mục để nghỉ ngơi.

Ban chiều, lúc 16:15, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với Hội Đồng Tối Cao Phật Giáo Miến Điện, thường được gọi tắt là Sangha, tại chùa Kaba Aye.

Kết thúc cuộc gặp gỡ với Hội Đồng Tối Cao Phật Giáo Miến Điện, vào lúc 17:15, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với các Giám Mục Miến Điện tại nhà thờ chính tòa của Yangon.

Thứ Năm 30 tháng 11

Tại nhà thờ chính tòa Đức Bà của Yangon, sáng thứ Năm 30 tháng 11, vào lúc 10h15 sáng, Đức Thánh Cha sẽ cử hành thánh lễ dành cho giới trẻ Miến Điện.

Sau đó, lúc 12:15, Đức Thánh Cha sẽ ra phi trường quốc tế Yangon để đáp máy bay sang thăm Bangladesh là quốc gia thứ hai trong chuyến tông du thứ 21 của ngài bên ngoài Italia.

Lúc 15:00 theo giờ địa phương, Đức Thánh Cha sẽ đáp xuống phi trường quốc tế Dhaka, thủ đô của Bangladesh.

Sau các nghi lễ đón tiếp tại phi trường quốc tế Dhaka, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đi xe đến thăm đài tưởng niệm các vị anh hùng liệt sĩ của Bangladesh tại Savar. Đài tưởng niệm này được xây dựng vào năm 1978 và hoàn thành vào năm 1982 để tưởng nhớ đến những người bỏ mình trong cuộc chiến tranh giành độc lập khỏi tay người Pakistan. Địa điểm này nằm cách thủ đô Dhaka 35km về hướng Tây Bắc.

Liền đó, Đức Thánh Cha sẽ thăm bảo tàng viện Bangabandhu, nơi ngài dự kiến sẽ đặt vòng hoa và viết vào sổ lưu niệm. Bảo tàng viện này được thành lập để vinh danh ông Mujibur Rahman, người được coi là “cha già dân tộc” của Bangladesh. Ông Mujibur Rahman là người khởi xướng phong trào giành độc lập khỏi tay người Pakistan và là vị tổng thống đầu tiên của Bangladesh. Sau khi quốc gia này quyết định theo quốc hội chế, ông được bầu làm thủ tướng đầu tiên của Bangladesh vào tháng Ba, 1971. Ông bị ám sát vào ngày 15 tháng 8 năm 1975. Con gái ông là bà Hasina hiện là thủ tướng của Bangladesh.

Lúc 5:30, Đức Thánh Cha viếng thăm xã giao tổng thống Abdul Hamid tại dinh tổng thống. Cũng tại dinh này, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo dân sự và ngoại giao đoàn.

Thứ Sáu 1 tháng 12

Lúc 10 giờ sáng Đức Thánh Cha sẽ chủ sự lễ phong chức cho các tân linh mục tại công viên Suhrawardy Udyan.

Lúc 15:20, ngài sẽ có cuộc gặp gỡ với Thủ tướng Hasina tại Tòa sứ thần Tòa Thánh.

Lúc 16 giờ, Đức Thánh Cha sẽ đến thăm nhà thờ chính tòa của thủ đô Dhaka.

Sau đó, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với các giám mục Bangladesh tại nhà hưu dưỡng các linh mục.

Vào lúc 5 giờ chiều, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với đại diện các tôn giáo trong khu vườn của tòa tổng giám mục.

Thứ Bảy 2 tháng 12

Lúc 10 giờ sáng Đức Thánh Cha sẽ thăm Nhà Mẹ Teresa ở khu vực Tejgaon của thủ đô Dhaka.

10:45 sáng, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với các linh mục, nam nữ tu sĩ, chủng sinh và dự tu tại Nhà thờ Mân Côi.

Lúc 15:20, Đức Thánh Cha có cuộc gặp gỡ với những người trẻ tuổi tại trường Đại học Notre Dame.

Lúc 16:45, lễ chia tay sẽ diễn ra tại sân bay quốc tế Dhaka.

17:05 chiều, máy bay cất cánh hướng về Rôma.

Dự kiến, Đức Thánh Cha sẽ về đến phi trường Ciampino ở Rôma vào lúc 22 giờ cùng ngày.
 
Một số quá khích cố tình gây rối cuộc tông du cuả ĐGH tại Miến Điện
Xavier Nguyễn Đông
17:23 04/11/2017
Cộng đồng Công Giáo nhỏ của Myanmar đang củng cố sự đoàn kết và cố gắng tạo sự hoà giải với các tôn giáo bạn trước những sự việc gây hấn và nhạo báng xẩy ra trước ngày ĐGH Phanxicô tới thăm Quốc gia Phật Giáo này (ngày 27-30 tháng 11).

Gần đây trên mạng truyển thông xã hội, nhiều nhóm cực đoan đã luân lưu hình ảnh cuả tên Aye Ne Win, cháu nội của tướng Ne Win, cựu độc tài Myanmar, mặc trang phục giống như một giáo hoàng và giơ tay ban phép lành tại một bữa tiệc Halloween.

Hình ảnh đó lập tức gây ra một cuộc tranh cãi lớn, người Công Giáo đã bày tỏ sự phẫn nộ của họ trên phương tiện truyền thông xã hội và nhận được sự bênh vực từ nhiều đoàn thể phật tử ôn hoà.

Những người cực đoan và quân phiệt cuả Myanmar đã cố tình sử dụng những việc nhạo báng như vậy để gây hấn với thiểu số Thiên Chúa giáo.

Một số nhóm trong quân đội và những nhóm Phật Tử quốc gia, như phong trào Ma Ba Tha, đã dùng phương tiện Internet để tuyên truyền chống lại chuyến viếng thăm cuả Đức Giáo Hoàng. Họ cáo buộc Đức Thánh Cha cấu kết với thiểu số người Hồi giáo.

Để chứng minh cho quan điểm của họ, họ lưu hành hình ảnh của Đức Giáo Hoàng Phanxicô rửa chân cho các tù nhân ở nhà tù Paliano hồi cuối tháng tư, một người trong số đó là một người Hồi giáo.

Họ cũng nhắc nhở đến những lời tuyên bố cuả Đức Giáo Hoàng, như những thông điệp trong các buổi kinh Truyền Tin, than phiền về sự đàn áp dân thiểu số ở Myanmar.

Quan trọng hơn cả là lời Đức Giáo Hoàng kêu gọi cầu nguyện cho sự công nhận quyền của thiểu số Hồi giáo, bị nghi kỵ bởi những dân tộc sống chung quanh họ. Trong lời kêu gọi này, Đức Giáo Hoàng đã sử dụng từ "dân tộc Rohingya" là một từ gây ‘dị ứng’ lớn trong dư luận ở Miến Điện.

‘Dân Rohingya’ không được công nhận là một trong 135 dân tộc chính thức của Myanmar, họ thường được gọi là ‘người Hồi giáo Rakhine’, Rakhine là bang cư trú cuả họ.

Giáo Hội Công Giáo ở Myanmar đang ủng hộ và đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hòa giải quốc gia, thực hiện bởi nhà lãnh đạo dân chủ Aung San Suu Kyi. Giáo hội đã không trả lời các gây hấn cuả những kẻ cực đoan và đã cố gắng để ‘hạ nhiệt’ tình thế.

"Vụ việc liên quan đến người cháu cuả tướng Ne Win là một vụ việc đáng tiếc," theo lời Linh Mục Soe Naing, phát ngôn viên của hội đồng giám mục Công Giáo Myanmar (CBCM) và là giám đốc văn phòng xã hội truyền thông (CBCM-OSC. "Dù cho vụ việc có xấu đến thế nào chăng nữa, thì đây chỉ là chuyện cuả cái mặt nạ, và hãy coi đó là thế đó."

Ngược lại, "quan hệ với các đồng bào Phật tử cuả chúng tôi là rất tốt; không có thái độ thù địch gì cả. Không có gì để phải lo sợ về chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng. Vấn đề có thể phát sinh nếu Đức Thánh Cha lại đề cập đến chữ ‘Rohingya.’ Điều này sẽ cung cấp cho những kẻ cực đoan một lý do để gây ra căng thẳng. "

Trong khi đó, cộng đồng Công Giáo đang sẵn sàng chào đón Đức Giáo Hoàng Phanxicô với "sự mộ đạo và lời cầu nguyện", những công việc chuẩn bị cho chuyến viếng thăm đang tiến tới bình thường.

"Ngay bây giờ, chúng tôi tập trung vào việc lập danh sách những người sẽ tham gia Thánh Lễ đại trào, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự thánh lễ tại vận động trường Kyaikkasan Yangya ở Yangon ngày 29 tháng 11," Cha Soe Naing nói.

"Tất cả các giáo xứ sẽ được vận dụng. Từ đêm hôm trước, hầu hết các tu viện và đền chuà Phật giáo sẽ mở cửa để đón tiếp người Công Giáo hành hương. Chúng tôi dự trù có hơn 100.000 người Công Giáo tới nghênh đón Đức Thánh Cha."

Tiếp tục cam kết cuộc đối thoại và hòa giải cuả quốc gia, một vài giờ sau Thánh Lễ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ có một cuộc họp với hội đồng tối cao Sangha, là hội đồng Phật giáo cao nhất nước, tại Trung tâm Kaba Aye.

"Chúng tôi cũng đã sắp xếp nơi chốn cho một cuộc đại hội liên tôn và thành phần đại biểu với các nhà lãnh đạo Phật giáo. Thật không may, vì có cuộc họp với chính quyền Myanmar tại Nay Pyi Taw, cuộc họp liên tôn ngày 30 tháng 11 đã bị hủy bỏ," Cha Soe Naing, phát ngôn viên CBCM, nói.

"Chính quyền dân sự gần đây đã có những cuộc họp quan trọng với tòa thánh, sẽ là người bảo lãnh của cuộc tông du. Quân đội phụ trách tất cả các vấn đề an ninh và tôi không nghĩ rằng họ sẽ cho phép một cái gì đó xảy ra, nhất là sau khi quốc gia đang bị áp lực quốc tế mạnh mẽ vì cuộc khủng hoảng ở Rakhine."

"Có lẽ một vài nhóm sẽ tổ chức các cuộc biểu tình chống giáo hoàng, nhưng những người bình thường thì không chống lại cuộc tông du,” Cha Soe Naing nói.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gx Vĩnh Hòa: Hội Bác Ái mừng bổn mạng
Văn Minh
08:52 04/11/2017

“Là hội viên trong Hội Bác Ái hãy nêu gương nơi thánh Martinô, sẵn sàng hy sinh và lòng hăng say giúp đỡ cho những người kém may mắn trong cuộc sống”.

Trên đây là lời nhắn nhủ của cha Gioakim Lê Hậu Hán, chánh xứ giáo xứ Vĩnh Hòa, giáo hạt Phú Thọ, trong Thánh lễ mừng kính Thánh Martinô Porrs – bổn mạng của Hội Bác Ái giáo xứ Vĩnh Hòa, được diễn ra lúc 17g30 thứ Sáu ngày 03.11.2017, do ngài chủ sự.

Xem Hình

Hiện diện trong Thánh lễ, ngoài quý hội viên trong Hội Bác Ái, còn có quý vị ân nhân và đông đảo cộng đoàn trong giáo xứ cùng đến hiệp dâng.

Trước Thánh lễ, đại diện quý Hội Bác Ái rước cha chủ tế từ trước sân nhà thờ vào trong ngôi thánh đường trong niềm hân hoan thể hiện trên nét mặt mỗi người.

Đầu lễ, cha Gioakim mời gọi cộng đoàn tham dự vào bữa tiệc của Thiên Chúa, và hiệp lời cầu nguyện cho Hội Bác Ái đã chọn thánh Martinô làm quan thầy được nhiều hồng ân, và noi gương thánh Martinô qua các việc làm nơi các anh chị em nghèo khổ, sẵn sàng hy sinh tất cả để giúp đỡ họ.

Trong phần giảng lễ, cha xứ đã sơ lược về cuộc đời của thánh Martinô: Thánh nhân sinh năm 1576 tại Nam Mỹ, là con lai da mầu trong một gia cảnh nghèo khổ. Khi lên 15 tuổi, Martinô xin mẹ dẫn đến tu viện Mân Côi của các cha Dòng Ðaminh để xin đi tu. Với đức tính khiêm nhường và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, tới năm 24 tuổi, Martinô được cha bề trên cho mặc áo dòng. Thầy Martinô vẫn luôn làm các công việc bình thường và luôn gần gũi mọi người, cũng chỉ vì tình yêu mến Chúa “hết lòng, hết sức, hết linh hồn mà phục vụ”. Với hơn 45 năm sống đời khiêm hạ và bác ái trong Dòng Thánh Ðaminh, Martinô tận tâm phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân, những người nghèo khó và các trẻ em mồ côi.

Cha Gioakim diễn giảng, nhìn lại Hội Bác Ái của giáo xứ Vĩnh Hòa qua dòng thời gian: Khởi đầu vào năm 1991, từ một số người có lòng bác ái cùng nhau vận động gom góp tiền của và những vật dụng cần thiết rồi đi giúp cho những người có hoàn cảnh khó khăn trong và ngoài giáo xứ vào những dịp cuối năm cùng vui đón (Tết). Đến Năm 1994, Hội chính thức thành lập và nhận thánh Martinô làm bổn mạng, với tôn chỉ sống theo tinh thần của thánh quan thầy, chia sẻ những khó khăn cho những người nghèo khổ không phân biệt tôn giáo vào dịp cuối năm. Ngoài ra, khi cha xứ có yêu cầu thì quý Hội luôn luôn sẵn sàng.

Sau lời nguyện hiệp lễ, vị đại diện thay mặt lên ngỏ lời cảm ơn cha xứ, quý vị trong HĐMVGX, đại diện các đoàn thể cùng mọi thành phần dân Chúa đã hiệp dâng thánh lễ được sốt sắng, và bó hoa tươi được vị đại diện dâng lên cha xứ Gioakim với tâm tình cảm mến và lòng biết ơn. Đáp từ, cha xứ thay mặt cộng đoàn cảm ơn và chúc mừng quý Hội Bác Ái được tràn đầy hồng ân trong tiếng pháo tay giòn giã của cộng đoàn. Nhân dịp này, ngài cũng mời gọi có thêm nhiều người hơn nữa tham gia vào Hội Bác Ái, sẵn sàng hy sinh và lòng hăng say giúp đỡ cho những người kém may mắn trong cuộc sống.

Thánh lễ khép lại lúc 18g30. Trước khi ra về, cha xứ cùng cộng đoàn ra trước tiền sảnh cùng nhau đọc kinh cầu nguyện trước tượng thánh Martinô.

Được biết hiện nay, Hội Bác Ái trong giáo xứ có 21 hội viên, đa số là các bà đã lớn tuổi. Hội thường quyên góp, giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh khó khăn trong giáo xứ vào những dịp cuối năm.

 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Những quan niệm khác nhau trong Kitô Giáo hiện nay về hôn nhân và lòng chung thủy, tiếp theo
Vũ Văn An
22:44 04/11/2017
Những giọng nói lạ

Trong các năm gần đây, các Kitô hữu và các nhà nhân bản học đã bắt đầu lên án hình thức “đơn hôn cổ truyền” vì nhiều lý do: sự nối kết nó vào hình thức gia đình hạch nhân; sự thất bại của nó trong việc không thỏa mãn được nhu cầu tăng trưởng của cả hai vợ chồng vì tính cách độc chiếm (possessiveness) cố hữu của nó; xu hướng của nó trong việc duy trì sự bất bình đẳng về tính dục; việc nó vun đắp cảm thức thất bại ray rứt khi một người phối ngẫu không thể thỏa mãn mọi đòi hỏi của người kia hoặc khi chính mối liên hệ bị bắt buộc phải kết thúc.

Nhìn thoáng vào bốn “tiếng nói” tiêu biểu (trong hai trường hợp, các tác phẩm do chính các cặp vợ chồng viết ra) sẽ cho ta một bức tranh đầy đủ hơn về những lối biện giải này. Trong mọi trường hợp, các tác giả đều tự nhận mình là Kitô hữu.

Ronald Mazur (mục sư) cáo buộc rằng nhiều giả thiết nằm dưới hình thức đơn hôn cổ truyền đã không được chứng minh chi hết:

"Trong quá nhiều năm, những nhà luân lý học cổ truyền đã thụ động tự cho phép mình được quyền đánh phủ đầu các lối sống có ý thức khác bằng cách truyền bá những giả thiết thiếu chứng minh rằng ta không thể cùng một lúc yêu hơn một người (khác phái); rằng việc giao hợp giữa những người chỉ sống chung với nhau mà không cưới xin (co-marital) hoặc ngoại hôn sẽ phá hoại hôn nhân; rằng các hôn nhân 'tốt' phải hoàn toàn tự kiềm chế, tự giới hạn mình và tự thấy mình đầy đủ”.

Mazur khẳng nhận giá trị của việc cam kết suốt đời với nhau trong mối liên hệ hôn nhân đệ nhất đẳng (primary relationship) nhưng đồng thời cũng khẳng nhận rằng ta có thể và nên phong phú hóa mối liên hệ hôn nhân đệ nhị đẳng (secondary relationship). Mối liên hệ sau được phép có những mức độ khác nhau về thân mật xúc cảm lẫn thân mật tính dục và được diễn tiến công khai và thành thực miễn là phải quan tâm để mối liên hệ đệ nhất đẳng không bị đe dọa. Đây là lối kết hôn một đầu để mở (open-ended).

Anna K. và Robert T. Francoeur (có cao học thần học Công Giáo) cũng chủ yếu có cùng một chủ trương nhưng họ phân tích các hình thức hôn nhân cổ truyền và mới mẻ trong bối cảnh văn hóa – chuyển từ “tính dục nóng” qua “tính dục mát”. Lối đặt tên của họ (khá sinh động nhưng đôi khi làm người ta hiểu lầm) song hành với một số những phân biệt từng được đề cập giữa tính dục tha hóa và tính dục đã giao hòa. Các thái độ tính dục nóng có tính tổ phụ, chú mục đến sinh dục (genitally), chiếm hữu, và bị ám ảnh về cách thủ diễn. Xu hướng tính dục mát khẳng nhận sự bình đẳng giữa hai phái tính, sự hội nhập hơn là cạnh tranh và chiếm giữ, giới tính được cảm nghiệm như là khoái cảm man mác, nhấn mạnh đến các nhân cách và các nhu cầu độc đáo, và dễ dãi trong việc chấp nhận đa nguyên tính trong các hình thức hôn nhân. Họ viết như sau: “Chúng tôi xác tín rằng hình thức hôn nhân một đối một và giữa nam nữ phải tiếp tục tồn tại. Chúng tôi cũng xác tín về giá trị rõ rệt của những cam kết và các mối liên hệ lâu dài...”. Hôn nhân theo kiểu thức mới sẽ tạo ra những “gia đình” tự định hướng, sẽ mở rộng để nâng đỡ nhiều mối liên hệ thân mật, xây dựng trên cam kết sẽ thông đạt cách cởi mở, sẽ đồng hành cách cởi mở và tin tưởng lẫn nhau.

Rustum và Della Roy (Vật lý học) cũng biện giải tương tự như thế: “Lý thuyết của chúng tôi đòi hỏi rằng ta phải tìm cách tối đa hóa con số những mối liên hệ sâu sắc và phát triển những cuộc hôn nhân có thể thích hợp với bối cảnh cộng đồng”. Giống như các người khác, họ tìm cách mở rộng cộng đồng thân mật và tính dục của hôn nhân. Tuy nhiên họ đi xa hơn các người khác bằng cách bênh vực một số những thay đổi có tính cách định chế. Việc giao hợp tiền hôn nhân và việc sống với nhau mà không cheo cưới nên được xã hội và Giáo Hội chấp nhận đối với những người đã đính ước với nhau, miễn là đừng thụ thai. Các cố gắng năng nổ hội nhập những người độc thân vào toàn bộ cuộc sống của một gia đình phải được khuyến khích. Hệ thống ly dị phải được tái duyệt toàn bộ giúp cho việc chấm dứt hôn nhân không còn tàn hại như hiện nay đối với cả hai bên. Vì sự chênh lệch giữa tỷ lệ nam nữ, nên hợp pháp hóa việc đa thê và đa phu. Và các nghi lễ hôn phối cần phải thay đổi để không còn làm loãng mà là nới rộng các cam kết của đôi vợ chồng.

John Snow (không rõ lai lịch) đưa ra sự phân biệt hữu ích giữa các kiểu thức “thụ động thích ứng” và “phản văn hóa” trong việc thay đổi khung cảnh hôn nhân. Kiểu thức thụ động thích ứng (passive-adaptive) hướng vào sự thỏa mãn cá nhân và có thể cả chủ nghĩa khóai lạc nữa. Những hôn nhân như vậy thường không thực sự trở thành thành phần của chính bản sắc con người. Chúng rất hoạt động nếu nói về mối quan tâm tự thăng tiến chính bản thân mình nhưng lại thụ động trong tương quan với văn hóa vốn bị coi là băng hoại và chủ yếu không thay đổi. Những cuộc hôn nhân phản văn hóa, trong nhiều hình thức khác nhau, có chung một nổi loạn về ý thức hệ chống lại hệ thống kinh tế xã hội của xã hội hiện nay. Nếu trong kiểu hôn nhân thụ động thích ứng, định hướng tính hay cam kết là để phát triển bản thân, thì trong hôn nhân phản văn hóa, nó càng đặc trưng hơn nữa về phương diện ý thức hệ.

Snow biện luận cho giải pháp thứ ba có tính Kitô giáo hơn: đó là hình thức hôn nhân “cởi mở theo nghĩa hiếu khách, đại lượng, và quan tâm đến xã hội. Họ không coi mình như những hòn đảo nhỏ của thân mật, luôn phải tranh chấp với người đời để sống còn, nhưng như thành phần của cộng đoàn xã hội luôn quan tâm đến sự cứu rỗi và sự canh tân cái thế gian mà vì nó Đức Kitô đã nhập thể, đã chịu nhục hình, đã chết và đã sống lại”.

Đó là một vài tiếng nói muốn có thay đổi; tùy mức độ, nhưng tất cả đều biện hộ cho việc nới rộng sợi dây liên kết về xúc cảm và tình thân mật vốn cột chặt các gia đình và các kiểu mẫu gia đình truyền thống. Trước khi đưa ra một vài suy tư có tính thần học và luân lý về các khả thể ấy, tưởng cũng hữu ích nếu ta duyệt qua những kết luận của một trong các nhà xã hội học hàng đầu về gia đình. Jessie Bernard (xã hội học, duy nữ), trong tập nghiên cứu đầy đủ và quân bình của mình về Tương Lai Của Hôn Nhân (The Future of Marriage), đã chủ trương rằng hôn nhân thực sự có tương lai trong xã hội ta, vì lẽ cả đàn ông lẫn đàn bà đều vẫn còn muốn và cần đến những sợi dây bền vững của tình thân mật và nâng đỡ lẫn nhau. Bà thêm: “Tuy vậy, chúng tôi không thấy hình thức hôn nhân cổ truyền đang khư khư giữ lại cái gọng kìm độc chiếm của nó (monopolistic sway). Đúng hơn, chúng tôi thấy một tương lai gồm nhiều hình thức hôn nhân để ta chọn lựa”.

Phải chăng các hình thức kết hôn có những giới hạn nội tại, những giới hạn do bản nhiên con người hay do bản nhiên của xã hội đặt để? Bernard cho rằng nếu có đi nữa, thì cũng khó mà nhận ra chúng. Liệu những cuộc hôn nhân trong tương lai có hạnh phúc hơn không? Bernard không tin bất cứ sự lạc quan tếu nào nhưng nghĩ rằng tác phong hôn nhân, nói chung, đang cải thiện nhiều. Ta đang chứng kiến một cuộc cách mạng của những hoài mong đang lớn mạnh. “Ngày nay người ta không còn chịu được những hình thức tác phong trong hôn nhân vốn được coi là bình thường trong quá khứ nữa.” Và bà kết luận rằng sẽ không có giải pháp nào là chung cuộc hết:

"Sẽ không bao giờ có chi là chung cục hay cuối cùng theo cái nghĩa là hình thức chấm dứt của hôn nhân cả. Nó sẽ tiếp tục đổi thay bao lâu thời gian và con người còn thay đổi. Sẽ không có cuộc Hôn Nhân Lý Tưởng, được ấn định vĩnh viễn trong bản nhiên sự vật...”

Có điều hiện nay sự vật đang thay đổi nhanh hơn ngày xưa nhiều. Những ước tính của xã hội học về những gì đang có hoặc sẽ có không nên lẫn lộn với những phán đoán luân lý liên quan đến những điều phải có. Như chúng tôi đã trình bầy mặc dù diễn trình luân lý lúc nào cũng phải cẩn trọng quan tâm đến mọi dữ kiện liên hệ, nhưng vẫn có sự khác biệt căn bản giữa sự kiện và giá trị. Chính vì vậy, không một đoán định nào của nhà xã hội học, dù dựa vào khảo cứu cẩn trọng bao nhiêu chăng nữa, cũng không thể đặt đồng cân với các kết luận của nền luân lý Kitô giáo (hoặc bất cứ hình thức luân lý nào giống như vậy). Trước mối âu lo đáng kể về đổi thay, ta phải nhắc lại ở đây rằng không một hình thức đơn độc của bất cứ đời sống định chế nào trên mặt đất này, dù là hôn nhân hay gì gì khác, cũng không được coi là chung cục. Ngày Sabát được làm nên vì con người chứ không phải ngược lại. Hình thức hay các hình thức mà hôn nhân mặc lấy phải luôn luôn đồng dạng với các nhu cầu chân chính của những con người – không phải với những thèm khát thiển cận hoặc phiến diện, nhưng chắc chắn là với những nhu cầu của họ trong tư cách là những con người đang trong diễn trình trở nên điều mà Chúa muốn đặt định cho nhân loại.

Lòng chung thủy là gì?

Đây không phải là nơi để phân tích những vấn đề man vàn và phức tạp đã nêu ở trên. Nhưng có một câu hỏi đặc biệt đòi ta phải chú ý. Câu hỏi này như sợi chỉ xuyên suốt mọi quan điểm trên đây về hôn nhân, cả những người ủng hộ hình thức cổ truyền của nó lẫn những người muốn có thay đổi. Đó là câu hỏi: lòng chung thủy nghĩa là gì? Ta đã thấy câu định nghĩa thông thường về lòng chung thủy phu phụ hiện nay đã bị thách thức ra sao. Một cách tóm tắt, người ta lý luận rằng sự độc chiếm về xúc cảm và có thể về sinh dục nữa là điều tệ hại lớn cho liên hệ vợ chồng. Do đó, cần phân biệt giữa bất trung và ngoại tình. Ngoại tình thì nghĩa đã rõ ràng: giao hợp tính dục với một người không phải là vợ hoặc chồng mình. Còn bất trung là việc gián đoạn (rupture) sợi dây chung tình, sợi dây trung thực (honesty), sợi dây tin cậy nhau (trust), và sợi dây cam kết giữa hai người phối ngẫu. Xét về mặt tích cực, lý luận kia cho hay chung thủy là cam kết bền bỉ đối với phúc lợi và sự triển nở của người phối ngẫu. Nó là cam kết coi mối liên hệ hôn nhân là trên hết, trên tất cả mọi liên hệ khác. Tuy nhiên, tương hợp với lòng chung thủy vợ chồng và hỗ trợ cho lòng chung thủy ấy vẫn có thể có những mối liên hệ đệ nhị đẳng sâu sắc cả về phương diện xúc cảm lẫn phương diện thể xác, bao gồm luôn cả việc giao hợp nữa. Có lẽ một trong những phương thế hữu ích để làm sáng tỏ ý nghĩa của chung thủy là khảo sát những luận chứng ủng hộ và chống đối tính cách độc chiếm (exclusiveness) trong hôn nhân. Ta sẽ bắt đầu với những người ủng hộ nó.

Trước nhất, thánh kinh và truyền thống vốn có những cấm cản đối với việc ngoại tình. Nó bị kết án trong Mười Giới Răn (Xh 20:14), và nơi khác nữa trong Cựu Ước (thí dụ Đệ Nhị Luật 22:22), và chính Chúa Giêsu cũng đã lặp lại sự lên án ấy (Mc 10:19). Mặc dù trong trình thuật cảm động về người đàn bà bị bắt quả tang ngoại tình, Chúa Giêsu tỏ rõ lòng sót thương và tha thứ vô vàn, nhưng Người đã dạy nàng “đừng phạm tội nữa” (Ga 8:1-11). Chắc một điều, ở nhiều đoạn, Cựu Ứơc đã gợi lên một thứ tiêu chuẩn hai mặt: người vợ bị coi là vật sở hữu của chồng, và việc nàng ngoại tình là phạm đến quyền tư hữu của ông ta. Tuy thế, điều ấy không thể nào gán cho giáo huấn của Chúa Giêsu được. Thực thế, cách Người triệt để lên án ngọai tình bằng cách gồm luôn cả lòng thèm muốn (lust) trong đó nữa đủ chứng minh rằng Người không hề có một chút gì hàm hồ tối nghĩa trong vấn đề này hết. Và “bề dầy” trong truyền thống Kitô giáo đã duy trì quan điểm ấy. Bản chất triệt để của giao hợp tính dục dường như đã biện minh cho việc giới hạn con người một cách khư khư độc chiếm bên trong hôn nhân. Lý luận này thường dựa vào cách cắt nghĩa quan niệm “một thân xác” của Thánh Phaolô, như trong cách hiểu của Bailey về dây liên kết bất khả phản hồi tự động được thiết lập giữa hai người ân ái với nhau. Nhiều người khác cũng lý luận tương tự. Dwight Hervey Small cho rằng:

"Khi trở nên một thân xác với nhau, hai vợ chồng quả đã tham dự vào một sự hiệp nhất không thể nào đảo ngược được nữa về phương diện hữu thể (ontologically)... Không thể nào đảo ngược lại cái nhận thức về sự bí mật đã cùng nhau chia sẻ kia... Hai con người cùng chia sẻ hành vi tính dục không thể nào còn cử xử với nhau như thể họ chưa làm chuyện đó với nhau. Sự hiệp nhất đã tạo được vượt quá cả lãnh vực sinh lý học”.

Vì hành vi tính dục có tính căn để như thế, nên, một cách nào đó, nó can dự vào toàn diện con người, bất kể tốt xấu. Ý kiến tâm lý học cũng hỗ trợ cho phán đoán trên như lời phát biểu của Karl Menninger (phân tâm học): “Phân tâm học có một định đề cho rằng đa dạng tính trong các phương tiện trực tiếp giải thoát tính dục cho thấy rõ điều ngược hẳn lại cái mà người ta vẫn thường giả thiết. Chia sở thích tính dục cho nhiều đối tượng khác nhau sẽ làm giảm đi toàn bộ cái khoái cảm tính dục của nó.”

Thêm vào luận chứng ủng hộ tính độc chiếm tính dục vì một cái gì đó nội tại ngay trong chính bản chất của hành vi ấy, còn có những luận chứng dựa trên những hậu quả có thể có. Ngoại tình gây đau khổ cho con người. Đối với Lewis Smedes (thần học Cải Cách), khi nó có tính lừa đảo, nó “sẽ sói mòn mọi đáp ứng chân thực và nhân bản mỏng dòn của hai vợ chồng”. Ngay cả khi xẩy ra trong các cuộc hôn nhân “mở cửa”, nơi lừa đảo không có, người phối ngẫu nào bị cho ra rìa mối liên hệ này cũng sẽ cảm thấy bị ruồng bỏ. Nhất định một trong các mối liên hệ tính dục sẽ bị bỏ rơi, và đó có thể là chính cuộc hôn nhân. Và, chính cái hiệu quả sói mòn trên liên hệ hôn nhân ấy sẽ đưa lại nhiều hậu quả tai hại cho con cái trong gia đình và cho xã hội nói chung, vốn là thực thể luôn phải tùy thuộc vào sự vững mạnh của hôn nhân mới có được sự lành mạnh trong cuộc sống cộng đoàn.

Daniel Day Williams (thần học, United Church of Christ) đã chuyển các luận chứng của mình từ các hậu quả tiêu cực qua các hiệu quả tích cực:

"[Con người] mang hình ảnh Chúa như... sức mạnh đi vào một cộng đoàn bền vững, nâng đỡ lẫn nhau. Cộng đoàn này bao gồm khổ đau có tính xây dựng, vì hiến thân bao giờ cũng bao gồm đau khổ. Tình yêu tự ra kỷ luật cho mình vì nghĩa yêu đương”.

Bây giờ ta thử xét đến trường hợp ngược lại – tức việc có thể có một thứ chung thủy tính dục nhưng lại không loại trừ ai (không độc chiếm: non-exclusive). Như đã thấy, một trong những luận chứng là trong xã hội ngày nay, người ta đã đưa ra nhiều đòi hỏi không thực tế và không thể có được đối với đơn hôn. Kiểu mẫu gia đình hạch nhân đã mang theo nó hình ảnh về hôn nhân như một trái cầu đóng kín, được niêm phong cẩn mật chống mọi thứ liên hệ xúc cảm sâu sắc với những ai ở bên ngoài nó. Nhưng quả là không thực tế và không công bằng nếu cứ bắt một người nào đó lúc nào cũng phải có khả năng đáp ứng các nhu cầu đồng hành của người bạn đời mình – những nhu cầu tuy chính đáng nhưng chỉ vụ cá nhân, duy lạc chủ nghĩa, hoặc vị kỷ. Nếu Tin Mừng thực sự mời gọi ta phải thực hiện đến mức cao nhất khả năng nhân bản của ta trong mối liên lập với người khác, thì hôn nhân phải mở rộng mình ra đón nhận chính mối liên lập ấy.

Nhiều người đã ghi nhận rằng người đàn bà đặc biệt chịu thiệt thòi vì cái định nghĩa cổ truyền về đơn hôn. Như Rosemary Ruethers (thần học Công Giáo), chẳng hạn, đã viết như sau: “Đơn hôn xưa nay đặc biệt làm hao mòn sự triển nở bản thân nơi người đàn bà. Vì người ta vốn cho rằng toàn bộ cuộc sống xúc cảm của họ phải được đáp ứng qua mối liên hệ với một người đàn ông duy nhất trong khi, ngược lại, người đàn ông có thể phát triển nhân cách anh ta qua man vàn những mối liên hệ bằng hữu, doanh nghiệp và ngay cả tính dục nữa”.

Sự phát triển bản thân của cả chồng lẫn vợ đều cần đến nhiều liên hệ thân mật bằng hữu bên cạnh mối liên hệ với chính người phối ngẫu. Điều này không nhất thiết có nghĩa là phải có những mối liên hệ thân mật về tính dục bên ngoài hôn nhân. Điều quan trọng là tình thân mật xúc cảm liên bản ngã, còn tính dục thì có thể loại trừ ra ngoài một cách có kiểm soát.

Vì những áp lực hiện nay đối với hôn nhân, người ta đã biện luận rằng sự chọn lựa đối với nhiều cặp vợ chồng rất có thể là giữa sự độc chiếm tính dục (sexual exclusivity) và sự bền vững của hôn nhân; điều sau mới là điều quan trọng hơn. Jessie Bernard (xã hội học, Do Thái) nhận định như sau: “Nếu ta nhấn mạnh đến sự bền vững, thì tính cách độc chiếm càng khó mà bắt buộc hơn; nếu ta nhấn mạnh đến sự độc chiếm, thì tính cách bền vững sẽ lâm nguy. Khuynh hướng ... dường như thiên về phía độc chiếm nhẹ về phía bền vững trong những năm còn trẻ, nhưng thiên về phía bền vững hơn là phía độc chiếm trong những năm sau đó”.

Rosemary Ruethers nhấn mạnh hơn về điểm này. Bà nhận định rằng trên phương diện lịch sử, đơn hôn từng được liên kết với liên hệ tư hữu của người đàn ông trên người đàn bà trong xã hội tổ phụ. Và mặc dù Giáo Hội truyền dạy một tiêu chuẩn duy nhất về lòng thủy chung độc chiếm trong tính dục, nó đã phải nhường bước cho một tiêu chuẩn nước đôi qua nhiều cách thế. Dù sao, trong xã hội hiện nay, ý niệm hôn nhân lãng mạn không những đòi phải có sự độc chiếm về tính dục mà còn đòi cả sự đồng hành suốt đời cũng như thoả mãn tính dục nữa. Ruethers thắc mắc không biết có phải ta đã bắt nhầm ưu tiên bằng cách xem ra đã coi trọng độc chiếm hơn tình đồng hành lâu bền, thân mật và lòng chung thủy bản thân chăng. Có lẽ ta đã có được điều thứ hai nhiều hơn nếu ta không quá chú trọng đến điều trước như Giáo Hội vốn làm:

"Thực ra đâu là giá trị mà xã hội muốn bảo tồn hơn cả? Có phải đó là tính độc chiếm tính dục không, nhất là khi ly dị và tái kết hôn đã biến nó thành một thứ độc chiếm hàng loạt? Hay há đó không phải là sự cam kết lâu dài, để vừa nâng đỡ và thân thiện bản thân với nhau, vừa dưỡng dục con cái an toàn, là điều sẽ đem lại cho thế hệ mai sau những khuôn mặt cha mẹ vững ổn?”

Như thế vừa minh nhiên vừa tiềm ẩn, các luận chứng trên cho người ta hiểu lòng chung thủy có những yếu tố như sau: nó là sự cam kết sẽ sống thân mật về xúc cảm và thể lý với người phối ngẫu; nó là sự chăm sóc đến việc tăng trưởng và thành tựu của mọi người như là những bản vị; nó là sự cam kết đối với việc tăng tiến chính liên hệ hôn nhân; nó đòi phải trung thực, cởi mở, và tín thác lẫn nhau; nó đòi ta phải sẵn sàng khám phá ra các phương thế để cởi mở cái bản ngã của mình ra cho người phối ngẫu, đến tận những tầng sâu nhất của bản ngã ấy, dù có đau đớn cách mấy; nó cũng bao gồm sự cởi mở đối với những liên hệ đệ nhị đẳng trong đó có thân mật xúc cảm và cả biểu thức sinh dục nữa, nhưng luôn phải cam kết duy trì tính tối thượng của hôn nhân.

Dưới ánh sáng những xem sét trên, chúng ta tin rằng việc định nghĩa lại lòng thủy chung tính dục không nên bị tiên thiên bác bỏ (summarily dismissed). Thiển nghĩ: sự cởi mở đối với việc coi điều này có thể phản ảnh cho một hôn nhân Kitô giáo có giá trị là điều rất thích đáng. Tuy vậy, vẫn có nhiều lý do để lo ngại.

Tính dục quả là một thành phần không thể thiếu đối với bất cứ liên hệ liên bản ngã nào. Thế nhưng, điều không cần bàn cãi nữa là: trong hôn nhân, sự độc chiếm về phương diện sinh dục không nhất thiết phải loại trừ mọi hình thức bạn bè khác không có được những ấm áp của cảm quan cũng như sâu sắc của xúc cảm. Và sự độc chiếm sinh dục cũng không có nghĩa là người ta có quyền sở hữu duy nhất đối với người phối ngẫu. Nó có thể và thường phản ảnh một thứ cam kết từ đó tỏa ra một cảm thức chân thực về tự do.

Tuy nhiên, những chứng cớ thực nghiệm liên quan đến các hiệu quả (nhất là các hiệu quả lâu dài) của lòng chung thủy tính dục không có tính độc chiếm hiện nay rất giới hạn. Trong khi số người viết những chứng từ tích cực từ chính các kinh nghiệm riêng của họ về nó thật đông đảo, thì bức tranh rộng hơn vẫn còn có những điều người ta chưa được biết.

Và một lần nữa, các khả thể trong việc thánh hóa tính dục mới là điều liên hệ tới vấn đề này. Việc tăng trưởng về nhục tính (sensuousness), chẳng hạn, có thể có nghĩa là đã có sự tản mạn (diffusion) lớn hơn về cảm xúc tính dục trong khắp cơ thể và qua khắp các liên hệ của bản thân mình. Với việc giảm chú ý tới khía cạnh sinh dục trong tính dục con người, người ta có thể quan niệm được rằng sự thèm khát các biểu lộ sinh dục bên ngoài hôn nhân cũng đã giảm đi theo. Cả việc tăng trưởng về lưỡng hôn (androgyny) nữa cũng có thể trùng hợp với sự độc chiếm tính dục, vì nhiều trường hợp làm tình ngoài hôn nhân xem ra có liên hệ đến ý muốn muốn chứng tỏ niềm tự hào về khả năng tính dục đàn ông hoặc đàn bà của mình mà thôi.

Dù có phép hòa giải và thăng tiến, những chiều kích thóai hóa của đời ta vẫn dai dẳng còn đó. Chúng ta vừa là người công chính vừa là kẻ có tội (simul justus et peccator). Nếu luật có thể phục vụ Tin Mừng và các qui định có thể phục vụ sự toàn vẹn, thì đối với phần đông chúng ta, qui định tốt hơn vẫn là tính độc chiếm sinh dục trong hôn nhân. Dù thế, ta có thể coi: qui định ấy (cũng như bất cứ qui định nào khác) vẫn chỉ là một qui định được coi là hợp lý nhưng không thể loại ra ngoài nhiều ngoại lệ. Tuy nhiên khi chấp nhận những ngoại lệ này, ta phải đưa ra được bằng chứng rằng sự chia sẻ tính dục ấy thực tế phải gia tăng chứ không được làm thui chột khả năng chung thủy liên bản ngã và sự toàn vẹn bản vị của ta.

Thực sự hôn nhân vẫn có tương lai. Nhưng các hình thức của nó sẽ thay đổi. Điều vẫn được gọi là hôn nhân Kitô giáo cổ truyền thực ra chỉ là sản phẩm của những khai triển lịch sử, và lịch sử ấy không lâu đời như người ta thường vốn nghĩ. Tuy nhiên, hôn nhân ấy đã phục vụ tốt rất nhiều người và chắc chắn còn tiếp tục như thế trong tương lai. Nhưng tương lai xem ra sẽ tiến về hướng đa dạng hơn là độc dạng trong các hình thức hôn nhân.

Dù thế nào chăng nữa, chúng ta tin rằng khi các hình thức hôn nhân được lên khuôn theo thực tại tình yêu nhập thể của Thiên Chúa, ta vẫn thấy các hình thức ấy có những phẩm tính đặc thù và khác biệt. Chúng vẫn là giao ước chứ không phải khế ước. Chúng vẫn là những giao ước bền bỉ – những lời thề sẽ thủy chung mãi mãi đối với hạnh phúc và sự tăng trưởng của mỗi người phối ngẫu. Chúng vẫn là những giao ước của tình thân mật trong đó tình yêu tính dục (eros) được bao bọc, được thấm nhiễm và được lòng mến (agape) biến đổi. Chúng vẫn là những giao ước có tính bí tích của Giáo Hội, dù có phải là bí tích chính thức hay không. Nhưng chúng vẫn là những địa bàn độc đáo trong đó tình yêu chữa lành và nhân bản hóa của Thiên Chúa luôn được cảm nhận một cách sống động. Và chúng vẫn là những giao ước, cách này hay cách khác, sẽ chân thực mở rộng khả năng của các người phối ngẫu trong việc hiệp thông với nhau cũng như sự sẵn sàng của họ cộng tác vào công trình của Chúa để đem vào đời những sự sống mới và canh tân thế giới.

Viết theo James Nelson, Journal of Current Social Issues, 1 (Xuân 1978)

Phụ chú

Một số quan điểm chỉ trích đơn hôn cổ truyền trên đây dường như đã hỗ trợ xa gần cho những phong trào như Loving More tại Mỹ hiện nay. Phong trào này chủ trương người ta có thể yêu hơn một người và như thế một gia đình có thể có đến một người đàn bà và hai người đàn ông sống chung thành một “cặp tay ba” (a live-in threesome), hoặc hai người đàn ông và hai người đàn bà cùng sống chung dưới một mái nhà thành một “cặp tay bốn” (a foursome). Tuy nhiên họ lại không chịu gọi đó là đa hôn (polygamy), mà là đa ái(polyamory): yêu hơn một người cùng một lúc và yêu công khai.

Cũng có người nhận họ là “phi đơn hôn có trách nhiệm” (responsible nonmonogamy). Những người này muốn thuyết phục mọi người rằng nền chính trị của trái tim không nên để một đảng duy nhất cai trị. Brett Hill, người giúp điều hành một tạp chí (lưu hành 10,000 số), một Website (1,000 hits một tháng) và hai hội nghị thường niên cho phong trào Loving More, phát biểu như sau: “nếu bạn đã kết hôn, nhưng gặp ai đó nơi văn phòng rồi yêu họ, bạn sẽ làm gì? Phần lớn sẽ bỏ rơi một ai đó. Nhưng như thế thì đau đớn quá. Người ta tự hủy hoại mình và hủy hoại cả gia đình chỉ vì chuyện ấy. Chúng tôi muốn nói, ở đây ta có thể có nhiều chọn lựa”. Còn Ryam Nearing, lãnh tụ của Phong Trào Loving More, thì dựa hẳn vào Khoa Học để bênh vực đa ái: “Về phương diện sinh học, người ta là loài đa ái”. Bà ta còn thêm rằng đa ái xẩy ra ngay trong các xã hội nơi nó bị trừng phạt bằng án tử hình. Những người đa ái rất thích công trình nghiên cứu của Helen Fisher, một nhà nhân chủng học thuộc viện đại học Rutgers và là tác giả cuốn Giải Phẫu Học Tình Yêu (Anatomy of Love). Fisher cho rằng chỉ có 16% các nền văn hóa có ghi chép thực sự đã bắt buộc đơn hôn; còn đa số các nền văn hóa khác đều cho phép đàn ông đa thê như một biểu hiệu quyền lực nam giới. Phong trào đa ái đi đến kết luận là con người ta không tự nhiên có khuynh hướng đơn hôn.

Thực ra quan điểm của Fisher phức tạp hơn thế nhiều. Bà cho hay ta có những xu hướng biến hóa trái ngược nhau: nhục thể (lust: để gìn giữ nòi giống), lôi cuốn nhau (attraction: dành năng lực đôi lứa cho những người xứng đôi) và gắn bó với nhau (attachment: giúp ta ở với nhau đủ lâu để dưỡng dục đứa con ít nhất qua tuổi ấu thơ, khoảng 4 tuổi). Tuy Fisher khen những người đa ái là thực tiễn, nhưng bà thêm rằng: “Nếu họ hết sức già dặn thì đồng thời họ cũng hết sức ngây thơ”. Vì theo bà, lòng ghen không bao giờ phai nhạt hoàn toàn. Thực vậy, các website cũng như ấn phẩm của đa ái luôn luôn bị ám ảnh bởi những câu hỏi về cách chữa trị lòng ghen. (Tạp chí Time 22/11/1999, các trang 58-59)
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Mẹ Fatima 100 Năm
Dominic Đức Nguyễn
09:38 04/11/2017
MẸ FATIMA 100 NĂM
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
(Hình chụp tại Fátima, Lisboa, Portugal)

Mẹ ơi,
Cho dẫu biết tháng ngày qua lặng lẽ,
Hết Vui lại Mừng, qua Sáng lại Thương !
Chuỗi hạt Mân Côi khúc nhạc thiên đường,
100 năm trước, làng Fatima vẫy gọi.
Dâng lên Mẹ từng hạt kinh sám hối,
Những “tràng Mân Côi” kết nối tin yêu.
(Trích thơ của Sơn Ca Linh)