Ngày 29-10-2018
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Suy niệm lễ các Linh Hồn
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
08:05 29/10/2018
Lễ Nhất: Muốn Sống Đời Đời, Hãy Ăn Bánh Giêsu

Suy Niệm Lễ Nhất - Ngày Lễ Các Linh Hồn

(Ga 6, 51 – 59)

Con người sinh ra là để sống, để vươn lên. Ai trong chúng ta cũng đều có một mơ ước một khát vọng riêng cho mình, cho dù đó là mơ ước nhỏ hay to, cao xa hay thấp hèn. Nếu con người sống mà không có mơ ước thì chỉ như một cỗ máy. Khát vọng vươn lên đó chính là mục đích sống của con người. Niềm tin Kitô giáo dạy cho chúng biết, con người có xác có hồn, có đời này và đời sau. Vì thế, ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc ở đời tạm thế này, người tín hữu phải đạt được sự sống đời đời mai sau nữa. Nhưng đâu là bí quyết để sống trường sinh là một câu hỏi lớn ?

Khởi đi từ việc thấy đám đông dân chúng theo mình, Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ, sống đời tạm này. Từ của ăn vật chất nuôi sống thể các, Chúa gợi lên nơi lòng họ sự khát vọng tìm kiếm thay vì của ăn hay hư nát, thì tìm kiếm của ăn thiêng liêng, lương thực trường tồn, lương thực ấy là chính Chúa Giêsu (x. Ga 6). Thế là khát vọng sống trường sinh nổi lên trong họ, Chúa mạc khải luôn cho họ: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời" (Ga 6, 51).

Ngày xưa Chúa Giêsu gọi mời những người Do thái, ngày nay Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy đến mà ăn Bánh Giêsu. Nếu chúng ta muốn sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người: "Là Bánh Hằng Sống ... ai ăn ... sẽ được sống đời đời" (Ga 6,51).

Sự sống đời đời, tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Thiên Chúa là Đấng làm cho sống, là nguồn mạch sự sống. Vì thế, chúng ta thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời (x.Ga 6, 54). Hơn nữa còn được Chúa đến cắm lều ngay nơi lòng chúng ta: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" (Ga 6, 56).

Chúa Giêsu khẳng định, Người là bánh bởi trời xuống, Người đến làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là lấp đầy khát vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là trường sinh bất tử.

Nếu như trong sa mạc xưa kia, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, thì nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang. Chẳng có gì chân thật và an ủi hơn cho những linh hồn khát khao nên thánh.

Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm qua, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc của Thiên Chúa. Khi chiếm ngắm các ngài, chúng ta có thêm động lực để phấn đấu hầu lấp đầy khát vọng làm thánh của chúng ta.

Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là sự sống trường sinh, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, và siêng năng lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống đời đời. Xin cho những kẻ khi còn sống đã tin tưởng vào lời hứa của Chúa đã rước Mình và Máu Thánh Chúa được sống muôn đời. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lễ Nhì: Xin Nhớ Đến Con Cùng

(Luca 23, 33. 39-43)

Mọi tạo vật đều muốn mình được nhớ đến

Có một loài hoa tên là Lưu ly có màu tím, màu trắng, xanh hoặc vàng tuyệt đẹp, người ta hay hái để tặng nhau. Các cô thiếu nữ thường gọi tên hoa là " xin đừng quên em ", còn các chàng trai một mực khăng khăng gọi Lưu ly là "xin đừng quên anh". Cho dù gọi hoa theo tên nào thì đây cũng là một loại hoa luôn luôn gợi nhớ một niềm thương cảm mênh mông, một kỷ niệm sâu xa thầm lặng không quên được.

Chuyện kể rằng: ngày xửa ngày xưa có một đôi nam nữ yêu nhau. Một sáng mùa xuân trời trong vời vợi. Họ dắt nhau dạo chơi bên bờ một con suối, hoa Lưu ly mọc dày, cố vươn cành, nghiêng mình soi bóng xuống dòng nước trong xanh. Trong khi chàng trai tần ngần ngắm nhìn dòng thác đổ thì cô gái say sưa hái hoa. Cô nhoài người ra bờ suối hái mấy nhành hoa đẹp, chẳng may nàng bị trượt chân ngã xuống suối bị dòng nước cuốn trôi. Nàng cố hết sức ném lại nhành hoa có ý trao tặng người yêu và gọi với "Xin đừng quên em".

Một truyền thuyết khác kể rằng, có một người du hành nọ đang lang thang trong thung lũng hoang vắng thì nhìn thấy một bông hoa lạ mà anh chưa từng gặp bao giờ ngay dưới chân mình. Anh hái bông hoa, ngay lập tức, cạnh dốc núi hé mở ra. Anh bước vào trong và thấy trước mắt mình không biết cơ man nào là vàng và ngọc ngà châu báu. Anh sung sướng và bắt đầu thu nhặt chúng, nhưng lại vô tình đánh rơi bông hoa bé nhỏ. Bông hoa thầm thì một cách yếu ớt : “Xin đừng quên tôi ! Xin đừng quên tôi !”

Còn theo một truyền thuyết Công Giáo, ngày nọ, Thiên Chúa đi ngang qua vườn địa đàng sau khi sáng tạo ra thế giới muôn loài. Người bỗng chú ý đến một bông hoa nhỏ và hỏi nó tên gì. Bông hoa ngượng ngùng thì thầm : "Thưa Chúa, con sợ rằng con đã bị lãng quên mất rồi ạ". Thiên Chúa ôn tồn trả lời : "Uh, Ta sẽ không bao giờ quên con".

Chúng ta thấy, chẳng những con người luôn mong mình được người khác nhớ đến, mà cả loài hoa cũng muốn mình không bị lãng quên.

Giáo hội lữ hành nhớ đến Giáo hội khổ đau

Sau khi đã cử hành lễ vinh quang và danh dự của Giáo hội Khải Hoàn (Các Thánh), Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta hôm nay đặc biệt nhớ đến đến và cầu nguyện cho Giáo hội Khổ Đau : những tâm hồn tội lỗi đang ở trong thời gian thanh luyện đang rất cần sự nhớ đến và lời cầu nguyện, lễ hy sinh, việc đền tội của chúng ta, để họ nhanh chóng được giảm bớt hình phạt hiện tại, được thứ tha tội lỗi mà giờ đây họ không làm được gì cho chính mình.

Hôm nay không phải là ngày buồn và tang tóc : nhưng là ngày Giáo hội là Mẹ năn nỉ nài van cùng Thiên Chúa cho con cái mình đã qua đời còn đang bị giam cầm nơi Luyện Tội chờ ngày thanh luyện cho đủ sớm được giải thoát. Vì thế, Giáo hội kêu lên : "Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn... "

Xin nhớ đến con cùng

Trong khi tất cả những người khác nói với Chúa Giêsu một cách khinh miệt : "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa!" Thì người trộm lành đã phạm bao lỗi lầm trong cuộc sống, cuối cùng lại sám hối, níu lấy Chúa Giêsu đang chịu đóng đinh và cầu xin : "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi" (Lc 23, 42). Chính vì anh xin Chúa một đặc ân là nhớ đến anh, nên Chúa Giêsu hứa với anh : "Quả thật, Ta bảo ngươi : ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta" (Lc 23, 43).

Chúa Giêsu là Con Một Chúa Cha, chỉ nói lời tha thứ, chứ không nói lời kết án; và khi con người biết can đảm xin ơn tha thứ, Chúa không bao giờ bỏ rơi lời cầu xin ấy. Lời hứa của Chúa Giêsu với người trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao : lời ấy nói với chúng ta rằng, ơn Chúa bao giờ cũng phong phú hơn lời cầu xin. Người rất quảng đại, luôn ban cho nhiều hơn điều con người cầu xin.

Ngày lễ nhớ cầu cho các linh hồn tổ tiên, các đấng, các bậc, ông bà cha mẹ, thân bằng quyến thuộc đã qua đời hôm nay gợi lên cho chúng ta về sự nhớ thương và đừng quên những người đã khuất. Khi dâng lễ giỗ cầu cho người thân, chúng ta như nhắc nhớ Chúa : "Lạy Chúa… người thân yêu này, chúng con không thể quên, lẽ nào Chúa lại không nhớ đến” (Lời nguyện nhập lễ giỗ - Ngoài Mùa Phục Sinh SLRM tr. 1005). Và trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, chúng ta vẫn xin Chúa : "Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người…"

Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và dâng lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, chúng ta không chỉ dừng lại nơi họ để cầu nguyện cho họ mà thôi, chúng ta còn phải nài xin Chúa thương xót tất cả chúng ta nữa, để chúng ta cũng được đồng hưởng sự sống đời đời, cùng với Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, thánh Giuse Bạn Đức Trinh Nữ, các Thánh Tông Ðồ, và toàn thể các Thánh đã sống đẹp lòng Chúa qua mọi thời đại, và cùng với các Ngài, chúng ta được ca ngợi và tôn vinh Chúa.

Lạy Chúa, Chúa từng phán cùng kẻ trộm lành : "Quả thật, Ta bảo ngươi : ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta" (Lc 23, 43). Xin Chúa thương nhớ đến những tín hữu đã qua đời còn trong Luyện Tội nơi thiên đàng của Chúa và xin đừng để họ phải trầm luân đời đời trong Hỏa ngục! Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lễ Ba: Cậy Trông Và Hy Vọng Vào Chúa

Giữa ngày hôm qua và hôm nay, biết bao nhiêu người đi viếng thăm vườn thánh là « nơi an nghỉ » chờ ngày sống lại của những người đã chết. Chúng ta đi viếng họ với niềm tin yêu, dừng lại bên mộ của những người đã yêu thương và làm điều tốt cho chúng ta trong sự cậy trông và lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa tình yêu.

Chân lý Đức tin Kitô giáo dạy chúng ta rằng giữa Trời và Đất có một trung gian gọi là Luyện ngục, nơi ấy dành cho các tâm hồn chết khi mắc tội mọn hay là đền tội chưa đủ, cần phải được thanh tẩy để trở nên tinh tuyền, trong một mầu nhiệm đáng sợ mà thánh Gioan Thánh Giá gọi là “Lửa Tình Yêu”. Tin vào yêu Thiên Chúa tạo dựng, hy sinh và cứu chuộc của Thiên Chúa, chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời, săn sóc mồ mả và nhất là dâng lễ Misa xin Chúa thứ tha và sớm giải thoát họ là chứng tá của niềm tin ấy.

Cậy trông vào Thiên Chúa Tình Yêu

Người ta nói rằng : nếu tất cả Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu”, thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó.

Thiên Chúa đã yêu con người bằng một tình yêu hào phóng khi tạo dựng con người, ban cho con người những hồng ân bên trong và bên ngoài; Ngài cũng đã yêu chúng ta với một tình yêu khổ đau để cứu chuộc ta, khi nghĩ ra cách hủy diệt chính mình, chịu đau đớn nhất, để minh chứng cho ta thấy: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.

Trong tác phẩm Quo Vadis, một người ngoại giáo hỏi Thánh Phêrô khi ngài mới đến Rôma như thế này : Nhã Điển đem đến cho chúng tôi sự thông thái, Rôma đem đến quyền lực, còn tôn giáo của ông đem lại cho chúng tôi điều gì? Thánh Phêrô trả lời: Tình yêu!

Vâng, Thiên Chúa yêu con người bằng một Tình yêu hào phóng, không những trao ban nhưng không, mà tình yêu đó còn mang theo tha thứ. Thánh Phaolô thốt lên “Ít có ai chết thay cho người công chính, hoạ chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân” (Rm 5, 7-8). Con người có thể là kẻ thù của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa mãi mãi không là kẻ thù của con người.

Hy vọng vào Chúa

Vốn là Tình yêu, mang trong mình một tình yêu thương xót, thứ tha và cứu chuộc nên Thiên Chúa luôn canh cánh trong lòng, mong sao cho nhân loại được cứu chuộc. Người khẩn cầu tha thiết cùng Thiên Chúa Chúa : « Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thi Con muốn rằng : Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con ». Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp : “Con muốn rằng Con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con.” Chúa Giêsu ở đâu? Ở trong tình yêu Chúa Cha; ở trong sự thật; ở trong Thánh Ý Chúa Cha; Ở trên Thập Giá và ở trên thiên đàng.

Chính Cha đã sai Con và yêu thương họ như đã yêu thương Con.” Trước khi về trời, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng Chúa Cha đã yêu thương chúng ta như đã yêu thương Chúa Giêsu.

Như vậy, Chúa Giêsu Nadarét ngày nào cũng như chúng ta hôm nay, và cũng được Chúa Cha yêu thương bằng một tình Cha thật gần gũi. Nhưng khác một điều Người đã nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, dù trong những lúc đau thương nhất của cuộc sống. Còn chúng ta, chúng ta cũng tin vào tình yêu của Thiên Chúa, nhưng không mấy xác tín rằng Chúa Cha đã yêu thương tôi như đã yêu thương Chúa Giêsu.

LỄ CHUNG: Các Tín Hữu Đã Ly Trần – Niềm Hoan Lạc Cùng Chư Thánh

LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Nếu như hôm qua, lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca phụng vụ lễ Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt quá những giới hạn của không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng các thánh, những người được coi là diễm phúc ở “đô thành thiên quốc, thành Giêrusalem trên trời là mẹ của chúng ta” (Tiền tụng lễ Các thánh). Thì hôm nay, mùng 02 tháng 11, màu sắc, âm thanh, phụng ca của ngày lễ hướng tâm hồn chúng ta về các thực tại mai hậu, tưởng nhớ các tín hữu đã qua đời “ những người đã ra đi trước chúng ta với dấu ấn đức tin và nay đang nghỉ giấc bình an” (Kinh nguyện Thánh Thể số I), ở nơi luyện ngục, để dâng lễ cầu nguyện cho họ.

Chân lý Đức tin Kitô giáo dạy chúng ta rằng giữa Trời và Đất có một trung gian gọi là Luyện ngục, nơi ấy dành cho các tâm hồn chết khi mắc tội mọn hay là đền tội chưa đủ, cần phải được thanh tẩy để trở nên tinh tuyền, trong một mầu nhiệm đáng sợ mà thánh Gioan Thánh Giá gọi là “Lửa Tình Yêu”. Chúng ta lo lắng cho những người thân đã qua đời con đang bị giam cầm nơi luyện ngục, chịu khổ đau là phải. Việc những kẻ con sống cần phải làm là đọc kinh cầu nguyện, hy sinh, làm phúc, nhất là xin Lễ Misa cho những người ấy. Điều trên giúp chúng ta hiểu việc chúng ta phải làm cho họ. Dù đang sống cuộc sống dương gian, hay hưởng phúc thiên đàng hoặc đang thanh luyện nơi luyện ngục, tất cả mọi người đều liên đới với nhau trong Đức Kitô. Đó chính là ý nghĩa của tín điều các Thánh Thông Công mà chúng ta tuyên xưng và thực hành.

Đức tin được thể hiện

Một câu hỏi lớn. Hỏi : Các thánh thông công nghĩa là làm sao ?

Thưa. Các thánh ở trên trời cùng các linh hồn ở luyện ngục và các bổn đạo dưới đất đều thông công với nhau. Các bổn đạo tôn kính cầu xin các thánh, và các thánh cầu bầu cho các bổn đạo trước mặt Đức Chúa Trời. Các bổn đạo dâng việc lành phúc đức cầu cho các linh hồn ở luyện ngục, mà khi các linh hồn ấy đã được lên thiên đàng thì cùng cầu bầu cho các bổn đạo nữa. Các bổn đạo có lòng kính mến Đức Chúa Trời cùng thương yêu nhau thì chẳng những lập công cho mình mà lại làm ích cho kẻ khác nữa. (Sách Bổn Hà Nội tr. 39-40)

Những câu bổn căn bản trên giúp chúng ta hiểu tại sao Giáo Hội dành hẳn tháng 11 hàng năm để cầu nguyện cho anh chị em đã qua đời. Vì niềm hy vọng Kitô giáo không bao giờ chỉ mang tính cách cá nhân, nhưng còn là hy vọng cho tha nhân nữa. Nên, cuộc sống của chúng ta được liên kết với nhau, và điều tốt hay điều xấu của người này liên quan tới người kia nữa. Thế nên, lời cầu nguyện của một người còn đang lữ hành trên dương thế có thể giúp đỡ một linh hồn khác đang được thanh luyện sau khi đã qua đời. Đó là lý do vì sao ngày hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời, và đến viếng thăm mộ của họ. Vì chúng ta có trách nhiệm phải nhớ đến nhau, cầu nguyện, hy sinh, đền tội thay cho nhau.

Còn tin còn cầu nguyện, còn chia sẽ một Thánh Thể là còn nhớ đến nhau, thuộc về nhau. Tình yêu thương bác ái dành cho các linh hồn trong lúc này chính là lời cầu nguyện, Lễ Misa và sự hy sinh.

Khi cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, Giáo Hội hướng về Chúa Kitô phục sinh, Ðấng đã chết và sống lại để cho tất cả chúng được sống lại. Tin vào sự sống lại của thân xác là nhìn nhận rằng sẽ có một chung cục, một cùng đích cho mọi người.

Đức tin không giải thoát những kẻ tin khỏi sự khổ não phải chết, nhưng đức tin sẽ làm êm dịu với hy vọng : “Nếu có buồn sầu vì số phận phải chết… cũng sẽ được ủi an”. (Kinh Tiền Tụng lễ các linh hồn).

Cầu nguyện cho người quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người thân và các tín hữu Kitô. Nhưng còn được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về Giáo hội hay ở ngoài Giáo hội hữu hình. Với niềm xác tín, Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là Đấng Cứu Độ duy nhất, tình thương của Thiên Chúa ôm trọn tất cả mọi người. Do đó những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Chúa, nhưng thành tâm tìm kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của mình nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ý muốn của Chúa, họ cũng thuộc về Chúa, cho dẫu chúng ta không thấy và do đó cũng có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ một mình Chúa mới biết lòng tin của họ.

Đạo hiếu được thi hành

Báo hiếu là bổn phận thiêng liêng của tất cả mọi người. Ðông cũng như Tây, xưa cũng như nay, những người có hiếu, không ai là không nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Nhưng cách thể hiện tấm lòng cụ thể tùy theo trình độ văn minh và phong tục tập quán của mỗi dân tộc mà có những khác biệt.

Ở Việt Nam ta, với triết lý Á Đông vốn đề cao chữ hiếu. Có hai cách báo hiếu: khi cha mẹ còn sống, con cái phải chu cấp đầy đủ những nhu yếu vật chất để cha mẹ được an vui, khi cha mẹ qua đời, con cái phải phụng thờ và thực hiện những di chúc để lại.

Ðây là cơ hội quý báu để những người con hiếu thảo báo đáp phần nào công ơn trời bể của tổ tiên, ông bà, cha mẹ: “Cây có cội, nước có nguồn, Con người có tổ có tông : có cha có me, có ông có bà”. Ai trong chúng ta cũng đều thuộc nằm lòng những câu ca dao tục ngữ của người xưa răn dạy về đạo hiếu, đạo làm người ấy.

Cũng như muôn tạo vật, con người cũng có cội, có nguồn, có tổ có tông. Họ là những “tiền nhân” đã ra đi trước chúng ta, để lại hậu duệ là chính chúng ta, với ước mong giòng giống của các ngài được trường tồn, đó chính là quy luật “bảo tồn sự sống” mà Thiên Chúa đã thiết lập.

Thảo kính cha mẹ phải phát xuất từ trái tim, thôi thúc lòng người hiếu thảo thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:

Mẹ cha vất vả nuôi mình

Từ khi trứng nước công trình biết bao.

Làm con phải nhớ công lao,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. (Ca dao

Việc thảo kính cha mẹ không chỉ là việc: con cái trả ơn sinh thành mà còn là nghĩa vụ thiêng liêng gắn liền với huyết thống, máu mủ, tình thân, hay là một qui định của xã hội mà là một điều răn của Chúa dạy : “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.

Thiên Chúa đã nâng điều răn thứ bốn lên ngang hàng với các điều răn khác ; điều đó chứng tỏ con cái phải hiếu kính đối với cha mẹ đến mức nào. Môisen đã nói “Hãy thảo kính cha mẹ và ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử”(Mc, 7-13).

Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất cả chúng ta đều phải biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh thời cũng như khi đã khuất bóng.

Bên Đông phương người ta đề cao chữ HIẾU và nâng lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.

Cùng tột điều thiện, không gì hơn hiếu,

Cùng tột điều ác, không gì hơn bất hiếu (Kinh Nhẫn Nhục)

Không ai có thể phủ nhận được công ơn cha mẹ trong việc sinh thành và dưỡng dục con cái. Thiên Chúa đã dựng nên con người, nhưng không trực tiếp mà phải qua trung gian cha mẹ. Trước tiên, Thiên Chúa dựng nên ông Adam và bà Evà, rồi từ đó con cháu nối tiếp. Đúng là : Người ta có cố có ông,

Như cây có cội như sông có nguồn

Lý thuyết là như thế, nhưng trong ngày nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với cha mẹ để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (theo sách giáo lý Tân định). Đồng thời, Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.

Ai mà phụ nghĩa quên công

Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (Ca dao)

Hướng về thực tại mai hậu

Khi cầu nguyện cho những anh chị em tin hữu đã qua đời, chúng ta không chỉ dừng lại nơi họ, cho họ, vì họ mà còn cho chúng ta nữa những người còn sống. Sự ra đi trước của họ, nhắc nhớ chúng ta về một cõi đi về mà ai ai trong chúng ta cũng phải về, đó là quê trời vinh phúc. Trong khi cầu nguyện cho anh chị em đã qua đời, chúng ta cũng xin Chúa làm cho đức tin vào Con Chúa đã sống lại từ cõi chết được lớn mạnh nơi chúng ta. Nhờ niềm tin vào sự sống đời sau, tin vào Đức Kitô là sự sống lại và là sự sống mà mỗi người chúng ta ngày nay luôn bước tới trong niền hy vọng. Cùng đích của người Kitô hữu là được trở về nhà Cha hưởng vinh phúc. Cùng đích này cũng giúp chúng ta sống cuộc sống hiện tại sao cho thật có ý nghĩa, thật có giá trị, không hổ thẹn là con cháu đáng quí của những người đã khuất, không hổ thẹn là người môn đệ của Đức Kitô, Đấng hằng sống. Hy vọng rằng qua đời này tất cả lại cùng đoàn viên trong nhà Cha trên Trời.

Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Chúa đời đời. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Suy niệm lễ các Thánh
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
08:09 29/10/2018
Các Thánh là ai vậy?

Lễ Các Thánh Nam Nữ

(Mt 5, 1-12a)

Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên Trời. Có thể nói, hôm nay là ngày hội lớn, ngày vui mừng hân hoan của tất cả mọi thành phần con cái trong đại gia đình Giáo hội. Mừng kính Các Thánh, nghĩa là mừng kính những người đang sống sự sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quang tràn đầy trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.

Hỏi : Thiên đàng là gì ?

Thưa : Thiên đàng là nơi đầy dẫy những sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy mặt Đức Chúa Trời liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21).

Thiên đàng là cùng đích tối hậu, nơi ấy khát vọng sâu xa nhất của con người trở thành hiện thực, đó là tình trạng hạnh phúc cao nhất và vĩnh cửu (x. GLCG số 1023-1025), nơi người ta yêu thương nhau, là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và nước mắt. Trái lại chỉ có hòa thuận và thương yêu, các thánh là những người đã đạt tới hạnh phúc đó.

Hỏi : Các Thánh là ai vậy ?

Là những người không bằng lòng với sự kém cỏi; với những biện pháp nửa vời. Các Thánh là những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát, nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như Chúa Giêsu công bố : “Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả” (Mt 5, 6).

Chi tiết trong bài đọc thứ nhất của ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm Các Thánh là ai. Các Thánh là “những người giặt áo và tảy áo trắng trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Như thế, sự thánh thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ “thánh” có nghĩa chung là “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm tục. Các Thánh tràn đầy sự thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các Thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.

Hỏi : Các Thánh làm gì trên thiên đàng?

Câu trả lời cũng được tìm thấy trong Bài đọc I: “Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Ca đoàn các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên trời, “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1, 46). Chính trong sự ca ngợi này mà Các Thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui , “Thần trí tôi hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa ngập tràn các ngài.

Hỏi : Các Thánh mặc áo gì?

Các Thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo mình trong máu Con Chiên. Các Thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của Đức Kitô. Các Thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ công bình đạo lý. Các Thánh mạc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.

Hỏi : Các Thánh là bao nhiêu?

Sách Khải Huyền nói : “Số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành, nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên Chúa ; họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót thương ; họ là những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ là những người xây dựng hòa bình nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những người bị bắt bớ, “họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến” (Kh 7, 14). Họ là các Tổ phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, các thánh Hiển tu, Ẩn tu, các thánh Đồng trinh thủ tiết, các thánh nam nữ.

Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được vào số những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn mà thôi.

Thánh Gioan đã nhìn thấy: “Đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng” (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội. Ðó là lý do tại sao Giáo hội thiết lập ngày Lễ Các Thánh, để mừng kính chung Các Thánh gồm cả Các Thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ tiên, họ hàng gần xa của mỗi chúng ta.

Giáo hội hôm nay mừng kính, có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cao sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người. Vì mọi người đều được kêu gọi lên thánh trong Đức Kitô. Các Thánh đã đạt tới hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.

Mừng kính Các Thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các ngài sống Hiến Chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.

Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của Các Thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh hóa bản thân như Các Thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với thánh ý Chúa.

Được như thế, chúng ta có thể “vui mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời” (Mt 5, 12a).

Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hân Hoan Mừng Chư Thánh

Lễ Các Thánh Nam Nữ

(Mt 5, 1-12a)

Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc. Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh :" Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh " (1Pr 1, 16). Ở đầu mỗi câu Tin Mừng (Mt 5, 1-12) hôm nay là một loạt các từ "phúc", chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa muốn chúng ta là những người hạnh phúc, những thánh nhân, phúc nhân.

Suy diễn này không quá ảo tưởng, vì vào lúc khởi đầu Kitô giáo, các thành phần của Giáo Hội được gọi là "những người thánh". Chẳng hạn như nơi thư Côrintô, thánh Phaolô ngỏ lời với những kẻ được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô là "chư thánh đã được (Thiên Chúa) hiệu triệu"(x.1 Cr 1, 2), được mời gọi trở nên thánh thiện, cùng với tất cả những ai khẩn cầu danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Quả thực, người kitô đã là "thánh" rồi, vì Bí tích Rửa tội kết hiệp họ với Chúa Giêsu và với mầu nhiệm Vượt Qua của Người; nhưng đồng thời người kitô còn phải trở nên thánh, trở nên giống như Chúa Kitô, mỗi ngày một mật thiết hơn.

Ðôi khi người ta nghĩ rằng sự thánh thiện là một điều ưu tiên dành cho vài người được tuyển chọn. Nhưng thật ra, việc trở nên thánh là trách nhiệm của từng kitô hữu, hay có thể nói là của mọi người! Theo thánh Tông Ðồ Phaolô thì từ muôn thuở, Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng ta và đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô, "để trở nên thánh thiện và không tì ố trước nhan Ngài trong tình bác ái" (Eph 1, 3-4). Như thế, tất cả mọi người đều được mời gọi sống thánh thiện; ai trong chúng ta, dù yếu đuối và tội lỗi, dù nhỏ bé và nghèo hèn, đều có thể trở nên thánh nhân, và được mời gọi trở nên thánh : "Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Ðấng trọn lành" (Mt 5, 48).

Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa, vì Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Người, giống như Người (St 1, 26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Chính tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Tội lỗi làm cho chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành của mình nữa, hạnh kiểm của chúng ta trước mặt Chúa là yếu kém.

Nhưng ai trong chúng ta lại không ước mơ trở nên tốt lành? Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ. Có điều là chúng ta ngại khó, ngại hy sinh, ngại cố gắng, ngại từ bỏ những điều vui sướng nhất thời trước mắt, chúng ta không có can đảm. Sự thánh thiện hệ tại việc sống như là những con cái Thiên Chúa, trong việc "trở nên giống" Thiên Chúa, như đã được tạo thành.

Điều làm cho chúng ta phấn khởi trong ngày lễ hôm nay, là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.

Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta cách dặc biệt: hãy cố lên! Ai trong chúng ta cũng có thể cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7, 9).

Còn chúng ta đang ở dưới thế, nơi có quá nhiều cám dỗ và cạm bẫy, chúng ta yếu đuối khó vươn lên, hoàn cảnh của chúng ta có khi lại quá phức tạp và khó khăn, nhiều khi chúng ta nản chí buồn lòng, không còn muốn phấn đấu nữa. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng lúc nào cũng nhìn đời với cặp kính màu đen, hãy lạc quan, tin tưởng, yêu đời hơn, dù cuộc đời có đủ thứ rắc rối, có phũ phàng mấy đi nữa. Lời thánh Phêrô khuyên chúng ta "cả anh em nữa, hãy nên thánh trong tất cả hạnh kiểm" (1Pr 1, 15).

Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên mọi sự tốt lành, Đấng nắm giữ vận mệnh của lịch sử. Hãy nghe lời thánh Gioan nói xem "Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa" (1 Ga 3, 1). Chính sự tin tưởng vào Thiên Chúa làm cho chúng ta tự tin hơn và yêu đời hơn. Mỗi lần cố gắng trở nên tốt hơn, là một lần chúng ta trở nên giống Chúa hơn. Chúa Giêsu đã vạch ra con đường Tám Mối Phúc Thật cho tất cả chúng ta đi theo hầu trở nên giống Người. Đó là con đường mà Người đã đi, khi Người còn sống thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta: " Phúc cho những ai…" (x. Mt 5, 1-12)

Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, ngự giữa cộng đoàn Các Thánh, có Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, Ðấng khiêm nhu nhưng cao trọng hơn mọi tạo vật. Chúng ta hãy đặt đôi bàn tay ta vào trong tay của Mẹ để Mẹ hướng dẫn, có Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta cảm thấy mình được khích lệ tiến bước với niềm hăng say hơn trên con đường thánh thiện. Hãy phó thác cho Mẹ cố gắng dấn thân hằng ngày và khẩn cầu Mẹ cho những người thân yêu của chúng ta đã qua đời. Trong niềm hy vọng sâu xa một ngày kia tất cả chúng ta sẽ gặp lại nhau, trong sự hiệp thông vinh quang của Các Thánh trước tòa Chúa. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hãy Nên Thánh Vì Ta Là Đấng Thánh

Lễ Các Thánh Nam Nữ

(Mt 5, 1-12a)

Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc. Chúng ta vui mừng chiêm ngưỡng thành Giê-su-sa-lem thiên quốc là Mẹ chúng ta. Nơi đó, có Đức Maria và anh chị em chúng ta là toàn thể các thánh muôn đời ca tụng Chúa, và chúng ta là lữ khách được đức tin soi dẫn đang vội vã tiến về và ước ao trở nên như thế.

Trong ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, thánh Bernarđô đã bắt đầu bài giảng nổi tiếng với câu hỏi như sau : "Có ích gì hay không lời chúc tụng của chúng ta dành cho các vị thánh, có ích gì hay không lời tôn vinh của chúng ta, có ích gì hay không việc chúng ta cử hành long trọng như thế này?" Ðây cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay. Câu trả lời của thánh Bernardô thật thú vị và cũng rất thời sự: "Những vị thánh của chúng ta không cần đến những danh dự chúng ta dành cho các ngài, và việc phụng tự chúng ta dành cho các ngài cũng không mang lại cho các ngài điều gì thêm. Phần tôi, tôi cần thú nhận rằng, khi tôi nghĩ đến các vị thánh, tôi cảm thấy bừng cháy lên những ước muốn to lớn".

Ước muốn to lớn mà thánh Bernarđô nói ở trên là ước muốn nên thánh. Cho dù việc chúng ta mừng kính chẳng thêm ích gì cho Các Thánh, nhưng điều đó lại thúc dục chúng ta trở nên thánh. Ai trong chúng ta lại không mơ ước trở nên tốt lành. Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân, Thiện, Mỹ. Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Chúa, giống như Chúa (x.St 1, 26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Nhưng tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành thủa ban đầu nữa. Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa. Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh :" Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh " (1Pr 1, 16).

Đầu mỗi câu Tin Mừng hôm nay bằng từ "phúc". Chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa muốn chúng ta là những thánh nhân, phúc nhân. Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10). Quả thật, chỉ một mình Chúa Giêsu là Ðấng có phúc tuyệt hảo, là Ðấng nghèo khó thật trong tinh thần, là Ðấng đau khổ, hiền lành, là Ðấng đói khát sự công chính, là Ðấng nhân từ, và trong sạch trong tâm hồn, là Ðấng hoạt động cho hoà bình, là Ðấng bị bách hại vì lẽ công chính, nhưng Chúa muốn chúng ta noi theo.

Một mối phúc đặc biệt linh hứng sự chọn lựa đoạn này: "Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng" (Mt 5,10). Trong số chúng ta đã có những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh, nghĩa là sự thánh thiện. Với sự thôi thúc của ơn thánh Chúa, các ngài không bằng lòng với sự kém cỏi; các ngài không bằng lòng với những biện pháp nửa vời, bằng mọi cách phấn đấu để nên thánh. Các ngài “đã giặt áo mình trong máu Con Chiên”, và “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế.

Tuy nhiên lời mời gọi nên thánh vẫn là một thách thức cho chúng ta, giữa một thế giới có quá nhiều lôi kéo mời chào, cám dỗ, khiến chúng ta bị lạc lối hoặc nấn ná trước lời mời gọi sống thánh. Cái cám dỗ lớn nhất có lẽ là cái cám dỗ làm nhụt chí, nản lòng, khi chúng ta tự nói rằng: việc nên thánh là của ông kia bà nọ, của ai đó, chứ không phải của tôi! Lời thánh Augustinô là một khích lệ lớn cho chúng ta: "Ông kia bà nọ nên thánh, tại sao tôi lại không? ". Chúng ta hãy noi gương các Thánh là những người anh em, bạn bè, ân nhân đã đi trước chúng ta và giờ đây đang phù trợ cho chúng ta trước tôn nhan Thiên Chúa.

Điều làm cho chúng ta phấn khởi là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.

Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta cách : "hãy cố lên! " Ai trong chúng ta cũng phải cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7, 9) nên chúng ta hy vọng chắc mình sẽ làm thánh nếu ta thực hành Lời Chúa dạy.

Thôi, chúng ta phải nên thôi, vì Chúa mời gọi chúng ta nên giống Ngài : "Các người hãy Thánh, vì Ta là Thánh" (Lv 19,2). Công Ðồng Vatican II cũng khẳng định là ơn gọi của mọi người tín hữu là nên thánh. Vậy, hãy can đảm từ chối những lời ngọt ngào giả tạo, và quyết tâm sống theo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô và Tám Mối, chúng ta sẽ là những vị thánh như Các Thánh mà Giáo hội mừng kinh hôm nay.

Nguyện xin Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Ðấng trọn vẹn thánh thiện, làm cho chúng ta trở thành những môn đệ trung thành của Chúa Giêsu Con Mẹ. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Lễ các Thánh Nam Nữ
Lm Jude Siciliano OP
15:48 29/10/2018
Khải huyền 7: 2-4, 9-14; Psalm 23; I Gioan 3:1-3; Mátthêu 5:1-12

Có một nhóm giáo dân hăng hái giúp các trẻ em bị khuyết tật. Họ tổ chức trại hè, các chuyến du ngoạn, các lớp học bổ túc, Thánh lễ và các sinh hoạt phụng vụ khác. Họ thường gởi một bức thơ qua máy vi tính cho những người bảo trợ và những người quan tâm đến công việc họ đang làm. Bức thơ được mở đầu bằng câu "CÁC VỊ THÁNH THÂN MẾN". Tôi thường cảm thấy hơi khó chịu khi đọc lời chào nầy trong bức thơ đó. Tôi nghĩ, họ có thể là thánh, chứ tôi thì còn lâu đấy!

Nhưng, trong giáo hội tiên khởi, từ "THÁNH” được dùng để mô tả những người gia nhập vào giao ước với Thiên Chúa qua Chúa Kitô. Giáo Hội có quy chế nghiêm ngặt để xác định ai là những người được gọi là "thánh" (Hôm 14 tháng 10 vừa qua, Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero và Đức Giáo Hoàng Piô thứ VI được phong thánh ở Rôma) Nhiều vị thánh được ghi tên vào niên lịch phụng vụ. Nhưng, cho dù khi chúng ta kính các "thánh được ghi trong lịch", chúng ta cũng không quên nghĩ đến bản tính và địa vị mà chúng ta đang được lãnh nhận như sách Khải Huyền mô tả là "Máu của Con Chiên", là sự sống sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô. Máu Chúa Kitô sống lại đang lưu thông trong huyết mạch của chúng ta, và chúng ta có thể thật lòng gọi anh em chúng ta là "thánh". Làm như thế chúng ta không nghĩ là chúng ta đã làm gì để đáng được hưởng điều đó, nhưng là chúng ta được hưởng qua ơn thánh sủng. Chúng ta được gọi nên thánh bởi Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban cho ơn huệ cần thiết để sống một đòi sống thánh thiện.

Có một sách trong Kinh Thánh mà giáo dân và ngay cả những người thường xuyên đọc kinh thánh thường it khi đọc đó là sách Khải Huyền. Có người nói "sách đó lạ lùng thật! Ai có thể hiểu được những hình ảnh và những tạo vật nêu tên trong đó?" Ngay cả thời nay, đọc sách Khải Huyền có những chi tiết lạ lùng làm người đọc khó hiểu và cần phải luận về từ ngữ trong văn học.

Một thiếu niên, trong lễ Các Chư Thánh, bỗng nhiên làm tôi phải ngừng lại trong khi giảng, vì đưa ra một hình ảnh thật là kỳ lạ. Sao các áo dài trắng được giặt trong "máu của Con Chiên" mà lại không trở thành màu máu đỏ? Tôi không thể nghĩ ra điều đó và tôi để các chuyên viên về Kinh Thánh giảng giải. Đáng lẽ tôi phải suy nghĩ về sách Khải Huyền lúc tôi học trung học trong lớp khoa học vật lý. Nhưng, suy nghĩ bài sách này trong lớp Văn Chương Anh 101 thì mới đúng. Sách Khải Huyền là Văn Chương Cánh Chung, và có nhiều điều liên hệ đến thơ văn hơn là khoa học.

Vào cuối thế kỷ thứ nhất, giáo hữu bị bách hại nhiều dưới thời vua Domitian. Có người đã bị cám dỗ là nên bỏ Chúa. Tác giả dùng lời văn thi thơ trong sách Khải Huyền nói một điều khác hẳn. Thị kiến về lời hứa một tương lai sáng chói cho những ai trung kiên với Con Chiên Vinh Quang không chỉ là phần thưởng cho tương lai, nhưng ngay cả bây giờ chúng ta cũng được chia sẻ sự thánh thiên của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô. "CÁC THÁNH THÂN MẾN" có thể đúng là lời gọi những người trong chúng ta cùng nhau thi hành phụng vụ hôm nay. Chúng ta là Thánh vì chúng ta được Thiên Chúa "yêu thương" vô cùng. Áo rửa tội của chúng ta được nên trắng bởi quyền năng sự sống của Chúa Giêsu, chính bởi máu thánh của Ngài đang thẫm thấu trong đời sống chúng ta.

Tôi thích một câu chuyện ở trường tiểu học: Một cô giáo lớp hai dạy giáo lý. Cô ta hói các học sinh. "Các vị Thánh là ai?". Một em bé gái nhớ đến những tấm kính màu có hình trong nhà thờ giáo xứ trên các ô cửa kính, đưa tay trả lời "Thánh là những người mà ánh sáng chiếu rọi qua" Ánh sàng lớn chiếu rọi qua các cửa sổ kính của nhà thờ. Ánh sáng chiếu qua các kính đủ màu sắc. Tiểu sử các thánh đó cho chúng ta biết là không có thánh nào giống thánh nào. Chúng ta có thể nói là trong nhà Thiên Chúa không có thánh sinh đôi. Bởi mỗi người có ánh sánh chiếu độc nhất vào trong một nhay nhiều nơi tối tăm u ám của thế giói.

Vì ánh sáng đó quá rực rỡ, chúng ta nuôi dưỡng bằng cách đưa lên cửa sổ để tất cả mọi người đều trông thấy và có hy vọng ghi lại trong chúng ta ơn nhận biết. Nếu Thiên Chúa chiếu ánh sáng như thế qua Đức Nữ Maria. thánh Giuse, thánh Đaminh, thánh Catherine Siena, thánh Phanxicô, thánh Clara, thì Thiên Chúa cũng có thể chiếu ánh sáng như thế qua chúng ta. Thiên Chúa có thể gìn giữ chúng ta để có năng lực qua những lúc bị bách hại, những lúc do dự; cho chúng ta can đảm khi bị thử thách; cho chúng ta biết thông cảm với người yếu đuối; cho chúng ta khôn ngoan với người tìm kiếm; cho chúng ta can đảm lên tiếng khi người khác phải im lặng; cho chúng ta không ra mặt khi chúng ta làm việc thiện; cho chúng ta kiên nhẫn khi bị chống đối không ngừng; cho chúng ta biết bênh vực lẻ công chính khi thế giới bỏ quên và đàn áp những người ở bên lế; cho chúng ta có sức mạnh và hiền lành đối đáp với những gì chống đối phúc âm.

Tôi tìm được danh sách các đức tính của các thánh ở đâu? Tôi nghĩ danh sách đó vẫn chưa đủ, nhưng tôi viết lên những đức tính đó khi tôi nghĩ đến các thánh thân mến của tôi như tôi đã nói ở trên. Đó là nhứng thánh lớn với chữ "T". Nhưng tôi cũng nghĩ đến các thánh nhỏ với chữ " t " mà tôi biết và yêu mến, cảm phục. Các thánh đó nhắc tôi nhớ điều gì có thể thực hiện trong đời sống nhỏ bé riêng biệt của tôi. Tôi chắc các bạn cũng có những thánh các bạn yêu mến, và có thể kể ra danh sách các đức tính đã làm các vị đó nên thánh. Khi nào các bạn kể ra các đức tính, các bạn sẽ thấy là các đức tính đó phù hợp với các điều Chúa Giêsu nêu ra trong phúc âm là: Các Mối Phúc Thật.

Các Mối Phúc Thật không phải là danh sách những điều răn chúng ta phải thực hành nếu chúng ta muốn theo Chúa Giêsu. Trái lại, các Mối Phúc Thật đó cho chúng ta biết chúng ta phải sống như thế nào nếu Chúa Giêsu là nguồn gốc đời sống của chúng ta. Vì Chúa Giêsu mà chúng ta được "chúc phúc". Đời sống của chúng ta là hình ảnh của sự thay đổi tận thâm tâm trong chúng ta bỏi thành quả của ơn thánh sủng cúa Chúa Giêsu. Ơn thánh đó giúp chúng ta: được nghèo khó trong tâm hồn, được hiền lành, được biết thương xót, được biết xây dựng hòa bình v.v.

Trong bài đọc thứ hai, thánh Gioan nói một cách khác "bây giờ chúng ta là con của Thiên Chúa" Lễ hôm nay là Thánh lễ của thực tại, về sự kết hợp giữa chúng ta với nhau và "cộng đoàn rộng lớn của các chứng nhân đã sống trước chúng ta". Lễ hôm nay nhắc chúng ta về những người bây giờ đang ngắm nhìn ánh sáng chói lòa của Thiên Chúa. Chúng ta hiệp thông với họ qua lời cầu nguyện và hoài niệm. Và cũng vì đời sống của họ giúp chúng ta hy vọng sống nên thánh cho chúng ta.

Tôi có một cháu gái 4 tuổi. Cháu vẻ cho tôi hình của tôi và nói "đây hình của Chú Jude". Đường vẻ bằng viết chì đơn giản vẻ tôi có khuôn mặt tròn, hai mắt mở lớn, nụ cười lớn, tai lắng nghe và hai cành tay dang rộng. (cháu sữa cả những đốm đen nhám trên nét mặt tôi). Một nhà tâm lý học có thể nói: đó là hình vẻ của một em bé mạnh khỏe và vững vàng. Tôi có thể nói thêm là cháu tôi nhìn tôi với một cặp mắt tốt đẹp về tôi đối với cháu. Tôi cũng có thể nói thêm là cháu vẻ hình tôi theo như Thiên Chúa trông thấy tôi - với ơn thánh sủng, thành quả của hành động của Thiên Chúa.

Lần sau khi tôi được bức thơ "Các Vị Thánh Thân Mến" trên máy vi tính, tôi sẽ không cảm thấy khó chịu, tôi sẽ nói "đúng thế" vì ơn thánh của Thiên Chúa đã hành động trong tôi, và Thiên Chúa không bỏ tôi cho đến khi tôi về đến nhà tôi. Một ngày nào, ở nơi đó, tôi sẽ gặp tất cả các thánh như trên các kính hình màu. Tôi cũng sẽ gặp tất cả các thánh khác không ít thánh thiện đâu, tất cả đám đông mà không ai có thể đếm được. Chúng ta đã là các thánh của Thiên Chúa, không phải vì chúng ta được thưởng hay vì chúng ta sống một đời sống không vương vấn tội lỗi, nhưng vì lòng thương xót của Thiên Chúa đã chiếu dọi qua Chúa Giêsu. "Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta". Khi thánh Phaolô viết trong các thơ gọi các tín hữu là các thánh, thánh Phaolô không chỉ nói về vinh quang của họ trong tương lai mà vinh quang ngay hôm nay.

Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP


FEAST OF ALL SAINTS
Rev. 7: 2-4, 9-14; Psalm 24; I John 3:1-3; Matthew 5:1-12

There is a group of diligent lay Christians who minister to children with physical handicaps. They provide opportunities for summer camp, field trips, classes, periodic worship services and Masses. They have a newsletter which they e-mail to a list of benefactors and people interested in their ministry. It’s in the form of a letter and begins, “Dear Saints.” I squirm a bit whenever I receive that salutation from them. They may be saints; but me? It’s too soon!

But the title “saints” was used in the early church to describe those called and in covenant with God through Christ. The church has an elaborate and careful process to determine whom we officially call “Saints.” (On October 14, 2018, Archbishop Oscar Romero and Pope Paul VI were canonized in Rome.) Many of these we incorporate into our liturgical calendar. But even as we venerate certain “acknowledged” Saints, let’s not dismiss our own identity and dignity received through, what the Book of Revelation describes as, “the Blood of the Lamb ” – the life, death and resurrection of Christ. His risen life blood flows in our veins and so we can truthfully call each other “saints.” In doing so we would not be claiming anything we have done or deserve for ourselves, but have received through the gift of grace. We have been called to holiness by God and are given the gifts we need to live holy, sainted lives.

If there is one biblical book even regular readers of the Scriptures tend to avoid, it is the Book of Revelation. Someone said, “It’s so bizarre! Who can understand those hallucinatory images and strange creatures?” Even today’s reading from Revelation has strange details that could confuse the modern reader’s need for literal exactness.

As a teenager at Mass on this feast I would be stopped dead in my tracks by what seemed an obvious absurdity. How could those wearing robes get them white by washing them “in the Blood of the Lamb?” Wouldn’t that turn them red? I couldn’t get my mind around that image and figured, I’d leave the interpretation to some Bible scholars. I should have reflected on this reading not as a high school student in a physics class, but as a reflective reader in English Literature 101, because the Book of Revelation is apocalyptic literature and has more in common with poetry than science.

Towards the end of the first century Christians were under the severe persecution of Domitian and were tempted to feel abandoned by God. In his poetic style the author tells them – “Quite the contrary.” This vision is a promise of future glory for those who remain faithful to the Lamb. Glory isn’t only a future reward, but even now we share in God’s holiness through Jesus Christ. “Dear Saints” might well be the perfect appellation for those of us gathered in worship today; so saints we are, because we are held “dear” by our God. Our baptismal robes are made white by the life force of Jesus, his blood, at work in our lives.

I like this grammar school story. A religion teacher asked her second-grade class, “What’s a saint?” A little girl, probably remembering the stained glass images in her parish church responded, “Saints are the people the light shines through.” The big or “public lights” are up there in the church windows. Their light shines through in a rainbow of colors. Their biographies tell us that no two were the same. You can say: there are no identical twins in God’s house. Each shone their unique light in one or many dark places in the world.

Because their light has been so brilliant, we raise them up for all to see so that the rest of us can be enlightened and have hope. If God could shine such light through Mary, Joseph, Dominic, Catherine of Siena, Francis and Clare, then God can do that even in us! Keep us: strong in times of trials and doubts; courageous when challenged; compassionate to the broken; wise for those who are searching; outspoken when others hold a fearful silence; anonymous in performing loving deeds; persevering when struggles will not just evaporate; defending justice when the world ignores or presses down those on the margins; gentle and strong in the face of what opposes the gospel.

Where did I get that list of saintly virtues? I grant that it is incomplete, but I came up with it when I reflected on the lives of my favorite Saints – like the ones I named above. They are the “Big S” – Saints. But I also reflected on the “little s” saints I have known and loved and frequently felt in awe of. They remind me what is possible in my small, particular, daily life. I am sure that you have your favorites and are able to draw up your own list of the virtues that make a saint. When you make your own list you will find it parallels what Jesus enumerated in today’s gospel – the Beatitudes.

The Beatitudes aren’t a list of commandments we have to live by if we want to follow Jesus. Instead, they show how we can live when the source of our life is Jesus. Because of him we are “Blessed,” our lives reflect a profound change in us, the result of his grace, which enables us to be: poor in spirit, gentle, merciful, peacemakers, etc.

In our second reading, John puts it another way “... we are God’s children now.” This feast is about Now; about our union with one another and the great “cloud of witnesses” who have preceded us. Today’s feast reminds us of those who are now gazing on God’s brilliance and that we are in communion with them through our prayers and memory. And, because of their lives, we can have hope for our own!

My four-year old grandniece gave me a drawing she made of me. “Here, Uncle Jude, this is for you.” The simple pencil-stick work of art made me look good, with a round warm face, wide-open eyes, a huge smile, listening ears and outstretched arms. (She even filled in my bald spots!) A psychologist would say, “That’s a drawing of a healthy and secure child.” I would add that my little niece has a touching and wonderful view of who I am to her right now. I would also say, she’s drawing me as God sees me – graced – the fruit of God’s handiwork.

The next time I get that “Dear Saints” e-mail, instead of squirming, I’m going to say, “Right On!” – because God’s grace is already at work in me and God isn’t going to give up on me until I get to my proper home. There, someday, I’m going to meet all the stained glass Saints in the flesh. I’m also going to meet all the others – no-less-holy, saints, “the great multitude which no one can count.” We are already the saints of God, not because we have earned a great reward or have gone through life unblemished by sin, but because of the mercy of God manifested in Jesus. “Salvation comes from our God, who is seated on the throne and from the Lamb.” When Paul addressed the Christians as the saints in his epistles, he was not only talking about their future glory, but their present status.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Phiên họp cuối cùng của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên
Đặng Tự Do
17:58 29/10/2018
Trong phiên họp cuối cùng của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên, Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên tiếng kêu gọi tất cả những người Công Giáo hãy bảo vệ Giáo Hội khỏi những tấn kích bởi những người bị ảnh hưởng bởi ma quỷ đang tìm cách tiêu diệt Giáo Hội.

Đức Thánh Cha đã cám ơn các thành viên của Thượng Hội Đồng, các quan sát viên và các chuyên gia sau cuộc bỏ phiếu về tài liệu cuối cùng. Ngài nói thêm rằng dù các tín hữu trong Giáo Hội là những người tội lỗi, “Giáo Hội mẹ của chúng ta là thánh thiện”. Tuy nhiên, ma quỷ thường lợi dụng tội lỗi của chúng ta để tấn Công Giáo Hội.

Ở một số nơi trên thế giới, các Kitô hữu đang bị bách hại vì đức tin vào Chúa Giêsu. Đồng thời lại có “một hình thái bách hại khác – đó là những cáo buộc liên tục – nhằm bôi nhọ Giáo Hội. Giáo Hội không thể bị bôi nhọ. Con cái Giáo Hội, là tất cả chúng ta đều dơ bẩn, đúng thế, nhưng Mẹ Giáo Hội thì không. Vì thế, đây là thời gian chúng ta phải bảo vệ Mẹ mình”

“Đây là một thời điểm khó khăn, bởi vì qua chúng ta, ma quỷ muốn tấn công Mẹ Giáo Hội.”

Trước khi kết thúc cuộc họp cuối cùng của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đức Hồng Y Louis Raphael Sako, là Thượng Phụ Công Giáo nghi lễ Chanđê thành Babylon, phát biểu rằng Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên “là một ân sủng cho chúng ta và cho toàn thể Giáo hội.”

Đức Hồng Y Sako cũng kêu gọi Đức Giáo Hoàng, các thành viên của Thượng Hội Đồng Giám Mục và những người trẻ đừng quên hoàn cảnh của các Kitô hữu ở Trung Đông.

“Nếu Trung Đông không còn các Kitô hữu nữa, Kitô giáo mất đi vùng đất căn cội của mình. Chúng tôi cần sự hỗ trợ nhân đạo và tinh thần của quý vị cũng như tình đoàn kết, tình bạn và sự gần gũi của quý vị cho đến khi cơn bão này tan biến.”

Đức Thượng Phụ cũng nhắc lại sự ủng hộ của các giám mục trên thế giới dành cho Đức Thánh Cha Phanxicô. Trích dẫn một phương ngôn Ảrập, Đức Hồng Y Sako nói với Đức Thánh Cha rằng “cây nào trổ sinh hoa trái thì thường bị ném đá.”

“Hãy tiến lên với sự dũng cảm và tín thác,” ngài nói với Đức Giáo Hoàng. “Con thuyền của Phêrô không giống như các thuyền khác. Con thuyền của Phêrô, bất chấp những cơn sóng, vẫn vững chắc bởi vì Chúa Giêsu ở trong con thuyền ấy, và Ngài sẽ không bao giờ rời bỏ nó.”

Đức Hồng Y Lorenzo Baldisseri, tổng thư ký của Thượng Hội Đồng Giám Mục, cũng bày tỏ “tình cảm hiếu thảo và sự gắn bó sâu sắc đối với sứ vụ Phêrô” của Đức Thánh Cha.

Phát biểu với những người trẻ có mặt trong Thượng Hội Đồng Giám Mục với tư cách là các quan sát viên, Đức Hồng Y Baldisseri cảm ơn họ vì “sự hiện diện, những đóng góp, những ý kiến và những đề xuất của họ. Họ đã cho chúng ta thấy sự tươi trẻ của tuổi trẻ, sự quảng đại, trí tưởng tượng và sự tháo vát của họ. “

Trong một phát biểu ứng khẩu, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng cám ơn những người nam nữ trẻ có mặt trong Thượng Hội Đồng Giám Mục “để mang âm nhạc của họ đến đây cho chúng ta trong hội trường này.”

Một nhận xét bông đùa của Đức Thánh Cha đã khiến những người hiện diện bật cười và vỗ tay:

“Âm nhạc là từ ngữ ngoại giao để nói về sự náo động”.

Đức Thánh Cha nói thêm rằng “Thượng Hội Đồng này không phải là một quốc hội” mà là “một không gian được bảo vệ trong đó Chúa Thánh Thần tác động”.

Thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên không chỉ là một tài liệu cuối cùng cho người Công Giáo trên khắp thế giới, mà còn là một công việc của Chúa Thánh Thần trước tiên “làm điều gì đó nơi chúng ta, và phải tác động trong chúng ta.”

“Chúng ta là những người đón nhận tài liệu cuối cùng. Tài liệu này chủ yếu là cho chúng ta. Vâng, tài liệu sau cùng sẽ giúp cho nhiều người khác, nhưng chúng ta là những người được đón nhận đầu tiên. Chúa Thánh Thần đã làm điều này giữa chúng ta. Xin đừng quên điều này.”

“Chính Chúa Thánh Thần đã ban cho chúng ta tài liệu này, cho tất cả chúng ta, kể cả bản thân tôi, để chúng ta suy ngẫm về những gì Ngài muốn nói với chúng ta.”


Source: Catholic Herald - Defend Church from those who seek to destroy it, Pope says at synod
 
Tuyên bố của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ về vụ thảm sát người Do Thái tại Pittsburgh
Đặng Tự Do
18:27 29/10/2018
Mười một người đã bị thiệt mạng và một số người khác bị thương sau vụ thảm sát tại hội đường Do Thái ở Squirrel Hill, Pittsburgh vào sáng thứ Bảy 27/10.

Theo báo cáo của cảnh sát, hung thủ, Robert Bowers, 48 tuổi, đã bước vào tòa nhà và hét lên: “Tất cả người Do Thái phải chết hết.”

Bowers trang bị một khẩu tiểu liên tự động AR-15 và ba khẩu súng lục.

Cảnh sát được báo cáo về vụ tấn công vào khoảng 9 giờ 45 giờ sáng và đã đến hiện trường trong vòng một phút.

Khi cảnh sát đến, hung thủ đã giao tranh với họ, và bắn bị thương 4 người cảnh sát. Bowers được tường thuật là đã cố gắng thoát khỏi tòa nhà nhưng gặp phải một viên cảnh sát mặc đồng phục nên y quay trở lại bên trong và tiếp tục chiến đấu cho đến khi bị bắn hạ và bị bắt ở tầng thứ ba của tòa nhà.

Sau khi được tường trình về biến cố bi thảm này, Đức Hồng Y Daniel N. DiNardo của Galveston-Houston, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ, đang có mặt tại Vatican để tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên đã đưa ra tuyên bố sau kêu gọi cầu nguyện cho các nạn nhân và đòi hỏi những người có trách nhiệm phải có những hành động cụ thể để chấm dứt bạo lực súng đạn.

Dưới đây là toàn văn bản tuyên bố của ngài:

“Bạo lực sáng hôm nay, một lần nữa, đã xảy ra tại một trong những cộng đồng của chúng ta, lần này ở Pittsburgh, Pennsylvania. Nhiều người đã mất mạng trong một cuộc tấn công tại hội đường Do Thái Tree of Life. Chúng tôi đứng bên cạnh các bạn, những anh chị em Do Thái của chúng tôi. Chúng tôi lên án tất cả các hành vi bạo lực và thù hận, và lại một lần nữa mời gọi quốc gia và các viên chức công quyền của chúng ta đối diện với tai ương của bạo lực súng đạn. Bạo lực được dùng để giải quyết các dị biệt về chính trị, chủng tộc, và tôn giáo cần phải được đối phó với tất cả các nỗ lực có thể được. Thiên Chúa không dung thứ cho bất kỳ hình thái bạo lực nào. Ngài khẩn khoản yêu cầu mọi người chúng ta quay lại với cộng đồng nhân loại như những con cái của Ngài.

Tôi phó dâng lên Chúa chúng ta những nạn nhân, bao gồm cả những người ứng cứu ban đầu, và xin ơn an ủi cho gia đình họ. Cầu xin Thiên Chúa Toàn Năng ở bên họ và mang đến cho họ niềm ủi an vào thời điểm bi thảm này.”


Source: USCCB - President of U.S. Bishops' Conference Issues Statement Following Shooting in Pittsburgh
 
Phản ứng của Đức Thánh Cha và tổng thống Donald Trump về vụ tàn sát người Do Thái
Đặng Tự Do
20:13 29/10/2018
Đức Thánh Cha Phanxicô đã phó dâng linh hồn các nạn nhân của vụ thảm sát tại hội đường Do Thái ở Pittsburgh và bày tỏ về sự gần gũi của ngài với cộng đồng Do Thái trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 28 tháng 10 với khoảng 10 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Ðức Thánh Cha nói:

“Tôi bày tỏ sự gần gũi với thành phố Pittsburg ở Mỹ, và đặc biệt là với cộng đoàn Do thái, bị thương tổn hôm 27 tháng 10 vì một cuộc khủng bố kinh hoàng tại hội đường Do thái. Xin Ðấng Tối cao đón nhận những người quá cố vào trong an bình của Chúa, an ủi gia đình họ và nâng đỡ những người bị thương. Trong thực tế, tất cả chúng ta đều bị thương tổn hành vi bạo lực vô nhân đạo này. Xin Chúa giúp chúng ta dập tắt ngọn lửa oán thù đang bùng lên trong các xã hội chúng ta, củng cố ý thức nhân đạo, tôn trọng sự sống, các giá trị luân lý và dân sự, và sự kính sợ Thiên Chúa là Tình Thương và là Cha của tất cả mọi người”.

Phản ứng trước vụ thảm sát này tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump nói:

“Chúng ta phải đứng về phía các anh chị em Do Thái của chúng ta để đánh bại chủ nghĩa bài Do Thái và đánh bại các thế lực thù hận. Phải như thế. Qua nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải chịu đựng sự bách hại khủng khiếp. Các bạn biết điều đó. Chúng ta đều đã đọc qua. Chúng ta đều đã được học về điều này.”

Đối với tay súng bị bắt và những người khác mưu toan tấn công tín hữu các tôn giáo, tổng thống nói, “chúng ta phải tái lập án tử hình. Họ phải trả giá tới cùng. Họ không thể làm như thế. Họ không thể làm điều này trên đất nước chúng ta. Chúng ta phải vạch ra một giới hạn và khẳng định dứt khoát : Không bao giờ nữa.”

Phát ngôn viên Nhà Trắng Sarah Sanders thông báo hôm thứ Hai rằng tổng thống Trump và đệ nhất phu nhân Melania Trump dự định đến thăm Pittsburgh vào ngày thứ ba để “bày tỏ sự ủng hộ của người dân Mỹ và nỗi đau buồn với cộng đồng Pittsburgh.”

Tuy nhiên, 11 nhà lãnh đạo Do Thái trong vùng, tức giận vì lập trường không cấm mua bán súng ống của tổng thống Trump, đã tuyên bố rằng tổng thống không nên đến.
 
Thượng Hội Đồng 2018: Đức Phanxicô tuyên bố: qủi dữ đang tấn Công Giáo Hội
Vũ Văn An
20:58 29/10/2018
Inés San Martín của tạp chí Crux, tường thuật về ngày nhóm họp cuối cùng, 27 tháng Mười, của Thượng Hội Đồng về tuổi trẻ, đã nhấn mạnh đến việc Đức Phanxicô nhận định rằng Giáo Hội hiện đang bị ma qủy tấn công và thúc giục các giám mục hoàn cầu phải bảo vệ Giáo Hội vì “ngươi không đụng đến một người mẹ”.



Ngài nói rằng “Mẹ chúng ta, [Giáo Hội] thánh thiện, nhưng chúng ta là con cái, chúng ta là những kẻ tội lỗi. Tất cả chúng ta đều có tội. Đừng quên lời phát biểu sau đây của các giáo phụ: Giáo Hội thánh thiện, Mẹ thánh thiện, với đàn con tội lỗi”.

Ngài nói tiếp “vào lúc này, [ma qủy] đang tố cáo chúng ta cách rất hung hăng. Là lời tố cáo này đang trở thành cơn bách hại”. Cơn bách hại này có thể là bạo lực chống các Kitô hữu như đang diễn ra tại Trung Đông. Mà cũng có thể là “những lời tố cáo liên hồi làm nhơ bẩn Giáo Hội”.

Đa số các quan sát viên cho rằng ngài ám chỉ đến cuộc khủng hoảng giáo sĩ lạm dụng tình dục. Ngài nhấn mạnh: “Giáo Hội không dơ bẩn. Con cái thì có, nhưng người mẹ thì không. Đây là giờ phút phải bảo vệ người mẹ bằng lời cầu nguyện. Đây là giờ phút khó khăn, vì qua chúng ta, tên tố cáo vĩ đại [ma quỉ] muốn tấn công người mẹ. Và ngươi đừng đụng đến một người mẹ”.

Nhận định ứng khẩu và vắn vỏi trên đây của ngài diễn ra lúc khoảng 8 giờ tối sau cuộc bỏ phiếu dài cả ngày để thông qua tài liệu sau cùng với đa số phiếu thuận lợi.

Nhân dịp này, ngài cho hay có hai điều thuộc Thượng Hội Đồng khiến ngài ghi nhận. Điều thứ nhất, Thượng Hội Đồng không phải là 1 nghị viện và những gì diễn ra trong đó đều “được bảo vệ”, nghĩa là không được chia sẻ hoàn toàn với thế giới bên ngoài, để “Chúa Thánh Thần có thể hành động”.

Điều thứ hai, kết quả của Thượng Hội Đồng là “một tài liệu” có thể có mà cũng có thể không ảnh hưởng gì tới bên ngoài phòng Thượng Hội Đồng, “nhưng nó phải có một tác dụng đối với chúng ta. Nó phải có hiệu lực trong chúng ta”.

Ngài giải thích: cử tọa chính của tài liệu là các tham dự viên của Thượng Hội Đồng; nay, họ được mời gọi nghiên cứu nó, cầu nguyện trên nó, và để “Chúa Thánh Thần làm việc trong cõi lòng ta”.

San Martín cũng lưu ý tới phát biểu của Thượng Phụ Sako. Ngài kêu gọi các người hiện diện nhớ đến nỗi đau khổ của các Kitô hữu Trung Đông: “nếu Trung Đông mất các Kitô hữu, Kitô Giáo sẽ không còn gốc rễ. Chúng tôi cần sự hỗ trợ nhân đạo và thiêng liêng của quí vị và tình liên đới, tình bằng hữu và sự gần gũi của quí vị cho tới lúc bão tố qua đi”.

Thượng Phụ nhấn mạnh đến tính cộng đồng (synodality), cho rằng nó chỉ có trong Giáo Hội Công Giáo “chúng ta hợp nhất bất kẻ các khác biệt theo xứ sở, ngôn ngữ, văn hóa, vì Chúa Kitô hợp nhất chúng ta và sai chúng ta đi với cùng sứ mệnh là công bố Tin Mừng và phục vụ các anh chị em của chúng ta một cách vui vẻ và phấn khích”.
 
ĐTGM Charles J. Chaput: Thượng Hội Đồng Giám Mục 2018: Một số ý nghĩ tổng kết
J.B. Đặng Minh An dịch
22:40 29/10/2018
Đức Tổng Giám Mục Charles Chaput của Philadelphia là một trong các nghị phụ của Hoa Kỳ tại Thượng Hội Đồng Giám Mục về “người trẻ, đức tin và sự phân định ơn gọi” vừa diễn ra ở Rôma từ 3 đến 28 tháng 10.

Ngài đã chia sẻ một vài ý kiến về Thượng Hội Đồng Giám Mục này trong bài "Synod 2018: Some Concluding Thoughts" (Thượng Hội Đồng Giám Mục 2018: Một số ý nghĩ tổng kết) được đăng trên First Things hôm 29 tháng 10, 2018.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây: Synod 2018: Some Concluding Thoughts.

Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.


Thượng Hội Đồng Giám Mục 2018: Một số ý nghĩ tổng kết
Đức Tổng Giám Mục Charles J. Chaput.


Các Thượng Hội Đồng Giám Mục là những biến cố quan trọng trong đời sống của Giáo Hội, nhưng thảo luận ròng rã gần bốn tuần như vậy thì bất kỳ chủ đề nào cũng đều có thể trở nên mệt mỏi. Thật là tốt khi được về nhà, và tôi biết ơn tất cả những người đã cầu nguyện và ủng hộ cho sự thành công của cuộc họp. Như trong quá khứ, các nghị phụ đã bỏ phiếu từng đoạn một về Tài Liệu Sau Cùng, và như hầu hết các nghị phụ, tôi đã bỏ phiếu “thuận” cho hầu hết các đoạn văn.

Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên có những vấn đề của nó: đáng chú ý nhất là một sự mơ hồ về các quy tắc và tiến trình, và sự thiếu sót các bản dịch cần thiết. Nhưng Tài Liệu Sau Cùng, dù có những sai sót riêng nhất định của nó, vẫn là một cải tiến so với Tài Liệu Làm Việc. Các đại biểu cũng bầu một số người tốt lành cho Ủy ban Thường trực của Thượng Hội Đồng Giám Mục. Điều đó có ý nghĩa đầy hy vọng cho tương lai.

Tuy nhiên, trước khi chúng ta chuyển sang các vấn đề khẩn cấp hơn của một Giáo hội địa phương, tôi muốn đề cập đến một vài việc một cách đơn sơ trung thực. Vào ngày 27 tháng 10, trong một cuộc phỏng vấn với Frank Rocca của tờ Wall Street Journal, tôi đã nói như sau, và tôi muốn lặp lại nó ở đây.

Về vấn đề lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên:

Có một số những thảo luận tốt [giữa các nghị phụ] về vấn đề này, mặc dù chưa đầy đủ, và Tài Liệu Sau Cùng của Thượng Hội Đồng, nói một cách thẳng thắn, là đầy thiếu sót và đáng thất vọng về vấn đề lạm dụng. Các nhà lãnh đạo Giáo hội, bên ngoài Hoa Kỳ và bên ngoài một số nước đang phải đối phó với vấn nạn này, rõ ràng không hiểu phạm vi và tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Có rất ít cảm thức xin lỗi chân thành trong văn bản. Và chủ nghĩa giáo sĩ trị, chẳng hạn, tuy là một phần của vấn đề lạm dụng, nhưng dù thế đi chăng nữa, nó không phải là vấn đề trung tâm đối với nhiều người giáo dân, đặc biệt là các bậc cha mẹ. [Chú thích của người dịch: Tội ác lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên diễn ra chủ yếu trong bối cảnh gia đình. “Chính trong bối cảnh gia đình, lạm dụng tình dục và bạo lực là những vấn nạn trầm trọng nhất. Nhưng đó là một vấn đề ít được đề cập đến.” (Diễn từ của bà Nikki Haley, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, nguyên thống đốc bang Carolina). Những bậc cha mẹ lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên hiển nhiên không phải là giáo sĩ. ]

Liên quan đến giáo huấn của Giáo hội về tính dục:

Chìa khóa cho tất cả các cuộc tranh luận liên quan đến tính dục là nhân chủng học. Một trong những vấn đề tế nhị và đáng quan ngại là, ở các giai đoạn thảo luận khác nhau, văn bản của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên đề cập đến nhu cầu phải ‘làm sâu sắc’ hoặc ‘phát triển’ sự hiểu biết của chúng ta về các vấn đề nhân chủng học. Rõ ràng chúng ta có thể, và nên, luôn luôn cầu nguyện nhiều hơn và suy tư sâu xa hơn về các vấn đề phức tạp của con người. Nhưng Giáo Hội đã có một nền nhân chủng học Kitô rõ ràng, phong phú và mạch lạc. Thật là vô ích khi tạo ra những hoài nghi hoặc những mơ hồ xung quanh những vấn đề về bản sắc, mục đích và tính dục của con người, trừ khi người ta muốn dàn cảnh để thay đổi những gì Giáo Hội tin và dạy về cả ba điều trên, bắt đầu với tính dục.

Đánh giá tổng thể kinh nghiệm về Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2018:

Nhiều giám mục đã thất vọng vì thiếu các bản dịch về những vấn đề quan trọng trước khi các ngài bỏ phiếu. Như một trong những nghị phụ tại Thượng Hội Đồng Giám Mục đã lập luận, thật là vô đạo đức khi bỏ phiếu ‘thuận’ về các vấn đề quan trọng nếu bạn chưa hề suy tư hay thậm chí chưa hề đọc qua xem nội dung của văn bản nói những gì. Rất nhiều đại biểu cũng rất kinh ngạc và không hài lòng với việc giới thiệu về tính công đồng (synodality) như một chủ đề trong một Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên. Nó không phù hợp một cách tự nhiên. Tính công đồng có những hệ quả quan yếu. Nó xứng đáng được suy tư thần học và thảo luận nghiêm túc giữa các giám mục. Điều đó đã không xảy ra, và điều này xem ra không phù hợp với một cuộc gặp mặt cùng nhau giữa Đức Thánh Cha và các giám mục trong tinh thần đồng đoàn.

Trong những tháng tới, tôi hy vọng tất cả chúng ta trong cộng đồng Công Giáo Mỹ sẽ cầu nguyện đặc biệt cho Đức Thánh Cha, cũng như cho sứ vụ của Giáo Hội khi Giáo Hội vạch ra đường hướng tương lai.


Source: Frist Things - Synod 2018: Some Concluding Thoughts
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ Thêm Sức tại Giáo họ Hà Phát, Hạt Hố Nai
Hoàng Bá Qúy
08:37 29/10/2018
Gp Xuân Lộc: Chiều Chúa Nhật 28 tháng 10 năm 2018, cộng đoàn giáo họ Hà Phát, giáo xứ Hà Nội, giáo hạt Hố Nai hân hoan chào đón Đức Cha Chánh Giuse Đinh Đức Đạo - Giám Mục Gíao Phận Xuân lộc về kinh lý mục vụ dâng thánh lễ tạ ơn và ban bí tích Thêm Sức cho 77 em thiếu nhi trong giáo họ.

Xem Hình

Đúng 15g30, chào đón Đức Cha tại cổng thánh đường có cha Gioan Vũ Xuân Nghị, Đặc trách Giáo họ Hà Phát, thầy xứ, quý dì, các em chịu phép Thêm Sức và cộng đoàn dân xứ.

Sau giây phút thinh lặng viếng Thánh Thể và tiến về hội trường, Đức Cha đã dành nhiều thời gian thăm hỏi cộng đoàn.

Lúc 16g15, Đức Cha và quý cha cùng đoàn rước là các em chịu phép Thêm Sức và quý chức tiến lên thánh đường. Thánh lễ do Đức Cha Giuse chủ tế, cùng đồng tế với ngài có Cha quản hạt kiên chánh xứ Hà Nội Giuse Phạm Sơn Lâm, Cha nguyên chánh xứ Hà Nội Đaminh Phạm Xuân Thảo, Cha đặc trách Giáo họ Gioan Vũ Xuân Nghị, quý cha thân hữu. Tham dự lễ ngoài các em chịu phép, cha mẹ đỡ đầu và quý phụ huynh còn có quý tu sĩ nam nữ, quý chức Ban Hành Giáo, đại diện các giới và cộng đoàn giáo dân trong giáo xứ.

Thánh lễ được cử hành nghiêm trang và sốt sắng.

Trước khi nhận phép lành cuối lễ, ông trưởng đại diện Ban Hành Giáo đại diện cho dân họ dâng lời cảm tạ lên Đức Cha. Em thiếu nhi đại diện cộng đoàn dâng lên Đức Cha những lẵng hoa tươi như tấm lòng của đoàn con thảo với chủ chăn của mình.

Trong phần ban huấn từ, Đức Cha nhắn nhủ dân họ luôn sống yêu thương. Vợ cHồng Yêu thương nhau, cha mẹ yêu thương con cái, con cái yêu thương cha mẹ, mọi người yêu thương nhau, yêu thương những người lân cận, hàng xóm và nhất là những anh chị em di dân, lương dân sống trong giáo họ.

Hướng về các em chịu phép Thêm Sức, Đức Cha Giuse muốn các em hứa sống như Sứ Giả Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Chúa: nơi gia đình đối với cha mẹ, ông bà, anh chị em và họ hàng; nơi trường học với thày cô, bạn học, đặc biệt với những thày cô và bạn học đau khổ và di dân, lương dân; nơi giáo họ và những người gặp gỡ với những cố gắng tham dự thánh lễ, chăm chỉ học hỏi giáo lý để hiểu biết và yêu Chúa hơn và các em thêm sức đã ba lần thưa "Thưa Xin Hứa" thật vang và quyết tâm.

Sau cùng, Đức Cha Giuse nhắc nhở các em hãy yêu mến Mẹ Maria qua việc lần chuỗi và tặng mỗi em chuỗi chục kinh mân côi trong lúc ca đoàn hát lời ca kính Đức Mẹ.

Sau lời chúc ban phép lành cuối lễ, cộng đoàn sốt sắng hát bài tạ ơn Chúa.

Nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn các em lãnh Bí Tích Thêm Sức hôm nay để các em trở thành Sứ Giả Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Chúa, trong môi trường sống bé nhỏ của mình.

LƯỢC SỬ GIÁO HỌ HÀ PHÁT.

Năm 1954, một số giáo dân dưới sự hướng dẫn của cha Phanxicô Xaviê Vũ Kim Loan di cư đến xã Hố Nai, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa sinh sống và thành lập Giáo xứ Hà Nội.

Năm 1956, cha Phaolô Nguyễn Quang Hiền kế nhiệm Cha Phanxicô Xaviê phụ trách Giáo xứ Hà Nội.

Năm 1970 do nhu cầu mở rộng Giáo xứ, cha đã cho san ủi khu vực quả đồi hoang sơ, để dân chúng ra lập nghiệp. Tuy nhiên, chưa được bao lâu, biến cố năm 75 xảy ra, cha Phaolô Nguyễn Quang Hiền đi định cư tại hải ngoại.
Sau biến cố này, cha Đaminh Trần Xuân Thảo tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm, Ngài thành lập giáo họ Thánh Giuse, tiền thân của Giáo họ Biệt lập Hà Phát ngày nay. Giáo họ thánh Giuse, cũng là khu thứ chín của Giáo xứ Hà Nội. Cha Đaminh đã khuyến khích giáo dân ra định cư làm ăn tại vùng đất này, ngài thành lập một khu rau xanh, và đặt tên là khu Phát Triển.

Trước khi nghỉ hưu, Cha Đaminh đã xin Tòa Giám Mục nâng giáo họ Thánh Giuse, thành Giáo họ Biệt Lập. Thánh lễ Noel đầu tiên, năm 2014, đã được cử hành nơi đây, do cha Giuse Dương Văn Đức, phó xứ Hà Nội.


Năm 2015, Cha Giuse Tạ Duy Tuyền, đã xin phép dâng thánh lễ vào chiều thứ bảy và sáng Chúa Nhật mỗi tuần, cũng thời gian này, tòa Giáo mục đã nâng giáo họ thánh Giuse thành giáo họ Biệt Lập Hà Phát.


Năm 2017, Cha Giuse Phạm Sơn Lâm được tòa Giám Mục bổ nhiệm làm chánh xứ Hà Nội, quản nhiệm giáo họ biệt lập Hà Phát, và đặt cha Gioan Vũ Xuân Nghị, làm phó xứ Hà Nội, đặc trách giáo họ Biệt Lập Hà Phát.

Tiếp nối công việc của các đấng đi trước, Cha Giuse và Cha Đặc trách đã cố gắng để có những nơi thờ tự, Nhà Thờ, nhà mục vụ, nhà giáo lý…và có những sinh hoạt phụng vụ như một Giáo Xứ.
(thông tin do Giáo họ Hà Phát cung cấp)

Truyền Thông Hố Nai.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Thánh Giá Trong Trời Đêm
Nguyễn Bá Khanh
08:15 29/10/2018
THÁNH GIÁ TRONG TRỜI ĐÊM
Ảnh của Nguyễn Bá Khanh
Dù cho đêm tối mịt mùng
Ngước trông thánh giá tận tường hướng đi.
(nbk)
 
VietCatholic TV
Khánh Thành Tượng Mẹ La Vang tại Kyriat Yearim, Do Thái, 18/10/2018
VietCatholic Network
00:24 29/10/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây


Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, sáng hôm nay ngày 18 tháng 10 năm 2018, chúng ta đã tham dự buổi lễ Khánh Thành Tượng Đài Đức Mẹ La Vang tại Nhà thờ Hòm Bia Giao Ước (Our Lady of the Ark of the Covenant Church) ở đồi Kyriat Yearim, Jerusalem, Do thái. Do Đức Tổng Giám Mục, Giuse Nguyễn Chí Linh chủ sự, có sự hiện diện của Đức Giám Mục Micae Hoàng Đức Oanh, hơn 100 linh mục, nữ tu và trên 1000 giáo dân Việt Nam từ khắp nơi qui tụ về Đất Thánh trong biến cố trọng đại lịch sử này.

Như VietCatholic đã loan tin, vào ngày 18 tháng 10 năm 2018, phái đoàn VietCatholic và nhiều đoàn hành hương từ khắp năm châu, đã qui tụ về làng Kiryat Yearim tại Do Thái để khánh thành Thánh tượng Đức Mẹ La Vang. Đức Tổng Giám Mục, Giuse Nguyễn Chí Linh, Tổng giám mục Chính tòa Tổng giáo phận Huế, kiêm Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã chủ tế thánh lễ và làm nghi thức thánh hiến tượng đài Đức Mẹ La Vang, cùng đồng tế với ngài còn có Đức Giám Mục Micae Hoàng Đức Oanh, nguyên Giám Mục giáo phận Kontum, cùng với hơn 100 linh mục, 50 nữ tu và trên 1000 giáo dân Việt Nam đến từ: Việt Nam, Bắc Mỹ, Bắc Âu và Úc Châu cũng đã hành hương, qua nhiều cơ quan du lịch, để tới đây tham dự biến cố có trọng đại này. Con số người tham dự đã vượt quá xa so với con số mà ban tổ chức dự trù, bởi vì trong số đó có những đoàn hành hương cũng đến tham gia mà không kịp báo trước.

Có lẽ đây là lần đầu tiên sau biến cố Phong Thánh, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 30 năm trước (năm 1988), mà người ta lại chứng kiến một sự kiện các đoàn thể Việt Nam từ khắp năm châu cùng nhau thực hiện một biến cố vĩ đại như thế này. Biến cố ngày hôm nay là một biến cố đặc biệt, vì đây là lần đầu tiên thánh tượng Đức Mẹ La Vang được đón nhận nồng nhiệt trên vùng đất thánh, chứng tỏ danh hiệu của Mẹ La vang đã lan tỏa sâu rộng, và được mọi dân tộc biết đến, nó cũng biểu dương sức mạnh tinh thần sống đạo của người Công Giáo Việt Nam, đang được ghi nhận khắp nơi qua lòng sùng kính Đức Mẹ.
 
Suy Niệm với ĐTC Phanxicô 30/10/2018: Kỳ diệu - Những chiếc bánh thánh 288 năm sau vẫn mới nguyên
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
06:13 29/10/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Khiêm nhường, hiền lành và nhẫn nhịn dẫn đến hòa bình

Con đường dẫn đến hòa bình trên thế giới, trong xã hội, và trong gia đình của chúng ta là sự khiêm nhường, hiền lành và nhẫn nhịn. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu 26 tháng 10 tại nhà nguyện Santa Marta.

Đức Thánh Cha đã trình bày các suy tư của ngài trên Bài đọc Một trong ngày, và mô tả lá thư Thánh Phaolô viết, trong nỗi cô đơn vì bị giam cầm, cho các tín hữu thành Êphêsô là một “bài thánh ca hiệp nhất” đích thực gợi lên trong chúng ta “phẩm giá ơn gọi” làm con cái Chúa.

Đức Thánh Cha nhận xét rằng sự cô đơn của thánh Phaolô sẽ theo cùng ngài cho đến khi thánh nhân nhắm mắt lìa đời tại Rôma, bởi vì các Kitô hữu “quá bận rộn” trong “những cuộc đấu tranh nội bộ” của họ. Và trước Phaolô, theo Đức Thánh Cha, chính Chúa Giêsu cũng đã nài xin ân sủng hiệp nhất từ Chúa Cha cho tất cả chúng ta.

Tuy nhiên, Đức Thánh Cha ghi nhận rằng ngày hôm nay đây chúng ta “đã quá quen với việc hít thở không khí xung đột”. Mỗi ngày, trên TV và trên báo chí, chúng ta nghe về xung đột và chiến tranh “hết nơi này lại đến nơi khác”, “không có hòa bình, không có hiệp nhất”. Những thỏa hiệp được hình thành để chấm dứt xung đột bị dẹp sang một bên, chạy đua vũ trang và chuẩn bị cho chiến tranh và hủy diệt tiếp tục được tiến hành.

Đức Thánh Cha lưu ý rằng ngay cả các định chế thế gian được tạo ra với những ý hướng tốt nhất cho hòa bình và hiệp nhất, cũng không đem đến sự đồng thuận vì có một sự phủ quyết ở chỗ này và một tư lợi ở chỗ đó. .. Trong khi họ đang cố gắng để đạt được thỏa thuận hòa bình, trẻ em không có thức ăn, không trường học, không giáo dục và cũng chẳng có bệnh viện vì chiến tranh đã phá hủy mọi thứ.

Đức Thánh Cha cảnh giác rằng trong chúng ta luôn có những khuynh hướng hủy diệt, chiến tranh và bất hòa. Đó là xu hướng mà ma quỷ, kẻ thù và kẻ hủy diệt nhân loại gieo trong lòng chúng ta. Liên hệ đến Thánh Phaolô, Đức Thánh Cha nói rằng vị Tông Đồ dân ngoại dạy chúng ta rằng hành trình hiệp nhất, có thể nói, được bao bọc hay “vũ trang” với lòng gắn bó với hòa bình. Hòa bình, theo Đức Thánh Cha, sẽ dẫn đến sự hiệp nhất.

Kế đó, Đức Thánh Cha khuyến khích tất cả những người hiện diện trong thánh lễ hãy chọn cho mình một hành vi xứng đáng với “lời mời gọi” nhận được từ các bài đọc của Phụng Vụ trong ngày “với tất cả sự khiêm tốn, hiền lành và nhẫn nhịn”.

Đức Thánh Cha nói rằng chúng ta, những người đã quen với việc sỉ nhục và la hét lẫn nhau, cần phải kiến tạo hòa bình và hiệp nhất với nhau bằng sự dịu dàng và kiên nhẫn.

Ngài thúc giục các Kitô hữu mở rộng trái tim của mình và kiến tạo hòa bình trên thế giới qua con đường của “ba điều đơn sơ” là “khiêm nhường, hiền lành và nhẫn nhịn”. Ngài đã thu hút sự chú ý của cộng đoàn đến lời khuyên thực tế của thánh Phaolô “chịu đựng lẫn nhau trong lòng mến”. Đức Thánh Cha thừa nhận điều đó thật không dễ dàng chút nào vì trong ta luôn có khuynh hướng muốn phán xét, và lên án người khác là những thái độ dẫn đến sự tách biệt và xa cách nhau…

Đức Thánh Cha cũng chỉ ra rằng khi một sự rạn nứt được tạo ra giữa các thành viên của gia đình, ma quỷ rất hạnh phúc với sự khởi đầu của chiến tranh này. Lời khuyên của ngài là khi đó chúng ta hãy chịu đựng lẫn nhau bởi vì tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi đầy rẫy những khuyết điểm, nên chúng ta luôn có thể tìm ra một cái cớ nào đó để bực dọc và thiếu kiên nhẫn với nhau. Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã thúc giục các môn đệ Ngài nên “một thân thể và một thần khí”. Được linh hứng bởi những lời này của Chúa Giêsu, Thánh Phaolô đã khích lệ chúng ta “bảo vệ sự hiệp nhất tinh thần qua sự gắn bó với hòa bình”.

Đức Thánh Cha nói tiếp rằng bước tiếp theo là hãy hướng nhìn về chân trời hòa bình cùng với Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy chân trời của bình an với lời cầu nguyện: “Lạy Cha, xin cho họ nên một, như Cha và Con là một”. Đức Thánh Cha nhắc nhớ Tin Mừng theo Thánh Luca trong ngày, khi Chúa Giêsu khuyên chúng ta nên thỏa thuận với kẻ thù của chúng ta trên đường đi. Ngài nhận xét rằng đó là lời khuyên tốt, bởi vì “không khó để đi đến một thỏa thuận vào lúc khởi đầu một cuộc xung đột”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng lời khuyên của Chúa Giêsu giải quyết vấn đề ngay từ lúc phát sinh và kiến tạo hòa bình ngay từ đầu đòi hỏi chúng ta phải có lòng khiêm nhường, nhân đức hiền lành và kiên nhẫn. Người ta có thể xây dựng hòa bình trên toàn thế giới với những điều nhỏ nhặt này, đó là thái độ của Chúa Giêsu, Đấng khiêm nhường, hiền lành và luôn tha thứ.

Để kết luận, Đức Thánh Cha nói hôm nay chúng ta, thế giới, gia đình và xã hội chúng ta cần có hòa bình. Ngài mời gọi các Kitô hữu bắt đầu đưa vào thực hành lòng khiêm tốn, hiền lành và nhẫn nhịn và khẳng định rằng đây là con đường để kiến tạo hòa bình và củng cố sự hiệp nhất.

2. Câu chuyện Mình Thánh Chúa bị đánh cắp tại Siena bên Ý

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Sáng Chúa Nhật 21 tháng 10 vừa qua, khoảng 8:15 sáng, anh chị em giáo dân tại nhà thờ Saint-Antoine-l'Ermite, tức là nhà thờ Thánh Antôn ẩn tu, tại thành phố Vaugneray miền Đông nước Pháp, đã hết sức đau buồn khi thấy kẻ trộm đã phá hoại ngôi nhà thờ của họ.

Cửa trước nhà thờ bị phá đổ. Nhìn vào nhà thờ họ thấy cung thánh bị phá tan hoang, tất cả các ngăn kéo bị lục tung và giấy tờ bị bị ném đầy mặt đất.

Nhà tạm cũng bị mở tung, mọi thứ bị ném xuống đất nhưng các bánh thánh vẫn còn trong bình đựng bánh thánh làm bằng bạc. Chiếc bình trông có vẻ cũ, không thể bán được nên bọn trộm không lấy đi.

Câu chuyện này nhắc nhớ chúng tôi về một phép lạ đã được Giáo Hội chính thức công nhận, thường được gọi là phép lạ thánh thể thành Siena bên Ý.

Siena là một thành phố ở miền Trung nước Ý trong vùng Tuscany rộng 118km2 với dân số 53,000 người theo thống kê vào cuối năm 2017. Trung tâm thành phố được UNESCO coi là di sản thế giới với những tòa nhà theo kiến trúc Gothic đứng vững theo thời gian từ thế kỷ thứ 14 cho đến nay. Thành phố này được coi là nơi thu hút khách du lịch nhiều thứ nhì của nước Ý sau kinh thành vĩnh cửu Rôma. Hàng năm, có khoảng 160,000 khách du lịch đến thăm thành phố này.

Du khách đến thăm thành phố này không chỉ vì các kiến trúc từ thế kỷ thứ 14 mà còn vì một phép lạ Thánh Thể đến nay không thể giải thích được về mặt khoa học.

Thưa quý vị và anh chị em,

Vào ngày 14 tháng 8 năm 1730, trong khi người Công Giáo trong thành phố đang tham dự một lễ hội đặc biệt vào đêm trước lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời tại nhà thờ chính tòa thành phố, một bọn trộm đã lẻn vào nhà thờ Thánh Phanxicô và lấy trộm một bình đựng Mình Thánh Chúa bằng vàng chứa hàng trăm bánh thánh đã được thánh hiến.

Hai ngày sau, người ta nhận thấy thứ gì đó màu trắng nhô ra từ thùng xin tiền ở một nhà thờ khác trong thành phố Siena. Các linh mục mở thùng và tìm thấy các bánh thánh bị mất bên trong, vướng đầy mạng nhện và bụi bẩn. Sau khi được làm sạch hết sức có thể, các bánh thánh được đặt vào một bình đựng Mình Thánh Chúa mới và được đưa trở lại Nhà thờ Thánh Phanxicô để tôn kính và làm việc phạt tạ.

Vì các bánh thánh đã bị bẩn, các linh mục quyết định không trao các Mình Thánh Chúa này cho các tín hữu rước lễ nhưng để riêng ra với ý định là các bánh thánh này sẽ tự tiêu hủy theo thời gian. Một năm, hai năm, năm năm, mười năm, hai mươi năm sau mọi người đều ngạc nhiên khi thấy rằng những chiếc bánh thánh này đã không bị tiêu hủy, nhưng thực sự trông mới nguyên và không còn chút bụi bẩn nào.

Khi chúng tôi thực hiện chương trình này, nghĩa là đã 288 năm sau, những chiếc bánh thánh này vẫn còn mới nguyên và được trưng bày tại Đền Thờ Thánh Phanxicô ở Siena, Italia.

3. Hy vọng là sống cho cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô

Trong thánh lễ sáng thứ Ba tại Santa Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày những suy tư của ngài về hy vọng, như một điều không trừu tượng, nhưng là sống trong kỳ vọng về một cuộc gặp gỡ cụ thể với Chúa Giêsu. Và Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng thật là khôn ngoan để biết làm thế nào để vui mừng trong những cuộc gặp gỡ nhỏ với Chúa trong cuộc sống hàng ngày.

Đức Thánh Cha đã giải thích về “hy vọng” qua hình ảnh của một phụ nữ mang thai đang chờ đợi đứa con của mình được sinh ra.

Đức Thánh Cha đã bắt đầu bài giảng của ngài bằng cách suy tư trên hai từ ngữ được nêu lên trong Bài Đọc Một: quyền công dân và quyền thừa tự. Bài Đọc Một, trích từ Thư Thánh Phaolô gởi dân thành Êphêsô, nói về quyền công dân: “Đó là một hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, làm cho chúng ta trở thành công dân.” Nó bao gồm việc cho chúng ta một căn tính, một “thẻ căn cước” của chúng ta, có thể nói như thế. Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu, đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét để nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.

“Căn tính của chúng ta nằm chính xác trong điều này,” Đức Thánh Cha nói, “đó là được Chúa chữa lành, được xây dựng thành một cộng đồng và có Chúa Thánh Thần bên trong.”

Thiên Chúa đang dẫn dắt chúng ta trên hành trình hướng tới quyền thừa tự, vững tin rằng chúng ta là những công dân đồng bào với nhau, và rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích rằng quyền thừa tự “là điều mà chúng ta tìm kiếm trong hành trình của mình, là điều chúng ta sẽ nhận được cuối con đường.” Nhưng chúng ta cần phải tìm kiếm nó mỗi ngày; và chính hy vọng là điều thôi thúc chúng ta tiến lên trong cuộc hành trình hướng đến quyền thừa tự đó. Đức cậy, theo Đức Thánh Cha, “có lẽ là đức tính nhỏ nhất, nhưng có lẽ là điều khó hiểu nhất.”

Đức tin, đức cậy và đức ái là một ân sủng. Đức tin và đức ái rất dễ hiểu. “Nhưng đức cậy là gì?” Đức Thánh Cha hỏi. Đó là hy vọng về thiên đàng, hy vọng được gặp gỡ các Thánh, được hưởng hạnh phúc đời đời. “Nhưng thiên đường đối với anh chị em là gì?” Đức Thánh Cha nêu câu hỏi với cộng đoàn.

Sống trong hy vọng là hành trình hướng tới một phần thưởng, vâng, hướng tới một hạnh phúc mà chúng ta không có nhưng chúng ta sẽ có. Đức cậy là một đức tính khó hiểu. Đó là một đức tính khiêm nhường, rất khiêm nhường. Đó là một đức tính không bao giờ thất vọng: nếu anh chị em hy vọng, anh chị em sẽ không bao giờ thất vọng. Không bao giờ, không bao giờ. Đức cậy cũng là một đức tính cụ thể. “Nhưng,” anh chị em hỏi, “làm sao nó lại có thể cụ thể được nếu như tôi không biết thiên đường, hoặc những gì đang chờ đợi tôi ở đó?” Hy vọng của chúng ta là hy vọng hướng tới một cái gì đó, không phải là một ý tưởng, không phải là một nơi chốn tốt đẹp. .. không. Đó là một cuộc gặp gỡ. Chúa Giêsu luôn luôn nhấn mạnh khía cạnh này của hy vọng, đó là sống trong kỳ vọng về một cuộc gặp gỡ.”

Trong Tin Mừng trong ngày, chúng ta nghe về cuộc gặp gỡ của ông chủ khi ông ăn cưới về. Một cuộc gặp gỡ luôn luôn là một cái gì đó cụ thể. Để giúp chúng ta hiểu rõ, Đức Thánh Cha đã đưa ra ví dụ sau:

Khi nghĩ tới niềm hy vọng, một hình ảnh chợt đến với cha: đó là hình ảnh người phụ nữ mang thai đang mong đợi đứa con bà chào đời. Bà đến gặp bác sĩ, và xem kết quả siêu âm. Liệu bà ấy có dửng dưng “À, em bé à, OK”. Không, không đâu, bà ấy sẽ kêu lên! sẽ mừng vui! và mỗi ngày bà ấy xoa bụng mình để âu yếm đứa bé, và bà sống trong sự chờ mong đứa con ấy. Hình ảnh này có thể giúp ta hiểu thế nào là hy vọng: đó là sống cho một cuộc gặp gỡ. Người phụ nữ ấy hình dung đôi mắt của đứa nhỏ trông như thế nào, nó cười ra sao, nó tóc vàng hay tóc đen… bà hình dung ra cuộc gặp gỡ với con mình. Bà chờ mong cuộc gặp gỡ với con mình.

Sau khi giải thích hình ảnh của người phụ nữ mang thai, và làm thế nào nó có thể giúp chúng ta hiểu hy vọng là gì, Đức Thánh Cha đưa ra một câu hỏi khác:

Tôi có hy vọng như thế, một cách cụ thể, hay niềm hy vọng của tôi có chút gì đó chung chung, có chút gì đó mơ hồ? Hy vọng thì cụ thể, và là chuyện mỗi ngày bởi đó là cuộc gặp gỡ. Và mỗi lần chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu nơi Bí tích Thánh Thể, trong kinh nguyện, trong Tin Mừng, hay nơi những người nghèo, nơi đời sống cộng đoàn, là mỗi lần ta tiến được một bước nữa hướng tới cuộc gặp gỡ chung cuộc này. Thật khôn ngoan khi biết tận hưởng niềm vui trong những cuộc gặp gỡ nho nhỏ hàng ngày với Chúa Giêsu, trong khi chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ chung cuộc.

Để kết luận, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh một lần nữa rằng từ “căn tính” ám chỉ đến việc chúng ta đã được xây dựng thành một cộng đồng; và quyền thừa tự là sức mạnh của Chúa Thánh Thần “đưa chúng ta tiến về phía trước với hy vọng.” Ngài kêu gọi cộng đoàn những người hiện diện tự hỏi mình làm thế nào để sống đúng với căn tính của họ là các Kitô hữu, liệu họ có đang trông đợi một gia nghiệp trên thiên đàng, là điều có thể còn trừu tượng theo một nghĩa nào đó; và liệu họ có đang thực sự hy vọng một cuộc gặp gỡ với Chúa hay không.

4. Đối với anh chị em, Chúa Giêsu Kitô là ai?

Chúa Giêsu Kitô là ai đối với anh chị em? Đức Thánh Cha đã đưa ra câu hỏi trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Năm 25 tháng 10 tại nhà nguyện Santa Marta.

“Nếu ai đó hỏi chúng ta: ‘Chúa Giêsu Kitô là ai?’, chúng ta nên nói điều chúng ta đã học: ‘Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian, là Con của Chúa Cha,’ như chúng ta vẫn thường đọc trong Kinh Tin Kính.” Nhưng, theo Đức Thánh Cha, có một chút khó khăn hơn để trả lời câu hỏi Chúa Giêsu Kitô là ai “đối với tôi.” Đó là một câu hỏi có thể khiến chúng ta xấu hổ một chút, bởi vì để trả lời câu hỏi đó, “Tôi phải đào sâu trong trái tim tôi”; nghĩa là, chúng ta phải bắt đầu từ kinh nghiệm của chính chúng ta.

Thánh Phaolô đã kinh nghiệm chính xác sự khó chịu này khi làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô. Ngài biết Chúa Giêsu qua kinh nghiệm riêng của mình khi bị ném khỏi con ngựa của mình trên đường đến Damascus để bách hại đạo thánh Chúa, lúc Chúa ngỏ lời trong tâm hồn ngài. Ngài không bắt đầu biết Chúa Kitô bằng cách nghiên cứu thần học, cho dù sau này ngài “tìm xem Chúa Giêsu đã được công bố như thế nào trong Kinh Thánh”.

Thánh Phaolô muốn các Kitô hữu cảm nhận về Chúa Kitô như những gì chính ngài cảm nhận. Đáp lại câu hỏi mà chúng ta có thể đặt ra cho thánh Phaolô - “Phaolô ơi, Chúa Kitô là ai đối với ngài?” – ngài sẽ nói một cách đơn giản về kinh nghiệm của chính mình: “Chúa yêu tôi, và ban chính Ngài cho tôi”. Thánh Phaolô dự phần với Chúa Kitô, Đấng đã phải trả giá để cứu cuộc cho mình. Và thánh nhân muốn mọi Kitô hữu - trong trường hợp này là các Kitô hữu của thành Êphêsô có kinh nghiệm này, dự phần vào kinh nghiệm này, đến mức mỗi người có thể nói: “Chúa yêu tôi, và ban chính Ngài cho tôi”, nhưng nói điều đó từ kinh nghiệm cá nhân của chính mình.

Việc đọc Kinh Thánh có thể giúp chúng ta biết về Chúa Giêsu. Nhưng để thực sự biết Ngài, theo kinh nghiệm biết Chúa của Thánh Phaolô, tốt hơn là chúng ta hãy bắt đầu bằng cách thừa nhận rằng chúng ta là những kẻ tội lỗi. Điều này, theo Đức Thánh Cha, là bước đầu tiên. Khi Phaolô tuyên xưng Chúa Giêsu đã ban chính Ngài cho thánh nhân, vị Tông Đồ nói rằng Chúa đã trả giá để cứu cuộc ngài, và điều này xuất hiện trong tất cả các thư của Thánh Phaolô. Và sau đó định nghĩa đầu tiên mà Phaolô đưa ra để mô tả chính mình là: “Tôi là một kẻ tội lỗi”. Ngài thừa nhận đã bách hại các tín hữu Kitô. Ngài bắt đầu một cách chính xác bằng cách nhận ra rằng ngài đã được “chọn vì tình yêu, mặc dù là một kẻ tội lỗi.”

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “Bước đầu tiên trong việc biết Chúa Kitô” nằm chính xác nơi việc nhận ra rằng chúng ta là những kẻ tội lỗi. Và sau đó, trong Bí Tích Hòa Giải, chúng ta thú nhận tội lỗi của mình - nhưng, ngài lưu ý, “một đàng chúng ta nói về tội lỗi của mình”, sau đó còn một điều khác nữa là phải nhận ra mình là kẻ tội lỗi có thể phạm vào bất cứ điều gian ác nào. Thánh Phaolô là người đã có kinh nghiệm về sự gian ác của chính mình, “và nhận ra rằng ngài cần phải được cứu chuộc, nhận ra rằng ngài cần đến một người trả giá “cho quyền của ngài được gọi mình là 'con cái Thiên Chúa'“ Chúng ta đều là kẻ tội lỗi, nhưng để nói điều đó, để cảm nhận điều đó, chúng ta cần đến sự hy sinh của Chúa Kitô.

Nhưng để biết Chúa Giêsu, vẫn còn một bước thứ hai phải làm: đó là chúng ta biết Ngài qua sự chiêm niệm và cầu nguyện. Đức Thánh Cha đã nhắc nhớ “một lời cầu nguyện tuyệt đẹp, từ một vị thánh: 'Chúa ơi, hãy cho con biết Chúa, và biết rõ về chính mình.” Đức Thánh Cha nói tiếp rằng chúng ta không nên tự hài lòng “với ba hay bốn điều tốt đẹp về Chúa Giêsu, vì biết Chúa Giêsu là một cuộc phiêu lưu, và là một cuộc phiêu lưu nghiêm trọng, chứ không phải là một cuộc phiêu lưu của một đứa trẻ,” vì tình yêu của Chúa Giêsu không có giới hạn.

Thánh Phaolô nói rằng Chúa “có thể thành toàn nhiều hơn tất cả những gì chúng ta có thể cầu xin hay tưởng tượng ra.” Ngài có quyền lực để làm những điều như thế. Nhưng chúng ta phải xin Ngài: “Lạy Chúa, hãy cho con biết Chúa; để khi con nói về Chúa, con không lặp lại những lời lẽ như con vẹt, nhưng đúng hơn, con đang nói những lời được sinh ra từ kinh nghiệm của riêng con.” Và khi đó, giống như Thánh Phaolô, ta có thể nói: “Chúa yêu tôi, và đã ban chính Ngài cho tôi” – và chúng ta nói điều đó với một niềm xác tín. “Đây là sức mạnh của chúng ta, đây là nhân chứng của chúng ta.” Kitô hữu trên môi miệng mà thôi thì có rất nhiều từ ngữ; chúng ta cũng vậy, có rất nhiều từ ngữ. Và đó không phải là sự thánh thiện. Thánh thiện là trở nên Kitô hữu tiến bước trong cuộc sống theo những gì Chúa Giêsu đã dạy và những gì Chúa Giêsu đã gieo trong lòng chúng ta.

Để kết luận, Đức Thánh Cha Phanxicô lặp lại hai bước chúng ta cần phải làm để thực sự biết Chúa Giêsu Kitô:

Bước đầu tiên là biết chính mình: chúng ta là những kẻ tội lỗi. Nếu không có sự hiểu biết này, và nếu không có sự thú nhận tự thâm tâm rằng tôi là một kẻ tội lỗi chúng ta không thể tiến lên. Bước thứ hai là cầu nguyện cho Chúa, Đấng với quyền năng của Ngài làm cho chúng ta biết mầu nhiệm Chúa Giêsu, là lửa mà Ngài đã mang đến thế gian. Sẽ là một thói quen tốt nếu mỗi ngày, trong mọi khoảnh khắc, chúng ta có thể nói, “Lạy Chúa, hãy cho con biết Chúa, và biết chính con.”

5. Nghĩa vụ cầu nguyện cho các Đẳng Linh Hồn.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Cuộc đời cha Piô là trang sử lạ thường ghi dấu các cuộc hiện ra của Thiên Thần, Các Thánh, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Các Đẳng Linh Hồn. Có thể nói được rằng, Cha thánh Pio sống cùng lúc ở hai thế giới: một hữu hình và một vô hình, thiêng liêng.

Một buổi tối, Cha Pio đang nghỉ ở tầng trệt của Cộng Đoàn nơi căn phòng dành đón tiếp khách lạ. Lúc ấy Cha Pio chỉ có một mình và vừa đặt lưng nằm xuống thì bất thình lình một người đàn ông xuất hiện, mình trùm kín chiếc áo choàng đen. Ngạc nhiên, Cha Pio tức khắc đứng bật dậy và hỏi cho biết ông là ai và muốn gì. Người khách lạ cho biết ông là Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội. Ông nói: Con là Pietro Di Mauro, tức Nicola và có biệt danh “Precoco”. Con bị chết trong trận hỏa hoạn xảy ra vào đêm 18-9-1908, tại chính Tu Viện này, lúc ấy bị truất hữu và biến thành Viện Tế Bần. Con bị cháy giữa các ngọn lửa, ngay trên tấm nệm rơm, lúc đang ngủ say, trong căn phòng số 4. Con hiện về từ Luyện Ngục. Thiên Chúa Nhân Lành cho phép con đến xin Cha dâng một Thánh Lễ với ý chỉ cầu cho con vào sáng ngày mai. Nhờ Thánh Lễ này con mới có thể vào được Thiên Đàng.

Cha Pio hứa sẽ dâng Thánh Lễ cầu cho ông. Chính Cha kể lại như sau. Phần tôi, tôi muốn đích thân tháp tùng Linh Hồn Luyện Ngục ra tận cửa Tu Viện. Và tôi chỉ ý thức rõ ràng mình đã nói chuyện với Linh Hồn Luyện Ngục khi ra tới thềm, bởi vì, người đàn ông đang đi bên cạnh tôi bỗng nhiên biến mất. Tôi thành thật thú nhận lúc ấy tôi cảm thấy hoảng sợ. Tôi đi thẳng đến phòng Bề Trên là Cha Paolino da Casacalenda. Cha Bề Trên nhận ra nét kinh hoảng của tôi. Sau khi nghe tôi giải thích và xin phép dâng Thánh Lễ vào sáng hôm sau cầu cho Linh Hồn Luyện Ngục, Cha Bề Trên hiểu lý do và chấp thuận ngay lời xin.

Vài ngày sau, vì bị tính tò mò thúc đẩy, Cha Bề Trên Paolino muốn làm cuộc kiểm chứng. Cha ra tòa thị chính thành phố San Giovanni Rotondo và xin phép xem Cuốn Sổ Tử của thành phố vào năm 1908. Và đúng như lời kể, trong Sổ Tử tháng 9 năm 1908 có ghi mấy hàng: Ngày 18 tháng 9 năm 1908, trong trận hỏa hoạn Viện Tế Bần có một người bị chết mang tên Pietro di Mauro, tức Nicola.
 
Thánh Ca
Tháng Năm Đời Dâng Hiến – Trình bày: Cẩm Yến
Khắc Thái
03:58 29/10/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây