Ngày 27-10-2013
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Lễ Các Thánh: Tôi phải nên thánh
Jos. Vinc. Ngọc Biển
11:04 27/10/2013
TÔI PHẢI NÊN THÁNH!

(LỄ CÁC THÁNH - 2013)

Khi tôi còn ở quê, lúc đó là một chú giúp lễ trong nhà thờ. Vào một buổi chiều, tôi đang ngồi chuẩn bị cho chương trình rước kiệu các thánh tử đạo Việt Nam. Có một ông trùm ở giáo xứ bên cạnh, là người đã quen biết tôi trước đó đến để gặp cha xứ. Trong lúc chờ đợi cha xứ đi kẻ liệt về, ông trùm kể cho tôi nghe chuyện giáo dân của làng ông bị bách hại trong thời kỳ cấm đạo, ông nói: lúc đó, quân lính bao vây làng, sau đó quan quân bắt hết mọi người ra đình làng trình diện và bắt phải bỏ đạo. Giáo dân trung thành với Chúa đã cương quyết không bỏ đạo, vì thế, họ bắt đi đầy, một số thì bị ghép sống với những người ngoài Công Giáo (phân sáp), số còn lại họ chôn tập thể, nhà của dân thì bị đốt sạch... Tôi nghe đến đây thì rất cảm phục. Điều mà tôi nghĩ trong đầu lúc này là những người giáo dân can trường đó, các ngài chấp nhận chết vì đạo Chúa cách trung thành như vậy, họ cũng là các thánh tử đạo. Thế nhưng, nếu rà soát trong danh sách 118 thánh tử đạo Việt Nam được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh chính thức vào ngày 19/6/1988 thì hoàn toàn không có các ngài.

1. Các Thánh là ai?

Hôm nay, Giáo Hội mừng kính trọng thể các thánh Nam Nữ. Lý do có ngày lễ này là vì trong Giáo Hội có rất nhiều những vị thánh không được phong và có ngày lễ mừng. Các ngày trong năm phụng vụ, Giáo Hội chỉ mừng những vị thánh đã được tôn phong cụ thể và rõ ràng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, có biết bao vị thánh vô danh, nhưng thực sự các ngài cũng là những vị thánh như các đấng được mừng trong lịch phụng vụ. Vì thế, Giáo Hội dành riêng một ngày để mừng kính chung các ngài.

Việc mừng kính các thánh hay không thì cũng chẳng thêm gì cho các ngài, bởi vì các ngài đã là thánh. Nhưng việc mừng kính các ngài là để tôn vinh, cảm tạ Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi cuộc sống của các ngài. Đồng thời, tôn kính các ngài như là những mẫu gương cho chúng ta noi theo. Vậy con đường nên thánh của các ngài là gì? Cuộc sống của các ngài có phải là siêu quần bạt chúng, là phi thường không? Thưa là không! Con đường nên thánh của các ngài là một con đường hướng thiện, yêu thương, tha thứ và rất bình dân. Cuộc sống của các ngài cũng bình thường như ai, các ngài chính là những người cha, người mẹ gương mẫu, là người hàng xóm tốt bụng, là người chủ nhà sẵn sàng cho khách trú chân khi lỡ đường, các ngài là những người thợ mộc, thợ nề, thợ thủ công, là công nhân, nông dân, cũng có thể các ngài là những kỹ sư, bác sĩ.... lại có những vị thánh xuất thân từ một hoàng tộc, lại có những đấng sinh ra không ai biết, chết không ai hay, có những vị thánh trong hàng ngũ Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ. Tất cả họ là những bậc tổ tiên, cô bác, anh chị em với chúng ta lúc còn tại thế.

Tuy xuất phát điểm khác nhau, nhưng đều chung một mẫu số là các ngài làm mọi việc bình thường cách phi thường vì lòng mến Chúa và yêu người. Tất cả cuộc sống của các thánh được trở nên tốt lành và đẹp lòng Chúa là vì các ngài sống những giá trị Tin Mừng cách trung thành. Các ngài đã rập đời sống của mình theo gương mẫu Chúa Giêsu, đã để cuộc đời của mình cho ánh sáng Mặt Trời Công Chính chiếu qua. Các ngài thật giống chúng ta ở điểm khởi đầu, nhưng khác ở chỗ là đi đến cùng. Các ngài sống tinh thần thánh cách trọn vẹn chứ không như kiểu làm thánh “lâm thời” như chúng ta. Thật vậy, thánh “lâm thời” là khi phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện nguyên hình quỉ. (x. ĐHV, số 44). Các ngài là những người đã dám sống triệt để chân lý đã tin thay vì nửa vời. Và các ngài là những người: " từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên". Các ngài chính là những người tin vào Đức Kitô Giêsu, và là những người sống tinh thần bản “Hiến Chương Nước Trời” cách trọn vẹn và suất sắc.

Thật vậy, các ngài là những người thuộc nằm lòng và sống trọn vẹn lời mời gọi của Đức Giêsu: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi và hãy học cùng Tôi vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường vì ách của Tôi thì êm ái, gánh của Tôi thì nhẹ nhàng” ; hay: “Hãy nên hoàn thiện như Cha Trên Trời” (Mt 5, 48), rồi cả cuộc đời của các ngài là những người đi theo Chúa trên con đường khổ giá vì lòng yêu mến Chúa và yêu thương con người tha thiết. Đây chính là con đường Chân Phúc.

Có nhiều con đường để nên thánh, và có nhiều cách nên thánh. Hôm nay, Chúa Giêsu đã vạch ra con đường Chân Phúc để như một lời mời gọi những ai muốn trở nên giống Chúa cách trọn vẹn hơn... Con đường đó được gọi là con đường hoàn thiện, hay một bản “Hiến Chương Nước Trời”.

Quả thật, các ngài là những người yêu mến tinh thần nghèo khó, sống hiền lành, biết thương cảm, vui với người vui, khóc với người khóc, luôn thương xót những người cơ bần, khao khát sống công chính, trong sạch, luôn xây dựng hòa bình, kiến tạo sự hiệp nhất và, các ngài là những người sẵn sàng vì Chúa mà quên thân mình. Sẵn sàng noi gương Chúa để sống và chết vì yêu. Các ngài là những người xứng đáng được Chúa ghi sổ vàng và hưởng lời chúc phúc của Chúa: “ Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm" (Mt 25, 35).

2. Sống thánh trong đời thường

Khi mừng lễ các thánh Nam Nữ như vậy, trước tiên, Mẹ Giáo Hội muốn nhắc nhở cho con cái biết rằng có một sự hiệp thông rất mật thiết giữa ba thành phần trong Giáo Hội: Giáo Hội Lữ Hành, Giáo Hội Thanh Luyện và Giáo Hội Chiến Thắng. Nói cách khác, có một mối liên hệ thiêng liêng hỗ tương giữa những người còn đang sống ở trên dương thế này với những linh hồn đang chịu thanh luyện trong Luyện Tội và với các thánh đang hưởng vinh phúc trên Thiên Đàng (x. GLTYGHCG, số 195 & Lumen Gentium, số 49).

Thứ đến, chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì ân sủng của Chúa tràn ngập trên cuộc đời các thánh, để từ ân sủng của Chúa, các ngài đón nhận và tỏa hương nhân đức trong cuộc sống, đồng thời lưu truyền lại cho con cháu hôm nay. Thật vậy, khi nói về sự ảnh hưởng của các thánh Tử Đạo, Tertuliano nhận xét: "Máu các vị Tử Ðạo là hạt giống trổ sinh nhiều tín hữu". Chúng ta có được đời sống đức tin như ngày hôm nay là do ơn Chúa ban và biết bao hy sinh của các bậc tiền nhân.

Tiếp theo là: noi gương các ngài để ngày càng tiến tới sự trọn lành. Thánh Augustino đã nói một câu thời danh: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?”. Sống thánh và làm thánh là bổn phận, trách nhiệm của chúng ta. Thánh Giêrađô đã nhất quyết phải làm thánh khi từ giã người mẹ của mình để lên đường theo các cha dòng Chúa Cứu Thế đi tu, ngài đã viết một mảnh giấy để lại rằng: "Mẹ ở lại, con đi làm thánh!”. Như vậy, việc nên thánh là trách nhiệm của chúng ta, và cũng là đòi hỏi của Thiên Chúa: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” ( Lêvi 19,2; 1 Tx 4,3 ; 1 Pr 1, 16…).

Cuối cùng, trong một xã hội đang chạy đua với kinh tế thị trường, coi thường đạo lý; một xã hội bất công lan tràn; thượng tôn hưởng thụ và khoái lạc dẫn đến tình trạng vô cảm, vô tâm, vô tình... Nên thánh trong thời đại của chúng ta ngày hôm nay chính là khẳng khái triệt để không sống theo lối sống sa hoa hưởng thụ, lối sống dẫm đạp lên nhau, lối sống nín thở qua cầu, nói chung lối sống chỉ biết lo cho cái bụng mà quên đi trái tim. Các thánh khi xưa là những người hoàn toàn khước từ những gì là mau qua chóng hết để tìm cho mình một kho tàng vĩnh cửu trên Trời là niềm vui, bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.

Mừng lễ các thánh hôm nay, chúng ta hãy xin với các thánh là những bậc tổ tiên của chúng ta, xin các ngài nâng đỡ, bầu cử cho chúng ta để chúng ta cũng được hạnh phúc như các ngài trên Thiên Quốc. Và có lẽ không gì làm cho các ngài vui và Chúa được tôn vinh cho bằng chúng ta noi gương các ngài để nên thánh. Vì thế, trong việc giáo dục con em của mình, mong thay trong mỗi giáo xứ hay gia đình nên có những sách truyện, cuốn phim, tranh ảnh của các thánh, đây là những phương tiện bổ trợ rất hữu ích cho việc giáo dục Kitô giáo và cho đời sống đức tin nơi thế hệ mai sau.

Mong thay lời dốc quyết của thánh Giêrađô khi xưa: “Mẹ ở lại, con đi làm thánh!” cũng là sự quyết tâm của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta không ngừng xin Chúa ban ơn trợ lực để chúng ta vượt qua được những cám dỗ hầu tiến tới sự trọn lành như các thánh trên Trời.

Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì quyền năng và tình thương của Chúa trên các thánh. Vì lời chuyển cầu của Mẹ Maria và các thánh, chúng con xin Chúa ban cho chúng con cũng được dồi dào ân sủng như các thánh mà hôm nay chúng con mừng kính, hầu mai ngày, chúng con được cùng các ngài xum họp để tôn vinh, thờ lạy và chúc tụng Chúa không ngừng. Amen.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bộ Giáo Lý Đức Tin lên tiếng về việc rước lễ của người ly dị tái hôn
Vũ Văn An
09:36 27/10/2013
Ngày 24 Tháng Mười vừa qua, Đức TGM Gerhard Ludwig Muller, Bộ Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã cho phổ biến một bài viết của ngài trên tờ L'Osservatore Romano về việc rước lễ của các người Công Giáo ly dị và tái hôn dân sự. Sau đây là nguyên văn bài báo đó dựa vào bản tiếng Anh do Đài Phát Thanh Vatican phổ biến.

Chứng từ sức mạnh ơn thánh

Vấn đề liên quan tới các tín hữu đã bước vào cuộc kết hợp dân sự mới sau khi ly dị là vấn đề không mới lạ gì. Giáo Hội luôn nghiêm túc xem sét vấn đề này với quan điểm muốn giúp đỡ những người thấy mình rơi vào trạng huống này. Hôn nhân là một bí tích ảnh hưởng hết sức sâu xa tới con người trong các hoàn cảnh bản thân, xã hội và lịch sử của họ. Vì con số những người bị ảnh hưởng trong các quốc gia có truyền thống Kitô Giáo cổ xưa càng ngày càng gia tăng, nên vấn đề mục vụ này đã mang lấy nhiều chiều kích có ý nghĩa. Hiện nay, cả các tín hữu vững chắc cũng nghiêm túc tự hỏi: há Giáo Hội lại không thể cho phép người ly dị và tái hôn được chịu các bí tích dưới một số điều kiện nào đó hay sao? Bàn tay Giáo Hội bị trói cứng vĩnh viễn hay sao trong vấn đề này? Các thần học gia có chịu thực sự thăm dò mọi hệ luận và hậu quả chăng?

Các câu hỏi trên cần được khảo sát một cách nhất quán với tín lý Công Giáo về hôn nhân. Một phương thức mục vụ có trách nhiệm luôn tiền giả định một nền thần học biết dâng “lý trí và ý chí hoàn toàn tuân phục Thiên Chúa mạc khải, tự do chấp nhận chân lý do Người mạc khải” (Dei Verbum, 5). Muốn làm cho tín lý chân chính của Giáo Hội được khả niệm, ta phải bắt đầu với lời Chúa trong Sách Thánh, được trình bày trong Truyền Thống Giáo Hội và được giải thích một cách trói buộc bởi huấn quyền.

Chứng từ Sách Thánh

Trực tiếp tìm nơi Cựu Ước các câu trả lời cho vấn nạn của ta không phải là không có khó khăn, vì vào thời đó, hôn nhân chưa được coi là một bí tích. Ấy thế nhưng lời Chúa trong Cựu Ước cũng quan trọng đối với ta vì Chúa Giêsu vốn thuộc truyền thống này và từng dựa vào nó để biện luận. Trong Mười Giới Răn, ta thấy giới răn này “ngươi không được phạm tội ngoại tình” (Xh 20:14), nhưng ở chỗ khác, ly dị lại được trình bày như một khả hữu. Theo Đệ Nhị Luật 24:1-4, Môsê dạy rằng người đàn ông có thể trao cho vợ mình một giấy ly hôn và đuổi nàng ra khỏi nhà mình, nếu nàng không được chàng sủng ái nữa. Sau đó, cả vợ lẫn chồng có thể tái hôn. Song song với việc chấp nhận ly dị này, Cựu Ước cũng đã nói lên một số dè dặt về phương diện này. Việc so sánh của các tiên tri giữa giao ước Thiên Chúa với Israel và sợi dây hôn phối bao hàm không những lý tưởng đơn hôn, mà còn cả lý tưởng bất khả tiêu nữa. Tiên tri Malaki nói về điều này rất rõ: “Đừng bất trung với người vợ tuổi thanh xuân của ngươi... là người ngươi vốn ký giao ước với” (Mk 2:14-15).

Trước hết, chính cuộc tranh luận với người Biệt Phái đã giúp Chúa Giêsu cơ hội bàn về chủ đề này. Người minh nhiên tách mình ra khỏi thói quen ly dị của Cựu Ước, một thói quen mà Môsê đã cho phép chỉ vì con người “có tâm hồn chai đá”, còn Người, Người nhấn mạnh tới ý chí nguyên thủy của Thiên Chúa: “từ nguyên thủy tạo thành, Thiên Chúa đã dựng nên họ có nam có nữ. Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mình và. .. cả hai sẽ nên một thân xác. Cho nên, sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly” (Mc 10:5-9; xem Mt 19:4-9; Lc 16:18). Giáo Hội Công Giáo luôn đặt tín lý và thực hành của mình trên căn bản các lời vừa kể của Chúa Giêsu liên quan đến tính bất khả tiêu của hôn nhân. Sợi dây nội tại liên kết hai người phối ngẫu lại với nhau do chính Thiên Chúa bện nên. Nó chỉ một thực tại phát xuất từ Thiên Chúa và do đó không còn tùy thuộc xử lý của con người nữa.

Ngày nay, một số nhà chú giải chấp nhận quan điểm cho rằng vào thời đại các Tông Đồ, những lời của Chúa Giêsu trên đây đã được áp dụng một cách mềm dẻo nào đó: nổi tiếng nhất là trường hợp porneia/dâm bôn (unchastity) (xem Mt 5:32; 19:9) và trường hợp phân ly giữa một người phối ngẫu Kitô Giáo và một người phối ngẫu không Kitô Giáo (xem 1Cor 7:12-15). Câu dâm bôn này từng là đầu đề cho một cuộc tranh luận gắt gao giữa các nhà chú giải ngay từ buổi đầu. Nhiều người cho rằng nó không chỉ bất cứ trường hợp ngoại lệ nào đối với tính bất khả tiêu của hôn nhân, mà chỉ có ý nói tới những kết hợp hôn nhân bất thành. Tuy nhiên, điều rõ ràng là Giáo Hội không thể xây dựng tín lý và thực hành của mình trên các giả thuyết vẫn còn bị khoa chú giải tranh cãi. Giáo Hội phải bám lấy giáo huấn rõ ràng của Chúa Kitô.

Thánh Phaolô trình bày việc cấm ly dị như là ý muốn minh nhiên của Chúa Kitô: “Với người đã kết hôn, tôi truyền, không phải tôi mà là Chúa, rằng người vợ không được lìa khỏi chồng (mà nếu lìa khỏi chồng, thì phải ở độc thân hoặc nếu không phải hòa giải với chồng) và người chồng cũng không được ly dị vợ” (1Cor 7:10-11). Đồng thời, ngài lại cho phép, bằng chính thẩm quyền của ngài, rằng một người không phải là Kitô hữu được phép phân ly với người phối ngẫu đã trở lại Kitô hữu. Trong trường hợp này, người Kitô hữu “không bị trói buộc” phải ở độc thân (1Cor 7:12-16). Dựa trên đoạn văn này, Giáo Hội đã hiểu ra rằng chỉ cuộc hôn nhân giữa một người đàn ông đã rửa tội và một người đàn bà đã rửa tội mới là một bí tích đúng nghĩa, và chỉ trong trường hợp này, tính bất khả tiêu vô điều kiện mới được áp dụng. Hôn nhân của những người không rửa tội quả cũng có định hướng bất khả tiêu, nhưng dưới một số hoàn cảnh, như vì một lợi ích cao hơn chẳng hạn, nó có thể bị hủy tiêu (đặc ân Thánh Phaolô). Như thế, ở đây, ta không xử lý với một ngoại lệ đối với giáo huấn của Chúa. Tính bất khả tiêu của hôn nhân bí tích, nghĩa là cuộc hôn nhân diễn ra bên trong mầu nhiệm Chúa Kitô, vẫn luôn được bảo đảm.

Đối với cái nhìn bí tích về hôn nhân, căn bản Thánh Kinh có tầm quan trọng hơn chính là Thư gửi tín hữu Êphêsô, trong đó, ta đọc rằng “Các ông chồng, các ông hãy yêu thương vợ mình như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội và hiến mình cho Giáo Hội” (Eph 5:25). Và ngay sau đó, Thánh Tông Đồ viết thêm: “chính vì lý do này, người đàn ông sẽ rời cha mẹ mình và gắn bó với vợ và cả hai sẽ nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật sâu xa, và tôi nói thế để ám chỉ Chúa Kitô và Giáo Hội” (Eph 5:31-32). Hôn nhân Kitô Giáo là dấu chỉ hữu hiệu giao ước giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Vì nó chỉ và thông truyền ơn thánh của giao ước này, nên hôn nhân giữa những ngưởi đã chịu phép rửa là một bí tích.

Chứng từ Thánh Truyền

Các Giáo Phụ và các Công Đồng cho ta nhiều chứng từ quan trọng liên quan tới cung cách diễn biến của chủ trương Giáo Hội. Đối với các Giáo Phụ, các huấn chỉ của Thánh Kinh về chủ đề này đều có tính trói buộc. Chúng bác bỏ luật ly dị của nhà nước, coi như không đi đôi với giáo huấn của Chúa Kitô. Giáo Hội thời các Giáo Phụ bác bỏ ly dị và tái hôn, và Giáo Hội làm thế vì vâng phục Tin Mừng. Về vấn đề này, các Giáo Phụ đều đồng thanh nhất trí.

Thời các Giáo Phụ, các phần tử ly dị trong cộng đồng Kitô Giáo nếu tái hôn dân sự sẽ không được chịu các bí tích nữa dù đã đền tội một thời gian. Tuy nhiên, một số bản văn giáo phụ dường như muốn ngụ ý rằng các lạm dụng không luôn luôn bị sửa trị cách nghiêm ngặt vì đôi khi vẫn có những giải pháp mục vụ cho các trường hợp tranh tối tranh sáng rất hiếm hoi.

Sau này, tại nhiều vùng, còn có những thoả hiệp lớn hơn, nhất là vì có sự liên lập mỗi ngày mỗi gia tăng giữa Giáo Hội và nhà nước. Ở Phương Đông, sự khai triển này tiếp tục xẩy ra, và đặc biệt từ lúc có sự phân ly với Tòa Phêrô, khai triển này càng ngày càng tiến tới một thực hành cởi mở hơn. Trong các Giáo Hội Chính Thống ngày nay, có rất nhiều cơ sở để ly dị, mà phần lớn được biện minh bởi nguyên tắc nhiệm cục (oikonomia), hay khoan dung mục vụ đối với các vụ khó khăn cá thể; các cơ sở này mở đường cho những cuộc hôn nhân thứ hai hay thứ ba sau một việc đền tội nào đó. Người ta không thể hòa giải tập tục này với thánh ý Thiên Chúa, nếu dựa vào lời minh nhiên của Chúa Giêsu nói về tính bất khả tiêu của hôn nhân. Nhưng nó đại biểu cho một vấn nạn đại kết mà ta không nên coi thường.

Ở Phương Tây, cuộc cải tổ của Đức GH Grêgôriô chống lại các khuynh hướng lỏng lẻo này và đưa ra một thúc đẩy mới mẻ nhằm hướng ta trở về với lối hiểu nguyên thủy của Thánh Kinh và của các Giáo Phụ. Giáo Hội Công Giáo bảo vệ tính bất khả tiêu tuyệt đối của hôn nhân dù với hy sinh và đau khổ lớn lao. Cuộc ly giáo của “Giáo Hội Nước Anh” đối với Người Kế Vị Thánh Phêrô đã diễn ra không phải vì khác biệt tín lý, mà do Đức Giáo Hoàng, vì vâng nghe lời dạy của Chúa Giêsu, đã không thể chấp nhận lời yêu cầu của Vua Henry VIII xin tiêu hủy cuộc hôn nhân của ông ta.

Công Đồng Trent củng cố tín lý bất khả tiêu của hôn nhân bí tích và đưa ra giải thích sau: tính bất khả tiêu này phù hợp với giáo huấn của Tin Mừng (xem DH 1807). Đôi khi có người cho rằng trên thực tế Giáo Hội khoan dung đối với tập tục của Phương Đông. Nhưng nghĩ như vậy là sai. Các nhà giáo luật học luôn luôn nhắc đến nó như một lạm dụng. Và có đủ bằng chứng cho thấy các nhóm Kitô hữu Chính Thống khi trở thành người Công Giáo luôn phải minh nhiên nhìn nhận sự bất khả hữu của các cuộc hôn nhân thứ hai hay thứ ba.

Công Đồng Vatican II, trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes về “Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay” đã trình bày một tín lý thần học và linh đạo rất sâu sắc về hôn nhân. Nó đề cao tính bất khả tiêu của hôn nhân, một cách rõ ràng và tách biệt. Hôn nhân được hiểu là một hiệp thông toàn diện sự sống và tình yêu, thân xác và tinh thần, giữa một người đàn ông và một người đàn bà tự hiến mình cho nhau và tiếp nhận nhau như những con người. Qua hành vi đích thân tự ý ưng thuận hỗ tương, một định chế lâu bền, do Thiên Chúa xếp đặt đã được tạo ra, nhằm thiện ích của các người phối ngẫu và con cái họ, chứ không còn tùy thuộc ý muốn thất thường có tính nhân bản nữa: “Là một trao hiến hỗ tương giữa hai con người, sự kết hợp thân mật này và thiện ích của con cái đặt để một lòng trung thành toàn diện lên các người phối ngẫu và biện hộ cho sự nên một không thể nào phá vỡ giữa họ với nhau” (số 48). Qua bí tích, Thiên Chúa ban ơn đặc biệt cho các người phối ngẫu: “Vì như Thiên Chúa thuở xưa tự làm cho mình hiện diện với dân Người qua một giao ước yêu thương và trung thành thế nào, thì nay Đấng Cứu Rỗi con người và Phu Quân của Giáo Hội cũng đi vào cuộc sống vợ chồng Kitô hữu qua bí tích hôn phối như thế. Người ở với họ mãi mãi sau đó để như Người yêu thương Giáo Hội và phó mình vì Giáo Hội thế nào, vợ chồng cũng yêu thương nhau với một lòng trung thành vĩnh viễn qua việc hiến mình cho nhau như vậy”. Qua bí tích hôn phối, tính bất khả tiêu của hôn nhân nhận được ý nghĩa mới và sâu sắc hơn: nó trở thành hình ảnh tình yêu bền vững của Thiên Chúa dành cho dân Người và lòng trung thành bất phản hồi của Chúa Kitô dành cho Giáo Hội của Người.



Chỉ có thể hiểu và sống hôn nhân trong bối cảnh mầu nhiệm Chúa Kitô. Nếu hôn nhân bị thế tục hóa hay bị coi như một thực tại chỉ có tính tự nhiên, đặc tính bí tích của nó sẽ bị che mờ. Hôn nhân bí tích thuộc trật tự ơn thánh, nó được sát nhập vào hiệp thông yêu thương dứt khoát giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Người. Các Kitô hữu được mời gọi sống hôn nhân của họ trong chân trời cánh chung, chờ mong nước Thiên Chúa đến nơi Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể của Thiên Chúa.

Chứng từ huấn quyền hiện nay

Tông Huấn Familiaris Consortio, do Đức Gioan Phaolô II ban hành ngày 22 tháng Mười Một năm 1981 sau Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình Kitô hữu trong thế giới ngày nay, và có tầm quan trọng rất căn để từ ngày đó, đã củng cố giáo huấn tín lý của Giáo Hội về hôn nhân một cách đầy nhấn mạnh. Nhưng nó cũng tỏ nhiều quan tâm mục vụ đối với các tín hữu ly dị và tái hôn dân sự là những người vẫn còn bị trói buộc bởi cuộc hôn nhân thành sự trong Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng biểu lộ một quan tâm và thông cảm cao độ. Đoạn 84 về “những người ly dị đã tái hôn” có những qui định chủ yếu như sau: 1. Vì lòng yêu sự thật, các mục tử buộc “phải thực thi một biện phân cẩn trọng về hoàn cảnh”. Không phải điều gì và ai ai cũng phải được lượng giá cùng một cách như nhau. 2. Các mục tử và các cộng đồng giáo xứ buộc phải hỗ trợ các tín hữu bị vướng vào các hoàn cảnh này, bằng một “tình yêu chăm chú”. Họ vẫn thuộc về Giáo Hội, họ vẫn có quyền được chăm sóc mục vụ và họ nên tham dự vào đời sống của Giáo Hội. 3. Ấy thế nhưng, họ không thể được tiếp nhận Thánh Thể. Có hai lý do cho việc này: a) “tình trạng và điều kiện sống của họ mâu thuẫn một cách khách quan đối với sự kết hợp yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, một kết hợp vốn được Thánh Thể biểu hiệu và làm cho hữu hiệu” b) “nếu những người này được tiếp nhận Thánh Thể, các tín hữu sẽ bị hướng dẫn sai lầm và lẫn lộn về giáo huấn của Giáo Hội đối với tính bất khả tiêu của hôn nhân”. Việc hòa giải qua bí tích xưng tội, một việc mở đường cho việc tiếp nhận Thánh Thể, chỉ có thể ban cấp trong trường hợp có sự ăn năn hối tiếc việc đã xẩy ra và sự “sẵn sàng tiếp nhận một lối sống không còn mâu thuẫn với tính bất khả tiêu của hôn nhân nữa”. Nói một cách cụ thể, điều này có nghĩa: nếu vì các lý do nghiêm túc, như để dưỡng dục con cái, mà cuộc kết hợp mới không thể nào tiêu hủy được, thì hai người kết ước này phải “cam kết sống tiết dục hoàn toàn”. 4. Vì các lý do bí tích và thần học nội tại chứ không do các áp lực luật lệ, các giáo sĩ minh nhiên bị cấm không được “cử hành các nghi lễ bất cứ thuộc loại nào” cho người ly dị tái hôn dân sự, bao lâu cuộc hôn nhân thứ nhất thành sự theo bí tích vẫn tồn tại.

Tuyên bố của Bộ Giáo Lý Đức Tin ngày 14 tháng Chín năm 1994 về việc rước lễ của các tín hữu ly dị và tái hôn nhấn mạnh rằng thực hành của Giáo Hội trong vấn đề này “không thể bị thay đổi vì các tình thế khác nhau” (số 5). Tuyên bố cũng minh xác rằng các tín hữu liên hệ không thể tự ý lên rước lễ dựa trên chính lương tâm họ: “Nếu họ phán đoán họ có thể làm như thế, thì các mục tử và các cha giải tội... có nhiệm vụ nghiêm trọng phải khuyên nhủ họ rằng một phán đoán lương tâm như thế mâu thuẫn với giáo huấn của Giáo Hội một cách công khai” (số 6). Nếu vẫn còn hoài nghi về tính thành sự của cuộc hôn nhân thất bại, thì các hoài nghi này phải được các tòa án hôn phối có năng quyền xem sét (xem số 9). Điều hết sức quan trọng vẫn là “vì đức ái phải làm mọi sự có thể làm được để củng cố trong tình yêu Chúa Kitô và Giáo Hội các tín hữu trong các hoàn cảnh hôn nhân bất bình thường. Chỉ có thế họ mới có khả năng tiếp nhận được trọn vẹn sứ điệp của hôn nhân Kitô Giáo và với đức tin, chịu đựng được các khốn khó do hoàn cảnh họ gây ra. Trong hành động mục vụ, ta phải làm mọi sự có thể làm được để bảo đảm rằng điều này được hiểu không phải là vấn đề kỳ thị mà chỉ là vấn đề tuyệt đối trung thành với ý muốn của Chúa Kitô, Đấng đã tái lập và ủy thác cho ta một lần nữa tính bất khả tiêu của hôn nhân như là một tặng phẩm của Đấng Hóa Công” (số 10).

Trong Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng, tựa là Sacramentum Caritatis, ban hành ngày 22 tháng Hai năm 2007, Đức Bênêđíctô XVI tóm lược công trình của Thượng Hội Đồng Giám Mục về chủ đề Thánh Thể và sau đó khai triển thêm. Ở số 29, ngài nói tới tình thế của các tín hữu ly dị và tái hôn. Đối với cả Đức Bênêđíctô XVI, đây là một “vấn đề mục vụ phức tạp và làm người ta bối rối”. Ngài xác nhận rằng “Dựa trên Thánh Kinh (xem Mc 10:2-12), tập tục của Giáo Hội là không cho người ly dị và tái hôn được chịu các bí tích”, tuy nhiên, cùng một lúc, ngài thúc giục các mục tử dành “quan tâm đặc biệt” cho những người liên hệ: với uớc mong họ được “sống cuộc sống Kitô hữu càng trọn vẹn bao nhiêu càng hay, qua việc thường xuyên tham dự Thánh Lễ, dù không được rước lễ, lắng nghe Lời Chúa, thờ lạy Mình Thánh Chúa, cầu nguyện, tham dự sinh hoạt cộng đoàn, làm việc đền tội, và cam kết giáo dục con cái”. Nếu vẫn còn hoài nghi tính thành sự của cuộc hôn nhân thất bại, thì những hoài nghi này cần được các tòa án có năng quyền xem sét. Não trạng thời nay phần đông chống lại cái hiểu Kitô Giáo về hôn nhân, về tính bất khả tiêu và việc sẵn sàng đón nhận con cái. Vì nhiều Kitô hữu bị ảnh hưởng bởi não trạng này, nên các cuộc hôn nhân hiện nay rất có thể bất thành nhiều hơn trước đây, vì thiếu ý muốn kết hôn theo giáo huấn Công Giáo, và vì ít được xã hội hóa trong môi trường đức tin. Bởi thế, việc lượng định tính thành sự của hôn nhân là điều quan trọng và có khả năng giúp giải quyết nhiều vấn nạn. Khi việc tuyên bố hôn nhân vô hiệu không thể chứng minh được, thì, theo tập tục đã có và đã được chấp thuận trong Giáo Hội, điều kiện để được giải tội và rước lễ là cặp này phải sống với nhau như “bạn bè, như anh chị em”. Cần phải tránh việc chúc lành cho các cuộc kết hợp bất bình thường, “kẻo lẫn lộn sẽ phát sinh nơi các tín hữu liên quan tới giá trị của hôn nhân”. Chúc lành cho một liên hệ vốn mâu thuẫn với thánh ý Thiên Chúa tự nó đã là một mâu thuẫn ngay trong ngôn từ rồi (bene-dictio có nghĩa được Chúa thừa nhận).

Trong bài giảng lễ tại Cuộc Gặp Gỡ Các Gia Đình Trên Thế Giới Lần Thứ Bẩy ở Milan ngày 3 tháng Sáu năm 2012, một lần nữa, Đức Bênêđíctô XVI lại có dịp nói tới vấn đề đau lòng này: “Tôi cũng muốn ngỏ mấy lời với các tín hữu, dù nhất trí với các giáo huấn của Giáo Hội về gia đình, nhưng từng đau đớn phải trải nghiệm sự tan vỡ và phân ly. Tôi muốn anh chị em biết rằng Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội hỗ trợ anh chị em trong cuộc chiến đấu của anh chị em. Tôi khuyến khích anh chị em tiếp tục hợp nhất với cộng đoàn của anh chị em, và tôi tha thiết hy vọng rằng các giáo phận của anh chị em sẽ khai triển nhiều sáng kiến thích đáng để chào đón và đồng hành với anh chị em”.

Thượng Hội Đồng Giám Mục gần đây nhất về chủ đề “Tân phúc âm hóa để thông truyền đức tin Kitô Giáo” (7-28 tháng Mười, 2012) một lần nữa cũng đã đề cập tới hoàn cảnh các tín hữu sau một thất bại trong mối liên hệ hôn nhân (không phải hôn nhân thất bại, vì như một bí tích, hôn nhân vẫn còn đấy) đã bước vào một kết hợp mới và sống với nhau không có sợi dây hôn phối bí tích. Trong thông điệp kết thúc, các nghị phụ ngỏ lời với những người này như sau: “Với mọi người họ, chúng tôi muốn nói rằng tình yêu Thiên Chúa không bỏ rơi bất cứ ai, Giáo Hội cũng vẫn yêu thương họ, Giáo Hội là căn nhà chào đón mọi người, họ vẫn là các chi thể của Giáo Hội cho dù họ không thể lãnh nhận bí tích giải tội và Thánh Thể. Ước mong các cộng đoàn Công Giáo chào đón mọi người hiện đang sống trong các hoàn cảnh như thế và hỗ trợ những người hiện đang trên đường hồi tâm và hoà giải”.

Các quan sát dựa trên nhân học và thần học bí tích

Tín lý bất khả tiêu hôn nhân thường bị môi trường thế tục hóa tỏ ra không hiểu. Nơi nào mất đi những tầm nhìn thông suốt của đức tin Kitô Giáo, nơi ấy việc chỉ làm con cái Giáo Hội cho có lệ theo qui ước sẽ không đủ để nâng đỡ các quyết định chính yếu trong đời sống nữa; nó cũng không thể cung cấp cho ta một thế đứng vững chắc lúc gặp khủng hoảng hôn nhân, cũng như lúc gặp khủng hoảng linh mục và tu dòng. Nhiều người đặt câu hỏi: làm thế nào tôi có thể gắn bó với một người đàn bà hay một người đàn ông suốt cả đời được? Ai có thể nói cho hay trong mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm sau, cuộc hôn nhân của tôi sẽ ra sao không? Liệu có thể có một sợi dây vĩnh viễn cột tôi với một người nào khác chăng? Rất nhiều liên hệ hôn nhân đang lung lay hiện nay càng tăng cường não trạng hoài nghi của giới trẻ liên quan tới các chọn lựa dứt khoát trong đời.

Mặt khác, lý tưởng trung thành giữa một người đàn ông và một người đàn bà, vốn xây dựng trên trật tự tạo thế, chưa hề mất đi tính hấp dẫn của nó chút nào, như thấy rõ qua các cuộc thăm dò ý kiến giới trẻ gần đây. Phần lớn những người trẻ này mong muốn một liên hệ ổn định và bền vững, phù hợp với bản chất thiêng liêng và luân lý của con người nhân bản. Hơn nữa, ta đừng quên giá trị nhân học của hôn nhân bất khả tiêu: nó kéo các người phối ngẫu ra khỏi tính tùy hứng và ách bạo chúa của xúc cảm và tính khí thất thường. Nó giúp họ sống thoát các khó khăn bản thân và vượt qua các trải nghiệm đau đớn. Trên hết, nó bảo vệ con cái, là những người chịu nhiều thiệt thòi nhất trong các tan vỡ hôn nhân.

Tình yêu không phải chỉ là xúc cảm hay bản năng. Tự bản chất, nó là tự hiến. Trong tình yêu phu phụ, hai con người nói với nhau một cách đầy ý thức và cố ý rằng: chỉ có anh hay chỉ có em mãi mãi mà thôi. Lời của Chúa Giêsu: “Điều Thiên Chúa đã kết hợp” tương xứng với lời hai người phối ngẫu đoan hứa: “Em nhận anh làm chồng... Anh nhận em làm vợ... Em (anh) sẽ yêu thương, quí mến và tôn trọng anh (em) bao lâu em (anh) còn sống, cho tới lúc cái chết phân rẽ chúng ta”.

Linh mục chúc lành cho giao ước mà hai người phối ngẫu vừa đóng ấn với nhau trước mặt Thiên Chúa. Nếu ai đó hoài nghi không biết dây hôn phối có tính hữu thể (ontological) hay không, họ hãy học biết từ lời Thiên Chúa sau đây: “Người là Đấng, từ khởi thủy, đã dựng nên họ có nam có nữ, rồi phán: vì lý do này, người đàn ông sẽ rời cha mẹ mình mà kết hợp với vợ, và cả hai sẽ trở nên một thân xác. Do đó, họ không còn là hai mà là một thân xác” (Mt 19:4-6).

Đối với các Kitô hữu, hôn nhân của những người đã rửa tội, nghĩa là được sáp nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, đều có đặc điểm bí tích và do đó tượng trưng cho một thực tại siêu nhiên. Một vấn nạn mục vụ trầm trọng đang phát sinh từ sự kiện này: nhiều người ngày nay phán đoán hôn nhân Kitô Giáo hoàn toàn bằng tiêu chuẩn trần thế và thực dụng. Những người suy nghĩ theo “tinh thần thế gian” (1Cor 2:12) không thể nào hiểu nổi tính bí tích của hôn nhân. Giáo Hội không thể đáp ứng việc người ta càng ngày càng không hiểu tính thánh thiện của hôn nhân bằng cách thay đổi một cách thực dụng điều giả thiết vốn không thể nào tránh được, mà chỉ bằng cách tín thác nơi “Thần Khí vốn phát xuất từ Thiên Chúa để có thể hiểu được những ơn phúc do Thiên Chúa ban cho ta” (1 Cor 2:12). Hôn nhân bí tích là một chứng từ về sức mạnh của ơn thánh; nó biến đổi con người và chuẩn bị cho toàn thể Giáo Hội bước vào thành thánh, thành Giêrusalem mới, một Giáo Hội được chuẩn bị “như nàng dâu được trang điểm cho phu quân” (Kh 21:2). Tin Mừng về sự thánh thiện của hôn nhân phải được công bố với một sự trung thực có tính tiên tri. Khi đã thích ứng với tinh thần thời đại, vị tiên tri rã rời sẽ chỉ đi tìm sự cứu rỗi cho riêng mình chứ không phải sự cứu rỗi cho thế giới nơi Chúa Giêsu Kitô. Trung thành với lời ưng thuận khi kết hôn là dấu chỉ tiên tri của ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa muốn ban cho thế giới. “Ai có khả năng lãnh hội điều này, hãy lãnh hội nó” (Mt 19:12). Qua ơn thánh bí tích, tình yêu phu phụ được thanh tẩy, tăng cường và thăng hoa. “Được đóng ấn bằng lòng trung thành hỗ tương và được thánh hóa trước hết bằng bí tích của Chúa Kitô, tình yêu này sẽ mãi mãi chân thực một cách bền bỉ trong thân xác và trong tâm trí, trong những ngày sáng sủa và trong những ngày đen tối. Nó sẽ không bao giờ bị xúc phạm bởi ngoại tình hay ly dị” (Gaudium et Spes, 49). Nhờ sức mạnh của bí tích hôn nhân, hai người phối ngẫu dự phần vào tình yêu dứt khoát và bất phản hồi của Thiên Chúa. Do đó, họ có thể trở thành chứng nhân cho tình yêu trung thành của Thiên Chúa, nhưng họ phải không ngừng nuôi dưỡng tình yêu của họ qua việc sống cuộc sống của mình bằng đức tin và bằng tình yêu.

Như mọi mục tử đều biết, ai cũng nhìn nhận rằng sẽ có những tình thế trong đó việc chung sống của vợ chồng, trên thực tế, không còn khả hữu nữa vì nhiều lý do thôi thúc, như bạo lực thể lý hay tâm lý. Trong những trường hợp khó khăn như thế, Giáo Hội luôn cho phép các người phối ngẫu được ly thân và không còn phải sống với nhau nữa. Tuy nhiên, điều cần phải nhớ là: dây hôn phối của một cuộc hôn nhân thành sự vẫn nguyên vẹn trước mặt Thiên Chúa, và các bên cá thể không được tự do kết ước một hôn nhân mới, bao lâu người phối ngẫu kia còn sống. Do đó, các mục tử và các cộng đoàn phải cố gắng cổ vũ con đường hòa giải cả trong các trường hợp này nữa hay nếu không thể làm được điều này, thì giúp các người liên hệ đối diện với tình thế khó khăn của họ bằng đức tin.

Các quan sát dựa trên thần học luân lý

Người ta thường gợi ý cho rằng những người ly dị tái hôn nên được phép quyết định cho chính họ, theo lương tâm họ, liệu có nên bước lên rước lễ hay không. Luận điểm này, đặt căn bản trên ý niệm còn đang tranh cãi về “lương tâm”, đã bị văn kiện của Bộ Giáo Lý Đức Tin năm 1994 bác bỏ. Lẽ dĩ nhiên, mỗi lần tham dự Thánh Lễ, các tín hữu đều phải xét xem liệu mình có thể rước lễ được không, hay một tội trọng chưa xưng có thể gây trở ngại. Đồng thời, họ có bổn phận phải huấn luyện lương tâm và giúp nó phù hợp với chân lý. Khi làm như thế, họ cũng lắng nghe Huấn Quyền Giáo Hội, là thẩm quyền giúp họ “khỏi đi chệch ra ngoài sự thật về thiện ích của con người, nhưng thay vào đó, nhất là trong các vấn đề khó khăn hơn, giúp họ biết đạt tới sự thật một cách chắc chắn và sống trong sự thật ấy” (Veritatis Splendor, 64). Nếu người ly dị tái hôn xác tín một cách chủ quan trong lương tâm họ rằng cuộc hôn nhân trước bất thành, thì điều này phải được chứng minh một cách khách quan bởi các tòa án hôn phối có năng quyền. Hôn nhân không phải chỉ là mối liên hệ của hai người với Thiên Chúa, nó còn là một thực tại của Giáo Hội nữa, một bí tích, và các cá nhân liên hệ không có quyền quyết định tính thành sự của nó, mà đúng hơn quyền ấy dành cho Giáo Hội, định chế mà các cá nhân được sáp nhập vào nhờ đức tin và phép rửa. “Nếu cuộc hôn nhân trước của hai tín hữu ly dị và tái hôn đã thành sự, thì cuộc kết hợp mới của họ, dù dưới bất cứ hoàn cảnh nào, cũng không thể được coi là hợp pháp, và do đó, việc lãnh nhận các bí tích là bất khả hữu một cách nội tại. Lương tâm cá nhân bị trói buộc vào qui định này không có ngoại lệ nào cả” (Đức HY Joseph Ratzinger, “The Pastoral approach to marriage must be founded on truth” L’Osservatore Romano, Bản Tiếng Anh, 7 tháng Mười Một năm 2011, p. 4).

Giáo huấn về epikeia, theo đó, một luật lệ rất có thể có giá trị phổ quát, nhưng không luôn luôn được áp dụng vào một số tình huống cụ thể nào đó của con người, cũng không thể được nại tới ở đây vì trong trường hợp bất khả tiêu của hôn nhân bí tích, ta đương đầu với thiên luật là luật nằm ngoài quyền xử lý của Giáo Hội. Tuy nhiên, như đã thấy trong trường hợp đặc ân Thánh Phaolô, Giáo Hội quả có thẩm quyền minh xác các điều kiện cần được thỏa mãn để một hôn nhân bất khả tiêu có thể xẩy ra, như Chúa Giêsu truyền dạy. Dựa trên căn bản này, Giáo Hội đã thiết lập ra các ngăn trở đối với hôn nhân, nhìn nhận các cơ sở để tuyên bố vô hiệu và khai triển ra diễn trình chi tiết để xem sét các cơ sở này.

Một lý lẽ nữa đã được đưa ta để biện hộ việc cho phép các người ly dị tái hôn được chịu các bí tích là lòng thương xót. Xét vì chính Chúa Giêsu từng tỏ tình liên đới với những người đau khổ và từng tuôn tràn tình yêu thương xót trên họ, nên lòng thương xót được kể là một phẩm tính biệt loại của người môn đệ đích thực. Điều này đúng, nhưng trệch đích nhắm khi được sử dụng như một luận chứng trong lãnh vực thần học bí tích. Trọn nhiệm cục bí tích là công trình của lòng thương xót Chúa; nó không thể giản đơn bị gạt qua một bên bằng một việc nại tới chính lòng thương xót ấy. Việc nại tới lòng thương xót nào lầm lẫn một cách khách quan cũng đều có nguy cơ tầm thường hóa hình ảnh Thiên Chúa, qua việc ngụ ý cho rằng Thiên Chúa không thể làm gì khác ngoài việc tha thứ. Mầu nhiệm Thiên Chúa bao gồm không những lòng thương xót của Người mà còn cả sự thánh thiện và công lý của Người nữa. Nếu ta dám dẹp bỏ các đặc điểm vừa kể của Thiên Chúa và từ khước không coi tội là việc nghiêm trọng, thì nhiên hậu ngay cả việc đem lòng thương xót của Chúa tới con người cũng là điều không thể có. Chúa Giêsu tỏ lòng cảm thương vô bờ đối với người đàn bà ngoại tình, nhưng Người vẫn nói với chị: “Con hãy đi và đừng phạm tội nữa” (Ga 8:11). Lòng thương xót của Thiên Chúa không miễn chước ta khỏi tuân theo các giới răn của Người hay các giới luật của Giáo Hội. Đúng hơn, nó ban cho ta ơn thánh và sức mạnh cần thiết để chu toàn các giới răn và các giới luật này, để ta vực ta dậy sau mỗi lần té ngã, và để ta sống cuộc sống viên mãn theo đúng hình ảnh Cha ta ở trên trời.

Chăm sóc mục vụ

Cho dù không thể cho phép các người ly dị tái hôn được chịu các bí tích, vì bản chất nội tại của họ, nhưng chính vì thế ta càng có nhiệm vụ phải tỏ quan tâm mục vụ đối với các thành viên tín hữu này, để hướng dẫn họ cách rõ ràng tới những điều dạy bảo của thần học mặc khải và huấn quyền. Con đường được Giáo Hội chỉ vẽ không dễ dàng chút nào đối với những người liên hệ. Ấy thế nhưng họ nên biết và cảm nhận điều này: như một cộng đồng cứu rỗi, Giáo Hội luôn sánh bước với họ trong hành trình của họ. Bao lâu các bên cố gắng hiểu biết tập tục của Giáo Hội và hạn chế không rước lễ, họ đã làm chứng cách riêng cho tính bất khả tiêu của hôn nhân vậy.

Điều rõ ràng là không nên rút gọn việc chăm sóc các người ly dị tái hôn vào việc rước lễ mà thôi. Nó bao hàm một phương thức mục vụ có phạm vi bao quát hơn nhiều; phương thức này cố gắng đánh giá đúng các tình huống khác nhau. Điều quan trọng là phải hiểu ra rằng ngoài việc chịu lễ ra, còn có những phương cách khác để hiệp thông với Chúa. Người ta có thể tiến gần Thiên Chúa bằng cách hướng về Người bằng đức tin, đức cậy và đức mến, bằng việc thống hối và cầu nguyện. Thiên Chúa có thể ban sự gần gũi và ơn cứu rỗi cho những người đang đi trên những nẻo đường khác, thậm chí cả lúc họ rơi vào những tình huống sống mâu thuẫn nữa. Như các văn kiện gần đây của huấn quyền vốn nhấn mạnh, các mục tử và các cộng đoàn Kitô Giáo được kêu gọi chào đón một cách cởi mở và thành thực những người đang sống trong các tình huống bất bình thường, hỗ trợ họ một cách thiện cảm và đầy giúp đỡ, và giúp họ ý thức được tình yêu của Đấng Chăn Chiên Lành. Nếu chăm sóc mục vụ bắt nguồn từ sự thật và tình yêu, chắc chắn nó sẽ khám phá được nhiều nẻo đường và phương thức đúng đắn một cách không ngừng mới mẻ.
 
150 ngàn tín hữu tham dự Thánh Lễ Đức Thánh Cha cử hành với các gia đình
LM. Trần Đức Anh OP
09:38 27/10/2013
VATICAN. Sáng Chúa Nhật 27-10-2013, 150 ngàn tín hữu đã tham dự Thánh Lễ ĐTC Phanxicô cử hành với các gia đình đến từ 75 nước trên thế giới, kết thúc tốt đẹp cuộc hành hương của cac gia đình tại Roma trong Năm Đức Tin.

Tối thứ bẩy trước đó, 26-10-2013, các gia đình này đã gặp gỡ với ĐTC, chia sẻ chứng từ và tuyên xưng đức tin, cũng tại quảng trường thánh Phêrô. Trong số các tín hữu có nhiều người thuộc các phong trào Công Giáo Tiến hành, canh tân trong Thánh Linh, Con đường tân dự tòng, v.v. Đồng tế với ĐTC có hơn 60 HY và GM, cùng với 500 LM

Bài giảng Thánh Lễ

Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC đã dựa vào các bài đọc để rút ra những bài học thực tế cho đời sống gia đình, đó là gia đình cầu nguyện, gia đình bảo tồn đức tin và gia đình sống niềm vui. Ngài nói:

”Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về một vài đặc tính cơ bản của gia đình Kitô.

1. Thứ I: gia đình cầu nguyện. Đoạn sách Tin Mừng làm nổi bật hai cách thức cầu nguyện, một cách sai lầm như người biệt phái - và một cách đúng đắn là cách của người thu thuế. Người biệt phái là hiện thân của một thái độ không biểu lộ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa vì những ơn lành và lòng từ bi của Ngài, nhưng đúng hơn tỏ ra tự mãn. Người biệt phải cảm thấy mình là người công chính, thấy mình hoàn hảo, và hãnh diện đoán xét người khác từ trên bệ cao của mình. Trái lại, người thu thuế không nói nhiều lời. Kinh nguyện của ông là một sự điều độ khiêm tốn, ý thức về sự bất xứng và tình trạng lầm than của mình: người ấy nhìn nhìn nhận mình cần ơn tha thứ và lòng từ bi của Thiên Chúa.

Kinh nguyện của người thu thuế là kinh nguyện của người nghèo, và là kinh nguyện làm hài lòng Thiên Chúa, như bài đọc thứ I đã nói, kinh nguyện ấy ”bay tới mây trời” (Hc 35,20), trong khi kinh nguyện của người biệt phái nặng nề vì những kiêu căng thừa thãi.

Hỡi các gia đình thân mến, dưới ánh sáng Lời Chúa, tôi muốn hỏi anh chị em: thỉnh thoảng anh chị em có cầu nguyện trong gia đình không? Tôi biết một số gia đình có cầu nguyện chung. Nhưng cũng có nhiều người nói với tôi: mà làm sao cầu nguyện chung? Vì dường như kinh nguyện là chuyện cá nhân, vả lại chả bao giờ có lúc thuận thiện, yên tĩnh.. Đúng thế, nhưng vấn đề ở đây là khiêm tốn, nhìn nhận rằng chúng ta cần Thiên Chúa, giống như người biệt phái! và cần có sự đơn sơ! Cùng nhau đọc kinh ”Lạy Cha” quanh bàn ăn, ta có thể làm được. Và cầu nguyện chung với kinh Mân Côi trong gia đình, đó là điều thật đẹp và mang lại bao nhiêu sức mạnh! Và cầu nguyện cho nhau! Chồng cầu cho vợ, vợ cầu cho chồng, cả hai cầu cho con cái, và con cái cầu cho cha mẹ, ông bà. Cầu nguyện cho nhau, đó là cầu nguyện trong gia đình, và điều làm cho gia đình mạnh mẽ chính là lời cầu nguyện.

2. Bài đọc thứ hai gợi cho chúng ta một điểm khác nữa: gia đình gìn giữ đức tin. Thánh Phaolô Tông Đồ, vào cuối đời, đã làm một bản kết toán cơ bản: ”Tôi đã bảo tồn đức tin” (2 Tm 4,7). Nhưng làm sao bảo tồn đức tin? Không phải trong một tủ sắt! Không phải chôn vùi đức tin dưới đất, như người đầy tớ lười biếng. Thánh Phaolô so sánh cuộc sống của ngài với một cuộc trận chiến và một cuộc chạy đua. Ngài đã bảo tồn đức tin vì ngài không phải chỉ thu hẹp vào việc bảo vệ đức tin, nhưng loan báo, chiếu tỏa và đưa đức tin đi xa. Ngài quyết liệt chống lại những người muốn bảo tồn, ”tẩm liệm” đóng khung sứ điệp của Chúa Kitô trong biên cương Palestine. Vì thế, thánh nhân đã thực hiện những chọn lựa can đảm, đi tới những lãnh thổ đố kỵ, để cho mình bị những người xa xăm, những nền văn hóa khác, khiêu khích, ngài đã rao giảng một cách thẳng thắn không sợ hãi. Thánh Phaolô đã bảo tồn đức tin vì, như ngài đã nhận lãnh, đã trao ban, đẩy mình tới những vùng ngoại biên, không bám vào những vị trí tự vệ.
Ở đây chúng ta cũng có thể tự hỏi: chúng ta có thể giữ gìn đức tin như thế nào? Phải chăng chúng ta giữ đức tin cho mình, trong gia đình chúng ta, như một tư sản, hay chúng ta biết chia sẻ đức tin bằng chứng tá, bằng sự tiếp đón, cởi mở đối với tha nhân? Tất cả chúng ta biết rằng các gia đình, nhất là những gia đình trẻ, thường ”chạy”, quá nhiều công việc; nhưng đôi khi anh chị em có nghĩ rằng sự chạy đi vậy có thể cũng là một cuộc chạy đua đức tin? Các gia đình Kitô là những gia đình thừa sai, trong đời sống hằng ngày, làm những công việc hằng ngày, đặt muối và men đức tin trong mọi sự!

3. Một khía cạnh chúng ta rút được từ Lời Chúa, đó là gia đình sống niềm vui. Trong thánh vịnh đáp ca có thành ngữ này: ”Những người nghèo hãy lắng nghe và vui mừng” (33/34,3). Trọn thánh vịnh này là một bài ca chúc tụng Chúa là nguồn mạch vui mừng và an bình. Đâu là lý do để vui mừng? Thưa đó là: Chúa ở gần, Ngài lắng nghe tiếng kêu của những người khiêm hạ và giải thoát họ khỏi sự ác. Thánh Phaolô cũng viết: ”Anh chị em hãy luôn vui tươi.. Chúa đang ở gần!” (Pl 4,4-5). Hôm nay tôi muốn hỏi mỗi người trong anh chị em, như một bài tập cần làm: ở nhà có niềm vui không? Niềm vui trong gia đình bạn như thế nào? Mỗi người hãy tự trả lời!

Hỡi các gia đình thân mến, anh chị em biết rõ điều này: niềm vui chân thực mà ta nếm hưởng trong gia đình không phải là một cái gì hời hợt, không đến từ sự vật, từ những hoàn cảnh thuận tiện.. Niềm vui chân thực đến từ một sự hòa hợp sâu xa giữa con ngừơi, mà mọi người đều cảm thấy trong tâm hồn, nâng đỡ nhau trên con đường đời. Nhưng ở căn cội tâm tình vui mừng sâu xa ấy có sự hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình, có tình thương đón tiếp, của Ngài, tình yêu từ bi, tôn trọng mọi người. Và nhất là một tình yêu kiên nhẫn: kiên nhẫn là một đức tính của Thiên Chúa và Chúa dạy rằng trong gia đình phải có tình yêu kiên nhẫn như thế, mỗi người đối với nhau. Chỉ mình Thiên Chúa biết kiến tạo sự hòa hợp giữa những khác biệt. Nếu thiếu tình thương của Thiên Chúa, thì cả gia đình cũng mất đi sự hòa hợp, và thái độ duy cá nhân chủ nghĩa sẽ trổi vượt, và niềm vui bị tắt lịm. Trái lại, gia đình nào sống niềm vui đức tin thì tự nhiên cũng thông truyền, là muối đất và là ánh sáng thế gian, là men cho xã hội.
Và ĐTC kết luận rằng:

Hỡi các gia đình thân mến, anh chị em hãy luôn sống với niềm tin và với tinh thần đơn sơ, như Thánh Gia Nazareth. Ước gì niềm vui và an bình của Chúa luôn ở cùng anh chị em!

Kinh nguyện dâng lên Thánh Giá Thất

Cuối thánh lễ, Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC..

Tiếp đó, ĐTC tiến đến trước ảnh Thánh Gia và đọc kinh cầu nguyện với Thánh Gia Thất:
Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, hôm nay chúng con muốn nhìn lên Thánh Gia Thất Nazareth với lòng ngưỡng mộ và tín thác; nơi Thánh Gia, chúng con chiêm ngưỡng vẻ đẹp của sự hiệp thông trong tình yêu chân thực; chúng con phó thác cho các Ngài tất cả các gia đình chúng con, để những kỳ công của ân thánh được đổi mới trong họ.

Lạy Thánh Gia Nazareth, là trường dạy Thánh Tin Mừng đầy sức thu hút: xin dạy chúng con noi gương nhân đức của các Ngài nhờ một kỷ luật tinh thần khôn ngoan, xin ban cho chúng con cái nhìn trong sáng biết nhận ra công trình của Chúa Quan Phòng trong những thực tại hằng ngày của cuộc sống.

Lạy Thánh Gia Nazareth, đã trung thành gìn giữ mầu nhiệm cứu độ, xin làm tái sinh nơi chúng con lòng quí mến sự thinh lặng, xin làm cho gia đình chúng con thành Nhà Tiệc Ly cầu nguyện và biến thành những Giáo Hội tại gia nhỏ bé, xin canh tân ước muốn nên thánh, nâng đỡ những vất vả cao thượng của lao công, giáo dục, lắng nghe, cảm thông lẫn nhau và tha thứ.
Lạy Thánh Gia Nazareth, xin khơi dậy trong xã hội chúng con ý thức về tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình, là thiện ích vô giá và không thể thay thế được. Ước gì mỗi gia đình trở thành nhà ở niềm nở tốt lành và an bình cho các trẻ em và người già, cho người bệnh và cô đơn, cho người nghèo túng.

Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, cùng với các ngài chúng con tín thác cầu nguyện, và hân hoan phó thác nơi các ngài.

Trước khi đọc kinh truyền tin kết thúc, ĐTC còn ngỏ lời chào và cám ơn tất cả các tín hữu hành hương, đặc biệt là các gia đình đến từ bao nhiêu quốc gia!

Ngài cũng chào thăm các GM và tín hữu từ nước Guinea Equatoriale bên Phi châu đến Roma này nhân dịp trao đổi văn kiện phê chuẩn hiệp định với Tòa Thánh. Xin Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm nguyên tội bảo vệ quốc dân yêu quí của anh chị em, và giúp anh chị em tiến triển trên con đường hòa hợp và công lý.

ĐTC mời các tín hữu, qua kinh Truyền Tin, cầu xin Mẹ Maria bảo vệ các gia đình trên toàn thế giới, đặc biệt là các gia đình đang sống trong những hoàn cảnh khó khăn nhiều hơn.

Ngài và các tín hữu 3 lần lập lại lời khẩn nguyện: Lạy Mẹ Maria, Nữ Vương các gia đình, xin cầu cho chúng con.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đức Quốc: Ngày Lễ Hội Khánh Nhật Truyền Giáo Dòng Ngôi Lời
Thanh Sơn
11:09 27/10/2013
Đức Quốc: Ngày Lễ Hội Khánh Nhật Truyền Giáo Dòng Ngôi Lời

Mỗi người góp một bàn tay

Mừng ngày truyền giáo dựng xây chung phần

Mang lời Chúa đến muôn dân

Lời ban sự sống hồng ân cho đời.

Xem Hình

Vâng! hôm nay là ngày "Khánh nhật truyền giáo" ngày mà Giáo Hội nhắc nhở mọi người Kitô hữu về bổn phận của mình. Là người Kitô hữu không phải chỉ biết giữ đạo cho mình, nhưng còn có bổn phận phải sống đạo và truyền đạo nữa. Lời Chúa Giêsu đã sai chúng ta đi rao truyền lời Ngài cho muôn dân.

Hôm nay tôi cũng như bao nhiêu người khác từ khắp nơi trở về nhà dòng Ngôi Lời Sankt Augustin để mừng ngày "Khánh nhật truyền giáo" do các cha dòng Ngôi lời Việt Nam tổ chức hàng năm. Tôi lái xe hăng hái vượt 200 cây số về đây để góp một bàn tay nhỏ bé của mình cho ngày đầy ý nghĩa này. Trời hôm nay đã vào cuối tháng mười nhưng lại nắng đẹp trong lành. Hai bên đường những hàng cây đã ngã màu vàng như thầm nhắc nhở tôi rằng: Mùa thu đã đến, dù bên ngoài trời có trong xanh, có ấm áp được một thời gian đi chăng nữa thì lá vàng kia cũng phải rụng xuống mà thôi. Những cánh lá kia có mong mỏi rơi về cội nguồn không? Câu trả lời chắc chắn là có. Còn chúng ta thì sao??? Chắc chắn chúng ta ai cũng muốn trở về nguồn cội. Về nơi suối nguồn tình yêu của Thiên Chúa, là nơi Ngài ban cho ta vào đời trong một khoảng thời gian xuân, hạ, thu, đông rồi chúng ta cũng sẽ phải trở về. Nhưng nếu muốn trở về suối nguồn tình yêu với Thiên Chúa là nơi ta phát xuất thì ta phải làm sao?

Câu trả lời đã qúa rõ ràng cho mỗi người chúng ta. Hãy sống đạo tốt và ra đi loan báo tin mừng cho muôn dân.

Năm nay tôi nhất quyết phải đến sớm nhưng hơi bị kẹt xe nên cuối cùng thì đến nơi cũng vừa giờ thánh lễ.

Trước cổng nhà dòng căng một Banner với hàng chữ:

HÃY RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO MUÔN DÂN.

Trước thánh lễ Lm. Giuse Lê Thắng chịu trách nhiệm tổ chứ chính của ngày lễ hôm nay chào mừng Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long tuyên úy cho giáo đoàn Köln và Aachen những giáo dân Việt nam của vùng này, ngài cũng là chủ tế thánh lễ hôm nay. Chào mừng tất cả qúy tu sĩ và giáo dân đến từ khắp nơi Đức, Hòa Lan, Đan Mạch, Bỉ, Thụy Sĩ v. v...

Hôm nay.

(gần bên bàn thánh tôi thấy có một bàn thờ với bản đồ nước Việt Nam để trong thánh lễ này, chúng ta cũng không quên quê hương tổ quốc và những người đồng bào thân thương của chúng ta.)

Hôm nay có tới hai ca đoàn, ca đoàn trẻ và ca đoàn tổng hợp. Đây cũng là một cách nào đó tuyệt vời cho sự truyền giáo.

Sau hai bài đọc với bài đáp ca của ca đoàn trẻ rất tuyệt vời.

Lm. Giuse Lê Thắng công bố và chia sẻ Tin Mừng khá thú vị. Một số Lm. dòng Ngôi Lời Việt Nam từ Đức Quốc này sau khi chịu chức thì đi qua Phi Châu để truyền giáo gặp rất nhiều khó khăn và có lắm cái cũng cười ra nước mắt. Có một cha kể rằng: cha đến một nơi kia thì tất cả mọi người rất là tự nhiên đi dự thánh lễ thì cởi trần. Không chỉ nam mà cả nữ, họ rất tự nhiên ở trần phơi ngực ra như vậy. Một lần ngài dạy giáo lý xong để Đức Giám Mục đến ban phép thêm sức. Ngài nghĩ chẳng lẽ ngày mai Đức Giám Mục đến ban phép thêm sức mà các thiếu nữ ở trần như vậy thì kỳ qúa. Ngài ra lệnh cho tất cả các thiếu nữ ngày chịu phép thêm sức phải mặc áo vào. ngày hôm sau các cô đều vâng lời mặc áo hết nhưng cái oái oăm là họ lại khoét hai cái lỗ trước ngực để phơi ra. Thì ra phong tục của họ là phải để như thế mới đẹp mà mới đúng.

Có nơi như ở nước papua new guinea thì tất cả mọi cái họ đều tính bằng heo. Mua bán cũng lấy đơn vi heo ra làm chuẩn. Dâng của lễ cũng bằng heo. Nghĩa là cái gì cũng phải tính ra heo. Đấy là một vài cái chuyện vui vui. Còn rất nhiều cái nguy hiểm thì khỏi kể. chỉ kể cái nguy hiểm về bệnh sốt rét thôi. Hầu như các cha sang đó là cha nào cũng lãnh cái bệnh này cả. Chắc chắn là sẽ bị run cầm cập giữa ngày nắng nóng cho mà xem. Đó là những nơi xa xôi cần đem Lời Chúa và tình yêu thương của Chúa đến những nơi này. Chúng ta đều là mộn đệ Chúa, chúng ta không thể phó mặc chuyện này cha các thừa sai được. nhất quyết là mộn đệ Chúa thì chúng ta phải đóng góp một bàn tay với các ngài, không thể trực tiếp được thì cũng phải gián tiếp, vì chính lời của chúa Giêsu đã truyền cho chung ta như thế. Còn ở Âu Châu này như ở Hòa Lan số phần trăm ngưới Công Giáo càng ngày càng ít đi. Bên Đức này cũng vậy nhưng còn khá hơn một ít. Vậy chúng ta đang sống ở đây, là người Công Giáo Việt Nam chúng ta cũng phải sống sao cho xứng đáng với lời Chúa dạy. Giáo Hội địa phương nơi đây cũng đang rất cần những cách sống đạo của chúng ta

Amen.

Những lời nguyện giáo dân cầu cho Đức Giáo Hoàng và phẩm trật Giáo Hội được hướng theo chiều tốt lành của Thiên Chúa.

- Cho Giáo Hội quê nhà luôn biết trung thành với Giáo Hội mẹ và luôn can đảm cất lên tiếng nói cho người nghèo khó và đang gặp những bất công.

-Cho những nơi đang bị đàn áp bắt bớ và tù đày oan ức.

- Cầu cho các linh hồn tiền nhân và đặc biệt cho hai linh hồn mới qua đời trong đó có linh hồn ông cựu cộng đoàn trưởng nơi đây thánh lễ an táng vào ngày mai.

- Cầu đặc biệt cho ngày Khánh nhật truyền giáo trên thế giới.

Cuối thánh lễ các em bé thiếu nhi dâng hoa kính Đức Mẹ thật là dễ thương và đẹp mắt chấm dứt với tràng vỗ tay dài như bất tận.

Chương trình năm nay gặp nhiều thuận lợi vì nhờ thời tiết ấm áp nên sinh hoạt rất thoải mái. Rất nhiều tiết mục hay. Như những bài hợp ca của ca đoàn trẻ.

Ca đoàn tổng hợp, các cha, thầy và rất rất nhiều giọng ca vàng trong đem văn nghệ buổi tối nay.

Rất tiếc vì ở xa và phải tường thuật bài này cho kịp nên tôi ra lái xe về lúc 21 giờ bỏ lại nơi nhà dòng đang còn rất nhiều mục văn nghệ hay và rất ý nghĩa của ngày KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO 2013.

Tạ ơn Chúa cho hôm nay đẹp qúa

Lời của Ngài hơn cả vạn lời ca

Ngày Khánh nhật truyền giáo mãi vang xa

Và đi mãi nở hoa tình bác ái.

Thanh Sơn 26.10.2013

Ngày khánh nhật truyền giáo.
 
CĐCGVN Sydney mừng kính ngày Thánh Mẫu
Diệp Hải Dung
20:09 27/10/2013
Sáng Chúa Nhật 27/10/2013 hơn 4000 Giáo dân và các Hội đoàn, Đoàn thể trong Cộng Đồng và những người không Công Giáo, đã đến Trung Tâm Hành Hương Thánh Mẫu Bringelly Sydney tham dự hành hương mừng kính Ngày Thánh Mẫu với chủ đề: “Cùng Với Mẹ Sống Đức Tin”

Xem hình ảnh

Tất cả mọi người đều tập trung trước tượng đài Đức Mẹ và Cha Paul Văn Chi hướng dẫn giờ đền tạ, dâng lời nguyện xin Mẹ chúc lành ban ơn cho bản thân, cho Gia Đình và Giáo Hội. Sau đó đoàn Phụng vụ, Đức Giám Mục Giuse Đinh Đức Đạo Phụ tá Giáo phận Xuân Lộc Việt Nam và 17 quý Cha cung nghinh kiệu Thánh tượng Đức Mẹ La Vang do Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm phép tại Tòa Thánh Vatican và cùng với Linh Hài Các Thánh Tử Đạo Việt Nam ra trước tượng đài Đức Mẹ. Đức Giám Mục Giuse Đinh Đức Đạo dâng hương kiệu Thánh Tượng Mẹ La Vang, đồng thời 3 hồi Chiêng Trống vang rền hòa với Ban Tây Nhạc Cecilia với nhạc khúc Chào Mừng và Kính Mừng Nữ Vương khai mạc cuộc rước kiệu cung nghinh Thánh tượng Mẹ La Vang và Linh Hài Các Thánh TĐVN về Lễ đài.

Cuộc kiệu rất long trọng trang nghiêm, mọi người cùng dâng lên Mẹ Chuỗi Mân Cội Mùa Mừng nguyện xin Mẹ ban muôn ơn lành cho Gia Đình và Cộng Đồng. Khi kiệu về đến Lễ Đài, đoàn diễn nguyện Thiếu Nhi với vũ khúc Hoa Mân Côi Dâng Lên Mẹ rất đặc sắc và linh động.

Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn ngỏ lời chào mừng tất cả mọi người và bày tỏ niềm vinh dự đón tiếp Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, Giám Mục Phụ tá Giáo phận Xuân Lộc, một Giáo phận tương đối lớn nhất nhì của quê hương Việt Nam chúng ta. Đức Cha Giuse đã ưu ái đến thăm Cộng Đồng CGVN Tổng Giáo Phận Sydney. Đồng thời, trong Thánh Lễ Hành Hương hôm nay, Cộng Đồng chúc mừng Tân Linh Mục: Cha Vincent Nguyễn Hoàng Trung vừa thụ phong ngày hôm qua 26/10/2013 tại Điạ phận Broken Bay NSW Australia. Cộng Đồng cũng đón mừng qúy Cha khách từ VN và các Điạ phận khác đến tham dự ngày hành hương Thánh Mẫu hôm nay.

Đức Giám Mục Giuse Đinh Đức Đạo ngỏ lời chào Cha Tuyên Úy Trưởng, quý Cha trong Ban Tuyên Úy và quý Cha đồng tế, quý Tu Sĩ Nam Nữ và tất cả mọi người về đây hành hương kính Đức Mẹ ngày hôm nay. Sau đó Đức Giám Mục và quý Cha cùng hiệp dâng Thánh lễ.

Trong bài giảng Thánh Lễ Đức Giám Mục Giuse đã nói về Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức lần đầu tiên, Thánh nữ Bernadette lúc đó mới có 15 tuổi sợ không biết là ai nên dùng tràng hạt Mân Côi lần hạt, sau đó người ta hỏi Thánh Nữ Bernadette khi Thánh Nữ lần hạt như thế thì thái độ của Đức Mẹ như thế nào? Thánh Nữ trả lời: “Khi con đọc Lạy Cha chúng con ở trên trời, thì Đức Mẹ ngước mắt lên trời cùng đọc với con, khi con đọc Kính Mừng Maria đầy ân phúc... Đức Mẹ nhìn con mỉm cười tỏ vẻ hài lòng." Hôm nay chúng ta tụ họp nhau về đây hành hương kính Đức Mẹ hát ca tụng Mẹ. Mẹ nhìn xuống chúng ta là đàn con cái của Mẹ có mặt hôm nay ở đây mỉm cười và tỏ vẻ hài lòng, chúng ta hãy mở lòng chúng ta để đón nhận tình thương yêu của Mẹ Maria, để Mẹ dạy dỗ chúng ta biết cách tôn thờ Chúa, biết cách sống đúng con cái của Chúa…Ngài cũng nhắc nhở Sứ Điệp của Mẹ La Vang: " Đức Mẹ hứa từ nay về sau, ai đến khẩn cầu tại chốn này cầu nguyện, Đức Mẹ sẽ ban ơn phù hộ."

Trước khi kết thúc Thánh lễ Anh Trần Anh Vũ Chủ tịch CĐCGVN TGP Sydney lên ngỏ lời cám ơn quý Đức Giám Mục, qúy Cha, quý Tu Sỹ và tất cả mọi người đã đến đây cùng hiệp dâng Thánh lễ tạ ơn mừng Ngày Thánh Mẫu truyền thống hằng năm của Cộng Đồng với chủ đề Cùng Mẹ Sống Đức Tin. Và cũng xin cám ơn quý Hội Đồng Mục Vụ, các Phong Trào, Ban Ngành Đoàn Thể và mỗi cá nhân đã tích cực cộng tác trong việc tổ chức Ngày Thánh Mẫu hôm nay được tốt đẹp. Nguyện xin Mẹ phù hộ cho Cộng Đồng và xin Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bầu cử giúp đỡ chúng con sống chứng nhân đức tin.

Thánh lễ kết thúc mọi người cùng ở lại tham quan Trung Tâm và ghé những gian hàng ẩm thực của các Hội Đoàn trong Cộng Đồng.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
'Đất đai thuộc sở hữu toàn dân' là vô nghĩa
Người Việt
16:43 27/10/2013
HÀ NỘI (NV). - Tuy báo chí tường thuật, đa số đại biểu Quốc hội CSVN “tán thành dự thảo hiến pháp”, trong đó có hiến định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”, nhiều cựu viên chức vẫn phản đối.

Trong thư ngỏ gửi Quốc hội Việt Nam ghi ngày 23 tháng 10, ông Nguyễn Trọng Vĩnh, 76 tuổi đảng, cựu thiếu tướng, cựu đại sứ CSVN tại Trung Quốc, cựu Phó Ban Tổ chức Trung ương và hiện là Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam, nhấn mạnh, chính yếu tố “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” mang tính chất tước đoạt, rất vô lý đã là nguyên nhân sinh ra biết bao tệ hại, tiêu cực.

Ông Vĩnh kể lại chuyện cũ, theo đó, Đảng CSVN từng hứa hẹn “độc lập dân tộc, ruộng đất cho dân cày” để lôi kéo nông dân theo mình. Năm 1955, cải cách ruộng đất tuy sai lầm nghiêm trọng nhưng ruộng đất vẫn là tư hữu. Sau 1975, vì chủ trương xây dựng xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin, Hiến pháp 1980 mới hiến định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”.

Ông Vĩnh nêu thắc mắc, sự kiện Liên Xô tan rã, cả hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chứng tỏ xã hội chủ nghĩa kìm hãm phát triển, không hiện thực, vậy chúng ta vẫn giữ “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” còn có ý nghĩa gì?

Theo ông, “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” là nguyên nhân đẻ ra tham nhũng tràn lan. Chính quyền từ cấp xã trở lên đã có thể nhân danh “nhà nước” cấp đất, thu hồi đất, bán đất làm giàu. Ông Vĩnh xem đó là tội ác khiến nhiều gia đình nông dân mất nguồn sinh kế trở thành cầu bơ cầu bất. Đó cũng là sự oán hận chất chứa trong lòng dân chúng, nếu tiếp tục có thể “tức nước vỡ bờ”.

Ông Vĩnh kêu gọi Quốc hội lắng nghe ý kiến thực của dân, vì lợi ích của dân mà hủy bó ý định duy trì “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”, sửa lại thành “đất đai gồm đa sở hữu”, có sở hữu nhà nước, có sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể.

Hồi giữa tháng 9, ông Đặng Ngọc Viết, 42 tuổi, tìm tới phòng làm việc của Trung tâm Phát triển qũy đất tỉnh Thái Bình, lần lượt bắn từng người, trong đó, có hai là Phó Giám đốc, ba là cán bộ của Trung tâm Phát triển qũy đất tỉnh Thái Bình vì bị thu hồi đất. Ông Tương Lai, cựu Viện trưởng Viện Xã hội học, người đã từng khảo sát về cuộc nổi dậy của hàng chục ngàn nông dân Thái Bình hồi 1997, trả lời phỏng vấn trên đài BBC cho rằng, đó là biểu hiện của việc người dân bị dồn đến cùng đường.

Theo ông Tương Lai, trường hợp ông Viết hay trường hợp anh em ông Đoàn Văn Vươn ở huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, cho thấy, người dân bị dồn nén tới mức buộc phải hành động như thế vì không còn cách nào khác.

Ông Tương Lai dẫn thêm phản ứng của giáo dân Giáo xứ Mỹ Yên và vụ đàn áp những phản ứng này để kết luận: Bạo lực đang gia tăng và dẫn tới những đột biến không thể lường trước.

Theo ông Tương Lai, khi chính quyền và dân cùng lấy bạo lực làm phương tiện để xử lý các vấn đề thì rõ ràng cả hai bên đều đã lâm vào tình trạng bế tắc. Phía chính quyền thì bối rối, bất lực, không tự̣ tin vào tính chính danh, chính nghĩa của mình nên dùng bạo lực để đàn áp. Phía dân thì dù biết rõ là đối đầu với chính quyền sẽ đi tù hay mất mạng nhưng bởi bị đẩy tới cùng đường, họ mất sự sáng suốt và hành động bột phát. Hành động bột phát cho thấy những uất ức đã tích lũy từ lâu và bây giờ là lúc bộc lộ.

Ông Tương Lai khuyến cáo, một chính quyền có trách nhiệm với dân, vẫn còn nghĩ rằng nhà nước này là của dân, do dân, vì dân thì phả́i thấy tại sao mà người dân uất ức đến độ phải dùng súng bắn lại rồi tự tử.

Về nguồn gốc của mâu thuẫn, giáo sư Tương Lai nhấn mạnh, “đất đai là vấn đề của mọi vấn đề”. Do tấc đất là tấc vàng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng và “người ta” cũng biết là “không bền” nên cố “ngoạm” nhanh rồi “chuồn”, do vậy “họ” đã dùng mọi thủ đoạn để “ngoạm” nó bằng mọi danh nghĩa.

Tuy luật đất đai ở Việt Nam đã được xác nhận là vô lý nhưng theo giáo sư Tương Lai, việc sửa bộ luật này vẫn phớt lờ nhu cầu của thực tế cuộc sống. Hồi đầu, “người ta” tính thông qua luật sửa đổi luật đất đai trước nhưng bị chỉ trích nên “lồng” bộ luật này vào kế hoạch sửa hiến pháp và muốn thông qua cả hai trong cùng một lúc. Đáng chú ý là những vấn đề cơ bản cần sửa đổi trong hiến pháp vẫn không được sửa thì luật đất đai cũng sẽ vẫn theo lối cũ.

Ông Tương Lai cả quyết, nếu hiến pháp mới vẫn xác lập đất đai là sở hữu toàn dân và không có tam quyền phân lập thì sẽ “không giải quyết được gì”. Trong khi lẽ ra, cần thực hiện các kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp một cách mạnh mẽ trung thực. Tương tự, nếu không giải quyết một cách cơ bản các quy định trong luật đất đai thì không thể bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội được.

Vụ ông Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình không chỉ được những người như giáo sư Tương Lai cảnh báo. Hôm 12 tháng 9, tại phiên họp thứ 21 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam, để thảo luận về dự luật sửa đổi luật đất đai, nhiều thành viên của Ủy ban này đã lấy vụ ông Viết bắn năm cán bộ tại Thái Bình như một dẫn chứng để yêu cầu phải xem xét kỹ các qui định về thu hồi đất và bồi thường.

Lúc đó, Chủ tịch Quốc hội CSVN thừa nhận, luật đất đai liên quan mật thiết đến đời sống dân chúng và có ý nghĩa quan trọng đối với ổn định chính trị, kinh tế, xã hội. Các vụ khiếu kiện về đất đai, chống đối thu hồi đất như vụ Đặng Ngọc Viết ở Thái Bình có dấu hiệu gia tăng và cho thấy mâu thuẫn leo thang có thể biến thành bạo lực, gây ra hậu quả khó lường.

Thế nhưng sau Hội nghị Trung ương 8 hồi đầu tháng này, đa số các đại biểu Quốc hội Việt Nam lại tán thành duy trì hiến định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” trong hiến pháp mới. (G.Đ)

(Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=175966&zoneid=430#.Um2VEL7n99A)
 
Lễ Tưởng Niệm lần thứ 50 Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm tại Frankfurt, Đức quốc
Nguyễn T Trùng Dương
16:54 27/10/2013
FRANKFURT - Cùng với đồng bào Việt Nam trong nước cũng như tại hải ngoại, những người Việt Nam yêu chuộng Công Lý và Sự Thật, cộng đồng người Việt tại Frankurt đã tới tham dự Thánh Lễ để cầu nguyện cho Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Bào đệ ông, Cố Vấn Ngô Đình Nhu, các Chiến Sĩ, đồng bào đã bị bức tử trong cuộc biến loạn ngày 01 tháng 11 năm 1963.

Xem hình ảnh

Một số anh chị em tại Frankfurt và phụ cận nguyện đứng ra tổ chức lễ giỗ lần thứ 50. Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đồng thời kỷ niệm ngày Quốc Khánh 26 tháng 10 của nên Đệ Nhất Cộng Hòa.

Lễ tưởng niệm và thánh lễ được diễn ra từ 14:00 giờ thứ bảy ngày 26 tháng 10 năm 2013 tại St. Lioba, Ben-Gurion Ring 16a - 60437 Bonames/Frankfurt am Main
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Phát triển toàn cầu: nghèo có giảm, nhưng 1.2 tỷ người vẫn nghèo cùng cực
Vũ Văn An
18:26 27/10/2013
Con số người nghèo cùng cực trên thế giới đã giảm đáng kể trong 3 thập niên vừa qua, nhưng theo một cuộc phân tích mới đây của Ngân Hàng Thế Giới, vào năm 2010, số người nghèo cùng cực vẫn bao gồm chừng 400 triệu trẻ em. Đây là bản văn đầu tiên phân tích sâu xa khuôn mặt những người nghèo nhất trên thế giới.

Công bố ngày 10 tháng Mười vừa qua, bản phân tích cho hay: số người nghèo nhất thế giới, tức những người có thu nhập hàng ngày dưới 1.25 đôla, đã giảm đi 721 triệu người vào năm 2010 so với con số năm 1981. Nhưng phúc trình cũng đã kết luận rằng con số trẻ em trong số này không cân xứng chút nào. Các em hiện chiếm một phần ba trong số 1.2 tỷ người cùng cực nhất trên thế giới hiện nay. Ở các nước có thu nhập thấp, bách phân này còn tệ hơn nữa: đến nửa số trẻ em phải sống trong cảnh nghèo tận cùng.

Jim Yong Kim, chủ tịch Nhân Hàng Thế Giới cho hay: “Chúng ta từng chứng kiến tận mắt việc chuyển dịch lịch sử số người đông đảo ra khỏi cảnh nghèo trong ba thập niên qua, nhưng con số trẻ em hiện sống trong cảnh nghèo khiến ta biết chắc: vẫn còn nhiều điều cần phải làm. Chúng ta rất có thể đạt được mục tiêu chấm dứt nạn nghèo và thăng tiến thịnh vượng chung, kể cả việc chia sẻ sự thịnh vượng ấy với các thế hệ tương lai, nhưng chỉ với điều kiện phải hành động với nhau một cách khẩn trương. Không nên kết án trẻ em một cách dã man phải sống cuộc sống vô hy vọng, thiếu giáo dục và thiếu chăm sóc y tế xứng đáng. Chúng ta phải làm tốt hơn cho các em”.

Các nhà phân tích của Ngân Hàng Thế Giới cũng thấy rằng trong năm 2010, người nghèo vẫn tệ như năm 1981, ngoại trừ người nghèo tại Ấn Độ và Trung Hoa. Người nghèo “trung bình” tại các nước có thu nhập thấp mỗi ngày chỉ có 78 xu mỹ để sống trong năm 2010 so với 74 xu năm 1981.

William O’Keefe, phó chủ tịch tại Cơ Quan Cứu Trợ Công Giáo, cho rằng phúc trình này “lên tài liệu cho việc thành công trong cuộc chiến đấu toàn cầu chống nghèo đói hiện nay và các thách thức trước mặt”. Vì theo ông, giống như ở Hoa Kỳ, “nạn nghèo trên thế giới mỗi ngày mỗi trỡ thành số phận của trẻ em.

“Cơ Quan Cứu Trợ Công Giáo đang mở rộng một cách thành công và cải tiến các cố gắng canh nông, dinh dưỡng và y tế; các cố gắng này sẽ giúp các trẻ em nghèo hơn tại các nước nghèo đạt được các tiềm năng của chúng. Nhưng một mình chúng tôi, chúng tôi không thể giúp cả 400 triệu trẻ em được.

“Đức Thánh Cha đang kêu gọi người Công Giáo đương đầu với nạn đói hoàn cầu, và điều này một phần có nghĩa: thúc đẩy chính phủ của ta ở đây phải làm nhiều hơn nữa. Nền chính trị đầy ích kỷ của việc đóng cửa các cơ quan nhà nước đã khiến người ta sao lãng việc trợ giúp trẻ em khắp thế giới và tại quê nhà”.

Phân tích của Ngân Hàng Thế Giới cho thấy khó có thể đạt được mục tiêu chấm dứt nạn nghèo cùng cực vào năm 2030. Dù việc giảm nghèo trong mấy năm gần đây đã tiến bộ đáng kể tại các nước có thu nhập bậc trung như Trung Hoa và Ấn Độ, các nước có thu nhập thấp vẫn cho thấy một mức tiến bộ chậm hơn thế. Xét chung, nạn nghèo cùng cực đã xuy giảm, nhưng 35 nước có thu nhập thấp, trong đó 26 nước thuộc Phi Châu, đã ghi nhận sự gia tăng của hơn 100 triệu người nghèo cùng cực nữa so với ba thập niên trước. Năm 2010, 33 phần trăm người nghèo cùng cực sống tại các nước có thu nhập thấp, so với 13 phần trăm vào năm 1981.

Bản phúc trình cũng tính rằng số tiền mỗi năm cần có để kéo hơn một tỷ người ra khỏi nạn nghèo cùng cực là khoảng 169 tỷ đôla, bằng phân nửa phí tổn năm 1981.

Người nghèo cùng cực, thường tập trung tại các khu vực nông thôn, cũng là những người tiếp tục không được hưởng đầy đủ các dịch vụ căn bản khác. Chỉ khoảng 26 phần trăm người nghèo có nước sạch vào năm 2010, so với 56 phần trăm những người có thu nhập trên 1.25 đôla, vốn được dùng chỉ mức nghèo hiện nay.

Trong khi đó, ít hơn một nửa, chính xác là 49 phần trăm, những người nghèo nhất có điện dùng mà thôi. Và trong khi 61 phần trăm những người sống trên mức nghèo 1.25 đôla được hưởng các hệ thống vệ sinh căn bản, thì chỉ có 20 phần trăm những người nghèo cùng cực được hưởng các dịch vụ tương tự mà thôi.
 
Văn Hóa
Lễ các linh hồn : Nay người - mai ta
Anmai, CSsR
11:01 27/10/2013
NAY NGƯỜI, MAI TA

Chiều nay chầm chậm lần bước vào con đường mòn quen thuộc thường ghé. Lòng nặng trĩu nhớ người ra đi nơi phần mộ nằm khuất sau 3 dãy : Mẹ tôi.

Ngày Mẹ mất, Mẹ được nằm ở mặt tiền của khu mộ, đi vào thăm Mẹ không vướng víu gì cả. Vài năm sau đó, hàng mặt tiền che khuất bởi một hàng mộ mới. Và, vài năm sau nữa muốn đi vào thăm Mẹ phải đi ngang, đi dọc qua mấy người nữa mới đến Mẹ.

Thắp hương, nguyện cầu cho Mẹ cũng như cho những người nằm chung quanh Mẹ. Làn hương tỏa lên, cảm xúc lại dâng trào nhớ Mẹ, nhớ những người thân quen đã hơn một lần mình gặp gỡ nay đã ra đi mãi mãi.

Nguyện kinh, nguyện xin mà hình dung ra thân xác của Mẹ ngày xưa. Một thân xác tuyệt vời mà Thiên Chúa tạo dựng và rồi qua Mẹ, những đứa con được sinh thành. Thân hình đó, thân xác của Mẹ đó nay đã nằm sâu trong lòng đất và giờ đây sau hai mươi năm trời trở thành cát bụi thật sự.

Tạm biệt nghĩa trang chìm nơi Mẹ an nghỉ, tôi trở về với nghĩa trang nổi nằm trong khuôn viên của Tu Viện. Trong nghĩa trang nổi ấy, nơi tạm giữ tàn tro của biết bao nhiêu người thân quen, cách riêng quý cha quý thầy trong Dòng và riêng hơn nữa là những cha những thầy đã có một thời nên duyên nên nợ.

Nén hương trầm tỏa lan và những khuôn mặt thân quen lại dần hiện :

Cha già Giuse nhiều năm trời ở chốn lao tù, cách riêng ngài có tài hài hước qua những câu chuyện tục mà thanh để vơi bớt nỗi buồn. Cha cũng đã ra đi khi hơi tàn sức kiệt ...

Thầy già Phêrô, một tu sĩ đi tu từ bé nên vẫn nhiệm nhặt giữ những quy luật của Nhà Dòng. Nếu ai không hiểu thầy thì sẽ khó chịu nhưng biết rồi thì cũng dễ đón nhận. Hình ảnh thầy già tưới cây, đạp chiếc xe đạp chạy quanh quanh nhà dòng nay cũng chẳng còn nữa vì theo quy luật của thời gian.

Cha G.B đầy nhiệt huyết nhưng rồi lại ra đi trong căn bệnh ung thư quái ác. Những ngày cuối đời, vòm họng đã làm cho Cha đau đến tột cùng và Cha cũng đã ra đi.

Cha F.X gần như cả đời mục vụ gắn kết đời mình với vùng truyền giáo nghèo biển mặn. Lửa truyền giáo vẫn bừng cháy nơi Cha nhưng vì sứ vụ Cha đi phục vụ trong công việc khác. Vẫn ước ao trở về quê Mẹ để phục vụ người nghèo nơi vùng truyền giáo nhưng ước mơ đó chưa trọn. Nay Cha trở về quê Trời thật sự, nơi mà lòng Cha hằng mong ước.

Cha Giêrađô, một con người cương trực thẳng tính. Cũng một thời phục vụ Tin Mừng và những năm cuối đời trở về ở trong ngôi nhà Mẹ của Nhà Dòng thật êm đềm. Hành trình về nhà Mẹ của Cha êm đềm như thế nào thì hành trình về nhà Cha của Cha Giêrađô cũng êm đềm như vậy. Chuẩn bị đi dâng Lễ ở xóm giáo thì Cha lại trở về nhà Cha.

Thầy Emmanuel, vì hoàn cảnh sức khỏe, thầy phải chịu đựng một thời gian dài. Thầy đã trở về nhà Cha để được bình an và thanh thản.

Cha già Stêphanô, cả một đời dấn thân cho người nghèo, đặc biệt trong truyền thông. Hình ảnh những ngày cuối đời của cha già vẫn còn in dấu trong tôi. Trong những cơn quặn đau của thể xác một cách tuyệt vời để cùng chịu đau khổ với Đức Kitô ...

Nhiều và nhiều hình ảnh thân thương của quý cha quý thầy vẫn còn như đang sống với anh em bởi lẽ cũng đã từng chung chia với nhau sứ vụ, chung chia với nhau bữa cơm và chung chia với nhau cả giận hờn của tính người. Thế nhưng nay, những người đó chỉ còn là nắm tro nằm trong cái hủ chờ ngày Phục Sinh. Những người ấy, giờ đây ta muốn trò chuyện, hàn huyên tâm sự cũng chẳng còn cơ hội. Và, hơn thế nữa, có muốn giận, có muốn hờn, có muốn ghen với họ và ngược lại cũng chẳng được bởi lẽ hai thế giới cách biệt. Khi nằm xuống, xuôi đôi tay, ngừng hơi thở coi như mọi chuyện chấm dứt.

Trở về với góc phòng của Tu Viện, nhớ lại hình ảnh của Mẹ, của ông bà, của quý cha quý thầy thân quen ... Những người đó thật gần nhưng giờ cũng đã xa. Dù có muốn làm gì đó cho những người thân đó cũng chẳng được dẫu là một bữa ăn ngon, một cái bánh cũng chẳng được. Và, dù có muốn giận, muốn hờn, muốn trách họ cũng không xong bởi lẽ họ không còn nói được với ta. Chỉ trong niềm tin, trong sâu lắng, trong lặng thầm, trong cõi thiêng ta nguyện cầu cho họ và họ nguyện cầu cho ta.

Ông bà, cha mẹ, những người thân thương nay đã ra đi. Còn ta ? Chẳng lẽ ta ở mãi trong cái cõi tạm này ? Mấy mươi năm ? Giỏi chăng cũng được một trăm. Sợ chưa đến gọi là thọ chứ làm gì có đến tuổi một trăm như thế. Cũng trong quy luật của cuộc sống, nay người thì mai lại đến phận ta. Dù có thuốc tiên đi chăng nữa cũng chẳng ai có thể trường tồn. Và, cũng chẳng ai lột da để sống mãi trên trần thế này. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày đời sống ở dương gian của ta dần khép lại.

Nhớ đến những người thân đó cũng là nhắc đến phận người của chúng ta. Nhắc như thế để liệu làm sao sống cho nhẹ nhàng và thanh thản. Và, hơn thế nữa, hãy cố sống làm sao để khi ta nhắm mắt thì mọi người khóc còn ta, ta mỉm cười thanh thản ra đi.

Nay người, mai ta ! Nhớ như thế để ngày mỗi ngày ta dần buông những gì là vướng bận của cuộc đời để thanh thản trở về Quê Trời, nơi mà cả đời ta hằng thao thức và mong đợi.

Anmai, CSsR



 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Đời Nhà Nông
Dominic Đức Nguyễn
21:14 27/10/2013
ĐỜI NHÀ NÔNG
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Nhà nhà vợ vợ chồng chồng
Đi làm ngoài đồng sá kể sớm trưa.
(Ca dao)