Ngày 23-09-2018
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Cái giá người môn đệ phải trả
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
17:57 23/09/2018
Chúa Nhật XXVI Thường Niên, năm B
Mc 9, 38-43.45.47-48

Trần gian và cuộc đời của con người quả thực có quá nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều thử thách, nhiều dịp tội khiến con người vấp phạm, sa ngã, phản nghịch lại Thiên Chúa. Do đó, Chúa đã nói:” Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi “ ( Mc 9,43 ). Người môn đệ của Chúa phải sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh vì Nước Trời. Việc chặt tay, chặt chân, móc mắt chỉ là kiểu nói, chứ không cứ theo từng nghĩa chữ đen. Chúa muốn mọi người phải quyết tâm khử trừ, đẩy xa những cám dỗ để đừng bị sa vào tội lỗi, khiến con người lỗi luật Chúa…

Các môn đệ của Chúa Giêsu phải luôn luôn sẵn sàng hy sinh, luôn quả cảm, can đảm và cương quyết dứt bỏ tội lỗi và nếu cần thí cả mạng sống để được vào Nước Thiên Chúa. Gương của nhiều vị thánh như Maria Goretti, như Augustinô và nhiều vị vị vọng của thế giới như Thomas More vv…đã vứt bỏ cái gì quý nhất để cốt được Nước Trời. Sự sống đời đời, cuộc sống vĩnh cửu là điều quý giá khiến chúng ta dám vứt bỏ những gì là tạm bợ, những gì là không cần thiết lắm để chiếm đoạt được nó…

Con người sống giữa trần gian với thân xác yếu hèn, với bệnh hoạn, chắc chắn con người cần đến thuốc, cần đến phương diện y khoa,cần đến bác sĩ để kê toa mua thuốc, hoặc nếu cần có những bệnh phải giải phẫu, phải cắt bỏ những phần bệnh, những khối u, những ung nhọt vv…Cắt bỏ hoặc uống thuốc để loại bỏ những gì không cần thiết, để bảo vệ thân thể, về phần hồn con người cũng cần cắt bỏ những tính hư, tật xấu, những ánh mắt hờn căm, những lời nói độc địa, những cử chỉ khinh khi, những thái độ buông thả, những mối quan hệ không lành mãnh vv…Những cắt bỏ đó nhiều khi làm cho con người, làm cho chúng ta đau đớn, nhưng dứt khoát chúng ta phải cắt bỏ vì nếu không cắt bỏ, không bỏ đi chúng ta vẫn còn sống trong tội lỗi, u mê vv…

Nước Trời quý giá hơn bất cứ những gì quý giá, do đó, chúng ta phải hy sinh tất cả để không xúc phạm đến Chúa, không phạm tội mất lòng Chúa. Được Nước Trời là mục đích cuối cùng của mọi Kitô hữu. Hy sinh vì đồng loại, vì tha nhân, hy sinh vì đại nghĩa có thể làm đau đớn, mất mát nhưng thực tế đem lại cho con người, cho chúng ta hạnh phúc.Chúa Giêsu đã nói : “ Ai cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ rách rưới ăn mặc, thăm kẻ tù tội là kẻ ấy làm cho chính Ta “. Giúp đỡ kẻ nghèo, an ủi kẻ bị thử thách, cho kẻ không nhà không cửa được trú ngụ, người ấy sẽ được Nước Trời làm gia nghiệp. Chúa đã làm gương cho nhân loại, cho con người, cho chúng ta bằng chính sự dâng hiến toàn thân mình, mạng sống mình…

Sứ điệp của Chúa Giêsu trong đoạn Tin mừng hôm nay: ” Chúng ta phải sẵn lòng, can đảm chấp nhận mọi hy sinh để tránh tội lỗi, xa lánh cám dỗ và để được Nước Trời. Chúng ta cũng phải sẵn sàng như thánh Maria Goretti coi thường mạng sống để bảo vệ đức khiết tịnh, không dám phạm tội làm mất lòng Chúa.

Lạy Chúa là Vua tình yêu vì khi nghe danh Chúa Giêsu mọi gối phải bái quỳ.Mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng, ca tụng Ngài là Vua.
Xin Chúa Giêsu hãy ngự trị trong tâm hồn chúng con.
Xin hãy làm cho tâm hồn chúng con nên thánh thiện.
Xin hãy đến cứu giúp chúng con trong những cơn nguy khốn, khi chúng con gặp cám dỗ, thử thách.
Xin Chúa Giêsu hãy tha thứ tội lỗi cho chúng con.Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1.Muốn đựơc Nước Trời chúng ta phải làm gì ?
2.Tội lỗi gây nên hậu thế nào đối với chúng ta ?
3.Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với ai ?
4.Cắt bỏ ở đây có nghĩa gì ?
5.Chặt tay, chặt chân, móc mắt chúng ta phải hiểu theo nghĩa nào ?
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô sáng Chúa Nhật 23 tháng 9 tại thành phố Kaunas, Lithuania
J.B. Đặng Minh An dịch
04:22 23/09/2018
Lúc 08g15 sáng Chúa Nhật ngày 23 tháng 9, Đức Thánh Cha đã di chuyển bằng xe hơi đến Kaunas nơi ngài cử hành thánh lễ tại công viên Santakos vào lúc 10g sáng.
Trong bài giảng Thánh Lễ Chúa Nhật 25 Mùa Quanh Năm, Đức Thánh Cha nói:


Thánh Máccô dành toàn bộ một phần trong Tin Mừng của ngài để nói về giáo huấn của Chúa dành cho các môn đệ. Ở giữa chặng đường trong cuộc hành trình đến Giêrusalem, có vẻ như Chúa Giêsu, đã muốn các môn đệ lặp lại sự lựa chọn đi theo Người. Chúa biết rằng lựa chọn ấy sẽ kéo theo những khoảnh khắc thử thách và đau buồn. Vị Thánh Sử mô tả thời kỳ này trong cuộc đời Chúa Giêsu bằng cách đề cập rằng trong ba lần, Ngài đã công bố cuộc thương khó của mình. Tất cả ba lần, các môn đệ đều bày tỏ sự hoang mang và phản đối, và vào mỗi dịp như thế, Chúa muốn dạy dỗ họ. Chúng ta vừa nghe về lần thứ hai trong ba lần này (xem Mc 9: 30-37).

Đời sống Kitô bao giờ cũng liên quan đến những kinh nghiệm về thập tự giá; đôi khi những kinh nghiệm này có thể dường như dài bất tận. Các thế hệ trước vẫn mang nặng những vết sẹo của thời kỳ chiếm đóng, những đau khổ của những người bị trục xuất, nỗi hoang mang đối với những người biệt tích không bao giờ quay trở lại, nỗi xấu hổ của những người chỉ điểm và phản bội. Sách Khôn Ngoan nói cho chúng ta biết về những người bị bách hại, những người bị sỉ nhục và trừng phạt chỉ vì sự tốt lành của họ (xem Kn 2: 10-12). Có biết bao người trong số anh chị em nhận ra chính mình, hay trong lịch sử của một số thành viên gia đình, trong đoạn văn mà chúng ta vừa đọc? Có bao nhiêu người trong số anh chị em cũng cảm thấy đức tin của mình bị lay động vì Thiên Chúa dường như không đứng về phía anh chị em? vì thực tại trung tín của anh chị em chưa đủ để Ngài can thiệp vào lịch sử của mình? Thành phố Kaunas biết về điều này; Lithuania nói chung có thể làm chứng về điều đó, và vẫn rùng mình khi nhắc đến Siberia, hoặc những ghettos tại Vilnius và Kaunas, trong số những nơi khác. Anh chị em có thể lặp lại những lời lên án thốt lên bởi Thánh Giacôbê Tông đồ trong trích đoạn Bức Thư của ngài mà chúng ta vừa nghe: họ thèm muốn, họ giết người, họ tham gia vào các tranh chấp và xung đột (x. 4: 2).

Các môn đệ không muốn Chúa Giêsu nói với họ về những sầu buồn và thập giá; họ không muốn liên can đến những thử thách và gian khổ. Thánh Máccô nói với chúng ta rằng họ quan tâm đến những thứ khác, trên đường về nhà họ thảo luận ai là người lớn nhất trong số họ. Anh chị em ơi: khát khao quyền lực và vinh quang là dấu hiệu của những người không chữa lành được những ký ức của quá khứ và, có lẽ vì lý do đó, họ không tham gia tích cực vào các nghĩa vụ hiện tại. Họ thà thảo luận ai giỏi hơn, ai là người đã hành động liêm chính hơn trong quá khứ, ai là người có nhiều quyền hơn những người khác. Như thế, chúng ta phủ nhận lịch sử của chúng ta, một lịch sử “vinh quang chính vì nó là một lịch sử của hy sinh, của hy vọng và của những cuộc đấu tranh hàng ngày, của cuộc sống dành để phục vụ và trung tín bất kể mệt mỏi đến đâu” (Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, 96 ). Thật là một thái độ không sinh hoa kết quả và vô ích khi từ chối tham gia vào việc xây dựng hiện tại, vì nó đã mất liên lạc với những cuộc đấu tranh của dân tộc trung tín chúng ta. Chúng ta không thể giống như những nhà “hiền triết” tâm linh, là những kẻ chỉ phán xét từ xa và nói huyên thiên về “điều gì nên được thực hiện” (xem ibid.).

Chúa Giêsu, biết những gì các môn đệ đang thảo luận, nên Ngài cho họ một phương dược giải độc cho cuộc đấu tranh quyền lực và cho thái độ từ chối hy sinh của họ. Và để làm cho việc giảng dạy của mình trở nên trang trọng hơn, Ngài ngồi xuống, như một bậc tôn sư thường làm, triệu tập họ lại và đặt một đứa trẻ ở giữa họ; loại trẻ chỉ kiếm được một xu để làm công việc mà chẳng ai thèm quan tâm. Ngày nay, Chúa Giêsu sẽ ở đâu giữa chúng ta, vào sáng Chúa Nhật này? Ai sẽ là người nhỏ nhất, người nghèo nhất ở giữa chúng ta, ai mà chúng ta nên chào đón một trăm năm sau nền độc lập của mình? Ai là người không có gì để cho chúng ta, để những nỗ lực và hy sinh của chúng ta đáng giá? Có lẽ đó là các dân tộc thiểu số trong thành phố chúng ta. Hoặc những người thất nghiệp phải di cư. Có thể là người cao niên và cô đơn, hoặc những người trẻ tuổi không tìm thấy ý nghĩa nào trong cuộc sống bởi vì họ đã mất đi nguồn cội của mình.

“Ở giữa họ” có nghĩa là ở cùng một khoảng cách với mọi người, để không ai có thể cho rằng không chú ý thấy, không ai có thể tranh luận rằng đó là “trách nhiệm của ai đó” bởi vì “tôi không thấy anh ta”, hoặc “tôi xa quá mà”. Và không có ai muốn thu hút sự chú ý đến chính mình, muốn được tán dương hay được ca ngợi.

Ở đó, tại thành phố Vilnius, dòng sông Vilnia hợp lưu và mất tên của mình cho sông Neris; rồi, đến lượt Neris lại cũng mất tên của mình khi hợp lưu với sông Neman. Điều này nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của thuật ngữ Giáo Hội đang di chuyển, không sợ đi ra ngoài và sẵn sàng dự phần, ngay cả khi có vẻ như chúng ta tự đổ mình ra, đánh mất chính mình, khi vươn đến những người yếu đuối, bị bỏ rơi, những người trôi dạt ngoài lề cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng tiến ra cũng có nghĩa lúc này lúc khác phải dừng lại, dẹp sang một bên những lo lắng và quan tâm của chúng ta, để lưu tâm, lắng nghe và đồng hành cùng những người còn lại trên lề đường. Đôi khi, nó sẽ có nghĩa là hành động như người cha của đứa con hoang đàng, người đã chờ đợi ở ngưỡng cửa sự trở lại của anh ta, để mở toang nó ra ngay khi anh ta đến (xem ibid, 46). Vào những lúc khác, giống như các môn đệ, chúng ta sẽ cần phải biết rằng khi chào đón một trẻ thơ, chúng ta chào đón chính Chúa Giêsu.

Đó là lý do tại sao chúng ta ở đây hôm nay. Chúng ta muốn chào đón Chúa Giêsu, trong lời của Ngài, trong Thánh Thể, trong những người bé mọn. Chào mừng Ngài để Ngài có thể chữa lành ký ức của chúng ta và đồng hành cùng chúng ta trong thời điểm hiện tại với những thách đố và những dấu chỉ đầy phấn khích, để chúng ta có thể theo Ngài như những môn đệ của Ngài. Vì không có gì thực sự là nhân bản mà không tìm thấy tiếng vọng trong con tim các môn đệ của Chúa Kitô. Chúng ta cảm thấy như là của chính mình niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và đau khổ của những người trong thời đại chúng ta, đặc biệt là người nghèo và đau khổ (xem Công Đồng Chung Vatican, Gaudium et Spes, 1). Vì lý do này, và bởi vì với tư cách là một cộng đồng, chúng ta cảm thấy sự đoàn kết chân thật và sâu sắc với tất cả nhân loại - ở đây trong thành phố này và khắp Lithuania - và lịch sử của nó (xem ibid.), Chúng ta muốn dành cuộc sống của mình cho sự phục vụ trong hân hoan, và làm cho tất cả mọi người biết rằng Chúa Giêsu Kitô là hy vọng duy nhất của chúng ta.


Source: Libreria Editrice Vaticana - SANTA MESSA OMELIA DEL SANTO PADRE FRANCESCO Parco Santakos a Kaunas (Lituania) Domenica, 23 settembre 2018
 
Ba điều đáng lưu ý về thoả thuận tạm giữa Tòa Thánh và Trung Quốc về việc bổ nhiệm giám mục
Vũ Văn An
05:33 23/09/2018
Nhận định về thoả thuận tạm công bố hôm qua giữa Tòa Thánh và Trung Quốc về việc bổ nhiệm giám mục, ký giả John Allen cho rằng đối với cuộc tranh luận từ trước đến nay với hai luồng ý kiến trái ngược: một coi thoả thuận như “một phản bội không thể tin được” và một coi nó như “một sự kiện tích cực cho người Công Giáo Trung Hoa”, thì thỏa thuận tạm chỉ nói được một điều, đó là một thoả thuận đã được ký, nhưng nó không hề nhắc đến điều thoả thuận này thực sự chứa đựng. Thí dụ, người ta không rõ liệu chính phủ Trung Quốc sẽ chọn 1 giám mục trong số các ứng viên do Vatican đề nghị hay Vatican sẽ chọn từ một danh sách do Trung Quốc đề nghị, hoặc liệu Đức Giáo Hoàng sẽ có một thứ “quyền phủ quyết” hay không.



Ta cũng chỉ biết một phần của thỏa thuận, đó là Đức Giáo Hoàng Phanxicô đồng ý sẽ chấp nhận 8 giám mục do chính phủ bổ nhiệm trước đây mà không có sự chấp thuận của Vatican, một vị nay đã qua đời. Tuyên bố của Vatican cho hay Đức Phanxicô làm thế “hy vọng rằng, với các quyết định này, một diễn trình mới có thể bắt đầu giúp cho các vết thương quá khứ được vượt qua, dẫn tới việc hiệp thông trọn vẹn của mọi người Công Giáo Trung Hoa”.

Thiếu loại thông tin trên, ta không thể đánh giá chính xác Vatican đã thực sự nhượng bộ bao nhiêu quyền lực trong việc bổ nhiệm các giám mục, chứ đừng nói các hệ quả dài hạn của việc này.

Điều cũng đáng nhấn mạnh rằng đây là một “thỏa thuận tạm” nghĩa là có thể được tái duyệt; điều này có thể cho thấy: không phải mọi người thuộc phía Trung Hoa có lập trường trọn vẹn, thẳng thừng và dứt khoát đối với thỏa thuận. Các nhà quan sát Trung Hoa từ lâu vốn cảm thấy giai cấp cai trị đang chia rẽ giữa người ôn hòa ủng hộ thoả thuận, và những người Cộng Sản kiên định coi nó như đang đe dọa việc đảng nắm được xã hội và do đó nắm được quyền lực.

Tuy nhiên, dù thiếu chi tiết, vẫn có ba điểm có thể nhận định.

Thứ nhất, bất kể các bạn nghĩ gì, đây vẫn là một chiến thắng ngoại giao của Đức Phanxicô và nhóm làm việc của ngài. Bất kể người ta nghĩ gì về công tội khi ký thoả thuận này, điều rõ như ban ngày đây là ưu tiên hàng đầu của Đức Phanxicô.

Giai cấp cai trị Trung Quốc, xét về căn bản vốn hài lòng với hiện trạng, thành thử họ cố gắng kéo dài sự việc ra, và không muốn chính thức kết thúc đối thoại. Nhưng thực sự, họ không bao giờ có ý định ký kết điều gì chính thức cả.

Trên thực tế, nay hai bên đã ký một điều gì đó, bất kể sau đó là điều gì. Xét vì Vatican đã đầu tư nhiều uy tín ngoại giao để tiến tới điểm hiện nay, nên nguyên sự kiện đạt được một điều gì đó, cũng kể là một thắng lợi rồi.

Thứ hai, thỏa thuận này nhiều người coi là thành quả độc đáo của Đức Phanxicô, nhưng thực ra ngài hành động hoàn toàn tiếp nối công trình của hai vị tiền nhiệm. Cả Đức Gioan Phaolo II lẫn Đức Bênêđíctô XVI đều muốn có tiến bộ trong liên hệ ngoại giao với Trung Quốc, và sẵn lòng làm bất cứ điều gì để đạt được điều này. Chính dưới triều Đức Gioan Phaolô, chứ không phải triều Đức Phanxicô, Đức Hồng Y quốc vụ khanh đã tuyên bố rằng Vatican sẽ đóng cửa tòa đại sứ của mình ở Đài Loan “không phải ngày mai, mà ngay ngày hôm nay” nếu lời mời đến từ Bắc Kinh.

Theo tính toán ngoại giao và địa chính trị của Vatican, muốn hành xử như tiếng nói lương tâm trên diễn đàn hoàn cầu, cần phải bắt tay với Trung Quốc, vì nước này ngày càng trở thành một siêu cường với ảnh hưởng hoàn cầu to lớn. Hơn nữa, Vatican thấy sự chia rẽ giữa giáo hội chính thức và giáo hội hầm trú ở Trung Hoa có hại cho sự lành mạnh của Giáo Hội và từ lâu muốn hàn gắn sự chia rẽ này.

Để đạt được hai mục tiêu trên, Vatican, từ lâu, vốn cảm thấy bất cứ thỏa thuận nào cũng tốt hơn là không có thỏa thuận nào, một lập trường không hẳn của riêng triều giáo hoàng hiện nay.

Thứ ba, hoàn toàn không có gì rõ ràng tuyên bố hôm nay nhất thiết có nghĩa các liên hệ ngoại giao chính thức giữa Rôma và Bắc Kinh đang thập thò đâu đó, hay một ngày mới đang ló rạng về phương diện tự do tôn giáo cho gần 13 triệu người Công Giáo ở Trung Hoa.

Về ngắn hạn, sự việc có thể tệ hơn trước khi trở nên tốt hơn, căn cứ vào chính sách có tiếng của chính phủ Trung Quốc “một bước tiến, hai bước lùi” trên nhiều mặt trận. Hơn nữa, nếu các căng thẳng trong nội bộ đảng đối với chính sách tôn giáo gia tăng do thỏa thuận này gây ra, những người cứng rắn có thể tìm cơ hội để tái khẳng định quyền kiểm soát bằng cách thắt chặt các hạn chế hiện có.

Nói cách khác, lời nói khách quan nhất nghe được trong ngày công bố thỏa thuận có lẽ là của phát ngôn viên Vatican, Greg Burke, khi ông phát biểu rằng thoả thuận này “không phải là kết thúc một diễn trình, nhưng là khởi đầu”.
 
ĐTGM Charles J. Chaput bày tỏ những quan ngại về Tài Liệu Làm Việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên
Đặng Tự Do
06:30 23/09/2018
Đức Tổng Giám Mục Charles J. Chaput của Philadelphia là thành viên của Hội đồng thường trực Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới.

Ngày 21 tháng 9 vừa qua, ngài vừa công bố những ưu tư về Tài Liệu Làm Việc trong bài viết:

“Thoughts on the Instrumentum Laboris” – Những suy tư về Tài Liệu Làm Việc [của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên].

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây: Thoughts on the Instrumentum Laboris.

Dưới đây là bản dịch sang Việt Ngữ.


Trong mấy tháng qua, tôi đã nhận được hàng loạt thư và điện thư các giáo dân, giáo sĩ, thần học gia và các học giả, trẻ cũng như già, với những suy nghĩ của họ về Thượng Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 tại Rôma về giới trẻ. Gần như tất cả đều ghi nhận tầm quan trọng của chủ đề này. Gần như tất cả đều khen ngợi ý định của Thượng Hội Đồng. Và gần như tất cả đều nêu lên mối quan tâm về cái này hay cái khác về thời gian của hội nghị và nội dung có thể được bàn đến tại đây. Lời phê bình dưới đây, từ một nhà thần học đáng kính ở Bắc Mỹ, là phân tích của một người mà có thể những người khác không đồng ý. Nhưng nó đáng được cứu xét và thảo luận rộng rãi hơn trong khi các phái đoàn giám mục chuẩn bị tham gia vào chủ đề của Thượng Hội Đồng. Vì vậy, tôi sẽ đưa nó ra đây:

Những khó khăn chính về thần học trong Tài Liệu Làm Việc (IL) của Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2018:

I. Chủ nghĩa tự nhiên

Tài Liệu Làm Việc cho thấy một sự tập trung phổ biến vào các yếu tố văn hóa xã hội đến mức loại bỏ các vấn đề tôn giáo và đạo đức sâu sắc hơn. Mặc dù tài liệu thể hiện mong muốn “xem lại” “những thực tại cụ thể” “dưới ánh sáng của đức tin và kinh nghiệm của Giáo Hội (§4)”,đáng tiếc thay Tài Liệu Làm Việc đã không làm được như vậy. Vài thí dụ cụ thể:

•§52. Sau khi thảo luận về quan niệm đương đại đã được phương tiện hóa về cơ thể và tác động của nó trong “hoạt động tình dục sớm, việc có nhiều bạn tình, khiêu dâm kỹ thuật số, việc phô bày thân thể trên mạng và du lịch tình dục”, tài liệu chỉ than vãn về việc làm biến dạng vẻ đẹp và chiều sâu của đời sống tình cảm và tình dục “mà không đề cập gì đến hậu quả của nó là làm biến dạng linh hồn, hậu quả mù lòa tâm linh của nó, và ảnh hưởng của nó ra sao đối với việc tiếp nhận Tin Mừng của một người bị thương tích đến như thế.

•§144. Có nhiều thảo luận về những gì giới trẻ muốn, nhưng lại ít bàn đến việc những mong muốn này của các em phải được biến đổi bằng ân sủng như thế nào cho một cuộc sống phù hợp với thánh ý Chúa dành cho cuộc sống của các em. Sau những trang phân tích các điều kiện vật chất của chúng, Tài Liệu Làm Việc không đưa ra hướng dẫn về cách những mối quan tâm vật chất này có thể được nâng lên và hướng tới cùng đích siêu nhiên của chúng như thế nào. Mặc dù Tài Liệu Làm Việc có đưa ra một số những chỉ trích về các mục tiêu duy vật chất / thực dụng (§147), phần lớn tài liệu liệt kê một cách cẩn thận những trạng huống thực tế về kinh tế xã hội và văn hóa đa dạng của giới trẻ, nhưng lại không đưa ra những suy tư có ý nghĩa về các mối quan tâm tâm linh, hiện sinh hay luân lý. Người đọc có thể dễ dàng đi đến kết luận rằng phần sau là không quan trọng đối với Giáo Hội. Tài Liệu Làm Việc đã đúng khi lưu ý rằng Giáo Hội phải khuyến khích thanh niên “từ bỏ việc tìm kiếm liên tục những xác tín nhỏ nhặt (§145).” Tuy nhiên, không chỗ nào ghi nhận rằng Giáo hội cũng phải mở rộng quan điểm này với niềm xác tín tuyệt vời rằng có một Thiên Chúa, rằng Ngài yêu thương họ, và Ngài muốn điều tốt lành vĩnh cửu cho họ.

• Chủ nghĩa tự nhiên này cũng tỏ tường trong mối bận tâm của tài liệu với những cân nhắc sau: việc toàn cầu hóa (§10); bênh vực vai trò của Giáo Hội trong việc tạo ra “những công dân có trách nhiệm” chứ không phải là các vị thánh (§147) và việc chuẩn bị giới trẻ về vai trò của họ trong xã hội (§135); những mục tiêu thế tục trong giáo dục (§149); thúc đẩy tính bền vững và các mục tiêu thế tục khác (§152-154); thúc đẩy “sự tham gia vào lãnh vực xã hội và chính trị” như một “ơn gọi thực sự” (§156); khuyến khích việc “kết nối/mạng lưới” như một vai trò của Giáo Hội.

• Hy vọng của Tin Mừng bị thiếu sót một cách đáng kể. Ở §166, trong bối cảnh thảo luận về bệnh tật và đau khổ, một người khuyết tật được trích dẫn như sau: “anh chị em không bao giờ chuẩn bị tinh thần đầy đủ để sống với sự khuyết tật: nó khiến anh chị em đặt câu hỏi về cuộc sống của chính mình, và tự hỏi về sự hữu hạn của mình. Đây là những câu hỏi hiện sinh mà Giáo Hội thủ đắc câu trả lời. Tài Liệu Làm Việc chẳng trả lời gì đoạn trích này bằng một cuộc thảo luận về Thập tự giá, sự đau khổ cứu chuộc, sự quan phòng, tội lỗi, hoặc Tình yêu Thiên Chúa. Tương tự, Tài Liệu Làm Việc yếu ớt trước vấn nạn về sự chết trong đoạn §171: trong đó việc tự tử chỉ được mô tả đơn thuần là chuyện “không may” và không có nỗ lực nào được thực hiện để liên hệ nó với những thất bại của một thứ đạo lý duy vật. Điều này cũng được thấy khi bàn một cách hờ hững đến chứng nghiện rượu (§49-50).

II. Một sự hiểu biết không đầy đủ về thẩm quyền tâm linh của Giáo Hội

Tài Liệu Làm Việc làm đảo lộn giữa các vai trò tương ứng của Giáo Hội Huấn Giáo (ecclesia docens) và Giáo Hội Học Hỏi (ecclesia dicens). Toàn bộ tài liệu được đặt trên nền tảng của niềm tin rằng vai trò chính yếu của Huấn quyền Hội Thánh là “lắng nghe”. Rắc rối nhất nằm ở đoạn §140: “Giáo hội sẽ phải lựa chọn đối thoại như là phong cách và phương pháp của mình, nuôi dưỡng nhận thức về sự tồn tại của những mối ràng buộc và kết nối trong một thực tại phức tạp. . . . Không ơn gọi nào, đặc biệt là bên trong Giáo hội, có thể được đặt bên ngoài tính năng động của tinh thần đối thoại này. . . . [nhấn mạnh thêm]”. Nói cách khác, Giáo hội không thủ đắc chân lý nhưng phải chọn vị thế của mình bên cạnh những tiếng nói khác. Những ai giữ vai trò thày dạy và giảng thuyết trong Giáo Hội phải thay thế quyền bính của mình bằng đối thoại. (Về vấn đề này, xem thêm đoạn §67-70).

Hậu quả thần học của sai lầm này là sự đồng nhất giữa chức tư tế nhận được trong phép rửa tội (baptismal priesthood) và chức tư tế bí tích (sacramental priesthood, nhận được khi được thụ phong linh mục). Từ nền tảng của Giáo Hội, do lệnh truyền của Chúa, các thừa tác viên đã được chịu chức của Giáo Hội được trao phó nhiệm vụ thày dạy và giảng thuyết; từ nền tảng của Giáo Hội, những tín hữu qua phép rửa tội đã được giao nhiệm vụ lắng nghe và tuân theo những Lời được rao giảng. Hơn nữa, nhiệm vụ rao giảng được Chúa chúng ta thiết định cùng một trật với chính chức tư tế (Cf. Mt 28: 19-20 [anh em hãy.. làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em]) Phải chăng Giáo hội đã từ bỏ thiên chức rao giảng của mình, nghĩa là, phải chăng các vai trò giáo huấn và lắng nghe của Giáo Hội sẽ bị đảo ngược, bản thân hệ thống phẩm trật sẽ bị đảo ngược, và chức tư tế thừa tác sẽ sụp đổ thành chức tư tế rửa tội. Nói tóm lại, chúng ta sẽ trở thành các tín hữu Luther?

Ngoài vấn đề nghiêm trọng về giáo hội học, cách tiếp cận này cũng đưa đến một vấn đề thuộc về mục vụ. Một điều khá phổ biến là các thanh thiếu niên từ những gia đình dễ dãi thường khao khát được cha mẹ quan tâm đúng mức để thiết lập những giới hạn và đưa ra hướng đi cho mình, cho dù có khi các em nổi loạn chống lại hướng đi này. Tương tự như vậy, Giáo Hội như người mẹ và người thày không thể vì cẩu thả hay hèn nhát mà đánh mất vai trò thiết yếu này trong việc thiết lập những giới hạn và hướng dẫn cho con em mình (x. §178). Về vấn đề này §171, là điều tham chiếu đến vai trò làm mẹ của Giáo Hội, đã không đi xa đúng mức. Giáo hội chỉ đưa ra vai trò lắng nghe và tháp tùng trong khi loại bỏ vai trò giảng dạy.

III. Một thứ nhân chủng thần học nửa vời

Thảo luận về con người trong Tài Liệu Làm Việc không đưa ra bất kỳ tham chiếu nào đến ý chí. Ở nhiều đoạn, con người bị giản lược thành “trí tuệ và ham muốn”, “lý lẽ và cảm tình” (§147). Tuy nhiên, Giáo hội dạy rằng con người, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, sở hữu một trí tuệ và ý chí, mặc dù chia chung với phần còn lại của vương quốc động vật một cơ thể, với ảnh hưởng của nó. Nhưng chính ý chí là nền tảng hướng thiện. Hệ quả thần học của sự thiếu sót tỏ tường này cực kỳ quan trọng, bởi vì vị thế của đời sống đạo đức hệ tại nơi ý chí chứ không phải nơi những thăng trầm của tác động. Các thí dụ khác có thể thấy trong các đoạn §114 và §118.

IV. Một quan niệm tương đối về ơn gọi

Xuyên suốt tài liệu này, một ấn tượng cảm nhận được là ơn gọi chỉ liên quan đến việc tìm kiếm ý nghĩa và chân lý riêng biệt của một cá nhân. Những thí dụ có thể thấy trong:

§129. Điều gì có nghĩa là “hình thức cá nhân của sự thánh thiện?” Hoặc, “sự thật của riêng ai?” Đó là thuyết tương đối. Mặc dù Giáo Hội chắc chắn đề xuất nỗ lực cá nhân nhằm đạt đến sự thật và sự thánh thiện, Kinh Thánh nói rất rõ rằng Thiên Chúa, là Chân Lý Thứ Nhất, và Duy Nhất; còn ma quỷ là cả một đạo quân.

Đoạn §139 cho thấy ấn tượng rằng Giáo Hội không thể đề xướng một sự thật (chung nhất) cho mọi người và rằng họ phải tự quyết định cho riêng mình. Vai trò của Giáo Hội chỉ bao gồm trong việc tháp tùng. Sự khiêm nhường sai lầm này gây ra nguy cơ làm giảm bớt những đóng góp hợp pháp mà Giáo Hội có thể và bắt buộc phải làm.

Đoạn §157. Tại sao Giáo Hội phải sẵn sàng “hỗ trợ những hướng đi thay đổi lối sống?”

Điều này kết hợp với những lời khuyến khích thanh thiếu niên nhận trách nhiệm về cuộc sống của chính họ (§62) và kiến tạo ý nghĩa cho bản thân (§7, §68-69) đem lại ấn tượng rằng sự thật tuyệt đối không được tìm thấy nơi Thiên Chúa.

V. Một sự hiểu biết nghèo nàn về niềm vui Kitô

Đời sống tâm linh và đạo đức của Kitô hữu bị giản lược xuống một chiều kích tình cảm, rõ nhất ở đoạn §130 được thấy rõ qua khái niệm đa cảm về “niềm vui” Niềm vui dường như là một trạng thái hoàn toàn thuộc về tình cảm, một cảm xúc hạnh phúc, đôi khi được căn cứ vào thân xác hoặc tình yêu con người (§76), đôi khi trong khi xã giao (§90). Bất chấp sự liên hệ liên tục của nó với “niềm vui”, không nơi nào trong Tài Liệu Làm Việc mô tả nó như là thành quả của đức bác ái thần học. Cũng không phải bác ái được mô tả như một thứ tự thích hợp của tình yêu, đặt Thiên Chúa lên trên hết và sau đó sắp xếp theo thứ tự tất cả những tình yêu khác trong tương quan với Thiên Chúa.

Hậu quả thần học của việc này là Tài Liệu Làm Việc không đề cập gì đến thần học về Thập giá. Niềm vui của Kitô hữu, thực ra, không đối lập với đau khổ, vốn là một thành phần thiết yếu của một cuộc sống vác thánh giá. Tài liệu tạo ra ấn tượng rằng một Kitô hữu đích thực sẽ luôn “hạnh phúc”, theo nghĩa thông tục. Ngoài ra nó cũng mang ngụ ý sai lầm rằng đời sống tâm linh sẽ luôn dẫn đến niềm vui cảm nhận (cảm xúc). Vấn nạn mục vụ phát sinh từ điều này được thể hiện rõ ràng nhất trong đoạn §137: Có phải vai trò của Giáo hội là làm cho thanh thiếu niên “cảm thấy được Chúa yêu thương” hay để giúp các em biết rằng họ được yêu thương bất kể họ cảm thấy như thế nào?

Bên cạnh những cân nhắc trên, còn có những mối quan tâm về thần học nghiêm trọng khác trong Tài Liệu Làm Việc, gồm có: một sự hiểu biết sai lạc về lương tâm và vai trò của lương tâm trong đời sống đạo đức; một sự tương phản sai lầm được đặt ra giữa chân lý và tự do; sự tương đương lầm lạc giữa đối thoại với thanh thiếu niên đồng tính (LGBT); và đối thoại đại kết; và một cách hành xử thiếu sót trong những vụ tai tiếng lạm dụng tình dục.
 
Bài huấn đức của Đức Thánh Cha trong buổi đọc kinh Truyền Tin tại công viên Santakos ở thành phố Kaunas, Lithuania
Lm. Anthony Nguyễn Hữu Quảng, SDB
07:48 23/09/2018
Trưa Chúa Nhật, ngày 23 tháng 9 năm 2018

Chúng con thân mến,

Trong bài đọc thứ nhất của Lời Chúa hôm nay, trích từ Sách Khôn ngoan, nói về sự đàn áp người công chính, những người mà “sự hiện diện đơn thuần” của họ đủ làm cho những kẻ không niềm tin phải bực tức, biến họ thành những kẻ đàn áp người nghèo, thành những người vô cảm đối với người mồ côi góa phụ và không tôn kính những bậc lớn tuổi. Họ công bố “quyền lực là tiêu chuẩn cho công lý”. Họ thống trị kẻ yếu, dùng sức mạnh để áp đặt những tư duy, ý thức hệ vào thực tại. Họ xử dụng bạo lực hoặc chèn ép để áp đặt vào cuộc sống hàng ngày, thay thế cho sự trung thực, thẳng thắn, chăm chỉ và hài hòa. Họ xây một thế giới khác, một xã hội khác bao có thể như sách Khôn ngoan đã nói: “Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!”

Bảy mươi lăm năm trước, quốc gia này chứng kiến sự tàn phá cuối cùng của Thành phố Ghetto Vilnius; đây là cao điểm của việc giết hại hàng ngàn người Do Thái đã bắt đầu cả hai năm trước đó. Như chúng ta đã đọc thấy trong sách Khôn ngoan, người Do Thái bị xúc phạm và trừng phạt tàn nhẫn. Chúng ta hãy suy nghĩ về thời điểm đó, và khẩn cầu xin Chúa ban cho chúng ta món quà của sự nhậy bén hầu phát hiện kịp thời bất kỳ sự tái phát nào cái thái độ độc hiểm này, nó len lỏi vào tâm lòng con người như một cơn gió có thể làm tan nát trái tim của các thế hệ chưa từng trải qua những kinh nghiệm như vậy.

Chúa Giêsu trong Tin Mừng cho chúng ta biết về một cám dỗ mà chúng ta phải rất cẩn thận: khát vọng một sự ưu tú và thống trị trên người khác, hầu chế ngự trái tim con người. Điều thường xảy ra là một người tự coi mình là thương cấp, độc quyền tiêu thụ, và được hưởng nhiều đặc quyền. Liều thuốc giải độc mà Chúa Giêsu đề xuất cho trái tim của chúng ta, cho bất kỳ một xã hội hay một quốc gia nào là “nếu muốn làm lớn, hãy làm người cuối rốt, hãy làm đầy tớ cho tất cả mọi người; hãy đến những nơi mà không ai muốn tới, đến những vùng ngoại vi xa xôi hẻo lánh nhất; để phục vụ và trao ban.

Nếu chúng ta được quyền, hãy cho Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô có cơ hội chạm vào cõi lòng sâu thẳm của cuộc sống chúng ta, Cha đảm bảo với chúng con “một sự hiệp nhất toàn cầu” chắc chắn sẽ được hiện thực. “Trong thế giới của chúng ta, đặc biệt ở một số nước, các dạng chiến tranh và xung khắc nhau đang nổi lên, nhưng chúng ta vẫn xác tín rằng trong sự tôn trọng người khác sẽ chữa lành mọi vết thương, các nhịp cầu sẽ nối kết các mối quan hệ và” san sẻ cho nhau những gánh nặng “(Gal 6: 2)” (Evangelii Gaudium, 67).

Ở Lithuania, chúng con có một ngọn đồi thánh giá, nơi hàng ngàn người, qua nhiều thế kỷ, đã để lại nhiều cây thánh giá. Cha tha thiết yêu cầu chúng con, hãy cùng cha xướng Kinh Truyền tin (Angelus), tha thiết xin Đức Maria giúp chúng ta cắm cây thánh giá đời mình, thập giá của chính chúng ta và cam kết hoạt động cho nhu cầu của tha nhân, phục vụ cho người nghèo, chăm sóc và quan tâm cho người bị bỏ rơi và cho những người thiểu số. Bằng cách này, chúng ta có thể đẩy lui khỏi cuộc sống của chúng ta và khỏi nền văn hóa của chúng ta nguy cơ hủy diệt lẫn nhau, của việc gạt bỏ nhau, và trù diệt những ai làm phiền tới mình!

Nếu Chúa Giêsu đặt một em bé giữa chúng ta, và mời gọi chúng ta tự nghĩ mình phải làm gì cho bé! Chúng ta có can đảm đáp trả “Xin Vâng” như Mẹ Maria xưa. Một lời “Xin Vâng” đã làm đổi thay cả cuộc sống của Mẹ hầu mang lại hoa trái thiêng liêng như Mẹ không.

Đức Thánh Cha đọc Kinh Truyền Tin

Sau đó Đức Thánh Cha cám ơn Ngài thủ tướng của đất nước Lithuania và nội các của thủ tướng, Cám ơn các Giám mục và những ai đã lo tổ chước cho chuyến Tông du này. Tôi chân thành cám ơn tới tất cả những người theo nhiều cách thức khác nhau, qua những tâm tình cầu nguyện cho chuyến Tông du này.

Tôi muốn dành một giây phút đặc biệt cầu nguyện cho những người Do Thái trong những giây phút này. Chiều nay, tôi sẽ cầu nguyện trước Đài tưởng niệm các nạn nhân Do Thái ở Vilnius, nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày họ bị diệt chủng. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho cuộc đối thoại cấp cao đang diễn ra vì công lý và hòa bình.

Xin chúc tất cả một Chúa Nhật vui vẻ! và ăn trưa ngon miệng!

Gražaus sekmadienio! Skaniu pietu!
 
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại đền thờ Đức Mẹ của Lòng thương xót tại Vilnius, Lithuania
Thanh Quảng sdb
18:59 23/09/2018
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại đền thờ Đức Mẹ của Lòng thương xót tại Vilnius, Lithuania

"Như mọi người mẹ tốt lành, Đức Maria, Mẹ của lòng thương xót, qui tụ tất cả chúng ta lại với nhau."
Anh chị em và chúng con thân mến,
Chúng ta đang qui tụ ngay trước Cổng Bình minh, phần tường còn lại duy nhất của bức tường phòng thủ của thành phố này, một bức tường nhằm bảo vệ thành phố khỏi mọi nguy hiểm và mọi mối đe dọa. Năm 1799, các lực lượng xâm lăng đã phá hủy bức tường, chỉ còn lại cái cổng thành này. Sau đó chốn này được ghi khắc hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria “Mẹ của lòng thương xót”, Người Mẹ thánh thiện của Thiên Chúa, Đấng luôn sẵn sàng hộ phù dân chúng mỗi khi họ chạy tới kêu cầu Người.
Từ đó trở đi, Đức Maria đã dạy chúng ta bảo vệ thành trì mà không cần tấn công, gìn giữ hòa bình mà không cần tranh chấp. Người Mẹ này không có nhiều con cái, không vàng bạc châu báu nhưng lại là người mẹ của muôn người. Mẹ trao ban cho mỗi người đến đây điều mà chúng ta thường không nhận ra được, đó chính là diện mạo của Chúa Giêsu trong trái tim của chúng ta.

Nhờ diện mạo của Chúa Giêsu được ghi ấn trong trái tim con người, giúp cho mỗi người chúng ta dù nam nữ, già trẻ lớn bé có thể gặp gỡ được Thiên Chúa. Lúc chúng ta đóng lòng lại vì sợ người khác, là lúc chúng ta đang xây lên những bức tường rào cản, chúng ta đang đóng mắt bịt tai trước Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng đã chia sẻ phận người trong lịch sử và cuộc sống của người thế. Trong quá khứ, chúng ta đã xây dựng quá nhiều pháo đài, nhưng ngày nay chúng ta cần phải đối diện với nhau, nhìn nhận nhau như là anh chị em, và đồng hành với nhau, hầu khám phá và trải nghiệm niềm vui và sự an bình của tình bác ái đệ huynh (xem Evangelii Gaudium, 87).

Nơi đây, hàng ngày đang thu hút nhiều người Công Giáo, Chính Thống và lương dân tuôn về từ khắp nơi trên thế giới, tìm đến với Mẹ của lòng thương xót, chẳng những ở Lithuania mà còn ở Ba Lan, Belarus và Liên xô. Ngày nay việc hành hương về các nơi thánh được thể hiện dễ dàng nhờ truyền thông và sự tự do giao lưu giữa các quốc gia. Ước mong những phương tiện trên cũng dựng xây được tình đoàn kết và liên đới tại các địa danh linh thánh, hầu hồng ân tự do được triển nở, để chúng ta có thể vượt ra ngoài chính mình mà đến với nhau, đón nhận nhau, làm cho cuộc sống của chúng ta được phong phú.
Đôi khi việc rộng mở đón nhận nhau này có thể dấy lên sự cạnh tranh biến "con người trở thành lang sói với nhau", gây lên xung đột chia rẽ, căng thẳng làm tiêu ma đi những thiện tâm và thay vào đó sự hận thù tranh chấp nơi nơi (xem Gaudete et Exsultate, 71-72).
Đức Maria, người Mẹ của lòng thương xót, giống như mọi người mẹ tốt lành trần thế, Mẹ nỗ lực nối kết mọi thành phần trong gia đình lại với nhau. Mẹ đang nhắn nhủ chúng ta: “Hãy kiếm tìm anh của con, hãy gặp gỡ em của con”. Bằng cách này, Mẹ đang mở lòng chúng ta đón chào một bình minh mới, một ngày mới. Mẹ dẫn đưa chúng ta bước tới ngưỡng cửa của Tin mừng như người giàu có trong Phúc âm (xem Lc 16: 19-31), nơi ngưỡng cửa của ngày hôm nay có nhiểu trẻ thơ và nhiều gia đình đang loang lổ những vết thương loang nở máu, đang chờ chúng ta. Những vết thương của họ không phải là những dấu vết thương đau của Lazarus trong dụ ngôn; mà là những vết thương của chính Chúa Giêsu. Trong niềm đau và trong đêm đen đời họ, họ đang mong mỏi chúng ta mang đến cho họ chút ánh sáng của lòng bác ái vị tha. Vì những việc từ thiện chính là chìa khóa mở cửa nước trời cho chúng ta.
Anh chị em và các bạn thân mến, khi bước qua ngưỡng cửa này, chúng ta có cảm nghiệm được sức mạnh đổi mới chúng ta với cận nhân, hàng xóm của chúng ta hay không. Đức Maria, Mẹ chúng ta giúp chúng ta ý thức chúng ta cũng có những giới hạn và lầm lỗi trước lời mời gọi thương cảm và khiêm hạ để nhìn nhận chính mình cũng không vượt trổi hơn ai (xem Phi-líp 2: 3).

Khi chúng ta suy ngẫm về các Mầu nhiệm của Kinh Mân Côi, chúng ta hãy cầu xin Mẹ liên kết chúng ta thành một cộng đoàn biết loan báo Tin mừng hy vọng của Chúa Giêsu Kitô. Và trong viễn tượng này, như Mẹ qua việc đối thoại và kiên tâm, gần gũi và rộng mở, chúng ta có thể xây dựng một quốc gia có tiềm năng tiếp nhận mọi người, biến thành một đất nước đầy yêu thương, tha thứ và an hòa (xem Evangelii Gaudium) , 165) một đất nước tràn đầy cảm thông chẳng cần tới những bức tường rào cản, vì là một đất nước đầy tràn tình bác ái huynh đệ.
Mẹ Maria sẽ mãi là Cổng Bình Minh cho toàn bộ vùng đất đầy may lành này.

Các bạn hữu và chúng con thân mến, xin tất cả hãy cùng cha dâng lên Mẹ một chục Kinh Mân Côi, qua mầu nhiệm thứ ba của mùa Vui.
 
Lời nguyện của Đức Thánh Cha tại Đài Tưởng Niệm nạn nhân cộng sản ở Vilnius, Lithuania
Đặng Tự Do
20:21 23/09/2018
Lúc 4g chiều Chúa Nhật 23 tháng 9, tại thủ đô Vilnius, Đức Thánh Cha đã cầu nguyện tại một đài tưởng niệm những người Do thái của thành phố này đã chết trong thời kỳ chiếm đóng của Đức Quốc xã trong khu Vilnius Ghetto.

Với Hiệp ước bất tương xâm giữa Liên Sô và Quốc Xã Đức, thường được gọi là hiệp ước Molotov-Ribbentrop 1939, cùng với Estonia và Latvia, Lithuania lại bị sáp nhập vào Liên Bang Sô Viết với tên gọi Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Lithuania.

Vào ngày 16 tháng 6 năm 1940, quân Liên Sô tiến vào Estonia, Latvia và Lithuania. Những người Lithuania giàu có lũ lượt di tản ra nước ngoài. Những người còn lại tham gia vào nhiều phong trào kháng chiến chống quân Nga.

Ngày 22 tháng 6 năm 1941, Đức Quốc Xã tấn công Liên Sô, tạo cơ hội cho Lithuania có một thời gian độc lập ngắn ngủi. Tuy nhiên, ngay lập tức, những khu trại tập trung để tàn sát người Do Thái được dựng lên ở rất nhiều nơi, lại có thêm sự tiếp tay của một số người Lithuania. Trước đó, Lithuania là một trong những cộng đồng người Do Thái hưng thịnh nhất tại châu Âu. Sau khi chiến tranh kết thúc, chỉ 9% người Do Thái tại Lithuania còn sống sót.

Lúc 5g30 chiều, Đức Thánh Cha đến thăm Viện Bảo tàng Thời Kỳ Chiếm Đóng, tức là thời kỳ 50 năm Liên Sô cai trị Lithuania, và cuộc Chiến đấu dành Tự do.

Năm 1945, Hồng quân Liên sô chiếm lại Lithuania. Lithuania lại trở thành một nước cộng hòa xô viết.

Trong thời kỳ này, nhiều người Lithuania đã cộng tác với Đức Quốc xã bị đi đầy sang Siberia và các vùng hẻo lánh khác của Liên Sô. Đáp lại, hàng chục nghìn người Lithuania đã tham gia một tổ chức vũ trang du kích chống Liên Sô. Nhưng cuối cùng họ đã thất bại vào năm 1965.

Ít nhất 780,000 người Lithuania đã chết trong thập niên 1940, hầu hết là do tay của cộng sản Liên Sô.

Tại đài tưởng niệm các nạn nhân cộng sản trong thời gian hơn nửa thế kỷ Liên Sô cai trị Lithuania, Đức Thánh Cha đã đọc lời nguyện sau:

“Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”(Mt 27:46)

Tiếng kêu của Chúa, Chúa ơi, tiếp tục vang lên. Nó vang vọng trong những bức tường ở đây, gợi lại những đau khổ của biết bao những người con nam nữ của quốc gia này. Người Lithuania và những người từ các quốc gia khác đã trả giá bằng da thịt của họ cho lòng khao khát quyền lực tuyệt đối của những kẻ tìm kiếm sự thống trị hoàn toàn.

Tiếng kêu của Chúa, Chúa ơi, được lặp lại trong tiếng khóc của người vô tội, là những người trong sự kết hiệp với Chúa, đã cất tiếng khóc kêu thấu đến trời cao. Đó là Thứ Sáu Tuần Thánh của nỗi buồn và cay đắng, của sự bỏ rơi và bất lực, của sự tàn nhẫn và vô nghĩa mà dân tộc Lithuania này đã trải qua như là hậu quả của thứ tham vọng không kiềm chế làm chai cứng và mù lòa con tim.

Tại nơi tưởng niệm này, Chúa ơi, chúng con cầu nguyện xin cho tiếng kêu của Chúa có thể khiến chúng con tỉnh táo. Xin cho tiếng kêu của Chúa, có thể giải phóng chúng con khỏi căn bệnh tâm linh vẫn là một cám dỗ liên tục đối với chúng con trong tư cách một dân tộc: đó là sự lãng quên những kinh nghiệm và khổ đau của những người đã đi trước chúng con.

Trong tiếng khóc của Chúa, và trong cuộc sống của tất cả những người đã phải chịu đựng rất nhiều trong quá khứ, xin cho chúng con có thể tìm thấy can đảm để dấn thân một cách quyết liệt cho hiện tại và tương lai. Xin cho tiếng khóc này khuyến khích chúng con đừng buông trôi theo những thị hiếu hôm nay, theo những khẩu hiệu ngô nghê, hoặc những nỗ lực nhằm giảm bớt hoặc tước mất từ bất kỳ người nào nhân phẩm Chúa đã ban cho họ.

Lạy Chúa, xin cho Lithuania là một ngọn hải đăng của hy vọng. Xin cho quốc gia này trở thành vùng đất của ký ức và hành động, liên tục cam kết chiến đấu chống lại mọi hình thức bất công. Xin cho Lithuania có thể thúc đẩy những nỗ lực sáng tạo để bảo vệ quyền của tất cả mọi người, đặc biệt là những người vô phương thế tự vệ và dễ bị tổn thương nhất. Và xin cho Lithuania có thể là một thày giáo cho tất cả mọi người về cách thế hòa giải và hòa hợp sự đa dạng.

Lạy Chúa, xin cho chúng con đừng điếc lác trước lời cầu xin của tất cả những ai đang kêu lên thấu đến trời cao trong thời đại của chính chúng con.


Source: Libreria Editrice Vaticana - VISIT AND PRAYER IN THE MUSEUM OF OCCUPATIONS AND FREEDOM FIGHTS PRAYER OF THE HOLY FATHER Vilnius (Lithuania) Saturday, 22 September 2018
 
Đức Phanxicô và lời tố cáo che đậy
Vũ Văn An
20:35 23/09/2018
Sau lời tố cáo gây sóng gió của Tổng Giám Mục Viganò, tờ báo nổi tiếng của Đức, Der Spiegel, vừa cho công bố một phúc trình dài tới 19 trang chỉ trích triều giáo hoàng Phanxicô về cung cách giải quyết nạn lạm dụng tình dục trong Giáo Hội, nhất là thời gian Đức Phanxicô còn là Tổng Giám Mục Buenos Aires, Argentina.



Theo tờ báo trên, Đức Phanxicô đã làm ngơ các nạn nhân bị lạm dụng tại Argentina. Họ cũng chỉ trích cách ngài tiến hành các cải tổ trong Giáo Hội. Họ viết “Lúc nhậm chức, Đức Giáo Hoàng Phanxicô hứa một Đạo Công Giáo canh tân, có tính thế giới. Năm năm rưỡi qua đi và nhiều vụ lạm dụng sau đó, Giáo Hội Hoàn Vũ bị chia rẽ như chưa bao giờ từng có”.

Nên biết, tờ báo trên theo khuynh hướng cấp tiến cánh tả và được coi là một trong những tờ báo có ảnh hưởng nhất tại Âu Châu.

Họ tường thuật các vụ tai tiếng lạm dụng như vụ Inzoli, bị Đức Bênêđíctô hoàn tục, được Đức Phanxicô phuc chức nhưng sau đó bị chính ngài hoàn tục trở lại. Rồi vụ cựu Hồng Y McCarrick và cả các thành viên của Hội Đồng 9 Hồng Y cũng bị tố cáo che đậy.

Riêng ở Argentina, Julieta Añazco, khi được tin Đức Phanxicô lên ngôi giáo hoàng năm 2013, đã cùng 13 nạn nhân bị lạm dụng khác viết thư cho ngài tố cáo 1 linh mục lạm dụng tình dục họ. Và họ không bao giờ nhận được thư trả lời.

Tờ báo viết rằng “thời gian Đức Bergoglio làm Hồng Y, nhiều nạn nhân bị lạm dụng tại Buenos Aires hướng về ngài xin giúp đỡ; nhưng không ai được phép tiếp cận ngài’.

Juan Pablo Gallego, luật sư bênh vực các nạn nhân bị lạm dụng ở Argentina, cho rằng “hình ảnh cơỉ mở, đầy thiện cảm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô hiện nay không thích hợp với người ông từng ngồi đới diện vào lúc đó”.

Các phê phán nói trên, dù sao, cũng vẫn chỉ là một chiều, không chắc gì đã phản ảnh khách quan tâm thức của Đức Phanxicô, người hiện đang “đứng mũi chịu sào” thay cho cả Giáo Hội mà lúc này xem ra chỉ gồm toàn kẻ xấu, kẻ ác, chứ không pha trộn có ác có thiện như thực tế muôn đời đã chứng minh. Tâm thức này, hay nỗi lòng này, thật khó giãi bầy trong bầu khí “bới lông tìm vết” hiện nay của truyền thông thế tục đối với Giáo Hội Công Giáo.

Tuy nhiên, Đức Phanxicô có lúc cũng đã nói lên tâm thức của ngài hay nỗi lòng của ngài trước các kết án đôi lúc không hẳn bất công nhưng rõ ràng là một chiều. Ta hãy nghe ngài phát biểu trong cuộc họp báo trên không từ Dublin về Rôma để trả lời câu hỏi của một nữ ký giả tờ Le Monde (Pháp), một phát biểu ít cơ quan truyền thông nào lưu ý.

Cecile Chambraud, Le Monde: Thưa Đức Thánh Cha, con xin chào Đức Thánh Cha. Con hy vọng Đức Thánh Cha sẽ không lưu tâm nếu con đặt câu hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha. Con yêu cầu Đức Thánh Cha trả lời bằng tiếng Ý cho mọi đồng nghiệp của con. Trong diễn văn của Đức Thánh Cha tại Ái Nhĩ Lan, Đức Thánh Cha có nhắc đến lá thư gần đây Đức Thánh Cha gửi cho dân Chúa. Trong lá thư đó, Đức Thánh Cha kêu gọi mọi người Công Giáo tham gia cuộc chiến chống các lạm dụng trong Giáo Hội. Đức Thánh Cha có thể cung cấp cho chúng con các chi tiết mỗi người Công Giáo, trong vị thế của họ, có thể làm gì để chiến đấu chống các lạm dụng này và về chủ đề này, tại Pháp, một linh mục đã bắt đầu một kiến thị để loại bỏ Hồng Y Barbarin bị các nạn nhân tố cáo. Sáng kiến này đối với Đức Thánh Cha có thoả đáng hay không?

Đức Phanxicô: Nếu có sự hoài nghi, bằng cớ hay nửa bằng cớ, tôi không thấy gì là xấu để thực hiện một cuộc điều tra, nhưng luôn luôn điều này được thực hiện theo nguyên tắc pháp lý nền tảng này là “nemo malus nisi probetur” – Không ai xấu cho tới lúc bị chứng minh. Nhưng nhiều khi, người ta bị cám dỗ không những thực hiện cuộc điều tra mà còn công bố rằng đang có cuộc điều tra và lý do tại sao người này có tội và thế là một số cơ quan truyền thông, không phải của cô, tôi không biết tờ báo của cô, tạo ra một bầu khí phạm tội (culpability). Tôi sẽ kể cho cô một điều đã xẩy ra với tôi trong thời gian này, một điều có thể giúp trong phương diện này... vì đối với tôi, điều quan trọng là cô tiến hành như thế nào, các cơ quan truyền thông có thể giúp cách nào. Cách nay hơn kém 3 năm, vấn đề gọi là “các linh mục phạm tội ấu dâm” bắt đầu tại Granada, liên quan đến 7, 8 hay 10 linh mục bị tố cáo lạm dụng các vị thành niên và phạm tội bề hội đồng (orgies) hay gì gì đó.

Chính tôi tiếp nhận lời tố cáo, một cách trực tiếp, một lá thư do một thanh niên 23 tuổi, theo anh ta, anh ta bị lạm dụng, anh ta cung cấp tên và mọi điều, một người trẻ lúc ấy đang làm việc tại một cao đẳng nổi tiếng ở Granada, và lá thư rất hoàn hảo. Và anh ta hỏi tôi phải làm gì để tường trình việc này. Tôi bảo anh ta đi gặp Đức Tổng Giám Mục của Granada và cho ngài biết việc này, và Đức Tổng Giám Mục sẽ biết phải làm gì. Anh ta nghe theo, và Đức Tổng Giám Mục làm tất cả những điều ngài nên làm. Rồi sự việc cũng đến cả tòa án dân chính nữa và thế là có hai thủ tục. Nhưng rồi các phương tiện truyền thông địa phương bắt đầu lên tiếng, rồi lên tiếng (về việc này), và 3 ngày sau, họ viết “ở giáo xứ, 3 linh mục ấu dâm” và vân vân, và bằng cách này, ý thức đã được thành hình, [ai cũng nghĩ] nghĩ rằng các linh mục này là các phạm nhân hình sự.

Bẩy linh mục bị tra vấn và người ta không tìm thấy gì cả. Với ba vị, cuộc điều tra tiếp tục tiến hành và các vị phải ngồi tù trong 5 ngày, hai vị, trong đó có Cha Romani, cha xứ, ngồi tù đến 7 ngày. Trong gần ba năm và hơn thế, các vị bị ghét bỏ, bị cả thị trấn xỉ vả... “phạm nhân hình sự!” Các vị không thể ra ngoài. Các vị chịu xỉ nhục bởi “bồi thẩm đoàn” (giuria) được công bố để chứng minh cho các lời tố cáo của người trẻ mà tôi không dám nhắc lại ở đây. Trong khi ấy, sau 3 năm, “bồi thẩm đoàn” tuyên bố các vị vô tội, tất cả vô tội, nhưng đặc biệt là ba vị này, các vị khác đã nằm ngoài vụ án và rồi kẻ tố cáo bị lên án, bị coi là giầu óc tưởng tượng. Anh ta rất thông minh và từng làm việc cho một cao đẳng Công Giáo, anh ta có tiếng tăm và cho người ta cảm tưởng nói sự thật.

Anh ta bị kết án và buộc phải trả án phí. Các linh mục này bị các phương tiện truyền thông địa phương kết án trước khi công lý được thực hiện. Vì lý do này, việc làm của cô rất quan trọng, cô phải đồng hành với cuộc điều tra nhưng với suy đoán vô tội, chứ không suy đoán có tội. Có sự khác nhau giữa người đưa tin, cung cấp tín liệu cho một vụ án, người này không suy đoán có tội, và người điều tra, người này hành động giống Sherlock Holmes và suy đoán có tội. Khi ta đọc kỹ thuật của Hercules Poirot, với ông này, mọi người đều có tội, nhưng đó là công việc của người điều tra. Có hai lập trường khác nhau: nhưng những người cung cấp tin tức phải khởi đi từ suy đoán vô tội, không đưa ra lời kết án. Đối với tôi, vụ xẩy ra ở Granada là một điển hình rất có ích cho tất cả chúng ta khi làm việc.
 
Tìm hiểu về “Đồi Thánh Giá” tại quốc gia Lithuania
Thanh Quảng sdb
22:53 23/09/2018
Tìm hiểu về “Đồi Thánh Giá” tại quốc gia Lithuania

Đây không chỉ là một nơi Linh Thánh, mà còn là một biểu tượng của sự tranh đấu không ngừng nghỉ để giữ vững Niềm tin trong suốt thời gian chủ nghĩa cộng sản thống trị tại quốc gia nhỏ bé này.
Để được gọi là một "đồi" ở Lithuania, không chỉ là một địa danh cao mà cón phải có cảnh quan, rừng và đồng cỏ làm mát mắt du khách thập phương. Vị trí của “Đồi Thánh Giá” không xa thành phố Siauliai nằm ở phía bắc thủ đô Lithuania. Ai đó đi du lịch đến Lithuania muốn hiểu về đất nước này không thể bỏ qua địa danh “Đồi Thánh Giá”.

Thật vậy rất “nhiều người, nhiều khách hành hương, tuôn về đây từ khắp nơi trên thế giới, nhất là từ Ba Lan, Tây Ban Nha, Ý, và thậm chí từ các nước Á châu nữa. Họ đến đây để trải nghiệm sự linh thánh thiện của nơi này, Cha Andrius Dobrovolska, một linh mục viết lại các trang sử của nơi đây từ chuyến viếng thăm của Thánh Giáo hoàng Thánh Gioan Phaolô II cho đấn ngày nay.

Ngày nay, những cây thánh giá chồng chất trên ngọn đồi nhỏ này, khoảng 100.000 cây, đó là chưa kể những cây Thánh giá mà trong thời Cộng sản cũng như sau đó đã bị lấy đi hay cất đi qua thời gian.
Ngược dòng lịch sử thì trước đây chỗ này có một cây Thánh giá được đặt trên ngọn đồi, rồi với thời gian hàng chục cây Thánh giá khác được đặt quanh… Nhưng khi kết thúc Chiến tranh thế chiến thứ hai, thì Lithuania không may bị rơi vào vòng kiềm tỏa của Cộng sản vô thần Liên Xô.
“Đồi Thánh Giá” trở thành một nơi thánh, và một khía cạnh nào đó, nó cũng trở thành một biểu tượng cho cuộc tranh đấu không ngừng nghỉ của người dân Lithuania trong suốt thể chế độc tài Cộng sản, để gìn giữ và bảo toàn niềm tin của họ. “Đồi Thánh Giá” trở thành một bãi chiến trường, bởi vì những người Cộng sản không ngừng cố gắng hủy phá nó, chúng giật đổ thánh giá nào thì người dân lại đựng lên một cây khác trong đêm tối... Đó là lý do tại sao người dân cho đó là một biểu tượng của cuộc đấu tranh gian khổ giành lại độc lập”.
Cha Andrius ghi lại có ít nhất bốn lần, dưới thời chủ nghĩa Cộng sản, những người Cộng sản đã ủi sạch những cây thánh giá trên đối này, nhưng mỗi lần như vậy thì một bông hồng mới lại nở hoa kiện cường chí khí đấu tranh của dân chúng... Và rồi ngày độc lập được mong chờ từ lâu, đi đôi với tự do tôn giáo, đã được Đức Thánh Giáo Hoàng người Ba Lan là Gioan Phaolô II với một đức tin kiên cường đã cùng với toàn dân Lithuani trong chuyến Tông du lịch sử vào tháng Chín năm 1993; hình ảnh của Đức Thánh Giáo Hoàng người Ba Lan cùng đồng hành giữa hàng ngàn cây Thánh giá tiến về nơi đây đã làm nên chuyến viếng thăm phi thường. "Đức Gioan Phaolô II đã đến đây, cử hành Thánh lễ, dù hôm đó trời đã vào mùa thu, nhưng trời rất lạnh, và ĐTC nghĩ thật là ý nghĩa nếu nơi này trở thành một địa danh hành hương, có chỗ cư trú cho khách hành hương nhất là trong những ngày mưa gió giá lạnh lẽo như thế này.”
Với ước nguyện của Dòng Phanxicô, một tu viện đã được xây dựng gần ngọn đồi, nơi cha Andrius sinh sống cùng với hai tu sĩ Phanxicô khác, các ngài bận rộn tiếp đón hàng trăm du khách mỗi ngày. Ngay cả Đức Thánh Cha đã trở thành một du khách ghé qua đây trong viếng thăm thánh đường La Verna, ở Ý chỉ một tuần sau khi Tu viện được khánh thành.

Cha Andrius giải thích đối với Thánh Gioan Phaolô II thì có một mối liên hệ sâu xa giữa hai nơi thánh này “ Đồi thánh Thập giá,” và “địa danh La Verna nơi xưa kia Thánh Phanxicô nhận được ghi năm ấn tích Thập giá của Chúa. ”
Rồi kênh qua nhiều năm tháng, những cải tiến khác đã được kiến thiết như bãi đậu xe, nhà vệ sinh, cửa hàng lưu niệm; bây giờ có cả dịch vụ như hướng dẫn du lịch dành cho du khách. Trong số nhiều dịch vụ và cơ sở, có nhiều cây thánh giá có giá trị nghệ thuật, nên “Đồi Thánh Giá” đã trở thành một Di sản Thế giới được UNESCO công nhận. Nhưng giá trị đích thực của “Đồi Thánh Giá” luôn luôn nằm trong ý nghĩa đức tin và giá trị của một cuộc tranh đấu bền bỉ cho tự do tín ngưỡng của nhân dân nước Lithuania.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo xứ Tân Phú Hòa : Lễ Hội Vui Trung Thu
Martinô Lê Hoàng Vũ
09:15 23/09/2018
“Cứ để trẻ em đến với Thầy,đừng ngăn cấm chúng.Vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng”( Mt 19,14).Trong sứ vụ công khai,Chúa Giêsu luôn dành trái tim của Ngài tình yêu thương các bạn nhỏ.Tinh thần đón nhận trẻ nhỏ đó được thể hiện rõ nét nhất nơi cộng đoàn giáo xứ Tân Phú Hòa, hạt Phú Thọ, SG nhân dịp Mùa Trung Thu.

Xem Hình

Chiều nay, thứ bảy 22.9.2018,tức là 23 tháng tám âm lịch, tại khuôn viên giáo xứ Tân Phú Hòa, hạt Phú Thọ, SG đã diễn ra Lễ Hội Trung.Bầu không khí thật vui tươi náo nhiệt,tiếng cười nói, hò reo của các bạn nhỏ đã phá tan cơn mưa nặng hạt ngoài trời.Sau thánh lễ chiều, các em vui Trung Thu trong sân nhà thờ,bắt đầu từ lúc 19 giờ tối,không kể các bạn lương hay có đạo đang theo học giáo lý.

Trước hết,các em được ăn uống thật no để mừng ngày Trăng Tròn,hội ngộ chia vui với Chú Cuội và chị Hằng.Đây là bữa tiệc của cả giáo xứ dành cho các em,khởi đi từ tấm lòng yêu thương trẻ thơ của mọi người, luôn mong ước các em luôn sống vui tươi lành mạnh,chăm chỉ học hành,và luôn là những thiếu nhi dễ thương của Chúa Giêsu Thánh Thể.Bữa tiệc do Hội Các Bà Mẹ Công Giáo và các mẹ thiện chí hỗ trợ phục vụ nấu nướng.

Bầu khí lễ hội Trung Thu còn vui hơn khi các em chăm chú theo dõi chương trình văn nghệ.Các anh chị Huynh Trưởng trong giáo xứ và các em thiếu nhi trình diễn những tiết mục ca múa, vũ điệu mới trẻ trung và tiểu phẩm gói ghém những câu chuyện ý nghĩa.Các em sẽ học được những bài học bổ ích là tinh thần siêng năng học tập, tình yêu thương trong gia đình và biết ơn cha mẹ đã sinh dưỡng chăm lo cho được đến trường đi học,cùng với biết bao công ơn cha mẹ.

Tạ ơn Chúa đã ban cho các em thiếu nhi Giáo xứ Tân Phú Hòa một buổi tối vui tươi thật trọn vẹn nhân mùa Trung Thu về.Xin Chúa tuôn đổ muôn ơn lành hồn xác xuống trên cha xứ, vị Mục Tử giáo xứ luôn hết lòng yêu thương các bạn nhỏ,đồng hành với các bạn bằng sự quan tâm chỉ dạy,cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các bạn được học hỏi giáo lý và vui chơi hết mình trong tối nay.

Martinô Lê Hoàng Vũ
 
Gia đình Phạt Tạ Thánh Tâm hạt Phú Thọ: Thực thi bác ái
Văn Minh
09:23 23/09/2018
“Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).

Thực thi Lời Chúa trên đây, Ban Chấp hành (BCH) và các thành viên Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu (GĐPTTTCG) đã cùng nhau tổ chức chuyến ra đi chia sẻ những tấm bánh Trung thu, những chiếc lồng đèn cho các em thiếu nhi kém may mắn không phân biệt tôn giáo tại họ đạo Vị Hưng, giáo phận Cần Thơ, cùng nhau vui đón Tết Trung Thu.

Xem Hình

Vào lúc 5g00 sáng thứ Sáu ngày 21.09.2018, các thành viên GĐPTTTCG giáo hạt Phú Thọ cùng quý vị ân nhân, gồm 45 người trên chuyến xe khởi hành từ giáo xứ Tân Phước đi thực thi bác ái. Khi xe của đoàn ra khỏi TPHCM, đoàn cùng nhau đọc 10 kinh Mân Côi và cầu xin Đức Mẹ ban cho đoàn đi được bình an.

Trên đường đi, đoàn trao cho họ đạo Đại Hải – Giáo phận Cần Thơ 1.500 hộp bánh, họ đạo Cái Nhum 300 hộp bánh, họ đạo Vĩnh Hậu, Bạc Liêu 300 hộp bánh, họ đạo Long Mỹ, Vĩnh Long 300 hộp bánh, họ đạo Vĩnh Nhuận, GP Long Xuyên, 200 hộp bánh, và họ đạo Vị Tính 300 hộp bánh.

Đúng 12g30, đoàn tới thánh đường giáo xứ Tắc Sậy, kính viếng và cầu nguyện cùng cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Sau khi dùng cơm trưa xong, đoàn tiếp tục đi đến họ đạo Vị Hưng lúc 17g00. Khi xe của đoàn tới, được cha sở Anphongsô Lê Kim Thạch, quý vị đại diện HĐMVGX ra đón tất thân tình. Vì họ đạo nằm bên kia sông, nên xe lớn không thể qua được mà phải dùng phà của họ đạo đưa người và hành lý qua con sông Xà No. Sau cái bắt tay thăm hỏi của cha sở Anphongô đến từng người đi trong đoàn, và ngài mời mỗi người một ly nước mát do chính người giáo dân của họ đạo làm, ai nấy đều vui mừng đón nhận và cùng nhau thưởng thức vì sau gần 10 tiếng đồng hồ ngồi trên xe, đối với các cụ lớn tuổi thì đó là cả một sự hy sinh của các cụ. Tại đây, đoàn đã trao cho họ đạo 800 hộp bánh, 620 gói kẹo, 200 chiếc lồng đèn cùng một số quần áo và tập viết cho các em.

Đúng18g00, các thành viên GĐPTTTCG cùng hiệp dâng Thánh lễ đồng tế dành cho các em thiếu nhi mừng Tết Trung Thu, do cha sở Anphongsô Lê Kim Thạch và cha phó Đaminh Ngô Hồng Tấn đồng tế.

Sau Thánh lễ, cha sở Anphongsô, cha phó Đaminh, quý soeur, cùng các em rước đèn xung quanh nhà thờ. Sau đó, là tiết mục văn nghệ với màn múa Lân do các em trong Ban Lễ sinh thể hiện đã diễn ra rất sôi động.

Sau cùng, là cuộc thi lồng đèn do các em thiếu nhi trong các lớp giáo lý trong họ đạo tự thiết kế, được cha sở cùng đại diện GĐPTTT hạt Phú Thọ làm giám khảo chấm điểm. Trước khi các em ra về, các anh chị huynh trưởng phát cho mỗi em thiếu nhi không phân biệt lương giáo đi tham dự một hộp bánh. Xong công việc, đoàn được cha sở mời dùng cơm tối và nghỉ đêm tại họ đạo.

Sáng hôm sau, vào lúc 5g00, các thành viên tham dự Thánh lễ cùng cộng đoàn do cha phó chủ sự. Sau bữa điểm tâm sáng, lúc 8g00, đoàn lên xe trở về Sài Gòn, kết thúc chuyến đi thật tốt đẹp. Trên đường về, đoàn tới Trung tâm Hành hương Đình Khao - Giáo phận Vĩnh Long, được cha Mathêu Nguyễn Tấn Thụy, chánh sở họ đạo Thiềng Đức, kiêm nhiệm Trung tâm Hành hương Đình Khao đón tiếp, và được ngài chia sẻ về những cuộc bách hại, trảm quyết, của các thánh tử đạo. Đặc biệt, là cha Thánh Philipphê Phan Văn Minh, bị trảm quyết tại cây đangoài bờ sông phía trước mặt. Tại đây, ông Giuse Phạm Quang Thúy,đại diện trao chosoeurquản lý 100 hộp bánh, và ủng hộ soeur Têrêsa Nguyễn Thị Vân (chín) bị bệnh tim1.000.000đ tiền mặt. Sau bữa cơm trưa bình dân tại Trung tâm Hành hương Đình Khao do quý soeur Dòng Mến Thánh Giá Cái Nhum tiếp đãi, đoàn trở về TPHCM lúc 17g00 cùng ngày trong bình an.

Ngoài ra, nhân mùa Trung Thu, GĐPTTTCG giáo hạt Phú Thọ đã chuyển đến Dòng Sain Paul Kon Tum 200 hộp bánh, cơ sở Khiếm Thị Bừng Sáng quận 10 TPHCM 100 hộp bánh, và Thiếu nhi giáo xứ Tân Phước, Sài Gòn 100 hộp bánh.

Tổng số tiền trong chuyến thực thi bác ái và giúp các em thiếu nhi vui Tết Trung Thu là 55.400.000đ. Số tiền này do các thành viên trong các xứ đoàn, cùng quý vị ân nhân trong GĐPTTTCG giáo hạt Phú Thọ đóng góp.
 
Gia Đình và Các Hội Đoàn Gia Đình- Giáo Phận Đà Nẵng Hành Hương Năm Thánh 2018
Toma Trương Văn Ân
11:53 23/09/2018
Lúc 8 giờ ngày 23 / 9 / 2018, giới Người cha người mẹ, các Đoàn thể thăng tiến và Canh tân Hôn nhân gia đình Giáo phận Đà Nẵng, hành hương về đền Chân Phước An-rê Phú-yên Phước Kiều trong Năm Thánh Tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam.

Xem Hình

Cha Phao-lô Nguyễn Hữu Trường Sơn- Đặc trách Mục vụ hôn nhân gia đình đã chia sẻ chứng từ sống động, mẫu gương đời sống gia đình tốt lành, sự dấn thân phục vụ Giáo Hội và anh chị em trong môi trường sống và sự can đảm làm chứng cho Thiên Chúa bằng chính mạng sống của mình của Nữ Thánh Tử Đạo Ane Lê Thị Thành ( Bà Đê) . và đề tài thứ 2 Cha Phao-lô chia sẻ lôi cuốn thu hút mọi người hiện diện : “Nên Thánh trong đời sống bình thường” . Cha đã trích một số đoạn trong Tông huấn AMORIS LAETITIA – NIỀM VUI CỦA TÌNH YÊU của Đức Thánh Cha PHANXICÔ gửi các Giám mục, các linh mục và các phó tế, các người sống đời thánh hiến, các cặp vợ chồng kitô hữu và tất cả mọi tín hữu giáo dân . Đức Thánh Cha mời gọi mỗi người tín hữu làm chứng nhân Thiên Chúa tình yêu bằng chính đời sống yêu thương sẻ chia của mình , mỗi người được lãnh nhận n sủng khác nhau , nhưng tất cả đều được mời gọi nên thánh trong hoàn cảnh sống , trong trách nhiệm bổn phận hằng ngày của mình.

Bác sỹ Giu-se Trần Văn Thọ được mời chia sẻ vấn đề tâm sinh lý nam nữ, những hướng dẫn bảo vệ sự sống, bảo vệ thai nhi, cùng cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng, theo đường hướng của Giáo Hội.

Cao điểm ngày hành hương là Thánh lễ đồng tế Lúc 10 giờ 30 do Cha Bonaventura Mai Thái- Tổng Đại diện chủ sự. Với nhiều dẫn chứng và suy tư, Cha mời gọi mỗi người theo gương Chân Phước An-rê Phú-yên : “Hãy giữ nghĩa cùng Chúa cho đến hết hơi , cho đến trọn đời” .

Hôm nay cũng trùng ngày hành hương của Giáo xứ Cồn Dầu, làm cho Đền Thánh thêm phần vui tươi Thánh thiện trong tình Chúa và tình người.

Toma Trương Văn Ân
 
Phóng sự một cuộc gây quĩ từ thiện Dallas thất bại và tâm tình cuả một nữ tu VN ở New Orleans.
Trần Mạnh Trác
15:29 23/09/2018


Xem hình ảnh

Sau khi nghe tôi chia xẻ một vài lời an ủi, Sơ Maria Lê Thị Thống từ New Orleans đã tươi cười đáp lại: “thưa anh, đó là thánh ý Chuá mà, chắc chắn Chuá làm như vậy là để mở cho mình một con đường tốt hơn”, rồi Sơ vừa nói chuyện vừa tiếp tục công việc đang làm, là trộn cho xong món gỏi để thiết đãi vài chục cộng sự viên, sau cuộc gây quĩ hoàn toàn thất bại tại Dallas này.

Sơ Thống (mà Sơ muốn tôi gọi là Thống Hối,) là một nữ tu dòng Con Đức Mẹ Nam Vang-Phú Cường, đã đi du học ở Hoa Kỳ từ 6 năm qua, vừa đi học vừa đi làm ‘Nail’ 6g một ngày để mưu sinh, hiện nay đang phục vụ với chức vụ thư ký taị giáo xứ Mary Queen of Vietnam Church (Giáo Xứ Maria Nữ Vương Việt Nam) do LM Đominic Nguyễn Văn Nghiêm làm chánh xứ.

Cái lý do mà Sơ lên tận vùng Dallas này là vì một số thân hữu trong hội từ thiện Daughters of St. Mary Convent đã tổ chức một chương trình gây quĩ cho các em cô nhi cuả nhà dòng (ở VN) tại một hội chợ gọi là ‘Plano Balloon Festival’ ở đây.

Cứ bắt đầu muà Thu là lúc khí trời dịu xuống thì vùng Dallas này nổi lên nhiều đám hội hè, thí dụ tuần này có 2 hội lớn để mọi người có thể ‘Nhìn Trời’, là hội ‘Thả Diều’ dọc theo những bãi cỏ xanh trên sông Trinity ở downtown Dallas, và hội ‘Khinh Khí Cầu’ bay trên các trang trại mênh mông ở Plano, một thành phố Bắc Dallas. Đó là chưa kể các buổi ‘Trung Thu’mà nhiều cộng đồng Á Châu cũng tưng bừng tổ chức cho các em nhỏ vui chơi.

Nhưng, tuy các hội chợ ở ngoài trời là một ‘dịp bằng vàng’để cho ‘con buôn’ ‘làm giàu nhanh,’ hội từ thiện ‘gây quỹ lớn’, nhưng sự ruỉ ro thì cũng rất lớn không kém, lý do là vì nó tuỳ thuộc vào một yếu tố mà con người chưa kiểm soát được, đó là ‘thời tiết’.

Từ thứ Sáu vào lúc khai mạc hội chợ cho đến Chuá Nhật hôm nay, Trời đã đổ mưa! Nhiều chưa từng thấy từ 78 năm qua (theo thống kê), ‘mưa thối đất’ theo lời các vị bô lão, các sân cỏ trở thành những vũng bùn lầy lội và đài khí tượng liên tiếp gởi đi lệnh báo động “có lũ, chớ có lái xe qua các vũng nước chảy qua đường”.

Ban giám đốc cuả ‘Plano Balloon Festival’ đã ‘cancel’ (bãi bỏ) chương trình và phong toả khu hội chợ để tránh tai nạn…thế là mọi người tiu nghỉu ra về, ‘bỏ cuả chạy lấy người’!

Nhưng sự mất mát không chỉ là số tiền đã bỏ ra hoặc số trang bị có thể bị hư hại vì lụt, nó còn là công sức và thời gian mà hàng chục anh chị em thiện nguyện ở vùng Dallas đã bỏ ra nhiều tuần qua để pha chế thực phẩm, cũng như cuả những người từ những nơi xa như New Orleans, Houston, đã vất vả thu xếp công việc để lên Dallas góp sức.



Và dĩ nhiên, cũng mất đi hy vọng là những em nhỏ cô nhi ở Việt Nam có được một món quà nào đó cho muà Noel, cho dịp Tết đến…

Thực ra thì đây không là lần đầu Sơ Thống lên đây gây quĩ, lần trước chúng tôi đã gặp Sơ ở một hội chợ khác hồi tháng 5 vừa qua: Hội chợ cuả người Thái Lan ở Dallas. Chúng tôi đã không làm phóng sự vào lúc đó vì không đủ thông tin về Sơ, nay xin đăng lại những hình ảnh đó ở đầu Album.

Cũng là một gian hàng (nhỏ) do ban từ thiện này tổ chức, họ đã khá thành công qua cái hội chợ Thái nói trên, và bây giờ họ mong ‘đánh lớn’ hơn nữa…

Trong khuôn khổ cuả một bài phóng sự viết nhanh, chúng tôi không thể tả ra hết mọi tình tiết cuả câu chuyện cho quí độc giả được, vậy chỉ xin gửi tới quí vị những thông tin cần thiết sau đây, là thông tin mà nhiều độc giả đã luôn luôn yêu cầu qua toà soạn mỗi khi chúng tôi đăng một phóng sự như thế này.



Thông tin về Dòng Con Đức Mẹ Nam Vang-Phú Cường

(http://www.betrenthuongcap.net/dong-con-duc-me-nam-vang-phu-cuong.html)

Liên lạc với Sơ Thống qua Gx Maria Nữ Vương VN

(http://maryqueenvn.org/staff)

DT: 504-913-1106
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Bác Trọng khóc chú Quang
Đinh Văn Tiến Hùng
11:46 23/09/2018
-Bài khóc đồng chí của Trọng Lú trên đây thật giả dối, nhưng đó cũng là huyết thống lưu truyền thừa hưởng từ ông tổ Hồ tặc để lại cho Đảng tà quyền CSVN. Xin quí độc giả đừng hiểu lầm người viết (thay lời Tổng Trọng) với dụng ý vạch mặt sự giả dối của bọn CSVN, khi sống dùng âm mưu thủ đoạn thanh trừng nhau và lúc chết lại giả bộ chân tình khóc lóc thương đau.


Chú Quang thôi đã đi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng tôi,
Chú đi chủ tịch ai ngồi ?
Mình tôi hai gánh bồi hồi lo toan,
Thôi vì dân tộc giang san,
Đảng còn cầm lái mai sau nước còn.

Nhớ từ thuở ban đầu ngày trước,
Tôi với chú sánh bước bên nhau,
Vui buồn gian khổ ngại đâu,
Một lòng vì đảng bấy lâu vững bền.

Nhớ những ngày băng rừng vượt núi,
Vào Miền Nam để cứu nhân dân,
Ngại gì lao lực tấm thân,
Sợ gì sinh tử bao lần khốn nguy.

Giờ đây đất nước nuôi hy vọng,
Đã cùng nhau xây mộng dài lâu,
Một trang sử mới khởi đầu,
Vài chục năm nữa nước giàu dân no.

Thế mà chú ra đi đột ngột,
Khiến lòng tôi ủ dột u sầu,
Không còn được sống bên nhau,
Cùng chung hạnh phúc đã lâu đợi chờ.

Tấm thân chú bao năm nhiệt huyết,
Nên hao mòn rũ liệt dần đi,
Đời người sinh ký tử qui,
Chú đi bước trước tôi thì theo sau.

Trăm năm cuộc sống qua mau,
Tử sinh phải nhận trước sau một lần,
Chúng ta tâm nguyện ý cầu,
Một ngày nào đó cũng gần đến thôi,
Chúng mình đổi kiếp cuộc đời,
Mừng sẽ gặp Bác ở nơi Ta-bà !

ĐINH VĂN TIẾN HÙNG
-(*) Chú thích : Mượn đôi lời và ý của cụ Nguyễn Khuyến trong bài thơ khóc bạn Dương Khuê.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hướng Dẫn Giáo Dân Thực Thi Sứ Vụ Thừa Sai
Lm. GB. Trương Thành Công
10:15 23/09/2018
LTS: Hướng Dẫn Giáo Dân Thực Thi Sứ Vụ Thừa Sai là tựa đề bài thuyết trình của LM. GB. Trương Thành Công được trình bày trong dịp Hội Thảo Loan Báo Tin Mừng tại Huế đầu tháng 9 vừa qua. Nhận thấy đây là tài liệu đề nghị những việc Thực Thi Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng rất cụ thể và thực tế nên VietCatholic trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả

I. SỨ VỤ THỪA SAI CỦA TÍN HỮU CHÚA KITÔ

- Chúa Giêsu nhập thể làm người và đứng vào vị trí của một người như mọi người, cho thấy một người dân thường, một người giáo dân, có vai trò truyền giáo tốt nhất. Tự thân là Con Thiên Chúa nhập thể làm người, ẩn thân trong vai một bác thợ, Chúa Giêsu thực sự là nhà "thừa sai giáo dân" đầu tiên.

- Lệnh truyền "sai đi" của Chúa Giêsu trước tiên dành cho các tông đồ và các môn đệ cũng thuộc tầng lớp dân dã được Chúa Giêsu kêu gọi và sai đi rao giảng Tin Mừng. Sau đó, lệnh truyền này còn nhằm tới tất cả các tín hữu nữa: "Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48). Sứ vụ thừa sai này đòi buộc tất cả những ai đã lãnh Bí tích Rửa Tội, nhất là Bí tích Thêm Sức, mọi nơi mọi thời. "Tất cả mọi giáo dân là thừa sai theo Phép Rửa" (Tđ. Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, số 71)

- Quy tụ tông đồ và huấn luyện truyền giáo đó là công tác đầu tiên và quan trọng của Chúa Giêsu trong sự nghiệp loan báo Tin Mừng. Ngài đã cho các ông sống với mình, chứng kiến các phép lạ, nghe giảng dạy và giải thích riêng, trước khi sai đi rao giảng. Vì thế các tín hữu cũng cần được các mục tử qui tụ, đào luyện và hướng dẫn để thực thi sứ vụ thừa sai.

- Tại Việt Nam, sứ vụ loan báo Tin Mừng thường được hiểu là bổn phận chỉ dành cho các linh mục tu sĩ. Ngược lại, nhiều giáo dân rất nhiệt tình và sẵn lòng "lên đường", nhưng lại không được sai đi, hoặc không biết bắt đầu từ đâu, hoặc không biết cách nào hữu hiệu để thực thi sứ mạng truyền giáo. Vì thế, phải cấp thiết gây ý thức và thúc bách giáo dân thi hành sứ vụ thừa sai; đồng thời các mục tử cần phải hướng dẫn cũng như tạo điều kiện để các tín hữu tham gia vào công cuộc truyền giáo.

- Dù linh mục tu sĩ là thành phần nòng cốt, nhưng giáo dân bao giờ cũng là “lực lượng” đông đảo và mạnh mẽ hơn, không thể thiếu trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Do đó, không vận dụng được giáo dân vào việc truyền giáo là một mất mát, nếu không nói là, hoang phí nhân sự và sai sót về đường hướng loan báo Tin Mừng.

- Thấy được yêu cầu cấp bách của Giáo hội Việt Nam và cách riêng cho UBLBTM, Đức Cha Chủ Tịch, Cha Thư ký và UBLBTM đã tổ chức Cuộc Hội thảo Truyền giáo năm 2018 này, với chủ đề thực tiễn: “Được Rửa Tội và Được Sai Đi”, nhằm đưa ra những thực hành hướng dẫn giáo dân Việt Nam tham gia vào sứ vụ truyền giáo.

Rất đồng tình và hoan nghênh định hướng trên đây, chúng con xin đóng góp vài nhận định và thực hành cụ thể, đã áp dụng trong 12 năm công tác truyền giáo tại 3 giáo điểm, nhằm góp phần vào việc hướng dẫn giáo dân lên đường thi hành sứ vụ thừa sai Tin Mừng.

II. HƯỚNG DẪN CỤ THỂ GIÚP GIÁO DÂN THỰC THI SỨ VỤ THỪA SAI

Trong thời gian cho phép, con xin giới hạn đề tài trong 2 điểm, được thấy là mới và quan trọng hơn:

 Hướng dẫn tín hữu thi hành sứ vụ thừa sai qua công tác BÁC ÁI TRUYỀN GIÁO.

‚ Hướng dẫn tín hữu thi hành sứ vụ thừa sai bằng KẾT THÂN và THĂM VIẾNG anh em lương dân.

1. Thi hành sứ vụ thừa sai qua công tác 'BÁC ÁI TRUYỀN GIÁO'

⁃ Ngày càng có nhiều giáo xứ, hội đoàn, tổ chức, cá nhân… “làm bác ái từ thiện", như: thăm viếng người nghèo vùng quê - ủy lạo nhu yếu phẩm - hỗ trợ xây dựng nhà tình thương - làm cầu đường cho quê nghèo sông nước - đóng góp hoặc tài trợ cho các chương trình chăm sóc người khuyết tật, bệnh nhân nhiễm HIV, nuôi dưỡng trẻ mồ côi, mái ấm cho bà mẹ đơn thân, …

⁃ Các linh mục, tu sĩ, cũng như giáo dân, khi bước vào công tác truyền giáo cũng thường quan tâm và khởi đầu bằng các việc bác ái từ thiện. Trong báo cáo loan báo Tin Mừng, nhiều nơi¸ đã kể công tác bác ái xã hội như là hoạt động chủ lực, như là thành tích truyền giáo (rồi cũng báo cáo đó lại được nhắc tới như báo cáo hoạt động của Tổ chức Caritas !)

⁃ Các việc "bác ái từ thiện" đó chính là: cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho ai rách rưới áo mặc, xoa dịu khổ đau, an ủi buồn phiền... theo tinh thần tương thân tương ái, chia sẻ phúc lợi cho người bất hạnh... Gọi chung là bác ái xã hội.

⁃ Nếu không phân biệt rõ, công tác bác ái xã hội này gần giống như hoạt động từ thiện của các tổ chức hoặc cá nhân ngoài Kitô-giáo: được thực hiện bằng con tim nhân ái, do lòng nhân đạo - trao tặng những vật chất họ sẵn có, hoặc những gì vận động được - chỉ giúp đỡ những đối tượng nghèo được chọn theo ý các ân nhân hay theo lãnh vực họ quan tâm chu cấp - có thể mang “hậu ý” tốt hoặc xấu, nhưng làm việc thiện "vì mình" hơn là vì tha nhân, nhằm đánh bóng tên tuổi cá nhân hay đoàn thể mình hơn là nhắm tới người nghèo khổ đang cần được cứu giúp...

- Thêm vào đó, tương quan giữa người làm việc từ thiện và người nhận giúp đỡ thường chỉ nhất thời, mang tính ban phát, bố thí, đôi khi áp đặt. Từ đó, việc từ thiện chỉ nhằm "xoa dịu nhu cầu cơm áo", hoặc nhằm rạng danh các nhà tài trợ. Người được giúp dễ ỷ lại, trông mong và đòi hỏi, nhiều khi lại hưởng thụ cách thụ động, vô ơn. Ai cũng tranh được "làm người nghèo" để trục lợi. Không được phần thì phân bì, ganh tị, giận hờn, oán trách, thậm chí quấy phá, chủi rửa...

⁃ Ngược lại, bác ái Kitô-giáo quan tâm đến những người nghèo khổ với động lực chủ yếu là do lòng yêu mến Chúa, thực hiện trong âm thầm “tay trái không biết việc tay phải làm”, không chỉ là vật chất nhằm “xóa đói giảm nghèo” hay nhằm lôi cuốn theo đạo, nhưng còn theo nhu cầu của người cần được trợ giúp, bất kể là bạn hay thù. Hơn nữa, việc bác ái chân thật phải nhằm thăng tiến tha nhân, chứ không chỉ mang ý nghĩa cứu trợ hoặc để phô trương lòng nhân hậu, hoặc để truyền đạo. Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI đã lưu ý trong Thông điệp Deus Caritas Est: “Tình yêu bác ái thực tiễn không phải là phương tiện cho điều mà ngày nay người ta gọi là ‘chiêu dụ tín đồ” (số 31c).

- Tuy nhiên, theo ĐGH, qua việc bác ái chúng ta có thể giới thiệu khuôn mặt từ ái của Chúa Kitô: “Tình yêu thì nhưng không... Điều này không có nghĩa công việc bác ái phải để Thiên Chúa và Đức Kitô qua một bên... Tình yêu trong sự thuần khiết và vô tư là chứng cứ tốt nhất về Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta tin và thúc đẩy chúng ta yêu thương. Người Kitô hữu biết lúc nào có thể nói về Thiên Chúa, lúc nào thì nên thinh lặng và chỉ nói về tình yêu mà thôi” (số 31c).

- Có lẽ cũng trong ý hướng đó, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã tuyên phong chân phước cho Mẹ Têrêxa Calcutta vào ngày Chúa Nhật Truyền giáo 19.10.2003, như muốn nhấn mạnh đến tính truyền giáo trong công tác bác ái. Mẹ Têrêxa tuy vẫn dồn sức lực cho ‘kẻ đói ăn, cho người khát uống’, nhưng Mẹ đặt trọng tâm của sứ vụ bác ái vào việc trở nên “sự hiện diện, tình yêu thương, lòng thương xót của Chúa” cho những người khốn cùng. Vì thế, Mẹ Têrêxa là mẫu gương làm việc bác ái truyền giáo theo đúng bản chất Kitô giáo.

⁃ Vì thế, các hoạt động bác ái của Kitô-hữu cần hướng tới việc giới thiệu Chúa Giêsu cho người nghèo và đưa họ tới gần Chúa hơn là chỉ trợ giúp họ trong những khổ đau hay nghèo đói mà thôi. Đó chính định hướng truyền giáo trong hoạt động bác ái, gọi là Bác ái Truyền giáo.

⁃ Đây là một định hướng cần được quan tâm. Các Kitô-hữu, qua các hoạt động bác ái không chỉ nhằm mục tiêu từ thiện hoặc mang tính xã hội, mà còn phải nhắm tới việc giới thiệu khuôn mặt từ ái của Chúa Kitô, cần khích lệ anh em lương dân tìm đạo & học đạo & sống đạo, đưa tới hiểu biết và yêu mến Chúa Kitô... Như thế, việc bác ái trong Giáo Hội sẽ gắn liền với sứ mệnh truyền giáo: việc bác ái hướng tới việc loan báo Tin Mừng và loan báo Tin Mừng qua việc bác ái.

⁃ Sau đây, xin trình bày một vài hoạt động bác ái truyền giáo tiêu biểu đã thực hiện:

• Tủ thuốc truyền giáo (khác với Tủ thuốc từ thiện): giới thiệu lương dân bệnh tật đến uống thuốc, với lòng tin tưởng Chúa và kêu xin ơn chữa lành: “Lạy Chúa Giêsu là Lương y quyền năng xin cứu chữa hồn xác con”. (Căn cứ vào Phúc Âm, tiến trình truyền giáo của Chúa Giêsu: Trước tiên Chúa là lương y chữa bệnh xác hồn, trừ quỉ – thứ đến Ngài là linh sư, dạy đạo - rồi sau đó Ngài mới là mục tử, nuôi ăn. Chúng ta trình bày theo tiến trình ngược lại !)

• Chương trình "Ký gạo học đạo": Để giúp bà con giáo điểm yên tâm đi lễ và ở lại học giáo lý suốt buổi sáng Chúa Nhật hằng tuần, chúng con gởi tặng họ 1kg gạo (cả tháng là 5kg, ăn được khoảng 20 ngày). Đây không phải là gạo "xoá đói giảm nghèo", cũng không phải là "gạo đi đạo", nhưng là hình thức khích lệ và tạo điều kiện giúp bà con giáo điểm học đạo và tham dự phụng vụ Chúa Nhật; đồng thời, qua đó còn làm nổi bật tinh thần Ktô-giáo trong luật “nghỉ việc xác|” ngày Chúa Nhật nhằm đề cao phẩm giá con người: tôn thờ Thiên Chúa và vui sống với tha nhân.

• Tham quan truyền giáo: Chúng con thường mời các ân nhân, các đoàn đến giáo điểm để tham quan truyền giáo, chia sẻ đức tin cho lương dân, hỗ trợ công tác truyền giáo tại các giáo điểm... hơn là "đi làm việc từ thiện". Những hỗ trợ vật chất của các đoàn ân nhân này được đề nghị phụ giúp các chi phí truyền giáo của giáo điểm như: dầu cho tàu-xe đưa đón lương dân, thuốc cho người bệnh, ký gạo học đạo, đồng phục trắng đi lễ, áo đi mưa...), chứ không chỉ nhằm trợ cấp từ thiện như: gạo, mì, nhu yếu phẩm... để “chụp ảnh đăng tin”

• Hướng dẫn chia sẻ quà tặng cho láng giềng lương dân nghèo hơn (sẽ trình bày trong phần ‘Phương Thức Một-cặp-Một’ bên dưới).

• Trại hòm Vĩnh Phúc, không chỉ hỗ trợ hòm miễn phí và gạo ăn cho các hộ nghèo gặp tang chế, còn nhằm giới thiệu "Phúc lộc vĩnh cữu", rao giảng "Sự sống đời đời" theo giáo lý Công Giáo cho anh em lương dân.

2. Thi hành sứ vụ thừa sai bằng KÊT THÂN và THĂM VIẾNG lương dân

a. Kết thân:

⁃ Làm quen là bước đầu để tạo tương giao, dẫn tới kết thân, trao đổi, nhất là chia sẻ niềm tin. Chúa Giêsu đã nhiều lần làm quen, tạo tương giao, và dần đi đến chinh phục tâm hồn: cuộc gặp gỡ các môn đệ đầu tiên "Đến mà xem", câu chuyện bên bờ giếng Giacóp, chuyện trò trên đường Emmau... là những điển hình.

- Ý thức sứ vụ loan báo Tin Mừng, Kitô-hữu cần chủ tâm làm quen và kết thân mỗi khi có dịp gặp gỡ, tiếp xúc với anh em lương dân. Hơn thế nữa, người tín hữu phải được hướng dẫn để luôn "đi bước trước" và tạo tương quan tốt với mọi người, nhất là người lương, bằng gặp gỡ, chào hỏi, kết thân, thăm viếng, giúp đỡ, đặc biệt trong các dịp hiếu hỉ.

⁃ Dù các Kitô-hữu được đắc thủ tính-xã-hội cao nhờ hằng tuần đi lễ nhà thờ, tiếp xúc với nhiều người trong giáo xứ, trung bình 50 lần / năm. Nhưng, nền giáo dục Kitô-giáo cũng cần chú tâm đào luyện các tín hữu, ngay từ tuổi thiếu niên, biết mở rộng tương giao, có khả năng giao tiếp tốt, tránh tinh thần cục bộ và co cụm sẽ làm chậm lại hoặc cản trở việc loan báo Tin Mừng như ở nhiều nơi trong quá khứ.

⁃ Kitô-hữu cũng nên tập thói quen rủ mời bạn bè bên lương tới gia đình hoặc nhà thờ để giao lưu, giới thiệu đạo, chia sẻ niềm tin. Đó chính là ý thức sứ vụ thừa sai Loan báo Tin Mừng trong đời sống xã hội, và thực thi nghĩa vụ thừa sai của một Kitô-hữu.

⁃ Dĩ nhiên, để thực thi sứ vụ đó, giả thiết Kitô-hữu phải có đời sống chứng nhân: có nhân cách tốt, đời sống nhân bản trưởng thành, là người lương thiện và đức hạnh... nhờ đó sẽ trở thành một người bạn tốt, có khả năng lôi cuốn bạn hữu và biết chia sẻ niềm tin với thân hữu lương dân.

⁃ Phần lương dân thường có tâm lý rất ngại đến nhà thờ. Cần có ai đó trong đạo gợi ý, mời mọc và dẫn dắt. Sau nhiều lần, họ mới dễ dàng tới lui nhà thờ, rồi mới có thiện cảm hoặc dám hưởng nhận những tiện ích của nhà thờ, sau cùng mới tìm hiểu đạo và theo đạo. Một đoạn đường rất dài (và nhiều khi không đạt đến đích điểm) !

- Lương dân được mời đến nhà thờ, không chỉ là đi dự lễ, nhưng còn họ còn được mời đến để tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, thể thao, văn nghệ… do nhà thờ tổ chức nữa. Ví dụ: văn nghệ, thể thao, thăm viếng, Mùa Hè xanh, hiến máu nhân đạo, gói bánh cho người nghèo ăn Tết.. . Như vậy, giáo dân sẽ thêm cơ hội kết thân và anh em lương dân cũng dễ đến nhà thờ hơn, để tham gia các hoạt động Thiên Chúa mong muốn con người qua đó được sống hạnh phúc hơn.

- Việc kết thân cũng là khởi điểm của phương thức một-cặp-một trong việc loan báo Tin mừng sẽ được bàn dưới đây.

b. Thăm viếng thường xuyên:

⁃ Công tác thăm viếng là “chiến lược mũi dùi”, quan trọng và cần thiết để tạo tương quan thân thiện với anh em lương dân.

⁃ Đừng bỏ qua cơ hội thăm viếng mỗi dịp hiếu hỉ, vui buồn... Chắc chắn việc thăm viếng này sẽ để lại ấn tượng tốt cho anh em lương dân, nhờ đó họ sẽ dễ dàng chấp nhận lời mời đến chơi với gia đình Công Giáo hoặc đến thăm nhà thờ.

⁃ Riêng tại giáo điểm: Ngay khi mời được lương dân đến nhà thờ làm quen, cha xứ và thầy cô phụ trách sẽ tìm tới thăm hỏi gia đình, vừa để tạo tình thân, vừa để hiểu biết hoàn cảnh của họ. Ai đó vắng mặt một hai buổi lễ, giáo lý viên phụ trách lớp sẽ tìm thăm để khích lệ, an ủi, kêu mời. Kinh nghiệm cho thấy cả lương dân lẫn giáo dân nguội lạnh khi được thăm viếng, động viên... sẽ dễ dàng trở lại tiếp tục tham gia sinh hoạt của giáo điểm hoặc giáo xứ. Lương dân cũng có tâm lý trông chờ và rất hãnh diện khi được "nhà thờ" thăm viếng hoặc giúp đỡ lúc bệnh tật, đau yếu, hoạn nạn...

- Vài điều cần lưu ý trong công tác thăm viếng:

• Nên tổ chức đi thăm viếng định kỳ, vào một vài ngày cố định trong tuần, ví dụ như Thứ Ba-Tư-Năm… đi từng nhóm hai, ba, hoặc bốn người.

• Thăm viếng không chỉ là đến xem, hay chỉ ghi nhận sự kiện để biết gia đình ở đâu, mấy người, làm nghề gì…, nhưng làm sao để thấu cảm được hoàn cảnh, những khó khăn, những nhu cầu và hiểu được tâm tư của gia chủ cũng như các thành viên trong gia đình. Thăm viếng như thế cần có óc quan sát, có tâm hồn cảm thương, để nắm bắt được nhu cầu, nguyện vọng của người khác. Nhờ đó, dễ tạo tình thân và nếu cần giúp đỡ thì cũng thiết thực hơn. Khi được giúp đỡ đúng nhu cầu thì người lương cảm thấy được yêu thương, được chăm sóc tận tình. Mỗi lần thăm viếng là một lần kết thân và chia sẻ cuộc sống. Và đó là phương thức hữu hiệu để "cảm hoá" họ.

• Cha xứ và Hội đồng Giáo xứ nên hỏi và nghe giáo dân báo cáo sau cuộc thăm viếng về hoàn cảnh và những nhu cầu của người nghèo, để giáo xứ tìm phương cách giúp đỡ. Đó cũng là cơ hội giúp giáo dân thi hành sứ vụ thừa sai.

• Có thể chia sẻ một ít quà tặng vật chất tượng trưng như nhu yếu phẩm, thuốc chữa bệnh, đồ chơi trẻ em, bánh kẹo... Nhưng đừng để lương dân hoặc láng giềng hiểu lầm cuộc thăm viếng nhằm trợ cấp hoặc "chiêu dụ tín đồ".

• Nên kết thúc lần thăm viếng với lời cầu nguyện, xin "Ơn Trên" phù hộ gia đình hoặc hứa sẽ cầu nguyện cho họ. Đó cũng là cách cụ thể để gieo hạt giống niềm tin cho gia đình hoặc các thành viên.

Nỗ lực kết thân và thăm viếng anh em lương dân là chiếc cầu cần thiết và ưu tiên để chuyển tải tình thân và Tin Mừng, từ tâm hồn đến tâm hồn. Đó chính là thước đo nhiệt huyết truyền giáo của một Kitô hữu. Và, có thể nói, mức độ tiếp cận với lương dân mới là thước đo hoạt động truyền giáo của một giáo điểm hoặc của một cộng đoàn giáo xứ, chứ không phải là con số lương dân được rửa tội nữa.

c. Phương thức Một-cặp-Một:

- Đây là phương thức loan báo Tin Mừng đầu tiên được nhắc tới nơi những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu: Gioan Tẩy Giả chỉ cho hai môn đệ “đến mà xem” chỗ ở của “Chiên Thiên Chúa”; rồi Anrê mời thêm Phêrô, Gioan mời được Giacôbê, Anrê mời Philipphê, Philipphê lại mời Nathanael…Cứ “một-cặp-một”, người này đi tìm và mời thêm một người bạn nữa đến với Chúa Giêsu.

- Phương thức “một-cặp-một” phải là mô hình cho Kitô-hữu, mỗi người phải đóng vai trò một hạt nhân loan báo Tin Mừng, sóng đôi với một lương dân. Các tín hữu, kể cả dự tòng, sẽ tìm đến với một lương dân để giới thiệu, khuyến khích, rủ mời tham gia các hoạt động của nhà thờ, của giáo xứ. Sau đó, là kết thân, cầu nguyện cho nhau và đồng hành với nhau đi tìm Chúa.

⁃ Trong sứ vụ thừa sai, phương thức Một-cặp-Một đòi mỗi người phải quyết tâm kết thân với một người bạn, một gia đình làm thân với một gia đình, một cộng đoàn gắn kết với một cộng đoàn trong công tác chia sẻ niềm tin. Thực hiện phương thức này người tín hữu sẽ thật sự trở thành muối men Phúc Âm và thành chứng nhân Tin Mừng cho người chung quanh.

⁃ Ngoài ra, theo gương Chúa Giêsu đã sai các môn đệ "Đi từng hai người một", trong công tác truyền giáo, người giáo dân cần đi với những người đã từng kinh nghiệm tiếp xúc thăm viếng, đã quen truyền giáo, để có điều kiện học hỏi lẫn nhau, đồng thời có thể bàn bạc với nhau về những vấn đề khi thăm viếng.

- Hơn nữa, không chỉ giáo dân, mà cả dự tòng và ngay người lương, đều được hướng dẫn tham gia công tác truyền giáo theo mô hình này. Thực tế cho thấy, dự tòng và lương dân có nhiều thuận lợi để hiểu biết, thấu cảm, chinh phục hơn các tín hữu, bởi trước đây họ cũng là lương dân. Vì thế, rất ngạc nhiên, phương thức Một-cặp-Một lại hữu hiệu và dễ dàng cho dự tòng và người lương cộng tác vào việc loan báo Tin Mừng. Với phương thức này, số “tay thợ” tham gia vào cánh đồng truyền giáo sẽ đông hơn và tăng nhanh.

- Theo phương thức Một-cặp-Một này, các mục tử sẽ tổ chức nhiều hoạt động truyền giáo, còn giáo dân thực hiện một "thao tác" đơn giản, dễ dàng là đi mời anh em lương dân đến tham gia các hoạt động của nhà thờ, của giáo xứ.

⁃ Dưới đây là một số hoạt động tiêu biểu theo phương thức Một-Cặp-Một để hướng dẫn giáo dân cũng như lương dân thi hành sứ vụ thừa sai:

• Chia sẻ quà tặng cho láng giềng lương dân nghèo hơn: dịp Giáng sinh & Phục sinh, mỗi dịp ân nhân tặng quà... (Ví dụ: 10kg gạo được chia 7/3 hoặc 6/4, phần 6kg cho người đi nhà thờ, còn phần 4kg chính họ mang về cho người nghèo khác gần nhà, với lời mời lần tới cùng đi nhà thờ…)

• Hai bao xốp Bác Ái Mùa Chay: người Công Giáo đi Lễ Tro mang về hai bao: một cho gia đình mình, một để mời láng giềng bên lương cùng làm phúc.

• Thơ xin tiền giúp nạn nhân thiên tai, do ô nhiễm môi trường (Formosa): Mỗi giáo dân nhận, ít là, hai bao thơ quyên góp 10.000đ giúp nạn nhân … Có người đã quyên góp được từ nhiều người bạn lương giáo trên một bàn nhậu …!

• Tặng Lịch Vui sống Hạnh phúc (mang tư tưởng Kitô-giáo vào đời): Phân phối từng 2 quyển lịch trong một bao: một cho người Công Giáo – một mang tặng người lương, nhất là bạn đồng nghiệp, sui gia… Lịch đã đi vào tận nhiều cơ quan chính quyền và gia đình người lương và ở lại đó để “rao truyền” tư tưởng Kitô-giáo suốt năm 12 tháng.

• Bữa ăn cho người bán vé số - Cơm Manna - Hội chợ trang phục:

anh chị em lương dân rủ nhau đến dự phần.. .

• Hành hương truyền giáo: Một giáo dân mời một lương dân cùng đi hành hương Trung Tâm Tắc Sậy… Mời được người lương cùng đi thì sẽ được miễn lộ phí.

• Thơ mời đến nhà thờ dự lễ và họp mặt những dịp lễ đạo đời đặc biệt trong năm

(sẽ trình bày trong phần ‘Tạo cơ hội giúp tín hữu đến với lương dân’ dưới đây).

d. Tạo cơ hội giúp tín hữu đến với lương dân:

⁃ Vai trò giáo dân hoặc dự tòng có nhiều thuận lợi trong sứ vụ thừa sai hơn linh mục và tu sĩ. (Môi trường sống đa dạng và gần gũi với lương dân - Hoàn cảnh và thời gian cống hiến nhiều và tự do hơn. - Mức độ giao tiếp và ngôn ngữ thân thiện, ùc v dễ mời gọi láng giềng, bà con, xui gia... đến với Chúa). Nên các mục tử đừng quên "điều động" những tín hữu thiện chí vào sứ vụ loan báo Tin Mừng. Họ có thể từ các hội đoàn, chủ yếu là các thành viên Hội đồng Giáo xứ, trưởng khu, cả những giáo dân "tự do".

⁃ Ngoài việc gây ý thức và hướng dẫn giáo dân, các chủ chăn và giáo xứ cũng cần tạo cơ hội để tất cả các tín hữu thực thi sứ vụ thừa sai đến với anh em lương dân, bằng: tổ chức sự kiện vào những dịp thuận tiện, hướng dẫn mỗi giáo dân đi mời lương dân, đôn đốc và khen thưởng những ai tích cực thực hiện, kêu mời được nhiều người...

⁃ Chương trình đón tiếp lương dân được thực hiện theo các bước sau: Tổ chức sự kiện vào một dịp lễ > Phát động chương trình mời lương dân > Phát Thơ mời > Tổ chức đón tiếp anh chị em lương dân đến nhà thờ > Nọi dung chia sẻ (giới thiệu về Đạo và về nhà thờ, về các hoạt động phục vụ công ích, các chương trình cho lương dân) hoặc nói chuyện chuyên đề (về sức khoẻ, kinh tế, gia đình, giáo dục...) > Chuẩn bị quà tặng (bốc thăm hoặc xổ số) > Xin địa chỉ & điện thoại liên lạc của khách để mời lần tới > Hẹn trước cuộc gặp gỡ lần sau vào dịp nào...

⁃ Hằng năm, có khoảng 20 dịp lễ hội đạo đời, rất thuận lợi để giáo dân mời lương dân đến nhà thờ. Những dịp điển hình có thể tổ chức đón mời lương dân: Giáng Sinh 24/12 (Canh thức GS nhằm giới thiệu đạo cho lương dân hơn là trình diễn cho người Công Giáo) – Phục Sinh – Mồng II Tết cầu cho ÔBCM – Suy tôn và Tưởng nhớ Tổ tiên 02/11 – Mồng III Tết cầu mùa & thánh hoá lao động & cho mượn tiền làm ăn – Thanh Minh – Tết Đoan Ngọ – Trung Thu – Kỳ hè Thiếu nhi – Khai giảng Năm học mới – Ngày Nhà giáo 20/11 – Ngày Thầy thuốc 27/2 – Ngày Quốc Tế Phụ nữ 08/3...,

⁃ Vài hình thức cụ thể khác tạo điều kiện để giáo dân đến với lương dân: Phòng thuốc Truyền giáo – Phần thưởng "Cùng đi tìm Chúa" – Thi đua làm hang đá Noel ở các tụ điểm công cộng (quán cà phê, trường học, cửa hàng..) – Lớp hè bán trú cho Thiếu nhi lương & giáo – Văn nghệ, trình diễn Thánh Ca dịp lễ có vé mời lương dân – Hội chợ Ẩm thực Tết Đoan Ngọ – Các lớp ngoại khóa cho thiếu nhi: nhạc, vi tính, đàn trống, giải bơi lội, giải bóng đá mini.. ., nhất là các dịp lễ Hôn phối tại Nhà thờ (rất thích hợp để mời lương dân, nhất là giới trẻ; qua bài giảng, linh mục dễ dàng giới thiệu nét đẹp của đạo…”).

KẾT LUẬN:

1- Hoạt động truyền giáo

trong ơn của Chúa Thánh Thần:

Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng trong 3 năm, trao lại sự nghiệp truyền giáo cho nhóm tông đồ "nhỏ xíu và yếu xìu". Nhưng Ngài đã ban Thánh Thần như nguồn ơn, động lực, ánh sáng, sức mạnh... để đồng hành và dẫn dắt Giáo Hội trong công cuộc truyền giáo hơn 2000 năm qua. Bộ mặt Giáo hội hôm nay được kể là công trình của Chúa Thánh Thần, và là thời đại của Chúa Thánh Thần.

Công cuộc loan báo Tin Mừng hôm nay cũng tất yếu phải được thực hiện với Chúa Thánh Thần, nhờ Chúa Thánh Thần. Không có Thánh Thần sẽ không có kết quả gì trong truyền giáo. Dù là mục tử hay tín hữu, tất cả phải đặt sứ vụ thừa sai dưới tác động của Thánh Thần, phải kêu xin Thánh Thần, phải làm việc với Thánh Thần, phải tiếp xúc và thăm viếng lương dân bằng nhiệt tình của Thánh Thần, phải thực thi bác ái truyền giáo dưới hướng dẫn của Thánh Thần... Chúa Thánh Thần là tất cả trong sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội.

2- Đẩy mạnh truyền giáo

bằng vận dụng nhiệt tình và cộng tác của giáo dân cũng như của dự tòng:

Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, số tín hữu không là bao nhiêu so với lương dân, nên cánh đồng truyền giáo thật bát ngát; nhưng số tín hữu đó cũng là rất lớn so với số linh mục và tu sĩ trong hoạt động truyền giáo. Vì thế, dù không chuyên môn và thiếu hiểu biết sâu xa về đạo, nhưng với thiện chí và hoàn cảnh thuận lợi, các tín hữu rất cần thiết, và nhiều người rất hữu hiệu trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Cụ thể như các giáo lý viên dấn thân tại các giáo điểm ("Giáo lý viên là những chuyên viên, những chứng nhân trực tiếp và là những nhà truyền bá phúc âm hóa không thể thay thế được" - Tđ. Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, số 73).

Giáo hội không thể bỏ quên, chối từ hay xem thường lực lượng "thừa sai giáo dân" này. Vì thế, Giáo hội cần đề cao vai trò và quan tâm đào luyện người giáo dân trong công tác loan báo Tin Mừng. Và thật đáng tiếc khi không có chủ trương, thiếu đường hướng huấn luyện họ cách kỹ lưỡng, không tạo cơ hội cho họ tiếp tay trên cánh đồng truyền giáo. Đồng thời, các mục tử cũng phải quan tâm khích lệ, khen thưởng, nâng đỡ họ trước những khó khăn hay nghịch cảnh.

Sự cộng tác của các tín hữu không chỉ nói lên sự trưởng thành của một Giáo Hội có đủ mặt các thành phần dân Chúa, mà còn góp phần tích cực làm cho đức tin của chính họ, của cả cộng đoàn hoặc của Giáo Hội tại địa phương đó thêm vững mạnh, như Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã xác quyết trong Thông Điệp Sứ vụ Đấng Cứu độ....

Vì thế, Giáo hội phải có "kế sách" khơi dậy nơi các tín hữu nhiệt tình dấn thân; có "phương sách" hướng dẫn và tạo điều kiện để họ góp phần; đồng thời cũng phải có "chính sách" đào tạo và bồi dưỡng họ thành các thừa sai "chuyên nghiệp" để phục vụ lâu dài cho cánh đồng truyền giáo nữa.

3- Thăng tiến truyền giáo bằng nỗ lực liên tục đưa ra những sáng kiến mới:

Cùng với lệnh truyền "sai đi", Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ Thánh Thần. Ngài là Thần Khí, Đấng An ủi, Đấng Bang trợ..., Ngài còn là Đấng ban ơn khôn ngoan và khơi dậy sáng tạo. Sáng tạo, trong lãnh vực tự nhiên, là nguyên lý cho sự tiến bộ của nhân loại; về phương diện đạo đức, cũng chính là tác động và hoa trái của Chúa Thánh Thần. (xem ghi chú)

Trong truyền giáo cũng cần có sáng tạo. Giáo hội nói chung, các mục tử nói riêng, phải động não liên tục để tìm những phương thức hữu hiệu hơn, phương thế phù hợp hơn, hiệu quả nhanh mạnh hơn trong việc truyền giáo. Mỗi ngày phải thêm nhiều sáng kiến mới phục vụ cho công cuộc loan báo Tin Mừng.

Cầu mong từ cuộc hội thảo này, chúng ta sẽ mở ra một phong trào truyền giáo mới cho Giáo hội tại Việt Nam, với một đội ngũ đông đảo 6-7 triệu giáo dân "thừa sai" "Được Rửa tội và Được Sai đi", cùng với anh em dự tòng và cả lương dân, theo phương thức Một-cặp-Một, dưới sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần bằng ơn thánh và những sáng kiến truyền giáo, hứa hẹn một mùa gặt bội thu trên cánh đồng truyền giáo đất Việt, như viễn cảnh Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã nêu: "Tôi thấy được rạng đông của một thời truyền giáo mới, một rạng đông sẽ trở thành một ngày sống rạng ngời mang lại cả một mùa màng phì nhiêu, nếu tất cả mọi Kitô hữu, nhất là các nhà truyền giáo và các Giáo Hội trẻ, quảng đại và thánh thiện đáp ứng những mời gọi và thách đố trong thời đại của chúng ta đây". (Tđ. Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, số 92)

Lm. GB. TRƯƠNG THÀNH CÔNG

29.8.2018

Lễ Thánh GB. bị tràm quyết

Tiến bộ của nhân loại đều từ những sáng tạo. Không có sáng tạo, nhân loại sẽ ngưng phát triển và suy thoái. Càng ngày người ta càng phải “sáng tạo” nghĩ ra nhiều sản phẩm mới, cải tiến nhiều mẫu mã mới, và phát kiến nhiều tiện ích mới trên đồ dùng, thuốc men, thực phẩm, máy móc... để phục vụ nhu cầu không ngừng của con người.

Sáng tạo, trong đời sống thực tế cũng như trong truyền giáo, đều có thể hiểu:  Là phát minh mới (sáng chế của các nhà khoa học: điện năng, váccin chó dại, thuốc trụ sinh, tấm năng lượng mặt trời,... Giáo Hội Công Giáo Việt Nam có một phát minh độc đáo phục vụ dân Việt, đó là chữ quốc ngữ do Cha Alexandre de Rhodes gầy dựng) - ‚ Là cải tiến mới những gì đã có, nhưng được nghiên cứu và thực hiện theo một phương cách mới (Cây lau nhà, đồ nội thất xếp gọn, bẫy bắt chuột... Quà chia 7/3: hỗ trợ dự tòng, rồi nhờ họ mang về, bảo nhà thờ gởi tặng cho láng giềng nghèo. Quà bác ái thành quà truyền giáo) - ƒ Là sáng kiến mới, ứng dụng mới tạo thêm tiện ích và thuận lợi hơn cho người sử dụng. (Móc áo làm thành móc treo giày, Máy bay phun thuốc sâu điều khiển từ xa... "Xe tang" sử dụng thành "Xe Đa dụng Truyền giáo" nhằm rước đưa bà con lương dân đi lễ...).
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hồng Mềm Chín Cây
Nguyễn Đức Cung
21:10 23/09/2018
HỒNG MỀM CHÍN CÂY
Ảnh của Nguyễn Đức Cung
Thu về
ngoài tách trà ngon
Phải thêm một nhánh hồng vàng chin cây
Dịu dàng vị ngọt ngất ngây.
(nđc)
 
VietCatholic TV
Đức Thánh Cha chiếm trọn cảm tình người Lithuania trong diễn từ tại phủ tổng thống
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
08:28 23/09/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Như chúng tôi đã đưa tin, lúc 07g30 sáng thứ Bẩy 22 tháng 9, Đức Thánh Cha đã khởi hành bằng đường hàng không từ sân bay Fiumicino của Rôma để bay sang Vilnius /vɪl -nɪʊs/, thủ đô của Lithuania / lɪ-θjuˈ-eɪ-niə /.

Lúc 11g30, ngài đã đến nơi.

Lúc 12g10, sau những nghi lễ chào đón tại phi trường, Đức Thánh Cha đã đi xe đến dinh tổng thống nơi diễn ra cuộc gặp gỡ với tổng thống, chính quyền dân sự và ngoại giao đoàn vào lúc 12g40.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Lithuania là thành viên của Liên minh châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Hiệp định Schengen, OECD và NATO. Lithuania cũng là một thành viên của Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu, và là một thành viên trong Liên minh hợp tác Bắc Âu-Baltic của các nước Bắc Âu. Liên Hợp Quốc liệt kê Lithuania là một trong những quốc gia “phát triển nhân bản rất cao”.

Lithuania có cơ sở hạ tầng về truyền thông phát triển rất mạnh. Công ty LTE, là công ty cung cấp dịch vụ điện thoại di động và dịch vụ mạng phủ sóng 97% lãnh thổ của Lithuania, cho biết cả nước có 2.8 triệu công dân nhưng có đến 5 triệu SIM card đang được sử dụng.

Lithuania theo tổng thống chế, quyền hành tập trung trong tay tổng thống. Tổng thống hiện này là bà Dalia Grybauskaitė / da-lɛ grɪ-bɑʊ̈z-kɑɪ-tʃe /. Bà sinh ngày 1 tháng 3 năm 1956, không có chồng con. Bà nhậm chức tổng thống Lithuania vào ngày 12 tháng 7 năm 2009 và tái đắc cử vào tháng 5 năm 2014. Bà là nữ tổng thống đầu tiên của đất nước và Tổng thống đầu tiên của Lithuania được tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai liên tiếp.

Trước đó, bà là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao và Bộ trưởng Bộ Tài chính, cũng là Ủy viên Châu Âu về Lập trình Tài chính và Ngân sách từ năm 2004 đến năm 2009.

Từ năm 1983 đến tháng 12 năm 1989, bà là thành viên của Đảng Cộng sản Liên Sô (CPSU) cho đến khi Đảng Cộng sản Lithuania (CPL) tách khỏi CPSU vào tháng 12 năm 1989, bà là thành viên của CPL cho đến tháng 6 năm 1990, khi CPL bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho chương trình Gia đình Kitô của Ái Nhĩ Lan vào ngày 07 tháng 5, 2013, bà Grybauskaitė cho biết bà là người Công Giáo thực hành đạo. Cũng như các trẻ em trong thời kỳ chiếm đóng của Liên Sô, bà được rửa tội bí mật. Việc gia nhập đảng cộng sản là một việc bất khả kháng.

Grybauskaitė chưa kết hôn và không có con. Ngoài tiếng Lithuania bản địa, bà thông thạo tiếng Anh, tiếng Nga và tiếng Ba Lan, và cũng nói tiếng Pháp.

Năm 1988, Grybauskaitė bảo vệ luận án tiến sĩ về Khoa học xã hội tại Mạc Tư Khoa. Hai năm sau đó bà theo học tại Đại Học Công Giáo Georgetown ở Washington DC.

Là một người say mê võ thuật, bà Grybauskaitė có đai đen Karate.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Sau buổi lễ đón tiếp tại phi trường quốc tế Vilnius, Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng của ngài đã đi xe hơi đến dinh tổng thống.

Tại đây, Đức Thánh Cha đã ký vào sổ lưu niệm.

Trong phần trao quà lưu niệm, tổng thống đã trao tặng Đức Thánh Cha một quả chuông.

Tổng thống giải thích với Đức Thánh Cha về ý nghĩa của quả chuông như một lời cảnh tỉnh về những đau khổ mà đồng bào của bà phải chịu. Thật vậy, những chữ được khắc trên quả chuông có ý nghĩa tưởng nhớ 780,000 người Lithuania đã phải chết dưới tay Đức Quốc Xã và cộng sản Liên Sô trong thập niên 1940. Trong thời kỳ nửa thế kỷ chiếm đóng của Liên Sô, một còn số còn đông hơn nữa những người đã chết vì bị xử bắn, bị đày sang Siberia, chết trong các trại cải tạo lao động.

Đức Thánh Cha đã bày tỏ lời chia buồn của ngài với nữ tổng thống.

Đức Ông Mauricio Rueda Beltz, người Colombia là người thay thế ông Alberto Gasbarri lo về phần nghi lễ trong các chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng đang giải thích với nữ tổng thống Dalia Grybauskaitė / da-lɛ grɪ-bɑʊ̈z-kɑɪ-tʃe / về ý nghĩa của món qùa Đức Thánh Cha tặng cho bà. Đó là một bức trang Chúa Giêsu vẽ theo kiểu Đông phương.

Đức Thánh Cha cũng ưu ái tặng cho nữ tổng thống một huy hiệu Giáo Hoàng của ngài và hai bản sao thông điệp Laudato Sí và Tông huấn Gaudete et exsultate vừa mới được công bố hôm 19 tháng Ba vừa qua.

Sau khi đàm đạo với tổng thống, Đức Thánh Cha và tổng thống đã ra trước vườn Hồng của phủ tổng thống nơi diễn ra cuộc gặp gỡ với chính quyền dân sự và ngoại giao đoàn. Sau lời chào mừng của tổng thống, Đức Thánh Cha nói:

Thưa bà Tổng thống,

Các thành viên của Chính phủ và Ngoại giao Đoàn,

Các vị Đại diện xã hội dân sự,

Các nhà chức trách,

Thưa quý vị,

Thật là một nguồn mạch của vui mừng và hy vọng khi tôi được bắt đầu cuộc hành hương đến các nước Baltic tại Lithuania này, nơi mà, như Thánh Gioan Phaolô II thích nói, là “một chứng nhân thầm lặng cho một tình yêu nồng nàn đối với tự do tôn giáo” (Diễn từ trong buổi lễ chào đón tại Vilnius, ngày 4 tháng 9 năm 1993).

Xin cảm ơn, bà Tổng thống, vì những lời chào thân ái mà bà đã gửi đến tôi nhân danh bản thân và những người dân của quốc gia này. Trong diễn từ gởi đến các bạn, trước hết tôi muốn chào đón tất cả dân tộc Lithuania ngày nay đang mở rộng cửa nhà và quê hương của mình để chào đón tôi. Với tất cả các bạn, tôi xin bày tỏ tình yêu của tôi và lòng biết ơn chân thành của mình.

Chuyến viếng thăm này diễn ra tại một thời điểm đặc biệt quan trọng trong đời sống đất nước các bạn, vì đó là dịp kỷ niệm 100 năm tuyên bố độc lập.

Một thế kỷ trôi qua đã được đánh dấu bởi quá nhiều những thử thách và đau khổ mà các bạn phải chịu đựng: tù đầy, trục xuất, thậm chí là tử đạo. Kỷ niệm 100 năm độc lập có nghĩa là dừng lại một chút thời gian, để làm sống lại ký ức về tất cả những kinh nghiệm này. Như thế các bạn giữ được liên lạc với tất cả những gì đã định hình các bạn như là một quốc gia; và tìm ra mấu chốt cho phép các bạn nhìn vào những thách thức của hiện tại, và hướng đến tương lai trong bầu khí đối thoại và đoàn kết giữa tất cả các cư dân, để không một ai bị loại trừ. Mỗi thế hệ được kêu gọi để trong thời đại của chính mình thực thi những cố gắng và đạt đến những thành tựu như người xưa đã từng làm trong quá khứ, và để tôn vinh trong ký ức những người đã đi trước chúng ta. Chúng ta không biết ngày mai sẽ như thế nào; nhưng chúng ta biết rằng mỗi thời đại đều có nghĩa vụ chăm sóc “linh hồn” đã tạo ra mình và giúp nó biến đổi mọi tình huống đau đớn và bất công thành cơ hội, và giữ cho sống động và lành mạnh căn côi tạo ra hoa trái mà chúng ta được hưởng ngày nay. Thật thế, dân tộc này có một “linh hồn” mạnh mẽ cho phép họ kiên cường và tiếp tục xây dựng! Đây là lời cầu nguyện vang lên trong quốc ca của các bạn: “Xin cho những con dân của quốc gia này kín múc được sức mạnh và năng lực từ quá khứ”, để nhìn vào hiện tại với lòng dũng cảm.

“Xin cho những con dân của quốc gia này kín múc được sức mạnh và năng lực từ quá khứ.”

Trong suốt lịch sử của nó, Lithuania đã có khả năng làm chủ nhà, chào đón và tiếp nhận người của các nhóm sắc tộc và tôn giáo khác nhau. Mọi người đều tìm được một nơi để sống trên các lãnh thổ này: người Lithuania, người Tartars, người Ba Lan, người Nga, người Bạch Nga, người Ukraine, người Armenia, người Đức ...; người Công Giáo, người Chính Thống, người Thệ Phản, người Công Giáo Cổ, người Hồi Giáo, người Do Thái giáo...; họ sống với nhau và sống trong hòa bình cho đến khi xuất hiện các ý thức hệ toàn trị, các ý thức hệ đã phá vỡ khả năng tiếp rước và hòa hợp các dị biệt bằng cách gieo rắc bạo lực và ngờ vực. Rút tỉa sức mạnh từ quá khứ có nghĩa là phục hồi gốc rễ và giữ cho sống động lối sống chân chính và độc đáo nhất trong quí vị và những điều vốn giúp quí vị phát triển chứ không đầu hàng như một quốc gia: khoan dung, hiếu khách, tôn trọng và liên đới.

Nhìn vào khung cảnh thế giới chúng ta đang sống, nơi các tiếng nói gieo rắc chia rẽ và mâu thuẫn ngày càng gia tăng – cấp phương tiện cho bất an và xung đột nhiều lần - hoặc tuyên bố rằng cách duy nhất có thể có để đảm bảo an ninh và sự tồn tại của văn hóa hệ ở cố gắng xóa bỏ, dẹp bỏ hoặc trục xuất người khác, người Lithuania qúi vị có một hạn từ độc đáo để đưa ra “điều chỉnh các dị biệt cho ăn khớp với nhau”. Qua đối thoại, cởi mở và hiểu biết họ có thể trở thành một cây cầu kết hợp giữa Đông và Tây Âu. Đây có thể là thành quả của một lịch sử trưởng thành, một thành quả mà qúi vị, trong tư cách một dân tộc, đã cung cấp cho cộng đồng quốc tế và cách riêng cho Liên Hiệp Châu Âu. Quí vị đã phải chịu đựng “bằng da thịt của qúi vị” các mưu toan nhằm áp đặt một mô hình duy nhất, một mô hình sẽ làm mất đi các dị biệt với kỳ vọng tin rằng các đặc quyền của một ít người nằm trên phẩm giá người khác hoặc lợi ích chung. Đức Bênêđictô XVI đã khéo léo chỉ ra điều này: “Ước muốn lợi ích chung và làm việc cho nó là một yêu sách của công lý và bác ái [...]. Chúng ta càng yêu thương nhau hữu hiệu hơn nếu chúng ta càng phấn đấu nhiều hơn cho ích chung, đáp ứng các nhu cầu thực sự của nó”(Thông điệp Caritas in Veritate, 7). Tất cả các xung đột đang phát sinh sẽ tìm được các giải pháp lâu dài với điều kiện chúng bắt nguồn từ sự chú ý cụ thể tới người ta, đặc biệt là những người yếu nhất và bắt nguồn từ cảm quan được mời gọi “mở rộng cái nhìn của họ để nhận ra một lợi ích lớn hơn mang lại lợi ích cho mọi” (Tông huấn Evangelii gaudium, 235).

Theo nghĩa này, rút tỉa sức mạnh từ quá khứ có nghĩa là lưu ý đến những người trẻ hơn, những người không những là tương lai, mà còn là hiện tại của quốc gia này, nếu họ mãi hợp nhất với nguồn gốc của dân tộc. Một dân tộc trong đó người trẻ tìm được chỗ để lớn lên và làm việc sẽ giúp họ cảm thấy họ là những người chủ động trong việc xây dựng cơ cấu xã hội và cộng đồng. Điều này sẽ làm mọi người có khả năng ngẩng đầu nhìn ngày mai một cách đầy hy vọng. Người Lithuania họ mơ ước thủ vai trong cuộc tìm kiếm liên tục nhằm cổ vũ các chính sách có thể khuyến khích việc tham gia tích cực của những người trẻ nhất trong xã hội. Không nghi ngờ gì nữa, đây sẽ là hạt giống hy vọng, vì nó sẽ dẫn đến một tính năng động trong đó “linh hồn” của dân tộc này sẽ tiếp tục tạo ra tính hiếu khách: hiếu khách đối với khách lạ, hiếu khách đối với giới trẻ, đối với giới già, những người vốn là ký ức sống động, đối với người nghèo, và nhất định hiếu khách đối với tương lai. Thưa bà tổng thống, tôi cam đoan với bà rằng, cho đến nay, bà có thể tin cậy vào cam kết và việc làm đồng bộ của Giáo Hội Công Giáo, để lãnh thổ này có thể hoàn thành ơn gọi của nó là làm cây cầu hiệp thông và hy vọng.
 
Giới trẻ xúc động nghe ĐTC nhắc đến lịch sử bi thương Lithuania và kêu gọi họ gắn bó với vận mệnh dân tộc
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
19:37 23/09/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Giới trẻ xúc động nghe ĐTC nhắc đến lịch sử bi thương Lithuania và kêu gọi họ gắn bó với vận mệnh dân tộc

Như chúng tôi đã đưa tin, lúc 07g30 sáng thứ Bẩy 22 tháng 9, Đức Thánh Cha đã khởi hành bằng đường hàng không từ sân bay Fiumicino của Rôma để bay sang Vilnius /vɪl -nɪʊs/, thủ đô của Lithuania / lɪ-θjuˈ-eɪ-niə /.

Lúc 12g40, tại dinh tổng thống Đức Thánh Cha đã có một diễn từ trước tổng thống, chính quyền dân sự và ngoại giao đoàn.

Sau khi nghỉ trưa tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh, lúc 16g30, Đức Thánh Cha đã viếng thăm Đền Thánh Lòng Thương Xót Chúa và có cuộc gặp gỡ với giới trẻ ở quảng trường phía trước đền thờ.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy đây diễn ra tại đền thánh Đức Mẹ tại Vilnius. Trong ngày thứ Bẩy 22/9, ngày đầu tiên của ngài tại Lithuania, Đức Thánh Cha Phanxicô, như thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm, đã cầu nguyện trước bức ảnh Đức Mẹ Cửa Thành Bình Minh, được tôn vinh là Đức Mẹ Giàu Lòng Thương Xót vào năm 1927.

Đền thánh Đức Mẹ thứ hai Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm là tại Agnola, Latvia. Đó là đền thánh Đức Mẹ Lên Trời được xây dựng từ thế kỷ 18. Đây cũng là đền thánh Đức Mẹ mà Thánh Gioan Phaolô II đã viếng thăm vào năm 1993.

Bức tranh kỳ diệu của Đức Mẹ, được tôn kính khắp vùng Baltic. Vào thế kỷ 17 các quan chức thành phố Vilnius đã có ý muốn vẽ một bức tranh Đức Mẹ thật lớn đặt phía trên cổng thành ra vào thành phố này để bảo vệ thành phố khỏi các cuộc chiến tranh và phù hộ cho khách đi đường được bình an.

Trong số các can thiệp của Đức Mẹ, người dân Lithuania tin là Mẹ đã giúp họ đánh bại những kẻ xâm lược Thụy Điển, trong một cuộc phản công của liên minh Ba Lan-Lithuania vào năm 1701.

Từ đó bức ảnh Đức Mẹ Cửa Thành Bình Minh được sùng bái rất rộng rãi trong vùng Baltic.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Theo thống kê năm 2011, trong tổng số 2.8 triệu dân các tín hữu Công Giáo chiếm 77.2% dân số rồi đến Chính Thống giáo Nga 4.1%, Tin Lành Lutheran 0.6%.

Theo Niên Giám 2016 của Tòa Thánh, trong tổng số 2,824,000 dân, người Công Giáo chiếm 77.2%, sinh hoạt trong 8 giáo phận trong đó có 2 tổng giáo phận và một giáo phận quân đội. Giáo Hội tại Lithuania có 779 linh mục trong đó có 681 linh mục triều và 79 linh mục dòng; 4 phó tế vĩnh viễn, 145 nam tu sĩ, và 773 nữ tu.

Sứ Thần Tòa Thánh hiện nay là Đức Tổng Giám Mục Pedro López Quintana, người Tây Ban Nha. Ngài là Sứ Thần Tòa Thánh tại cả ba quốc gia vùng Baltic.

Trong diễn từ với các bạn trẻ, Đức Thánh Cha nói:

Chào tất cả các con!

Cảm ơn các con, Monica và Jonas, vì các chứng tá của các con. Cha lắng nghe như một người bạn, như thể chúng ta đang ngồi bên nhau trong một quán bar nào đó, kể cho nhau nghe về cuộc sống của mình trong khi uống một ly bia hoặc một ly trà girá sau khi đi vừa đến xem một vở kịch ở nhà hát.

Nhưng cuộc sống của các con không phải là một phần của nhà hát; chúng thật sự và cụ thể, giống như những người khác tụ tập ở đây ngày hôm nay trong quảng trường xinh đẹp này, tọa lạc giữa hai con sông. Có lẽ tất cả điều này sẽ giúp chúng ta suy nghĩ lại về những câu chuyện của các con và tìm thấy trong những câu chuyện ấy dấu chân của Thiên Chúa ... vì Thiên Chúa luôn luôn đi ngang qua cuộc đời của chúng ta. Ngài luôn đi ngang qua. Một nhà triết học tên tuổi đã nói: “Tôi sợ khi Chúa đi ngang qua! Sợ rằng tôi không nhận ra Ngài!”

Giống như nhà thờ chính tòa này, có những lúc chúng con con nghĩ rằng chúng con đang sụp đổ, hay nghĩ đến những đám cháy thiêu hủy những gì chúng con nghĩ rằng không bao giờ có thể xây dựng lại. Hãy suy nghĩ đến tất cả các lần ngôi nhà thờ này đã bùng lên trong những ngọn lửa và sụp đổ. Tuy nhiên, luôn có những người sẵn sàng bắt đầu xây dựng lại; họ từ chối để cho mình bị đè bẹp bởi những khó khăn: họ không bao giờ bỏ cuộc. Có một bài hát ở vùng núi Alpine đáng yêu như thế này: “Trong nghệ thuật leo núi, bí mật không hệ tại quá nhiều nơi việc đừng để mình rơi xuống, nhưng ở chỗ đừng để mình cứ nằm úp mặt xuống”. Luôn luôn bắt đầu lại, luôn luôn, và đó là cách chúng con sẽ leo lên. Cũng giống như ngôi nhà thờ này. Sự tự do của quốc gia các con cũng vậy, nó đã được giành giật bởi những người nam nữ không hề nao núng trước khủng bố và bất hạnh. Monica, cuộc sống của cha con, tình trạng của ông và cái chết của ông, và bệnh tật của con, Jonas, có thể đã và đang tàn phá con. Tuy nhiên, ở đây chúng con, khi chia sẻ kinh nghiệm của mình, đã nhìn thấy những điều ấy với đôi mắt đức tin, và giúp chúng ta thấy rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng để kiên cường, nâng mình lên và tiếp tục tiến lên trong cuộc sống.

Cha tự hỏi: ân sủng của Thiên Chúa đã tuôn đổ trên chúng con như thế nào? Không phải từ không khí, không phải một cách kỳ diệu; không có cây đũa thần nào cho cuộc sống. Điều này xảy ra thông qua những người băng ngang qua trong cuộc đời của chúng con, những người lành thánh đã nuôi dưỡng chúng con bằng kinh nghiệm đức tin của họ. Luôn có những người trong cuộc sống cho chúng ta một bàn tay để giúp chúng ta tự mình đứng lên. Đối với con, Monica, bà và mẹ của con, và giáo xứ Phanxicô, giống như nơi hợp lưu của hai con sông này; giống như con sông Vilnia chảy vào sông Neris, con đã để bản thân mình được trôi theo dòng ân sủng đó. Vì Chúa cứu chúng ta bằng cách biến chúng ta thành một phần của một dân tộc. Đúng thế, Chúa cứu chúng ta bằng cách khiến chúng ta trở thành một phần của một dân tộc. Ngài đặt để chúng ta vào trong một dân tộc, và căn tính của chúng ta, chung cuộc, có được thông qua sự thuộc về một dân tộc. Không ai có thể nói, “Tôi tự mình được cứu”. Chúng ta đều kết nối với nhau, tất cả chúng ta đều được “nối mạng”. Thiên Chúa muốn thâm nhập vào mạng lưới các mối quan hệ này và Ngài lôi kéo chúng ta về phía Ngài trong cộng đồng; Ngài ban cho cuộc sống của chúng ta cảm thức sâu sắc nhất về bản sắc và sự thuộc về (xem Tông huấn Mừng rỡ hân hoan, 6). Jonas, con cũng tìm thấy ở những người khác, nơi vợ của con và trong lời hứa con đã đưa ra trong ngày cưới của mình, lý do để tiếp tục, để chiến đấu, để sống.

Vì vậy, đừng để thế giới này làm cho chúng con tin tuởng sai lầm rằng tốt hơn là tự mình làm hết mọi thứ. Tự mình các con, các con không bao giờ đạt được điều gì. Cố nhiên các con có thể có được những thành công nhất định trong cuộc sống của mình, nhưng không có tình yêu, không có người đồng hành, không thuộc về một dân tộc, không có kinh nghiệm tuyệt vời của việc chấp nhận rủi ro cùng với nhau. Các con không thể tự mình tiến lên. Đừng chiều theo cám dỗ co lại trong chính bản thân các con, trong việc quan sát cái bụng của mình, trong cám dỗ sống ích kỷ hay hời hợt khi đối mặt với những nỗi buồn, các khó khăn hay những thành công tạm bợ. Hãy để chúng ta lặp một lần nữa, “Bất cứ điều gì xảy ra với những người khác cũng sẽ xảy ra với tôi”. Chúng ta hãy bơi ngược lại dòng triều của chủ nghĩa cá nhân đang cô lập chúng ta, làm cho chúng ta trở nên vô nghĩa và làm cho chúng ta trở nên vô ích, chỉ quan tâm đến hình ảnh của chúng ta và hạnh phúc của chính chúng ta mà thôi. Chỉ quan tâm đến hình ảnh của chúng ta, với diện mạo chúng ta trước chiếc gương là không tốt, nó không tốt đâu. Trái lại, cuộc sống thật đẹp với những người khác, trong gia đình của chúng ta, với bạn bè, với những cuộc đấu tranh của dân tộc ta ... Cuộc sống như thế mới thật đẹp!

Chúng ta là các Kitô hữu và chúng ta muốn hướng đến sự thánh thiện. Hãy hướng đến sự thánh thiện qua những cuộc gặp gỡ của các con và tình đồng bào với những người khác; chú ý đến nhu cầu của họ (thượng dẫn., 146), là những người thực sự hình thành nên một dân tộc mà chúng ta thuộc về. Bản sắc không phải là sản phẩm của phòng thí nghiệm; điều đó không tồn tại; nó không được pha trộn trong một ống nghiệm; một bản sắc “thuần khiết” không tồn tại. Nhưng bản sắc tồn tại khi đồng hành cùng nhau, đấu tranh với nhau, yêu thương nhau. Bản sắc tồn tại khi thuộc về một gia đình, một dân tộc. Bản sắc mang lại cho các con sức mạnh để phấn đấu và đồng thời sự dịu dàng để biết lo lắng quan tâm đến người khác. Mỗi người trong chúng ta đều biết rằng nó đẹp đến mức nào khi thuộc về một đền thờ, nhưng cũng mệt mỏi như thế nào. Thật tuyệt vời khi những người trẻ tuổi cảm thấy mệt mỏi; đó là một dấu chỉ cho thấy họ đang làm việc - và thậm chí, đôi khi, đau đớn; các con biết rõ điều này. Nhưng đó là cơ sở cho bản sắc của chúng ta; chúng ta không phải là những kẻ không cội nguồn. Chúng ta không phải là một dân tộc không gốc rễ!

Hai con cũng nói về kinh nghiệm của mình trong một ca đoàn, trong việc cầu nguyện cùng gia đình, Thánh Lễ và giáo lý, và trong việc giúp đỡ những người có nhu cầu. Đây là những vũ khí mạnh mẽ mà Chúa ban cho chúng ta. Lời cầu nguyện và các bài hát giữ cho chúng ta khỏi bị cuốn vào thế giới của chính mình: trong mong muốn của các con được biết Chúa, các con đã thoát ra khỏi chính mình và có thể thấy điều gì đang xảy ra trong trái tim chúng con qua đôi mắt của Thiên Chúa (xem thượng dẫn., 147). Khi lắng nghe tiếng nhạc, các con trở nên cởi mở đối với sự lắng nghe và cuộc sống nội tâm; như thế, chúng con phát triển sự nhạy cảm, và luôn luôn mở lòng ra cho sự phân định (xem Tài liệu làm việc Thượng Hội Đồng Giám Mục về Thanh Niên, 162). Cầu nguyện chắc chắn có thể là một kinh nghiệm của một “cuộc chiến tinh thần”, nhưng trong lời cầu nguyện chúng ta học cách lắng nghe Thánh Linh, để phân biệt các dấu chỉ của thời đại và tìm kiếm sức mạnh mới để loan báo Tin Mừng mỗi ngày. Làm thế nào chúng ta có thể chống lại được cám dỗ trở nên chán nản bởi sự yếu đuối của chúng ta và những khó khăn của chúng ta, và của những người khác, và bởi tất cả những điều khủng khiếp đã và đang xảy ra trong thế giới của chúng ta? Chúng ta sẽ làm gì nếu cầu nguyện không dạy chúng ta tin rằng mọi thứ phụ thuộc vào chúng ta, khi chúng ta một mình vật lộn với nghịch cảnh? Như Thánh Alberto Hurtado thường nói, “Chúa Giêsu và tôi là đa số tuyệt đối!” Đừng quên điều này; một vị thánh thường nói điều đó! Cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, với lời Ngài, với Thánh Thể, nhắc nhở chúng ta rằng đối phương có mạnh đến đâu cũng không thành vấn đề. Đội Žalgiris Kaunas hay đội Vilnius Rytas về nhất không thành vấn đề [vỗ tay, cười] … Nhân tiện, cha hỏi các con: đội nào về nhất đây? [cười nhiều hơn]. Nó không quan trọng ai là người về nhất. Những gì quan trọng không phải là kết quả, nhưng điều thực sự quan trọng là Chúa là ở phía chúng ta.

Cả hai con đều tìm thấy sự hỗ trợ trong cuộc sống thông qua kinh nghiệm của việc giúp đỡ người khác. Các con nhận ra rằng tất cả xung quanh chúng ta có những người gặp rắc rối thậm chí còn tệ hại hơn chúng ta. Monica, con đã nói với chúng tôi về công việc của con với các trẻ khuyết tật. Nhìn thấy sự yếu đuối của người khác đem đến cho chúng ta một tầm nhìn; nó giúp chúng ta không trải qua cuộc sống bằng cách liếm các vết thương của mình. Thật không tốt khi sống với những lời than phiền sầu não, điều đó không tốt. Thật không tốt khi sống bằng cách liếm các vết thương của chúng ta. Có bao nhiêu thanh niên rời khỏi nhà vì thiếu cơ hội, và bao nhiêu các nạn nhân của trầm cảm, rượu chè và ma túy! Các con biết rõ điều này. Có bao nhiêu người già cô đơn, không có ai để chia sẻ hiện tại, và sợ rằng quá khứ sẽ quay trở lại! Các con, những người trẻ, có thể đáp trả những thách thức này qua sự hiện diện của các con, qua sự gặp gỡ với những người khác. Chúa Giêsu mời chúng ta bước ra khỏi chính mình và mạo hiểm trong những cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với những người khác. Đúng là tin vào Chúa Giêsu thường đòi hỏi một bước nhảy mù quáng trong đức tin, và điều này có thể đáng sợ. Lúc này lúc khác, nó có thể khiến chúng ta tự hỏi mình, và buộc chúng ta từ bỏ các định kiến. Điều đó có thể khiến chúng ta đau khổ và chúng ta có thể bị cám dỗ để nản lòng. Nhưng hãy đứng vững! Theo Chúa Giêsu là một cuộc phiêu lưu đam mê mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình là một phần của một cộng đồng đang khuyến khích chúng ta, một cộng đồng đang đồng hành cùng chúng ta, và khích lệ chúng ta phục vụ người khác.

Các con, những bạn trẻ thân mến,

Theo Chúa Kitô là một điều đáng giá, nó thật đáng giá! Đừng ngại tham gia vào cuộc cách mạng mà Ngài đang mời gọi chúng ta: cuộc cách mạng của sự dịu dàng (xem Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, 88). Nếu cuộc sống chỉ là một vở kịch hay một trò chơi điện tử, nó sẽ bị giới hạn trong một thời gian chính xác, và có một sự khởi đầu cũng như một kết cục khi bức màn buông xuống hoặc khi một đội chiến thắng trò chơi. Nhưng cuộc sống đong đo thời gian một cách khác, không phải thời gian của một vở tuồng hay một trò chơi điện tử; nó theo nhịp tim của Thiên Chúa. Đôi khi nó trôi qua một cách nhanh chóng, có khi lại chậm lại. Chúng ta bị thách đố để chọn những con đường mới; nhiều thứ thay đổi. Chúng ta trở nên thiếu quyết đoán chủ yếu vì sợ rằng bức màn sẽ rơi xuống, hoặc đồng hồ bấm giờ sẽ loại bỏ chúng ta khỏi trò chơi hoặc ngăn chúng ta tiến lên. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng liên quan đến việc tiến lên phía trước, cuộc sống luôn di chuyển về phía trước, nó không đứng yên; cuộc sống bao giờ cũng liên quan đến việc tiến lên phía trước, tìm kiếm đúng lối đi mà không sợ phải lặp lại các bước của chúng ta nếu chúng ta phạm sai lầm. Điều nguy hiểm nhất là làm xáo trộn đường chúng ta đi với một mê cung khiến chúng ta lang thang trong một vòng tròn lẩn quẩn mà không bao giờ tiến bộ thực sự. Các con ơi, làm ơn đi, khi còn trẻ, đừng để mình bị mắc kẹt trong mê cung, nhưng hãy đi theo con đường dẫn đến tương lai. Đừng lạc vào mê cung; nhưng hãy tiến lên phiá trước.

Đừng bao giờ ngại đặt niềm tin của chúng con vào Chúa Giêsu, đừng ngại ngùng đón nhận chí hướng của ngài, chí hướng của Tin Mừng, chí hướng của nhân loại, của con người. Bởi vì Ngài không bao giờ nhảy ra khỏi con tàu cuộc đời chúng ta; Ngài luôn có mặt ở những giao lộ của cuộc sống. Ngay cả khi cuộc sống của chúng ta đang bùng lên trong ngọn lửa, Ngài luôn ở đó để tái xây dựng chúng. Chúa Giêsu ban cho chúng ta rất nhiều thời gian, rất nhiều chỗ cho thất bại. Không ai phải di cư khỏi Người; Ngài có chỗ cho mọi người. Có rất nhiều người ở ngoài kia, là những kẻ muốn nắm bắt trái tim của con. Họ muốn gieo cỏ dại trong cánh đồng của chúng con, nhưng nếu, cuối cùng, chúng ta giao phó cuộc sống của chúng ta cho Chúa, thì lúa tốt sẽ luôn thắng thế. Trong chứng từ của các con, Monica và Jonas, các con đã nói về những người bà của các con, những người mẹ của các con ... Cha muốn nói với các con - và tới đây, đừng lo, cha sẽ dừng lại! - Cha muốn nói với con: đừng quên gốc rễ của dân tộc các con. Hãy suy nghĩ về quá khứ, nói chuyện với người cao tuổi: nói chuyện với người già không nhàm chán đâu. Hãy đi tìm những người già và để họ kể cho các con nghe về nguồn gốc của dân tộc các con, niềm vui của họ, đau khổ của họ, giá trị của họ. Bằng cách này, bằng cách kín múc từ cội rễ của các con, các con sẽ đưa dân tộc các con tiến về phía trước, các con sẽ được hưởng lợi lớn nhất từ lịch sử của dân tộc các con.

Thưa các con trẻ, nếu các con muốn có một dân tộc tuyệt vời và tự do, hãy tìm lại nguồn gốc của quá khứ các con và mang những quá khứ ấy tiến về phía trước. Cảm ơn rất nhiều!