Ngày 15-09-2021
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 16/9: Yêu mến nhiều, được tha thứ nhiều. Suy niệm: Linh mục Phaolô Nguyễn Xuân Đường, CSsR
Giáo Hội Năm Châu
01:24 15/09/2021

PHÚC ÂM: Lc 7, 36-50

“Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: “Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!” Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: “Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông”. Simon thưa: “Xin Thầy cứ nói”.

“Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?” Simon đáp: “Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn”. Chúa Giêsu bảo ông: “Ông đã xét đoán đúng”. Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: “Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít”. Rồi Người bảo người đàn bà: “Tội con đã được tha rồi”. Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: “Ông này là ai mà lại tha tội được?” Và Người nói với người đàn bà: “Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an”.

Ðó là lời Chúa.
 
Hiệp thông với Đền thánh Đức Mẹ Fatima cầu cho Sàigòn và quê hương Việt Nam trước tình cảnh nguy cấp
Giáo Hội Năm Châu
04:08 15/09/2021
 
Đâm thấu tâm hồn
Lm. Minh Anh
05:48 15/09/2021


ĐÂM THẤU TÂM HỒN
“Về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà!”.


Một câu nói khá khó hiểu về ‘Mẹ’, nhưng rất nổi tiếng, mà hầu như không ai biết đến xuất xứ của nó, được nhiều tác giả viết thành sách; đó là, “A mother is only as happy as her saddest child!”, tạm dịch, “Một người mẹ chỉ có thể hạnh phúc bằng đứa con kém hạnh phúc nhất của mình!”. Phải chăng, nhiều người mẹ tin rằng, hạnh phúc ‘của chính họ’ phụ thuộc vào con cái họ! Hạnh phúc của một người mẹ có giỏi cũng chỉ ‘ngang bằng’ hạnh phúc của đứa con kém hạnh phúc nhất!

Kính thưa Anh Chị em,

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ Đức Maria, Mẹ Sầu Bi. Phải chăng Mẹ Maria tin rằng, hạnh phúc của Mẹ phụ thuộc hoàn toàn vào Chúa Giêsu, Đấng Mẹ cưu mang; chứ không phụ thuộc vào một điều gì khác trên trần gian này. Vì thế, khi Chúa Giêsu vui, Mẹ Maria vui; Chúa Giêsu buồn, Mẹ buồn; Chúa Giêsu tan nát, Mẹ nát tan! Nát tan đến tận mức ‘đâm thấu tim’ mà cụ già Simêon tiết lộ thuở nào, “Về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ ‘đâm thấu tâm hồn’ Bà!”.

Mọi sự sống đều phải leo lên đồi Canvê của nó! Mỗi tâm hồn đều có một ‘nỗi buồn kín’ không thể chia sẻ trọn vẹn với bất cứ ai! Chúa Giêsu, Đấng ‘rất Chúa và cũng rất người’, đã thông phần vào mọi sự thuộc loài người, trừ tội lỗi; kể cả đớn đau và chết chóc. Thế nhưng, do sự hoàn hảo của Đấng ‘rất Chúa’, đau khổ của Ngài lại càng dữ dội; càng hoàn hảo, nỗi đau càng sâu sắc. Vậy thì chỉ một ai đó ‘hoàn hảo tương tự’ mới có thể đi vào nỗi sầu của Chúa Giêsu, có thể trải nghiệm phần nào nỗi đau Ngài đã trải nghiệm. Con người đó chỉ có thể là Mẹ Maria, một người hoàn hảo mà Thiên Chúa định trước cho mỗi sinh linh ngay từ buổi đầu tạo dựng! Tất nhiên, Maria không phải là một ‘Nữ Thần’, nhưng là một ‘Evà mới’; Mẹ hoàn hảo, nên Mẹ hiểu và thấu cảm rõ nhất nỗi đau của Người Con Hoàn Hảo. Sự hoàn hảo được chia sẻ dẫn Mẹ đến một nỗi ‘sầu chung’ với Con, một nỗi sầu linh nghiệm với điều được hé lộ trước đó hơn ba thập kỷ ngay cửa đền thờ, “Về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ ‘đâm thấu tâm hồn’ Bà!”. Và đó chính là ý nghĩa của lễ Mẹ Sầu Bi.

Những hình ảnh đạo đức cho thấy trái tim Mẹ bị đâm xuyên bởi bảy lưỡi gươm, tượng trưng cho “Bảy Sự Thương Khó Đức Mẹ” mà một số giáo xứ truyền thống vẫn giữ thói quen “Làm Việc Đức Mẹ” cuối tuần với tràng chuỗi “Bảy Sự”. Qua đó, ‘bảy mầu nhiệm sầu bi’ được suy ngắm: Lời sấm của Simêon; ẵm Con sang ‘Êgiếptô’; lạc Con trong đền thờ; gặp Con trên đường núi Sọ; dưới chân thập giá của Con; ôm xác Con; và nhìn Con được mai táng. Mẹ Maria rất hoàn hảo, nhưng xem ra đời Mẹ không hoàn hảo! Mẹ bị vắt kiệt bởi cùng một nỗi đau, nỗi nhục đang vắt kiệt từng phận người. Từ buổi đầu cưu mang, Mẹ hẳn đã nghe xóm diềng xì xào... cho đến phút cuối nghẹn ngào dưới chân Con; Mẹ đã sống một cuộc sống thực với những ‘bi kịch’ thật, của một phận người không thể thật hơn. Thế nhưng, nỗi đau xé lòng nhất mà Mẹ phải cảm nhận chính là một xác chết vô hồn rách bươm của Con mà Mẹ ôm vào lòng. Đó là một ‘kiếp phàm nhân’ Mẹ cùng Con phải trải qua như tác giả thư Do Thái hôm nay nói đến.

Anh Chị em,

“Về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ ‘đâm thấu tâm hồn’ Bà!”. Hôm nay, những lưỡi gươm ấy vẫn đang tiếp tục ‘đâm thấu tâm hồn’ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh; Hội Thánh và những con cái của Hội Thánh, cũng là con cái của Mẹ đang bị đâm thâu cũng với những lưỡi gươm đó. Từ dịch bệnh, chết chóc, nghi ngờ, nguội lạnh cho đến thiếu thốn trăm bề hồn xác. Chúng ta tin chắc, tình yêu sâu đậm của Mẹ đã dành cho Chúa Giêsu cũng đang dành cho mỗi người chúng ta ngay trong những ngày này. Đừng nghi ngờ điều đó! Trái tim của Mẹ bùng cháy với lòng trắc ẩn khi Mẹ nhìn chúng ta lúc này, cả trong tội lỗi của mỗi người. Hãy biết rằng, tình yêu của Mẹ đang tràn ngập trái tim chúng ta; và qua chúng ta, Mẹ ước ao nó tràn vào cuộc sống của người khác. Mỗi người chúng ta hãy để lòng trắc ẩn, sự quan tâm và chung thủy của Mẹ chảy qua tim mình; hãy nhận nó vào trong và sau đó, cho phép nó chảy ra! Thật sự, không gì trên thế giới này đẹp đẽ và đáng kinh ngạc hơn hình ảnh thánh thiện của một tình yêu luôn luôn chảy ra!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ, xin cho con trở nên một công cụ tình yêu trong trái tim Mẹ, đối với những ai đang cần xót thương nhất. Chớ gì nỗi đau của anh em con hôm nay, cũng là nỗi đau ‘đâm thấu tâm hồn’ con!”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Muốn làm người đầu phải hầu thiên hạ
Lm. Đan Vinh
06:00 15/09/2021

CHÚA NHẬT 25 TN B
Kn 2,12.17-20; Gc 3,16-4,3; Mc 9,30-37
MUỐN LÀM NGƯỜI ĐẦU PHẢI HẦU THIÊN HẠ

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mc 9,30-37

(30) Đức Giê-su và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Ga-li-lê. Nhưng Đức Giê-su không muốn có ai biết, (31) vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại”.(32) Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. (33) Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức Giê-su hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” (34) Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. (35) Rồi Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. (36) Kế đó, Người đem một em nhỏ, đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: (37) “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.

2. Ý CHÍNH:

Tin Mừng hôm nay gồm 3 điểm chính như sau:

Một là Đức Giê-su tiên báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn và phục sinh mà Người sắp trải qua, nhưng các môn đệ không dám hỏi Người do sợ bị quở trách hay sợ phải đối diện với sự thật không như ý.

Hai là các ông tưởng Thầy sắp đi lên Giê-ru-sa-lem để làm vua, nên tranh giành nhau chức vụ cao trong Nước của Người. Đức Giê-su đã dạy các ông bài học khiêm tốn là ai muốn làm đầu phải sẵn sàng làm tôi tớ phục vụ mọi người.

Ba là Người đòi các ông phải đặc biệt quan tâm đến những người cùng khổ bé nhỏ, tượng trưng bằng một đứa trẻ được Người đặt giữa các ông. Người còn tự đồng hóa mình với những kẻ bé nhỏ này.

3. CHÚ THÍCH:

- C 30-32: + Con Người: Nhấn mạnh về nhân tính của Đức Giê-su. Như người Tôi Trung của Đức Chúa, Đức Giê-su sẵn sàng chịu đau khổ để đền tội thay cho dân hầu làm cho các tội nhân được nên công chính (x. Is 53,2-12). +Sẽ bị nộp vào tay người đời: “Rơi vào tay người đời” là một số phận hẩm hiu, trái ngược với “Rơi vào tay Đức Chúa” (2 Sm 24,14). Thánh Phao-lô viết: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32). +Bị giết chết và sẽ sống lại: Người sẽ bị giết do tay người đời nhưng sẽ sống lại nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Cv 13,27-30). +Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người: Vì chưa có ý niệm gì về mầu nhiệm thập giá nên các môn đệ cảm thấy rất buồn khi nghe Thầy loan báo điều này (x. Mt 17,23). Họ không dám hỏi lại có lẽ vì sợ bị Thầy quở trách như Phê-rô đã bị trước đó (x. Mc 8,33), hoặc sợ phải đối diện với sự thật không như ý muốn !
- C 33-34: + “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?”: Đặt câu hỏi này với các môn đệ, Đức Giê-su cho thấy Người luôn quan sát từng lời nói và cử chỉ hành động của các ông để kịp thời giáo huấn. + Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả: Qua thái độ làm thinh, các môn đệ đã nhận ra khuyết điểm của các ông là ham muốn địa vị quyền hành, trái với tinh thần khiêm nhường phục vụ theo lời dạy của Thầy.
- C 35-37: + Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: Trong tư thế ngồi của một ông thầy (ráp-bi), Đức Giê-su gọi Nhóm Mười Hai môn đệ lại gần mà giáo huấn. + “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người”: Đức Giê-su nhấn mạnh đến tinh thần khiêm tốn phục vụ mà môn đệ của Người phải có là sự tự hạ, trở thành người tôi tớ hầu hạ mọi người. Ở đây có sự đối nghịch giữa “người đứng đầu” với “người rốt hết”. Đối với Đức Giê-su, giá trị của người lãnh đạo phải dựa trên nền tảng là đức khiêm hạ, sẵn sàng phục vụ tha nhân vô điều kiện. + “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”: Em nhỏ trong câu này không tượng trưng cho sự ngây thơ vô tội, nhưng là biểu tượng cho người nghèo khó tầm thường, những kẻ vô danh tiểu tốt, tàn tật, yếu đuối và bị bỏ rơi... + “Là tiếp đón chính Thầy... tiếp đón Đấng đã sai Thầy”: Đức Giê-su đề cao sự khiêm nhường phục vụ những người nghèo, có giá trị thiêng liêng cao quý như hành động phục vụ Người và phục vụ Chúa Cha là Đấng đã sai Người (x. Mt 10,40).

4. CÂU HỎI:
1) Khi tự xưng là Con Người, Đức Giê-su muốn nhấn mạnh điều gì?
2) Đức Giê-su đã loan báo về sứ mệnh Thiên Sai như thế nào?
3) Tại sao các môn đệ dù chưa hiểu rõ lại không dám hỏi Thầy về điều các ông vừa nghe?
4) Dọc đường, các môn đệ tranh luận với nhau điều gì?
Tại sao các ông làm thinh không trả lời câu Thầy hỏi?
5) Đức Giê-su đòi các mục tử trong Hội Thánh phải có cách ăn ở thế nào?
6) Khi đưa một em nhỏ đặt giữa các ông, Đức Giê-su muốn dạy các môn đệ bài học gì?
7) Người dạy các ông phải khiêm nhường phục vụ những ai?

II. SỐNG LỜI CHÚA:

1. LỜI CHÚA:
Rồi Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35).

2. CÂU CHUYỆN:

1) GƯƠNG KHIÊM HẠ PHỤC VỤ NGƯỜI KHỐN CÙNG CỦA MẸ TÊ-RÊ-SA:

Ngày 05/09/1997, ngay sau khi tin Mẹ Tê-rê-sa qua đời được loan đi, đã gây một chấn động lớn cho toàn thế giới. Nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc. Rất nhiều những điện văn chia buồn của các vị nguyên thủ trên khắp thế giới gửi đến phân ưu. Mẹ Tê-rê-sa chỉ là một nữ tu người An-ba-ni bình thường. Mẹ sang Ấn độ thành lập dòng Thừa Sai Bác Ái.

Điều đáng chú ý nơi người nữ tu bé nhỏ này là một tâm hồn vĩ đại, dạt dào yêu thương. Mẹ đã dành cả đời mình để săn sóc phục vụ những người cùng khổ. Mẹ đã cúi xuống để đưa những người đói khát, bệnh tật, đưa người hấp hối đang bị bỏ rơi nằm chờ chết bên vệ đường, bãi rác, phố chợ về mái ấm tu viện để được chăm sóc vỗ về và được chết như một con người. Chính quyền Ấn độ đã tuyên bố lễ tang của Mẹ là quốc tang. Hàng ngàn người Ấn độ và nhiều người thuộc các quốc tịch, các tầng lớp xã hội… đã bất chấp mưa gió, xếp hàng dài hàng cây số trước trụ sở dòng Thừa Sai Bác Ái ở Can-quýt-ta để được viếng xác và nhìn mặt người nữ tu khả ái ấy lần cuối.

Trong thời đại chúng ta, không ai được nhiều người quý mến cảm phục bằng Mẹ TÊ-RÊ-XA CAN-QUÝT-TA. Mẹ là một con người cao cả và vĩ đại. Giá trị của Mẹ không hệ tại ở sắc đẹp, giàu sang, tài năng hay quyền thế, nhưng ở chỗ đã thực thi lời Chúa Giê-su: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35).

2) GƯƠNG KHIÊM TỐN PHỤC VỤ CỦA MỘT VỊ GIÁM MỤC:

Thánh PHAN-XI-CÔ SA-LÊ-SI-Ô là một giám mục nổi tiếng về lòng khoan dung và đức khiêm nhường phục vụ. Ngày nọ sau giờ làm việc, người giúp việc của Tòa Giám Mục vốn có tật thích ăn nhậu say xỉn đã leo rào ra ngoài quán cóc gần đường ăn nhậu với chúng bạn và đã bất cẩn uống rượu quá chén. Khi mò về tới tòa giám mục thì trời đã khuya. Do quá say, anh quên rằng phải leo rào để về nơi ở, nên đã nằm đại ra trước cổng tòa giám mục ngủ ngáy khò khò. Bấy giờ thánh Phan-xi-cô Sa-lê-si-ô vẫn còn thức đêm làm việc, nghe thấy tiếng ngáy liền đi ra mở cổng và khi nhận ra người giúp việc của ngài đang ngủ say, liền cõng anh ta vào phòng riêng và đặt nằm trên giường của mình. Còn ngài thì tạm nghỉ trên chiếc ghế sa-lon trong phòng khách.

Sáng ngày thức dậy, anh giúp việc rất ngạc nhiên thấy mình đang nằm trên giường của Đức Giám Mục. Anh nhớ ra bữa nhậu say xỉn tối hôm trước, liền vội chạy đến quì trước mặt Đức Giám Mục thú tội để xin tha tội. Và cũng từ ngày đó anh giúp việc đã chừa được tật ưa thích ăn nhậu say xỉn. Anh không bao giờ còn dám lẻn ra ngoài để chung vui với bạn bè vào lúc đêm tối nữa.

3) GƯƠNG KHIÊM TỐN PHỤC VỤ CỦA VIÊN BÁC SĨ GIÁM ĐỐC BỆNH VIỆN:

Cùng với cha và người em, bác sĩ SA-RI MÊ-Ô (Charies Mayo) đã xây dựng bệnh viện Mê-ô nổi tiếng tại thành phố Rô-sét-tơ (Rochester) Hoa kỳ.

Lần kia, một phái đoàn y khoa được cử đến thăm bệnh viện. Theo truyền thống của bệnh viện, quí khách sẽ để giày trước cửa phòng riêng của mình, và bệnh viện sẽ bố trí nhân viên đến đánh bóng các đôi giày ấy. Tối hôm đó, bác sĩ May-ô làm việc trễ và là người về phòng sau cùng. Ông thấy các đôi giày ở trước các phòng của khách vẫn chưa được nhân viên phụ trách đánh bóng ! Có thể họ đã quên làm việc này chăng? Ông liền đi kiếm xi và bản chải, rồi lần lượt đến trước mỗi phòng đánh bóng các đôi giày của khách. Khi nhân viên phụ trách đánh giày hôm đó đến làm nhiệm vụ lúc nửa đêm, anh rất ngạc nhiên khi thấy vị bác sĩ giám đốc bệnh viện vẫn đang miệt mài chùi bóng những chiếc giày cuối cùng cho các vị khách quí.

Câu chuyện bác sĩ giám đốc đánh giày này đã trở thành huyền thoại ! Bác sĩ May-ô được ca tụng không những vì tài năng chữa bệnh, và những công trình y khoa mang lại nhiều ích lợi cho bệnh nhân, mà còn vì lối sống khiêm tốn bình dị của ông. Ông không nề hà làm bất cứ việc gì để phục vụ người khác, dù việc ấy không xứng tầm với địa vị giám đốc của ông.

4) KHIÊM TỐN TRONG LỜI NÓI VÀ HÀNH ĐỘNG:

PAE-DA-TE-ROS sống ở thành Spartes nước Hy Lạp. Dân thành tổ chức bầu nghị viện gồm ba trăm người. Paedateros xin ghi danh làm ứng cử viên. Kết quả bầu cử, trong danh sách những người trúng cử lại không có tên Pae-da-te-ros. Bấy giờ một người bạn thân của ông liền nói lời để an ủi ông:
- Tiếc thật, người ta đã không bầu cho anh. Họ không biết rằng nếu anh mà được trúng cử, thì chắc anh sẽ trở thành một vị chính khách lỗi lạc của thành phố ! ”
Nghe bạn nói xong, Pae-da-te-ros thản nhiên trả lời rằng:
- Trái lại, tôi rất vui vì trong thành Spartes này vẫn còn tới 300 người tài đức hơn tôi.
Pae-da-te-ros đã nêu gương khiêm tốn, qua thái độ sẵn sàng chấp nhận thua kẻ khác, mà không thốt ra một lời oán trách như nhiều người sẽ làm trong hoàn cảnh tương tự.

5) PHẢI PHỤNG SỰ CHÚA QUA NHỮNG NGƯỜI ĐAU KHỔ BẤT HẠNH:

Có một vị tu sĩ già kia ước mong được gặp Chúa, nhưng sau nhiều năm cầu xin mà vẫn không được như ý. Khi ông đã hoàn toàn thất vọng, thì một ngày nọ Chúa Giê-su đã hiện ra với ông khiến ông cảm thấy rất vui. Tuy nhiên, giữa lúc ông đang hân hoan thưa chuyện với Chúa thì một hồi chuông trong tu viện vang lên báo hiệu tới giờ phát gạo cho người nghèo mà hôm nay đến phiên ông phải làm việc đó. Nếu ông không phân phát gạo thì sẽ có nhiều gia đình nghèo không có cơm ăn. Bấy giờ vị tu sĩ bị giằng co giữa một bên là ở lại thưa chuyện với Chúa và một bên là đi phục vụ người nghèo. Cuối cùng ông đã quyết định tạm biệt Chúa để đi phát gạo cho đám dân túng đói.
Sau hơn ba giờ tận tình phục vụ, ông trở về phòng tiếp tục đàm đạo với Chúa. Ông nghĩ chắc Chúa chờ lâu nên đã bỏ đi rồi. Nhưng khi mở cửa phòng, ông thấy Người vẫn đang ngồi chờ ông. Thế là ông liền quỳ gối tạ ơn Chúa. Bấy giờ Chúa nói với ông:
– Giả như hôm nay con không đi phát gạo cho đám dân nghèo thì Ta cũng sẽ không ở lại tới giờ này để nói chuyện với con đâu.

Câu chuyện trên cho thấy phục vụ những người nghèo khổ bất hạnh cũng là phục vụ chính Chúa Giê-su như lời Người phán với những kẻ khiêm tốn phục vụ tha nhân vào ngày tận thế: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han… Vì mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-40).

3. THẢO LUẬN:

Là người đứng đầu một tập thể nhỏ là gia đình, đội nhóm… và có chút quyền hành, chúng ta sẽ làm gì để noi gương Mục Tử Giê-su: “Ta đến cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

4. SUY NIỆM:

1) NGƯỜI TA THƯỜNG TRANH GIÀNH ĐỊA VỊ QUYỀN HÀNH:

Khi theo Thầy Giê-su đi lên Giê-ru-sa-lem, các môn đệ tưởng Thầy sắp lên làm vua, nên dọc đường các ông tranh cãi nhau xem ai sẽ nắm giữ chức vụ lớn nhất khi Thầy làm vua! Đức Giê-su hiểu rõ tâm trạng của các ông, nên khi Thầy trò về tới nhà trọ tại thành Ca-phác-na-um, Người đã dạy các ông bài học về sự khiêm tốn phục vụ của người môn đệ như sau: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ phục vụ mọi người” (Mc 9,35), giống như “Con Người đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ” (Mc 10,45). Đối với Đức Giê-su: Giá trị của người môn đệ không hệ tại địa vị cao thấp, mà tuỳ theo họ đã khiêm tốn phục vụ tha nhân ra sao.

2) MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊ-SU PHẢI CÓ TINH THẦN KHIÊM TỐN PHỤC VỤ:

- Không phải vô cớ mà sau đó Đức Giê-su đã đưa một em nhỏ đặt ngồi giữa các môn đệ khi dạy dỗ các ông. Thời đó trong xã hội Do thái, trẻ em thuộc hạng người thấp kém. Chúa đã dạy môn đệ: Ai muốn làm môn đệ thực sự của Người, cần phải quan tâm phục vụ những người thấp kém nhất trong xã hội như các trẻ nhỏ.

Tin Mừng Gio-an cũng thuật lại việc Đức Giê-su đã khiêm tốn làm công việc của người giúp việc trong bữa Tiệc Ly, là quỳ gối rửa chân cho các môn đệ, rồi sau đó dạy các ông điều răn mới: “Hãy yêu thương nhau như Thầy”. Yêu thương như Thầy chính là khiêm tốn rửa chân phục vụ lẫn cho nhau (x. Ga 13,12-15).

Tông đồ Phao-lô cũng trình bày gương khiêm hạ vâng phục của Đức Giê-su trong thư Phi-lip-phê như sau: "Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,5b-8). Đối với Đức Giê-su: Người làm lớn không phải là người lúc nào cũng ra lệnh cho người dưới, nhưng phải biết dùng tình yêu và nêu gương sáng để gây thiện cảm, nhờ đó họ sẽ tin vào Tin Mừng và cùng đi theo làm môn đệ của Chúa với mình.

- Lãnh đạo theo Chúa Giêsu phải vừa có tâm có tầm, lại vừa phải có đức có tài để phục vụ tha nhân với tinh thần bác ái mục tử. Thánh Phê-rô đã khuyên các vị mục tử như sau: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn; Không phải vì ham hố lợi ích thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt tình tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người mà Thiên Chúa đã giao cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1 Pr 5,1-4).

3) NGƯỜI MỤC TỬ CẦN KHIÊM TỐN PHỤC VỤ NGƯỜI DƯỚI THẾ NÀO?:

Noi gương Đức Giê-su, các mục tử hôm nay cần trở thành người tôi tớ trung tín, hoặc như một bà mẹ sẵn sàng hy sinh phục vụ con thơ, hay như người mục tử nhân lành luôn chăm sóc phục vụ đoàn chiên.
- Như người tôi tớ trung tín: Điều quan trọng của người tôi tớ trung tín là phục vụ và nhiệt tình làm mọi việc trong phần vụ được chủ nhân yêu cầu, tránh phục vụ theo kiểu ban ơn, thể hiện qua thái độ hống hách, khinh thường người dưới. Nhất là tránh thái độ công thần, khoe khoang công lao thành tích phục vụ của mình và đòi tập thể phải tỏ lòng kính trọng biết ơn. Mỗi tín hữu cần biết noi gương Đức Giê-su, Đấng tuy là Thầy là Chúa nhưng đã khiêm hạ rửa chân phục vụ môn đệ.
- Như bà mẹ hy sinh phục vụ con thơ: Động lực phục vụ của bà mẹ là tình mẫu tử, không so đo tính toán hơn thiệt với con, luôn quên mình để tìm lợi ích cho con như câu tục ngữ đã ca tụng sự hy sinh của mẹ: “Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”.
- Như mục tử nhân lành phục vụ đoàn chiên: Mục tử tốt lành hiểu biết để cảm thông với những khó khăn của đoàn chiên được trao phó cho mình chăn dắt; Luôn lo lắng chăm sóc và dẫn đưa đoàn chiên đến cánh đồng cỏ xanh tươi có suối nước trong; Quan tâm bảo vệ đoàn chiên bằng việc can đảm đương đầu với sói dữ rình rập cắn xé và làm cho đoàn chiên tan tác; Sẵn sàng hy sinh sức lực để đi tìm chiên lạc, băng bó các con chiên bị thương tích... Tóm lại phải có tinh thần yêu thương phục vụ như mục tử nhân lành Giê-su: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10.14).

4) HÃY ĐI VÀ LÀM NHƯ VẬY (Lc 10,37):

Để thực hành đức khiêm nhường phục vụ noi gương Đức Giê-su, mỗi người mục tử cần thực hành cụ thể như sau:
- Cầu xin ơn Chúa giúp: Hãy năng dâng lời nguyện tắt để xin Chúa Giê-su Phục Sinh đổ ơn Thánh Thần giúp chúng ta sống khiêm hạ qua việc phục vụ tha nhân, nhất là săn sóc những người tàn tật, già cả, bệnh tật và bị bỏ rơi… ở gần ngay bên chúng ta.
- Cần tự kiểm vào lúc cuối ngày: Để thực tập khiêm nhường phục vụ, chúng ta nên dành một phút để hồi tâm tự kiểm trước khi đi ngủ: “Hôm nay tôi có phục vụ được ai hay không? Tôi làm các việc lành để tìm làm vinh danh cho Chúa hay để tìm tiếng khen nơi người đời? ” (x Mt 6,1). “Tôi có sẵn lòng làm những việc phục vụ vô danh không ai muốn làm không? ” (x Mt 6,2). “Tôi có cảm thấy ấm ức khi làm việc tốt mà không được người khác hay biết hoặc không được ai động viên khen ngợi không? ” (x Mt 6,3-4).
- Cần phục vụ với tình yêu thương: Những người đứng đầu cộng đòan không nên nại vào lý do mình đã phục vụ cho tập thể để đòi mọi người phải biết ơn và phục vụ lại mình. Các vị mục tử cần tránh thái độ quan liêu vô trách nhiệm, thiếu đức ái mục tử… giống như những kẻ chăn thuê đã bị Đức Giê-su quở trách (x Ga 10,11-13).
- Tập khen ngợi và đề cao các việc tốt của tha nhân: Mỗi ngày hãy nói lời khen ngợi tha nhân ít nhất một lần. Chẳng hạn: khen một nhân viên có tinh thần trách nhiệm cao; Khen bà bán hàng rong đã trả lại tiền còn dư cho khách; Đề cao một thày giáo sẵn sàng mở lớp dạy miễn phí cho học sinh yếu kém... Hãy biến cuộc sống của chúng ta trở thành thánh lễ nối dài bằng thái độ khiêm tốn và nhiệt thành phục vụ tha nhân.

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa đang hiện thân nơi những người đói cơm vật chất và thiếu bánh tinh thần là Lời Chúa. Xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa đang bị bỏ rơi trong những người đau khổ bệnh tật và cô đơn. Xin cho chúng con biết mở rộng lòng đón nhận tha nhân, mở trái tim để cảm thông, mở đôi tay để phục vụ người nghèo khổ như phục vụ chính Chúa. Ước gì chúng con luôn kết hiệp với Chúa để phục vụ tha nhân trong sự âm thầm khiêm hạ, hầu xứng đáng được Chúa tha tội và ban hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
 
Làm Lớn Là Để Phục Vụ
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
08:57 15/09/2021
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXV - B

(Mc 9, 30 – 37)

Quyền lực là gì? Quyền lực là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc các cá nhân hay tổ chức khác phải phục tùng ý chí của mình. Tâm lý con người nói chung ai chẳng thích quyền lực, không có gì hấp dẫn, cám dỗ con người bằng quyền lực. Thích làm lớn, hay thích quyền lực là thứ “gây nghiện” bằng tất cả những thứ “gây nghiện” khác cộng lại. Bởi quyền lực làm cho người chưa có khao khát có nó, có chút quyền lực rồi lại muốn quyền lực lớn hơn. Thích quyền, có thể biến người ta thành kẻ tán tận lương tâm, chia rẽ và giết chết nhau. Các môn đệ Chúa Giêsu cũng không nằm ngoài qui luật thông thường ấy. Các ông có tranh giành nhau cũng là chuyện bình thường. Quyền lực khiến cho hai anh em Gioan và Giacôbê xin được ngồi bên hữu và bên tả Chúa Giêsu (x.Mc 10 37) và làm cho “Mười môn đệ kia đâm ra tức tối” (Mc 10, 41) sinh ra chia rẽ, bất hòa.

Tranh giành quyền lực

Chuyện xảy ra vào chính lúc Chúa Giêsu loan báo cho các ông về cuộc khổ nạn và cái chết của Người. Thay vì dừng lại và chia sẻ với Thầy, hoặc nếu chưa hiểu thì trao đổi với Thầy để am tường hơn, đàng này các ông lại ích kỷ, vụ lợi; tưởng thời lập quốc của Ðấng Mêsia sắp đến và ngày tể tướng triều chính phải được cắt đặt đã tới, thế là các ông bắt đầu tranh cãi về địa vị với nhau. Hiểu rõ nhân tình thế sự nơi người môn đệ, Chúa Giêsu nói với họ : “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi mọi người” (Mc 9, 35).

Đã ba lần Chúa Giêsu báo trước cuộc khổ nạn của Người cho các môn đệ, nhưng họ đâu có muốn Chúa nói với họ về khổ đau và thập giá. Họ càng không muốn biết về những thử thách và lo âu. Vì thế, họ tranh luận với nhau xem ai hơn ai, ai là người xuất sắc nhất, thanh sạch nhất, người có quyền được hưởng đặc ân nhiều hơn so với người khác. Thái độ tranh biện về quyền lực và danh vọng là thái độ vô ích, khiến người ta từ tránh khó, ngại khổ, không dấn thân vào việc chung vì ích chung.

Chúa Giêsu đặt em bé ở giữa

Chúa Giêsu biết rõ tư tưởng của các môn đệ, nên Người đề nghị một thuốc giải cho cuộc tranh giành quyền lực và sự từ khước hy sinh của họ; để mang lại tính chất long trọng cho điều Người sắp nói, Chúa “đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9, 37). Bài học khiêm nhường như đứa trẻ nhỏ họ vẫn chưa thuộc.

Trước cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu dạy họ một bài học mà họ sẽ không bao giờ quên được. Chúa đã làm gì?

Trong lúc mọi người đang dùng bữa chung, Chúa Giêsu đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ngoài ra, lấy một chiếc khăn và quấn ngang thắt lưng rồi đổ nước vào chậu. Các môn đệ lúc ấy ngỡ ngàng sửng sốt lăm, Thầy sắp làm gì đây. Trong khi họ quan sát thì Chúa Giêsu đi đến từng người trong trong các ông, cúi xuống rửa chân cho họ. Người dùng khăn lau khô chân họ. Họ cảm thấy bối rối, còn Phêrô thì không muốn để Thày làm công việc phục vụ thấp kém này cho mình (x. Ga 13,1-15).

Ngày nay chúng ta thường không rửa chân cho nhau. Chúa Giêsu đã làm như vậy. Khi làm điều này, Chúa Giêsu dạy các môn đồ một bài học quan trọng là phục vụ lẫn nhau. Người không muốn họ chỉ nghĩ đến mình, cho mình là quan trọng đến độ luôn phải được người khác phục vụ. Người muốn họ sẵn sàng phục vụ người khác.

Phục vụ người khác không khó đâu. Vậy chúng ta đừng bao giờ do dự phục vụ người khác.

Giáo Hội được Chúa Giêsu thiếp lập để phục vụ

Bao lâu xã hội loài người còn, thì bấy lâu bài học Chúa dạy hôm nay vẫn còn giá trị, bởi vì cám dỗ về quyền lực và lạm quyền đã ăn sâu trong mỗi người và trong mọi cơ chế xã hội. Giáo hội cũng không được miễn nhiễm khỏi căn bệnh tìm kiếm chức quyền danh vọng. Não trạng thế gian thì tìm kiếm danh vọng chức quyền, còn tư tưởng của Thiên Chúa là phục vụ và trao ban sự sống.

Những người làm lớn trên thế gian xây dựng những ngai vàng cho quyền bính của họ, Thiên Chúa lại chọn một ngai không tiện nghi, là Thánh Giá, từ ngai đó Người cai trị khi ban tặng sự sống của Người: Chúa Giêsu nói : "Con Người đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống cho nhiều người" (Mc 10, 45).

Phục vụ là thuốc giải độc hiệu quả chống lại căn bệnh tìm kiếm địa vị chức quyền. Giáo Hội phải cúi xuống mà rửa những bàn chân của những người rốt hết, để phục vụ họ bằng tình yêu, đơn giản và chân thành.

Chúng ta hãy khẩn cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, Người Nữ khiêm nhường luôn gắn bó với thánh ý Chúa, giúp chúng ta vui vẻ bước theo Chúa Giêsu trên con đường phục vụ, con đường chính dẫn đến Thiên Đàng.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
 
Việc Nhỏ Mà Không Nhỏ
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
20:51 15/09/2021
Việc Nhỏ Mà Không Nhỏ

“Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người” (Lc 8,1-3) (Tin Mừng thứ Sáu sau Chúa Nhật XXIV TN)

Đến thế gian trong kiếp nhân loại Chúa Kitô nên giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4,5). Vì thế việc cần đến người giúp đỡ và người cộng tác là điều như tất yếu. Ngay cả trong sinh hoạt thường nhật không ai có thể tự mình làm hết mọi công việc. Có nhiều công việc bề ngoài xem ra là việc nhỏ nhưng thực ra không nhỏ chút nào do bởi tính cần thiết của nó, chẳng hạn chuyện cơm nước, giặt giũ áo quần, vệ sinh nhà cửa… Những việc này sự thường là trên đôi tay người phụ nữ, thế mà ít khi được biết đến và được nói đến.

Tin Mừng hình như không là ngoại lệ. Những dòng chữ tường thuật việc các phụ nữ đi theo giúp đỡ Chúa Giêsu thì chỉ một đoạn ngắn so với rất nhiều dòng tường thuật việc các tông đồ, các môn đệ trợ giúp Chúa Cứu Thế trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Dù là việc nhỏ theo quan niệm xưa nay, nhất là với truyền thống trọng nam khinh nữ thì nhũng công việc ấy dường như không thể thiếu. Các bà không chỉ phụ giúp Chúa Giêsu và các tông đồ bằng công sức mà còn bằng tiền bạc, của cải. Công của đủ đầy các mặt, thế mà chỉ được tường thuật có mấy dòng vắn vỏi. Không sao cả, Thầy đã giáng phúc thi ân cho chúng mình cả phần hồn lẫn phần xác thì đền đáp Thầy cân xứng chừng nào tốt chừng ấy.

Việc nhỏ mà không nhỏ khi nó là nhu cầu cần thiết. Việc bình thường nhưng sẽ thành phi thường khi nó được làm với cả tấm lòng và sự tận tụy. Phục vụ cho một nhóm mười hai thanh niên trai tráng cộng với Chúa Giêsu trong các việc ăn uống giặt giũ ròng rã trên dưới ba năm thì quả là không mấy nhẹ nhàng nhất là khi các ngài không ở lâu một chỗ, cứ nay đây mai đó. Tìm cả bốn Tin Mừng chúng ta không thấy một lời ca thán hay phiền trách của các tông đồ về những khoản này là một luận suy về cung cách phục vụ của các bà.

Trong hoàn cảnh dịch bệnh, với lệnh giãn cách nghiêm nhặt, nhà thờ không có các cử hành nghi thức Phụng vụ, thế mà các mẹ chị vẫn lui tới quét dọn nhà thờ và khuôn viên. Đúng thật là những việc làm phục vụ không nhỏ chút nào mà trái lại. Một tấm gương sáng của vị bề trên chủng viện ngày xưa khiến tôi quyết thực hành trong đời mục tử. Trong xứ mỗi khi có tiệc tùng gì thì dù không ai cho nhúng tay vào chuyện dọn rửa bát dĩa, nhưng vị mục tử vẫn phải hiện diện với các mẹ chị cho đến cùng. Thiết nghĩ rằng sự hiện diện đến cùng ấy không chỉ là sự động viên khích lệ mà còn là lời tri ân tấm lòng của các mẹ chị vì những việc tuy nhỏ mà không nhỏ chút nào. Tri ân ai là một cách thế nói lên việc mình cần đến họ và qua đó nhìn nhận vai trò của họ.

Chính khi chúng ta biểu lộ sự cần đến nhau là lúc chúng ta ý thức sự bất túc và cả sự bất toàn của mình vậy. Và đây là một trong những tiền đề để thành nhân. Thật khó có thể trở thành người con Chúa nếu tiên vàn chúng ta chưa thành người. Các chủng viện và tu viện hiện nay luôn chú trọng mặt nhân bản cho các chủng sinh, đệ tử. Tuy nhiên hình như mới giới hạn trong việc học hành, trả bài, thi cử. Còn việc luyện tập thì sao đây?

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức TGM Anh Giáo tiết lộ những hy sinh cá nhân trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu
Đặng Tự Do
08:39 15/09/2021


Đức Tổng Giám Mục Canterbury cho biết ngài ăn ít thịt hơn và không còn dùng xe chạy dầu để chống lại biến đổi khí hậu khi ngài kêu gọi các nhà lãnh đạo toàn cầu “chọn cuộc sống” trước hội nghị Cop26 sắp tới.

Đức Cha Justin Welby cho biết ngài đã điều chỉnh thói quen của mình bao gồm cả việc cắt giảm các chuyến du lịch.

Hôm thứ Ba, Đức Cha Welby, cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô, nhà lãnh đạo của Giáo hội Chính thống giáo Đông phương, đã đưa ra một tuyên bố chung trước hội nghị thượng đỉnh về khí hậu, nói rằng đây là “thời điểm quan trọng” đối với tương lai của hành tinh.

Phát biểu trên chương trình Today của BBC Radio 4 vào thứ Năm, Đức Tổng Giám Mục Welby nói: “Tôi đã cắt giảm việc đi lại”.

“Chúng tôi, cũng như rất nhiều người, tham gia và cam kết vào việc tái chế và tất cả những điều đó. Tôi đã từng có một chiếc xe hơi chạy bằng diesel, tôi không còn chiếc xe đó nữa”.

“Chúng tôi đã cắt giảm cả thịt”.

“Tôi không dùng diễn đàn này để khoe mình thánh thiện, nhưng tôi nói điều này vì nó liên quan đến sức khỏe và môi trường”.

Ngài cũng kêu gọi các nhà lãnh đạo toàn cầu hành động.

“Đây là sự lựa chọn giữa lựa chọn sự sống hoặc lựa chọn cái chết”.
Source:Anglican News
 
Lần đầu tiên trong ba năm qua, báo chí thế tục Chí Lợi lên tiếng ca ngợi Đức Thánh Cha Phanxicô
Đặng Tự Do
08:39 15/09/2021


Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên bố thăng chức cho linh mục Chí Lợi Andrés Gabriel Ferrada Moreira. Ngài là một trong những thành viên của hàng giáo sĩ ở Chí Lợi tố cáo hành vi lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên của cựu linh mục Fernando Karadima.

Cha Ferrada Moreira, 52 tuổi, sẽ hoạt động từ ngày 1 tháng 10 với tư cách là nhân vật số hai trong Bộ Giáo sĩ, phụ trách việc đào tạo các tu sĩ.

Cha Ferrada Moreira được thụ phong linh mục vào năm 1999. Ngài nhận bằng tiến sĩ thần học tại Rôma và từ năm 2018, ngài đã làm việc tại Bộ Giáo sĩ.

Ngài đã làm chứng trước tòa án Chí Lợi về các vụ tấn công trẻ vị thành niên của Karadima, mặc dù chính ngài không phải là nạn nhân của linh mục này. Karadima bị Bộ Giáo Lý Đức Tin kết án vào năm 2011 vì tội lạm dụng tính dục từ năm 1980 đến 1990.

Hôm 28 tháng 9, 2018, Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã huyền chức Fernando Karadima Fariña của Tổng Giáo Phận Santiago de Chile.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng một “quyết định ngoại thường” nhằm trục xuất Fernando Karadima khỏi chức tư tế đã được thực hiện “vì lợi ích của Giáo Hội.”

Bản tuyên bố, được viết bằng tiếng Tây Ban Nha, nói rằng “Đức Thánh Cha đã đưa ra quyết định ngoại thường này theo lương tâm và vì lợi ích của Giáo Hội”; và cho biết tiếp rằng, “ngài đã thực hành 'thẩm quyền tối thượng, đầy đủ, ngay lập tức, và phổ quát trong Giáo Hội,' với ý thức về sự phục vụ của ngài đối với dân Chúa trong tư cách người kế nhiệm Thánh Phêrô.”

Karadima đã qua đời vào tháng 7 năm 2021, thọ 90 tuổi. Báo chí địa phương cho biết Karadima đã đến phòng cấp cứu tại Bệnh viện Đại học Công Giáo Santiage de Chile, nơi ông ta không thể nhập viện ngay lập tức do tình trạng hết giường bệnh vì covid-19.

Giáo Hội Công Giáo, có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử ở Chí Lợi, đã mất đi ảnh hưởng ở đất nước này do những vụ tai tiếng do Karadima gây ra.
Source:Bio Bio Chile
 
Các giám mục Mễ Tây Cơ bày tỏ nỗi buồn sau khi Tòa án Tối cao tuyên bố hủy bỏ một luật chống phá thai ở bang Coahuila
Đặng Tự Do
08:40 15/09/2021


Hội đồng Giám mục Mễ Tây Cơ bày tỏ sự đau buồn trước quyết định của Tòa án Tối cao nhất trí hủy bỏ một luật chống phá thai ở bang Coahuila, trong khi các nhà lãnh đạo Giáo Hội khác kêu gọi người Công Giáo “đừng thờ ơ” với các vấn đề liên quan đến sự sống.

Tòa án đã nhất trí ra phán quyết vào ngày 7 tháng 9 để vô hiệu các phần của luật phò sinh ở bang Coahuila ở phía bắc Mễ Tây Cơ. Luật đã đề nghị mức án lên đến ba năm tù giam đối với phụ nữ phá thai. Các quan sát viên cho rằng quyết định của tòa án đặt ra tiền lệ và sẽ dẫn đến hợp pháp hóa phá thai trên toàn quốc. Quyết định cũng loại bỏ các biện pháp trừng phạt hình sự đối với những người cung cấp dịch vụ phá thai.

Theo Thẩm Phán Norma Piña Hernández, phán quyết được thông qua tại Tòa Án Tối Cao, “ kết luận rằng không có lý do công khai nào với sự hỗ trợ khoa học cho phép đánh thai nhi với một người”.

Sau quyết định của tòa án, hội đồng giám mục đã tweet, trích dẫn từ một tài liệu Hội Đồng Giám Mục được xuất bản vào ngày 12 tháng 8: “ Những người trong chúng ta tin chắc về giá trị của cuộc sống không cần phải có luật giết người như luật vừa được thông qua. Chúng tôi hy vọng rằng lựa chọn của anh chị em liên quan đến sự sống của thai nhi không xuất phát từ một ý thức hệ, nhưng được thúc đẩy bởi niềm tin, hy vọng và tình yêu”.

Đức Cha Jesús José Herrera Quiñonez của giáo phận Nuevo Casas Grandes, chủ tịch Ủy ban mục vụ đời sống của các giám mục, cho biết trong một tuyên bố ngày 5 tháng 9 rằng “Chúng ta phải nhớ rằng phẩm giá và các quyền cơ bản của con người không phải là vấn đề lá phiếu, mà là sự công nhận và tôn trọng”.

“Chúng ta phải nhớ rằng con người, con của một người cha và người mẹ, có sự sống bắt đầu từ lúc thụ thai, phải được công nhận phẩm giá của họ trong tất cả các bước của cuộc sống và đáng được pháp luật bảo vệ như nhau khi đối mặt với những hành vi có thể đe dọa mạng sống của nó”.
Source:Crux
 
Đức Hồng Y Colombo nói rằng các quan chức Sri Lanka cố ý đánh lừa Tòa Thánh về cuộc điều tra vụ tấn công khủng bố lễ Phục sinh năm 2019
Đặng Tự Do
16:12 15/09/2021


Đức Tổng Giám Mục Colombo, Hồng Y Malcolm Ranjith, cảnh báo rằng các quan chức chính phủ hàng đầu của Sri Lanka đang lừa dối Đức Giáo Hoàng Phanxicô về kết quả của cuộc điều tra về các vụ đánh bom vào Chúa Nhật Phục sinh 2019 ở thủ đô của quốc gia này.

Thủ tướng Mahinda Rajapaksa và Bộ trưởng Ngoại giao Peiris được cho là sẽ gặp các quan chức Vatican trong tuần này để thông báo tóm tắt về các cuộc điều tra về vụ tấn công vào Chúa Nhật Phục sinh khiến hơn 260 người thiệt mạng và hơn 500 người khác bị thương.

“Một âm mưu đang được thực hiện một cách khôn khéo để cứu những kẻ đứng sau vụ tấn công và một nỗ lực đang được thực hiện để chuyển đổi tình hình có lợi cho chính phủ”, Đức Hồng Y Ranjith nói trong một tuyên bố được đưa ra ở cuộc họp báo hôm thứ Tư, Ngày 8 tháng 9.

Tuy nhiên, một báo cáo trên tờ Tin tức hàng ngày của Sri Lanka cho biết thủ tướng đã không tìm kiếm một cuộc tiếp kiến Đức Thánh Cha Phanxicô và phái đoàn của ông sẽ không đến thăm Vatican trong chuyến thăm Ý vào tuần này trong khuôn khổ Diễn đàn Liên tôn G-20.

Thủ tướng Sri Lanka dự kiến sẽ có bài phát biểu quan trọng trong cuộc họp tại thành phố Bologna.

Trong cuộc họp báo hôm thứ Tư, Đức Hồng Y Ranjith cho biết ngài đã thông báo cho Tòa Thánh về bản cập nhật cuộc điều tra vụ đánh bom vào Chúa Nhật Phục sinh, đồng thời nói thêm rằng Vatican dự kiến sẽ chuyển vấn đề này lên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc ở Geneva.

Các báo cáo truyền thông hồi đầu tuần dẫn lời phát ngôn viên Nội các Sri Lanka, Bộ trưởng Đồn điền sự vụ, Tiến sĩ Ramesh Pathirana, nói rằng Rajapaksa và Peiris đã được lên kế hoạch thông báo cho Đức Thánh Cha Phanxicô về tiến độ đạt được trong cuộc điều tra các vụ tấn công vào Chúa Nhật Phục sinh.


Source:Catholic News Agency
 
Những bức thư của linh mục Công Giáo đầu tiên của Hàn Quốc được xuất bản bằng tiếng Anh
Đặng Tự Do
16:13 15/09/2021

Đánh dấu kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Thánh Anrê Kim Đại Kiến (Andrew Kim Tae-gon, 김대건 안드레아), sinh năm 1821 và qua đời năm 1846, Quỹ Nghiên cứu Lịch sử Giáo hội Hàn Quốc thuộc Tổng Giáo phận Há Thành đã xuất bản một bản dịch tiếng Anh cuốn “Những bức thư của Thánh Anrê Kim Đại Kiến”. Đó là một trong ba cuốn sách kỷ niệm về các hoạt động của ngài với tư cách là một nhân vật quan trọng ban đầu trong Giáo Hội Công Giáo ở Hàn Quốc.

“Ngài quả là một người mạnh mẽ và có khiếu khôi hài. Ngài thậm chí còn đùa với người hành quyết của mình. Ngài mắng tên đao phủ để y nổi khùng chém đầu ngài cho ngọt. Có rất nhiều tình tiết thú vị và đầy cảm hứng trong các bức thư lịch sử này”, Linh mục Triệu Hán Quân (Cho Han-gun), giám đốc của quỹ, nói với The Korea Times hôm thứ Tư.

Hồ sơ cho thấy Cha Kim, linh mục Công Giáo đầu tiên của Hàn Quốc, đã viết tới 21 bức thư có niên đại từ tháng 2 năm 1842 đến tháng 8 năm 1846 khi ngài cố gắng trở về Hàn Quốc từ Macao, nơi ngài đã theo học tại một chủng viện. Ngài được thụ phong năm 1845. Cuốn sách tiếng Anh bao gồm 19 lá thư, thiếu hai lá thư trong số đó. Ngài viết hầu hết các lá thư bằng tiếng Latinh, nhưng viết lá thư thứ 21 bằng chữ Hàn Quốc và lá thư thứ 9 bằng chữ Hán. Chúng được viết vào giữa thế kỷ 19, gần cuối triều đại Tiên Quốc (Joseon, 조선), 1392-1910, cho độc giả cái nhìn rõ nét về cuộc sống trong những ngày đó.

“Cái chết của tôi chắc chắn sẽ làm rúng động anh chị em cả thể xác lẫn linh hồn. Nhưng chẳng bao lâu nữa, Đức Chúa Trời sẽ sai đến với anh chị em những mục tử đáng tin cậy hơn tôi. Đừng buồn, nhưng hãy thực hành tình yêu thương, để sau khi phụng sự Đức Chúa Trời, sau khi chết, chúng ta sẽ gặp nhau đời đời trước mặt Đức Chúa Trời trong hạnh phúc, như tôi hy vọng hàng nghìn lần. Tạm biệt!” Ngài đã viết như trên trong bức thư cuối cùng.

Một số bức thư bao gồm những câu chuyện về những chuyến đi của ngài ở Trung Quốc trong một chiếc thuyền nhỏ, trong đó ngài suýt bị một con sóng lớn nhận chìm, và nỗi thống khổ của ngài khi là một linh mục bị bách hại dưới chế độ tân Nho giáo nặng nề của triều đại Tiên Quốc, khi các vua chúa cấm các tôn giáo bên ngoài cũng như không cho tự do đi lại mà không có sự cho phép chính thức.

“Chúng tôi hy vọng rằng cuốn sách sẽ chia sẻ với thế giới niềm tin sâu sắc của Thánh Anrê Kim Đại Kiến và tinh thần tiên phong của ngài”, Cha Triệu nói. “Cuốn sách cũng có thể truyền cảm hứng cho nhiều người, bằng cách cho thấy một trí thức trẻ Hàn Quốc có thể nói và viết bằng nhiều thứ tiếng, thông qua tính cách và nghị lực mạnh mẽ của ngài ngõ hầu vượt qua khó khăn trong bối cảnh lịch sử của Công Giáo Hàn Quốc”.

Cha Triệu nói thêm rằng Hàn Quốc là quốc gia duy nhất mà Công Giáo đến thông qua sách vở chứ không phải qua các nhà truyền giáo, và nói rằng người Hàn Quốc tự học và chấp nhận đạo Công Giáo theo ý chí tự do của họ.

Để độc giả hiểu rõ hơn về ý nghĩa của các bức thư, cuốn sách cũng bao gồm các giải thích về bối cảnh lịch sử của triều đại Tiên Quốc.
Source:Korea Times
 
Lá thư của Đức Hồng Y Koch gởi cho Rabbi Arousi về vụ Kinh Torah
Đặng Tự Do
16:14 15/09/2021


Phản ứng của Vatican lần này được đưa ra với tất cả sự dè dặt với các ngôn ngữ rất ngoại giao. Lá thư được viết bởi Đức Hồng Y Kurt Koch, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Đối Thoại Liên Tôn. Ngài đã viết thư cho Giáo sĩ Rasson Arousi sau khi vị giáo sĩ Do Thái nói rằng ông “lo lắng” trước một số từ do chính Đức Phanxicô phát biểu vào ngày 11 tháng 8, theo đó có thể đã gợi ý rằng Torah đã lỗi thời.

Tại buổi tiếp kiến ngày 11 tháng 8, Đức Giáo Hoàng khi trình bày các suy tư về những gì Thánh Phaolô đã nói về kinh Torah trong Tân Ước, và nhận định rằng:

“Trên thực tế, Kinh Torah, hay Lề Luật, không có trong lời hứa được đưa ra với Áp-ra-ham. Tuy nhiên, khi nói điều này, ta không nên nghĩ rằng Thánh Phaolô chống lại Luật Môisê. Không, thánh nhân đã tuân giữ nó. Một vài lần trong Thư của mình, ngài bảo vệ nguồn gốc thần thánh của nó và nói rằng nó có một vai trò được xác định rõ ràng trong lịch sử cứu độ. Tuy nhiên, Lề Luật không ban sự sống, nó không mang lại sự thành toàn lời hứa bởi vì nó không có khả năng làm điều đó. Lề Luật là một cuộc hành trình, một cuộc hành trình dẫn đến một cuộc gặp gỡ. Thánh Phaolô dùng một từ, tôi không biết nó có trong văn bản hay không, nhưng là một từ rất quan trọng: lề luật là “phương pháp sư phạm” hướng đến Chúa Kitô, một phương pháp sư phạm hướng đến đức tin nơi Chúa Kitô, nói cách khác lề luật là người thầy cầm tay anh chị em dắt tới cuộc gặp gỡ (x. Gl 3,24). Những ai tìm kiếm sự sống cần phải nhìn vào lời hứa và sự hoàn thành lời hứa trong Chúa Kitô”.

Đức Hồng Y Koch viết:

“Trong bài phát biểu của Đức Thánh Cha, Kinh Torah không bị mất giá, vì ngài tuyên bố rõ ràng rằng Phaolô không chống lại luật pháp Môisê. Trên thực tế, Phaolô tuân theo luật này, nhấn mạnh nguồn gốc thiêng liêng của nó, và gán cho nó một vai trò trong lịch sử cứu rỗi. Câu: “Lề Luật không ban sự sống, nó không mang lại sự thành toàn lời hứa”, không nên ngoại suy từ ngữ cảnh của nó, nhưng phải được xem xét trong khuôn khổ chung của thần học Phaolô. Niềm tin Kitô Giáo từ xưa đến nay cho rằng Chúa Giêsu Kitô là con đường. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Kinh Torah bị xem nhẹ hoặc không còn được công nhận là 'con đường cứu rỗi của người Do Thái'“.

Đức Hồng Y Koch nhớ lại một bài giáo lý năm 2015 của Đức Phanxicô, trong đó vị giám mục Rôma giải thích rằng “Các hệ phái Kitô tìm thấy sự hiệp nhất của mình nơi Chúa Kitô; Do Thái giáo tìm thấy sự hiệp nhất trong Torah, cả hai đều nhìn nhận mình dưới một Thiên Chúa”.

Đức Hồng Y Koch nhấn mạnh rằng trong bài giáo lý tháng 8 vừa qua, “Đức Phanxicô không đề cập đến đạo Do Thái hiện đại”. Bài diễn văn là “sự suy tư về thần học của Thánh Phaolô trong bối cảnh lịch sử của một thời đại nhất định. Thực tế Torah là trung tâm của Do Thái giáo hiện đại không có cách nào bị đặt thành nghi vấn”.

Những lời của Đức Hồng Y Koch, đề ngày 3 tháng 9, xảy ra khi Đức Phanxicô đang gửi một thông điệp những lời chúc tốt đẹp đến Rabbi trưởng của Rôma Riccardo Di Segni. Nhân dịp kỷ niệm trọng thể lễ Rosh Ha-Shanah, Yom Kippur và Sukkot, Đức Giáo Hoàng cho biết ngài hân hạnh gửi lời chúc chân thành đến các bạn, tới cộng đồng Do Thái ở Rome và tất cả các cộng đồng Do Thái trên thế giới”.

Và một lần nữa: “Tôi hy vọng rằng trong những ngày lễ sắp tới, việc làm sống lại ký ức về những lợi ích nhận được từ Đấng Tối Cao, sẽ là nguồn tiếp thêm ân sủng và niềm an ủi tinh thần. Cầu xin Đức Chúa Trời của các Tổ phụ ban phước cho chúng ta món quà bình an, củng cố mối dây tình bạn của chúng ta và giúp chúng ta làm chứng cho điều đó trong sự cam kết của chúng ta với người khác. Shalom Alechem”.
Source:Republicca
 
Đức Thánh Cha Phanxicô cám ơn Đức Maria về những thành quả của chuyến tông du đến Budapest và Slovakia
Thanh Quảng sdb
18:22 15/09/2021
Đức Thánh Cha Phanxicô cám ơn Đức Maria về những thành quả của chuyến tông du đến Budapest và Slovakia

Đức Thánh Cha Phanxicô đã trở về Vatican sau chuyến tông du tới Budapest và Slovakia, Ngài đã ghé vào Vương cung thánh đường Đức Bà Cả để cảm ơn sự che chở phù trì của Đức Mẹ.

(Tin Vatican - Devin Watkins)

Theo truyền thống trước và sau các chuyến tông du, ĐTC luôn ghé vào Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả trước và sau mỗi chuyến tông du để cầu xin sự bảo vệ chở che của Đức Mẹ, trên đường ra sân bay cũng như lúc trở về lại Vatican.

Theo Văn phòng Báo chí Tòa thánh, Đức Thánh Cha đã cầu nguyện một lúc trước bàn thờ Đức Maria cứu dân thành Roma.

ĐTC cũng dâng lên Mẹ một bó hoa dưới chân Mẹ để tỏ lòng biết ơn.

Bức ảnh Đức Mẹ là "Sự cứu rỗi của dân thành La Mã" được đặt trong nhà nguyện của Bá tước Borghese trong Vương cung thánh đường.

Theo tương truyền thì bức ảnh này đã có ở Rome dưới triều đại Thánh Giáo hoàng Gregoriô Cả, vào khoảng năm 590 sau Công nguyên, mặc dù nguồn gốc của bức ảnh có lẽ còn lâu đời hơn nữa.
 
Diễn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với giới trẻ Slovakia
Vũ Văn An
18:48 15/09/2021


Diễn từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với giới trẻ Slovakia,



Tại Sân vận động Lokomotiva (Košice), Thứ ba, ngày 14 tháng 9 năm 2021

Các bạn trẻ thân mến, anh chị em thân mến, dobrý večer! [Chào buổi tối!]

Cha rất vui khi nghe những lời tốt đẹp của Đức Tổng Giám Mục Bernard, các chứng từ và câu hỏi của các con. Các con đã đặt ra ba câu hỏi và cha sẽ cố gắng tìm câu trả lời cho các con.



Cha bắt đầu với Peter và Zuzka, từ câu hỏi của các con về tình yêu lứa đôi. Tình yêu là giấc mơ lớn nhất đời người, nhưng nó không phải là giấc mơ rẻ tiền. Nó tốt đẹp, nhưng không dễ dàng, giống như mọi điều tuyệt vời trong cuộc sống. Đó là một giấc mơ, nhưng nó không phải là một giấc mơ dễ dàng giải thích. Cha mượn trộm một câu của các con: "Chúng con cần có đôi mắt hoàn toàn mới, đôi mắt không chỉ nhìn ngoại hình". Thực sự như các con đã nói, cần phải có một đôi mắt mới, một đôi mắt không bị vẻ bề ngoài đánh lừa. Các bạn thân mến, chúng ta đừng tầm thường hóa tình yêu, vì tình yêu không chỉ là tâm tình và cảm xúc, nếu có, thì cũng chỉ là một khởi đầu. Tình yêu không có mọi sự ngay bây giờ, nó không phải là một phần của nền văn hóa vứt bỏ của thời nay. Tình yêu là sự chung thủy, là ơn phúc, là trách nhiệm.

Ngày nay, thực sự độc đáo và cách mạng có nghĩa là nổi loạn chống thứ văn hóa phù du, chính là vượt quá các bản năng nông cạn và các khoái lạc nhất thời, chính là quyết tâm yêu thương suốt đời với cả con người mình. Chúng ta ở đây không phải để qua giờ, mà để biến cuộc sống thành một công việc phải lo toan. Nếu các con nghĩ tới những câu chuyện tuyệt vời mà các con từng đọc trong tiểu thuyết, từng xem trong một số bộ phim không thể nào quên, đã từng nghe trong một số câu chuyện cảm động, các con sẽ thấy, trong những câu chuyện tuyệt vời đó, luôn có hai thành tố: một là tình yêu, hai là phiêu lưu, anh hùng. Chúng luôn đi với nhau. Muốn làm cho cuộc sống trở nên tuyệt vời, cần có cả hai: tình yêu và đức tính anh hùng. Nếu chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu, nhìn lên Tượng Chịu Nạn, chúng ta sẽ thấy cả hai điều: tình yêu vô bờ bến và lòng dũng cảm hiến mạng sống cho đến cùng, không nửa chừng. Ở đây, trước mặt chúng ta là Chân phước Anna, một nữ anh thư của tình yêu. Bà nói với chúng ta rằng hãy nhắm các mục tiêu cao cả. Làm ơn, xin đừng để những tháng ngày của cuộc đời trôi qua như những tình tiết trong vở kịch ướt át.

Và khi mơ ước tình yêu, các con đừng tin vào những hiệu ứng ảo đặc biệt của phim ảnh (special effect), nhưng tin rằng mỗi người trong các con đều đặc biệt, mỗi người trong các con. Mỗi người đều là một hồng phúc và có thể biến cuộc sống, cuộc sống của chính mình, thành một hồng phúc. Nhiều người khác, xã hội, những người nghèo đang mong đợi nơi các con. Các con hãy mơ ước vẻ đẹp vượt quá ngoại hình, vượt quá trang điểm, vượt quá xu hướng thời trang. Các con đừng sợ hãi mơ ước thành lập một gia đình, hạ sinh và giáo dục con cái, dành cả cuộc đời để chia sẻ mọi điều với một người khác. Các con đừng xấu hổ về các lỗi lầm và thiếu sót của mình, vì có ai đó ở kia sẵn sàng chào đón và yêu thương các con, các con có thế nào họ yêu các con như vậy. Đấy là tình yêu: yêu người khác như họ vốn là, và điều này thật đẹp! Những giấc mơ của chúng ta cho chúng ta biết cuộc sống chúng ta muốn có. Những giấc mơ lớn không phải là một chiếc xe hơi mạnh mẽ, một bộ áo thời trang hay một kỳ nghỉ táo bạo (transgressive vacation). Các con đừng lắng nghe những người nói với các con về các giấc mơ nhưng thay vào đó lại rao bán cho các con các ảo tưởng. Mơ ước là một điều mà ảo tưởng lại là một điều hoàn toàn khác. Những người rao bán ảo tưởng bằng cách nói về những giấc mơ là những kẻ thao túng hạnh phúc. Chúng ta được tạo dựng vì một niềm vui lớn hơn: mỗi người trong chúng ta đều độc đáo và ở trên thế giới này để cảm thấy được yêu thương trong tính độc đáo của mình và yêu người khác như không ai có thể yêu thay thế mình. Đời sống không phải là một trò chơi, trong đó chúng ta ngồi chờ được gọi. Không, mỗi người là duy nhất trong mắt Chúa. Nên các con đừng bao giờ để mình bị “đồng nhất hóa” hay biến thành một món đồ vô danh trên dây chuyền lắp ráp. Không ai trong chúng ta là “vấn đề tiêu chuẩn”, chúng ta là duy nhất, tự do, và sống động, được kêu gọi sống một câu chuyện tình, chuyện tình với Thiên Chúa, để chấp nhận sự táo bạo thực hiện các lựa chọn cương quyết, để dấn thân vào tính rủi ro tuyệt vời của tình yêu. Nên Cha hỏi các con: các con có tin điều này không? Cha hỏi các con: các con có mơ ước điều này không? [họ trả lời: “Có!”] Các con có chắc không? ["có!] Rất tốt!

Cha muốn cho các con một lời khuyên khác. Để tình yêu đơm hoa kết trái, đừng quên cội nguồn. Và đâu là cội nguồn của các con? Cha mẹ và đặc biệt là ông bà. Hãy lưu ý: ông bà của các con. Các ngài đã chuẩn bị cơ sở cho các con. Hãy tưới tắm gốc rễ, hãy đến với ông bà của các con, điều đó rất tốt đối với các con: hãy hỏi các ngài những câu hỏi, dành thời gian để lắng nghe những câu chuyện của các ngài. Ngày nay, có nguy cơ mất gốc ngày càng lớn, vì chúng ta có khuynh hướng chạy, làm mọi điều một cách vội vàng: những gì chúng ta thấy trên internet có thể đến với chúng ta ngay lập tức tại nhà; chỉ một cú nhấp chuột và mọi người và mọi thứ xuất hiện trên màn hình. Những khuôn mặt này kết cục có thể trở nên quen thuộc hơn những gương mặt của gia đình chúng ta. Bị tràn ngập bởi các thông điệp ảo, chúng ta có nguy cơ đánh mất nguồn gốc thực sự của mình. Cắt đứt khỏi cuộc sống, mơ mộng viển vông, là điều không tốt, đó là cơn cám dỗ của kẻ ác. Thiên Chúa muốn chúng ta được trồng vững chắc trên mặt đất, được kết nối với sự sống; không bao giờ khép kín, nhưng luôn cởi mở đối với mọi người! Bám rễ và cởi mở. Các con có hiểu không? Bám rễ và cởi mở.

Đúng, đúng như thế, nhưng - các con sẽ nói với cha - thế giới nghĩ khác. Người ta nói nhiều về tình yêu, nhưng trên thực tế lại áp dụng một nguyên tắc khác: mỗi người tự nghĩ cho chính mình. Các bạn trẻ thân mến, đừng để mình bị ảnh hưởng bởi điều đó, bởi điều sai trái, bởi điều ác đang hoành hành. Đừng để bản thân bị giam cầm bởi nỗi buồn, bởi sự chán nản cam chịu của những người nói rằng sẽ không có gì thay đổi cả. Nếu các con tin vào điều này, các con sẽ mắc bệnh bi quan. Các con có thấy khuôn mặt của một người trẻ, một người trẻ tuổi bi quan chưa? Các con đã thấy họ có khuôn mặt như thế nào chưa? Một khuôn mặt cay đắng, một khuôn mặt cay đắng. Sự bi quan khiến chúng ta mắc bệnh cay đắng, nó khiến chúng ta già đi ở bên trong. Và các con già đi lúc còn trẻ. Ngày nay có quá nhiều lực lượng gây rối, quá nhiều người chuyên đổ lỗi cho mọi người và mọi thứ, những kẻ khuếch đại tính tiêu cực, những chuyên viên phàn nàn. Các con đừng lắng nghe họ! đừng, vì phàn nàn và bi quan không phải là Kitô hữu, Chúa ghét sự buồn bã và cho mình là nạn nhân. Chúng ta không được dựng nên để gián mặt vào mặt đất, nhưng để nâng cao tầm nhìn của chúng ta lên Thiên đàng, người khác, xã hội.

Và khi chúng ta xuống tinh thần - bởi vì mọi người trong cuộc sống đều có những lúc hơi xuống tinh thần một chút, chúng ta đều có trải nghiệm này - và khi chúng ta xuống tinh thần, chúng ta có thể làm gì? Có một phương thuốc không thể sai lầm giúp chúng ta hồi phục. Đó là những gì con đã nói với chúng ta, Petra ạ: Xưng tội. Các con đã nghe Petra chưa? [“Có!”] Phương thuốc Xưng tội. Các con hỏi Cha: "Làm thế nào một người trẻ có thể vượt qua các trở ngại trên đường đến với lòng thương xót của Chúa?" Đây cũng là một câu hỏi về việc phải nhìn sự vật ra sao, nhìn những điều đáng kể. Nếu Cha hỏi các con: "Các con nghĩ tới điều gì khi đi xưng tội?" - đừng nói lớn điều đó ra -, Cha gần như chắc chắn về câu trả lời: "tới tội". Nhưng - Cha hỏi các con, các con trả lời – các tội có thực sự là trung tâm của việc Xưng tội hay không? [“Không!”] Cha không nghe thấy... [“Không!”] Tốt lắm! Thiên Chúa muốn các con đến gần Người bằng cách nghĩ tới các con, tới tội lỗi của các con hay tới Người? Chúa muốn gì? Các con trả lời đi [tới Người!], Nói to hơn, Cha điếc tai... [“Tới Người!”] Đâu là trung tâm, các tội hay Chúa Cha là Đấng tha thứ mọi tội lỗi? Chúa Cha. Chúng ta không đi xưng tội như những người bị trừng phạt phải hạ mình xuống, nhưng như những đứa con chạy đến để đón nhận vòng tay của Chúa Cha. Và Chúa Cha nâng chúng ta lên trong mọi hoàn cảnh, Người tha thứ cho chúng ta mọi tội lỗi. Các con hãy nghe điều này cho rõ: Thiên Chúa luôn tha thứ! Các con có hiểu chưa? Thiên Chúa luôn tha thứ!

Cha cho các con một lời khuyên nhỏ: sau mỗi lần Xưng tội, hãy ở lại một vài giây phút để nhớ lại ơn tha thứ mà các con đã nhận được. Hãy giữ sự bình an đó trong trái tim các con, sự tự do mà các con cảm thấy ở bên trong. Không phải tội lỗi, là thứ không còn nữa, mà là sự tha thứ được Thiên Chúa ban cho các con, sự âu yếm của Thiên Chúa Cha. Các con hãy giữ điều đó, đừng để nó bị cướp mất. Và lần sau khi các con đi xưng tội, hãy nhớ điều này: Tôi sắp lại nhận được cái ôm đã giúp tôi rất nhiều. Tôi không đi đến một quan tòa để giải quyết các tài khoản, tôi đến với Chúa Giêsu, người yêu thương tôi và chữa lành cho tôi. Bây giờ, cha cảm thấy muốn đưa ra một số lời khuyên cho các linh mục: Cha muốn nói với các linh mục rằng các ngài nên cảm thấy mình đang thay mặt Thiên Chúa Cha, Đấng luôn tha thứ và bao dung và chào đón. Chúng ta dành cho Chúa vị trí thứ nhất trong việc xưng tội. Nếu Thiên Chúa, nếu Người là nhân vật chủ đạo, mọi sự đều trở nên đẹp đẽ và việc xưng tội trở thành Bí tích của niềm vui. Vâng, của niềm vui: không phải của sợ hãi và phán xét, nhưng là của niềm vui. Và điều quan trọng là các linh mục phải có lòng thương xót. Không bao giờ tò mò, không bao giờ tra vấn, nhưng, xin làm ơn, hãy để các ngài thành anh em biết trao ban ơn tha thứ của Chúa Cha, các ngài hãy là những người anh em đồng hành trong vòng tay Chúa Cha này.

Nhưng ai đó có thể nói: "Dù sao con vẫn xấu hổ, con không thể vượt qua sự xấu hổ của việc đi xưng tội". Không có vấn đề, đó là một điều tốt! Biết xấu hổ trong cuộc sống đôi khi lại tốt cho các con. Nếu các con xấu hổ, có nghĩa là các con không chấp nhận những gì các con đã làm. Xấu hổ là một dấu hiệu tốt, nhưng cũng giống như bất cứ dấu hiệu nào, nó yêu cầu phải tiến xa hơn. Đừng là tù nhân của sự xấu hổ, vì Thiên Chúa không bao giờ xấu hổ về các con. Người yêu các con ngay ở đó, ở chỗ các con đang xấu hổ về chính mình. Và Người luôn yêu các con. Cha nói với các con một điều không có trong bản văn nguyên thủy: Ở quê Cha, những kẻ trơ trẽn làm mọi điều sai trái, chúng tôi gọi họ là "đồ vô liêm sỉ".

Và một điều nghi ngờ cuối cùng: "Nhưng thưa Cha, con không thể tha thứ cho chính mình, nên cả Thiên Chúa cũng không thể tha thứ cho con, vì con sẽ luôn rơi vào những tội lỗi tương tự". Nhưng - nghe này – Thiên Chúa có bao giờ bị xúc phạm đâu? Người có bị xúc phạm khi các con đến xin tha thứ không? Không bao giờ. Chúa đau khổ khi chúng ta nghĩ Người không thể tha thứ cho chúng ta, vì điều đó chẳng khác nào nói với Người: “Tình yêu của Chúa không đủ mạnh!”. Cha dám nói điều ấy mới tồi tệ! Khi nói với Người rằng "Tình yêu của Chúa không đủ mạnh!". Thay vào đó, Thiên Chúa vui mừng khi tha thứ cho chúng ta, mọi lúc. Khi lượm chúng ta lên, Người tin tưởng chúng ta như thuở ban đầu, Người không bao giờ nản lòng cả. Chính ta mới nản lòng, Người thì không. Người không thấy tội nhân để dán nhãn, nhưng thấy những đứa con để yêu thương. Người không thấy những người làm sai, nhưng những đứa con yêu quý; có thể bị thương, và lúc đó thậm chí Người còn có lòng trắc ẩn và sự dịu dàng hơn nữa. Và mỗi khi chúng ta đi xưng tội – các con đừng bao giờ quên - đều có tiệc mừng vui trên Thiên đàng. Mong có cả điều đó trên trái đất!

Cuối cùng, Peter và Lenka ạ, các con đã trải qua thập giá trong cuộc đời. Cảm ơn chứng từ của các con. Các con hỏi làm thế nào để "khuyến khích giới trẻ đừng sợ hãi khi ôm lấy thập giá". Ôm: đó là một động từ tốt đẹp! Ôm giúp vượt qua nỗi sợ hãi. Khi được ôm, chúng ta lấy lại niềm tin vào bản thân và cuộc sống. Vì vậy, chúng ta hãy để cho mình được Chúa Giêsu ôm ấp. Bởi vì khi chúng ta ôm lấy Chúa Giêsu, chúng ta ôm lấy hy vọng. Thập giá không thể được ôm một mình; đau đớn tự nó không cứu được bất cứ ai. Chính tình yêu đã biến đổi nỗi đau. Vì vậy, với Chúa Giêsu, chúng ta hãy ôm lấy thập giá, không bao giờ ôm một mình! Nếu các con ôm lấy Chúa Giêsu, niềm vui sẽ được tái sinh. Và niềm vui của Chúa Giêsu, ngay trong đau đớn, được biến đổi thành bình an. Các bạn trẻ thân mến, các bạn trẻ thân mến ơi, cha cầu chúc cho các con niềm vui này, mạnh mẽ hơn bất cứ điều gì khác. Cha muốn các con đưa nó đến các bạn bè của các con. Không phải các bài giảng, mà là niềm vui. Các con hãy mang lại niềm vui! Không phải lời nói, mà là nụ cười, tình huynh đệ gần gũi. Cha cảm ơn các con đã lắng nghe Cha và Cha xin các con một điều cuối cùng: đừng quên cầu nguyện cho Cha. Ďakujem! [Cảm ơn!]

Xin mọi người hãy đứng lên và cầu nguyện với Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta, chúng ta hãy cầu nguyện với Cha của chúng ta: "Lạy Cha chúng con..." [bằng tiếng Slovak]

[Ban phước lành]

[*] Bài nguyên thủy dựa vào bản tiếng Ý, nay được sửa đổi sau khi tham chiếu Bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp
 
Bài giảng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Thánh Lễ tại Đền Thánh Quốc Gia Slovakia *
Vũ Văn An
19:48 15/09/2021

Bài giảng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Thánh Lễ


tại Đền Thánh Quốc Gia Đức Mẹ Sầu Bi ở Šaštin, Slovakia, Thứ tư, ngày 15 tháng 9 năm 2021

Trong Đền thờ Giêrusalem, Đức Maria đã trao Chúa Giêsu Hài đồng cho Ông già Simeon, người đã ẵm Chúa vào đôi cánh tay mình và nhìn nhận Người là Đấng Mêxia được sai đến để cứu rỗi Israel. Trong cảnh này, chúng ta chiêm niệm Đức Maria như ngài thực sự là: Ngài là Mẹ, Đấng ban cho chúng ta Con của Mẹ là Chúa Giêsu. Đó là lý do tại sao chúng ta yêu mến và tôn kính ngài. Và tại Đền thờ Quốc gia Šaštín này, người dân Slovak đến đây, với niềm tin và lòng sùng kính, vì họ biết rằng chính ngài là người đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu. Trong "khẩu hiệu" của Hành trình Tông đồ này có một con đường được vẽ bên trong một trái tim trên đó là cây Thánh giá: Mẹ Maria là con đường dẫn chúng ta vào Trái tim của Chúa Kitô, Đấng đã hiến mạng sống của Người vì yêu chúng ta.



Dưới ánh sáng Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta có thể chiêm ngắm Mẹ Maria như một gương mẫu đức tin. Và chúng ta nhận ra ba đặc điểm của đức tin: nó là hành trình, là lời tiên tri và là lòng cảm thương.

Trước hết, đức tin của Đức Maria là đức tin đặt ngài lên một cuộc hành trình. Người thiếu nữ Nadarét, ngay khi nhận được lời Thiên thần báo tin, đã “vội vàng lên vùng núi non” (Lc 1,39), để thăm hỏi và giúp đỡ bà Êlisabét, chị em họ của mình. Ngài không coi việc được kêu gọi trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế như một đặc ân; ngài không đánh mất niềm vui giản dị của lòng khiêm nhường sau khi được Thiên thần viếng thăm; ngài không đứng đó để chiêm ngưỡng bản thân, trong bốn bức tường của nhà ngài. Trái lại, ngài sống ơn phúc nhận được như một sứ mệnh phải hoàn thành; ngài cảm thấy cần phải mở cửa, ra khỏi nhà; ngài đã hiến mạng sống và thể xác cho sự nôn nóng mà với nó Thiên Chúa muốn vươn tới mọi người để cứu vớt họ bằng tình yêu của Người dành cho họ. Vì lý do này, Đức Maria đã lên đường: thay vì sự thoải mái của những thói quen, ngài thích những điều chưa biết của cuộc hành trình hơn, thay vì sự an toàn của căn nhà, ngài thích sự mệt mỏi của đường trường hơn, thay vì sự an toàn của một lòng đạo yên tĩnh, ngài thích rủi ro của một đức tin mang ra thực hành hơn, biến nó thành một ơn phúc yêu thương dành cho người khác.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy Đức Maria khi ngài bắt đầu cuộc hành trình: hướng về Giêrusalem, nơi ngài cùng với thánh Giuse, chồng ngài, ngài dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ. Và cả cuộc đời ngài sẽ là một cuộc hành trình theo Con của ngài, như môn đệ đầu tiên của Người, đến tận đồi Canvê, dưới chân Thập giá. Đức Maria luôn lữ hành.

Vì vậy, Đức Trinh Nữ là mẫu mực đức tin của dân tộc Slovak này: một đức tin lên đường, luôn được sinh động bởi lòng sùng kính đơn sơ và chân thành, luôn hành hương tìm kiếm Chúa. Và, khi bước đi, anh chị em vượt qua cơn cám dỗ của một đức tin tĩnh tụ, vốn hài lòng với một số nghi lễ hoặc truyền thống xưa. Thay vào đó anh chị em ra khỏi chính mình, mang các niềm vui và nỗi buồn trong ba lô, và biến cuộc sống thành một cuộc hành hương của tình yêu đối với Thiên Chúa và anh chị em mình. Xin cảm ơn vì chứng từ này! Và làm ơn, luôn luôn hãy ở lại trên đường. Đừng dừng lại! Và tôi cũng xin nói thêm một điều. Tôi nói: "Đừng dừng lại", vì khi dừng lại, Giáo hội sẽ bị bệnh; khi các giám mục dừng lại, các ngài làm cho Giáo hội bị bệnh; khi các linh mục dừng lại, các ngài làm cho dân Chúa bị bệnh.

Đức tin của Đức Maria cũng là một đức tin tiên tri. Bằng chính cuộc đời của ngài, người thiếu nữ Nadarét là một lời tiên tri về công trình của Thiên Chúa trong lịch sử, về hành động đầy thương xót của Người làm đảo lộn luận lý của thế gian, nâng cao kẻ khiêm nhường và hạ thấp kẻ kiêu ngạo (xem Lc 1:52). Ngài, đại diện cho mọi "người nghèo của Chúa", những người khẩn cầu Thiên Chúa và chờ đợi sự xuất hiện của Đấng Mêxia. Đức Maria là người Con gái Sion được các tiên tri của Israel loan báo (xem Xpn 3:14-18), Đức Trinh Nữ, Đấng sẽ thụ thai Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel (x. Is 7:14). Như Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria là biểu tượng cho ơn gọi của chúng ta: vì giống như ngài, chúng ta được mời gọi nên thánh và tinh tuyền trong tình yêu (x. Êp 1: 4), trở thành hình ảnh của Chúa Kitô.

Lời tiên tri của Israel lên đến tột đỉnh nơi Đức Maria, vì ngài mang trong lòng ngài Ngôi Lời của Thiên Chúa thành xác phàm là Chúa Giêsu. Người thực hiện đầy đủ và dứt khoát kế hoạch của Thiên Chúa. Về Người, ông Simeon nói với Mẹ của Người: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng" (Lc 2:34).

Chúng ta đừng quên điều này: không thể giản lược niềm tin thành đường ngọt làm cho cuộc sống dễ nuốt. Không thể có chuyện đó. Chúa Giêsu là dấu hiệu của mâu thuẫn. Người đến để mang ánh sáng tới nơi có bóng tối, đưa bóng tối ra ánh sáng và buộc nó phải đầu hàng. Vì lý do này bóng tối luôn đấu tranh chống lại Người. Ai nghinh đón Chúa Kitô và mở lòng ra cho Người, thì sẽ sống lại; bất cứ ai bác bỏ nó sẽ ở mãi trong bóng tối và hủy hoại chính mình. Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng Người không đến để đem lại hòa bình, nhưng là một lưỡi gươm (x. Mt 10:34): thật vậy, Lời Người, như một con dao hai lưỡi, đi vào đời sống chúng ta và tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, yêu cầu chúng ta lựa chọn. Người nói: "Hãy chọn". Trước mặt Chúa Giêsu, người ta không thể hâm hấp, nửa nóng nửa lạnh, “một bàn chân trong hai chiếc giày”. Không, anh chị em không thể làm thế. Nghinh đón Người nghĩa là chấp nhận để Người vạch ra các mâu thuẫn của tôi, các ngẫu thần của tôi, các cám dỗ của tôi; và Người trở nên sự sống lại cho tôi, Đấng luôn nâng tôi dậy, nắm lấy tay tôi và làm cho tôi bắt đầu lại. Người luôn nâng tôi dậy.

Và đó chính là những nhà tiên tri mà Slovakia cũng cần ngày nay. Tôi xin qúi hiền đệ, thưa các Giám mục: hãy là các tiên tri đang đi trên con đường này. Không phải là vấn đề thù nghịch với thế gian, mà là "dấu hiệu mâu thuẫn" bên trong thế gian. Những Kitô hữu biết cách thể hiện vẻ đẹp của Tin Mừng bằng cách sống của mình. Biết dệt nên cuộc đối thoại tại nơi các lập trường trở nên cứng ngắc; biết làm cho đời sống huynh đệ tỏa sáng, tại nơi xã hội thường chia rẽ và thù địch; biết lan tỏa hương thơm của lòng hiếu khách và tình liên đới tại nơi mà tính ích kỷ cá nhân và ích kỷ tập thể thường chiếm ưu thế; biết bảo vệ và canh giữ sự sống tại nơi luận lý của cái chết ngự trị.

Đức Maria, Mẹ của cuộc hành trình, đã lên đường; Đức Maria, Mẹ của lời tiên tri; cuối cùng, Đức Maria là Mẹ của lòng cảm thương. Đức tin của ngài đầy tính cảm thương. Người tự định nghĩa mình như “nữ tỳ của Chúa” (x. Lc 1:38) và là người, với tình chăm sóc mẫu thân, đã lo không để thiếu rượu trong tiệc cưới Cana (x. Ga 2:1-12), được chia sẻ với Chúa Con sứ mệnh cứu độ, cho đến tận chân Thập giá. Lúc đó, trong nỗi đau đớn tột cùng đã trải qua trên đồi Canvê, ngài hiểu rõ lời tiên tri của ông Simeon: “Một nhát gươm cũng sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Lc 2:35). Sự đau khổ của Người Con đang hấp hối, Đấng đã tự mình gánh lấy tội lỗi và đau khổ của nhân loại, cũng đâm thấu lòng ngài. Chúa Giêsu nát thịt nát xương, Con người đau đớn bị biến dạng bởi sự dữ (x. Is 53: 3); Đức Maria, bị tan nát trong tâm hồn, là Mẹ từ bi, đấng lau nước mắt cho chúng ta và đồng thời an ủi chúng ta, cho chúng ta thấy sự chiến thắng dứt khoát trong Chúa Kitô.

Và Đức Maria Sầu Bi, dưới chân thánh giá, đơn giản ở lại. Ngài đứng dưới chân thánh giá. Ngài không chạy trốn, ngài không cố gắng tự cứu mình, ngài không sử dụng công cụ của con người và thuốc gây mê tâm linh để thoát khỏi nỗi đau đớn. Đây là bằng chứng của lòng cảm thương: ở lại dưới chân thập giá. Ở lại với khuôn mặt đầy nước mắt, nhưng với đức tin của một người biết rằng nơi Con của ngài, Thiên Chúa đã biến đổi nỗi đau nỗi khổ và chiến thắng sự chết.

Và chúng ta cũng vậy, khi nhìn vào Đức Mẹ Sầu Bi Đồng Trinh, hãy mở lòng đón nhận một đức tin biết cảm thương, biết chia sẻ cuộc sống với những người bị thương tích, những người đau khổ và những người buộc phải vác thập giá nặng nề trên vai. Một đức tin không mãi trừu tượng, nhưng nhập thể vào tình hiệp thông với những người thiếu thốn. Đức tin này, mô phỏng phong cách của Thiên Chúa, một cách khiêm nhường và lặng lẽ, xoa dịu nỗi đau của thế giới và tưới tắm mảnh đất của lịch sử bằng ơn cứu rỗi.

Anh chị em thân mến, xin Chúa luôn gìn giữ gìn anh chị em biết kính phục, giữ cho anh chị em luôn biết ơn về hồng phúc đức tin! Và cầu xin Đức Maria Chí Thánh cầu bầu cho anh chị em được ân sủng để đức tin của anh chị em luôn ở trên đường đi, có hơi hướm tiên tri và là một đức tin đầy tình cảm thương.

* Bài nguyên thủy dựa theo bản tiếng Ý, nay sửa lại đôi chút sau khi tham khảo bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp
 
Văn Hóa
Sứ Vụ Truyền Giáo: Lời Cam Kết Của Thành Viên Phong Trào Cursillo
Lm. Antôn Phạm Trọng Quang, SVD
14:24 15/09/2021
Sứ Vụ Truyền Giáo: Lời Cam Kết Của Thành Viên Phong Trào Cursillo

1. Dẫn nhập

Buổi chiều ngày cuối cùng khóa “khóa ba ngày” của phong trào Cursillo, các tham dự viên được phát cho một “thẻ cam kết” để viết lên những điều mình muốn thực hiện trong môi trường mình sống sau khi khóa học kết thúc. Nói cách cụ thể, sau khi tham dự khóa học này, các thành viên đã tiếp thu được nhiều kiến thức cơ bản về thần học, giáo lý và sứ vụ truyền rao Tin Mừng theo tinh thần của Giáo Hội Công Giáo, nên họ được mời gọi tiếp tục thực hiện sứ vụ truyền giáo của mình trong môi trường mình đang sống. Anh chị em chúng ta gọi việc làm này là “sống tinh thần ngày thứ tư.”

Sau khi các tham dự viên viết những điều mình muốn thực hiện vào phiếu cam kết, họ giao lại cho Ban tổ chức. Trong thánh lễ kết thúc khóa học, cha chủ tế gọi tên từng người một lên, họ quỳ trước bàn thờ, chủ tế trao lại giấy cam kết cho họ cùng với lời căn dặn: “Giê-su tin tưởng con.” Họ thưa: “Tạ ơn Chúa.” Nghi thức này diễn tả sứ vụ truyền giáo mà các anh chị học viên đã đón nhận. Với sự tin tưởng của Chúa Ki-tô và lời kêu gọi của Giáo hội, họ bắt đầu “sống ngày thứ tư,” đó là làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh họ đang sống.

2. Nguồn gốc và ý nghĩa của lời cam kết

Chúng ta có thể tìm được nhiều câu trả lời cho câu hỏi này trong Kinh Thánh cũng như trong nhiều tài liệu của Giáo hội. Sứ vụ và lời cam kết loan báo Tin mừng của các thành viên trong Giáo hội, nhất là của các Cursillistas cũng được lý giải rất nhiều trong các tài liệu thần học. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài viết này tôi chỉ muốn sử dụng các ý tưởng được đề cập trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG) mà thôi. Hy vọng những lời dạy trong sách Giáo lý sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về ý nghĩa và trách nhiệm truyền bá Tin Mừng của chúng ta.

Trước hết, để khẳng định tính cần thiết và cấp bách của sứ vụ loan báo Tin Mừng, sách GLHTCG, số 1319 viết rằng: “Người muốn lãnh bí tích Thêm Sức phải là người đã đạt tới tuổi khôn, phải tuyên xưng đức tin, phải đang trong tình trạng ân sủng, có ý muốn lãnh nhận bí tích và được chuẩn bị để lãnh nhận vai trò môn đệ và chứng nhân của Đức Ki-tô, trong cộng đoàn giáo hội cũng như trong các lãnh vực trần thế.”

Vậy, là một Ki-tô hữu Công Giáo nói chung và một Cursillista (một thành viên của phong trào Cusillo) nói riêng, khi chúng ta có đủ sự khôn ngoan và hiểu biết, chúng ta có đủ điều kiện để lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, không gì khác ngoài việc để chúng ta làm chứng cho Chúa trong môi trường chúng ta đang sống, như gia đình, công xưởng, trường học... Chúng ta có trách nhiệm làm cho các môi trường sống này trở thành những môi trường Ki-tô giáo, môi trường lấy tinh thần Ki-tô giáo làm trung tâm cho đời sống của chúng ta, như lời cầu nguyện của Chúa Ki-tô “xin cho nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Kinh Lạy Cha).

Như vậy, bằng đời sống lấy tinh thần bác ái của Đức Ki-tô làm trung tâm, bằng việc theo chân Đức Ki-tô, chúng ta làm cho cuộc sống này thành môi trường của công bằng, yêu thương và bình an. Hơn nữa, bằng mọi hình thức và khả năng vốn có, chúng ta luôn biết trung thành đáp lại lời mời gọi của Chúa, chu toàn sứ vụ truyền bá Tin Mừng cách hăng say, phấn khởi và đầy nhiệt huyết.

3. Gia đình, môi trường rao giảng Tin mừng đầu tiên

Chúng ta thường nói “gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội.” Xã hội được hiểu như một cơ thể được cấu thành bởi nhiều tế bào khác nhau. Nếu muốn có một cơ thể khỏe mạnh và cường tráng cần phải có nhiều tế bào tốt, không gồm chứa mầm bệnh. Cũng vậy muốn có một xã hội công bằng, văn minh và thịnh vượng, cũng phải có các gia đình trong đó vợ chồng sống hòa thuận, con cái yêu thương nhau.

Các gia đình Ki-tô giáo cũng không ngoại lệ, chúng ta cần phải xây dựng một gia đình lấy Đức Ki-tô làm trung tâm cuộc sống chúng ta. Nếu các gia đình Công Giáo có ý thức xây dựng gia đình mình tốt đẹp như thế, chúng ta sẽ có một Giáo hội đầy tình yêu thương và lòng bác ái. Vì thế, việc rao giảng Tin Mừng trong gia đình là một việc làm hết sức cần thiết và cấp bách để có một Giáo hội lý tưởng như chúng ta mong muốn.

Chúng ta cùng nhau trở lại với sách GLHTCG để tìm hiểu xem Giáo hội giải thích làm thế nào để có được một Giáo hội lý tưởng như vậy. Vâng, sách GLHTCG số 2208 viết: “Gia đình phải sống thế nào để các thành viên của gia đình học biết quan tâm và biết đảm nhận việc chăm sóc những người trẻ và những người già, người đau yếu, người khuyết tật và người nghèo khổ.”

Việc chăm sóc người trẻ không gì khác là việc chăm sóc đời sống thể lý, tâm lý cũng như nhu cầu nhận biết đức tin của họ. Riêng với sứ vụ chăm sóc cho những người đau yếu, bệnh tật và những người nghèo khổ cũng là thực thi tinh thần bác ái đối với họ. Rất dễ nhận ra, khi chúng ta thực thi tất cả những việc này là chúng ta đang thực hiện tinh thần bác ái của Chúa Giê-su, qua lời mời gọi trong Sách Tin Mừng của Thánh Matthêu: “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ trần truồng áo mặc...” (Mt 25).

Không gì khác hơn, mục đích của những việc làm này là giúp các thành viên nhận biết sự hiện diện của Chúa Giê-su trong chính môi trường mà họ đang sống. Bởi khi được sống trong môi trường đầy tình yêu thương và bác ái này, họ sẽ nhận ra Chúa là Thiên Chúa duy nhất của gia đình họ. Nhờ vậy, mọi thành viên trong gia đình bắt đầu “có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian” (Gc 1,27).

Hơn thế nữa, sứ vụ truyền giáo chưa dừng lại ở môi trường gia đình nhưng Tin Mừng này cần tiếp tục được lan tỏa. Khi các thành viên đã tin nhận Chúa, khi họ đã nhận biết Chúa là trung tâm đời sống của mình, họ tiếp tục loan truyền tin vui này cho những người xung quanh. Tin Mừng này, vì thế còn được các thành viên truyền rao cho mọi thành viên trong xã hội. Nhờ có Tin Mừng, qua sứ mệnh của các thành viên, toàn gia đình nhân loại được thánh hóa và được làm con Thiên Chúa.

4. Sứ vụ Truyền giáo trong xã hội

Căn tính của Giáo hội là truyền giáo, sứ vụ của gia đình Ki-tô giáo là chia sẻ đức tin của mình cho mọi thành viên trong xã hội. Mọi thành viên của Giáo hội được sống trong môi trường xã hội này, chúng ta có tương giao với nhiều thành phần khác nhau. Chúng ta được đồng hành với toàn thể nhân loại, vì thế cần phải trở nên MEN để dậy bột Tin Mừng trong lòng mọi người, cần trở nên ÁNH SÁNG để soi sáng trần gian.

Nỗ lực truyền giáo này không chỉ là “một thoáng gió bay” hay chỉ làm một chốc lát, nhưng đòi hỏi một sự kiên tâm và nỗ lực rất phi thường. Vì con số những người chưa nhận biết Tin Mừng trong môi trường chúng ta đang sống còn quá lớn. Cho nên Sách GLHTCG số 854 hướng dẫn:

Công việc truyền giáo bắt đầu bằng việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc và các nhóm người chưa tin vào Đức Ki-tô; tiếp đến là thiết lập những cộng đoàn Ki-tô hữu, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trên trần gian, và thành lập những Giáo Hội địa phương; tiến trình hội nhập văn hóa được thúc đẩy, để Tin Mừng nhập thể vào các nền văn hóa của các dân tộc; tiến trình đó sẽ không thiếu lúc gặp sự chống đối.

Quả vậy, việc truyền giáo cho các dân tộc, cho các nền văn hóa khác nhau trở nên hết sức cần thiết. Dĩ nhiên, như đã nêu trên sứ vụ này không thể thực hiện được một cách vội vã, nhưng cần rất nhiều thời gian và sức lực. Sứ vụ truyền rao Tin Mừng này đôi khi chỉ bắt đầu bằng sự tiếp xúc gặp gỡ làm quen, sau đó mới thâm nhập dần dần và có hệ thống, ngoài ra còn phải có sự cộng tác của nhiều đoàn thể và thành phần trong Giáo hội.

Do vậy, để cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng được hiệu quả hơn, một lần nữa Sách GLHTCG hướng dẫn chúng ta: “Việc loan báo Lời Chúa không dừng lại nơi một lời giảng dạy nào đó: nó đòi hỏi sự đáp lại của đức tin, xét như một ưng thuận và dấn thân, để có một Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài” (số 1120). Với đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa, với phương châm lấy lời Chúa làm động lực để truyền giáo, hơn nữa với sức mạnh và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, hoa quả truyền giáo của các thành viên trong Giáo hội, đặc biệt các thành viên Cursillistas chúng ta chắc chắn sẽ trở nên phong phú và dồi dào hơn.

5. Nói thêm về Tân Phúc Âm Hóa gia đình.

Trên đây là những khái niệm về sứ vụ truyền giáo của Ki-tô hữu nói chung và của một Cursillista nói riêng. Nói đến khái niệm Truyền giáo theo giáo lý của Giáo hội nó chỉ mang tính lý thuyết và giáo huấn. Nhưng làm sao để chúng ta áp dụng tinh thần này vào môi trường chúng ta đang sống có hiệu quả?

Phần tiếp theo là kinh nghiệm mục vụ của bản thân tôi về việc truyền rao Tin Mừng cho đối tượng gần gũi chúng ta nhất, đó là cho các thành viên trong gia đình. Có hai điều cần lưu ý trong phần này, trước hết, mặc dầu tôi không sống đời sống gia đình, nhưng qua hơn 10 năm mục vụ trong thiên chức linh mục, tôi đã trải qua công việc giáo xứ, dạy học, mục vụ giới trẻ..., nên đã học được những bài học kinh nghiệm rất đáng quý để hôm nay được chia sẻ cùng mọi người. Ngoài ra, phần này tôi đặc biệt muốn “tiếp chuyện” với những người có đức tin Công Giáo, được rửa tội, được sống trong gia đình có đức tin Ki-tô giáo, nhưng vì nhiều lý do các thành viên gia đình họ không “thiết tha” với đời sống đức tin hoặc bỏ không giữ đạo nữa.

Như vậy, trong nhiều tình huống, việc truyền giáo trong gia đình được hiểu như là “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình,” nghĩa là chúng ta muốn nỗ lực để cho gia đình mình được trở lại sống theo tinh thần Phúc Âm, các thành viên trở về lấy đức Ki-tô làm trung tâm đời sống của họ.

Việc truyền giáo trong gia đình hay tân phúc âm gia đình được phân thành nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn có những cách thức giới thiệu Tin mừng riêng, với nhiều phương thức khác nhau, nhưng nội dung Tin Mừng đó vẫn không đổi, vẫn là câu chuyện về Đức Ki-tô, vẫn là niềm tin vào đạo thánh Thiên Chúa.

a. Chia sẻ đức tin bắt đầu từ việc giới thiệu Chúa cho người yêu.

Trong quá khứ, khi các bạn trẻ yêu nhau, họ thường tìm bạn cùng đạo hoặc đã biết nhau từ trước, vì cả hai đều trưởng thành trong một giáo xứ hay trong khu xóm. Tuy nhiên, ngày nay, cấu trúc xã hội thay đổi, khi tương giao của con người rộng rãi hơn, các bạn trẻ có nhiều cơ hội tìm quen những người khác tôn giáo, thậm chí khác sắc tộc và màu da.

Hiện tượng này ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, đối với các bậc cha mẹ và những ông bà lớn tuổi, đây là sự chọn lựa không tốt chút nào, cho nên họ bắt cấm đoán hoặc ngăn cản không muốn con cháu mình đến với những người không cùng tôn giáo. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy, những cấm đoán này thường không có hiệu quả, thậm chí thường đi đến bất thành, hay còn gây ra nhiều căng thẳng trong gia đình.

Với suy nghĩ cá nhân, tôi cho rằng, khi chúng ta quen được một người không cùng tôn giáo, chính là một cơ hội truyền giáo rất tốt. Nhưng trước hết, chúng ta cần ý thức rõ, nếu ta đang quen người bạn là người ngoại giáo hoặc không cùng tôn giáo với mình, thì ta phải có trách nhiệm chia sẻ câu chuyện về Chúa Giê-su cho họ. Nếu họ thực sự yêu thương và muốn sống với chúng ta đến trọn đời thì ngay đến tôn giáo của ta họ cũng sẽ chấp nhận. Trong trường hợp, nếu các bạn trẻ không ý thức được điều đó, chúng ta là bố mẹ hoặc ông bà, cũng có trách nhiệm giúp cho họ nhận biết đức tin ngay từ lúc ngày. Dĩ nhiên việc này không dễ dàng, nhưng nếu chúng ta ý thức rõ và tìm cách thực hiện thì sẽ chắc chắn sẽ hiệu quả.

Tôi có quen một gia đình, cả hai đều là thành viên của phong trào Cursillo, hai vợ chồng rất sốt sắng và đạo đức, sinh được ba người con. Ngay từ nhỏ các cháu đều được hướng dẫn đến nhà thờ tham dự thánh lễ và còn tham gia giúp lễ và các chương trình sinh hoạt giới trẻ trong giáo xứ. Nhờ vậy, các cháu rất ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập và khi lớn lên họ rất thành công trong công việc. Tuy nhiên, chỉ có người con cưới vợ người Công Giáo, vì họ biết nhau khi sinh hoạt giới trẻ của giáo xứ. Còn hai đứa con khác, một đứa quen một cô gái người Nam Mỹ không có đạo, còn một cô con gái quen người bạn trai được rửa tội theo đạo Tin Lành nhưng anh này lâu nay không đến nhà thờ.

Hai vợ chồng giáo dân nói trên ban đều rất buồn bã. Họ tâm sự với tôi về câu chuyện gia đình của họ và xin lời cầu nguyện. Tôi khuyên họ nên tìm cách nói với các con về cảm xúc và nỗi buồn của họ. Tôi cũng nhắc họ nên nói một cách chân thật, tránh sự tức giận, với mục đích chia sẻ cảm xúc và suy nghĩ chân thật của mình. Ngoài ra cũng cố gắng giải thích cho các con biết về sự ích lợi của những cuộc hôn nhân cùng đạo và thách đố của hôn nhân khác niềm tin. Sau khi nói ra hết suy nghĩ của mình, họ cũng cần kiên nhẫn lắng nghi suy nghĩ của các con.

Tôi rất khâm phục gia đình này, vì ban đầu các con của họ không quan tâm nhiều đến điều này, nhưng hai vợ chồng này không bỏ cuộc. Họ tiếp tục giữ các giờ kinh hàng ngày của gia đình, nhất là trong mùa Covid họ mời con các con của họ và mời luôn các những người bạn của các con vào dự các giờ kinh và chia sẻ Kinh Thánh. Sau hơn một năm, các con của họ sẵn sàng đi lễ, cầu nguyện và đồng hành với người yêu của họ học giáo lý tân tòng. Được biệt các con của họ đã sẵn sàng làm phép cưới theo nghi thức Ki-tô giáo.

Chúng ta chúc mừng gia đình này và tiếp tục cầu nguyện việc tân Phúc Âm trong gia đình của họ. Vơi nhiều gia đình Cursillitas, có thể công việc tân Phúc Âm hóa trong gia đình chúng ta không có kết quả nhanh như thế, tuy nhiên chúng ta cần ý thức rõ, giúp đỡ con cháu của mình hiểu biết vai trò của đức tin Ki-tô giáo là một việc truyền giáo đầu tiên trong gia đình chúng ta. Trong khả năng có thể chúng ta cứ tiếp tục cố gắng, bao giờ có hiệu quả, chúng ta cũng cần đến hoa quả của Chúa Thánh Thần.

b. Truyền giáo khi con còn trong lòng mẹ.

Ngày nay các vợ chồng trẻ trong quá trình người mẹ mang thai ưa thích chụp hình người mẹ với cái bụng bầu to tướng. Điều này cho thấy các cặp vợ chồng có cái nhìn rất thoáng và lạc quan về việc mình đang mang thai, và họ tỏ ra rất phấn khích khi đứa con trong dạ mẹ đang lớn lên từ từ. Hơn nữa, các vợ chồng trẻ ngày nay cũng có thói quen nói chuyện với con mình lúc chúng còn trong bụng mẹ.

Trò chuyện với con trong bụng, vì thế đã trở nên rất bình thường đối với các cặp vợ chồng trẻ. Các nhà khoa học chứng minh thai nhi vào kỳ tuần thứ 17 hoặc 18 đã nghe được nhịp đập trái tim từ người mẹ hoặc âm thanh máu chảy qua dây rốn, nên các bác sĩ khuyên những người làm bố làm mẹ có thể nói chuyện với con. Cũng theo các chuyên gia, đến khoảng tuần thai thứ 25 thai nhi sẽ nghe rõ được tiếng của người mẹ, của bố và những người xung quanh. Vì thế các nhà nghiên cứu khuyên bố mẹ nên nói chuyện với thai nhi, ngoài ra còn nên kể chuyện, cho nghe nhạc để kích thích trí não của trẻ được phát triển khỏe mạnh hơn.

Tôi có nói chuyện với nhiều người mẹ đang mang thai về chủ đề này, họ đều chia sẻ, khi họ nói chuyện với các thai nhi khi chúng còn trong bụng mẹ, chúng có những phản ứng rất rõ ràng. Tôi nhớ lại, Kinh Thánh kể lại, khi bà Elisabeth được Đức Maria đến thăm, bà nói rằng, khi Đức Ma-ri-a cất lời chào bà thì “đứa con trong bụng nhảy lên vui sướng” (Lc, 1, 44).

Qua những kiến thức trên đây chúng ta cũng có thể khẳng định, bố mẹ nên bắt đầu kể chuyện về Chúa Giêsu hoặc đọc Kinh Thánh cho con nghe khi con mình còn trong lòng mẹ. Điều này cũng nói lên vai trò giáo dục đức tin của cha mẹ đối với các con có thể bắt đầu từ lúc này. Bản thân tôi, tôi rất tin chắc các thai nhi có thể nghe được tiếng của chúng ta nên trong sứ vụ linh mục của mình, tôi thường chúc lành cho các thai phụ và cho cả những đứa con trong lòng của họ. Tôi mong họ luôn lớn lên trong sự bao bọc và che chở của Chúa.

c. Tiếp tục đồng hành và giáo dục đức tin khi bé đã được sinh ra đời

Người Công Giáo chúng ta luôn ý thức tầm quan trọng của việc đồng hành và giáo dục đức tin cho con cái chúng ta. Trong truyền thống của Giáo hội, khi bé được sinh ra ít ngày chúng ta đưa bé tới nhà thờ hoặc mời cha tới gia đình để rửa tội cho bé. Sau đó là quảng đường dài chúng ta đưa bé đến nhà thờ tham dự các thánh lễ, học giáo lý và tham gia các sinh hoạt tôn giáo khác để giúp các con thăng tiến về đời sống đức tin.

Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, khi những tư tưởng này lên ngôi, nhiều người cho rằng đức tin là món quà quý giá của Thiên Chúa, nhưng tự do cá nhân cũng cần được tôn trọng. Họ cho rằng phải chờ bé đến tuổi thành để bé tự quyết định chọn hay không chọn theo niềm tin tôn giáo của ông bà cha mẹ. Điều này khi mới nghe cảm thấy rất có lý, nhưng mặt trái và hậu quả là giới trẻ thường chọn đời sống phóng túng, thiếu chuẩn mực đạo đức, nên không màng chi đến đời sống đức tin và các sinh hoạt tôn giáo.

Như vậy, giới thiệu và lựa chọn đức tin và rửa tội cho bé ngay từ mới sinh luôn là một suy nghĩ đúng đắn nhất mà chúng ta cần khẳng định. Vì chúng ta biết con cái chúng ta cần gì, chúng ta biết đức tin là một yếu tố tối cần thiết cho một con người, cho nên ta cứ tự tin mà giới thiệu cho con mình, giúp chúng đón nhận đức tin đó ngay từ ban đầu. Có một cách nói tôi rất thích mà tôi muốn nhắc lại trong bài này, khi chúng ta biết thức ăn, áo mặc, chăm sóc y tế, giáo dục... là những nhu cầu tối cần thiết cho sự sinh tồn của các con, ngay từ nhỏ mình phải cung cấp cho con chứ không ai chờ tới con cái của mình trưởng thành mới hỏi chúng, “con có muốn ăn cơm không?” “con có cần đi học không?” “con có muốn đi bệnh viện không?” Lúc đó thật quá muộn, chờ tới lúc đó chắc con mình đã chết rồi.

Tóm lại, nếu chúng ta xác tín rằng, tôn giáo là một nhu cầu hết sức cần thiết của con người thì chúng ta phải giới thiệu và cho con mình lãnh nhận đức tin ngay từ lúc còn nhỏ. Dĩ nhiên, con cái chúng ta luôn nhìn vào cuộc sống chúng ta, chúng luôn bắt chước những gì chúng ta làm. Vì thế cần tạo gương sáng cho con, lời nói đi đôi việc làm. Nếu chúng ta rửa tội cho con mình, nếu chúng ta đưa các con mình tới nhà thờ tham dự thánh lễ thì chính chúng ta cũng phải giữ đạo cho sốt sắng để chúng cùng học theo. Ngoài ra, khi chúng ta là người Công Giáo thì chúng ta cũng phải trở thành người bố người mẹ tốt để tạo niềm tin và sự tự hào cho các con. Còn nếu chúng ta nói một đường làm một nẻo thì con cái sẽ không kính phục chúng ta, thậm chí còn khinh thường chúng ta. Chẳng hạn khi chúng ta đến với nhà thờ dự thánh lễ, chúng ta nói nhiều về Chúa, nhưng chúng ta đối xử bất công với người khác, chúng ta không rộng lượng với những người cần đến sự giúp đỡ của chúng ta, thì con cái không muốn tin vào đạo của chúng ta nữa. Đức tin Công Giáo lúc này chẳng còn quan trọng đối với chúng, việc xa nhà thờ, lơ là cầu nguyện là lẽ dĩ nhiên của các con.

d. Làm sao khi con mình thờ ơ với đức tin?

Một hiện tượng ngày càng phổ biến trong nhiều gia đình Công Giáo hiện nay, đó là ngay từ nhỏ chúng ta đã cho các con mình được rửa tội, chúng ta đã đưa chúng đến nhà thờ để tham dự thánh lễ và các sinh hoạt khác, tuy nhiên dần dần các bạn trẻ bắt đầu không thích các sinh hoạt của nhà thờ, không muốn tham dự thánh lễ, thậm chí còn bỏ đạo. Các bậc cha mẹ và ông bà rất buồn và thất vọng về những đứa con như thế này. Họ dùng bằng mọi cách để thuyết phục các con nhưng cuối cùng phải lắc đầu, thở dài vì thất vọng.

Tôi đã bàn luận với rất nhiều phụ huynh về hiện tượng này, nên tôi rất thông cảm với họ. Thật là buồn khi phải chứng kiến con mình nhạt nhẽo với đức tin mà mình đã gầy dựng xưa nay. Tôi cũng tìm hiểu rất nhiều và nói chuyện với các bạn trẻ, được biết, ngày nay các bạn trẻ tiếp xúc rất nhiều với nhiều thành phần xã hội, tiếp nhận quá nhiều thông tin. Xã hội thay đổi quá nhanh, trong khi những gì xảy ra trong nhà thờ chỉ là những sinh hoạt lặp đi lặp lại. Giới trẻ ngày nay phải đối diện nhiều áp lực về việc chạy đua với thông tin, cạnh tranh trong việc, giao tiếp rộng rãi... Họ phải phải học nhiều hơn, nỗ lực rất nhiều mới bắt kịp với những thay đổi đó, cho nên không còn một tâm hồn yên tĩnh để làm việc thờ phượng.

Ngoài những yếu tố xã hội nói trên, ngày nay giới trẻ đang sống trong một xã hội hoàn toàn dựa vào vật chất và tư tưởng thực dụng. Đối với giới trẻ, những gì họ học được trong nhà thờ đa phần không áp dụng vào đời sống hiện tại của học được. Họ bắt đầu có nhiều nghi vấn đề đức tin nhưng không biết hỏi ai, thậm chí khi họ nêu vấn đề thường bị người lớn hoặc chính cha mẹ và ông bà từ chối, thậm chí còn bị cho rằng họ có tư duy lệch lạc.

Như vậy, khi đối diện với tình huống này, thiết nghĩ cha mẹ cần dành nhiều thời gian hơn cho các con của mình. Chúng ta cần tập lắng nghe lời chia sẻ của con, điều gì chúng ta biết thì chúng ta nói để giúp các con hiểu thêm, còn điều gì chúng ta không biết thì thành thật nói rằng chúng ta không biết, để rồi cùng với các con của mình tìm câu trả lời. Tôi tin rằng nếu có sự đồng hành của chúng ta con cái sẽ có đủ sự tự tin để đi khám phá nhiều chân lý nhằm kiện toàn đức tin chính gia đình chúng ta.

e. Củng cố đức tin của bạn đời

Các gia đình Công Giáo ngày nay gặp khó khăn về mọi lĩnh vực. Chúng ta không chỉ gặp khó khăn và thách đố về việc giáo dục và hướng dẫn con cái mình giữ đạo, nhưng chúng ta còn gặp nhiều thách đố nghiêm trọng khác, như công việc không ổn định, sức khỏe giảm sút, vợ chồng bất hòa, xích mích với anh chị em họ hàng và bạn bè. Chính những lý do đó, nhiều gia đình đang sống trong tình huống “chiến tranh lạnh” hoặc có nguy cơ đổ vỡ gia đình. Vì những lý do đó khiến việc đạo đức của chúng ta cũng giảm sút. Kinh nghiệm cho thấy nhiều gia đình vì đối diện với những vấn đề trên mà trách móc Chúa, bất mãn với Giáo hội, dần dần thấy vai trò đức tin không giúp được gì nên lãnh nhạt với các giờ kinh nguyện, thậm chí còn lìa xa Chúa.

Trong giai đoạn này các gia đình nên hiểu rằng trong đời sống ngày hôm nay gia đình nào cũng phải đối diện với nhiều khó khăn và thử thách. Tôi xin nhấn mạnh, không chỉ có gia đình chúng ta mà hết mọi gia đình ít nhiều đang gặp khó khăn, vì thế, muốn vượt qua những khó khăn đó, chúng ta cần phải cậy trông vào Chúa nhiều hơn.

Là người chồng hãy học nơi thánh cả Giu-se. Kinh thánh kể rằng, khi người bạn đời mới đính hôn với mình có thai khi hai người chưa chung sống với nhau, ông Giu-se muốn âm thầm bỏ đi. Nhờ giữ được sự bình tĩnh, nhờ có chiều sâu tâm hồn và bền bỉ trong cầu nguyện, ông đã nghe được lời của Chúa qua lệnh truyền của thiên thần: “Này Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt, 1, 20).

Dẫu biết những lời thiên thần nói với ông chưa được chứng minh, tuy nhiên ông Giu-se đã sẵn sàng lắng nghe và chỗi dậy đón Đức Ma-ri-a về. Trong đời sống vợ chồng, lắm lúc chúng ta cũng gặp phải nhiều chuyện hiểu nhầm, thậm chí bị phản bội, nhưng nếu những người chồng biết lấy thánh Giu-se làm gương mẫu cho cuộc sống cho mình, biết bình tĩnh trước mọi vấn đề, thì các tình huống đó sẽ khả quan hơn, đồng thời tránh được những đổ vỡ của gia đình.

Cũng vậy, trong đồi sống hôn nhân, người vợ cũng gặp không ít khó khăn và thách đố. Ngày nay những người làm mẹ không chỉ có công việc nội trợ hay chăm sóc gia đình, nhưng còn phải bận rộn với công việc ngoài xã hội. Khi phải đảm nhiệm nhiều công việc khiến chúng ta dễ nóng nảy, thiếu tế nhị trong lời ăn tiếng nói, dễ trách móc người khác..., vì thế, người vợ hãy học gương của Đức Ma-ri-a, biết bình tâm, dành nhiều sự quan tâm cho các thành viên trong gia đình mình.

Câu chuyện gia đình Na-gia-rét lên đền thờ dự Lễ Vượt Qua là một bài học rất quý giá. Khi Đức Giê-su được 12 tuổi, cả gia đình lên Giê-ru-sa-lem dự lễ, sau khi kết thúc, trên đường trở về Đức Ma-ri-a phát hiện mình đã lạc mất con, Đức Ma-ri-a đã cùng với thánh Giu-se vội vã trở lại đền thờ để tìm con. Khi tìm thấy con, Đức Mẹ đã sửng sốt và tỏ vẻ không hài lòng, mới nói: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con,” (Lc 2, 48). Nhưng sau khi nghe Chúa Giê-su trở lời: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Đức Ma-ri-a mặc dầu chưa hiểu lời của Chúa Giê-su nhưng Mẹ đã giữ bình tĩnh, không nói gì thêm mà chỉ suy gẫm trong lòng.

Vậy, đời sống gia đình ai cũng gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các thành viên gia đình mất niềm tin vào Chúa và vào Giáo hội. Không chỉ có con cái của mình mất đức tin mà các bạc cha mẹ cũng không thấy đức tin quan trọng cho gia đình mình, không lấy Chúa làm trung gian của gia đình mình. Vì thế, các bậc cha mẹ hãy bình tĩnh, dành nhiều thời gian cho nhau hơn, cùng nhau hâm nóng lại tình yêu gia đình. Trong quá trình mục vụ, tôi thấy nhiều gia đình kỷ niệm 10 năm, 15 năm, 25 năm hôn phối... Đây là những cơ hội rất quý hóa giúp họ hâm nóng lại tình yêu như ban đầu và tìm lại được niềm tin mãnh liệt vào Chúa và vào người bạn đời của mình.

f. Chuẩn bị hành trình mới

Khi tôi nói chuẩn bị một “hành trình mới”, tôi muốn ám chỉ việc chuẩn bị cho “hậu sự,” chuẩn bị cho sự thật sẽ xảy đến cho chúng ta, đó là cái chết. Người Việt chúng ta rất kỵ hoặc tránh bàn đến cái chết, tuy nhiên chết là một sự thật mà không ai thoát khỏi được. Đối với người Công Giáo, vì chúng ta tin có đời sau, chúng ta tin rằng chết không phải là hết, nhưng sẽ bắt đầu một sự sống mới. Sau khi chết con người phải đối diện với sự phán xét. Thiên Chúa sẽ thưởng công cho những ai có ân nghĩa với Ngài và sẽ trừng phạt những ai không thực thi lời dạy của Chúa.

Đây là điều rất quan trọng trong đức tin của Giáo hội, vì thế khi về già chúng ta phải chuẩn bị cho mình những giây phút yên tĩnh hội tâm lại những gì xảy ra trong cuộc đời mình nhằm thấy được muôn vàn hồng ân Chúa ban cho riêng mình và cho gia đình. Chúng ta tỏ lòng biết ơn Chúa nếu chúng ta có lỗi phạm đến ai thì chúng ta và nếu có những lỗi lầm thì cầu xin sự tha thứ của Chúa. Chúng ta không chỉ giúp mình chuẩn bị tâm hồn và còn giúp người bạn đời chúng ta nữa, để khi đối diện với cái chết cả hai đều được trong sạch và hiên ngang vào nghênh đón Chúa Ki-tô.

Có nhiều người lớn tuổi khi thấy con cháu thờ ơ với đức tin, họ đã dùng mọi cách để khuyên dạy chúng nhưng chúng không nghe nên rất buồn và thất vọng. Nhưng tôi cho rằng cơ hội để biến đổi con cháu vẫn còn đó. Tôi nhớ lại, khi mục vụ tại Đài Loan, một lần khi có một giáo dân qua đời, khi con cháu đọc trong tờ lối, người mẹ quá cố đã ghi, khi bà chết con cháu phải làm đám tang theo nghi thức Công Giáo. Đặc biệt, bà yêu cầu các con cháu tham dự lễ tang và trước khi tham dự thánh lễ phải đi xưng tội để rước lễ cho xứng đáng.

Các con cháu đọc được điều này đã buồn lại còn rất lo lắng. Họ cảm thấy rất hối hận vì bao năm lo chạy đua kinh tế, không nghe lời của mẹ để giữ đạo cho trọn. Hôm nay đứng trước cái chết của mẹ họ không có một lý do gì để chối từ, hoặc họ phải làm theo hoặc họ bị coi là bất hiếu. Tôi nhớ rất rõ, khi họ đến gặp tôi họ trình bày sự việc một cách rất thành khẩn. Trước khi giải tội cho họ, tôi đã dành nhiều ngày để tiếp tục, đồng hành và giúp họ chuẩn bị thánh lễ an táng của người mẹ thân yêu của họ. Thật may mắn cho tôi, tôi được nghe nhiều câu chuyện về người mẹ quá cố, tôi đã chứng kiến sự thành tâm trở lại của những người con, người cháu của bà cụ. Bà cụ đã về với Chúa nhưng công việc tân Phúc Âm hóa vẫn còn đó, bà đưa hết thảy các con các cháu về với Chúa, với Giáo hội.

Thật là thú vị, người quá cố không chỉ có yêu cầu con cháu tham dự thánh lễ an táng, bà còn chuẩn bị tiền lễ để xin lễ tuần bảy, 49 ngày, 100 ngày..., bà còn yêu cầu con cháu tham dự các thánh lễ này. Đây là một trường hợp rất đặc biệt, sau đó tôi đã rất gần gũi với gia đình này, tôi thấy họ đã trở lại, đi lễ thường xuyên, đưa các cháu vào đạo. Những năm sau tôi thấy họ còn tham các Hội đoàn, được bầu vào thành viên Hội Đồng Mục Vụ.

Đây là một câu chuyện rất đặc biệt nên tôi thường kể cho giáo dân của mình. Tôi cũng không quên khuyên mọi người bắt đầu chuẩn bị cho cái chết. Khi chuẩn bị hậu sự hãy viết rõ trong tờ lối để cách gián tiếp giúp các thành viên xa bỏ đức tin trong gia đình mình (nếu có) trở về với Chúa, với Giáo hội.

6. Tân Phúc Âm hóa và Mục vụ giới trẻ

Như phần đầu của bài thuyết trình tôi đã trình bày, công việc truyền giáo bất đầu từ gia đình, sau đó đức tin phải được truyền ra ngoài xã hội. Nhất là các Cursillistas, chúng ta được mời gọi làm cho môi trường sống và làm việc của chúng ta thành môi trường Ki-tô giáo, môi trường lấy tinh thần bác ái của Đức Giê-su làm trung tâm đời sống của chúng ta. Đó là sứ vụ cao quý mà Chúa giao cho chúng ta, đó là cách chúng ta thực hành tinh thần ngày thứ tư, đó là cách thức chúng ta thực hiện lời cam kết sau Khóa Ba Ngày kết thúc.

Là một linh mục thuộc dòng truyền giáo, tôi ý thức rất rõ về sứ vụ truyền giáo của mình. Nhất là đầu mùa Xuân năm 2010, tôi được mời tham gia Khóa Ba Ngày của phong trào Cursillio tại Giáo Phận Gia Nghĩa, Đài Loan, tôi càng thấy sứ vụ truyền giáo cho những người trẻ càng cấp bách hơn. Thực sự năm đó tôi vừa lãnh nhận thiên chức linh mục được một năm, trong lòng tôi còn đầy những kế hoạch muốn làm, tất cả nhằm để mang ánh sáng của Chúa Ki-tô đến cho những anh chị em chưa nhận biết Ngài.

a. Tân Phúc Âm hoa cho giới trẻ giáo xứ

Giáo xứ nơi tôi mục vụ là giáo xứ thuộc nhà thờ chánh tòa, là một giáo xứ có hơn 2000 giáo dân ghi danh, nhưng chỉ có khoảng hơn 200 giáo dân tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật. Một điều rất phổ biến trong nhà thờ Công Giáo ngày nay, hơn nữa đa số những người tham dự đều là người cao niên và giáo xứ thiếu vắng những người trẻ.

Khi được bổ nhiệm về mục vụ ở giáo xư này, khi, tôi bắt đầu gặp gỡ giáo dân của mình, tôi chủ động đặt vấn đề làm sao tiếp xúc được với với giới trẻ: Làm sao đưa những bạn trẻ đã được rửa tội nhưng xa nhà thờ về với Giáo hội? Làm sao tiếp cận được với các bạn không Công Giáo? Sau khi tiếp thu được nhiều ý kiến, tôi bắt đầu đi thăm các gia đình có người trẻ để qua bố mẹ các em tôi được nói chuyện với các bạn trẻ. Tôi chủ động vào các nhà trường gặp gỡ các thầy cô giáo để xin mở các lớp đọc Kinh Thánh tiếng Anh, thậm chí cùng với một số giáo dân nhiệt thành ra các công viên xem các bạn trẻ đang sinh hoạt, chơi thể thao với họ với mục đích để làm quen và tiếp chuyện với họ.

Sau hơn hai năm cố gắng, giáo xứ chúng tôi đã gầy dựng được một nhóm giới trẻ khoảng 30 em, thành lập ban nhạc trẻ, thành lập nhóm giới trẻ đọc Kinh Thánh... Điều mới mẻ mà chúng tôi thường tự hào, đó là giới trẻ chúng tôi không chỉ có sinh hoạt trong giáo xứ mà còn tham gia các cuộc thi Kinh Thánh cấp giáo phận, phục vụ người già và trẻ khuyết tật có định kỳ, biểu diễn văn nghệ tại Trung Tâm văn hóa của thành phố khi có sự kiện lớn, giao lưu thể thao và thảo luận các chủ đề xã hội với các nhóm giới trẻ khác... Mục đích của chúng tôi là để củng cố đức tin cho giới trẻ và huấn luyện giới trẻ chia sẻ đức tin cho các bạn đồng trang lứa của mình theo những phong cách riêng của họ.

b. Tân Phúc Âm hóa trong trường học.

Vì biết tôi có nhiệt huyết và khả năng làm việc với giới trẻ, bề trên đã bổ nhiệm tôi vào làm tuyên úy và dạy học trong trường Công Giáo thuộc nhà dòng. Tôi còn được bổ nhiệm làm chủ nhiệm văn phòng mục vụ giới trẻ của nhà dòng và kiêm luôn văn phòng mục vụ giới trẻ của Hội Đồng Giám Mục Đài Loan. Khi có trong tay mọi cơ hội, thú thật tôi rất tự hào khi mục linh mục người Việt được người Đài Loan tín nhiệm. Tuy nhiên điều đó chỉ là cảm xúc qua, ngược lại, tôi ý thức rất rõ về trách nhiệm của mình, về việc đi tìm chiên lạc và dẫn chúng về với Giáo hội, đồng thời loan báo Tin Mừng cho giới trẻ chưa nhận biết Chúa.

Như chúng ta đã biết, Đài Loan là một trong những đất nước có nền kinh tế rất phát triển ở Châu Á, đã từng được gọi là một trong bốn con rồng Châu Á về công nghệ thông tin và vi tính. Trước tình hình đó, các gia đình luôn luôn chạy đua với việc làm kinh tế, nên thông thường mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai người con. Quan niệm của những phụ huynh, đó là chịu khó và chịu khổ kiếm tiền để cung cấp cho các con đi học. Như thế đồng nghĩa với con cái của họ được bố mẹ nuông chiều. Ngoài ra họ cũng coi trọng bằng cấp, chạy đua vật chất, tự do cá nhân... Nhìn chung phong cách sống của các bạn trẻ Đài Loan rất giống với cách sống của giới trẻ phương Tây, nhất là sùng bái văn hóa giới trẻ Mỹ. Là người Châu Á, nhưng họ chỉ thích xem phim Mỹ, chơi bóng chày, bóng rổ, ăn McDonald và KFC...

Tóm lại, người Đài Loan đề cao khoa học, tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, đồng nghĩa việc xem nhẹ đời sống thiêng liêng, vai trò của tôn giáo, gia đình, và cộng đoàn.... Thấy được những lỗ hổng đó của xã hội, trong chương trình giáo dục Công Giáo, chúng tôi nhấn mạnh nhu cầu phát triển con người toàn vẹn cho giới trẻ. Ngoài việc hướng dẫn giới trẻ đạt được kiến thức văn hóa, chúng tôi còn giúp học sinh bồi dưỡng những tức tính Nhân, Nghĩa, Lễ, Tín, Hòa...

Thực ra chính phủ Đài Loan cũng ý thức được sự hạn hẹp của giới trẻ về cái nhìn quốc tế, vì Đài Loan loan bị Trung Quốc hạn chế trong việc giáo lưu với các nước trên thế giới. Chính vì vậy bộ giáo dục thúc đẩy chương trình Service, Learing and Experience of Life (Tạm dịch là Tình Nguyện, Học Hỏi và Trải Nghiệm Cuộc Sống), nhằm giúp giới trẻ, ngoài việc học văn hóa còn biết quan tâm đến người khác và xã hội. Trong chính sách giáo dục, chính phủ yêu cầu các học sinh phổ thông phải có ít nhất 30 giờ làm tình nguyện mới đủ điều kiện để tốt nghiệp. Khi học đại học các sinh viên còn phải hoàn hoàn 20 giờ tình nguyện khác. Để giúp các bạn trẻ hoàn thành yêu cầu ngày các trường học cũng phối hợp với các cơ quan và tổ chức xã hội để giúp học sinh hoàn thành chương trình tình nguyện này.

Không chỉ có hướng dẫn học sinh làm công tác tình nguyện trong nước mà Chính phủ Đài Loan còn khích lệ và tài trợ cho các chuyến đi tình nguyện và trải nghiệm cuộc sống ở nhiều nước khác nhau. Các chương trình tình nguyện này còn giúp chính phủ đạt được khẩu hiệu “để thế giới nhận biết Đài Loan” (讓世界看到台灣). Mục đích giáo dục và ngoại giao đã rất có hiệu quả, vì các trường học hàng năm đã dẫn giới trẻ xứ Đài đi khắp năm Châu để thực hiện chương trình này, đi đến đâu đều rất thích các địa danh cùng với lá cờ của Đài Loan rồi báo cáo cho chính phủ.

c. Tình nguyện Việt Nam và truyền giáo

Nắm rõ được chính sách của ngành giáo dục, hiểu được nhu cầu hoàn thành chương trình tình nguyện của học sinh, tôi quyết định lên kế hoạch đưa học sinh ra nước ngoài làm tình nguyện. Còn nơi đến ư? Dĩ nhiên, với tư cách là người Việt, tôi chọn Việt Nam là nơi đến hợp lý nhất.

Tôi nhớ lại, chương trình sinh viên tình nguyện Việt Nam được bắt đầu từ năm 2011, mỗi năm cứ đến mùa hè chúng tôi đều hăm hở hành trình về Việt Nam. Thời gian cho mỗi chuyến đi kéo dài 14 ngày. Thông thường hàng năm đoàn gồm từ 30 đến 35 người, trong đó có hai giáo viên cùng đồng hành.

Chương trình tình nguyện của chúng tôi bao gồm tìm hiểu văn hóa phong tục Việt Nam qua sáu ngày du lịch, hai ngày giao lưu với giới trẻ giáo xứ, bốn ngày giúp trẻ mồ côi, một ngày thăm người già và người bệnh tật. Trong thời gian gian đi du lịch chúng tôi nghỉ tại các Trung Tâm Hành Hành Hương hoặc các Nhà Dòng, còn những ngày làm việc chúng tôi liên hệ với các gia đình giáo dân, phân chia các em từng hai hai người một ở tại các gia đình, chúng tôi gọi là “home stay.” Nói chung, trong suốt thời gian ở Việt Nam các em học sinh và giáo viên đã trải nghiệm một cuộc sống hết sức giản đơn. Điều đặc biệt, khoảng 80 phần trăm trong tổng số học sinh đều là lương dân, nhưng trước khi đăng ký đi Việt Nam, tôi yêu cầu họ phải tham dự thánh lễ và dự các giờ cầu nguyện hằng ngày của nhóm.

Thực ra năm đầu tiên kêu gọi các học sinh đăng ký đi Việt Nam làm tình nguyện chúng tôi đã gặp rất nhiều khó khăn, vì người Đài Loan cho rằng Việt Nam là đất nước lạc hậu về kinh tế, lại là đất nước Cộng sản. Tôi phải đi thuyết phục từng giáo viên, nhờ họ động viên các phụ huynh cho con của tham gia. Thật may, năm không bao lâu chúng tôi đã tuyển chọn đủ số lượng học sinh để kể hoạch được hình thành. Sau đó chúng ta dành trọn bốn tháng để huấn luyện học sinh.

Theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục, tôi thu tập thông tin rồi giới thiệu cho các em về đất nước Việt Nam, về giáo xứ và giới trẻ quê hương của tôi, về Trung Tâm Mồ Côi Dòng Bác Ái nơi chúng tôi sẽ làm tình nguyện. Tiếp đó, chúng tôi phân chia học sinh thành nhiều nhóm, mỗi nhóm phụ trách một công việc, trong đó có nhóm thuyết trình chủ đề, nhóm sinh hoạt, nhóm phụng vụ, nhóm thư ký và thông tin, nhóm hậu cần...

Trong thời gian chuẩn bị, chúng tôi gặp nhau hai tuần một lần. Tôi giải thích cho học sinh công việc cần làm sau đó các em tự phân chia nhiệm vụ theo khả năng của từng em. Khi được phân công, học sinh của tôi làm việc rất có ý thức và có tổ chức. Họ chuẩn bị rất kỹ càng nên khi đến Việt Nam họ trở thành một nhóm làm việc rất tự tin và đầy tính chuyên nghiệp.

Tôi biết những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam phát triển rất nhanh nhưng người Việt không để ý việc bảo vệ môi trường, trong khi đó bên Đài Loan người dân rất chú tâm việc bảo vệ môi trường mình sống, cho nên chúng tôi chọn đề tài về môi trường để chia sẻ cho người Việt. Thật là thú vị, nếu tôi nói với người Việt về tư duy và cách thức bảo vệ môi trường sống của người Đài Loan thì họ sẽ cho rằng tôi đang “khoe khoang,” nhưng khi học sinh của tôi trình bày và chia sẻ nội dung này thì người Việt đã chăm chú lắng nghe và tỏ ra nể phục. Cũng thật đáng khen, trong thời gian làm việc tại Việt Nam, ban ngày học sinh của tôi chia sẻ với các bạn trẻ; buổi tối, được phép của cha xứ, họ truyết trình cho cả cộng đoàn giáo dân. Khi thực hiện các buổi thuyết trình thế này, học sinh của tôi cảm thấy rất tự hào, vì lúc này họ là “thầy giáo,” lúc này họ là người cho chứ không phải người nhận, nhất là họ được chia sẻ trước hàng trăm giáo dân.

Như đã đề cập trên đây, nhóm tình nguyện của tôi đa số là người lương, nhưng trong suốt hai tuần họ sống trong gia đình Công Giáo, ngày nào họ cũng đi tham dự thánh lễ với chủ nhà. Ngoài ra, cứ mỗi buổi sau khi làm việc xong, chúng tôi hướng dẫn các em đọc kinh, hát thánh ca và chia sẻ những cảm nhận để cho nhau, cho nên sau chuyến đi, họ rất có thiện cảm với Giáo hội và với các việc đạo đức thiêng liêng.

Tôi tin chắc quý vị đã hiểu được sứ vụ truyền giáo của tôi dành cho các bạn trẻ học sinh của tôi. Tôi không ép buộc họ phải theo đạo. Nhưng tôi luôn tạo điều kiện để các bạn trẻ có cơ hội tiếp xúc với nhà thờ, tiếp xúc với giáo dân và tham dự các giờ cầu nguyện của Giáo hội. Tôi cũng luôn để mắt theo dõi từng em, nhìn xem trong quá trình tham gia tình nguyện, em nào có thiện cảm đặc biệt với Giáo Hội Công Giáo, tôi bắt đầu mời họ tham dự các lớp giáo lý dự tòng.

Chương trình giáo lý dự tòng đã có sẵn trong trường học. Học kỳ nào cũng thế, tôi có các lớp Kinh Thánh và hai lớp giáo lý dự tòng, một lớp dành cho giáo viên và các nhân viên làm việc trong nhà trường, một lớp dành cho các em học sinh. Dĩ nhiên, tôi chỉ đóng vai trò đồng hành trong các lớp giáo lý và Kinh Thánh này, còn các giáo lý viên là các giáo viên người Công Giáo đạo đức và thường đến nhà thờ.

Như vậy việc truyền giáo dành cho giới trẻ phải được thực hiện một cách nhẹ nhàng và tế nhị. Việc chia sẻ đức tin không thể thực hiện cách vội vàng. Nói cách khác, trong công việc truyền giáo chúng ta không thể gặt hái kết quả ngay nhưng phải kiên trì chờ đợi trong một thời gian rất lâu dài. Kinh nghiệm cho thấy, sau mỗi lần làm công tác tình nguyện ở Việt Nam về, tôi có được khoảng mười em học sinh được mời đến học giáo lý, nhưng sau hơn một năm, chỉ có hai hoặc ba em sẵn sàng rửa tội gia nhập Giáo hội Chúa.

d. Kiến tạo một ngôi nhà đức tin mới

Chưa dừng lại đó, việc truyền giáo cần phải có sự phối hợp với nhiều thành phần trong Giáo hội. Đối với tôi, là giáo viên trong trường học, chủ nhiệm các văn phòng mục vụ giới trẻ của nhà dòng và của Hội Đồng Giám Mục, tôi có nhiều nhân viên và thư ký làm việc trong các văn phòng này, vì thế tôi giới thiệu học sinh của tôi cho họ, nhờ họ hướng dẫn thêm. Nhờ phương thức này, các học sinh của tôi mới bắt đầu biết thông tin về Giáo xứ và các cơ sở Công Giáo. Họ được mời tham gia các sinh hoạt của Giáo hội, qua đó họ nhận ra Giáo hội là ngôi nhà mới của họ. Đây là một việc làm hết sức quan trọng, vì sau mấy năm học tập, khi tốt nghiệm các em học sinh của tôi cần có “ngôi nhà” đầy tình thương này, họ cần có những người bạn trong giáo xứ để họ luôn sẵn sàng trở về.

Tôi hy vọng quý vị tiếp tục lắng nghe câu chuyện truyền giáo của tôi, câu chuyện liên quan đến phong trào Cursillo của chúng ta. Thật vậy, sau khi tôi tham gia khóa huấn luyện hóa ba ngày, tôi trở thành một Cursillista. Chưa dừng lại, tiếp đó tôi được mời làm cha linh hướng cho phong trào Cursillo của Giáo phận Gia Nghĩa, vì thế tôi có nhiều điều cam kết muốn thực hiện cho phong trào, nhưng tôi cũng phải đối diện với nhiều thử thách cam go.

Dẫu sao, với lòng khiêm tốn và kiên trung, tôi đã thuyết phục các anh chị trong Ban điều hành, mỗi năm khi tổ chức các khóa mới, chúng tôi nhắm vào việc tìm kiếm các bạn trẻ đến tham dự, vì trong mấy năm tham gia, tôi thấy đa số các thành viên đều là thành phần cao niên. Khi tôi đưa ra ý tưởng này đã gặp phải nhiều nghi ngờ, thậm chí bị phản đối, tuy nhiên mỗi lần tổ chức khóa tôi đều mời được bốn hoặc năm em học sinh của tôi, những người mới được rửa tội sau những chuyến đi tình nguyện ở Việt Nam.

Thật là kỳ diệu, khi có người trẻ tham dự, ban tổ chức đã phải có một số điều chỉnh trong cách tổ chức, nhưng đổi lại, phong trào Cursillo của chúng tôi đã trở nên mới mẻ hơn, có nhiều sức sống hơn, nhất là sau trở thành những Cursillistas, họ đã cống hiến rất nhiều trông các chương trình sinh hoạt và phụng vụ của Giáo phận và Giáo xứ.

7. Lời Kết

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn Ban Chấp Hành Trung Ương đã mời tôi chia sẻ bài Rollo cho Ngành Tiếng Việt của Kỳ Đại Hội thứ 31 toàn quốc này. Đặc biệt tôi xin cảm ơn các anh chị người Việt chúng ta đã chăm chú lắng nghe tôi trình bày về đề tài này từ đầu đến cuối. Như các anh chị đã được giới thiệu, chủ đề chính của Đại Hội năm nay là cùng nhau phản tỉnh về Linh Đạo Dưới Ánh Sáng của Tin Mừng Đức Giê-su (Charism in the light of the Gospel of Jesus).

Riêng trong giờ Rollo về tu đức này, chúng ta chọn chủ đề “Lời Cam Kết và Khuôn Phép Của Người Lãnh Đạo Phong Trào Curisillo” (Commitment and Discipline of the Cursillo Leaders). Vì lý do thời gian hạn hẹp, sau khi bàn thảo với Ban Chấp Hành Trung Ương, chúng tôi đi đến thống nhất giới hạn đề tài thành “Người Cursillista và Lời Cam Kết.” Hy vọng cách sắp xếp này đã giúp chúng ta đi sâu hơn, hiểu rõ hơn về lời cam kết mà mỗi thành viên Cursillista chúng ta đã hứa để mang Tin Mừng Chúa đến cho muôn dân.

Thưa các anh chị, trên đây là những trình bày về việc thực hiện sứ vụ của một thành viên phong trào. Qua những lời chia sẻ của tôi, tôi tin chắc rằng các anh chị cũng tìm lại được hình ảnh của chính mình trong việc nỗ lực thực hiện lời cam kết của mình. Hy vọng trong một cơ hội nào đó tôi được lắng nghe những kinh nghiệm “sống ngày thứ tư” của các anh chị.

Để kết thúc cho đề tài này, tôi xin nêu lên mấy ý tưởng để giúp các anh chị nhìn lại quá trình thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng của chúng ta: Anh chị hãy nhớ lại, LỜI CAM KẾT của mình đối với Chúa sau Khóa Ba Ngày là gì? Chúng ta có sống trọn lời hứa và cam kết đó không? Những lý do nào cản bước chúng ta không thực hiện những lời cam kết ấy? Theo các anh chị, cách thức nào để giúp ta khắc phục những khó khăn mình gặp phải trong quá trình sống lời cam kết? Làm sao để chúng ta tìm lại lòng hăng say thực hiện sứ vụ Chúa đã giao?

De Colores!

Bài thuyết trình (rollo) trong Đại Hội Toàn Quốc Thứ 31 Phong Trào Cursillo Hoa Kỳ, ngày 24/7/2021.
 
VietCatholic TV
Chúa quan phòng, may mắn vừa mỉm cười với Đức Thánh Cha Phanxicô. Nhận định của John Allen
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
04:10 15/09/2021


Cơ hội bằng vàng của Đức Thánh Cha để tháo ngòi nổ trong căng thẳng với Do Thái Giáo sau lời bình luận về Kinh Torah

John Allen, ký giả kỳ cựu chuyên về Vatican của tờ Crux, có bài bình luận nhan đề “Pope gets lucky as trip offers unplanned chance to reassure Jews”, nghĩa là “Đức Thánh Cha may mắn khi chuyến tông du mang đến cơ hội ngoài dự liệu để trấn an người Do Thái.”

Mở đầu bài viết, John Allen cho biết như sau:

Ở trường đại học, tôi có một giáo sư lịch sử là người khăng khăng cho rằng điểm tối chính yếu trong môn lịch sử của ông là nó không chấp nhận sự may mắn vô tình như một lời giải thích. Vị giáo sư ấy nói rằng ông đã từng muốn viết một bài nghiên cứu về việc Meade đã may mắn như thế nào trước Lee tại Gettysburg, nhưng ông ấy được người ta cho biết điều đó là không thể được vì làm như thế thì có khác gì thừa nhận rằng các nhà sử học không thể giải thích được mọi thứ.

Tuy nhiên, dù những nhà thông thái có thích điều đó hay không đi nữa, thì không nghi ngờ gì về việc Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp những may mắn trong vài ngày qua về mối quan hệ của Giáo Hội với người Do Thái.

Vào cuối tháng 7, khi lịch trình cho chuyến công du từ ngày 12 đến 15 tháng 9 của Giáo hoàng đến Hung Gia Lợi và Slovakia được công bố, không có cách nào để biết nó sẽ xảy ra sau mối quan hệ rạn nứt với người Do Thái gây ra bởi những bình luận về Torah mà Đức Thánh Cha Phanxicô đưa ra vào ngày 11 tháng 8, cũng không thể biết ngài sẽ đến Hung Gia Lợi chỉ 48 giờ sau khi phụ tá hàng đầu của ngài về quan hệ với người Do Thái buộc phải gửi một vài bức thư cho các giáo sĩ Do Thái để cố gắng dập tắt ngọn lửa.

Tuy nhiên, sự đúng lúc đã được chứng minh là rất có lợi cho Đức Phanxicô. Hai lần trong vài ngày gần đây, ngài đã tham gia các phiên họp đã được lên lịch trước đó với các nhà lãnh đạo Do Thái, một lần ở Hung Gia Lợi vào hôm Chúa Nhật và một lần nữa vào ngày hôm nay ở Slovakia, và dù ngài không trực tiếp giải quyết tranh cãi về bài hùng biện của mình từ tháng 8, ngài đã có thể sử dụng cả hai phiên họp để nhắc nhở người Do Thái về mong muốn mạnh mẽ về tình huynh đệ và sự phản đối quyết liệt của ngài đối với chủ nghĩa bài Do Thái đương thời.

Tại Quảng trường Rybné námestie, Bratislava, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến,

Chúc anh chị em một buổi tối tốt đẹp! Tôi cảm ơn anh chị em vì những lời chào đón tốt đẹp của anh chị em và những chứng từ mà anh chị em đã cung cấp. Tôi đã đến như một người hành hương, đến thăm nơi này và xúc động vì nó. Quảng trường này là một nơi rất có ý nghĩa cho cộng đồng của anh chị em. Nó giữ cho ký ức về một lịch sử phong phú luôn sống động. Trong nhiều thế kỷ, nó là một phần của khu Do Thái. Tại đây, giáo sĩ Do Thái nổi tiếng Chatam Sofer đã lao khổ. Ở đây có một hội đường Do Thái đứng cạnh Nhà thờ Chính tòa Đăng quang. Như chúng ta đã nghe, khung cảnh kiến trúc nói lên sự chung sống hòa bình giữa hai cộng đồng, một biểu tượng khác thường và đầy gợi hình, và một dấu hiệu nổi bật của sự hợp nhất nhân danh Thiên Chúa của các tổ phụ chúng ta. Ở đây, giống như rất nhiều vị trong số các ngài, tôi cũng cảm thấy ý muốn được “cởi giầy” ở một nơi được chúc phúc bởi tình huynh đệ nhân loại nhân danh Đấng Tối Cao.

Tuy nhiên, trong thời gian sau đó, danh thánh Thiên Chúa đã bị ô nhục: trong Thế Chiến thứ hai, trong cơn thù hận điên cuồng, hơn một trăm nghìn người Do Thái Slovakia đã bị giết. Trong một cố gắng nhằm xóa bỏ mọi dấu vết của cộng đồng, nguyện đường Do Thái đã bị triệt hạ. Có lời chép: “Ngươi không được dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng” (Xh 20: 7). Danh Thiên Chúa, chính Chúa, bị phạm thượng bất cứ khi nào phẩm giá độc đáo và khác biệt của con người, được tạo dựng theo hình ảnh của Người, bị vi phạm. Ở đây, tại nơi này, Danh của Thiên Chúa đã bị làm nhục, vì hình thức phạm thượng tồi tệ nhất là lợi dụng nó cho mục đích riêng của chúng ta, từ chối tôn trọng và yêu thương người khác. Ở đây, khi suy gẫm về lịch sử của dân tộc Do Thái bị đánh dấu bởi cuộc lăng nhục bi thảm này với Đấng Tối Cao, chúng ta cảm thấy xấu hổ về việc Danh khôn tả của Người đã thường xuyên bị sử dụng xiết bao cho những hành vi phi nhân tính không thể nào diễn tả được! Biết bao kẻ áp bức từng nói: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”; nhưng chính chúng là những kẻ không ở với Thiên Chúa!

Anh chị em thân mến, lịch sử của anh chị em là lịch sử của chúng tôi, các đau khổ của anh chị em là các đau khổ của chúng tôi. Đối với một số anh chị em, Đài tưởng niệm Diệt chủng này là nơi duy nhất mà anh chị em có thể tôn vinh ký ức của những người thân yêu của mình. Tôi tham gia với anh chị em trong việc này. Chữ “zechor” - “Tưởng niệm!” - được ghi bằng tiếng Do Thái trên Đài tưởng niệm này. Tưởng niệm không thể và không được nhường chỗ cho sự lãng quên, vì sẽ không có bình minh lâu dài của tình huynh đệ, trừ khi, trước nhất, chúng ta phải cùng nhau xua tan bóng đêm. Đối với cả chúng ta, câu hỏi của nhà tiên tri vẫn vang vọng: “ Này người canh gác, đêm đến đâu rồi?” (Is 21:11). Bây giờ là lúc không được làm lu mờ hình ảnh của Thiên Chúa sáng ngời trong nhân tính. Chúng ta hãy giúp đỡ lẫn nhau trong nỗ lực này. Vì trong thời đại của chúng ta, rất nhiều ngẫu thần trống rỗng và giả dối làm ô danh Danh Đấng Tối Cao: ngẫu thần quyền lực và tiền bạc vượt trội hơn phẩm giá con người; một tinh thần thờ ơ nhìn đi phía khác; và các hình thức thao túng lạm dụng tôn giáo để phục vụ quyền lực hoặc cách khác giản lược nó xuống mức không còn liên quan chi nữa. Nhưng cả quên đi quá khứ, sự ngu dốt cũng sẵn sàng biện minh cho bất cứ điều gì, giận dữ và hận thù. Tôi nhắc lại: chúng ta hãy đoàn kết lên án mọi bạo lực và mọi hình thức bài Do Thái, và làm việc để bảo đảm rằng hình ảnh của Thiên Chúa, hiện diện trong nhân tính mà Người đã tạo dựng, sẽ không bao giờ bị xúc phạm.

Anh chị em thân mến, Quảng trường này cũng là nơi ánh sáng hy vọng tỏa sáng. Mỗi năm, anh chị em đến đây nhân dịp lễ Hanukkah để thắp ngọn đèn đầu tiên lên cây đèn nhiều nhánh (menorah). Bóng tối được xua tan bởi thông điệp nói rằng sự hủy diệt và cái chết không có lời cuối cùng, mà đúng hơn sự đổi mới và sự sống. Mặc dù nguyện đường Do Thái trên địa điểm này đã bị phá bỏ, nhưng cộng đồng Do Thái vẫn hiện diện. Một cộng đồng sống động và cởi mở đối với đối thoại. Ở nơi này, lịch sử của chúng ta lại gặp nhau. Ở đây, chúng ta hãy cùng nhau khẳng định trước mặt Thiên Chúa rằng chúng ta sẵn lòng kiên trì trên con đường sáp lại gần nhau và thân hữu.

Tôi có những kỷ niệm sống động về cuộc gặp năm 2017 của tôi tại Rome với đại diện của các cộng đồng Do Thái và Kitô giáo của anh chị em. Tôi vui mừng nói rằng sau đó một Ủy ban đối thoại với Giáo Hội Công Giáo đã được thiết lập và anh chị em đã cùng nhau xuất bản một số văn kiện quan trọng. Quả là tốt đẹp khi chia sẻ và truyền bá những điều hợp nhất chúng ta. Và quả là tốt đẹp khi tiến bước, trong sự thật và trung thực, dọc theo con đường huynh đệ nhằm thanh tẩy ký ức, chữa lành các vết thương trong quá khứ và tưởng nhớ những gì tốt đẹp đã nhận được và dâng tặng. Theo sách Talmud, bất cứ ai tiêu diệt một cá nhân sẽ hủy diệt cả thế giới, trong khi bất cứ ai cứu một cá nhân sẽ cứu cả thế giới. Mọi cá nhân đều quan trọng và những gì anh chị em đang làm qua các cuộc trao đổi quan trọng của mình đều rất quan trọng. Tôi cảm ơn anh chị em vì những cánh cửa anh chị em đã mở ra cả hai phía.

Thế giới của chúng ta cần những cánh cửa rộng mở. Chúng là những dấu hiệu của phước lành cho nhân loại. Thiên Chúa phán cùng Tổ phụ Ápraham: “Nhờ ngươi mà mọi gia đình trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12: 3). Đây là một chủ đề lặp đi lặp lại xuyên suốt cuộc đời các Tổ phụ (xem St 18:18; 22:18; 26: 4). Đối với Giacóp, tức Israel, Thiên Chúa phán: “Dòng dõi ngươi sẽ giống như bụi đất, và các ngươi sẽ lan ra nước ngoài tới tận phương tây và phương đông, phương bắc và phương nam; và từ chính ngươi và dòng dõi của ngươi, tất cả các gia đình trên mặt đất được chúc phúc” (St 28:14). Ở đây trên lãnh thổ Slovakia này, một lãnh thổ của gặp gỡ giữa đông và tây, bắc và nam, xin cho gia đình con cái Israel tiếp tục phát huy ơn gọi này, lời triệu tập trở thành dấu hiệu chúc phúc cho tất cả mọi gia đình trên mặt đất. Phước lành của Đấng Tối Cao được tuôn đổ trên chúng ta, bất cứ khi nào Người thấy một gia đình của anh chị em tôn trọng, yêu thương nhau và cùng nhau làm việc. Cầu xin Đấng toàn năng chúc phúc cho anh chị em, để giữa tất cả những bất hòa đang làm ô uế thế giới của chúng ta, anh chị em có thể cùng nhau luôn là nhân chứng của hòa bình. Shalom!
Source:Crux
 
Tin Vui: Lần đầu tiên trong ba năm qua, báo chí thế tục Chí Lợi lên tiếng ca ngợi Đức Thánh Cha Phanxicô
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
08:38 15/09/2021


1. Đức TGM Anh Giáo tiết lộ những hy sinh cá nhân trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu

Đức Tổng Giám Mục Canterbury cho biết ngài ăn ít thịt hơn và không còn dùng xe chạy dầu để chống lại biến đổi khí hậu khi ngài kêu gọi các nhà lãnh đạo toàn cầu “chọn cuộc sống” trước hội nghị Cop26 sắp tới.

Đức Cha Justin Welby cho biết ngài đã điều chỉnh thói quen của mình bao gồm cả việc cắt giảm các chuyến du lịch.

Hôm thứ Ba, Đức Cha Welby, cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô, nhà lãnh đạo của Giáo hội Chính thống giáo Đông phương, đã đưa ra một tuyên bố chung trước hội nghị thượng đỉnh về khí hậu, nói rằng đây là “thời điểm quan trọng” đối với tương lai của hành tinh.

Phát biểu trên chương trình Today của BBC Radio 4 vào thứ Năm, Đức Tổng Giám Mục Welby nói: “Tôi đã cắt giảm việc đi lại”.

“Chúng tôi, cũng như rất nhiều người, tham gia và cam kết vào việc tái chế và tất cả những điều đó. Tôi đã từng có một chiếc xe hơi chạy bằng diesel, tôi không còn chiếc xe đó nữa”.

“Chúng tôi đã cắt giảm cả thịt”.

“Tôi không dùng diễn đàn này để khoe mình thánh thiện, nhưng tôi nói điều này vì nó liên quan đến sức khỏe và môi trường”.

Ngài cũng kêu gọi các nhà lãnh đạo toàn cầu hành động.

“Đây là sự lựa chọn giữa lựa chọn sự sống hoặc lựa chọn cái chết”.
Source:Anglican News

2. Lần đầu tiên trong ba năm qua, báo chí thế tục Chí Lợi lên tiếng ca ngợi Đức Thánh Cha Phanxicô

Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên bố thăng chức cho linh mục Chí Lợi Andrés Gabriel Ferrada Moreira. Ngài là một trong những thành viên của hàng giáo sĩ ở Chí Lợi tố cáo hành vi lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên của cựu linh mục Fernando Karadima.

Cha Ferrada Moreira, 52 tuổi, sẽ hoạt động từ ngày 1 tháng 10 với tư cách là nhân vật số hai trong Bộ Giáo sĩ, phụ trách việc đào tạo các tu sĩ.

Cha Ferrada Moreira được thụ phong linh mục vào năm 1999. Ngài nhận bằng tiến sĩ thần học tại Rôma và từ năm 2018, ngài đã làm việc tại Bộ Giáo sĩ.

Ngài đã làm chứng trước tòa án Chí Lợi về các vụ tấn công trẻ vị thành niên của Karadima, mặc dù chính ngài không phải là nạn nhân của linh mục này. Karadima bị Bộ Giáo Lý Đức Tin kết án vào năm 2011 vì tội lạm dụng tính dục từ năm 1980 đến 1990.

Hôm 28 tháng 9, 2018, Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã huyền chức Fernando Karadima Fariña của Tổng Giáo Phận Santiago de Chile.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng một “quyết định ngoại thường” nhằm trục xuất Fernando Karadima khỏi chức tư tế đã được thực hiện “vì lợi ích của Giáo Hội.”

Bản tuyên bố, được viết bằng tiếng Tây Ban Nha, nói rằng “Đức Thánh Cha đã đưa ra quyết định ngoại thường này theo lương tâm và vì lợi ích của Giáo Hội”; và cho biết tiếp rằng, “ngài đã thực hành 'thẩm quyền tối thượng, đầy đủ, ngay lập tức, và phổ quát trong Giáo Hội,' với ý thức về sự phục vụ của ngài đối với dân Chúa trong tư cách người kế nhiệm Thánh Phêrô.”

Karadima đã qua đời vào tháng 7 năm 2021, thọ 90 tuổi. Báo chí địa phương cho biết Karadima đã đến phòng cấp cứu tại Bệnh viện Đại học Công Giáo Santiage de Chile, nơi ông ta không thể nhập viện ngay lập tức do tình trạng hết giường bệnh vì covid-19.

Giáo Hội Công Giáo, có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử ở Chí Lợi, đã mất đi ảnh hưởng ở đất nước này do những vụ tai tiếng do Karadima gây ra.
Source:Bio Bio Chile

3. Các giám mục Mễ Tây Cơ bày tỏ nỗi buồn sau khi Tòa án Tối cao tuyên bố hủy bỏ một luật chống phá thai ở bang Coahuila

Hội đồng Giám mục Mễ Tây Cơ bày tỏ sự đau buồn trước quyết định của Tòa án Tối cao nhất trí hủy bỏ một luật chống phá thai ở bang Coahuila, trong khi các nhà lãnh đạo Giáo Hội khác kêu gọi người Công Giáo “đừng thờ ơ” với các vấn đề liên quan đến sự sống.

Tòa án đã nhất trí ra phán quyết vào ngày 7 tháng 9 để vô hiệu các phần của luật phò sinh ở bang Coahuila ở phía bắc Mễ Tây Cơ. Luật đã đề nghị mức án lên đến ba năm tù giam đối với phụ nữ phá thai. Các quan sát viên cho rằng quyết định của tòa án đặt ra tiền lệ và sẽ dẫn đến hợp pháp hóa phá thai trên toàn quốc. Quyết định cũng loại bỏ các biện pháp trừng phạt hình sự đối với những người cung cấp dịch vụ phá thai.

Theo Thẩm Phán Norma Piña Hernández, phán quyết được thông qua tại Tòa Án Tối Cao, “ kết luận rằng không có lý do công khai nào với sự hỗ trợ khoa học cho phép đánh thai nhi với một người”.

Sau quyết định của tòa án, hội đồng giám mục đã tweet, trích dẫn từ một tài liệu Hội Đồng Giám Mục được xuất bản vào ngày 12 tháng 8: “ Những người trong chúng ta tin chắc về giá trị của cuộc sống không cần phải có luật giết người như luật vừa được thông qua. Chúng tôi hy vọng rằng lựa chọn của anh chị em liên quan đến sự sống của thai nhi không xuất phát từ một ý thức hệ, nhưng được thúc đẩy bởi niềm tin, hy vọng và tình yêu”.

Đức Cha Jesús José Herrera Quiñonez của giáo phận Nuevo Casas Grandes, chủ tịch Ủy ban mục vụ đời sống của các giám mục, cho biết trong một tuyên bố ngày 5 tháng 9 rằng “Chúng ta phải nhớ rằng phẩm giá và các quyền cơ bản của con người không phải là vấn đề lá phiếu, mà là sự công nhận và tôn trọng”.

“Chúng ta phải nhớ rằng con người, con của một người cha và người mẹ, có sự sống bắt đầu từ lúc thụ thai, phải được công nhận phẩm giá của họ trong tất cả các bước của cuộc sống và đáng được pháp luật bảo vệ như nhau khi đối mặt với những hành vi có thể đe dọa mạng sống của nó”.
Source:Crux
 
Ngỡ ngàng: Các quan chức Sri Lanka cố ý đánh lừa Tòa Thánh, ĐHY Colombo cảnh báo
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:11 15/09/2021

1. Đức Hồng Y Colombo nói rằng các quan chức Sri Lanka cố ý đánh lừa Tòa Thánh về cuộc điều tra vụ tấn công khủng bố lễ Phục sinh năm 2019

Đức Tổng Giám Mục Colombo, Hồng Y Malcolm Ranjith, cảnh báo rằng các quan chức chính phủ hàng đầu của Sri Lanka đang lừa dối Đức Giáo Hoàng Phanxicô về kết quả của cuộc điều tra về các vụ đánh bom vào Chúa Nhật Phục sinh 2019 ở thủ đô của quốc gia này.

Thủ tướng Mahinda Rajapaksa và Bộ trưởng Ngoại giao Peiris được cho là sẽ gặp các quan chức Vatican trong tuần này để thông báo tóm tắt về các cuộc điều tra về vụ tấn công vào Chúa Nhật Phục sinh khiến hơn 260 người thiệt mạng và hơn 500 người khác bị thương.

“Một âm mưu đang được thực hiện một cách khôn khéo để cứu những kẻ đứng sau vụ tấn công và một nỗ lực đang được thực hiện để chuyển đổi tình hình có lợi cho chính phủ”, Đức Hồng Y Ranjith nói trong một tuyên bố được đưa ra ở cuộc họp báo hôm thứ Tư, Ngày 8 tháng 9.

Tuy nhiên, một báo cáo trên tờ Tin tức hàng ngày của Sri Lanka cho biết thủ tướng đã không tìm kiếm một cuộc tiếp kiến Đức Thánh Cha Phanxicô và phái đoàn của ông sẽ không đến thăm Vatican trong chuyến thăm Ý vào tuần này trong khuôn khổ Diễn đàn Liên tôn G-20.

Thủ tướng Sri Lanka dự kiến sẽ có bài phát biểu quan trọng trong cuộc họp tại thành phố Bologna.

Trong cuộc họp báo hôm thứ Tư, Đức Hồng Y Ranjith cho biết ngài đã thông báo cho Tòa Thánh về bản cập nhật cuộc điều tra vụ đánh bom vào Chúa Nhật Phục sinh, đồng thời nói thêm rằng Vatican dự kiến sẽ chuyển vấn đề này lên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc ở Geneva.

Các báo cáo truyền thông hồi đầu tuần dẫn lời phát ngôn viên Nội các Sri Lanka, Bộ trưởng Đồn điền sự vụ, Tiến sĩ Ramesh Pathirana, nói rằng Rajapaksa và Peiris đã được lên kế hoạch thông báo cho Đức Thánh Cha Phanxicô về tiến độ đạt được trong cuộc điều tra các vụ tấn công vào Chúa Nhật Phục sinh.


Source:Catholic News Agency

2. Những bức thư của linh mục Công Giáo đầu tiên của Hàn Quốc được xuất bản bằng tiếng Anh

Đánh dấu kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Thánh Anrê Kim Đại Kiến (Andrew Kim Tae-gon, 김대건 안드레아), sinh năm 1821 và qua đời năm 1846, Quỹ Nghiên cứu Lịch sử Giáo hội Hàn Quốc thuộc Tổng Giáo phận Há Thành đã xuất bản một bản dịch tiếng Anh cuốn “Những bức thư của Thánh Anrê Kim Đại Kiến”. Đó là một trong ba cuốn sách kỷ niệm về các hoạt động của ngài với tư cách là một nhân vật quan trọng ban đầu trong Giáo Hội Công Giáo ở Hàn Quốc.

“Ngài quả là một người mạnh mẽ và có khiếu khôi hài. Ngài thậm chí còn đùa với người hành quyết của mình. Ngài mắng tên đao phủ để y nổi khùng chém đầu ngài cho ngọt. Có rất nhiều tình tiết thú vị và đầy cảm hứng trong các bức thư lịch sử này”, Linh mục Triệu Hán Quân (Cho Han-gun), giám đốc của quỹ, nói với The Korea Times hôm thứ Tư.

Hồ sơ cho thấy Cha Kim, linh mục Công Giáo đầu tiên của Hàn Quốc, đã viết tới 21 bức thư có niên đại từ tháng 2 năm 1842 đến tháng 8 năm 1846 khi ngài cố gắng trở về Hàn Quốc từ Macao, nơi ngài đã theo học tại một chủng viện. Ngài được thụ phong năm 1845. Cuốn sách tiếng Anh bao gồm 19 lá thư, thiếu hai lá thư trong số đó. Ngài viết hầu hết các lá thư bằng tiếng Latinh, nhưng viết lá thư thứ 21 bằng chữ Hàn Quốc và lá thư thứ 9 bằng chữ Hán. Chúng được viết vào giữa thế kỷ 19, gần cuối triều đại Tiên Quốc (Joseon, 조선), 1392-1910, cho độc giả cái nhìn rõ nét về cuộc sống trong những ngày đó.

“Cái chết của tôi chắc chắn sẽ làm rúng động anh chị em cả thể xác lẫn linh hồn. Nhưng chẳng bao lâu nữa, Đức Chúa Trời sẽ sai đến với anh chị em những mục tử đáng tin cậy hơn tôi. Đừng buồn, nhưng hãy thực hành tình yêu thương, để sau khi phụng sự Đức Chúa Trời, sau khi chết, chúng ta sẽ gặp nhau đời đời trước mặt Đức Chúa Trời trong hạnh phúc, như tôi hy vọng hàng nghìn lần. Tạm biệt!” Ngài đã viết như trên trong bức thư cuối cùng.

Một số bức thư bao gồm những câu chuyện về những chuyến đi của ngài ở Trung Quốc trong một chiếc thuyền nhỏ, trong đó ngài suýt bị một con sóng lớn nhận chìm, và nỗi thống khổ của ngài khi là một linh mục bị bách hại dưới chế độ tân Nho giáo nặng nề của triều đại Tiên Quốc, khi các vua chúa cấm các tôn giáo bên ngoài cũng như không cho tự do đi lại mà không có sự cho phép chính thức.

“Chúng tôi hy vọng rằng cuốn sách sẽ chia sẻ với thế giới niềm tin sâu sắc của Thánh Anrê Kim Đại Kiến và tinh thần tiên phong của ngài”, Cha Triệu nói. “Cuốn sách cũng có thể truyền cảm hứng cho nhiều người, bằng cách cho thấy một trí thức trẻ Hàn Quốc có thể nói và viết bằng nhiều thứ tiếng, thông qua tính cách và nghị lực mạnh mẽ của ngài ngõ hầu vượt qua khó khăn trong bối cảnh lịch sử của Công Giáo Hàn Quốc”.

Cha Triệu nói thêm rằng Hàn Quốc là quốc gia duy nhất mà Công Giáo đến thông qua sách vở chứ không phải qua các nhà truyền giáo, và nói rằng người Hàn Quốc tự học và chấp nhận đạo Công Giáo theo ý chí tự do của họ.

Để độc giả hiểu rõ hơn về ý nghĩa của các bức thư, cuốn sách cũng bao gồm các giải thích về bối cảnh lịch sử của triều đại Tiên Quốc.
Source:Korea Times

3. Lá thư của Đức Hồng Y Koch gởi cho Rabbi Arousi về vụ Kinh Torah

Phản ứng của Vatican lần này được đưa ra với tất cả sự dè dặt với các ngôn ngữ rất ngoại giao. Lá thư được viết bởi Đức Hồng Y Kurt Koch, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Đối Thoại Liên Tôn. Ngài đã viết thư cho Giáo sĩ Rasson Arousi sau khi vị giáo sĩ Do Thái nói rằng ông “lo lắng” trước một số từ do chính Đức Phanxicô phát biểu vào ngày 11 tháng 8, theo đó có thể đã gợi ý rằng Torah đã lỗi thời.

Tại buổi tiếp kiến ngày 11 tháng 8, Đức Giáo Hoàng khi trình bày các suy tư về những gì Thánh Phaolô đã nói về kinh Torah trong Tân Ước, và nhận định rằng:

“Trên thực tế, Kinh Torah, hay Lề Luật, không có trong lời hứa được đưa ra với Áp-ra-ham. Tuy nhiên, khi nói điều này, ta không nên nghĩ rằng Thánh Phaolô chống lại Luật Môisê. Không, thánh nhân đã tuân giữ nó. Một vài lần trong Thư của mình, ngài bảo vệ nguồn gốc thần thánh của nó và nói rằng nó có một vai trò được xác định rõ ràng trong lịch sử cứu độ. Tuy nhiên, Lề Luật không ban sự sống, nó không mang lại sự thành toàn lời hứa bởi vì nó không có khả năng làm điều đó. Lề Luật là một cuộc hành trình, một cuộc hành trình dẫn đến một cuộc gặp gỡ. Thánh Phaolô dùng một từ, tôi không biết nó có trong văn bản hay không, nhưng là một từ rất quan trọng: lề luật là “phương pháp sư phạm” hướng đến Chúa Kitô, một phương pháp sư phạm hướng đến đức tin nơi Chúa Kitô, nói cách khác lề luật là người thầy cầm tay anh chị em dắt tới cuộc gặp gỡ (x. Gl 3,24). Những ai tìm kiếm sự sống cần phải nhìn vào lời hứa và sự hoàn thành lời hứa trong Chúa Kitô”.

Đức Hồng Y Koch viết:

“Trong bài phát biểu của Đức Thánh Cha, Kinh Torah không bị mất giá, vì ngài tuyên bố rõ ràng rằng Phaolô không chống lại luật pháp Môisê. Trên thực tế, Phaolô tuân theo luật này, nhấn mạnh nguồn gốc thiêng liêng của nó, và gán cho nó một vai trò trong lịch sử cứu rỗi. Câu: “Lề Luật không ban sự sống, nó không mang lại sự thành toàn lời hứa”, không nên ngoại suy từ ngữ cảnh của nó, nhưng phải được xem xét trong khuôn khổ chung của thần học Phaolô. Niềm tin Kitô Giáo từ xưa đến nay cho rằng Chúa Giêsu Kitô là con đường. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Kinh Torah bị xem nhẹ hoặc không còn được công nhận là 'con đường cứu rỗi của người Do Thái'“.

Đức Hồng Y Koch nhớ lại một bài giáo lý năm 2015 của Đức Phanxicô, trong đó vị giám mục Rôma giải thích rằng “Các hệ phái Kitô tìm thấy sự hiệp nhất của mình nơi Chúa Kitô; Do Thái giáo tìm thấy sự hiệp nhất trong Torah, cả hai đều nhìn nhận mình dưới một Thiên Chúa”.

Đức Hồng Y Koch nhấn mạnh rằng trong bài giáo lý tháng 8 vừa qua, “Đức Phanxicô không đề cập đến đạo Do Thái hiện đại”. Bài diễn văn là “sự suy tư về thần học của Thánh Phaolô trong bối cảnh lịch sử của một thời đại nhất định. Thực tế Torah là trung tâm của Do Thái giáo hiện đại không có cách nào bị đặt thành nghi vấn”.

Những lời của Đức Hồng Y Koch, đề ngày 3 tháng 9, xảy ra khi Đức Phanxicô đang gửi một thông điệp những lời chúc tốt đẹp đến Rabbi trưởng của Rôma Riccardo Di Segni. Nhân dịp kỷ niệm trọng thể lễ Rosh Ha-Shanah, Yom Kippur và Sukkot, Đức Giáo Hoàng cho biết ngài hân hạnh gửi lời chúc chân thành đến các bạn, tới cộng đồng Do Thái ở Rome và tất cả các cộng đồng Do Thái trên thế giới”.

Và một lần nữa: “Tôi hy vọng rằng trong những ngày lễ sắp tới, việc làm sống lại ký ức về những lợi ích nhận được từ Đấng Tối Cao, sẽ là nguồn tiếp thêm ân sủng và niềm an ủi tinh thần. Cầu xin Đức Chúa Trời của các Tổ phụ ban phước cho chúng ta món quà bình an, củng cố mối dây tình bạn của chúng ta và giúp chúng ta làm chứng cho điều đó trong sự cam kết của chúng ta với người khác. Shalom Alechem”.
Source:Republicca
 
ĐTC chiếm trọn cảm tình dân Slovakia. Thánh lễ Đức Mẹ Sầu Bi ở Đền thánh Šaštin. Chia tay cảm động
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
17:08 15/09/2021

Như chúng tôi đã đưa tin, lúc 19:30 ngày thứ Ba 14 tháng 9, Đức Thánh Cha đã quay lại Bratislava sau chuyến thăm Košice.
Lúc 10:00, sáng Thứ Tư ngày 15 tháng 09, Đức Thánh Cha đã cử hành thánh lễ tại Đền thánh Quốc gia Šaštin.

Bài giảng của Đức Thánh Cha trong thánh lễ tại Đền Thánh Quốc gia Šaštín

Trong Đền thờ Giêrusalem, Đức Maria dâng hài nhi Giêsu cho ông già Simêôn, là người đã ôm hài nhi vào lòng và nhìn nhận Ngài là Đấng Mêsia được sai đến để cứu rỗi dân Israel. Ở đây, chúng ta thấy Mẹ Maria thực sự là ai: Mẹ là người sinh ra Chúa Giêsu, con của Mẹ, cho chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta yêu mến và tôn kính Mẹ. Tại Đền thờ Quốc gia Šaštín này, người dân Slovak đã chạy đến với Mẹ với niềm tin và sự tôn sùng, vì họ biết rằng Mẹ mang đến cho chúng ta Chúa Giêsu. Biểu trưng của Hành trình Tông đồ này mô tả một con đường quanh co bên trong một trái tim có thập tự giá bên trên: Mẹ Maria là con đường dẫn chúng ta đến Trái Tim của Chúa Kitô, Đấng đã hiến mạng sống của mình vì tình yêu chúng ta.

Dưới ánh sáng của Tin Mừng vừa nghe, chúng ta có thể chiêm ngắm Đức Maria như một mẫu gương đức tin. Và chúng ta có thể phân biệt ba chiều kích của đức tin: đó là hành trình, tính tiên tri và lòng trắc ẩn.

Đầu tiên, đức tin của Đức Maria là một đức tin đưa Mẹ vào một cuộc hành trình. Người phụ nữ trẻ thành Nagiarét, sau khi nghe sứ thần truyền tin, đã “vội vã lên miền núi” (Lc 1:39) để thăm và giúp đỡ bà Êlisabét, chị họ của mình. Mẹ không coi việc được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế là một đặc ân; Mẹ đã không đánh mất niềm vui đơn sơ của lòng khiêm nhường sau khi được thiên thần viếng thăm; Mẹ không cứ mãi tiếp tục suy nghĩ về bản thân trong bốn bức tường của ngôi nhà mình. Đúng hơn, Mẹ đã cảm nghiệm ân sủng mà Mẹ đã nhận được như một sứ mệnh phải thực hiện; Mẹ cảm thấy bị thôi thúc phải mở cửa và đi ra ngoài; Mẹ hoàn toàn bị cuốn vào “sự vội vàng” của chính Thiên Chúa muốn tiếp cận tất cả mọi người với tình yêu cứu rỗi của Người. Đó là lý do tại sao Đức Maria bắt đầu cuộc hành trình của mình. Mẹ đã chọn những điều không thể biết của cuộc hành trình thay vì sự thoải mái của thói quen hàng ngày, Mẹ đã chọn sự mệt mỏi của chuyến đi thay vì sự yên bình và tĩnh lặng của gia đình; Mẹ đã chọn rủi ro của một đức tin làm cho cuộc sống của chúng ta trở thành một món quà yêu thương cho người khác thay vì một lòng mộ đạo an nhàn.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng trình bày Đức Maria khi lên đường: lần này là hướng về Giêrusalem, cùng với thánh Giuse, người bạn đời của mình, Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ. Phần còn lại của cuộc đời Mẹ sẽ là một cuộc hành trình theo bước chân của Con Mẹ, với tư cách là người đầu tiên trong số các môn đệ của Ngài, thậm chí đến đồi Canvê, đến chân thập giá. Đức Maria không bao giờ ngừng hành trình.

Đối với anh chị em, những người dân Slovakia, Đức Trinh Nữ là một mẫu mực của đức tin: một đức tin bao gồm hành trình, một đức tin được linh hứng từ lòng sùng kính đơn sơ và chân thành, cũng như một cuộc hành hương liên tục để tìm kiếm Chúa. Khi thực hiện cuộc hành trình này, anh chị em vượt qua cám dỗ hài lòng với một đức tin thụ động, bằng lòng với điều này, điều kia hoặc nghi lễ này, nghi lễ nọ, hoặc truyền thống cổ xưa. Thay vào đó, anh chị em bỏ mình lại phía sau và lên đường, mang theo trong ba lô những niềm vui và nỗi buồn của cuộc sống này, và do đó, làm cho cuộc đời anh chị em trở thành một cuộc hành hương trong tình yêu đối với Thiên Chúa và với anh chị em của mình. Cảm ơn anh chị em vì chứng tá này! Và xin hãy luôn kiên trì trên hành trình này! Đừng dừng lại! Và tôi muốn thêm một điều khác nữa. Tôi muốn nói: “Đừng dừng lại”, vì khi Giáo hội dừng lại, Giáo Hội sẽ trở nên ốm yếu. Khi các Giám mục dừng lại, họ làm cho Giáo hội bị bệnh. Khi các linh mục dừng lại, họ làm cho dân Chúa bị bệnh.

Đức tin của Đức Maria cũng có tính tiên tri. Bằng chính cuộc đời của mình, thiếu nữ thành Nagiarét là một dấu chỉ tiên tri về sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại, sự can thiệp nhân từ của Người làm xáo trộn logic thế giới, nâng cao kẻ hèn mọn và hạ gục kẻ quyền thế (x. Lc 1:52). Đức Maria là hiện thân của “người nghèo của Chúa”, người kêu cầu với Người và chờ đợi sự xuất hiện của Đấng Mêsia. Mẹ là Con gái của Sion được các tiên tri của Israel công bố (xem Zeph 3: 14-18), là Trinh nữ đã thụ thai Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta (xem Is 7:14). Là Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria là biểu tượng cho ơn gọi của chính chúng ta, vì giống như Mẹ, chúng ta cũng được mời gọi nên thánh và không tỳ ố trong tình yêu (x. Ep 1: 4), theo hình ảnh của Chúa Kitô.

Truyền thống tiên tri của Israel đạt đến đỉnh cao nơi Đức Maria, vì Mẹ đã cưu mang trong cung lòng mình Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, Đấng mang đến hoa trái viên mãn và dứt khoát cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Nói về Chúa Giêsu, ông Simêon nói với Đức Maria rằng: “cháu bé này đã được đặt làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng” (Lc 2:34).

Chúng ta đừng bao giờ quên điều này: niềm tin không thể bị giản lược thành chất gây ngọt để làm cho cuộc sống trở nên ngon miệng hơn. Chúa Giêsu là một dấu chỉ của sự chống báng. Ngài đến để mang ánh sáng xua tan bóng tối, phơi bày bản chất của bóng tối và buộc nó phải phục tùng Người. Vì lý do này, bóng tối luôn chiến đấu chống lại Ngài. Những ai tin nhận Chúa Kitô trong đời sống của mình sẽ sống lại; những người từ chối Ngài vẫn ở trong bóng tối, đến mức hư nát. Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng Người đến không phải để đem lại hòa bình nhưng mang lại một thanh gươm (x. Mt 10,34): quả thật, lời Người như gươm hai lưỡi đâm vào cuộc đời chúng ta, tách ánh sáng ra khỏi bóng tối và đòi hỏi một quyết định. Lời Ngài đòi hỏi chúng ta: “Hãy chọn lựa đi”: Đối với Chúa Giêsu, chúng ta không thể thờ ơ, chân trong chân ngoài; chúng ta không thể như thế. Khi tôi đón nhận Ngài, Ngài bộc lộ những mâu thuẫn của tôi, những thần tượng của tôi, những cám dỗ của tôi. Ngài trở thành sự sống lại của tôi, Đấng luôn nâng đỡ tôi khi tôi sa ngã, Đấng nắm lấy tay tôi và để tôi bắt đầu lại. Ngài là Đấng luôn nâng đỡ tôi.

Slovakia ngày nay cần những nhà tiên tri như vậy. Tôi kêu gọi chư huynh đệ, các Giám mục: hãy là những tiên tri đi theo con đường này. Điều này không liên quan gì đến sự thù địch đối với thế gian, mà là “dấu chỉ của sự mâu thuẫn” trong thế gian. Những Kitô Hữu có thể chứng minh vẻ đẹp của Phúc âm qua cách họ sống. Kitô Hữu là những người dệt nên cuộc đối thoại nơi mà sự thù địch ngày càng gia tăng; là các mẫu gương của cuộc sống huynh đệ khi xã hội đang trải qua căng thẳng và thù địch; là những người mang lại hương thơm ngọt ngào của lòng hiếu khách và sự đoàn kết, nơi mà sự ích kỷ cá nhân và tập thể thường chiếm ưu thế, là những người bảo vệ và gìn giữ sự sống nơi văn hóa cái chết ngự trị.

Mẹ Maria, Mẹ của cuộc hành trình, đã lên đường. Đức Maria cũng là Mẹ của lời tiên tri. Cuối cùng, Mẹ Maria là Mẹ của lòng nhân ái. Đức tin của Mẹ thật từ bi. Mẹ, là “nữ tì của Chúa” (x. Lc1, 38), với sự chăm sóc từ mẫu đã, bảo đảm rằng rượu trong tiệc cưới Cana sẽ dư đầy (x. Ga 2,1-12). Mẹ đã chia sẻ sứ mệnh cứu rỗi của Con Mẹ, cho đến dưới chân Thập tự giá. Tại đồi Canvê, trong nỗi đau thương khôn nguôi, Mẹ đã hiểu được lời tiên tri của ông Simêon: “Và một lưỡi gươm cũng sẽ đâm vào tâm hồn bà” (Lc 2, 35). Sự đau khổ của Người Con đang hấp hối của Mẹ, Đấng đã tự mình gánh lấy tội lỗi và những yếu đuối của nhân loại, đã đâm thủng trái tim của chính Mẹ. Chúa Giêsu chịu đau khổ về xác thịt, con người của nỗi buồn, bị biến dạng bởi sự dữ (x. Is 53: 3ff). Đức Maria đã chịu đựng trong tinh thần, như một người Mẹ nhân ái, người lau khô nước mắt của chúng ta, an ủi chúng ta và chỉ cho chúng ta thấy sự chiến thắng chung cuộc của Chúa Kitô.

Đức Maria, Đức Mẹ Sầu Bi, vẫn ở dưới chân thánh giá. Mẹ chỉ đơn giản là đứng đó. Mẹ không chạy trốn, hay cố gắng tự cứu mình, hay tìm cách giảm bớt sự đau buồn của mình. Đây là bằng chứng về lòng trắc ẩn thực sự: đó là luôn đứng bên dưới thập tự giá. Đứng đó khóc lóc, nhưng với đức tin vững chắc rằng, nơi Con của Mẹ, Thiên Chúa đã biến đổi đau thương và thống khổ và đã chiến thắng sự chết.

Khi chiêm ngắm Đức Mẹ Sầu Bi, xin cho chúng ta cũng biết mở rộng tâm hồn mình để đón nhận một đức tin trở thành lòng trắc ẩn, một đức tin đồng hóa với những người đang bị tổn thương, đau khổ và bị buộc phải mang thập giá nặng nề. Một đức tin không còn trừu tượng, nhưng trở nên nhập thể trong mối tương giao với những người đang quẫn bách. Một đức tin bắt chước cách làm việc của Thiên Chúa, lặng lẽ làm giảm bớt sự đau khổ của thế giới chúng ta và thấm đẫm mảnh đất lịch sử bằng ơn cứu rỗi.

Anh chị em thân mến, cầu xin Chúa luôn gìn giữ trong anh chị em sự ngạc nhiên và lòng biết ơn về ân sủng đức tin vĩ đại! Và cầu xin Mẹ Maria Chí Thánh cầu bầu cho anh chị em ân sủng của một đức tin luôn luôn lên đường, có tính tiên tri sâu sắc và giàu lòng trắc ẩn.

Lời kết của Đức Thánh Cha Phanxicô

Đã đến lúc tôi phải rời khỏi đất nước của anh chị em. Trong buổi cử hành Thánh Thể này, tôi tạ ơn Thiên Chúa đã cho phép tôi đến giữa anh chị em và kết thúc cuộc hành hương của tôi trong vòng tay nồng nhiệt của dân tộc anh chị em, cùng nhau cử hành một đại lễ vừa là một ngày lễ tôn giáo và vừa là một ngày quốc lễ trọng đại Bổn mạng của anh chị em, Đức Mẹ Đồng trinh Sầu Bi.

Thưa các Giám mục, tôi xin gửi đến các chư huynh đệ lời cảm ơn chân thành về tất cả sự chuẩn bị và sự chào đón của các anh em. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Tổng thống Cộng hòa và các cơ quan dân sự. Và tôi biết ơn tất cả những ai, cách này cách khác, đã hợp tác trong cuộc hành hương này, trên hết là lời cầu nguyện của họ.

Tôi mang anh chị em trong trái tim tôi. Ďakujem všetkým! [Cảm ơn tất cả!]
Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
 
Nữ tổng thống và nội các chào từ biệt Đức Thánh Cha với lễ nghi quốc khách. Chuyến bay Alitalia sau cùng
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
19:02 15/09/2021


Chuyến tông du thứ 34 của Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết thúc vào hôm thứ Tư với việc cử hành Thánh lễ tại Đền thờ Quốc gia Đức Mẹ Sầu Bi ở Šaštín, sau đó ngài đã khởi hành đến Sân bay Quốc tế Bratislava.

Trong chuyến viếng thăm nước ngoài kéo dài 4 ngày này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm Budapest, Hung Gia Lợi để dự Thánh lễ bế mạc Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 52, trước khi bay đến Slovakia.

Trong ba ngày quay cuồng ở Slovakia, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với mọi người hãy kiên trì với đức tin, đồng thời tự mình nhìn thấy một Giáo hội của lòng bác ái, và một Giáo hội thở bằng “hai lá phổi”, ý muốn nói Giáo Hội Tây phương và Giáo Hội Đông phương

Khi Đức Giáo Hoàng đến Slovakia vào Chúa Nhật này, các biểu ngữ chào mừng ngài có nội dung “Viva Papa Francesco”, nghĩa là “Đức Giáo Hoàng Phanxicô muôn năm”.

Khi ngài khởi hành vào hôm thứ Tư, sau khi cử hành Thánh lễ tại Đền thờ Quốc gia ở Šaštín, các biểu ngữ đã được thay thế bằng “Cảm ơn Đức Thánh Cha”.

Chuyến thăm này là một tấm thảm của nhiều sự kiện quan trọng: Việc cử hành Phụng vụ Thánh Byzantine và Thánh lễ tại Šaštín đã thể hiện các giá trị Kitô giáo đã ăn sâu vào xã hội ở đây qua nhiều thế kỷ và tiếp tục cho đến ngày nay.

Chuyến thăm cũng là dịp để Đức Thánh Cha Phanxicô nêu bật tầm quan trọng của sự hiệp nhất và tình huynh đệ trong cuộc họp đại kết và cuộc gặp gỡ với cộng đồng Do Thái.

Nhưng có lẽ hai sự kiện đã chiếm được trái tim của Kitô Giáo, và tinh thần bác ái trong hành động, là chuyến thăm Trung tâm Bethlehem ở Petržalka và đến Cộng đồng Roma tại Lunik IX.

Hầu hết những người có mặt tại Lunik IX hôm thứ Ba đã chứng kiến một cộng đoàn đã toàn lực chào đón Đức Giáo Hoàng trong bầu không khí vui vẻ, được hướng dẫn trong lời cầu nguyện bởi các Salêdiêng của Don Bosco.

Khi Đức Thánh Cha Phanxicô đến quận Košice này, mọi người đã bày tỏ hy vọng rằng chuyến thăm này sẽ mang lại kết quả thực sự cho cộng đồng ở đây.

Slovakia là một đất nước vẫn luôn thấm nhuần đức tin, nhưng giống như bất kỳ loài thực vật nào, nếu không được chăm bón, nó sẽ chết. Giáo hội ở đất nước này nhận thức rõ rằng chủ nghĩa thế tục đã đến trước ngưỡng cửa của nhiều quốc gia Âu Châu cũng đang gõ cửa ở đây. Vì vậy, đối với các giám mục Slovakia, rời mắt khỏi trái bóng không phải là một lựa chọn.

Trong chuyến tông du Slovakia, Đức Giáo Hoàng đã ban một nguồn năng lượng dồi dào cho các tín hữu; Không nơi nào điều đó được nhìn thấy nhiều hơn tại cuộc gặp gỡ với những người trẻ tuổi tại Sân vận động Lokomotiva ở Košice, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với họ, “Để tình yêu đơm hoa kết trái, đừng quên cội nguồn của mình”.

Trước khi lên đường trở về Rôma vào hôm thứ Tư, Đức Giáo Hoàng đã rời đất nước với một thông điệp: Ngài nói với họ rằng đức tin là một cuộc hành trình “được truyền cảm hứng bởi một lòng sùng kính đơn sơ và chân thành”; và kêu gọi họ kiên trì với lòng trắc ẩn và lòng biết ơn.

Người phát ngôn của Hội đồng Giám mục Slovakia, Cha Martin Kramara, phản ánh về chuyến thăm Tông đồ vừa kết thúc của Đức Thánh Cha Phanxicô tới Slovakia, nêu bật niềm vui của các tín hữu của đất nước và sự khích lệ mà sự hiện diện của Đức Thánh Cha mang lại.

Suy ngẫm về chuyến thăm vừa kết thúc của Đức Giáo Hoàng tới đất nước, Cha Martin Kramara, phát ngôn nhân của Hội đồng Giám mục Công Giáo Slovakia, bày tỏ sự vui mừng của người dân Slovakia.

“Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha đến Slovakia đã để lại cho chúng tôi những cảm xúc, niềm vui tuyệt vời cũng như nhiều tác nhân kích thích rất đẹp để suy tư. Chúa đã ban phước cho chúng tôi với thời tiết tuyệt vời và vì vậy Đức Thánh Cha đã có thể tiếp đón hàng chục ngàn người hành hương”.

Trong chuyến thăm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm ba giáo tỉnh ở Slovakia. Hai giáo tỉnh Latinh, Košice và Bratislava, và giáo tỉnh Prešov, nơi có Tòa Công Giáo Đông phương theo nghi thức Byzantine.

Bất chấp những hậu quả do đại dịch Covid-19, Cha Kramara lưu ý rằng khoảng 60,000 tín hữu đã có mặt trong Thánh lễ do Đức Thánh Cha cử hành tại Šaštín hôm thứ Tư.

Đức Thánh Cha đã gặp gỡ một số nhóm trong chuyến viếng thăm Tông Tòa, bao gồm hàng giáo sĩ của Slovakia.

Cha Kramara nhớ lại rằng những lời động viên của Đức Giáo Hoàng “rất phong phú”, đặc biệt là trong bài diễn văn của ngài với các giám mục, linh mục và những người được thánh hiến.

Vị linh mục nói rằng Đức Thánh Cha đã thúc giục họ “hãy sống một đức tin không cứng nhắc, nhưng luôn chuyển động. Một đức tin đi ra ngoài để gặp gỡ, mang tính tiên tri, không tập trung vào những con số và biểu hiện của quyền lực, nhưng tin tưởng, ngay cả trong những điều nhỏ nhặt.

Cha Kramara nói thêm rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyến khích họ hơn nữa trong bước nhảy vọt về đức tin, nhấn mạnh rằng họ “làm chứng xác thực cho Tin Mừng và không bao giờ rơi vào ích kỷ và hời hợt”.

“Cảm ơn Đức Thánh Cha, cảm ơn rất nhiều”, Cha Kramara nói. “Và chúng tôi sẽ không quên cầu nguyện cho Đức Thánh Cha. Xin hãy cầu nguyện cho Slovakia!”

Sau thánh lễ tại Đền thờ Quốc gia Đức Mẹ Sầu Bi ở Šaštín, là thánh lễ cuối cùng của Đức Giáo Hoàng trong cuộc hành trình, ngài nói với các tín hữu ở Slovakia, rằng “Đã đến lúc tôi phải rời khỏi đất nước của anh chị em. Trong buổi cử hành Thánh Thể này, tôi tạ ơn Thiên Chúa đã cho phép tôi đến giữa anh chị em và kết thúc cuộc hành hương của tôi trong vòng tay nồng nhiệt của dân tộc anh chị em, cùng nhau cử hành một đại lễ vừa là một ngày lễ tôn giáo và vừa là một ngày quốc lễ trọng đại Bổn mạng của anh chị em, Đức Mẹ Đồng trinh Sầu Bi.

Thưa các Giám mục, tôi xin gửi đến các chư huynh đệ lời cảm ơn chân thành về tất cả sự chuẩn bị và sự chào đón của các anh em. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Tổng thống Cộng hòa và các cơ quan dân sự. Và tôi biết ơn tất cả những ai, cách này cách khác, đã hợp tác trong cuộc hành hương này, trên hết là lời cầu nguyện của họ.

Tôi mang anh chị em trong trái tim tôi. Ďakujem všetkým! [Cảm ơn tất cả!]”

Tại sân bay quốc tế Bratislava, Đức Thánh Cha Phanxicô đã được chào đón tại sân bay bởi Tổng thống Cộng hòa và các cơ quan dân sự, trước khi cất cánh về Rôma trên chuyến bay Alitalia cuối cùng của Giáo hoàng trước khi công ty đóng cửa.

Chuyến bay của Giáo hoàng hạ cánh tại sân bay Fiumicino của Rome lúc 3:30 chiều, giờ địa phương. Chuyến bay kéo dài 90 phút đánh dấu lần cuối cùng Đức Thánh Cha Phanxicô bay với hãng hàng không Alitalia. Hãng hàng không quốc gia đang gặp khó khăn sẽ được thay thế vào tháng tới bằng một hãng hàng không mới có tên Italia Trasporto Aereo.