Ngày 10-09-2016
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Xin lỗi
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
17:17 10/09/2016
Một trong những ngôn từ đẹp và uy lực nhất trong cuộc sống, đó là lời ‘xin lỗi’. Chúng ta biết rằng ai cũng có lỗi lầm và sai phạm ít hay nhiều, vì vô tình hoặc hữu ý. Là người công giáo, mỗi khi tham dự thánh lễ, trong phần sám hối, chúng ta đọc Kinh Cáo Mình xưng thú tội lỗi: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Lỗi tại tôi, nên tôi xin Thiên Chúa Toàn Năng và anh chị em tha lỗi. Lời Kinh rất đẹp và ấn tượng, nhưng điều quan trọng là tâm hồn của chúng ta có thật sự hối lỗi hay không?

Lời ‘xin lỗi’ trong mọi hoàn cảnh đều rất quan trọng. Xin lỗi là bước đầu của sự hòa giải, là cầu nối của sự cảm thông và là nền tảng của sự bình an trong tâm hồn. Xin lỗi là khải mở một chân trời mới trong tình người. Làm lỗi thi hãy mau xin lỗi. Lời ‘xin lỗi’, xem ra rất đơn giản, nhưng rất khó thực hiện. Nó đòi hỏi một thái độ khiêm nhu, hạ mình, thành thật và chạnh lòng. Người ta thường nói: “Đánh kẻ chạy đi, chứ không ai đánh kẻ chạy lại”.

Thiên Chúa thưởng phạt công minh. Dân Do-thái, dọc theo lịch sử Ơn Cứu Độ, đã nhiều lần dân chúng phạm tội bất tuân và phản nghịch, nhưng khi họ biết hối lỗi quay về, Thiên Chúa đã thứ tha. Như câu truyện của Vua Đavid đã phạm tội ngoại tình và giết người, sau khi được cảnh tỉnh, Đavid đã cúi mình nhận tội hối lỗi và xin lỗi Chúa. Chúa đã thứ tha. Có rất nhiều gương sám hối của các vị thánh nhân như Phêrô, Phaolô, Augustinô….các ngài đã tỉnh thức nhận lỗi, sửa lỗi và xin lỗi. Các ngài đã trở nên những vị thánh vĩ đại.

Nhiều khi chúng ta đã làm điều sai trái và phạm lỗi lầm, nhưng nếu bị người khác hạch hỏi hay chất vấn, chúng ta thường giận dữ, biện hộ, chối quanh, đổ lỗi hoặc tránh né. Chối tội như kiểu ông bà nguyên tổ Ađam và Evà. Sau khi phạm tội trái lệnh Thiên Chúa, Chúa hỏi tội: Ông Ađam đã đổ lỗi cho bà Evà và Evà đổ lỗi cho con rắn. Để tìm sự công bằng thưởng phạt, các tổ chức xã hội đã lập ra các nhà giam, nhà tù, nhà cải huấn, rồi có các luật sư và trạng sư…. để điều tra phân xử. Có nhiều người đã phạm tội, nhưng vì sợ, đã không đủ can đảm để khai báo sự thật. Họ tìm cách giấu diếm phi tang lỗi phạm. Tâm hồn họ chưa tìm sự bình an đích thực. Họ chưa thể thắng vượt mình. Thật vậy, thắng mình không luôn dễ.

Sống chung với nhau trong gia đình hay ngoài xã hội, qua cách ứng xử hằng ngày, chúng ta không thể tránh khỏi mọi sự va chạm, hiểu lầm và gây gỗ. Dù sống bên nhau và gần nhau lâu, nhưng chưa hẳn đã cảm thông và hiểu nhau. Có nhiều điều rất nhỏ như một câu nói gắt gỏng, một lời diễu cợt, một câu viết mơ hồ hoặc một thái độ hờ hững có thể làm phật lòng nhau. Cách chữa lành hiệu qủa và nhanh nhất, đó là lời ‘xin lỗi’. Vậy thì: Ai là người phải xin lỗi trước? Ai là người phải làm hòa trước? Vấn đề căn cốt là cái ‘tôi’. Tự vấn: Tôi không làm gì sai. Tôi không phải xin lỗi ai cả. Cái ‘tôi’ tự ái thổi phồng. Thánh Luca nhắc nhở: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (Lc 6, 41).

Các bạn ạ, ai trong chúng ta cũng có lầm lỗi. Điều quan trọng là chúng ta có dám nhận lỗi và xin lỗi hay không. Thánh Gioan khẳng định: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Jn. 1, 8). Biết mình là đầu mối sự khôn ngoan. Ai biết nhận lỗi và xin lỗi là người khôn và cao thượng. Lời ‘xin lỗi’ sẽ giúp phá vỡ tất cả các bức tường ngăn cách, ghen ghét, thù hận và hiểu lầm. Người dám nói lời xin lỗi là người thắng cuộc. Thắng mình và thắng người. Lời ‘Xin Lỗi’ cần có đối với tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, không phân biệt cấp bậc và vị thế, từ các nhà lãnh đạo cao nhất của xã hội, cũng như giáo hội, tới mọi thành phần dân chúng.

Đẹp biết bao khi bề trên biết xin lỗi kẻ dưới, thầy xin lỗi trò, trò xin lỗi thầy, chồng xin lỗi vợ, vợ xin lỗi chồng, con cái xin lỗi cha mẹ, cha mẹ xin lỗi con cái, anh chị em xin lỗi nhau và bạn bè xin lỗi lẫn nhau. Gia đình sẽ sống trong bầu khí an vui, cộng đoàn sẽ lạc an và thế giới sẽ hòa bình. Nhận lỗi về mình là một cung cách cao đẹp. Biết rằng đôi khi sự gây lỗi có thể do hiểu lầm, thiếu hiểu biết, nông cạn, tự ái hay thiển cận trong vấn đề. Gây lỗi, chúng ta hãy xin lỗi. Chiếc bóng đầy hơi sẽ xẹp. Giây cung căng sẽ chùn. Cơn nóng giận sẽ nguôi. Sự háo thắng sẽ hạ. Cầu thông cảm sẽ nối và tình người sẽ hòa.

Biết xin lỗi, chúng ta sẽ được lợi nhiều điều. Chúng ta sẽ tránh được biết bao đổ vỡ và nghi kỵ. Chúng ta sẽ thắng mình và thắng bạn. Cuộc sống sẽ an vui. Tâm hồn được thanh thản và an lạc. Quan trọng nhất là chúng ta được giao hòa cùng Thiên Chúa: “Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1Jn. 1, 9).
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐGH danh dự Bênêđíctô thứ 16 nói việc quản trị Giáo Hội là một điểm yếu của ngài
Đặng Tự Do
15:35 10/09/2016
Tờ báo Ý Corriere della Sera đã công bố một trích đoạn trong cuộc phỏng vấn dài Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 dành cho Peter Seewald. Cuộc phỏng vấn đã được viết thành cuốn “Last Testament: In His Own Words”, được xuất bản ở Ý vào ngày 9 tháng 9 và tại Hoa Kỳ vào tháng Mười Một tới đây.

“Một điểm yếu của tôi có lẽ là sự thiếu quyết tâm trong việc quản lý và đưa ra các quyết định,” Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 nói. “Trong thực tế tôi là một giáo sư, một người phản ánh và suy tư về các vấn đề tâm linh nhiều hơn.”

“Quản trị thực tế không phải là điểm mạnh của tôi và điều này chắc chắn là một điểm yếu. Nhưng tôi không xem bản thân mình như là một thất bại.”

Đức Giáo Hoàng Danh dự cho biết ngài đã rất ngạc nhiên trước kết quả cuộc bầu cử khi các Hồng Y bầu cho Đức Phanxicô nhưng ngài “hài lòng” và “hạnh phúc” khi thấy vị tân Giáo Hoàng nói chuyện với đám đông từ ban công hướng ra Quảng trường Thánh Phêrô. Đức Giáo Hoàng Danh dự cũng ca ngợi Đức Thánh Cha Phanxicô như một người biết “cải cách thực tế.”

“Ngài là một tổng giám mục trong một thời gian dài, ngài hiểu biết mọi chuyện. Ngài là một bề trên của dòng Tên và có khả năng bắt tay vào hành động một cách có tổ chức. Tôi biết rằng đây không phải là điểm mạnh của tôi”.
 
Trung quốc bắt cóc một Giám Mục Công Giáo
Đặng Tự Do
02:15 10/09/2016
Chính quyền Trung Quốc đã bắt giữ một giám mục Công Giáo và đưa ngài đi xa khỏi giáo phận nơi ngài đang phục vụ, rõ ràng để ngăn chặn việc tấn phong ngài trong vai trò lãnh đạo mới của giáo phận. Thông tấn xã AsiaNews cho biết như trên hôm 8 tháng 9.

Đức Giám Mục Phêrô Thiệu Chúc Mẫn (邵祝敏) là Giám Mục phó giáo phận Ôn Châu với quyền kế vị. Ngài đã bị bắt giam ngay trước khi Đức Giám Mục Vinh Sơn Chu Duy Phương (朱維芳) qua đời vì bệnh ung thư. Các nguồn tin địa phương cho AsiaNews biết là Đức Cha Thiệu Chúc Mẫn hiện đang bị giam tại tây bắc Trung Quốc, cách xa giáo phận của ngài.

Giáo dân địa phương tin rằng ngài đã bị bắt cóc để không thể chủ trì tang lễ cho Đức Giám Mục Chu Duy Phương và không thể được tấn phong như là người kế nhiệm hợp pháp.

Các quan chức Trung Quốc không chấp nhận Đức Cha Thiệu Chúc Mẫn là Giám Mục Công Giáo vì ngài đã được Tòa Thánh công nhận, chứ không do Hội Công Giáo Yêu nước chỉ định.

Công an địa phương cũng đang tìm cách ngăn chặn các thành viên của Giáo Hội Công Giáo hầm trú tham dự tang lễ Đức Giám Mục Chu Duy Phương. Những người tham dự lễ tang phải có giấy phép của nhà cầm quyền. Chỉ có 400 giấy phép được dự trù cấp.
 
Đức Thánh Cha tiếp các Giám Mục xứ truyền giáo
LM. Trần Đức Anh OP
16:12 10/09/2016
VATICAN. ĐTC khích lệ các GM tại các xứ truyền giáo cảm nghiệm và biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa trong sứ vụ Giám Mục của mình.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 9-9-2016 dành cho 94 GM thuộc các xứ truyền giáo, đang tham dự khóa bồi dưỡng do Bộ truyền giáo tổ chức tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Phaolô ở Roma, cho đến ngày 16-9 tới đây. Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, và các chức sắc của Bộ.

Trong số các tham dự viên, có 6 GM Việt Nam, đó là Đức Cha Nguyễn Tấn Tước, Phú Cường, Đức Cha Nguyễn Văn Hai, GM Vĩnh Long, Đức Cha Nguyễn Hùng Vị, GM Komtum, Đức Cha Trần Văn Toản, Phụ tá Long Xuyên, và Đức Cha Nguyễn Hồng Sơn, Phụ tá Bà Rịa, Đức Cha Đỗ Mạnh Hùng, Phụ tá Sàigòn.

Huấn từ của ĐTC

Nhắc đến khóa học của các GM diễn ra trong Năm Thánh lòng thương xót, ĐTC nói rằng: ”Mỗi GM đích thân cảm nghiệm thực tại lòng thương xót của Chúa, và trong tư cách là đại diện ”Vị Đại Mục tử của đoàn chiên” (Dt 13,20), Giám Mục được kêu gọi biểu lộ bằng cuộc sống và sứ vụ Giám Mục, tình phụ tử của Thiên Chúa, lòng từ nhân, sự ân cần, lòng thương xót, sự dịu dàng và đồng thời biểu lộ thế giá của Chúa Kitô, Đấng đã đến để hiến mạng sống và làm cho tất cả mọi người thành một gia đình duy nhất, được hòa giải trong tình yêu của Chúa Cha”.

ĐTC nhắc nhở các GM thuộc các xứ truyền giáo rằng: ”Theo hình ảnh vị Mục Tử nhân lành, anh em được mời gọi chăm sóc đoàn chiên và đi tìm các con chiên, nhất là những chiên ở xa xăm hoặc lạc đường; tìm kiếm những thể thức mới để loan báo, đi gặp gỡ con người, giúp đỡ những người đã nhận hồng ân bí tích rửa tội tăng trưởng trong đức tin, để các tín hữu, cả những người ”nguội lạnh” hoặc không thực hành đạo, tái khám phá niềm vui đức tin và sự phong phú truyền giáo (EG 11). Vì thế, tôi khuyến khích anh em đi gặp cả những con chiên chưa thuộc đoàn chiên của Chúa Kitô”.

Trong bài huấn dụ, ĐTC cũng kêu gọi các GM quan tâm đến các giáo dân, khuyến khích, đồng hành và khích lệ các sáng kiến và nỗ đang có để duy trì niềm hy vọng và đức tin được luôn sinh động...

Các GM cũng cần chú ý đến việc đào tạo LM trong những năm ở chủng viện, và không quên đồng hành với họ trong việc thường huấn sau khi chịu chức. ”Anh em hãy cống hiến cho các linh mục một tấm gương cụ thể và hữu hình. Khi có thể anh em cũng hãy cố gắng tham dự với họ những giai đoạn chính trong việc huấn luyện, luôn chăm sóc cả chiều kích bản thân nữa”.

Chống chia rẽ

Sau cùng ĐTC cảnh giác các GM ”làm sao để những hoạt động mục vụ mà anh em cổ võ không bị thương tổn hoặc bị tiêu tán vì những chia rẽ hiện có hoặc có thể xảy ra. Chia rẽ là võ khí mà ma quỉ có trong tay nhiều nhất để phá hủy Giáo Hội từ bên trong. Hắn có hai võ khí, nhưng cái chính yếu là chia rẽ; võ khí kia là tiền bạc. Ma quỉ đi vào qua các túi và phá hủy bằng miệng lưỡi, với những lời nói hành nói xấu gây chia rẽ, và thói quen nói hành nói xấu là tập quán ”khủng bố”. Kẻ nói hành nói xấu là một ”tên khủng bố” ném bom để phá hủy. Xin anh em vui lòng chiến đấu chống chia rẽ vì đó là một trong những võ khí của ma quỉ để phá hoại Giáo Hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ. Nhất là những khác biệt vì các sắc tộc khác nhau trong cùng một lãnh thổ không được xen vào các cộng đồng Kitô đến độ ảnh hưởng trên thiện ích của các tín hữu. Giáo Hội luôn được kêu gọi vượt lên trên những sắc thái bộ lạc, văn hóa, và GM là nguyên lý hữu hình của tình hiệp nhất, có nghĩa vụi không ngừng xây dựng Giáo Hội địa phương trong tình hiệp thông của tất cả các phần tử của mình” (SD 9-9-2016)
 
Pháp phá vỡ âm mưu khủng bố gần nhà thờ Đức Bà Paris
Đặng Tự Do
16:25 10/09/2016
Tổng thống Pháp Francois Hollande đã ca ngợi các lực lượng an ninh vì đã bắt giữ được vào hôm thứ Sáu một nhóm nghi phạm khủng bố đang âm mưu một cuộc tấn công lớn.

Một quan chức Bộ Nội Vụ nói với hãng tin Reuters rằng bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã mưu toan tấn công nhà ga Lyon, một nhà ga xe lửa ở phía đông nam của Paris. Đó là một trong những nhà ga bận rộn nhất ở châu Âu.

“Có một nhóm đã bị tiêu diệt, nhưng còn những nhóm khác,” tổng thống Hollande nói. “Những thông tin từ các cơ quan tình báo đã cho phép chúng tôi hành động trước khi quá muộn.”

Vẫn còn bị quay cuồng sau hai cuộc tấn công lớn vào năm 2015, thủ đô Pháp đã trên bờ vực nguy hiểm hôm Chúa Nhật vừa qua, sau khi một người bán hàng báo cho cảnh sát về một chiếc xe hơi chứa đầy bình gas bị bỏ gần Nhà thờ Notre Dame. Đèn trên xe nhấp nháy trong vòng ít nhất hai giờ trước khi thu hút sự chú ý của người bán hàng này.

Khu vực này là một địa điểm du lịch thường xuyên thu hút các đám đông những người muốn đi bộ trên các đường phố và nhâm nhi cà phê tại các quán trên vỉa hè, tương tự như khu vực đường đi dạo bên bờ biển Nice trong cuộc tấn công hồi tháng Bảy đã giết chết 86 người và làm bị thương hơn một trăm người khác.

Hôm thứ Năm, nhà chức trách bắt giữ ba người phụ nữ, 19, 23 và 39 tuổi, bên ngoài Paris có liên quan đến âm mưu này. Người trẻ nhất, 19 tuổi, là Ines Madani, đã đâm một cảnh sát viên trong lúc bị bắt giữ. Chiếc xe hơi chứa đầy bình gas do cha của Madani đứng tên.

Cảnh sát Pháp đã bắt tiếp 2 người đàn ông và 2 phụ nữ khác, nâng tổng số những người bị bắt lên tổng cộng 7 người.

Theo đài phát thanh RTL, Madani đã viết một bức tâm thư ủng hộ quân khủng bố Hồi Giáo IS. Ba phụ nữ rõ ràng đã cố gắng trả thù cho cái chết của Abu Muhammad al-Adnani, là tên cầm đầu bộ máy tuyên truyền của quân khủng bố Hồi Giáo IS bị thiệt mạng tại Syria vào cuối tháng Tám vừa qua.

Trước khi chết, Adnani đã kêu gọi các tín đồ của Nhà nước Hồi Giáo hãy thực hiện các cuộc tấn công quy mô nhỏ trên “những kẻ không tin” ở châu Âu và Hoa Kỳ

Theo tờ Le Monde, Madani đã có hồ sơ với nhà chức trách từ năm 2015, khi cô không thành công trong việc rời Pháp đến Syria chiến đấu chung với hàng ngàn người nước ngoài đang tham gia chiến đấu trong hàng ngũ quân khủng bố Hồi Giáo IS.

Bộ trưởng Nội vụ Pháp, Bernard Cazeneuve, cho biết con số công dân và cư dân Pháp đến Syria để gia nhập bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã giảm đáng kể, nhưng bày tỏ quan ngại rằng khả năng của các vụ tấn công trong nước sẽ lên cao hơn khi những kẻ cuồng tín này chọn ở nhà để tham gia vào các cuộc khủng bố ngay trên đất Pháp.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo xứ Vĩnh Hòa Sàigòn: Mừng Sinh Nhật Đức Maria
Văn Minh
08:13 10/09/2016
Giáo xứ Vĩnh Hòa: Mừng Sinh Nhật Đức Maria

“Là Hội viên trong gia đình Lêgiô Mariae, chúng ta hãy vui mừng ca tụng và tung hô Mẹ. Đồng thời, mỗi người chúng ta hãy đưa về cho Mẹ những linh hồn khô khan, nguội lạnh, xa bỏ Chúa, đó là bông hoa dâng lên cho Mẹ và làm Mẹ vui lòng nhất”.

Xem Hình

Trên đây là lời chia sẻ của cha Gioakim Lê Hậu Hán, chánh xứ giáo xứ Vĩnh Hòa, giáo hạt Phú Thọ, trong Thánh lễ mừng kính Sinh nhật Đức Maria – bổn mạng của gia đình Lêgiô Mariae giáo xứ Vĩnh Hòa.

Thánh lễ trọng thể được cử hành lúc 18g00, ngày 08.09.2016, do cha xứ Gioakim Lê Hậu Hán chủ tế. Tham dự Thánh lễ, ngoài quý hội viên trong gia đình Lêgiô Mariae còn có các em thiếu nhi trong các lớp cùng đông đảo cộng đoàn trong giáo xứ Vĩnh Hòa cùng hiệp dâng.

Trước Thánh lễ, lúc 17g45, cha chủ tế, quý hội viên Lêgiô Mariae, các em thiếu nhi cùng cộng đoàn cung nghinh tượng Đức Mẹ xung quanh ngôi thánh đường hòa trong tiếng kèn đồng rộn rã qua bài hát “Dâng Mẹ”.

Sau phần công bố Tin Mừng, cha Gioakim đã chia sẻ cho các em thiếu nhi cùng cộng đoàn: Đức Maria sinh ra tại miền Galilêa, đất nước Israel, trong một gia đình bình thường như bao gia đình khác. Tuy nhiên, với Maria sinh ra đã mang lại cho cả nhân loại chúng ta được ơn cứu rỗi. Bởi vì, Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn làm trung gian trong chương trình cứu độ, và Thiên Chúa đã ban cho Mẹ bốn đặc ân sau: “Mẹ Thiên Chúa, đồng trinh chọn đời, vô nhiễm nguyên tội, và hồn xác lên trời”.

Cha Gioakim diễn giảng tiếp, mừng lễ Sinh Nhật Đức Maria hôm nay, cộng đoàn chúng ta nói chung, cách riêng đối với hội viên Lêgiô Mariae hãy vui mừng ca tụng và tung hô Mẹ. Đồng thời, mỗi người chúng ta hãy đưa về cho Mẹ những linh hồn khô khan, nguội lạnh, xa bỏ Chúa, đó là bông hoa dâng lên cho Mẹ và làm Mẹ vui lòng nhất. Qua đây, ngài nhắc nhở các em thiếu nhi hăng say cầu nguyện, hy sinh, năng rước lễ, và làm việc tông đồ.

Thánh lễ nối tiếp với lời nguyện tín hữu và dâng của lễ hèn mọn do quý hội viên cùng cha chủ tế dâng lên Thiên Chúa với tấm lòng thành kính.

Sau phần hiệp lễ, ông Gioan Baotixita Nguyễn Ngọc Thanh, Hội trưởng, thay mặt lên cảm ơn cha xứ Gioakim, quý chức HĐMVGX, đại diện các hội đoàn cùng cộng đoàn dân Chúa đã cùng hiệp dâng Thánh lễ được sốt sắng, bó hoa tươi thắm được vị đại diện dâng lên vị chủ chăn với tấm lòng cảm mến và biết ơn. Đáp lời, cha xứ thay mặt cộng đoàn có lời ngợi khen quý hội đã đáp lại mời gọi của ngài hăng say cầu nguyện, thăm hỏi những hội viên đau yếu, nâng đỡ nhau trong những việc đạo đức trong năm qua, và chúc mừng quý hội trong ngày lễ mừng bổn mạng bằng một tràng pháo tay giòn giã của cộng đoàn.

Thánh lễ kết thúc lúc 19g00. Sau đó, cha xứ cùng đại diện quý hội chụp chung tấm hình kỷ niệm.

Được biết, hiện nay, gia đình Lêgiô Mariae trong giáo xứ có 10 đội, mỗi đội có 8 đến 12 hội viên. Trong đó, có trên 100 hội viên hoạt động, cùng trên 100 hội viên tán trợ khác. Mỗi tuần, các đội họp một lần tại hội trường giáo xứ, hằng ngày đọc kinh Catina của Hội và làm những công việc bác ái cùng những sinh hoạt khác trong và ngoài giáo xứ.
 
Legio Mariae trong giáo hạt Củ Chi 10 năm thành lập Curia
Lm Vũ Xuân Hạnh
15:13 10/09/2016
HỘI ĐOÀN LEGIO TRONG GIÁO HẠT CỦ CHI

10 NĂM THÀNH LẬP CURIA

I. SINH NHẬT LẦN X CURIA CỦ CHI.

Đúng 10 giờ 30 thứ bảy ngày 10/9/2016, tại nhà nguyện Lòng Chúa thương Xót, giáo xứ Tân Thạnh Đông thuộc giáo hạt Củ Chi, giáo phận Phú Cường, Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ, người có nhiều tâm huyết với hội đoàn Legio Mariae, nguyên Giám mục giáo phận Phú Cường, Đặc trách Hội Thừa Sai Việt Nam đã chủ sự thánh lễ mừng Sinh nhật Đức Maria, mừng Đại hội thường niên Hội đoàn Legio Mariae và kỷ niệm 10 năm thành lập Curia trong Hội đoàn Legio Mariae hạt Củ Chi. Dịp này, Đức Cha cũng ban ơn Toàn xá nhân năm Thánh Kim khánh giáo phận Phú Cường.

Cùng đồng tế với Đức Cha còn có cha Phêrô Trương Huy Hoàng, Linh giám Comitium Phú Cường, các Cha Linh giám của các Preasidia thuộc các giáo xứ trong giáo hạt cùng một số linh mục trong giáo phận.

Thánh lễ còn có sự hiện diện của nhiều tu sĩ nam nữ, Ban Thường trực Senatus Việt Nam, Ban Quản trị Comitium Phú Cường, Đại diện các Curia: Hóc Môn (giáo phận Sài Gòn), Tha La, Bến Sắn, Phú Cường và số đông Hội viên hoạt động, tán trợ, bảo trợ thuộc Curia Củ Chi.

Đầu thánh lễ, Cộng đoàn tham dự lắng nghe đôi nét hình thành và phát triển của Hội đoàn Legio Mariae trong hạt Củ Chi. Trong bài giảng, Đức Cha Phêrô đề cao lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria trong Hội Thánh, đặc biệt, nơi các Hội viên Legio.

Đức Cha cũng đề cao nhiệt huyết truyền giáo mà Hội đoàn Legio nói chung và Curia Củ Chi nói riêng, đã dấn thân và vẫn tiếp tục miệt mài không mệt mỏi để danh Chúa hiển vinh và Nước Chúa lan rộng.

Đức Cha đề nghị mỗi Hội viên cố gắng hơn nữa, cộng tác phần mình, làm cho Hội đoàn Legio Mariae tại Củ Chi vững mạnh hơn, nhiều thành quả truyền giáo hơn và tăng số hội viên hơn.

Đến phần dâng lễ vật, ngoài bánh, rượu, hoa, nến, mọi người tham dự còn được mời gọi dâng mọi lao công; mọi nỗ lực xây dựng Nước Chúa; dâng từng con người trong Curia; dâng những cựu Hội viên đã từng sinh hoạt, nhưng bây giờ vì lý do nào đó, không thể sinh hoạt được nữa; dâng cả linh hồn các cha, các tu sĩ Linh giám và các Hội viên trong Curia đã qua đời; dâng cả những thăng trầm trong suốt mười năm để tạ ơn Chúa, để cùng quyết tâm trước Chúa sẽ vượt thắng tất cả chỉ nhắm một mục tiêu duy nhất: Vinh danh Chúa.

Sau lời nguyện hiệp lễ, người đại diện Curia Củ Chi cảm tạ ơn Đức Cha, quý cha, quý tu sĩ và mọi người đã nâng đỡ bằng việc cầu nguyện, cũng như nâng đỡ bằng nhiều hình thức khác trong suốt mười năm, để Curia Củ Chi có ngày hôm nay. Ông cũng xin mọi người tiếp tục cầu nguyện và nâng đỡ Curia Củ Chi, để Curia Củ Chi có thêm chỗ dựa và động lực mà thi hành sứ mệnh của mình.

Cuối cùng, trong lời huấn từ, Đức Cha Phêrô chúc mừng Curia Củ Chi, và cám ơn quý cha, quý tu sĩ Linh giám, cùng tất cả các Hội viên có mặt cũng như vắng mặt, đã tốn nhiều công sức để nuôi dưỡng Hội đoàn Legio trong giáo hạt và giáo xứ của mình.

Đức Cha mời gọi anh chị em Legio hãy nhiệt tâm hơn nữa để truyền giáo, để nâng đỡ những người bất hạnh, người nghèo, người bệnh tật, và giúp các cha sở trong mọi công tác của giáo xứ mà mình được giao.

II. ĐÔI NÉT HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Lá cờ của Hội đoàn Legio Marie bắt đầu tung bay trong Hạt Củ Chi, thuộc giáo phận Phú Cường vào những năm 70 của thế kỷ XX.

Lúc bấy giờ, toàn hạt chỉ có ba giáo xứ: Bắc Hà, Sơn Lộc, Tân Thông Hội có sự hiện diện của Hội đoàn Legio. Nhưng vì thời cuộc (nhất là thời gian sau chiến tranh), những đơn vị nhỏ bé này, tuy vẫn cố gắng hết sức để tồn tại, nhưng chỉ có thể hoạt động trong âm thầm.

Tuy vậy, các Hội viên không nản lòng. Cứ từng chút từng chút một, anh chị em lại tìm cách phát triển khi điều kiện cho phép.

Mãi cho đến trước năm 2006, toàn hạt có 11 Preasidia Senior, 2 Preasidia Junior. Trong đó giáo xứ Bắc Hà: 2; Sơn Lộc: 2; Bắc Đoàn: 1; Tân Thạnh Đông: 1, sinh hoạt tại Curia Hóc Môn, thuộc Comitium Sài Gòn - Tổng Giáo Phận Sài Gòn. Riêng 5 Preasidia của giáo xứ Tân Thông (trước là tân Thông Hội) thuộc Comitium Phú Cường.

Sau một thời gian chuẩn bị, các linh mục Linh giám cho các Preasidia đã thống nhất và tổ chức một buổi họp vào ngày 16/7/2006 nhằm chuẩn bị cho ngày thành lập Curia Củ Chi và bầu Ban Quản trị Hội đồng Curia.

Dưới sự chủ trì của Cha Quản hạt Phaolô Nguyễn Văn Khi, các thành phần tham dự gồm cha Đa Minh Nguyễn Đức Trung, Linh giám giáo xứ Bắc Hà; cha Giuse Nguyễn Trịnh Can, Linh giám giáo xứ Bắc Đoàn; đông đủ ủy viên của 11 Preasidia trong Giáo Hạt Củ Chi đã tiến hành bầu Ban Quản trị cho Hội đồng Curia Củ Chi đầu tiên, gồm:

. Trưởng: Anh Phêrô Lê văn Thượng.

. Phó: Anh Martino Nguyễn Anh Tuấn.

. Thư ký: Anh Giuse Nguyễn văn Nam.

. Thủ Quỹ: Chị Anna Đặng Thị Gương.

Hội đồng quyết định chọn Cha Đa Minh Nguyễn Đức Trung làm Linh giám tiên khởi Curia Củ Chi thuộc giáo phận Phú Cường.

Phiên họp của Curia Củ Chi lần đầu tiên được tổ chức vào ngày 6/9/2006, áp lễ Sinh nhật Đức Mẹ. Vì thế, Curia Củ Chi cũng chọn ngày sinh nhật Đức Mẹ 8/9 hàng năm là ngày truyền thống của Curia Củ Chi.

Sau 8 tháng sinh hoạt, anh trưởng Phêrô Lê Văn Thượng lâm bệnh nặng. Anh phó Martinô Nguyễn Anh Tuấn tạm thời đảm nhận quyền Trưởng Curia Củ Chi. Hội đồng đề cử anh Tôma Aquinô Nguyễn Văn Toán làm phó.

Sau đó, Preasidium Đức Mẹ Lộ Đức giáo xứ Tha La, trực thuộc Curia Tây Ninh, vì đường đi quá xa và cách trở, phương tiện đi lại cũng khó khăn, nhờ sự yêu thương quan tâm của các cha trong hai giáo hạt Củ Chi và Tây Ninh, đã sáp nhập vào Curia Củ Chi.

Tháng 8/2007 Curia Củ Chi thành lập Preasidium Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành giáo xứ Phú Hòa Đông và Preasidium Nữ Vương Ban Sự Bình An giáo xứ Tân Quy.

Tháng 7/2008 thành lập thêm Preasidium Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi tại Giáo Họ Lô 6 (nông trường Lô 6).

Như vậy, kể từ ngày thành lập đến năm 2008, chỉ trong vòng hai năm, Curia Củ Chi đã có 15 Preasidia.

Nhưng rồi anh Phó Tôma Aquinô Nguyễn Văn Toán, vì hoàn cảnh phải rời Hội đoàn Legio. Anh Giuse Đặng Hữu Sự được đề cử thay anh Tôma Toán.

Đến tháng 8/2010, Ban Quản trị Hội đồng Curia hết nhiệm kỳ. Cha Linh giám quyết định lưu nhiệm các anh chị em trong Ban Quản trị.

Ngày 15/8/2011 thành lập thêm Preasidium Đức Mẹ Thăm Viếng giáo xứ Mỹ Khánh.

Đây cũng là thời gian nhiều linh mục của giáo hạt Củ Chi thuyên chuyển (trong đó có nhiều cha Linh giám tại các giáo xứ). Vì thế, cần có sự sắp xếp lại nhân sự cho Curia Củ Chi.

Vài tháng trước ngày thuyên chuyển, ngày 19/3/2013, cha Linh giám Đa Minh Nguyễn Đức Trung và Hội đồng Curia Củ Chi bầu lại Ban Quản trị mới, gồm:

. Trưởng: Anh Vicente Trần Ngọc Thái.

. Phó: Anh Martino Nguyễn Anh Tuấn.

. Thư ký: Chị Anna Đặng Thị Gương.

. Thủ Quỹ: Chị Maria Lê Thị Thanh.

. Phụ tá thư ký: Anh Giuse Nguyễn văn Nam.

Sau 9 tháng sinh hoạt với Ban Quản trị mới, anh trưởng Vicente Trần Ngọc Thái được Chúa gọi về. Một lần nữa Ban Qản trị lại thay đổi:

. Trưởng: Anh Martino Nguyễn Anh Tuấn.

. Phó: Chị Anna Đặng Thị Gương.

. Thư ký: Anh Phancicô Assisi Nguyễn Văn Tới.

. Thủ quỹ: Chị Maria Lê Thị Thanh.

Curia Củ Chi tiếp tục phát triển: Tháng 3/2014 Cha Gioan Baotixita Nguyễn Minh Hùng được đề cử làm tân Linh giám cho Curia Củ Chi.

Ngày 30/7/2014 thành lập thêm Preasidium thứ 17 cho Giáo hạt, đó là Preasidium Nữ Vương Hòa Bình giáo xứ Củ Chi.

Tháng 1/2016, anh Thư ký Phancicô Tới, vì hoàn cảnh, đành ngưng hoạt động. Chị Thông tín viên Anê Đỗ Bích Hoa được bổ nhiệm vào Ban Quản trị với nhiệm vụ Thư ký thay anh Tới.

Nhờ ơn Chúa và sự chuyển cầu của Mẹ Maria, lá cờ Legio Marie đã được tung bay trên 11 giáo của giáo hạt Củ Chi.

Hiện nay, Curia Củ Chi có:

. 17 senior Preasidia. 2 junior Preasidia

. Số Hội viên hoạt động: 208; Hội viên tán trợ: 638; Hội viên Junior: 29

Thành phần Ban Quản trị hiện nay:

. Linh giám: Cha Gioan Baotixita Nguyễn Minh Hùng.

. Trưởng: Anh Martino Nguyễn Anh Tuấn.

. Phó: Chị Anna Đặng Thị Gương.

. Thư ký:Chị Anê Đỗ Bích Hoa.

. Thủ quỹ: Chị Maria Lê Thị Thanh.

III. KẾT.

Dẫu đã qua mười năm, thời gian chưa là chặng đường dài, nhưng vẫn là chặng dừng cần thiết để mỗi thành viên trong Curia Củ Chi nhận diện lại chính mình. Trong ngày vui này, các Hội viên cảm nhận hồng ân mà Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu và công nghiệp của Đức Maria, ban cho mình, cho cả Curia thật lớn lao.

Nhất là những ai, ngay từ buổi đầu đã có mặt, nếm trải mọi khó khăn và thuận lợi, chắc chắn càng cảm nhận sâu hơn nữa lòng thương xót của Thiên Chúa trong từng biến cố, từng hoàn cảnh.

Mười năm nhìn lại, những người Legio Củ Chi như chạm được điều mà tông đồ Gioan quả quyết: “Từ nguồn sung mãn của Chúa, tất cả chúng ta lãnh nhận từ ơn này đến ơn khác” (Ga 1, 16).

Đi cùng với lòng biết ơn Thiên Chúa sâu sắc, anh chị em còn thấy mình cần phải ăn năn tội. Bởi bao nhiêu lần bản thân hay tập thể đã có những rạn nứt, những đố kỵ, những lần ngại khó, ngại khổ, lười biếng… bỏ qua bao nhiêu sự hiện diện, bao nhiêu công tác cần thiết mà lẽ ra mình phải thi hành. Thậm chí bản thân từng người nhiều lần phạm tội xúc phạm đến Chúa, đến anh chị em của mình.

Giờ đây, từng người tham dự phải nhận lỗi trước Chúa, và xin lỗi nhau, xin lỗi anh chị em, vì sự bất toàn ấy, đã không ít lần gây nên những thương tích cho Hội Thánh Chúa.

Ước gì nhờ cảm nhận mọi hồng ân, nhất là hồng ân được Chúa tha thứ, mỗi anh chị em không giữ riêng mình, nhưng luôn ý thức trở thành những viên đá sống động xây dựng Hội Thánh, đủ sức cuốn hút nhiều người vào hội Legio, làm lan tỏa mạng lưới tông đồ, nhằm tôn vinh Thiên Chúa trong xã hội hôm nay.

VŨ XUÂN HẠNH (tổng hợp)
 
Comitium Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Melbourne Mừng Sinh Nhật Đức Mẹ
Trần Văn Minh
14:27 10/09/2016
Melbourne, Trong không khí mát mẻ của mùa Xuân, đoàn quân binh Đức Mẹ từ khắp các vùng trong Tổng Giáo phận Melbourne, đã hân hoan tập hợp nhau về Trung tâm Công giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm, dâng lễ mừng kính Sinh nhật Đức Maria và cũng là nữ tướng của đoàn quân binh Legio Mariae.

Mời xem hình

Đúng 5 giờ 30 chiều Thứ Bảy ngày 10 – 9 – 2016, tại Nguyện đường Thánh Vinh Sơn Liêm, đoàn quân binh Mẹ đã tề tựu trước bàn thờ Mẹ với hoa đèn rực rỡ để cùng nhau đọc kinh khai mạc Tessera, với tràng chuỗi Mân Côi. Lời kinh vang lên như tiếng kèn tập họp đã thu hút đoàn quân binh từ khắp các nẻo đường đổ về mỗi lúc một đông. Ngôi nguyện đường đã không còn chỗ trống, các anh chị em, trong những tà áo dài xanh, từ già tới trẻ đã cùng vang tiếng hát Kinh Catena.

Sáu giờ chiều, Linh mục Giuse Trần Ngọc Tân Quản nhiệm Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm và cũng là Linh giám của Comitium Các Thánh Tử Đạo Việt Nam TGP Melbourne, dâng lễ Mừng Sinh nhật Mẹ. Trong bài chia sẻ, với giọng nói lôi cuốn, thu hút mọi người, Cha quản nhiệm đã hết lời ca khen Đức Maria, với những ân đức tuyệt vời, Đức Maria còn là kho tàng ân sủng, Mẹ ban ơn cho hết thảy mọi người, Mẹ sẵn sàng đưa tay đón nhận con cái Mẹ trong mọi lúc gian nguy mà ai chạy đến cùng Mẹ sẽ không bao giờ thất vọng. Ca Đoàn Tin yêu của Legio đã dùng lời ca, tiếng hát để vinh danh Thiên Chúa và Mẹ Maria nâng Thánh lễ thêm phần long trọng hơn.

Sau Thánh lễ, Trưởng Mai Thanh Hải đại diện Comitium lên có đôi lời tâm tình dâng lên Mẹ như lời của đoàn con thảo dâng lên Mẹ nhân ngày Sinh nhật, cám ơn Cha Linh Giám cùng toàn thể cộng đoàn Dân Chúa, các đơn vị trong Comitium và toàn thể các anh chị em trong Legio Mariae đã về hiệp dâng Thánh lễ mừng kính Đức Mẹ. Và cũng thay mặt Comitium mời Cha Linh giám cùng cộng đoàn xuống hall của trung tâm để dự tiệc mừng và thưởng thức phần văn nghệ thật đặc sắc của Legio.

Vì số người rất đông, hội trường cũng không còn chỗ ngồi, một số phải đứng chật lối ra vào để xem văn nghệ của các anh chị em Legio trình diễn. Có đủ các bộ môn từ hợp ca, múa, hài kịch. Mở đầu chương trình Ca đoàn Tin yêu với hai bản hợp ca vui rồi đến màn múa. Các chị trong các đội Legio, tuy tuổi không còn trẻ, nhưng xem ra vẫn còn dẻo tay chân nên đã thể hiện các bài vũ thật trẻ trung, sống động làm cho hội trường vui nhộn hơn. Nhờ sân khấu đẹp âm thanh ánh sáng tốt, các diễn viên trang phục đẹp với phần nhiều là áo dài. Và sinh nhật Đức Mẹ, nên Hội đồng Comitium đã cũng cùng Cha Linh Giám cắt bánh sinh nhật trong tiếng hát vui mừng của cả hội trường.

Ngoài các chị với những màn vũ, các đội trẻ cũng có những hoạt cảnh, những màn vũ cũng thật tươi vui. Kết thúc chương trình được Curia Toma Thiện với màn hài kịch mang tính dân gian, vừa vui, vừa có ý thức công tác tông đồ Legio, mang lại tiếng cười cho cử tọa tham dự. Đêm văn nghệ mang đầy đủ ý nghĩa, vui mà lành mạnh, khán giả nhà vừa ngồi thưởng thức món ăn tinh thần, vừa thưởng thức các của ăn do các đơn vị đóng góp trong tinh thần Legio Mariae thật tuyệt vời. Xin Nữ tướng Maria ban muôn ơn lành cho hết thảy mọi người và cách riêng cho toàn thể hội viên Legio.



 
Lễ đặt viên đá xây dựng nhà thờ Nước Trời
Lm Nguyễn Hữu An
15:27 10/09/2016
LỄ ĐẶT VIÊN ĐÁ XÂY DỰNG NHÀ THỜ NƯỚC TRỜI

Sáng ngày 8.9.2016, Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, cha Tổng đại diện, quý cha ban Giám đốc Chủng viện Thánh Nicôla, quý cha Hạt trưởng và khoảng 60 linh mục đến dâng thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Nhà thờ Giáo Họ Nước trời – Giáo xứ Kim Ngọc. Quý tu sĩ nam nữ và chừng hơn ngàn khách mời đến hiệp thông cầu nguyện.

Xem Hình

Mấy cơn mưa lớn chiều và tối qua làm con đường vào xóm Nước trời vốn đã hẹp và khó đi nay càng khó đi hơn vì nhiều ổ gà ổ voi sủng nước. Quý cha, quý tu sĩ và quý khách thật ấn tượng với đội xe honda “trung chuyển” của giới trẻ chở từng người qua nhiều quanh co khúc khủy vào dự lễ.

Lễ đài và các khung rạp dựng tạm giữa khu đất rộng nằm giữa vườn thanh long và rau xanh.

Từ sáng sớm, Cha xứ, anh em Hội đồng giáo xứ và quý Hiền mẫu đã hiện diện đón tiếp quý khách xa gần, tay bắt mặt mừng hàn huyên chuyện trò, chia sẻ cho nhau những niềm vui và lo lắng cho công trình xây dựng trong tương lai.

Đúng 9giờ, đoàn đồng tế tiến lên lễ đài. Trước khi thánh lễ bắt đầu, vị đại diện HĐGX Kim Ngọc đọc sơ lược sử hình thành Giáo họ Nước Trời.

Ngược dòng lịch sử, cách đây gần 270 năm, vào khoảng năm 1748, một số giáo dân Công Giáo từ các vùng xứ Quảng miền Trung đã vào đây khai hoang lập nghiệp. Dấu tích còn lưu lại là những ngôi mộ cổ đặc biệt và những ngôi mộ đã được cải táng có ghi niên kỷ 230 năm tại khu Đất Thánh nhỏ - còn gọi là Mả Tộc nơi đây.

Vùng đất này vốn cằn cỗi không có nguồn nước ngọt cả khi đào giếng, một năm chỉ chờ nước trời mưa năm ba tháng để có nước dùng vào việc sinh hoạt và canh tác.

Các gia đình thời đó phải dùng rất nhiều mái lớn để tích trữ nước mưa dùng trong năm, còn trồng trọt chỉ làm được 01 vụ mùa. Do vậy các vị tiền bối đã đặt tên là Xóm Nước Trời, một cái tên nghe rất chân quê và có ý hướng tâm linh khi đặt trong ngữ nghĩa “Nước Thiên Chúa”.

Và cũng theo tương truyền, việc sinh hoạt đạo giáo thời đó được diễn ra trong những ngôi nhà tranh, vách đất, mái lá đơn sơ và các bậc tiền nhân cũng có ý nguyện cất một ngôi nhà nguyện nơi mãnh đất tộc này. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, những loạn lạc trong thời Pháp thuộc, số hộ dân nơi đây bị chuyển dời về bên này sông (vùng Nhà thờ Kim Ngọc hiện nay). Từ năm 1954, sau Hiệp định đình chiến, khoảng gần 60 gia đình trở về lại xóm Nước Trời này để sinh sống, cố giữ nhà cửa, mồ mả cha ông.

Đến giai đoạn năm 1963 trở đi, do ảnh hưởng thời cuộc chiến tranh lúc đó, đa số nhà cửa đều bị phá hủy, hiện vẫn còn một số nền nhà cũ xưa, dân chúng phải về cư trú ở vùng Nhà thờ Kim Ngọc. Ban ngày chỉ có một số ít người sang canh tác cầm chừng, chiều tối phải lội sông về lại bên này. Tình hình đó cùng với chiến sự kéo dài đến năm 1975, việc xây một nhà nguyện theo ước nguyện đành phải tạm dừng.

Sau ngày 30/04/1975, đất nước thống nhất, ngoài một số gia đình mưu sinh nơi khác, một số bà con giáo dân lần lượt quy tụ về lại vùng đất cũ Nước Trời tái lập cuộc sống. Hoàn cảnh kinh tế giai đoạn này vô cùng khó khăn, nhất là vùng đất có nhiều khắc nghiệt như nơi đây. Phương tiện giao thông cũng như các điều kiện sinh hoạt rất thiếu thốn bất lợi. Mãi đến năm 1994, vùng này mới có điện, rồi đến năm 1997 có nguồn nước hồ Sông Quao và năm 2002 thì có cây cầu Xóm Hộ. Đời sống kinh tế bà con ngày một được cải thiện kéo theo đó là sự phát triển dân số, số có gia đình mới sang lập nghiệp sinh sống ngày một đông hơn. Đến nay đã có hơn 90 hộ gia đình Công Giáo với trên 300 dân đang sinh sống tại vùng đất này và sẽ còn tiếp tục gia tăng.

Gắn liền với đà phát triển kinh tế cũng như dân số và các gia đình Công Giáo, là nhu cầu đời sống tâm linh của bà con giáo dân. Ai cũng muốn có một ngôi nhà thờ để sinh hoạt tôn giáo, có nơi cầu nguyện, đọc kinh dâng lễ giúp tâm hồn thanh thản sau những chật vật mưu sinh hằng ngày. Nhất là đối với những người già, người bệnh tật, trẻ em rất bất ổn khi phải đến Nhà thờ Kim Ngọc cách 3 km, khó khăn về đường xá, thời tiết mưa bão, đêm hôm.

Những nguyện vọng chính đáng đó cũng là sự trăn trở của Cha tiền nhiệm Giuse Nguyễn Kim Anh và Cha Giuse Nguyễn Hữu An quản xứ hiện nay. Ngoài việc chăm lo đời sống vật chất, các sinh hoạt của đời sống Đạo, các Ngài luôn thao thức cùng với những suy tư của giáo dân là có một ngôi nhà thờ cho Cộng đoàn nơi đây làm nơi thờ phượng Chúa, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, di nguyện của tiền nhân và cho tiềm năng phát triển của Giáo họ. Đức Cha Giuse đã luôn yêu thương động viên khích lệ và nâng đỡ bà con giáo dân họ Nước Trời.

Và hôm nay, những ước nguyện đó đang dần được hình thành qua Thánh lễ Tạ ơn – Đặt viên đá đầu tiên xây dựng Nhà thờ Nước Trời.

Đó là tâm tình đơn sơ về lược sử Giáo họ Nước Trời mà chúng con xin được trinh bày lên Quý Đức Cha – Quý Cha – Quý Khách và Cộng đoàn.

Chúng con chân thành tri ân.

Đức Cha Giuse khởi sự thánh lễ bằng kinh Vinh danh.

Từ các bài đọc Thánh Kinh, Đức Cha chia sẻ về 3 ý nghĩa của ngày lễ đặt viên đá.

- Từ bài đọc 1 (Is 56, 1.6-7) “Nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Mỗi một Nhà thờ được xây dựng lên là công trình dành cho Thiên Chúa, dâng kính Ngài. Nhà Thờ là địa chỉ dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa, mọi người tín hữu quy tụ lại sống tâm tình thờ phượng. Nhà Thờ là nơi hẹn hò, con cái dâng của lễ, và Chúa chúc lành ban ơn nên đây là địa chỉ gặp gỡ của hồng ân. Tc vô hình đâu cần nếp nhà hữu hình.chúc lành cho ước vọng bao đời. từ khởi sự cho đến đều nhờ vào hồng ân tc

- Từ bài đọc 2 (Cor 3, 9b-13.16-17), lời Thánh Phaolô nói đĩnh đạc: Anh em là những viên đá sống động xây dựng đền thờ Chúa Thánh Thần. Qua bí tích Rửa Tội mỗi người là một viên đá xây dựng Hội Thánh. Mỗi người nếu đặt riêng ra thì chẳng là gì cả, nhưng một khi đã nối kết với nhau sẽ làm nên công trình Hội Thánh. Chúa Thánh Thần là ximăng vĩnh cửu nối kết mọi người nên đền thờ sống động.

- Công trình xây dựng Nhà Thờ Giáo Họ Nước Trời. Theo Phúc Âm, đường vào Nước Trời là con đường hẹp, nay mỗi người vào đây đều cảm nghiệm cách thực tế bằng con đường từ Nhà Thờ Kim Ngọc vào Nước trời vừa nhỏ vừa quanh co uốn lượn khó đi. Tên gọi Nhà Thờ Nước Trời có một duy nhất trên giới. Dân cư sống nơi đây luôn đợi chờ nước trên trời đổ xuống để trồng trọt canh tác. Công trình xây dựng Nhà thờ mới cũng mong chờ ân lộc từ trời cao và nhiều đóng góp quảng đại của quý ân nhân.

Phần nghi thức với khởi đầu: Cha Hạt Trưởng Hạt Phan Thiết FX Phạm Quyền đọc văn thư cho phép xây dựng Nhà thờ Nước trời của ĐGM Giáo Phận Phan Thiết.

Sau đó, Đức Cha làm phép và đi rảy nước thánh trên diện tích đất xây dựng, rồi ngài làm phép viên đá và đặt vào nền móng. Đây là bước khởi đầu cho niềm hy vọng một giáo đường mọc lên nơi đây quy tụ nhiều người đến thờ phượng Thiên Chúa.

Cuôi thánh lễ, đại diện HĐGX Kim Ngọc dâng lời cám ơn, những bó hoa tươi thắm dâng lên Đức Cha, cha Tổng, cha Quản hạt, quý cha mừng 16 năm linh mục như tâm tình thảo hiếu tri ân.

Kết thúc thánh lễ, đoàn xe “trung chuyển” tiếp tục hành trình đưa mọi người về khuôn viên Nhà thờ Kim ngọc dự tiệc thân mật. Trời đổ mưa nên thật dịu mát trong lành.

Sau tiệc mừng, mọi người ra về và ai cũng cầu chúc cho ngôi nhà thờ mới sớm hoàn thành.

Nhà thờ không chỉ là một giá trị về vật chất và kiến trúc mà còn là dấu chỉ của niềm tin và sự hiệp nhất. Nhà thờ là nơi để quy tụ, cầu nguyện, cử hành thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Từ Nhà thờ, cộng đoàn Dân Chúa đi vào cuộc đời để cùng nhau kiến tạo đời sống hiệp nhất, yêu thương, bác ái và cùng nhau xây dựng đền thờ tâm hồn.

Xuyên suốt gần 3 thế kỷ, nhiều thế hệ lớn lên nơi mãnh đất này luôn khao khát một Nhà thờ mới khang trang để thờ phượng Chúa. Ước mơ cũng như làn sương mỏng. Từ những hạt sương mờ bụi, rồi dần dần đọng lên thành hạt sương sũng nước. Khi thời gian chín tới, những hạt sương sũng nước ấy trĩu nặng cho cọng lá thu trên cành rơi xuống. Đó là lúc ước mơ thành sự thật. Bền bỉ kiên nhẫn thì hơi sương của mơ ước rũ nặng cho cánh lá thu phải rơi xuống thành trái.

Hôm nay khởi sự các công trình mới xây dựng Nhà thờ Nước Trời.“Viên đá đầu tiên” cũng là “viên đá tiền đâu”. Luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, sự giúp đỡ của quý ân nhân xa gần, Nhà thờ và các công trình khác sẽ sớm hoàn thành vào một ngày không xa. Hiệp thông cầu nguyện và cầu chúc.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An
 
Giáo xứ Tân Phú Hòa : Lễ Hội Trung Thu
Martino Lê Hoàng Vũ
20:42 10/09/2016
Giáo xứ Tân Phú Hòa: Lễ Hội Trung Thu

Tối nay thứ bảy ngày 10.09.2016 tại Giáo xứ Tân Phú Hòa, hạt Phú Thọ, SG đã diễn ra lễ hội Trung thu cho các em thiếu nhi trong giáo xứ.

Xem Hình

Lúc 19 giờ, chương trình được bắt đầu với những gian hàng ẩm thực.Trước giờ sinh hoạt trời đổ một cơn mưa thật lớn từ lúc 17 g,sân nhờ thờ ướt sũng, khu vực văn nghệ đã được che phủ bằng một tấm dù lớn.Tuy mưa lớn, nhưng các em vẫn đến tham dự chương trình lể hội trung thu của giáo xứ thật đông đảo,càng tới giờ chương trình càng đông,làm chất kín khuôn viên nhà thờ.

Mỗi em thiếu nhi,không phân biệt đã học giáo lý hay chưa và kể cả các bạn thiếu nhi trong địa bàn giáo xứ không phải Công Giáo cũng được nhận phiếu ăn.Được biết, giáo xứ đã chuẩn bị hơn 1200 phần ăn cho các em thiếu nhi.

Sau khi đã ăn uống xong,các em đến với phần hai của chương trình lễ hội.Chương trình văn nghệ được bắt đầu,không khí lúc này trở nên nhộp nhịp hơn,tiếng cười nói, tràng pháo tay thật vui tươi phá tan cả cơn mưa ngoài trời.Hai bạn dẫn chương trình của đêm văn nghệ có lời chào mừng các em thiếu nhi,cám ơn cha chánh xứ đã tạo mọi điều kiện cho các em thiếu nhi một buổi tối vui trung thu.Các bài hát thiếu nhi quen thuộc của ngày Tết Trung thu với tiết tấu nhanh, biểu cảm vui tươi,cùng với những vở kịch ngắn kể về sự tích Chú Cuội, Chị Hằng làm cho các em thích thú theo dõi.Các em nhỏ thì được cha mẹ dẫn đi xem cũng tươi cười rộn rã,trên tay còn cầm xíc xích xiêm que.

Những vở kịch ngắn mời gọi các em sống tình yêu thương đoàn kết và chia sẻ với người nghèo, biết giúp đỡ những bạn học kém hơn mình,cùng nhau tiến bộ trở nên con ngoan trong gia đình và nhất là luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy,siêng năng tham dự thánh lễ và học hỏi giáo lý.

Xin tạ ơn Chúa đã ban cho các em thiếu nhi một ngày vui trung thu thật vui tươi và xin cám ơn các anh chị Huynh Trưởng đã chuẩn bị và tổ chức chu đáo ngày lễ hội này, để các em cảm nghiệm được cuộc sống là niềm vui và hồng ân Chúa ban cho mỗi người chúng ta.

Martino Lê Hoàng Vũ
 
Thánh lễ Tạ Ơn mừng Viện Mẫu tiên khởi tại Việt Nam
Lưu Truyền Bá
20:57 10/09/2016
Thánh lễ Tạ Ơn mừng Viện Mẫu tiên khởi tại Việt Nam

Con cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho con, và Người đã thương con như thế nào." (Mc 5,19). Đó là lời mở đầu của Cha Cố Đaminh Phạm Minh Thủy (chánh xứ Tân Thành, giáo phận Tp.HCM) trong thánh lễ Tạ ơn của nữ tu Maria Gioan Thánh Gia Phạm Ghi Tạc, Viện Mẫu tiên khởi của Giáo Hội Việt Nam tại quê hương giáo xứ Nam Dương, giáo phận Bùi Chu, ngày 09/09/2016.

18g00 đoàn lễ tiến từ trung tâm Mục vụ ra thánh đường cử hành thánh lễ Tạ ơn. Cha Cố Đaminh Phạm Minh Thủy chủ tế, cùng đồng tế có 2 cha dòng Xi-tô, cha xứ và các cha quê hương. Quý tu sĩ nam nữ quê hương và bà con giáo dân hiệp dâng thánh lễ tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho quê hương.

Trước khi vào thánh lễ, Cha quê hương Đaminh Savio Phạm Văn Vinh, thuộc dòng Xi-tô Phước Sơn giới thiệu cho quý cha và cộng đoàn biết về tước hiệu “Viện Mẫu”. Viện Mẫu là cách gọi của các chị em Nữ Đan Viện Xi-tô dành cho một người do Tổng Công Nghị của Hội Dòng Xi-tô bầu chọn lên để đứng đầu Đan Mẫu Viện. Viện Mẫu chính là người Mẹ của một Nữ Đan Viện. Viện Mẫu cũng có gậy và nhẫn. Gậy là quyền chăn dắt các đan sỹ trong Đan Viện của mình. Gậy dùng khi nhận lời khấn và cắm bên ngai của Viện Mẫu trong những giờ kinh phụng vụ. Nhẫn là dấu chỉ sự kết ước Chúa Ki-tô. Viện Mẫu chính là người được kết ước cách trọn vẹn với Chúa Ki-tô hơn. Cha Vinh cũng cho biết thêm: đây là Viên Mẫu tiên khởi của Giáo Hội Việt Nam nên đối với chúng ta tước hiệu này con xa lạ đối với nhiều người, nhưng tước hiệu này đã có từ lâu trong Giáo Hội, nhất là Giáo Hội Phương Tây.

18g20 thánh lễ bắt đầu. Cha Đaminh chủ tế mời gọi mọi người cùng hiệp ý với Viên Mẫu tiên khởi Tạ ơn Chúa, cầu nguyện cho ông bà tổ tiên và cho quê hương.

Chia sẻ trong thánh lễ, Cha Đaminh Savio Phạm Văn Vinh cũng cho biết lý do các thành phần dân Chúa gồm: các linh mục và các nam nữ tu sĩ quê hương cùng giáo dân quy tụ trong buổi cử hành phụng vụ thánh lễ hôm nay để cùng với Viện Mẫu tiên khởi Tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa đã thực hiện cho quê hương nói chung, cho Viện Mẫu và gia đình nói riêng: “Hồng ân Thiên Chúa bao la, muôn đời con sẽ ngợi ca ơn Người” (Hải Linh).

Trước hết, tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân thánh hiến mà Chúa đã ban tặng cho những người con ưu tú của quê hương thân thương này: các linh mục, các nam nữ tu sĩ và cách riêng là Viện Mẫu tiên khởi. Đó chính là quà tặng của Thiên Chúa ban cho Giáo Hội cũng như giáo xứ quê hương và bà con họ hàng thân thuộc. Chính nhờ những con người thánh hiến này mà Giáo Hội hoàn vũ cũng như Giáo Hội địa phương tiếp tục được nuôi dưỡng bằng nguồn ân sủng của bí tích qua thừa tác viên linh mục và lời cầu nguyện của các nam nữ tu sĩ.

Thứ đến, tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân Viện Mẫu tiên khởi cho Giáo Hội Việt Nam. Quà tặng này không chỉ là hồng ân riêng của nữ tu Maria Gioan Thánh Giá Phạm Ghi Tạc, của Đan Mẫu Viện Vĩnh Phước, của quê hương hay của dòng họ nhưng là của Giáo Hội Việt Nam. Tuy nhiên với hồng ân Viện Mẫu tiên khởi này đã đánh dấu một điểm son cho mảnh đất quê hương giáo xứ Nam Dương. Đó là lí do chúng ta cùng với Viện Mẫu tiên khởi: “Hãy cùng tôi ngợi khen ĐỨC CHÚA, ta đồng thanh tán tụng danh Người” (Tv 34,4).

Sau cùng, tạ ơn các bậc tiên tổ đã để lại cho con cháu nền tảng đức tin vững chắc vào Thiên Chúa và Giáo Hội. Cha cũng không quên cám ơn các ông bà cố đã quảng đại và hi sinh hiến dâng những người con cho Chúa và cho Giáo Hội trong đời sống thánh hiến để trở nên những tông đồ loan truyền lòng thương xót của Chúa bằng đời sống hoạt động cũng như chiêm niệm. Cách riêng giáo xứ quê hương đã ban tặng cho hội dòng nữ Xi-tô một người con mà nay đã là Viện Mẫu tiên khởi của Giáo Hội Việt Nam. Ngài cũng mời gọi các gia đình trong giáo xứ tiếp tục cầu nguyện và dâng hiến cho Giáo Hội những người con trong bậc sống tu trì của dòng cũng như triều.

Thánh lễ kết thúc lúc 19g20. Một vị đại diện cộng đoàn lên chúc mừng và tặng hoa Viện Mẫu tiên khởi. Sau đó, Viện Mẫu tiên khởi cũng dâng lời cảm tạ Thiên Chúa và cám ơn quý Cha, quý nam nữ tu sĩ và cộng đoàn đã vì tình thương mến về hiệp dâng thánh lễ tạ ơn Chúa và cám ơn tiên tổ với Viện Mẫu. Đồng thời Viện Mẫu cũng xin cộng đoàn tiếp tục cầu nguyện cho Viện Mẫu chu toàn bổn phận trong chức vụ mới này.

Được biết, nữ tu Maria Gioan Thánh Giá Phạm Ghi Tạc (Maria Phạm Thị Thìn) là con gái lớn của ông bà cố Phạm Văn Thứ. Người em gái là Maria Phạm Thị Tuyền cũng là nữ tu của dòng Xi-tô này. Khi Nữ Đan Viện Xi-tô Vĩnh Phước được nâng lên hàng Đan Mẫu Viện thì Tổng công nghị của Hội dòng Xi-tô đã bầu chọn chị làm Viện Mẫu. Nghi thức chúc phong Viện Mẫu tiên khởi đã được Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, giám mục Xuân Lộc chủ sự vào ngày Chúa Nhật 14 tháng 8 năm 2016 vừa qua tại Đan Mẫu Viện Xi-tô Vĩnh Phước.

Lưu Truyền Bá
 
Văn Hóa
Đồng Tiền Mất, Con Chiên Hoang, và Hồn Đi Lạc...
Nguyễn Trung Tây
02:40 10/09/2016
□ Nguyễn Trung Tây
Đồng Tiền Mất, Con Chiên Hoang, và Hồn Đi Lạc... (Luca 15:1-32)


Gặp tôi lang thang đầu đường xó chợ như sát thủ Cain (một đời bị Trời phạt lang thang đầu đường xó chợ cho hết một kiếp người trên mặt đất), bạn chặn tôi ngay giữa đường, phán một lời (một lời bình phẩm, một lời tuyên án, hay cũng có thể được gọi là một lời than): “Ông, tu sĩ bình bát, hơn nửa đời ngồi am nhỏ gõ những trang kinh mà nhìn mặt như người chưa bao giờ cảm nghiệm được một giây phút (trần gian gọi là) Ngộ!...”

Tôi, bất mãn kinh niên, nhăn nhăn vầng trán, “Cám ơn cho những lời nhận xét quý báu không ai cần tới. Nhưng cũng chả sao, tôi vẫn quý mến ông như thuả nào. Mà này, ông bạn, ông muốn nói điều gì? Làm ơn nói thẳng ra cho thiên hạ nhờ.”

Bạn nhìn vào mắt tôi, nói rõ từng âm, “Rất thành thực! Không khách sáo! Ông nhìn lạc đường quá!”

Ơi, tôi yêu mến làm sao những lời nói thẳng như ruột ngựa của người đối diện!

Tiếng Việt giọng Bắc của bạn thật chuẩn, thật dễ thương!

Bạn có phải thầy bói, nhà tướng số, hay tiên tri từ trong quá khứ (Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm/Trạng Quỳnh) đội mồ sống dậy, quay về thế giới đảo điên để phán một lời tuyên ngôn về ngày giờ tận thế?

Lạc đường là tôi!

Lạc đường là tên, dòng họ Lạc, con cháu Lạc Long Quân!

Lạc đường đã trở thành máu huyết luân lưu trong người. Lạc đường đã khắc ghi sâu trong tâm khảm. Lạc đường đã trở nên cá tính riêng biệt trời “cho” riêng tôi sở hữu. Tôi đã lạc ngay trong bụng mẹ từ thuả hồng hoang. Tôi nghĩ có lẽ mình chẳng muốn sinh ra trên cõi đời này làm chi, nhất là sinh ra làm người Việt Nam trong vòng một trăm năm vừa qua (thành thật mà nói, không ngại đụng chạm; bạn có giận, trách mắng tôi vong bản vong thân, tôi vẫn nói như thế; lời thật mất lòng!).

Tôi, tuổi mười ba, đã lạc khi nhìn thấy xe tăng T-54 lăn bánh trên đường Lê Văn Duyệt, một trong những đại lộ thủ đô Sài Gòn dẫn về tổng hành dinh của Nam Việt Nam, chính quyền hai đời Tổng Thống (nhân vật giờ thứ 25, không tính) mới vừa tuyên bố trên đài phát thanh, chúng tôi đầu hàng. Sài Gòn, 30 tháng 4, bầu trời xanh lơ trưa mùa xuân bỗng dưng mây đen kéo tới, xám đen âm u cả một góc trời thủ đô (đừng hỏi tại sao, tôi không dị đoan mê tín, tôi chỉ diễn tả những chi mình đã nhìn thấy vào giây phút ấy). Thành phố hỗn loạn trong cơn tháo chạy! Những cột khói bốc cao! Những khuôn mặt hốt hoảng! Những giọt lệ buồn tủi! Những tiếng kêu tuyệt vọng! Những tiếng hét kinh hoàng! Những tiếng đạn nổ tung xé rách toang thịt da! Tiếng đạn súng lục xuyên thẳng đầu người nghĩa khí chết theo thành! Những hàng người nối dài cho một chỗ ngồi trên chiếc trực thăng đậu cao trên nóc tòa nhà Đại Sứ Mỹ. Tựa như những chú ruồi nhằng bay rối loạn tung tóe trên một thân xác bắt đầu lạnh, bầu trời Sài Gòn bỗng dưng ngập tràn trực thăng di tản người thân ruột thịt!

Tôi đã lạc dưới bầu trời nắng lung lửa đỏ, bụng đói, trống rỗng với không một chén cơm (dù là cơm hẩm), ba năm liền đi bộ tới trường trung học Nguyễn Thượng Hiền. Một chén cơm trắng đơn giản bình thường khi đó bỗng dưng trở thành món hàng xa xỉ phẩm cho cậu bé thiếu niên của Sài Gòn, Sài Gòn một thời hãnh diện được gọi Hòn Ngọc Viễn Đông. Tại sao thiếu niên Phi Luật Tân, Mã Lai, Thái Lan cùng thời không có những ước mơ nhỏ nhoi như thế?

Tôi đã lạc ngay sau khi bị nhổ bật gốc khỏi quê nhà bởi cuộc chiến Việt Nam, một cuộc chiến đến ngày hôm nay, tôi vẫn thắc mắc, muốn tìm hiểu thật sự ra đâu mới là nguyên nhân chính. Bởi ngoại bang, Nga Sô? Mỹ? Kissinger bán đứng Việt Nam cho Trung Cộng? Hay bởi anh em nhân lên từ cùng một trứng đặt quyền lợi cá nhân lên trên hết, chủ nghĩa tư bản? chủ nghĩa cộng sản? chủ nghĩa cá nhân? thế là cùng một mẹ nhào vào, to miệng gào thét, tay cầm lựu đạn ném thẳng vào mặt nhau. Hay bởi tại cả hai, ngoại bang và người nhà? Thế là lịch sử lập lại, thêm một lần, Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà!

Tôi đã lạc khi bước chân lên tàu vượt biên, thuyền trôi lênh đênh trên mặt sóng, và tất cả những cô gái tuổi ươm mơ tóc dài đen lay láy trong khoang thuyền bị hạ nhục bởi ngư phủ xứ chùa vàng Thái. Khi bị tấn công bởi lưỡi dao vô tình, anh tôi ngã gục xuống sàn tàu, hét lớn, hai tay ôm mặt; và máu, những dòng máu đỏ nóng hổi tuôn chảy từ những ngón tay. Tôi, hốt hoảng với thảm kịch xảy tới cho người thân, không biết làm gì khác hơn, đứng giữa trời bật tung tiếng khóc!

Tôi đã lạc khi ngư phủ Thái xếp hàng những người thanh niên trên tàu. Từng người rồi từng người bị ngư phủ xứ Thái bạo hành. Tới phiên! Tôi nhắm mắt lại đợi chờ giây phút, nhưng ngư phủ Thái đã dừng lại nắm đấm giữa trời. Tôi nghĩ cũng có thể bởi khuôn mặt thất thần trắng xanh của mình. Hoặc bởi một lý do gì đó, có ai mà hiểu. Ngư phủ nhìn tôi, nhoẻn miệng cười, gỡ cặp kính của tôi ra, đeo vào mặt. Cặp kính cận dầy cộm, ai đeo cho nổi! Ngư phủ loạng choạng bước đi những bước chân xiêu vẹp! Đầu lắc lắc! Cặp kính cận rớt xuống, rơi thẳng một mạch xuống làn nước xanh đại dương. Tưởng thế là xong! Nhưng không, ngư phủ phóng theo vớt lại cặp kính. Một tay bám thành tàu, tay kia nắm chặt kiếng cận, ngư phủ nhảy lên tàu, cẩn thận đeo trả lại vào mắt chủ nhân cặp kính. Rồi lại quay sang người đứng kế bên, đánh tiếp, như chuyện bình thường, một chuyện phải xảy ra…

Tôi đã lạc trong khi hít thở bầu không khí ngột ngạt hôi thối của trại Sungai Besi, trại cấm Mã Lai hơn một năm trời. Trời nhiệt đới đổ tung lửa đỏ đốt cháy mái tôn nhà hộp đóng kín và khu "long house" dài thoàng tựa như tương lai mịt mờ vô định. Từng mảng rồi từng mảng hồn đã bị gậm nhấm, ăn mòn bởi đời sống trại cấm. Tôi chết khô vườn cỏ xanh tươi; đầu tóc đen rêu xanh phủ đầy!

Tôi đã lạc khi đặt chân lên đất Mỹ, vùng đất trần gian gọi đất hứa! Họ là ai, những người không có tóc đen bóng mượt? Tại sao mắt họ lại không là mầu nâu? Tại sao họ ăn bánh mì sandwitch với hambuger và cheese, nhưng lại không ăn cơm trắng với canh chua cá và thịt kho? Tại sao họ nhìn tôi với ánh mắt khinh khỉnh, coi thường! Tôi đã từng thắc mắc, nếu mình tới từ quốc gia, nơi xuất hiện thương hiệu Honda, Toyota, Sony, người Mỹ sẽ nhìn mình như thế nào? Hộ chiếu Japan, hộ chiếu Hong Kong, trăm năm vừa qua, rõ ràng khác với hộ chiếu tỵ nạn, nhất là tỵ nạn Việt Nam.

Tôi đã lạc khi nhận được tin Bố, trút hơi thở cuối đời tại Việt Nam trong khi mình đang lang thang tại xứ người, hơn một năm rồi. Một phần hồn của tôi đã chết, một góc tim bị xé rách toang, không bao giờ còn khả năng bình phục kể từ giây phút đó…

Và khi tôi quay về lại Sài Gòn cho một lần công tác… Người cùng chủng tộc nhìn tôi tựa như tôi chưa bao giờ chôn nhau cắt rốn ở quê mẹ. Trong ánh mắt họ, tôi là người Campuchia hoặc Thái. Có lần tôi lịch sự nói, “Cám ơn”, với cô chạy bàn trong tiệm Phở. Cô ta dừng lại một bước chân nhanh nhanh, quay đầu lại, mở miệng nói liền, “Ồ! Ông nói tiếng Việt giỏi quá!” Và cô ta hỏi tôi trong tiếng Anh, “Tại Phi Luật Tân, ông sống ở đâu? Thủ đô Manila?”

Thật thế à?

Lạc, hồn tôi lạc như ao tù nước đọng. Tôi hôi thối! Tôi hiểm ác!

Lạc, ngôn ngữ tôi hằn học nọc rắn độc!

Lạc, hồn tôi nhăn nheo tựa như trái táo khô để quên trong bếp từ lâu rồi. Tôi còn trẻ nhưng tâm già khằng, ngàn năm tuổi!

Lạc đã trở thành một phần tâm hồn!

Lạc, tôi lạc như Cô Tấm… Mẹ chết sớm, bố lấy vợ kế, rồi chết đi bỏ lại Cô Tấm một mình lạc loài bơ vơ trên cõi đời ô trọc với bà mẹ kế thiếu từ tâm và cô em Cám, giống tính mẹ.

Ngay cả khi tôi, đồng tiền quý giá được giữ gìn nâng niu tựa như kho tàng trong tay Chúa, qua hình ảnh của người phụ nữ, tôi vẫn đợi chờ cơ hội bỏ chạy! Đồng tiền đi lạc!

Ngay cả khi tôi, chú chiên be bé, dưới bàn tay nhân hậu của Chúa Chiên Lành, tôi vẫn rập rình đợi chờ cơ hội bỏ đi tìm kiếm dục vọng vệ đường! Con chiên lạc!

Ngay cả khi tôi, người con thứ, chạy đến cùng Chúa, đòi Ngài chia gia tài để tôi đốt hết vào đồi trụy đam mê! Người con đi hoang!

Lạc, tôi lạc như hai môn đệ trên đường Emmau…

Tôi thất vọng! Tôi lạc đường!

Chẳng trách chi bạn gọi tôi, Hồn Đi Lạc!

Tôi thất vọng với đời, với người và với mình! Tôi người họ Lạc!

Chẳng trách chi bạn gọi tôi, Hồn-Đi-Lạc!

Nhưng... Khoan!

Xin bạn dừng lại một bước chân. Xin bạn khoan, đừng bỏ đi! Bởi tôi nói chưa hết! Làm ơn cho tôi nói dứt lời...

Bạn,

Chính lúc hồn đi lạc, lại là lúc mình được tìm thấy, không phải bởi ai, nhưng Chúa Thiên Đàng qua hình ảnh của người phụ nữ với mười đồng tiền, người chăn chiên với đàn chiên trăm con! Chính lúc hồn thất vọng, lại là lúc hy vọng tràn đầy tuôn đổ trên hai bàn tay. Đồng tiền đã tìm thấy, con chiên lạc được bế lên vai, hai môn đệ thất vọng đã gặp Niềm Hy Vọng mới. Chuyện buồn chuyển mình hóa ra chuyện đẹp, chuyện cổ tích thơm tho ngọt ngào mùi cơm vừa chín tới.

Vâng, tôi lạc! Cũng chẳng sao!

Chúa chưa bao giờ bỏ rơi tôi!

Ngài tiếp tục cất công lên đường tìm kiếm tôi, đồng tiền đánh rơi, con chiên đi lạc,

bởi tôi quý giá trong đôi mắt Ngài.

Thế là no đủ! Ơn phúc dư thừa!

Vâng, tôi sinh ra đã lạc! Mang thân phận họ Lạc, sinh nhằm vào ngay một giai đoạn LẠC…

Bạn cứ gọi tôi tên Lạc!

Nhưng tôi vẫn no đầy phúc lộc trời cao! Mưa trời vẫn tiếp tục đổ xuống đầy tràn hai bàn tay trắng!

□ The Lost Coin, The Lost Sheep and The Lost SOUL (Luke 15:1-32)

Seeing me roaming in public like the murderer Cain, a restless wanderer on the face of the earth, you stop me at the middle of the road to pronounce a sentence, a statement, or perhaps, a complaint, “You’re Catholic, even a Catholic priest, and yet you don’t look redeemed!…”

I, in my capricious mood, raise my eyebrows, “Thanks for your precious comment which I don’t ask for. I love you, anyway. But what do you mean?”

“No offence! Be honest. You look lost, lost with capital L!” you stare at me.

Oh! How I love what you tell to my face.

Your Yankee English is perfect, “lost with a capital L.”

Are you a psychic reader, or a soothsayer, or a clairvoyant, or perhaps a prophet from the old returning to the chaotic world to announce the message of the doomsday?

“Lost” is me. “Lost” is my nickname. “Lost” has been ingrained in my blood. “Lost” has been engraved into my heart not by my choice. “Lost” has been characterized as my idiosyncracy! I was lost at the moment I was conceived in my mother’s womb. Anyway, I guess I did not choose to be born…

I was lost when seeing the first T-54 tank rolling on Lê Văn Duyệt, one of the main roads of Saigon, leading to the headquarters of the South Vietnam, a brand new defeated government. The cerulean blue sky at mid noon suddenly turned into grey one, and don’t ask me why; I just describe what I saw. The city was in chaos. The pillars of smog appeared almost everywhere! The Saigon’s sky was filled with many helicopters, just like numerous fruit flies, in their final attempts to evacuate their loved ones. The panicked faces! The emotional tears! The desperate cries! The loud scream! The long queues of people desperate for a seat on the helicopter on the top of the US Embassy building!

I was lost when under the scorching heat, without having a decent bowl of rice for my hungry stomach, I was walking on foot to the High school Nguyễn Thượng Hiền. A bowl of steamed rice was a luxurious dream for a teenager in Saigon, the city that was once called the Pearl of the Far East.

I was lost when I was uprooted from my homeland by the Vietnam War, the war that I continue to search for the real motive!

I was lost while aboard my fishing boat, drifting along in the ocean, and all the young girls in my boat were sexually assaulted by Thai fishermen. When my brother was attacked by a fisherman’s knife, he collapsed on to the wooden floor of the boat, he screamed out loud, his two hands covered his face, and blood, much blood streamed out between his fingers. I, panicked at the unexpected tragedy to my loved one, burst into tears…

I was lost when the fishermen lined the men up. One by one all the men on the fishing boat were hit by them. My turn came. I closed my eyes, waiting for the moment, but the fisherman stopped his thrusting in the middle of the air. I guess perhaps he noticed my frightened and wan face. Whatever reason that made him with hold his punch, I don’t know. He smiled at me and then removed my glasses and put them onto his eyes. A thick pair of my myopia glasses caused him to be dizzy! He stumbled on his feet! He shook his head. My glasses slide away from his face and went straight to the surface of the ocean. The fisherman jumped after them into the sea to rescue my glasses. One hand grasped to the side of the boat, the other held tight to my glasses, the man returned to the boat and then to me. To my surprise, he gently placed the pair of glasses on my face! And he moved to the next man. The beating continued as usual, as it should be…

I was lost when I was suffocated with the stale air in Sungai Besi, the detention camp in Malaysia. Piece by piece, the life in my soul was eaten by the life in the camp.

I was lost when I first set my foot on American soil. Who were these people, who did not have sleekly black hair? Why are their eyes not brown? Why do they eat sandwiches, hamburgers and cheese and not steamed rice with sour fish soup and pieces of salty pork?

I was lost when I much later received the news regarding my dad, who breathed his last in Vietnam when I had been wandering in the foreign land for over a year… A piece of my soul actually died, a part of my heart has been torn up and never recovered, ever since…

And when I return to my homeland… The people in my “apmara”/homeland treat me as if my umbilical cord was not buried in Vietnam. In their eyes I must be a Cambodian or Japanese. Once I said, “Cám ơn/Thank you” to the waitress at a Phở Restaurant in Vietnam. She at once became excited, “Your Vietnamese is impressive.”

Really?

She asked, “Where do you live in the Philippines? Manila?”

Really!

Lost, so my soul was just like a stagnant pond. I am filled with stench! I am vicious!

Lost, so my mind was shrunken just like a wizened apple that has been left on the shelf for too long. I was young but my mind was way advanced in age.

Lost, so my language occasionally becomes vitriolic.

Being lost has become part of my soul, my lost soul.

Even when I, a precious coin, was stored as a treasure in the hand of God, incarnated through the figure of a woman, I looked for a chance to escape from Her! The lost coin!

Even when I, a sheep, was under the loving care of the Good Shepherd, I very often waited for a chance to run off from Him for the taste of sensual pleasures! The lost sheep!

Even when I, the younger son, came to demand of God to divide the inheritance so I can spend it all on voluptuary! The prodigal son!

Lost, I was totally lost just like the two disciples on the Emmaus road… The two depressed disciples.

I am confused! I am disappointed! I am totally lost!

No wonder you call me lost with capital L.

But! (Hold on! Don't run away, for I haven't finished yet)... But,

I take comfort that in the midst of being confused, disappointed and lost, I have been found, not by anyone, but rather God: the woman who has ten coins, the good shepherd with the fold of one hundred sheep, the forgiving and compassionate father, and the New-Hope that I unexpectedly encounter on my own journey of faith. Yes, it is at the moment when I am lost, I have been found. Yes, it is at the moment when I am in despair, that I encounter the new hope, Jesus Christ, the risen One.

Yes, I am lost! So what!

God does not give up on me!

God continues to search for me, the lost coin, the lost sheep, the lost son, the lost disciple,

because I am very significant in God's eyes.

That's all I need! I am fully blessed!

□ Nguyễn Trung Tây
www.nguyentrungtay.webs.com
 
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu 06–12/09/2016: Thánh lễ tạ ơn nhân dịp lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têrêsa
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
07:56 10/09/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Thánh lễ tạ ơn nhân dịp lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta

Sáng thứ Hai 5 tháng 9, Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã chủ sự thánh lễ tạ ơn nhân dịp lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta.

Theo dự kiến ban đầu, thánh lễ này được dự trù tổ chức bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô. Tuy nhiên, vì số các tín hữu hành hương quá đông nên cuối cùng thánh lễ được tổ chức bên ngoài quảng trường Thánh Phêrô.

Đồng tế với Đức Hồng Y có hơn 30 Hồng Y, Giám Mục, gần 200 Linh mục, trước sự hiện diện của hơn 10 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô, trong đó có đông đảo các nữ tu thừa sai bác ái.

Ngày thứ Hai 5 tháng 9 cũng là lễ kính thánh nữ Têrêsa Calcutta và là ngày giỗ lần thứ 19 (1997) của Mẹ.

Trong bài giảng thánh lễ, Đức Hồng Y Quốc vụ khanh nhấn mạnh bí quyết cuộc sống và hoạt động của Mẹ Têrêsa là lời Chúa Giêsu như được công bố trong bài Tin Mừng của ngày lễ: “Thật, Thầy bảo các con, tất cả những gì các con làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Thầy, là các con làm cho Thầy” (Mt 25,40).

“Mẹ Têrêsa đã khám phá nơi những người nghèo, khuôn mặt của Chúa Kitô, 'Đấng đã trở nên nghèo vì chúng ta để làm cho chúng ta trở nên giàu có nhờ cái nghèo của Ngài' (Xc 2 Cr 8,9). Mẹ đã đáp lại tình yêu vô biên của Chúa bằng một tình yêu vô biên đối với người nghèo.. Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5,14).

Đức Hồng Y Parolin cũng nhận xét rằng: “Mẹ Têrêsa đã có thể trở thành một dấu dấu chỉ rất sáng ngời về lòng từ bi thương xót, như Đức Thánh Cha đã nói trong bài giảng lễ Phong thánh: 'Lòng từ bi thương xót đối với Mẹ là 'muối' mang lại hương vị cho mỗi hoạt động của Mẹ và là 'ánh sáng' chiếu sáng bóng đêm của những người không còn nước mắt để khóc sự nghèo khổ của họ', vì Mẹ đã để cho mình được Chúa Kitô soi sáng, Chúa Kitô được thờ lạy, yêu mến, chúc tụng trong Thánh Thể, như chính Mẹ đã giải thích: “Cuộc sống của chúng ta phải liên tục được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể, vì nếu chúng ta không có khả năng nhìn thấy Chúa Kitô dưới hình bánh, thì chúng ta cũng không có thể khám phá Chúa dưới những vẻ khiêm hạ của những thân thể tiều tụy của người nghèo” (Xc Teresa di Calcutta, L'amore che dissetta, p.16).

Trong bài giảng, Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cũng nhắc đến một trong những hình thức nghèo khổ đau thương nhất, đó là biết mình không được thương yêu, không được mong muốn và bị khinh rẻ. Đó là một thứ nghèo cũng hiện diện tại các nước và các gia đình không nghèo, và cả nơi những người thuộc giới có những phương tiện và khả năng, nhưng cảm thấy tâm hồn trống rỗng vì đánh mất ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời, hoặc bị thất vọng, sầu muộn vì những liên hệ bị phá vỡ, vì cô đơn trầm trọng, vì cảm tượng bị mọi người quên lãng hoặc không còn ích lợi gì cho ai nữa”.

Mẹ Têrêsa cũng coi các thai nhi chưa sinh ra và bị đe dọa trong cuộc sống như “những người nghèo nhất trong những người nghèo.. Từ đó mẹ đã can đảm bảo vệ những sự sống đang sinh ra, Mẹ nói thẳng thắn và có những hành động rõ ràng, là dấu chỉ sáng ngời về sự hiện diện của các Ngôn Sứ và Các Thánh, là những người không quì gối trước mặt ai ngoại trừ trước Đấng Toàn Năng”.

Sau cùng, Đức Hồng Y Parolin nhắc đến sự kiện khi Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, thành phố Calcutta hoàn toàn bị mất ánh sáng trong vài phút dài. Mẹ Têrêsa trên trái đất này đã là một dấu chỉ minh bạch chỉ Trời Cao. Trong ngày Mẹ qua đời, Trời Cao muốn cống hiến một dấu ấn cho cuộc đời của Mẹ và thông báo cho chúng ta rằng một ánh sáng mới đã được thắp lên trên chúng ta. Giờ đây, sau khi được chính thức nhìn nhận sự thánh thiện, ánh sáng của Mẹ càng chiếu tỏa rạng ngời hơn. Ước gì ánh sáng không tàn lụi của Tin Mừng, tiếp tục chiếu sáng cho cuộc lữ hành trần thế của chúng ta và những con đường của thế giới khó khăn này”

2. Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho việc Chăm Sóc Thiên Nhiên

Kính thưa quý vị và anh chị em

Cha Raniero Cantalamessa, nhà giảng thuyết của Phủ Giáo Hoàng, đã kêu gọi các Kitô hữu tôn vinh Thiên Chúa vì kỳ công sáng thế của Ngài. Theo cha, Thánh Phanxicô Assisi không cầu nguyện “cho thiên nhiên”, nhưng thay vào đó, ngài cầu nguyện “với thiên nhiên” hay “vì thiên nhiên”. Cha lưu ý rằng “sự cao trọng của con người so với vũ trụ” không bao hàm chủ nghĩa đắc thắng của loài người chúng ta nhưng bao hàm trách nhiệm đối với những người yếu đuối, người nghèo, người không ai bảo vệ.

Nhận xét của Cha Cantalamessa được đưa ra trong một bài giảng tại buổi kinh chiều ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô ngày 1 Tháng Chín, nhân Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho việc Chăm Sóc Thiên Nhiên, do Đức Giáo Hoàng Phanxicô chủ sự.

Mở đầu bài giảng, cha Raniero Cantalamessa nói:

Thế thì, hỡi con người, tại sao ngươi vô giá trị đến thế trong mắt riêng ngươi nhưng lại quý giá đến thế đối với Thiên Chúa? Tại sao ngươi làm cho mình nhục như vậy trong khi được Người qúi trọng đến thế? Tại sao ngươi hỏi ngươi đã được tạo ra cách nào mà lại không tìm biết lý do tại sao ngươi đã được dựng nên?

Những lời chúng ta vừa nghe đã được nói ra từ miệng Thánh Phêrô Kim Ngôn, Giám mục Ravenna, thế kỷ thứ 5, hơn 1,500 năm trước đây. Kể từ thời điểm đó, lý do khiến con người tự coi mình vô giá trị đã thay đổi, nhưng sự kiện thì vẫn còn đó. Thời Thánh Kim Ngôn, lý do đó là: con người “được lấy lên từ mặt đất”, họ là bụi đất và sẽ trở về bụi đất (xem St 3:19). Ngày nay, lý do của cảm thức vô dụng đó là: con người không đáng kể hơn hư vô trong sự bao la vô tận của vũ trụ.

Gần như có một sự cạnh tranh giữa các nhà khoa học không có tín ngưỡng về việc ai là người đi xa nhất trong việc khẳng định tính ngoại vi và vô nghĩa toàn diện của con người trong vũ trụ. Một trong số họ đã viết, “Giao ước xưa đã tan tành; cuối cùng, con người biết rằng họ cô đơn trong cảnh bao la vô cảm của vũ trụ, mà từ đó họ xuất hiện một cách tình cờ. Vận mệnh của họ không được mô tả ở bất cứ đâu, cả bổn phận của họ cũng thế”. Một nhà khoa học khác khẳng định: “Tôi vốn luôn nghĩ rằng tôi là vô nghĩa. Tiến tới chỗ biết được kích thước của vũ trụ, tôi thấy tôi thực sự vô nghĩa đến chừng nào! . . . Chúng ta chỉ là một chút bùn nhơ trên một hành tinh của mặt trời”.

Nhưng tôi không muốn nấn ná thêm ở tầm nhìn bi quan này hoặc ở các suy tư dựa trên lối quan niệm này về môi trường và các ưu tiên của nó. Một đệ tử của Dionysius thành Areopagus, vào thế kỷ thứ 6, đã đề ra sự thật tuyệt vời này: “Người ta không nên bác bỏ ý kiến của người khác, cũng không nên viết chống lại một ý kiến hay một giáo phái bề ngoài xem ra không tốt. Người ta chỉ nên viết nhân danh sự thật chứ không chống lại người khác”. Ta không nên biến điều này thành một nguyên tắc tuyệt đối bởi vì có lúc ta cần phải bác bỏ các học thuyết sai lầm và nguy hiểm. Nhưng trình bầy tích cực về sự thật chắc chắn có hiệu quả hơn luận bác các sai lầm chống lại nó.

Thánh Kim Ngôn tiếp tục bài giảng của ngài bằng cách giải thích lý do tại sao con người không nên nghĩ mình vô giá trị:

“Há toàn bộ vũ trụ hữu hình này không được tạo ra làm chỗ ở của ngươi sao? [...] Vì ngươi là các tầng trời được tô điểm bằng những độ rực rỡ khác nhau của mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao. Trái đất được trang trí bằng hoa lá, lùm cây, và hoa trái; và hằng hà sa số các sinh vật đáng yêu đã được tạo ra trên không, dưới đất và biển khơi cho ngươi, kẻo sự cô đơn buồn bã sẽ phá hủy niềm vui trong sáng thế mới của Thiên Chúa”.

Vị giám mục thành Ravenna chỉ đơn thuần tái khẳng định ý tưởng của Thánh Kinh về sự trổi vượt của con người so với vũ trụ mà Thánh Vịnh 8 từng hát về, với một linh hứng không kém trữ tình. Thánh Phaolô hoàn thành viễn kiến này bằng cách chỉ ra chỗ đứng của con người Chúa Kitô trong khung cảnh này: “Bất kể . . . là thế giới hay sự sống hoặc sự chết, hiện tại hoặc tương lai, tất cả đều là của anh chị em; và anh chị em là của Chúa Kitô; và Chúa Kitô là của Thiên Chúa “(1 Cr 3: 22-23). Ở đây, chúng ta được trình bày một “chủ thuyết môi trường có tính nhân bản hay nhân ái”, một chủ nghĩa môi trường tự nó không phải là một cùng đích nhưng có liên quan đến con người nhân bản, tất nhiên, không phải chỉ là những con người nhân bản ngày nay mà còn là những con người nhân bản trong tương lai nữa.

Tư duy Kitô giáo chưa bao giờ ngưng tự hỏi mình đâu là lý do dẫn tới sự siêu việt của con người nhân bản này so với những phần còn lại của thiên nhiên và đã luôn tìm thấy lý do này trong sự khẳng định của Kinh Thánh rằng con người nhân bản đã được dựng nên “theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa” (xem St 1 : 26).

Sự thấu hiểu mà thần học ngày nay, cũng như cuộc đối thoại mới mẻ với tư duy Chính Thống Giáo, đạt tới để giải thích điều này cách thỏa đáng đã giúp ta hiểu theo hình ảnh của Thiên Chúa có nghĩa là gì. Mọi sự đều dựa vào sự mặc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi do Chúa Kitô mang tới. Con người nhân bản được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa theo nghĩa: họ tham dự vào bản chất thâm sâu của Thiên Chúa, vốn là một tương quan yêu thương giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thánh Tôma Aquinô định nghĩa các Ngôi Vị Thiên Chúa là “các mối tương quan tự hữu” (subsistent relations); các ngài không có tương quan với nhau nhưng các ngài là chính mối tương quan đó.

Chỉ có những con người nhân bản, bao lâu còn là những ngôi vị và do đó có thể có các tương quan tự do và ý thức, mới tham dự vào chiều kích có tính ngôi vị và tương quan này của Thiên Chúa mà thôi. Vì Thiên Chúa Ba Ngôi là một sự hiệp thông yêu thương, nên Thiên Chúa đã dựng nên mỗi con người như một “hữu thể có tương quan”. Đây là ý nghĩa của việc mỗi con người là “hình ảnh của Thiên Chúa”.

Điều rõ ràng là có một phân cách có tính hữu thể giữa Thiên Chúa và các thụ tạo nhân bản. Tuy thế, nhờ ơn thánh (và không bao giờ được quên điểm này!), sự phân cách này đã được rút ngắn đến độ ít còn sâu xa hơn so với sự phân cách hiện hữu giữa con người và các phần còn lại của sáng thế. Đây là một lời khẳng định táo bạo, nhưng có căn bản trong Kinh Thánh vì Kinh Thánh xác định rõ: con người được Chúa Kitô cứu chuộc, thành “những người dự phần vào bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1: 4).

Tuy nhiên, phải đợi tới lúc Chúa Kitô xuất hiện, sự mạc khải trọn vẹn về ý nghĩa của hình ảnh Thiên Chúa mới có. Người là “hình ảnh truyệt hảo của Thiên Chúa vô hình” (Col 1:15); như các Giáo Phụ vốn nói, chúng ta là “hình ảnh của hình ảnh Thiên Chúa” theo nghĩa chúng ta “ được tiền định trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm 8:29), được dựng nên “nhờ Người và cho Người” (Cl 1 : 16) vốn là Ađam mới.

Ở đây, một luận bác lập tức phát sinh và không phải chỉ từ phía người không tin. Há đây không phải chỉ là thái độ đắc thắng của chủng loài chúng ta? Há điều này không dẫn đến một sự thống trị bừa bãi của con người nhân bản đối với các phần còn lại của sáng thế với những hậu quả rất dễ tưởng tượng được và không may đang xảy ra đó sao? Câu trả lời là không, là không, nếu con người nhân bản thực sự hành động theo hình ảnh Thiên Chúa. Nếu một con người nhân bản là hình ảnh của Thiên Chúa theo nghĩa họ là “một hữu thể có hiệp thông”, thì điều này có nghĩa: con người càng ít ích kỷ, càng ít khép kín trong chính mình, càng ít quên người khác, thì họ càng có tính nhân bản đích thực hơn.

Sự cao cả của con người so với vũ trụ, do đó, không bao hàm thái độ đắc thắng của chủng loại chúng ta nhưng bao hàm việc đảm nhận trách nhiệm đối với những người yếu đuối, nghèo nàn, không được bảo vệ. Lý do duy nhất khiến những người như thế phải được tôn trọng, dù họ không có đặc quyền và các tài nguyên nào khác, là vì họ đều là những con người nhân bản. Thiên Chúa của Kinh Thánh, và cũng của các tôn giáo khác, là một Thiên Chúa “nghe tiếng kêu của người nghèo”, “có lòng thương xót đối với người yếu đuối và nghèo khổ”, “bảo vệ chính nghĩa của người cùng khổ”, “thực hiện công lý cho người bị áp bức”, “không khinh thường bất cứ điều gì Người đã dựng nên”.

Việc Nhập Thể của Ngôi Lời đã mang lại thêm một lý do để chăm sóc những người yếu đuối và người nghèo, bất kể chủng tộc hay tôn giáo của họ. Thực ra, việc Nhập Thể không chỉ muốn nói “Thiên Chúa đã làm người”, nó còn chứng tỏ Người quyết định trở nên loại người nào: không phải người giầu và quyền thế, mà là người nghèo, người yếu đuối, và không có khả năng tự vệ. Một con người nhân bản, chỉ có thế! Cung cách Người Nhập Thể cũng không kém quan trọng so với sự kiện Người Nhập Thể.

Đây là bước tiến mà Thánh Phanxicô Assisi, nhờ kinh nghiệm cuộc sống của ngài, đã để lại cho thần học. Trước ngài, người ta hay nhấn mạnh gần như độc hữu tới các khía cạnh hữu thể của việc Nhập Thể: bản tính, ngôi vị, kết hợp ngôi vị (hypostatic union), chuyển thông đặc tính (communication of idioms) v.v… Điều này cần thiết để phản công lạc giáo, nhưng một khi tín điều đã được thiết lập, người ta không thể dừng lại ở đó mà không làm cho mầu nhiệm Kitô giáo trở thành khô cằn và làm cho nó mất đi một phần lớn sức mạnh của nó trong việc chống lại tội lỗi và bất công trên thế giới.

Điều làm Thánh Phanxicô rơi nước mắt trước máng cỏ Giáng Sinh không phải là sự kết hợp giữa các bản tính hay sự thống nhất của ngôi vị nhưng là sự khiêm nhường và nghèo khó của Con Thiên Chúa, Đấng “mặc dù giàu có, nhưng vì anh chị em, đã trở nên nghèo nàn” (2 Cr 8: 9). Đối với Thánh Phanxicô, yêu cảnh nghèo và yêu thiên nhiên đi đôi với nhau và phát xuất từ cùng một sự từ bỏ triệt để ước muốn sở hữu bất cứ điều gì. Ngài thuộc về loại người mà Thánh Phaolô vốn mô tả “như không có gì cả, nhưng lại sở hữu mọi thứ” (2 Cr 6:10).

Đức Thánh Cha tiếp nhận sứ điệp này khi ngài đưa ra “mối tương quan mật thiết giữa người nghèo và sự mong manh của hành tinh”, một trong các quan tâm căn bản trong thông điệp của ngài về môi trường. Đâu là điều đã gây thiệt hại lớn nhất cho môi trường và đồng thời cho cảnh khốn cùng của một số rất đông người ta, nếu không phải là lòng dục vô độ của một số người chỉ muốn gia tăng tài sản và lợi nhuận của họ một cách không tương xứng? Người ta nên áp dụng điều người xưa vốn nói về cuộc sống trên trái đất: “vitaque mancipio nulli datur, omnibus usu” - “Cuộc sống không phải là một cấp khoản toàn quyền sử dụng; cuộc sống là một khoản cho vay”.

Đôi lúc, chúng ta được nhắc nhở một cách sống sượng sự thật này: chúng ta không phải là những chủ nhân ông của trái đất, bằng các biến cố như trận động đất tuần trước, xẩy ra cách đây không xa. Rồi, câu hỏi mà chúng ta luôn luôn hỏi lại quay trở lại một lần nữa: “Thiên Chúa ở đâu?” Chúng ta đừng mắc sai lầm khi nghĩ rằng chúng ta có câu trả lời dễ dàng cho một câu hỏi như vậy. Chúng ta khóc với người khóc, như Chúa Giêsu đã làm khi đối diện với nỗi buồn sầu của người góa phụ thành Naim hoặc chị em của Ladarô.

Tuy nhiên, đức tin cho phép chúng ta nói một điều gì đó về việc này. Thiên Chúa đã không thảo chương việc sáng thế như thể nó là một chiếc đồng hồ hoặc một máy vi tính trong đó mỗi chuyển động đều được lập trình ngay từ đầu, ngoại trừ một số cập nhật định kỳ. Bằng phép loại suy với những con người nhân bản, chúng ta có thể nói tới một thứ “tự do” nào đó mà Thiên Chúa đã ban cho vật chất để nó biến hóa theo các quy luật riêng của nó. Theo nghĩa này (nhưng chỉ theo nghĩa này mà thôi!), chúng ta mới có thể chia sẻ quan điểm với các nhà khoa học không có đức tin, chuyên nói tới “tình cờ và tất yếu”. Trong biến hóa, mọi thứ hình như xảy ra một cách “tình cờ”, nhưng chính “tình cờ” cũng là một phần trong kế hoạch của Đấng Tạo Hóa và không hiện hữu “một cách tình cờ”.

Sự kiện này mang theo nó nhiều nguy hiểm đáng sợ cho người ta nhưng cũng gia tăng nhân phẩm của họ; nhờ thế, nhân loại được mời gọi đọ sức với các thách thức của biến hóa. Người Hoà Lan đã phải đấu tranh hàng nhiều thế kỷ để tránh bị Biển Bắc nhận chìm, và trong cuộc đấu tranh này, họ đã đặt ra một câu nói nổi tiếng: “Luctor et emergo”, “Tôi đấu tranh và tôi nổi lên được”.

Một ngày kia, sẽ có “trời mới và đất mới” (2 Pt 3: 13), thoát khỏi mọi lệ thuộc và suy sụp, nhưng điều này sẽ xảy đến vào tận cùng thời gian khi chính loài người sẽ được hoàn toàn và vĩnh viễn thoát khỏi tội lỗi và sự chết (x Rm 8: 19-23). Tuy nhiên, một điều Chúa Giêsu muốn bảo đảm với chúng ta là: tạo vật nhân bản sẽ không bao giờ bị hoàn toàn lệ thuộc vào lòng thương xót của các yếu tố trần gian: “Há năm con chim sẻ không chỉ đáng hai đồng xu đó sao? Ấy thế nhưng, không con nào bị quên lãng trước mặt Thiên Chúa. Tại sao, ngay cả các sợi tóc trên đầu của các con cũng đều đã được đếm hết. Các con đừng sợ; các con có giá trị hơn các con chim sẻ nhiều”(Lc 12: 6-7).

Do đó, với câu hỏi “Thiên Chúa ở đâu vào đêm 23 tháng 8”, người tín hữu không ngần ngại trả lời một cách khiêm tốn rằng “Người ở đó, chịu đau khổ với các tạo vật của Người và nhận vào bình an của Người các nạn nhân đang gõ cửa Thiên Đường của Người”.

Bài đọc trích từ Sách Khôn Ngoan mà chúng ta nghe trước bài đọc giáo phụ của Thánh Kim Ngôn nói với chúng ta về bổn phận đầu tiên và căn bản của con người nhân bản bắt nguồn từ địa vị ưu tuyển của họ giữa lòng thiên nhiên. Nó nói rằng:

“Tất cả những ai không chịu nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất đều là những kẻ ngu si;

Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng hiện hữu,

và khi chiêm ngắm bao công trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hoá Công” (13: 1).

Thánh Phaolô, trong Thư gửi tín hữu Rôma, đã tiếp nối đề tài nổi tiếng này nhưng hơi thay đổi một chút để thích ứng với mọi người chúng ta và làm chúng ta thấy gần gũi hơn. Liên quan đến việc sáng thế, ngài nói, tội lỗi không hệ nhiều ở việc thất bại vượt lên trên nó và nhận ra Đấng Tạo Hóa, cho bằng hệ ở việc thất bại tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa: “vì, mặc dù biết Thiên Chúa, nhưng họ đã không tôn vinh Người là Thiên Chúa hay tạ ơn Người “(Rm 1:21).

Đây không chỉ là tội của tâm trí mà còn là tội của ý chí, và không chỉ là tội của những người vô thần và thờ ngẫu tượng mà còn là tội của những người biết Thiên Chúa. Thực vậy, ngay sau đó, Thánh Tông Đồ bao gồm vào số những người “không có lý do bào chữa” những ai đã được ban mặc khải, và, vững tin vào kiến thức này, cảm thấy an toàn và kết án mọi người khác trên thế giới, mà không nhận ra rằng nếu họ tìm kiếm vinh quang của chính họ thay vì vinh quang của Thiên Chúa, họ đã phạm cùng một thứ tội như người không tin (xem Rm 2: 1tt).

Có rất nhiều nghiã vụ mà con người nhân bản phải có đối với thiên nhiên, một số nghĩa vụ cấp bách hơn những nghĩa vụ kia: nước, không khí, khí hậu, năng lượng, bảo vệ các loài có nguy cơ, v.v… Người ta nói tới những vấn đề này ở tất cả các địa điểm và cuộc họp có bàn tới sinh thái. Tuy nhiên, có một nghiã vụ đối với thiên nhiên mà chúng ta không thể nói tới ngoại trừ trong một cuộc gặp gỡ của các tín hữu, và, do đó, đặt nó lên hàng đầu và ở giữa buổi cầu nguyện hôm nay quả là điều tuyệt đối thích đáng. Nghĩa vụ đó là chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa vì đã sáng thế. Một sinh thái thiếu tôn vinh khiến vũ trụ ra mờ đục, giống như một bản đồ thủy tinh khổng lồ về thế giới mà không có ánh sáng để rọi sáng nó từ bên trong.

Nghĩa vụ hàng đầu của con người nhân bản đối với thiên nhiên là đem lại cho nó một tiếng nói: Một thánh vịnh đã ca rằng “Các tầng trời và trái đất đầy vinh quang Chúa” (xem Tv 148: 13; Is 6: 3). Có thể nói: các tầng trời và trái đất đang mang thai vinh quang Thiên Chúa, nhưng tự chúng, chúng không thể hạ sinh nó được. Giống người phụ nữ mang thai, cả chúng cũng cần bàn tay của bà đỡ để mang vào đời điều chúng đang mang thai. Và các “bà đỡ” của vinh quang Thiên Chúa này phải là chính chúng ta, các tạo vật đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Tông Đồ cũng ám chỉ điều này khi ngài nói tới một thiên nhiên “đang rên rỉ và đau khổ vì sắp sinh đẻ cho đến bây giờ” (xem Rm 8:19, 22).

Vũ trụ đã chờ đợi lâu la xiết bao, đoạn đường thi đấu của nó dài biết chừng nào, mới đạt tới điểm này! Phải mất hàng tỷ năm, vật chất mờ đục mới biến hóa hướng tới ánh sáng ý thức như nhựa cây chầm chập từ dưới mặt đất dâng lên tới đỉnh cây và chuyền vào lá, vào hoa và trái của nó. Ý thức này cuối cùng đã đạt được khi “hiện tượng nhân bản”, nói theo thuật ngữ của Teilhard de Chardin, xuất hiện trong vũ trụ. Nhưng giờ đây, khi vũ trụ đã đạt tới mục tiêu này, người ta hy vọng rằng con người nhân bản sẽ thi hành nghĩa vụ của mình và, có thể nói, tiếp nhận trách vụ điều khiển ban hợp ca và cất cao lời ca “Vinh danh Thiên Chúa trên trời!”, nhân danh toàn bộ sáng thế.

Người từng làm nhiệm vụ này theo nghĩa đen là Chân Phúc Dòng Đa Minh Henry Suso, biệt danh là “Thánh Phanxicô của Swabia”. Ngài để lại cho chúng ta chứng từ cảm động này:

“Khi tôi hát. . . những lời này [Bài sursum corda (hãy nâng tâm hồn lên)] trong thánh lễ. . . chúng đem tôi lên với Thiên Chúa,. . . và tôi tụ tập [trong tâm trí của tôi] mọi tạo vật được Thiên Chúa tạo dựng xưa nay ở trên trời, dưới đất, và trong mọi yếu tố, mỗi thứ riêng rẽ với đủ tên gọi, bất kể là chim trời, thú rừng, cá nước, cỏ cây trên đất, hoặc vô số cát biển, và với các vật này, tôi còn thêm mọi đốm bụi đang lung linh trong các tia nắng mặt trời, mọi giọt nước nhỏ đã rơi xuống và còn đang rơi xuống từ sương, tuyết hoặc mưa. . . Và rồi là vòng tay yêu thương của linh hồn tôi. . . tự mở rộng ra về phía vô số tạo vật, và. . . y hệt một ca trưởng tự do và yêu đời của một ca đoàn đang thúc đẩy các ca viên của mình. . . [Tôi khuyến khích] chúng ca hát hân hoan, và dâng trái tim chúng lên Thiên Chúa”.

Các tín hữu chúng ta phải là tiếng nói không những nhân danh mọi tạo vật khác mà còn nhân danh các anh chị em không có ân sủng đức tin của chúng ta. Đặc biệt, chúng ta đừng quên tôn vinh Thiên Chúa vì các thành tựu tuyệt vời của kỹ thuật. Đã đành, chúng quả là sản phẩm của con người nhân bản, nhưng những con người này là của ai? Ai đã tạo ra họ? Tôi vốn tự hỏi mình câu hỏi này và tôi xin lớn tiếng lặp lại nó ở đây: Chúng ta có thực sự tôn vinh Thiên Chúa vì các tạo vật của Người hay chúng ta chỉ nói chúng ta sẽ tôn vinh? Phương thức của chúng ta chỉ là lý thuyết hay còn là một thực hành? Nếu chúng ta không biết làm thế bằng lời lẽ riêng của chúng ta, thì chúng ta hãy làm thế bằng các Thánh Vịnh. Trong các thánh vịnh này, thậm chí các con sông cũng được mời vỗ tay hoan hô Đấng Tạo Hóa (xem Tv 98: 8).

Tôn vinh Thiên Chúa không phải vì lợi ích của Người nhưng vì lợi ích của chúng ta. Với việc tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta “giải phóng sự thật” (xem Rm 1:18); thiên nhiên được cứu chuộc khỏi tính hay sa đọa và ưa hư danh, mà các tội lỗi của con người nhân bản đã kéo nó vào, và hiện nay, sự vô tín của thế giới vẫn còn đang kéo nó vào (xem Rm 8: 20-21). Một trong những kinh tiền tụng của Thánh Lễ đã thân thưa với Thiên Chúa như sau:

“. . . mặc dù Chúa không cần lời khen ngợi của chúng con,

thế nhưng, lời cảm tạ của chúng con tự nó là ơn phúc của Chúa,

vì các lời khen ngợi của chúng con không thêm được gì vào sự cao cả của Chúa,

nhưng chúng có lợi cho phần rỗi chúng con”.

Nếu ngày nay, Thánh Phanxicô Assisi vẫn có một điều gì đó để nói với chúng ta về môi trường, thì đó chính là những điều chúng ta vừa nói. Ngài không cầu nguyện “cho” thiên nhiên, cho sự bảo quản nó (vào thời ngài chưa có nhu cầu này); thay vào đó, ngài cầu nguyện “với” thiên nhiên hay “vì thiên nhiên” hoặc thậm chí “nhân danh thiên nhiên”. Tất cả những sắc thái này đều chứa trong giới từ “per” được ngài sử dụng, có nghĩa là “vì” và “cho”: “Ngợi khen Ngài, lạy Chúa, vì anh Mặt Trời, vì chị Mặt Trăng, vì Mẹ Trái Đất”. Bài ca vịnh của ngài hoàn toàn là một tụng ca và một thánh ca tạ ơn. Chính từ tụng ca này, Thánh Phanxicô đã rút tỉa được lòng tôn trọng đặc biệt của ngài đối với mọi tạo vật, vì chúng, ngài ước mong rằng cả các thực vật hoang dã cũng nên được cấp không gian để lớn lên.

Sứ điệp này cũng đã được Đức Thánh Cha tiếp thu trong thông điệp của ngài về môi trường. Thông điệp này bắt đầu với lời tụng ca “Laudato si” (Xin ca ngợi Ngài) và kết thúc đầy ý nghĩa với hai lời cầu nguyện riêng biệt: một lời “cho” thiên nhiên và lời kia “trong sự hợp nhất với” thiên nhiên. Chúng ta hãy rút ra một vài khẩn cầu từ lời cầu nguyện thứ hai để kết luận các suy tư của chúng ta:

Lạy Thiên Chúa, Duy nhất và Ba Ngôi,

Cộng Đoàn Kỳ Diệu của tình yêu vô biên,

xin dạy chúng con biết nhìn ngắm Chúa

trong vẻ đẹp của vũ trụ,

vì mọi sự đều nói về Chúa.

Xin khơi dậy trong chúng con lời ca ngợi và lòng biết ơn

vì mọi hữu thể Chúa đã dựng nên.

Xin ban cho chúng con ơn biết cảm nhận sự gắn bó thân thiết với tất cả vạn vật.

Lạy Thiên Chúa tình yêu, xin cho chúng con thấy vị trí của chúng con trong thế giới này

như những máng chuyển tình yêu của Chúa

vì mọi tạo vật trên trái đất này.

Amen.