Ngày 18-08-2008
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Lời kinh Mân Côi tạ ơn ân nhân
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
12:26 18/08/2008
LỜI KINH MÂN CÔI TẠ ƠN ÂN NHÂN

Câu chuyện xảy ra tại một thành phố lớn nước Ý, nơi có đông đảo du khách lui tới, đặc biệt vào mùa hè. Tạm gọi tên nhân vật chính là cụ bà Benedetta.

Vào ngày nắng ráo, cụ bà Benedetta ngồi xin của bố thí nơi quảng trường chính của thành phố. Cụ bà gầy còm, ốm yếu và ăn mặc bần cùng. Đúng là hình ảnh đáng thương của người không thể tự mưu sinh nhưng cần lòng quảng đại của kẻ đi qua người đi lại! Thế nhưng bên cạnh dáng điệu thảm thiết ấy, nổi bật hình ảnh một cụ bà tốt lành đạo đức, trong tay luôn cầm tràng chuỗi Mân Côi.

Mỗi lần nhận của bố thí, cụ bà Benedetta chân thành cám ơn người cho và nói với trọn niềm tin yêu:

- Cầu mong cử chỉ (của ông. . của bà) thể hiện lòng yêu mến đối với THIÊN CHÚA và Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA.

Nếu người cho không chấp thuận hoặc không đồng ý với lời đáp trả tri ân thì cụ bà Benedetta không nhận của bố thí. Bởi lẽ cụ bà muốn rằng của bố thí trước tiên phải mang lại lợi ích thiêng liêng cho chính linh hồn người cho rồi mới mang lại lợi ích vật chất cho người nhận.

Chưa hết. Mỗi lần nhận của bố thí, sau khi nói lời cám ơn và cầu chúc trên, cụ bà cúi xuống nhặt một viên sỏi nhỏ bỏ vào bị cụ luôn mang theo bên mình. Một hôm, một phụ nữ trẻ tuổi dừng lại bỏ vào giỏ cụ ít đồng tiền. Phụ nữ tò mò muốn biết lý do tại sao cụ lại nhặt sỏi bỏ vào bị. Cụ bà từ tốn giải thích:

- Lão tự hứa cứ mỗi lần nhận một của bố thí, lão sẽ lần một tràng hạt Mân Côi cầu cho vị ân nhân. Nhưng trí nhớ của lão quá kém. Do đó bao nhiêu viên sỏi là bấy nhiêu tràng chuỗi Mân Côi lão sẽ đọc!

Phụ nữ trẻ ngạc nhiên hỏi tiếp:

- Nhưng làm thế nào mỗi ngày cụ có thể lần được nhiều tràng chuỗi Mân Côi đến thế?

Cụ bà trả lời:

- Vào mùa hè mỗi ngày lão không thể nào đọc hết các tràng chuỗi Mân Côi. Nhưng mùa hè không kéo dài lâu. Sắp sang mùa đông rồi. Và mùa đông nơi thành phố này có rất ít người qua lại. Như thế, mùa đông lão có nhiều giờ hơn để lần hạt Mân Côi. Đôi khi lão lần hạt đến khuya. Mỗi đồng bạc nhận lãnh là một tràng chuỗi Mân Côi tri ân!

Phụ nữ trẻ vẫn còn tò mò nên hỏi thêm:

- Cụ lần một tràng chuỗi cho người nào cho món tiền kha-khá hay là cho cả người chỉ cho vài xu nho-nhỏ?

Vẫn giữ nguyên dáng điệu dịu dàng, cụ bà vui vẻ giải thích:

- Lão đọc kinh cho cả người dù chỉ cho lão vài xu. Vì đối với lão, một xu nếu bố thí vì lòng kính mến THIÊN CHÚA và vì lòng yêu mến Đức Mẹ MARIA thì cũng quí y như vàng bạc châu báu ở thế gian này gọp chung lại. Lão không có ý giảng dạy cho ai hết, nhưng lão nhớ lại câu chuyện người đàn bà góa nghèo trong Phúc Âm theo thánh Luca. Bà đã bỏ vào thùng hai đồng tiền kẽm. Nhưng Đức Chúa GIÊSU đã lên tiếng ca ngợi bà rằng: ”Bà góa nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết” (Lc 21,3). THIÊN CHÚA không nhìn số lượng bố thí cho bằng cách thức bố thí, nghĩa là tâm lòng cùng ý chỉ người bố thí. Ngoài ra, các tràng chuỗi Mân Côi không những chỉ mang lại lợi ích thiêng liêng cho người bố thí mà cho cả lão nữa. Lão nhận được không biết bao nhiêu là niềm an ủi! Mỗi lần lão lần xong một tràng chuỗi Mân Côi, lão lấy một viên sỏi nhỏ bỏ vào góc phòng. Các viên sỏi tiếp tục dâng cao. Đến giờ chết, khi nhìn đống sỏi ở góc phòng, lão sẽ an lòng ra đi, không chút sợ hãi, bởi lão nhớ trong đời sống, lão đã từng lập đi lập lại lời kinh ”Thánh MARIA Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen!” Sau khi từng kêu van không biết bao nhiêu lần như thế, chắc chắn vào chính giờ chết, Đức Mẹ MARIA Nhân Lành sẽ không thể nào bỏ rơi lão một mình. Lão tin vững vàng chính Đức Mẹ MARIA sẽ đến bên lão, sẽ giúp lão ra đi bình an. Lão hy vọng tràn đầy Đức Mẹ MARIA sẽ đưa lão vào Vương Quốc Hiển Trị của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Con Dấu Ái của Mẹ. Bởi vì, chính Ngài đã phán: ”Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Matthêu 5,3).

... ”Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Cha, Cha cũng chẳng quên con bao giờ. Hãy xem, Cha đã ghi khắc con trong lòng bàn tay Cha, thành lũy con, Cha luôn thấy trước mặt” (Isaia 49,15-16).

(”Il Settimanale di Padre Pio”, 24 Ottobre 2004, n.42, trang 12)
 
Vị đáng kính Ave Maria, ẩn sĩ mù người Ý
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
12:28 18/08/2008
VỊ ĐÁNG KÍNH AVE MARIA, ẨN SĨ MÙ NGƯỜI Ý

Ngày 18-12-1997, trước sự hiện diện của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005), Bộ Phong Thánh công bố sắc lệnh công nhận các nhân đức anh hùng của Thầy Ave Maria - tục danh Cesare Pisano - ẩn sĩ mù người Ý. Từ đó, Thầy Ave Maria được gọi là đấng đáng kính. Thầy Ave Maria qua đời ngày 21-1-1964, hưởng thọ 63 tuổi, sau 42 năm khấn dòng và 52 năm sống cảnh mù lòa.

Cesare Pisano chào đời năm 1900 và bị mù năm lên 12 tuổi. Trong một cuộc vui chơi, một người bạn bắn lạc đạn trên khuôn mặt, khiến hai mắt Cesare Pisano bị mù hẳn. Thảm trạng đau thương nhất cho một thiếu niên. Cesare hoàn toàn rơi vào nỗi buồn tuyệt vọng. Không ai an ủi được. Cesare mất luôn niềm tin tưởng nơi THIÊN CHÚA. May mắn thay, một nữ tu từ từ khơi động niềm hy vọng nơi cậu thiếu niên mù. Sau đó, cuộc gặp gỡ với vị Linh Mục thánh thiện Luigi Orione (1873-1940) chuyển hướng hẳn cuộc đời Cesare.

Năm 20 tuổi, Cesare gia nhập Cộng đoàn ”Paterno - Phụ Tử” tại Tortona (Bắc Ý). Năm 23 tuổi, Cesare Pisano trở thành ẩn sĩ mù với tên Thầy Ave Maria của dòng THIÊN CHÚA Quan Phòng do Linh Mục Luigi Orione thành lập. Vị sáng lập giao cho Thầy ẩn sĩ mù Ave Maria nhiệm vụ cầu nguyện.

Và Thầy Ave Maria chu toàn bổn phận trao phó trong ẩn kín, chay tịnh và nguyện cầu nơi tịch liêu ”Thánh Alberto di Butrio” ở Pavia, Bắc Ý.

Thưở sinh thời, thánh Luigi Orione nói về Thầy Ave Maria:

- Đó là một linh hồn thật đẹp. Tôi không ngạc nhiên khi thấy Thầy làm phép lạ!

Thầy Ave Maria tự giới thiệu là người mù hạnh phúc. Thầy trở thành vị tông đồ cho các anh chị em mù lòa về thể xác lẫn tinh thần, bằng kinh nguyện và bằng các bài viết. Hai năm trước khi qua đời - năm 1962 - Thầy Ave Maria muốn mừng lễ vàng 50 năm mù lòa, bằng Thánh Lễ tạ ơn chúc tụng trọng thể dâng lên Đức Chúa GIÊSU Nhân Lành. Nhân dịp này, Thầy xin viết trên tấm ảnh lưu niệm:

- Xin Chúa biến đổi tăm tối con thành ánh sáng và buồn sầu con thành hoan lạc, hầu cho ánh sáng và niềm hoan lạc duy nhất đời con là chính Chúa, lạy Đức Chúa GIÊSU, Quí Tử của THIÊN CHÚA CHA. Ôi Đức Chúa GIÊSU, THIÊN CHÚA của con. Ôi Đức Chúa GIÊSU Ái Tử của Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA!

Tâm tình kết hiệp mật thiết với THIÊN CHÚA, lòng khiêm tốn, nụ cười nhân hiền, lời lẽ khôn ngoan và dáng điệu oai nghiêm của Thầy Ave Maria lôi kéo rất nhiều tín hữu Công Giáo tìm đến với Thầy. Họ xin Thầy lời an ủi và ánh sáng. Người ta nhận ra ngay nơi Thầy mối liên hệ thân tình mật thiết với THIÊN CHÚA.

Đức Hồng Y Angelo Sodano - cựu Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh - viết về Thầy Ave Maria:

- Khi bất ngờ bị mù vào năm 12 tuổi, Thầy đã cảm nghiệm nỗi kinh hoàng của cuộc sống vô nghĩa, vô dụng và rơi vào tuyệt vọng. Nhưng, sau khi được Đức Tin soi dẫn, Thầy bắt đầu hưởng nếm hạnh phúc. Và nhờ sống kết hợp liên lĩ với Chúa, Thầy Ave Maria trở thành vô cùng khả ái, bên ngoài xem ra không có vấn đề gì, trong khi thật ra Thầy phải sống chay tịnh, thiếu thốn và hoàn toàn ẩn kín. Thế giới vô hình đối với Thầy dòng mù lòa Ave Maria trở thành thực tại thường ngày, sờ mó được.

... ”Này con, đừng xao lãng, nhưng hãy cố gắng sống khôn ngoan và thận trọng: đó sẽ là sức sống cho tâm hồn, là đồ trang sức đeo nơi cổ. Rồi bước đường con đi sẽ an toàn, và chân con sẽ chẳng bao giờ vấp. Khi ngả lưng, con không khiếp sợ. Nằm xuống rồi là an giấc thảnh thơi. Đừng sợ chi khi kinh hãi bất thần ập xuống, hay kẻ ác xông vào tấn công. Vì THIÊN CHÚA sẽ ở bên con, giữ chân con khỏi sa vào cạm bẫy. Khi có thể, con đừng từ chối làm điều lành cho ai đáng được hưởng. Khi có thể cho ngay, thì con đừng có nói: ”Đi đi, mai trở lại, rồi tôi sẽ cho anh!” Đừng mưu hại tha nhân, hại người đang cùng con sống yên ổn. Đừng cãi cọ với ai vô cớ, khi họ chẳng làm gì để hại con” (Sách Châm Ngôn 3,21-30).

(”Don Orione Oggi”, I Santi di Famiglia, Settembre 2001, trang 21-24)
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:20 18/08/2008
TRÀ NGON

N2T


Một tốp người Nhật cao tuổi, theo định kỳ họp nhau lại ở một gia đình nào đó để uống trà, tất cả chỉ có một thú vui duy nhất là pha chế những loại trà ngon đặc biệt, tự mình pha chế để thỏa mãn mùi vị trà mà mình ưa thích.

Đến lượt vị cao niên nhất làm chủ, ông ta dùng cách thức long trọng của trà đạo để tiếp đãi quý vị, lá trà lấy từ trong một đồ đựng làm bằng vàng. Mọi người đều tán thưởng buổi uống trà hôm ấy thật là tuyệt vời, và yêu cầu chủ nhà công bố bí quyết làm sao lại có thể pha chế được như thế ?

Vị trưởng lão cao niên an nhiên tự tại nói: “Các bạn thích uống trà, các bạn quá tán thưởng trà này thế à, trà này chính là trà mà người dân trong thôn làng chúng tôi đều uống, thứ quý nhất trong cuộc sống chính là cái không còn đắt đỏ nữa, và cũng không khó tìm.”

(Trích: Bài ca của loài ếch, phần tu đức)

Suy tư:

Người ta thường nói: “Hạnh phúc trong tầm tay, hãy giữ gìn và trân trọng những gì mình đang có”.

Có người gia đình đang hạnh phúc êm đẹp, đùng một cái chồng theo vợ bé, hạnh phúc tan vỡ. Ông ta không thấy hạnh phúc đang ở trong tầm tay của mình,nên không giữ gìn và trân trọng nó. Có người cuộc đời đang vui tươi cùng với gia đình bạn bè, đùng một cái theo đám bạn bè xấu hút xách chơi bời. Hạnh phúc trong tầm tay mà không biết giữ gìn. Có một vài người dâng mình làm tôi tớ Chúa,đang sống hạnh phúc trong nhà Chúa, trong tu viện, được mọi người yêu mến và kính trọng, đùng một cái cởi bỏ áo dòng, cởi bỏ áo chùng thâm để đi theo tiếng gọi của tình ái. Hạnh phúc trong tầm tay nhưng lại không biết giữ gìn và trân trọng...

Uống trà là một nghệ thuật nên gọi là trà đạo, mà đã là người rành nghệ thuật rồi, thì tất cả những gì qua tay họ, thì xấu cũng biến thành đẹp, dù dở cũng biến thành ngon. Cho nên cái đặc biệt là ở chỗ không phải là trà ngon hay trà dở, mà là do nghệ thuật pha chế tinh vi mà thôi.

Hạnh phúc của người có nghệ thuật pha trà là từ trong loại trà bình thường pha chế thành loại trà ngon.

Chúa Giê-su ở trong tâm hồn mình, đó chính là hạnh phúc, đừng tìm kiếm đâu xa nơi nhà thờ chánh tòa với ca đoàn xôm tụ, hoặc tìm kiếm nơi các nhà thờ lớn người người tấp nập, bởi vì nơi nhà thờ bình thường nhỏ nhất, Chúa Giê-su vẫn là hạnh phúc của chúng ta, nếu chúng ta biết trân trọng và yêu mến Ngài...
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:21 18/08/2008
N2T


4. Lời cầu nguyện nơi miệng của người tội lỗi dù là không hoàn mỹ, bởi vì không có sự nổi bật của thánh đức, nhưng vì để từ bỏ tội lỗi thì cũng có hiệu lực.

(Thánh Bernard)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐTC: Giáo Hội là căn nhà tiếp đón mọi người không kỳ thị ai
Linh Tiến Khải
00:37 18/08/2008
Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo

Castel Gandolfo - Trưa Chúa Nhật hôm qua đã có 2000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha trong sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã đề cập tới ơn cứu độ đại đồng Thiên Chúa cống hiến cho nhân loại và sứ mệnh của Giáo Hội là ngôi nhà tiếp đón mọi dân tộc không phân biệt ai. Đức Thánh Cha cũng kêu gọi tôn trọng quyền con người, chống lại mọi kỳ thị chủng tộc, và tinh thần trách nhiệm khi lái xe. Ngài cũng tái kêu gọi hòa bình cho vùng nam Ossezia và Georgia và cầu nguyện cho những người đã qua đời.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: phụng vụ Chúa Nhật thứ XX đề nghị với chúng ta đề tài ơn cứu độ đại đồng qua lời ngôn sứ Isaia: Thiên Chúa sẽ dẫn các người ngoại quốc tin nơi Chúa và phục vụ Người lên núi thánh, và làm cho họ được tràn ngập niềm vui trong nhà cầu nguyện của Người, vì đền thánh của Chúa sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc (Is 56,6-7). Ơn cứu độ đại đồng đó cũng được thánh Phaolô nhắc tới trong bài đọc hai và trong Phúc Âm kể lại sự kiện Chúa Giêsu nhận lời van xin của người đàn bà ngoại giáo Canaan vì lòng tin lớn lao của bà. Như thế, Lời Chúa hôm nay cống hiến cho chúng ta dịp may suy tư về sứ mệnh đại đồng của Giáo Hội, được tạo thành bởi các dân tộc thuộc mọi chủng tộc và nền văn hóa. Chính từ đó phát xuất ra trách nhiệm lớn lao của cộng đoàn giáo hội, được mời gọi là căn nhà tiếp đón mọi người, là dấu chỉ và dụng cụ sự hiệp thông đối với toàn gia đình nhân loại. Từ đó Đức Thánh Cha nhắc đến trách nhiệm của Giáo Hội giúp xã hội thắng vượt nạn kỳ thị chủng tộc như sau:

Thật là quan trọng biết bao, đặc biệt trong thời đại chúng ta, sự kiện mỗi cộng đoàn kitô phải ngày càng đào sâu ý thức này, để giúp xã hội dân sự vượt thắng được mọi cám dỗ kỳ thị chủng tộc, sự bất khoan nhượng và loại trừ nhau, cũng như giúp nó tự tổ chức làm sao để tôn trọng phẩm giả của từng người! Thật ra thắng vượt nạn kỳ thị chủng tộc đã là một trong những chinh phục lớn nhất của nhân loại. Tuy nhiên rất tiếc là tại nhiều nước khác nhau người ta vẫn còn ghi nhận các biểu lộ mới của sự kỳ thị gây âu lo, thường khi chúng gắn liền với các vấn đề xã hội và kinh tế, nhưng chúng không thể biện minh cho sự khinh rẻ và kỳ thị chủng tộc. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho sự tôn trọng mọi người được gia tăng khắp nơi, cùng với ý thức trách nhiệm là chỉ trong sự tiếp đón tất cả mọi người mới có thể xây dựng được một thế giới công bằng và hòa hình đích thực mà thôi.

Trong phần hai của bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi sự cẩn trọng và tinh thần trách nhiệm trong khi lái xe, vì tin tức trong mùa hè cho biết có qúa nhiều tai nạn lưu thông. Đức Thánh Cha nói: Chúng ta không được quen với thực tại buồn thương này. Vì sự sống của con người qúa qúy báu, và thật là bất xứng phải chết hay bị tàn tật vì các lý do, mà trong đa số các trường hợp, có thể tránh được. Cần phải có ý thức trách nhiệm lớn hơn. Trước hết từ phía những tài xế, vì các tai nạn thường xảy ra là do chạy qúa nhanh và do các thái độ bất cẩn. Lái xe trên đường đòi hỏi phải có ý thức luân lý và công dân. Để thăng tiến điều này giới hữu trách cần thường xuyên phòng ngừa, canh chừng và trừng phạt. Và Đức Thánh Cha kêu gọi tinh thần trách nhiệm của kitô hữu như sau:

Các kitô hữu phải xét mình trước hết liên quan tới cung cách lái xe của mình; ngoài ra các cộng đoàn hãy giáo dục tất cả mọi người biết coi lãnh vực lái xe như là môi trường, trong đó phải bảo vệ sự sống và thực thi tình yêu thương tha nhân một cách cụ thể. Chúng ta hãy phó thác các vấn đề xã hội mà tôi vừa nhắc tới cho sự bầu cử hiền nẫu của Mẹ Maria, mà giờ đây chúng ta cùng cầu xin trong Kinh Truyền Tin. Rồi Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã tái kêu gọi hòa bình và cứu trợ nhân đạo cho vùng Nam Ossezia và Georgia. Ngài nói: Tôi tiếp tục chú ý và âu lo theo dõi tình hình tại Gerogia và tôi đặc biệt gần gữi các nạn nhân của cuộc xung đột. Trong khi dâng lời cầu nguyện đặc biệt cho những người đã qua đời, tôi xin chân thành phân ưu với những ai đang sống trong tang chế, và tôi kêu gọi mọi người quảng đại trợ giúp để thoa dịu các nỗi khổ đau của người tị nạn, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đang thiếu mọi sự cần thiết cho sự sống còn của họ. Tôi yêu cầu mở các hành lang nhân đạo giữa vùng Nam Ossezia và phần còn lại của Georgia, để các người chết được chôn cất xứng đáng, người bị thương được săn sóc đến nơi đến chốn, và cho phép những ai muốn, được đoàn tụ với các người thân của họ. Ngoài ra cũng cần bảo đảm cho các nhóm thiểu số bị liên lụy trong chiến cuộc được an toàn, và phải tôn trọng các quyền căn bản của họ. Sau cùng tôi cầu mong cuộc ngưng bắn đạt được nhờ Liên Hiệp âu châu có thể được củng cố và biến thành hòa bình ổn định. Tôi cũng xin cộng đồng quốc tế tiếp tục trợ giúp để đạt được một giải pháp lâu bền qua đối thoại và thiện chí chung.

Đức Thánh Cha cũng chia buồn với thân nhân và giáo phận Bolzano Bressanone về cái chết đột ngột của Đức Cha Wilhelm Egger, mà ngài mới từ giã cách đây mấy ngày. Ngài xin Chúa đón nhân người tôi tớ trung tín tốt lành vào quê hương vĩnh cửu. Đức Cha Egger mới qua đời hôm thứ bẩy vừa qua vì bị đứng tim.
 
Câu chuyện về hai vị giám mục (trích trong sách ''Render Unto Caesar'')
Phụng Nghi
12:21 18/08/2008
Tổng giám mục Joseph Rummel phục vụ giáo dân Công giáo vùng New Orleans từ năm 1935 cho đến 1964 là năm ngài qua đời. Vào thập niên 1950 ngài phải đương đầu với một vấn đề càng ngày càng trở nên tồi tệ. Tổng giáo phận New Orleans có số dân Công giáo đông đảo nhất ở vùng cực Nam Hoa kỳ, trong số đó có nhiều ngàn người Công giáo da đen. Nơi đây cũng có các trường học tách biệt riêng cho người da trắng và người da mầu. Rummel và các vị giám mục tiền nhiệm đã luôn bảo đảm cho các học sinh da đen có được một nền giáo dục Công giáo. Tuy nhiên, các trường học tách biệt da mầu ở giáo xứ cũng thiếu thốn tiền bạc và kém phẩm chất như các trường công lập tách biệt da mầu khác.

Sau Thế chiến thứ II, Rummel bắt đầu hủy bỏ việc phân biệt màu da tại giáo hội địa phương. Năm 1948, chủng viện trong giáo phận của ngài đón nhận hai sinh viên da đen. Năm 1951, Rummel cho triệt hạ các bảng hiệu phân biệt có ghi “dành cho người da trắng” và “dành cho người da mầu” tại các xứ đạo. Năm 1953, một năm trước khi Tối cao Pháp viện Hoa kỳ hủy bỏ việc tách biệt sắc da trong các trường công lập, ngài đã công bố một trong hai lá thư mục vụ mạnh mẽ, nhan đề “Phúc cho Người phục vụ Hòa bình”. Các linh mục chính xứ đọc thư này tại mỗi thánh lễ Chủ nhật. Trong thư, Rummel lên án việc tách biệt mầu da. Lá thư tạo ra một phản ứng mau lẹ. Một số giáo dân trong các xứ đạo cay đắng bực tức khi nghe từ tòa giảng rằng “không được phân biệt đối xử hoặc tách biệt da mầu nữa nơi các hàng ghế trong thánh đường, tại bàn quỳ rước lễ, nơi tòa giải tội và trong các cuộc hội họp giáo xứ, cũng hệt như không có sự tách biệt màu da nơi vương quốc thiên đường.”

Năm 1956, Rummel tuyên bố ngài có ý định hủy bỏ sự phân biệt màu da nơi các trường Công giáo. Không khí chống đối nổi lên nóng hổi. Hầu hết các ban điều hành trường học giáo xứ bỏ phiếu chống lại. Rummel không lùi bước. Một năm trước đó ngài đã đóng cửa một giáo xứ khi dân chúng phản đối không nhận một linh mục da đen mới được bổ nhiệm tới. Như để cộng thêm vào những phiền toái của vị tổng giám mục này, nhiều phụ huynh đã đưa con em từ những trường công lập về học các trường Công giáo, hy vọng tránh được việc hủy bỏ sự tách biệt da mầu. Các vị trong giới lập pháp bang Louisiana đe dọa sẽ không phân phối quỹ trợ giúp sẵn có lúc đó cho các trường học Công giáo nếu Rummel cứ tiếp tục muốn thực hiện kế hoạch của ngài.

Đầu năm 1962, Rummel tuyên bố các trường Công giáo sẽ hủy bỏ việc tách biệt mầu da vào năm tới. Nhiều chính trị gia Công giáo đã tổ chức những vụ chống đối công cộng và các chiến dịch viết thư phản kháng. Những vụ này gây đe dọa việc tẩy chay các trường Công giáo. Ngày 16 tháng 4 năm 1962, Rummel rút phép thông công ba nhân vật Công giáo nổi tiếng – một chánh án, một nhà bình luận chính trị và một người tổ chức cộng đồng – vì đã công khai thách thức giáo huấn của Giáo hội.

Các biến cố tại New Orleans đã thành những tin tức sôi nổi cả nước Mỹ, được tạp chí Time và báo New York Times loan tải. Ban biên tập báo New York Times nhiệt liệt tuyên bố rằng “người thuộc mọi tôn giáo phải thán phục đức tính can trường không nao núng của Rummel” vì ngài đã “nêu một tấm gương sáng dựa trên nguyên tắc tôn giáo và đáp ứng được lương tâm xã hội của thời đại chúng ta.”

Năm 2004, một vị tổng giám mục khác, Raymond Burke tại St. Louis, lại được báo chí toàn quốc loan tin nơi trang đầu. Trong những tuần lễ cuối cùng giữ chức vụ giám mục tại La Crosse, bang Wisconsin, ngài yêu cầu ba nhân vật công cộng người Công giáo đừng lên rước Thánh thể. Sau đó ngài yêu cầu các linh mục thuộc quyền không được trao Mình Thánh Chúa cho các viên chức công quyền Công giáo nào ủng hộ quyền phá thai. Ba chính trị gia phạm lỗi nói họ chỉ là những người phò quyền chọn lựa (pro-choice). Tuy nhiên, theo quan điểm của Burke, hành động của họ chứng tỏ sự ủng hộ thực tế việc phá thai và ngoan cố khinh thị đức tin của mình. Cả ba đã bỏ phiếu hoặc ủng hộ việc ép buộc các bệnh viện Công giáo phải thực hiện hành động phá thai. Quả vậy, họ đã nỗ lực công khai ép buộc Giáo hội vi phạm giáo huấn của mình về một vấn đề nghiêm trọng là niềm thánh thiêng của sự sống.

Hành động của Burke, tuy nhẹ nhàng hơn của Rummel, đã tạo nên khá nhiều kẻ thù, ngay trong số những người coi mình là Công giáo. Khác với Rummel, Burke đã không nhận được những lời khen ngợi hào nhoáng từ báo “New York Times.” mà bị giới truyền thông báo chí đối xử khác biệt. Nhưng, một lần nữa, cũng như Rummel, ngài đã không hỏi xin báo Times để có được sự chấp thuận từ tờ báo này. Báo Times nghĩ thế nào, không thành vấn đề. Mà Giáo hội tin tưởng thế nào mới là điều quan trọng.

Luân lý của câu chuyện chúng ta vừa nêu là: Trước hết, khi người Công giáo tôn trọng Giáo hội và hành xử theo đúng giáo huấn của Giáo hội nơi trần gian này, thì một số người, thường là những người có quyền thế, không thích chuyện đó. Hai là, trong nền chính trị Mỹ gần đây, đường ranh phân chia giữa “chứng nhân ngôn sứ” và “vi phạm sự tách biệt Giáo hội ra khỏi nhà nước” thường tùy thuộc vào ai là người vẽ nên đưòng ranh đó, ai bị xúc phạm và do vấn đề nào. Đường ranh này đi ngoằn ngoèo sao cho thuận lợi. Nhưng người Công giáo, khi tìm cách sống theo đức tin của mình, không thể chiều theo sự thuận lợi.
 
Huấn lệnh của Tòa thánh: Từ ''Yahweh'' (Gia-vê) không thích hợp khi dùng trong phụng vụ
Phụng Nghi
13:27 18/08/2008
Vatican (CWNews.com) – Tòa thánh Vatican đã ra chỉ thị cho biết Thánh Danh của Chúa, thường được gọi là "Yahweh" sẽ không được sử dụng trong các nghi thức phụng vụ Công giáo.

Chỉ thị của Tòa thánh sẽ không đặt ra nhu cầu thay đổi nào trong ngôn ngữ phụng vụ, vì Danh Thánh Chúa không hề xuất hiện trên các bản dịch Sách Lễ Roma được Tòa thánh chuẩn y. Tuy nhiên, một số bài thánh ca có danh xưng này được coi là không thích hợp trong các nghi thức phụng vụ.

Bộ Phụng tự, khi ra chỉ thị mới này, có nhắc nhớ các giám mục rằng theo truyền thống Do thái, được giáo hữu thời sơ khai tuân giữ, thì các tín hữu phải tránh không được xướng lên Thánh Danh của Chúa. Chỉ thị của Tòa thánh giải thích rằng “để biểu hiệu tính cao cả và sự uy nghiêm tuyệt đối của Chúa, tên của Người phải giữ cho không thể phát thành âm thanh được”.

Để thay thế vào đó, khi muốn nói đến Thánh Danh Chúa những người đạo đức Do thái dùng một từ có 4 chữ là YHWH, hoặc thay thế bằng từ “Adonai” hay “Chúa”. Những Kitô hữu thời sơ khai tiếp tục truyền thống này.

Thánh bộ Phụng tự nói rằng cách gọi “Chúa” trong văn bản Kinh Thánh là theo tập tục này. Do đó khi Thánh Phaolô nguyện ước cho “mọi miệng lưỡi đều tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa” thì lời tuyên xưng của ngài “phù hợp chính xác với lời tuyên tín về thiên tính của Đức Kitô.”

Kinh Thánh phản ảnh truyền thống Do thái, và Thánh Danh Chúa không được nêu ra trong các bản dịch được giáo hội Công giáo chuẩn nhận. Chỉ thị của Tòa thánh nói rằng ngôn ngữ phụng vụ phải tuân thủ chặt chẽ các văn bản Kinh Thánh, để Lời của Chúa được “gìn giữ và truyền đạt dưới hình thức toàn vẹn và trung thực.”

Tuy nhiên, chỉ thị cho biết tiếp, “trong những năm gần đây đã xuất hiện dần dần” cách dùng Thánh Danh Chúa và viết thành tứ-tự (tetragrammaton, 4 chữ). Cách thức như thế nên tránh trong các nghi thức phụng vụ.

Hệ quả của chỉ thị do Tòa thánh ban hành là điều rõ rệt trong cách lựa chọn các bản thánh ca, vì một số âm nhạc phụng vụ thời nay đã vi phạm chính sách bằng cách xướng tên của Thiên Chúa. Chính sách này cũng kêu gọi phải cẩn thận trong khi soạn thảo các văn bản trong phụng vụ, tỷ như những Lời Nguyện Giáo Dân.

Lá thư của Thánh bộ Phụng tự đề ngày 29 tháng 6 và có chữ ký của chủ tịch Thánh bộ là Hồng y Francis Arinze và Tổng giám mục Malcom Ranjith là tổng thư ký.

Trong lá thư ngày 8 tháng 8 gửi cho các giám mục thuộc hàng giáo phẩm Hoa kỳ để chuyển đạt chỉ thị của Tòa thánh, giám mục Arthur Serratelli – chủ tịch Ủy ban phụng vụ của Hội đồng giám mục Hoa kỳ – hoan nghênh chỉ thị của Tòa thánh, nói rằng chỉ thị này “giúp nhấn mạnh đến sự chính xác về thần học trong ngôn ngữ của chúng ta và sự tôn kính thích đáng Thánh Danh Chúa.”

Ghi chú:

יהוה là 4 chữ Do thái dùng để gọi tên Thiên Chúa. Bốn chữ này đều là phụ âm, vì tiếng Do thái trong Kinh thánh khi viết thường bỏ nguyên âm đi. Bốn chữ này được chuyển thành JHWH (trong tiếng Đức, Pháp và Hà lan) và thành YHWH (trong Anh ngữ). Đôi khi cũng được chuyển thành “Yahweh” hoặc “Jehovah” vì tiếng La tinh không phân biệt chữ “Y” với “J”, chữ “W” với “V”, và trong tiếng Do thái không chỉ rõ những nguyên âm nào đã bị lược bỏ đi. Trong các bản dịch Anh ngữ, người ta dùng từ “the Lord” (không viết hoa toàn mọi chữ), theo truyền thống của người Do thái dùng từ “Adonai” (Chúa) để tôn kính thánh danh Chúa và tuân giữ giới luật không được kêu tên Chúa vô cớ. Người Việt thường chuyển dịch “Yahweh” thành Gia-vê.

Có thể có một số bản thánh ca Việt nam đã dùng từ Gia-vê và bị ảnh hưởng do chỉ thị này của Tòa thánh.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo Đoàn Thánh Mẫu La Vang Cabramatta-Sydney mừng kính Lễ Bổn Mạng
Diệp Hải Dung
07:01 18/08/2008
SYDNEY - Giáo đoàn Thánh Mẫu La Vang Cabramatta đã cùng hiệp thông với Giáo Hội Mẹ Việt Nam tại Thánh địa La Vang, long trọng mừng kính Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời hôm thứ Sáu 15/8/2008 và ngày hôm nay Chúa Nhật 17/8/2008 Giáo đoàn, Ca đoàn La Vang thứ Bảy, Ca Đoàn Thánh Mẫu Chúa Nhật, Ca Đoàn Bác Ái và Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể hân hoan mừng kính Lễ Quan Thầy.

Xem hình ảnh ngày Thánh Mẫu

2 giờ 30 chiều các Hội Đoàn Đoàn Thể, quý Giáo đoàn bạn và mọi nguời tập trung tại khuôn viên nhà thờ Sacred Heart Cabramatta – Sydney. Sau 3 hồi chiêng trống truyền thống dân tộc Việt Nam, Cha Paul Văn Chi Đặc trách Giáo đoàn xông hương kiệu Thánh tượng Đức Mẹ La Vang và bắt đầu khởi hành cuộc kiệu cung nghinh Mẹ LaVang chung quanh nhà thờ. Cuộc cung nghinh Thánh Mẫu La Vang rất trang nghiêm và long trọng, mọi nguời đều dâng lên Mẹ chuỗi Mân Côi mùa Vui và những bài Thánh ca hân hoan chúc tụng Mẹ.

Sau khi kiệu Thánh tượng Thánh Mẫu LaVang tiến vào nhà thờ và an vị trên cung thánh. Cha Paul Văn Chi ngỏ lời chúc mừng Bổn Mạng của Giáo đoàn Cabramtta và giới thiệu qúy Cha Mai Đào Hiền, Cha Nguyễn Thái Hoạch, Cha Phan Trọng Huy Phó xứ Cabramatta, Cha Long, Cha Hoàn, Thầy Phó tế Đỗ Huy Nhật Quỳnh và Thầy Đặng Đình Nên.

Trong bài giảng của Thánh lễ, Cha Paul Văn Chi đã kể về sự mầu nhiệm hiệp thông nối kết tình bác ái của chuỗi Mân Côi và lịch sử đã ghi lại sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại LaVang cứu chữa con dân Việt Nam trong thời kỳ bách hại đồng thời Cha cũng nhắc nhở mọi người hãy vững lòng tín thác vào Chúa qua bài Phúc Âm của Thánh Matthew “ Này Bà ! Bà có lòng mạnh tin thì bà muốn sao được vậy..” (Mt.15:21-28)

Trước khi kết thúc Thánh lễ, quý Cha và tất cả mọi người cùng quỳ hướng về kiệu Thánh tượng Mẹ LaVang dâng lời cầu nguyện qua Kinh Thánh Mẫu LaVang nguyện cầu xin Mẹ chúc lành cho Gia Đình, cho Cộng Đồng và Giáo Hội Việt Nam. Sau đó Cha Phan Trọng Huy Phó xứ Cabramatta, đại diện Giáo Xứ Sacred Heart Cabramatta lên ngỏ lời chúc mừng Bổn Mạng Giáo đoàn. Kế tiếp ông Đỗ Ngọc Việt Phó Chủ tịch CĐCGVN Sydney ngỏ lời chúc mừng Bổn Mạng Giáo đoàn, Ca đoàn, và Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể. Sau cùng ông Hà Pi Liến Trưởng Ban Mục Vụ Giáo đoàn lên ngỏ lời cám ơn quý Cha, quý Sơ, quý Thầy, quý quan khách và tất cả mọi nguời đã đến tham dự Lễ mừng kính Quan Thầy của Giáo Đoàn Thánh Mẫu La Vang Cabramatta. Sau khi kết thúc Thánh lễ mọi ngưòi ở lại tham dự tiệc liên hoan trong hội trường nhà thờ và thưởng thức văn nghệ kèm theo phần xổ số may mắn lấy hên. Sau đó kết thúc bế mạc vào lúc 5pm.
 
Ngày Hội Di Dân và Giới Trẻ Việt Nam tại Bangkok và mừng Lễ Mẹ Lên Trời
LM Nguyễn Tiến Đức
07:47 18/08/2008
NGÀY HỘI DI DÂN VIỆT Ở THÁI

Băng-Cốc - Lúc 0g30 phút sáng Chúa nhật ngày 17 tháng 8, có tiếng chuông điện thoại reo vang.

Xem hình ảnh ngày họp mặt và sinh hoạt

Một nhóm bạn trẻ di dân quây quần bên Mẹ La Vang
- A-lô! Ai đấy?
- Thưa cha, con là Phú đây! Con muốn hỏi cha giờ lễ vào lúc nào?
- Phú ơi! 13g vào nhà thờ để lần hạt Mân côi, xưng tội tới 14g là thánh lễ. Chỗ Phú đang ở có đông người Việt đi lễ không?
- Thưa cha, anh em chúng con đến đây tập trung từ tối qua được 10 người.
Nhóm Phú chỉ là một trong nhiều nhóm khác ngay từ đêm trước-thứ Bảy, các bạn trẻ di dân Việt ở Băng-Cốc, Thái Lan đã tụ lại nhà thành từng nhóm để chuẩn bị rủ nhau cùng đi dự ngày hội di dân.

Lúc 05g 44’ sáng, khi ông mặt trời chưa thức giấc, có tiếng chuông điện thoại khác reo.

- A-lô?
- Thưa cha, con là Hương đây. Cho con hỏi lễ ở mô, thưa cha?
- Ở trường Păn-cha-Xắp, soi 19, đường Rắt-xa-đa-phi-xệc.
- Thưa cha, có xe buýt nào chạy qua chỗ đó không?
Khoảng 500 bạn trẻ tham dự lễ hội di dân
- Có chứ! Em có thể đón xe buýt số 73 hoặc 514.
- Ngoài ra còn có phương tiện nào để tới đó không, thưa cha?
- Em có thể đi xe điện ngầm tới trạm Ratchada rồi xuống; Hoặc là em đón Taxi đi thẳng tới địa chỉ nêu trên cũng được.

Ngay từ sáng sớm, không khí lễ hội di dân Việt ở Băng- Cốc càng lúc càng tưng bừng hơn khi các bạn trẻ di dân từ nhiều nẻo đường khác nhau hỏi thăm địa chỉ để kéo về địa điểm ngày hội. Ngẫm nghĩ lại mới thấy từ đầu năm tới giờ, các bạn trẻ di dân mới chỉ được dự lễ hội có một lần vào ngày 23 tháng 3, lễ Chúa Phục Sinh. Lần đó, nhiều bạn trẻ đã hốt hoảng vì khi tan lễ, cảnh sát Thái Lan đã còng tay bắt đi hơn 15 bạn sau khi bị hỏi giấy tờ. Phần nhiều các bạn trẻ di dân Việt thiếu giấy tờ khi sang Thái làm việc. Sau lần đó, nhiều nhà thờ đã từ chối không tiếp đón di dân Việt nữa!

Thế là bẵng đi một thời gian dài, cho tới ngày nghe được tin vui từ bác Phê-rô Trọng:

- Tìm được nhà thờ rồi, nhưng hơi nhỏ!
- Có còn hơn không!, niềm vui mừng của di dânViệt được bừng tỉnh dậy!

Lễ hội di dân Việt lần thứ 2 trong năm được diễn ra tại trường Păn-cha Xắp. Vào lúc10g sáng, người ta thấy nhiều nhóm bạn trẻ di dân đã kéo tới rất đông. Ước chừng có đến 500 người. Một con số gây nên một tiếng vang lớn cho Giáo hội tại xứ chùa vàng này với dân Công giáo chỉ chiếm 0, 5 %. Người đến nhà thờ ở đây không nhiều. Con số di dân Việt đến dự lễ hội lần này (500) gần bằng 1/3 dân số Công giáo Thái của cả địa phận Nakhon Sawan (1.605) (thống kê Giáo hội Công giáo ở Thái Lan năm 2005).

Lễ hội di dân hôm nay có chủ đề: mừng lễ Đức Mẹ Lên Trời, là bổn mạng của người trẻ di dân Việt ở Băng-Cốc. Chương trình lễ hội di dân được bắt đầu bằng việc lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ. Đặc biệt hôm nay, quí xơ dòng Con Đức Mẹ Mân Côi, đang phục vụ tại Thái Lan, tặng mỗi bạn trẻ di dân một chuỗi tràng hạt, để các bạn có thể tôn kính Mẹ Maria qua việc lần hạt Mân Côi.

Thầy Toàn, dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam đang du học tại Thái, giúp các bạn trẻ mục “sinh hoạt bỏ túi”, làm cho buổi hội di dân ròn rã tiếng cười. Thầy cũng ôn hát cho cộng đoàn để chuẩn bị thánh lễ.

LM Đinh, LM Đức, LM Chalerm dâng lễ cho giới trẻ Việt Nam tại Thái Lan
Có 3 cha ngồi tòa giúp hầu hết các bạn trẻ di dân Công giáo đến với Bí Tích Rửa Tội, để mừng lễ bổn mạng Mẹ Lên Trời. Tuy mệt, nhưng các cha cũng thấy vui vì ngần ấy bạn trẻ được giao hòa lại cùng Chúa.

- Thầy ơi, xưng tội với thầy có được khỏi tội không?, một bạn trẻ lương dân cùng đi đến dự lễ hội với bạn người Công giáo hỏi.
- Có chứ, thành tâm xám hối là được, tôi đáp lại.

Khoảng 500 bạn trẻ di dân còn tham dự nghi lễ Rửa tội cho con đầu lòng của một cặp vợ chồng trẻ. Nghi lễ này nhắc lại cho các bạn trẻ nhớ lạị trước đây mình còn bé, đã được cha mẹ bồng tới nhà thờ để được chịu phép Rửa.

Những người trẻ di dân hôm nay cũng cảm thấy vui và gần gũi với Giáo hội hơn khi nghe tuyên đọc phép lành Tòa Thánh của Đức Thánh Cha cho hai đôi hôn phối là những thành viên của cộng đoàn di dân mình.

Lễ hội di dân kết thúc bằng Thánh lễ đồng tế trọng thể mừng lễ Đức Mẹ Lên Trời, do 3 cha: cha Giuse Đỉnh, dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam sang du học tại Thái; Cha Giuse Chalerm, người Thái gốc Việt và Cha Đức.

Được hỏi về cảm tưởng sau khi tham dự buổi lễ hội di dân lần này, bạn Phú thay mặt cho nhóm nói:

- Con thấy rất vui! Các bạn đi tham dự thật đông đảo! Mọi người đều sốt sắng cầu nguyện: đọc kinh và hát với hết tâm hồn mình.
- Hôm nay dự lễ hội, con được trao hết tội con cho Chúa và được gặp lại nhiều bạn bè. Con vui thích lắm! Từ tháng 3 tới giờ mới có lại lễ hội di dân Việt ở Băng-Cốc, con ước mong được đi dự lễ hội hàng tháng, bạn Dũng nói.
 
Ba bạn trẻ gốc Việt dâng mình phục vụ giới trẻ trong gia đình Salêdiêng Don Bosco
Lm. Dominic Trần Công Danh, SDB
08:09 18/08/2008
NEW ROCHELLE - Trong thánh lễ vọng mừng Đại lễ Đức Mẹ lên trời, hai người trẻ gốc Việt Nam Đặng Minh và Chu Trọng Phước đã chính thức bắt đầu năm nhà tập theo ơn gọi Dòng Salêdiêng Don Bosco, tỉnh dòng Thánh Philiphê Tông Đồ tại miền đông Hoa Kỳ.

Tập sinh Chu Trọng Phước (trái) và Đặng Minh cùng cha Giám Tập Bill Keane, SDB
Hai tập sinh Minh và Phước sinh ra tại Bà Rịa, Vũng Tầu, cùng đến nhập cư ở Hoa Kỳ năm chin tuổi. Trước khi vào nhà dòng, Minh theo học tại University of Illinois at Urbana - Champaign. Gia đình anh thuộc giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Arlington, Virginia. Tập sinh Phước tốt nghiệp University of Massachusetts Amherst. Anh từng là Trưởng đoàn Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể thuộc cộng đoàn Springfield, MA.

Chị Trần Phương Jaden cùng với 2 tân tập sinh
Trước đó, vào ngày 1 tháng 8, 2008, chị Trần Phương Jaden cũng đã bắt đầu năm nhà tập theo ơn gọi dòng Nữ Tử Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, tức là Dòng Nữ Salêdiêng. Chị Jaden là thành viên của tỉnh dòng Miền Tây Hoa Kỳ. Gia đình chị thuộc Cộng đoàn Giáo xứ Thánh Boniface, Anaheim, Orange County, CA.

Cũng nên thêm rằng, sau gần 20 năm gửi tập sinh qua Ý, đây là năm đầu tiên Dòng Salêdiêng nữ đưa nhà tập trở lại Hoa Kỳ. Nguyên nhân chính là vì số ơn gọi đã tăng lên đủ để mở một nhà tập riêng.

Chúng con tạ ơn Chúa đã cho Gia Đình con cái Thánh Gioan Bosco những bạn trẻ thiết tha phục vụ Chúa Kitô nơi giới trẻ.

Xin tiếp tục cầu nguyện cho ơn gọi và nâng đỡ các bạn trẻ Chúa đang mời gọi phục vụ Chúa và tha nhân trong ơn gọi tu trì.

(Three young adults responded to Christ’s invitation by offering their lives to the service of young people in the Salesian family of St. John Bosco) (New Rochelle, NY, 15 tháng 8, 2008)
 
Ký sự Đại Lễ Hội La vang 2008
Văn Học
11:55 18/08/2008
Ký sự Đại Lễ Hội La vang 2008

Đại Lễ Hội La Vang tam chu niên lần thứ 28 đã khép lại, nhưng dư âm vẫn còn vang vọng trong lòng mỗi người. Có quá nhiều cái đặc biệt để nói về sự kiện này trong 3 ngày diễn ra đại lễ, chúng tôi chỉ xin ghi lại một số nét trong tầm nhìn và cảm nghĩ của một khách hành hương về Linh địa La vang lần này, gửi đến quý độc giả như một món quà cùng chia sẻ để thông qua đó góp thêm một âm thanh, tuy nhỏ, nhưng hy vọng chúng ta sẽ thêm lòng yêu mến Mẹ Maria và thấy được sức sống tiềm tàng của Giáo hội Việt Nam đang ngày càng được thể hiện qua những việc làm cụ thể.

La Vang, nơi hội ngộ của cõi linh thiêng vĩnh hằng bất diệt từ trời cao với cõi trần phù du trôi nổi tạm bợ. La vang, điểm hẹn của những loại hình văn hóa - đức tin. La vang, tiếng kêu thất thanh giữa núi rừng của bổn đạo con chiên thời xưa vì sợ hãi sự truy lùng và bách hại. Tất cả đã tạo nên sự kỳ vĩ nơi mảnh đất Quảng Trị đầy nắng và gió này. Mặc cho những kết án này nọ, những lăng mạ kỳ thị xuất phát từ sự xung đột trong ý thức hệ, La Vang vẫn là tiếng gọi da diết kêu mời mọi người đến với Mẹ nhân hiền.

La Vang là một vùng đất nhỏ bé mất hút giữa chốn rừng thiêng nước độc, ít người lui tới, ngoại trừ một số tiều phu tìm lên đây. Thánh Địa La Vang nằm trong khu vực gọi là Dinh Cát (đời chúa Nguyễn Hoàng vào Nam, thế kỷ thứ XVI. Gọi là Dinh Cát hay Cát Dinh, tức là Dinh xây trên một vùng đất cát), nay thuộc xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tổng Giáo Phận Huế, cách thành phố Huế độ 60km về phía Bắc, và cách thị xã Đông Hà khoảng 6km về phía Nam. Dinh Cát là một vùng đất cống hiến nhiều vị anh hùng tử Đạo và cũng là nơi có số người Công giáo sinh động nhất.

Tại sao gọi là "La Vang"? Có nhiều cách giải thích. Nhưng chúng ta phải ngược dòng lịch sử quay lại thời điểm hơn 200 năm trước. Theo Tư liệu Toà Tổng Giám Mục Huế - 1998, dưới triều đại vua Cảnh Thịnh (lên ngôi năm 1792), với chiếu chỉ cấm đạo ngày 17 tháng 8 năm 1798, một số các tín hữu ở gần đồi Dinh Cát (nay là thị xã Quảng Trị) phải tìm nơi trốn ẩn. Họ đã đến lánh nạn tại núi rừng La Vang. Nơi rừng thiêng nước độc, hoàn cảnh ngặt nghèo, thiếu ăn, bệnh tật, sợ hãi quan quân, sợ thú dữ, các tín hữu chỉ biết một lòng tin cậy phó thác vào Chúa và Đức Mẹ. Họ thường tụ tập nhau dưới gốc cây đa cổ thụ, cùng nhau cầu nguyện, an ủi và giúp đỡ nhau.

Một hôm đang khi cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ, bỗng họ nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, mặc áo choàng rộng, tay bồng Chúa Hài Đồng, có hai thiên thần cầm đèn chầu hai bên. Họ nhận ra ngay Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ bày tỏ lòng nhân từ, âu yếm, và an ủi giáo dân vui lòng chịu khó. Mẹ dạy hái một loại lá cây có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ lành các chứng bệnh. Mẹ lại ban lời hứa: “Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn theo ý nguyện”.

Sự kiện xảy ra trên thảm cỏ gần gốc cây đa cổ thụ nơi giáo dân đang cầu nguyện. Sau đó, Mẹ còn hiện ra nhiều lần như vậy để nâng đỡ và an ủi con cái Mẹ trong cơn hoạn nạn.

Từ đó đến nay sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại núi rừng La Vang, qua các thế hệ được loan truyền khắp nơi. Và nhiều người chân thành tin tưởng, đến cầu khấn Mẹ đều được ơn theo ý nguyện.

- Theo cụ Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài (Phước Môn Quận Công), trong bút tích về Đền Thờ Thánh Mẫu La Vang đề ngày 28/02/1925 tại Huế, có viết: "La Vang là tiếng kêu om sòm. Thường người ta đặt tên chỗ nọ chỗ kia thì lấy tên cái khe, cây cổ thụ, hay tên người nào đó ở vùng đó mà đặt tên; song đây lại lấy tên La Vang mà đặt tên thì cũng lạ. La Vang là tiếng khi người ta lâm nguy mà kêu cứu, tiếng đuổi thú dữ. La Vang là tiếng rao truyền. La Vang là tiếng khi người ta được sự vui mừng quá bội hay khi hoảng hốt… Những tưởng ý định đã xui cho người ta dùng tiếng La Vang mà đặt tên cho chỗ này để ứng nghiệm về việc đã xảy ra bấy lâu nay và mãi về sau này nữa".

- Theo Đức Cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn (1878 - 1932), trong bài diễn văn về Đức Mẹ La Vang (18/08/1932), có nói: "Tên La Vang là vì xưa ở nơi đó có nhiều cọp, xóm Trí Bưu vào làm chòi ở lại, làm gỗ vỡ đất, nên đêm nào cũng đánh mõ la lối để đuổi cọp, vì thế xóm xung quanh nhà thờ gọi là La Vang".

- Theo Linh mục Philiphê Lê Thiện Bá (1891 - 1981), nguyên giáo sư Tiểu Chủng Viện và Đại Chủng Viện Huế, chính quán làng Cổ Vưu (Trí Bưu), có để lại bút tích giải thích tên gọi La Vang như sau: "Trong địa bộ làng Cổ Vưu có ghi: "Phường Lá Vằng", vì ngày xưa trên linh địa La Vang có vô số cây lá vằng. Loại cây này có hột đen, ăn được, vị đắng và lá là một vị thuốc. Người phụ nữ xứ Dinh Cát thường dùng lá vằng sắc uống khi sinh con. Do đó, khi lập phường thì nhà nước đặt tên là phường Lá Vằng. Về sau người ta đọc Lá Vằng thành La Vang".

"Phường Lá Vằng" - Thánh địa La Vang, là một vùng đất rừng rú xen kẽ nhiều thứ cây, trong đó có cây lá vằng nhiều hơn cả. Từ chốn Lá Vằng hay La Vang được loan truyền từ đời nọ sang đời kia là Đức Mẹ Maria hiện ra nâng đỡ an ủi con cái Mẹ trong thời kỳ bị bách hại.

- Theo Bs.Ts. Nguyễn Thị Thanh, vốn xuất thân từ La Vang, trong khi kiểm nghiệm thực tiễn tiếng la to giữa vách núi của khu vực này đã suy đoán, tiếng "la" to của người sẽ được các vách núi dội vọng lại thành tiếng "vang" hùng vĩ. Đi xa hơn trong suy luận, Nguyễn Thị Thanh còn cho rằng ý nghĩa tiếng "la vang" ở đây là tiếng trong âm thầm nhiệm mầu của đức tin các thánh tử đạo lên với Thiên Chúa trên trời, là tiếng la vang âm thầm trong nguyện cầu của những người đói khát ốm đau khốn khổ đã thấu vọng đến tai Nữ Vương Thiên Đàng, là tiếng Đức Mẹ trả lời những cầu xin của chúng dân, và cũng là tiếng dội trở lại của Nữ Vương Thiên Đàng trong lòng mỗi người khi bước chân đến thánh địa.

Từ đó, tiếng lành đồn xa khắp giáo phận Huế và các giáo phận khác ở Việt Nam và cả Đông Dương, về việc Đức Mẹ hiện ra tại La Vang cùng nhiều ơn lạ của Mẹ Thiên Chúa.

Thánh địa La Vang được - Tiểu Vương Cung Thánh đường La Vang trở thành điểm hẹn, nơi hội ngộ của khách thập phương, không phải trong tâm thái của một du khách hay của tao nhân mặc khách đi nhặt thi hứng cho túi thơ của mình, mà mang nhiều nổi niềm tâm sự chất chứa những khát vọng yêu thương và tìm một sự hóa giải cho vấn nạn cuộc đời nơi chốn linh thiêng này.

La Vang, ngày 13/08/2008

So với những kỳ Đại lễ trước đây, lần Đại lễ hội này được ghi nhận là có số khách hành hương đông nhất. Chúng tôi đến La vang đúng 10 giờ 30 phút ngày 13/08 mà đã thấy rất đông xe và người từ con đường Lê Duẫn đổ về Trung tâm Linh địa.

Dưới cái nắng như đổ lửa của bầu trời miền Trung, trên mảnh đất chỉ là một dải cát trắng, cái nóng được cảm giác như hắt lửa vào mặt, thế mà vẫn không làm cản ngại bước chân của lớp lớp người con yêu mến Mẹ quy tụ về từ khắp mọi miền đất nước. Tôi thấy rất nhiều lều bạt khách hành hương mang theo đã được dựng lên để làm chỗ nghỉ. Tôi đi cùng đoàn Mái ấm Don Bosco Hà Nội của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, đây là đoàn hành hương đặc biệt - những người khuyết tật của các giáo phận miền Bắc, nên có nhiều ưu tiên hơn. Một khu vực được dựng sẵn và có mái che bằng vòm tôn cao thoáng dưới cây ngô đồng phủ bóng mát, trước tòa nhà Trung tâm. Đoàn gồm có 240 người đi trên 7 chiếc xe khách. Người thì bị bại liệt toàn thân, người thì bị khiếm thính, người bị câm, người bị mù cả hai mắt… Cùng đi với đoàn có rất đông các anh chị tình nguyện viên, là những học sinh sinh viên, đi cùng để giúp đỡ những người bị khuyết tật. Ấn tượng khó phai đó là sự nhiệt tình và vui vẻ của tuổi trẻ tràn đầy sức sống đã tạo nên một bầu khí thân thương đầm ấm như anh chị em trong một nhà.

Linh địa La vang vào buổi trưa của ngày đầu Đại lễ còn im ắng… một cảm giác an lạc, cao vời và thăm thẳm tỏa lan trên đồi Dinh Cát và trong lòng người đối cảnh. Linh đài La vang được xây lại rất cao đẹp. Cây đa cổ thụ xưa, nơi Mẹ Maria hiện đến để an ủi cứu giúp những người con đau khổ của Mẹ, nay đã được mô hình hóa bởi một kiến trúc sư tài ba. Dấu tích của một thời chỉ còn lại ngôi tháp cổ, vẹn nguyên như bảo chứng của vùng đất phải chịu cảnh cày xéo của bom đạn trong chiến tranh, sừng sững giữa nắng mưa qua bao tháng năm. Nếu bạn tiếp chuyện với một người cao tuổi ở Quảng Trị bạn sẽ được nghe một bài học lịch sử rất sinh động về cuộc chiến chống Mỹ. Và nếu các bạn đã đọc "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh thì mới thấu hiểu hết những đau khổ mà người dân nơi đây phải hứng chịu, sự thật cuộc chiến đã được lột trần dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn đã từng vào sinh ra tử trong trận chiến ở Khe Sanh-Đường 9 Nam Lào vào mùa mưa 1972.

Dòng người cứ đổ về Thánh địa La Vang bất chấp nắng nóng. Đến chiều 13/08, trước khi diễn ra Thánh lễ khai mạc, trên Thánh địa là một biển người, rợp muôn sắc áo khoe màu. Đúng 16 giờ thì Đại lễ hội tam niên La Vang được bắt đầu với chủ đề: Mẹ Maria nhà giáo dục Đức tin.

Trước hết, Đức TGM Huế cử hành một hồi trống khai mạc Đại Hội. Sau đó, Hội Dòng Mến Thánh Giá Huế trình diễn vũ khúc theo chủ đề: “Mẹ Maria, Nhà Giáo Dục Đức Tin”. Đội múa thứ nhất bắt đầu trong tiếng đàn theo bản nhạc Lòng Mẹ của Y Vân đã đưa lòng người chuồi theo dòng cảm xúc ngọt ngào lời ru của mẹ. Từ những lời ngợi ca người mẹ trần thế, lòng người được cảm nếm một tình mẹ bao la cao vời mênh mông hơn, đó là người Mẹ thiên đình hằng dõi theo bước con đi để đỡ nâng và dìu lên theo những cung bậc tình yêu. Đội múa thứ hai diễn múa cảnh “Maria trong tiệc cưới Cana” nói lên sự quan tâm của Mẹ đối với con cái trong cơn khát rượu tình thương, rượu hy sinh và dấn thân. Đội múa thứ ba diễn múa đề tài “Maria, Mẹ giáo dục đức tin”.

Thánh lễ khai mạc có sự hiện diện của các Tổng Giám mục và Giám mục:

1/ Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng thư ký HĐGM Việt Nam, Tổng Giám mục Tổng giáo phận Hà Nội.
2/ Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Phó Chủ tịch HĐGM Việt Nam, Giám mục giáo phận Thanh Hóa.
3/ Đức Cha Giuse Nguyễn Đức Minh, Phó Tổng thư ký HĐGM Việt Nam, Giám mục phó giáo phận Nha Trang.
4/ Đức Cha Antôn Vũ Huy Chương, Giám mục giáo phận Hưng Hóa.
5/ Đức Cha Giuse Trương Ngọc Tri, Giám mục giáo phận Đà Nẵng.
6/ Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục giáo phận Hải Phòng.
7/ Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục phó giáo phận Bùi Chu.
8/ Đức Cha Stêphanô Nguyễn Như Thể, Tổng Giám mục giáo phận Huế.
9/ Đức Cha Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, Giám mục phụ tá giáo phận Huế.
10/ Đức tân Giám mục Bắc Ninh Cosmas Hoàng Văn Đạt.
11/ Đức viện phụ Dòng Thiên An Stêphanô Huỳnh Quang Sanh.

Thánh lễ khai mạc do Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh chủ tế. Trong bài giảng Thánh lễ, Đức Cha Giuse đã nói về "Cơn khát của đoàn con được Mẹ Maria nhận ra đầu tiên, đó là cái khát tình yêu thương, khát sự bao dung và vị tha, khát sự dấn thân giữa một thế giới co cụm lại trong ích kỷ và hận thù".

Tối hôm đó rải rác có những hạt mưa như làm dịu lại cái nóng ban ngày. 8 giờ 30 bắt đầu rước Thánh Thể.

La Vang, ngày 14/08/2008

Ngày 14 là ngày diễn ra nhiều sự kiện với những chương trình cầu nguyện và Thánh lễ của các tổ chức. 5 giờ 30 bắt đầu Thánh lễ, sau đó là giờ suy niệm và cầu nguyện của các Linh mục, chủng sinh. Tôi tham gia Thánh lễ 10 giờ 30 dành cho người khuyết tật, do Đức Cha phụ tá Bùi Chu Phêrô Nguyễn Văn Đệ chủ sự. Trước Thánh lễ có chương trình diễn nguyện của anh chị em tình nguyện trong đoàn với hoạt cảnh Chung một niềm tin, thuật lại cảnh Chúa Giêsu chữa người mù (Lc 18, 35-42); Chúa Giêsu chữa người bại liệt (Mt 9, 1-7); Chúa chữa người câm điếc (Mc 7, 31-34). Tất cả đều phát xuất từ việc "cảm nhận được sự trùng phùng từ tiết trờ oi ả của Thánh Địa La Vang với mùa xuân của Tin Mừng Cứu Độ. Lúc này tâm hồn mọi người như đang tìm về suối nguồn nguyên thủy và tươi mát mà Đức Kitô đã đúc kết nơi tấm lòng từ mẫu của Mẹ Maria qua hai từ XIN VÂNG và PHÓ THÁC"; "Và vì yêu, Chúa vẫn tiếp tục thôi thúc chúng con - những anh chị em khuyết tật - từ khắp mọi miền đất nước về đây, lòng dặn lòng, hãy sống mãnh liệt ơn gọi làm người của mình, để góp vào bản trường ca Cứu Độ chính Giêsu đã hát lên năm xưa" (Lời dẫn).

Tôi nghe tiếng sụt sùi của ai đó, tiếng nấc nghẹn ngào của một người phụ nữ ngồi cạnh tôi, chị lấy khăn lau mắt nhiều lần, hẳn là chị cảm động lắm. Vâng! Làm sao mà không thể cảm động được trước những con người sinh ra với một thân phận như định mệnh oan khiên bủa vây và che phủ cuộc đời một màu u ám. Không nhìn thấy ánh sáng, tất cả là một màn đêm tăm tối; không tự bước đi được; không nghe được tiếng nói của người thân. Một tấm thân tàn lê bước trong tuyệt vọng với chuỗi ngày dài bị dằn vặt bởi mặc cảm sống thừa, sống như một gánh nặng cho gia đình bố mẹ, là những tâm sự của chính những người khuyết tật đã được Đức Cha Đệ nêu ra trong bài giảng. Nỗi xúc động nghẹn ngào như trào dâng không thể kìm nén được mà bật thành tiếng khóc của người phụ nữ nọ và của nhiều người khác, hẳn phải được cộng hưởng bởi tiếng hát của ca đoàn Mái Ấm Don Bosco với bài hát có nhan đề Không phải lỗi tại con của tác giả Trọng Khẩn: "Con không được nhìn thấy mặt trời. Con không được nhìn thấy mặt trăng. Con không được nhìn thấy hàng cây cũng chưa được nhìn thấy những tầng mây. Con chưa được cất lên một lời nào, con chưa được lắng nghe một lời chào, mà chỉ thấy một màn đêm u tối bao phủ quanh cuộc đời. Con không được đi đến trường học. Con không được cười nói tự nhiên nhưng lòng con vẫn bình yên… Không phải lỗi tại con, cũng không phải của cha hay của mẹ. Con chẳng được may mắn như bao người, được sinh ra trong cuộc đời. Nhưng để làm rạng danh một Thiên Chúa giữa nhân loại hôm nay". Một ký giả của R. Véritas đã xin tôi cuốn sách nhỏ Hành hương La Vang có bài hát đó để viết bài gửi cho bản đài.

Nếu không có cái chết tức tưởi của Đức Giêsu trên Thập Giá thì mọi lý giải đối với những "mảnh đời xấu số" này đều trở nên vô nghĩa, đều chỉ là âm thanh của não bạt phèng la mà thôi, vì tất cả đều là một bài toán hóc búa không tìm ra đáp số nếu chúng ta không tìm nơi Đức Giêsu Kitô. Và khi đó "thi ca và triết học?... những học thuyết và mọi thứ chủ nghĩa đầy ắp những khái niệm siêu hình?... và cả tôn giáo cùng những kiến giải thâm huyền của nó. Tất cả chỉ là những trò hý luận phù phiếm và vô nghĩa?" khi con người đối diện với bao cảnh đau thương trên cõi đời này mà đành khoanh tay đứng nhìn một cách bất lực.

Chiều ngày 14, dòng người đổ về Thánh địa La Vang ngày càng đông. Con số theo ban tổ chức ước tính, cho đến khi kết thúc những lượt xe chở cộng đoàn hành hương ngừng chạy vào Linh địa, là hơn nửa triệu người. Người ta không thể lý giải nổi về việc sùng kính Đức Maria nơi người dân Công giáo Việt Nam tại sao lại mãnh liệt và cháy bỏng niềm mến yêu đến thế, nếu chỉ nhìn nó như một hiện tượng tôn giáo thuần túy hay kiến giải sự kiện theo một quan điểm lý luận phản nghịch với tôn giáo?!

Một chặng đường dài từ Bắc vào hay từ Nam ra, điểm hẹn ở La Vang, đã rất mệt mỏi đối với cộng đoàn hành hương, nhưng mọi người vẫn cố gắng tham dự các nghi thức diễn ra trong chiều hôm nay. Đúng 17 giờ 30, Thánh lễ đồng tế lễ vọng mừng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, do Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, TGM Hà Nội, chủ tế. Đồng tế với Ngài còn có 13 đức giám mục và khoảng 500 linh mục của 26 giáo phận trong cả nước. Trong bài giảng Thánh lễ, Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đã chia sẻ với cộng đoàn Đức tin những xác tín sâu sắc về định tín Đức Mẹ Hồn Xác lên trời. Cơ sở và nền tảng nắm chắc phần thưởng đó chính là việc tuân giữ Lời Chúa: "Phúc thay người đã nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa". Đó mới là hồng phúc đích thực. Rất thường trong tầm nhìn hạn hẹp của con người ta chỉ cảm nếm được phần phúc lộc trước mắt. Có thể một ai đó khen một người mẹ có con làm Linh mục, đúng là niềm vui lớn lao thật, nhưng niềm vui của cõi đời với người con là Linh mục có là gì khi sánh với niềm vui của người biết sống đúng theo Lời Chúa dạy nếu người mẹ bằng lòng với chút vinh dự đó và dừng lại như là điểm đến của mọi cố gắng, mọi nỗ lực.

Thánh lễ kết thúc vào lúc 19 giờ. Sau đó, khoảng lúc 20 giờ 30 thì chương trình Diễn nguyện bắt đầu khai mạc. Có 12 đoàn của 10 giáo phận tham gia các chương trình khác nhau, mỗi một đoàn mang đến cho Đại lễ hội La Vang một hương vị riêng, một nét văn hóa đặc trưng của quê hương mình. Đoàn của giáo phận Bắc Ninh, bằng những làn điệu dân ca khoan họ đã cống hiến cho khán giả một màn diễn rất đậm đà chất văn hóa xứ Đoài với tiết mục "Người Cha nhân hậu"; đoàn của giáo phận Vinh mang đến Lễ hội những câu hát dặm thấm đượm chất trữ tình và sâu lắng trong lòng người với tiết mục "Cùng với Mẹ La vang"… Đêm diễn nguyện kết thúc khoảng 0 giờ 30 phút bằng lời phát biểu cám ơn và bày tỏ những tâm tình của Đức Tổng Giám Mục Stêphanô Nguyễn Như Thể đối với không khí Lễ hội qua đêm diễn nguyện.

Qua một đêm với sương rơi và gió bụi, với những câu chuyện tâm tình và với những nguyện cầu dâng lên Mẹ, cộng đoàn hành hương lại vội vàng chuẩn bị cho ngày lễ cao điểm và bế mạc.

La Vang, ngày 15/08/2008

Thánh lễ sáng ngày cao điểm được bắt đầu từ 6 giờ. Khỏi phải nói về những con số và một vài tường thuật về không khí lễ hội trong buổi sáng ngày 15. Đông đảo, nô nức và "quá tải"… sẽ thành những con chữ vô hồn khi không biết lắng sâu vào những tiếng nguyện lời kinh của bao người hành hương cầm trên tay tràng chuỗi, ánh mắt rớm lệ ngước lên tượng Mẹ mà cầu xin, mà van nài. Cầu gì? Xin gì? Không biết. Chỉ biết rằng Đức tin nơi những bà mẹ "chân quê" ấy thật sâu nặng, thật kiên vững. Đừng lý luận gì cao xa. Đừng nói đó là kiểu "cầu nguyện bình dân", đời sống Đức tin không vững chắc và dễ bị bứng rễ bật gốc qua một trận cuồng phong. Tôi dám chắc rằng, những tâm hồn ấy đẹp lòng Mẹ hơn bao bậc tu trì xúng xính trong phẩm phục, oai vệ trong phong thái nhập đoàn rước và đường bệ bước đi với một thái độ "hạ mục vô nhân". Nắng nóng, oi bức, ngột ngạt… và bao nhiêu hệ lụy khác của chốn tập trung đông người. Tôi thấy dọc hai bên lối đi dành cho đoàn rước, những cụ già như rướn hết sức lực bươn mình chen lấn để mong tìm một chỗ trống nho nhỏ lọt tầm mắt mà hướng nhìn lên Linh đài Mẹ. Những người không còn cách gì hơn, đành đứng vậy mặc cho sự chen lấn xô đẩy và cứ buông như không hề làm chủ được mình nữa. Vậy mà vẫn bao trùm một không khí thinh lặng và nghiêm trang đến nghẹn ngào. Tôi như muốn gào thét thật to để thấu đến màng nhĩ của những lỗ tai bị điếc, những con mắt bị mù của bao người vẫn quen lối phê bình chỉ trích tôn giáo. Sẽ có những hậu duệ của những ông thầy tư tưởng "đa nghi" mỉm cười vì thấy cảnh tượng đó như làm phong phú thêm kho tàng lý luận của họ. Tôi không để ý đến những tuần tự của các nghi thức diễn ra trong Thánh lễ sáng nay, tâm trí tôi dồn hết cho những nỗi cảm thông với cộng đoàn hành hương, đoàn con cái vì lòng yêu mến Mẹ, yêu mến Giáo hội mà tựu về bên Mẹ bất chấp cả đường sá xa xôi và nắng nóng. Ước chi tôi là đám mây che bớt cái chói chang của ánh mặt trời như đang đổ lửa xuống trên biển người - một cộng đoàn đức tin đông đảo. Ước chi tôi là làn gió mát làm dịu cái oi bức ngột ngạt của buổi sáng hôm nay. Nhưng Mẹ ơi! Có hề chi với con cái Mẹ trước những thứ đó. Lòng yêu mến Mẹ đã tăng thêm nghị lực và sức mạnh cho đoàn con. Đức tin và Tình yêu đã chiến thắng tất cả.

Chủ sự Thánh lễ sáng nay là Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch HĐGMVN, Giám mục Giáo phận Đà Lạt. Giảng trong thánh lễ, Ngài đã nhấn mạnh đến niềm xác tín sâu xa về tín điều Đức Maria linh hồn và xác lên trời. Thật ra, niềm tin vào Đức Mẹ Maria linh hồn và xác về trời đã có từ lâu trong lịch sử, Giáo hội tái khẳng định đặc ân này bằng một định tín là để nâng sự kiện hy hữu này lên một tầm mức cao hơn một chân lý hiển nhiên trong lòng người Kitô hữu để nhắc nhớ con cái Mẹ dành sự tôn sùng đặc biệt và phó thác hoàn toàn cho Trái Tim vẹn sạch của Mẹ. Nhưng phải nói thế nào cho con người thời đại với não trạng duy vật chất, duy thực nghiệm và muốn gạt sang một bên những thực tại thánh thiêng, chấp nhận được định tín này? Trời hay là cõi Thiên Đàng cực lạc mai hậu không phải là một nơi chốn như cảm giác thể lý nắm bắt được. Cõi ấy là một trạng thái, một chốn an nhiên tự tại, "là thế giới siêu nhiên vô hạn, thế giới thần linh của Thiên Chúa" chứ không là một không gian vật lý hữu hạn. Về trời nghĩa là "được Thiên Chúa cho tham dự vào chính sự sống của Chúa Ba Ngôi cách trọn vẹn cả hồn lẫn xác". Và "Mẹ đã được Thiên Chúa đưa ra khỏi thế giới tự nhiên hữu hạn đó". Đặc ân cao cả của Mẹ có một mối liên hệ sâu xa với thân phận con người của chúng ta, nghĩa là chúng ta cũng được thông phần với niềm vinh phúc của Mẹ trên thiên quốc, nhưng chỉ khác nhau về thời gian mà thôi.

Có một điều mà tôi không muốn nói ra đây, nhưng có một sự thôi thúc thầm kín trong lòng mình như muốn bảo tôi phải điểm qua chi tiết ấy. Đó là tiếng ồn ào gây mất trật tự trong Thánh lễ thỉnh thoảng rộ lên như muốn phá tan bầu khí tôn nghiêm của buổi lễ, kéo sự chú ý của mọi người hướng về một sự kỳ lạ huyền hoặc và mơ hồ nào đó. Tình trạng này chỉ diễn ra trong thời điểm cần sự tập trung cao độ: Chiều ngày 13, trước khi diễn ra những vũ khúc và Thánh lễ khai mạc Đại hội; sáng 14 và 15 trong khi mọi người chú ý nghe giảng. Có người nói đó là âm mưu của kẻ cắp: ăn cắp tiền và ăn cắp tư tưởng. Nhưng với những người chuyên hành nghề "hai ngón" thì, tôi nghĩ, họ không nảy ra được cao kế đó đâu. Cũng có thể có những người do hiếu kỳ, thích được nhìn thấy phép lạ mới trào lên nguồn cảm xúc và tăng thêm niềm tin nên a dua với đám đông vô lối đó! Ngoài phép lạ Gio-na, hỏi còn đâu phép lạ khác nữa. Mà đức tin Công giáo vốn không hệ tại ở những điềm thiêng dấu lạ đó. Ngay khi mới xuống khỏi xe, tôi đi vào nhà của ban trật tự phía tòa nhà Trung tâm, một người phụ nữ trạc ngoại tứ tuần, người miền Nam, bảo tôi: "Ông thầy đưa máy ra chụp hình mặt trời đi, có hào quang của Mẹ tỏa sáng đẹp lắm, chụp để đưa về tuyên truyền cho mọi người, từ sáng tới giờ tôi lấy di động chụp được". Và người khách kia đưa cho tôi xem, quả thật có cái vòng tròn phát tán ánh sáng 7 màu xung quanh mặt trời, tuy nhiên tôi vẫn không tin vào hiện tượng đó là sự hiển linh của Mẹ, vì dưới ánh mặt trời chói chang ấy mắt ta nhìn lên sao không khỏi bị lóa và thấy nhiều đốm sáng loé lên. Nhưng tôi vẫn đưa máy lên nháy vài lần, không có chi, chị kia bảo: "Chắc ông thầy không được ơn của Mẹ rồi". Tôi đưa máy cho chị chụp, cũng không có chi. Tôi: "Chắc chị cũng không có ơn của Mẹ".

"Hội ngộ rồi chia ly", cuộc đời vốn vẫn là những xoay vòng của con tạo. Mới vài ba hôm trước, sự nô nức hăm hở lên đường của mọi người vẫn còn vẹn nguyên những lo lắng sắm sửa hành trang, nay lại chuẩn bị từ biệt Mẹ ra về. Mẹ Lang Vang, xin hẹn Mẹ ngày này năm sau, ba năm sau. Đọng lại trong mỗi khách hành hương là những gì? Hẳn là nhiều ấn tượng đẹp lắm về một lễ hội có nhiều sự kiện đặc biệt này: Những lời giảng dạy chia sẻ sau sắc của các Đức Giám Mục; những giờ cầu nguyện chia sẻ của các cộng đoàn Đức tin; những cảnh rước với các tổ chức đoàn thể chỉnh tề nghiêm trang trong trang phục truyền thống dân tộc hay trong tà áo dài tha thướt duyên dáng của bao thiếu nữ xinh đẹp đậm đà cái nắng xứ Quảng in trên khuôn mặt; tiếng hát của các ca đoàn; những màn vũ khai mạc bế mạc với trang phục lộng lẫy của những vũ nữ kiều diễm mang phong thái của dòng giống hoàng tộc; sự nhiệt tình của ban trật tự nhằm đảm bảo cho Đại hội được nghiêm trang; sự tận tụy đến quên mình của những nhóm anh chị em thu gom rác thải trên khắp các bãi đậu của khách hành hương; và một công việc không thể không nhắc đến của cha quản nhiệm La Vang, là thông tin về những anh chị em thất lạc, một cầu nối vô cùng quan trọng để cho bao người được tìm thấy nhau giữa biển người này. Tất cả đã làm nên một lễ hội đầy ý nghĩa: Tôn giáo, văn hóa, xã hội… Trước khi lên xe ra về, tôi đã tranh thủ ghi được một vài tấm hình về những công việc làm âm thầm lặng lẽ nhưng rất quan trọng và rất đỗi thân thương này của Ban tổ chức Đại hội. Giá như không có cầu nối thông tin nhắn tìm người nhà thì có biết bao em nhỏ khóc hết nước mắt vì sợ lạc không về được và bao người già quanh quẩn lần tìm lối ra trong cái nóng như rang này.

Đôi dòng ghi vội về một kỳ đại hội lớn lao chắc chắn sẽ không bao quát và chuyển tải hết được những diễn biến của sự kiện hy hữu này. Nhưng như một chút ân tình gửi gắm cùng muôn cõi lòng tri âm, xin được chia sẻ cùng mọi người qua trang nhà của Giáo phận Vinh chúng tôi. Xin hẹn đến kỳ đại hội 2011.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Diễn biến tại linh địa Đức Bà Thái Hà
PV VietCatholic
00:26 18/08/2008
Diễn biến tại linh địa Đức Bà Thái Hà ngày 17.08.2008

HÀ NỘI - Ngày hôm nay 17.08, giống như khí trời Hà nội, nắng nóng hơn so với những ngày trước, bầu khí ở linh địa Đức Bà cũng nóng lên với những diễn biến xảy ra trong ngày.

Hình ảnh những diễn biến hôm nay tại Thái Hà

Đài truyền hình chính phủ quay phim
Từ sáng sớm khi thánh lễ thứ nhất chưa xong chúng tôi đã được nghe thông tin cấp báo có khá nhiều cán bộ và nhân viên đài Phát Thanh Truyền Hình Hà Nội đã có mặt tại linh địa Đức Bà. Dấu hiệu này cho thấy chính quyền Hà Nội bắt đầu đưa truyền thông vào cuộc để phục vụ cho những mục đích bất chính của họ. Chúng tôi được biết, sau khi nhân viên truyền hình quay cảnh ở linh địa Đức Bà thì xảy ra một sự kiện đó là hai cán bộ chạy xe va quẹt vào hai giáo dân đang trên đường đi vào nhà thờ, tạo nên một sự cố lời qua tiếng lại trên Phố Đức Bà! Chúng tôi thấy làm lạ là lúc ấy phóng viên truyền đang đứng quay gần đó và thu hình những diễn biến của cuộc cãi vả đó. Một kịch bản hình như đã quá cũ!

Thông tin về Thái Hà trong những ngày qua đã thu hút đông đảo giáo dân đến để cùng chia sẻ lời cầu nguyện cho công lý được thực thi với bà con giáo dân xứ Thái Hà. Do đó, các thánh lễ hôm nay tại Thái Hà cũng đông hơn hẵn so với những những ngày Chúa Nhật khác. Mặc dù cánh cổng dẫn ra Phố Đức Bà khá hẹp nhưng sau các thánh lễ, bà con giáo dân vẫn kiên nhẫn chờ đợi lần lượt đi qua để được ra cầu nguyện trên lãnh địa của Mẹ.

Tại lãnh địa Đức Bà, chúng tôi nhận thấy giáo dân vẫn tiếp tục phát quang khu đất, dọn vệ sinh một số căn nhà bị bỏ hoang lâu năm. Các ảnh Đức Mẹ và nhiều Thánh Giá được rước vào bên trong khu đất và được treo ở các gốc cây và nơi những căn nhà bị bỏ hoang. Khi tiến sâu vào bên trong, bà con giáo dân đã phát hiện một đài Đức Mẹ đã bị bỏ hoang, nằm giữa một hồ nước cạn được xây hình vòng cung, nhưng đã không còn nước. Thấy thế, bà con giáo dân vào làm vệ sinh trang hoàng hoa nến, lọ nhang và rước một tượng Mẹ vào đặt trên đài. Mẹ đã trở về với nơi của Mẹ sau bao năm bị người ta chiếm dụng. Sau thánh lễ thiếu nhi 16giờ đông đảo thiếu nhi và bà con giáo dân đã vào cầu nguyện trước đài Đức Mẹ này, nhân đó vị linh mục cũng đã làm phép tượng Mẹ.

Ở phía bên kia khu đất, trong ngôi nhà bị bỏ hoang lâu năm, bà con giáo dân đã vào dọn dẹp, làm vệ sinh sạch sẽ sau đó bà con đã rước một tượng Đức Mẹ cao khoảng 1 mét dựng trong căn nhà đó. Trong khuôn viên Đức Bà, nhiều ảnh Đức Mẹ và thánh giá đã được bà con treo khắp các tường rào và các khu nhà bị bỏ hoang.

Giáo dân tiếp tục cầu nguyện
Sau các thánh lễ Chúa Nhật hôm nay, Nhà Thờ Thái Hà đã công bố cho bà con giáo dân biết hai văn thư liên quan đến những sự kiện đang xảy ra ở Phố Đức Bà. Văn thư thứ nhất là văn thư của ông Trần Đức Học, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân (UBND) quận Đống Đa, số 32/UBND-VP, với nội dung: “yêu cầu ông Vũ Khởi Phụng – linh mục Giáo xứ Thái Hà chấm dứt ngay các hoạt động vi phạm pháp luật, chuyển ngay tượng, cây thánh giá, bát hương, lọ hoa, lều bạt, ô dù… dựng trái phép ra khỏi khuôn viên khu đất Công ty cổ phần may Chiến Thắng về trong khuôn viên nhà thờ Thái Hà; đồng thời có biện pháp hữu hiệu quản lý giáo dân không làm những việc vi phạm pháp luật…”

Trước yêu cầu đó, cha bề trên – chánh xứ Mátthêu Vũ Khởi Phụng đã trả lời bằng văn bản như sau: “… về việc giải tán số giáo dân đang hiện diện trên khu đất nhà nước đã quyết định thu hồi từ công ty cổ phần may Chiến Thắng, thì chúng tôi không thể làm được vì lý do sau đây: bà con rất xác quyết rằng bà con bị tước đoạt một cách bất công những quyền lợi chính đáng của mình trên mảnh đất mà các thế hệ giáo dân thời trước đã bỏ công của ra gây dựng để truyền lại cho đời sau. (Hiện chúng tôi còn đầy đủ tài liệu). Nay muốn giải tán thì chúng tôi phải chỉ cho bà con thấy rõ rằng yêu cầu và đòi hỏi của bà con là trái lý công bằng, mà chính đó là điều chúng tôi không thể chứng minh được để thuyết phục bà con, xin ông thông cảm.” Chúng tôi nhận thấy sau khi các cha đọc xong thư phúc đáp bà con giáo dân đã vỗ tay tán thành.

Như chúng tôi đã nói ở trên, chính quyền Hà nội bắt đầu sử dụng truyền thông để đưa những thông tin một chiều về những diễn biến ở Phố Đức Bà. Liên tiếp trưa, chiều và đêm nay, truyền hình Hà Nội đã phát đi những hình ảnh xảy ra ở Thái Hà và lên án Giáo xứ và giáo dân Thái Hà vi phạm pháp luật… Với những ai yêu mến sự thật, yêu mến công lý và hiểu những vấn đề về khu đất mà bà con giáo dân cũng như giáo xứ Thái Hà đang kiên trì đòi lại thì họ sẽ không thể nào tin nổi trước những lời kết án của chính quyền Hà Nội trước những gì đang xảy ra ở Thái Hà. Hơn nữa, ai cũng biết rằng những hình ảnh và những lời nói của cô phóng viên và cả những người được phỏng vấn đều phải qua kiểm duyệt kỹ càng nhằm phục vụ cho cái được gọi là “đường lối chính sách của đảng và nhà nước”.

Chiều tối và đêm khá nhiều cán bộ các cấp đã chứng kiến rất đông đảo bà con giáo dân tiếp tục hiện diện ở khu đất Đức Bà để cầu nguyện cho công lý. Nếu là những con người có cái tâm khát khao tìm công lý và sự thật, đồng thời có tấm lòng vì dân thì họ sẽ không đưa ra những lời cáo buộc chụp mũ giáo dân và giáo xứ Thái Hà như trong văn thư của ông chủ tịch quận Đống Đa và bản tin của Đài Truyền Hình Hà Nội về sự kiện Thái Hà.
 
Nỗi khổ của các bậc phụ huynh thời hiện đại!
Anmai, CSsR
11:12 18/08/2008
Nỗi khổ của các bậc phụ huynh thời hiện đại ở Việt Nam!

Là cha là mẹ, cái vốn quý nhất đó chính là công ơn sinh thành và dưỡng dục. Sinh thành đã là khó mà dưỡng dục lại càng khó hơn trong thời hiện đại. Nếu quay ngược lại thời cổ đại xem các bậc phụ huynh thì thấy họ thảnh thơi làm sao đấy, chẳng phải lo gì nhiều cho con cái, ngày nay thì hoàn toàn ngược lại.

HS 6 tuổi đi học lớp hè
HS 6 tuổi đi học lớp hè (trong đó có nội dung luyện thi vào lớp 1 tiếng Anh tăng cường) ở Trường tiểu học Võ Văn Tần, quận 6 sau giờ tan học.

Thời cổ đại hay gần nhất là trước cái ngày mà người ta gọi là “Miền Nam hoàn toàn giải phóng” thì phụ huynh đâu có phải lao đao như ngày hôm nay. Thời ấy, cứ lo đi làm đi lụng kiếm tiền cho con ăn học chứ đâu có phải như ngày nay cứ suốt ngày cứ phải quấn quýt bên con cái. Con chưa kịp dứt sữa thì bố mẹ phải lo “chạy trường” cho con rồi. Phải chạy tới chạy lui mới tìm được cho chúng một chỗ dung thân thời nhà trẻ. Trường điểm của quận, của thành phố thì có nằm mơ cũng chẳng thể nào còn đơn cả vì đơn đã bán hết sạch trước ngày ra thông báo. Còn các trường công thì không cần phải bàn ai ai cũng biết “chất lượng cao” đến mức nào. Và rồi, cuối cùng chỉ còn một chỗ để “chạy trường” đó là tìm đến các “bà sơ”. Mà khổ! Các “bà sơ” thì với lý do này lý do khác không thể mở to trường được. Khuôn viên nhỏ thì làm sao dám nhận nhiều. Tại sao khuôn viên trường của các “bà sơ” nhỏ?

Bắc thang lên hỏi ông trời?

Đất (nhà) Dòng bị chiếm có đòi được không?

Đất nhà dòng bị tịch thu để làm hồ bơi (Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn với hồ bơi Kỳ Đồng), đất nhà Dòng bị biến thành quán bar – vũ trường (Tu hội nữ tử Bác Ái Vinh Sơn với trụ sở 32 bis Nguyễn Thị Diệu), làm khách sạn (Dòng Chúa Cứu Thế với khách sạn Hải Yến – Nha Trang), công ty may Chiến Thắng đang chia chát trục lợi (Dòng Chúa Cứu Thế với Phố Đức Bà – giáo xứ Thái Hà Ấp – Hà Nội)

Thế đấy! Đất đai của các Nhà Dòng, các Tu Viện bị chiếm dụng nên còn đâu cơ sở để những nhà giáo dục chân chính mở trường. Trường đạt tiêu chuẩn, chất lượng thì ít nên đã xảy ra chuyện bi hài của việc “chạy trường” cho con em. Ai cũng ghi nhận việc giáo dục của các “bà sơ”, các hội dòng đều mang lại thành quả tốt, sinh ra những con người vừa có phẩm vừa có chất cho xã hội nhưng rồi chẳng có hội dòng nào được mở trường cả!

Vừa qua, một số tờ báo đã đưa tin: 1h sáng 1/7, hàng chục phụ huynh đã chầu chực, xếp dài trước cổng trường mẫu giáo Tương Mai (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) chờ trời sáng để... nộp đơn xin cho con vào mẫu giáo. Lộn xộn, cãi cọ đã xảy ra, thậm chí, còn xuất hiện tình trạng "cò" nộp đơn. Tình trạng xếp hàng từ nửa đêm cũng xảy ra ở nhiều trường Mầm non nội thành Hà Nội. Bảo vệ trường Mầm non Hoa Hồng (quận Cầu Giấy) cho biết, mới 11h đêm, đã có người đến gọi cổng hỏi mua hồ sơ. Còn theo lời bảo vệ Mầm non Tuổi Hoa (quận Đống Đa), 1h sáng đã có một số người đến đứng ở cổng...

Dắt bé đi thi
Thêm chuyện bi hài nữa là Chưa học lớp 1 đã phải đi luyện thi. Chuyện khó tin nhưng có thật ở TP.HCM. Phần lớn các bé 6 tuổi đăng ký xin dự tuyển vào lớp 1 chương trình tiếng Anh (năm học 2007-2008) đều được bố mẹ cho đi “luyện” để chuẩn bị ứng thí trong kỳ khảo sát năng khiếu ngoại ngữ vào ngày 12/7.

10 đứa trẻ ngồi xung quanh chiếc bàn nước kê ngay giữa phòng khách của một căn nhà nhỏ nằm trong con hẻm trên đường Nguyễn Kiệm (Q.Gò Vấp, TP.HCM). Cả căn phòng rộng chừng 30 m2 chỉ có duy nhất ngọn đèn tuýp 1,2 m treo trên tường. Bàn quá thấp mà ghế lại quá cao nên các bé phải cong lưng để gò từng nét chữ.

HS 6 tuổi đi học lớp hè (trong đó có nội dung luyện thi vào lớp 1 tiếng Anh tăng cường) ở Trường tiểu học Võ Văn Tần, quận 6 sau giờ tan học.

Cô giáo không dùng bảng. Thay vào đó, cô viết mẫu từng từ (tiếng Anh) vào vở rồi cho các em tập viết, tập phát âm. Nhưng chỉ được 20 phút: “Cô ơi, nghỉ tí xíu đi cô, con mỏi lưng quá rồi!”. Lập tức cả lớp nhao nhao: “Đúng rồi đó cô, con cũng mỏi nữa”, “Cô kể chuyện đi cô”...

Trong khi đó, giáo viên mở lớp dạy luyện thi tại nhà riêng ở gần khu vực vòng xoay Phú Lâm (quận 6) lại không đồng ý cho phụ huynh “tận mục sở thị” tiết dạy của mình với lý do “có người lạ dạy không được”(?).

Căn phòng khoảng hơn 20 m2 với gần 30 em ngồi chen chúc nhau. Bàn ghế được đóng “đúng kiểu” như trong trường phổ thông nhưng các bé vẫn phải rướn người lên vì bàn quá cao so với ghế. Đến giờ học, phụ huynh đưa con đến lớp và ra về, nhận học sinh xong cô giáo đóng kín cửa và... bắt đầu dạy.

Cô dẫn cháu vào phòng thi
Mặc dù chưa có một cuộc khảo sát cụ thể nhưng theo ghi nhận của phóng viên, hầu hết các em đăng ký dự tuyển vào lớp 1 chương trình tăng cường tiếng Anh năm học 2007-2008 đều được cha mẹ cho đi học luyện thi.

Không chỉ “tầm sư học đạo” theo dạng tìm một giáo viên tiếng Anh giỏi (dạy riêng hoặc dạy theo từng nhóm tại nhà riêng của phụ huynh hoặc giáo viên), phụ huynh còn chọn cách luyện thi ngay tại trường tiểu học nơi con mình ứng thí.

Quá bi đát khi mà ở những lớp nhà trẻ, mẫu giáo đều cấm không được dạy chữ cho trẻ mà lại có chuyện thi vào lớp 1 lại qua một kỳ tuyển tiếng Anh.

Trong những năm tháng dài ở bậc Tiểu Học rồi đến Trung Học Cơ Sở, phụ huynh đã không ít lần khốn đốn với chuyện học thêm học bớt của con em mình. Bên cạnh đó còn phải lao đao chuyện thay sách giáo khoa cho chúng. Tưởng chừng nhà có hai anh em, anh học để lại sách cho em nhưng nào ngờ ngày em lên lớp của anh thì ngày ấy sách giáo khoa của anh chỉ còn có cách duy nhất là cân ve chai!

Dỗ bé vào thi
Tưởng chừng bình an vô sự cho đến ngày tốt nghiệp Trung Học Cơ Sở nhưng nào ngờ cha mẹ cũng như con em phải điên cái đầu để chọn nguyện vọng ở đầu cấp Phổ Thông Trung Học. Kém may mắn một chút là chới với ngay khi đầu cấp III. Chỉ cần thiếu 0,25 điểm thôi thì một em dù thi điểm cao cách mấy đi chăng nữa cũng sẽ đánh mất cái nguyện vọng tha thiết của em và rồi sau đó chỉ còn một ngõ duy nhất dành cho em là vào trường Dân Lập. Biết là hệ thống Dân Lập sẽ có nhiều sự chăm sóc, nhiều sự quan tâm, nhiều phương tiện học hành cho các cháu hơn nhưng thử hỏi với một gia đình lao động nghèo thì làm gì tìm đủ số tiền xấp xỉ hai triệu rưỡi (2.500.000 đ/ tháng) một tháng để đóng cho con. Mới đặt chân vào nộp hồ sơ là đi đứt 5.000.000 đồng (ví dụ trường Trương Vĩnh Ký - quận 10).

Và cha mẹ cũng đâu có được yên cho đến ngày chúng tốt nghiệp phổ thông trung học. Sau những ngày ngồi ghế phổ thông trung học thì lại đến Đại Học. Những năm tháng Đại Học ấy cha mẹ phải đổ mồ hôi sôi con mắt nai lưng ra nuôi con khôn lớn!

Con cái vừa tốt nghiệp, vừa ra trường thì cũng chưa yên! Vì lẽ muốn tìm một chỗ ngon lành cho chúng yên thân thì cũng phải chạy đầu này, chọt đầu kia chứ đâu có đơn giản tìm một việc thích hợp với ngành học của chúng. Muốn vào những nơi tạm gọi là ngon một chút thì khi nộp hồ sơ cũng phải kèm theo cái phong bì nho nhỏ mà nội dung trong đó thì chẳng nhỏ chút nào cả.

Cũng giấy bút như ai đấy nhé!
Thế đấy! Đối diện với một nền giáo dục và đào tạo phải đau đớn mà nói là quá bi đát như thế thì thử hỏi các bậc phụ huynh có cảm nghiệm gì? Chắc có lẽ nhiều phụ huynh vừa lo cho con “thành tài” cũng bở hơi tai và cũng chẳng còn sức đâu để mà hưởng sự đền đáp công ơn của con cái.

Nhìn các em tung tăng đến trường nhưng mấy ai hiểu được để được cái sự tung tăng ấy phụ huynh của các em phải hao gầy cả cuộc đời của mình để lo cho chúng! Và liệu rằng dưới những mái trường ẩn nấp sự chạy chọt, sự xếp hàng, sự xin xỏ như thế có đạo tào ra được những con người sống đúng nhân cách, đúng nhân bản của một con người bình thường hay không? Câu trả lời mà ai ai cũng biết đó là chúng sống trong sự chạy chọt, xin xỏ, quà cáp như thế thì sau này khi tốt nghiệp hoà nhập vào xã hội chúng cũng sẽ hành xử theo kiểu chạy chọt, xin xỏ như cha mẹ chúng ngày xưa để “bù đắp” những cay đắng mà thời còn trẻ cha mẹ chúng đã phải gánh chịu.
 
Thái Hà: Nhu cầu tâm linh - nhu cầu sống đạo
Thiên Anh Dương
12:10 18/08/2008
NHU CẦU TÂM LINH – NHU CẦU SỐNG ĐẠO

THÁI HÀ - 6 giờ 30 phút chiều 17.8.2008, tôi đã dự lễ tại nhà thờ Thái Hà số 180/2 Nguyễn Lương Bằng, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Đi một vòng quanh nhà thờ và vào trong lòng nhà thờ, tôi thấy đâu đâu cũng chật kín người. Đoàn người đông đúc chen chúc trong một khoảng không gian quá đỗi chật hẹp trong một bầu khí oi bức của Hà Nội, khiến mọi người cảm thấy ngột ngạt và khó chịu. Sống trong một bầu khí ngột ngạt như thế này, làm sao bà con giáo dân lại có thể thoải mái, thể hiện đời sống tâm linh, đời sống đạo cho trọn vẹn được. Nhìn cảnh tượng khoảng 7 đến 10 người chen chúc trong một mét vuông để dự lễ trong bầu khí ngột ngạt như thế, tôi liên tưởng đến những điều sau:

1. Đã đến lúc nhu cầu tâm linh, nhu cầu sống đạo của bà con giáo dân đã quá lớn, một khuôn viên chật hẹp như nhà thờ Thái Hà không thể đáp ứng nổi. Chính vì vậy, việc bà con giáo dân xin chính quyền Việt Nam trả lại mảnh đất mà xưa kia cha ông của họ đã tốn bao công sức, máu và nước mắt để khai phá, để có chỗ khoáng đãng hơn cho nhu cầu tâm linh, cho việc sinh hoạt tôn giáo của mình là hết sức chính đáng. Ta hãy nghe cha Matthêu Vũ Khởi Phụng, trong một thư phúc đáp lại ông Trần Đức Học – Chủ tịch Uy ban nhân dân Quận Đống Đa yêu cầu cha Phụng can thiệp giải tán số giáo dân đang hiện diện trong khu đất thiêng liêng của bà con và Nhà Dòng, cha đã viết như sau: “Bà con rất xác quyết rằng bà con đã bị tước đoạt một cách bất công những quyền lợi chính đáng trên mảnh đất của mình mà các thế hệ giáo dân thời trước đã bỏ công của ra gây dựng để truyền lại cho đời sau (hiện chúng tôi còn đầy đủ tài liệu)…” (Văn thư phúc đáp đề ngày 16.8.2008). Bà con giáo dân đã kiên trì trong việc khiếu kiện và đòi lại mảnh đất thân yêu của họ trong suốt mười mấy năm nhưng đều bị chính quyền gạt ra bên lề. Thế nên nhu cầu ấy đã không được đáp ứng, thậm chí bị chính quyền từ chối thẳng thừng bằng văn bản mới đây: nào là không thể giải quyết, nào là sẽ sung mảnh đất ấy vào việc làm công viên công cộng! Trớ trêu quá sức! Nào là sẽ làm một con đường cắt ngang giữa Tu Viện Dòng Chúa Cứu Thế xưa kia (nay làm bệnh viện Đống Đa) với nhà thờ, cắt ngang Đền Giêrađô với mảnh đất cỏn con nay dùng để giữ xe đi nhà thờ! Đúng là cười ra nước mắt! Phải chăng chính quyền muốn xé nát mảnh đất thân yêu của Tu Viện và bà con giáo dân thành trăm mảnh? Và như vậy cũng có nghĩa là chính quyền muốn xé nát nhu cầu tâm linh, nhu cầu sống đạo của bà con thành trăm mảnh? Cách cư xử như thế nói lên rằng, phải chăng thời kỳ đồ đá đang dần ló dạng? Chính quyền nghĩ sao?

2. Đúng là “tức nước vỡ bờ”. Nhìn thấy cảnh người chen chúc nhau như hôm nay, tôi lại liên tưởng đến cảnh tượng bà con giáo dân phá đổ bức tường rào để bước vào mảnh đất thiêng liêng của chính mình mà tổ tiên bao năm trước đã gầy dựng. Sự kiện xảy ra vào trưa 15.8.2008 dịp lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời. Bà con đã đập bức tường và cắt dây kẽm gai, dựng tượng thánh giá, đưa ảnh Đức Mẹ vào khuôn viên đất của mình. Nhìn nét mặt họ vui tươi rạng rỡ vì được vào trong chính mảnh đất và nhà của mình. Điều đó như thể giải tỏa phần nào nỗi bức xúc từ bấy lâu nay đã nung nấu trong lòng. Mảnh đất thiêng liêng ấy phải được trả về lại cho họ, cho Nhà Dòng. Kể từ ngày 15.8.2008 ấy, bà con giáo dân đã tấp nập kéo đến để tiếp tục việc cầu nguyện – một biện pháp, một phương pháp mà bà con đã làm từ 9 tháng nay.

Trong mấy ngày qua, bà con giáo dân đã phát quang cỏ rả mà trước đó bị để hoang vu. Họ làm sạch như thể làm sạch nhà mình vậy.

3. Trong thời gian diễn ra thánh lễ, tôi nghe nói có lãnh đạo thành phố xuống để xem xét tình hình và có lẽ họ cũng thấy được nhu cầu cấp thiết của bà con giáo dân. Hy vọng rằng chính quyền sẽ hiểu ra được, sẽ thấy được nhu cầu tâm linh, nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của bà con giáo dân Thái Hà mà có thái độ đúng đắn, có được cách cư xử hòa khí tốt đẹp và nhất là có được một quyết định khôn ngoan và đúng đắn để hoàn trả lại mảnh đất thiêng liêng cho bà con giáo dân, cho Nhà Dòng Chúa Cúu Thế.

Đời sống tâm linh của bà con giáo dân nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung được thỏa mãn thì dân mới an, nước mới phú cường, quê hương mới thịnh vượng, xã hội mới thăng tiến, nhân linh và tâm linh của con người mới vươn cao. Xã hội Việt Nam nói riêng và xã hội loài người nói chung chỉ có sự văn minh khi con người biết tôn trọng lẫn nhau và chính quyền biết tôn trọng công dân của mình, đặc biệt biết tôn trọng những nhu cầu về đời sống tâm linh, đời sống tôn giáo của mọi người.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hôn nhân, Đức tin Và Tình yêu (20)
Vũ Văn An
20:45 18/08/2008
Hôn nhân, Đức tin và Tình yêu

CHƯƠNG MƯỜI BẨY: PHỤNG VỤ HÔN NHÂN

Chương trước đã bàn về những đường hướng và phương thế qua đó vợ chồng được trợ giúp về phương diện mục vụ. Cách tiếp cận trên gỉa thiết rằng tâm điểm đời sống hôn nhân là chính kinh nghiệm hàng ngày của vợ chồng và thực tại này được biến đổi hoặc được hội nhập vào chiều kích thần linh. Trong cộng đồng Kitô giáo, điều quan trọng là vợ chồng phải hiểu, phải cảm nhận và phải sống thực tại hôn nhân của họ trong Chúa. Ðiều này có nghĩa là họ phải nhận ra cuộc đời chung của họ do Chúa mà có và cần được dâng lại cho Ngài.

Ðại đa số các cặp vợ chồng Kitô hữu không liên hệ được đời họ với những biến cố trong Thánh Kinh ngoại trừ những trường hợp đặc biệt trong đó họ phải đối diện với những vấn đề luân lý trầm trọng như ly dị chẳng hạn. Cứ như thế, họ chỉ biết đến Lời Chúa khi chúng có nguy cơ bị vi phạm mà thôi. Họ không lượng giá được rằng đến 99% cuộc đời họ không can dự chi đến việc vi phạm luật Chúa mà là can dự vào những kinh nghiệm tích cực, khẳng nhận trong việc sống và cố gắng yêu thương. Thánh Kinh chứa rất nhiều giáo huấn và biến cố liên quan đến cuộc sống vợ chồng và một cách giúp các cặp vợ chồng là cho họ thấy kinh nghiệm của họ được Lời Chúa nhắc đến. Qua Cựu và Tân ước, Lời ấy cho ta thấy rằng hôn nhân là phương thế cứu rỗi đối với tuyệt đại đa số con người ta.

Cho nên cần giúp các cặp vợ chồng nhận thấy rằng kinh nghiệm của họ thực sự là ở trong Chúa và hơn nữa họ có thể dâng cuộc sống phu thê của họ cho Chúa qua phụng vụ. Chúng ta nên hiểu phụng vụ đây như là việc thờ phượng mà Giáo hội dâng lên Thiên Chúa qua tay các cặp vợ chồng. Ta cần đưa vào cuộc sống Kitô hữu một cuộc trao đổi hai chiều qua đó các cặp vợ chồng nhận ra cuộc sống chung của họ là phương cách Chúa dùng để cứu vớt họ và đến lượt họ, họ có thể dâng cuộc đời ấy lên Thiên Chúa như một hành vi cảm tạ hồng ân và đồng thời như lời khấn nguyện xin ơn phù trì hàng ngày để họ có thể duy trì cuộc sống ấy được nguyên tuyền trong Chúa.

Hiện nay, phụng vụ hôn nhân chủ yếu chỉ quanh quẩn xoay quanh nghi thức hôn phối và thánh lễ kèm theo. Ðây là lúc hai người phối ngẫu thực hiện các lời nguyện ước với nhau và những lời nguyện ước này thỉnh thoảng được lặp lại trong một vài dịp đặc biệt. Tuyệt nhiên không có một phụng vụ bao trùm qua đó những biến cố hàng ngày của hai vợ chồng được nhắc đến trong một chu kỳ phụng vụ hôn nhân.

CHU KỲ PHỤNG VỤ HÔN NHÂN

Ðiều chúng tôi đề nghị trong chương này là khả năng có một chu kỳ phụng vụ hôn nhân tương hợp với chu kỳ của cuộc sống hôn nhân. Thời gian hẹn hò, những năm đầu, những năm giữa và những năm sau cùng được dùng làm căn bản để diễn tả phụng vụ hàng năm, trong đó vợ chồng có thể nhìn thấy cuộc sống họ được diễn tả trong Thánh Kinh và có cơ hội dâng kinh nghiệm đặc thù của mình cho Chúa. Những khả năng để thực hiện được điều này thì rất nhiều và chúng tôi không hề cho rằng chu kỳ được trình bày ở đây là chu kỳ lý tưởng không cần bàn cãi thêm. Tuy nhiên, có thể lấy bốn chúa nhật một năm, hoặc, nếu thấy không thích hợp, thì bốn ngày một năm để mời gọi các cặp vợ chồng lắng nghe và dùng kinh nghiệm của chính họ mà đáp lại lời Chúa nói về hôn nhân trong các giai đoạn khác nhau. Bốn ngày này có thể trùng hợp với Mùa Vọng, Mùa Chay, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và ngày kết thúc năm phụng vụ của Giáo hội, hay những dịp khác. Ðiều quan trọng là dần dần thiết lập được một chu kỳ phụng vụ hàng năm đặt trọng tâm vào bậc sống hôn nhân. Truyền thống Công giáo La-mã ngày nay thường có bốn bài đọc trong thánh lễ, nên bốn bài đọc đã được chọn cho mỗi giai đoạn. Những đoạn Thánh Kinh được chọn ở đây có thể được thay thế bằng những đoạn văn khác đã trích trong sách này hoặc những đoạn văn khác nữa.

GIAI ÐOẠN HẸN HÒ QUEN NHAU

Trong các xã hội Tây phương, thời gian quen nhau đã gây ra nhiều tranh luận vì trong một số hoàn cảnh, người trẻ đã quyết định giao hợp tính dục trước khi cưới nhau và một số nhỏ khác lại thích sống chung với nhau một thời gian mà không chịu chính thức kết hôn với nhau.

Ðã đành đây là những vấn đề quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là biết nhận thức rằng thời gian quen nhau là thời gian trong đó sự lôi cuốn về thể xác đóng một vai trò trội yếu theo nghĩa tích cực. Kitô giáo vốn có truyền thống đánh giá cao tầm quan trọng của thân xác nhưng lại tỏ ra sợ sệt nó. Thời ta, người ta quan tâm chứng tỏ rằng trong thân xác có vẻ đẹp và niềm vui vô cùng nhân bản và gây thích thú. Các cặp yêu nhau khắp nơi trên thế giới đều hân hoan về các đường nét của thân xác mình và sự lôi cuốn lẫn nhau của họ. Thánh Kinh cũng chứng thực điều đó cách tích cực.

1.CỰU ƯỚC

Các đoạn trong Diễm Ca của Cựu Ước đã chào mừng sự lôi cuốn, thứ tình yêu mà ta gọi là thơ mộng, và lòng thủy chung giữa nguời đàn ông và đàn bà. Ðây là cách chàng rể diễn tả về cô dâu:

Nàng đẹp quá, bạn tình ơi, đẹp quá!

Sau tấm mạng the, đôi mắt nàng, cặp bồ câu xinh đẹp.

Tóc nàng gợn sóng như đàn sơn dương

Tự trên ngàn Ga-la-át tủa xuống.

Răng nàng trắng tựa đàn vật sắp xén lông,

Ðàn vật vừa lên từ suối tắm,

Hai hàng sao đều đặn, không chiếc nào lẻ đôi!

Môi thắm chỉ hồng, miệng xinh duyên dáng,

Má đỏ hây hây một mầu thạch lựu

Thấp thoáng sau tấm mạng the.

Cổ nàng đẹp như tháp ngà Ða-vit

Xây lên để trưng bầy chiến lợi phẩm:

Nơi treo ngàn vạn mộc khiên

Toàn là của anh hùng dũng sĩ.

Ngực nàng khác nào cặp nai tơ,

Cặp nai sinh đôi của nai mẹ,

Gặm cỏ non giữa vườn huệ thắm
. (Dc 4:1-5)

Một đoạn khác có thể được dùng để nói lên niềm vui của chàng rể:

Ðẹp chừng nào, công nương hỡi,

Gót sen thả nhẹ, đôi hài xinh xinh!

Lưng ong uốn mềm như chiếc vòng trang sức

Bàn tay nghệ sĩ khéo tạc nên.

Rốn em tựa chung rượu tròn chẳng bao giờ cạn.

Bụng em như lúa mì vun lên đầy ắp, hoa huệ bao quanh.

Bộ ngực khác nào cặp nai tơ, cặp nai sinh đôi của nai mẹ.

Cổ em giống như ngọn tháp ngà.

Ðôi mắt như mặt hồ Khét-bôn

Bên cạnh cổng thành Bát Rap-bim.

Mũi em tựa Li-băng, ngọn tháp nhìn về hướng Ða-mát.

Trên thân mình,

Ðầu em đỉnh núi Các-men, tóc em một giải lụa hồng,

Bồng bềnh sóng nước, xiềng xích quân vương.

Em xinh đẹp biết bao, kiều diễm biết chừng nào,

Tình yêu ơi, em làm anh say đắm!
(Dc 7:2-7)

Có những đoạn khác, trong đó cô dâu đối đáp lại bằng lời tán dương chàng rể đầy yêu thương cảm mến. Thật là hiếm họa tìm thấy trong Thánh Kinh một nét tự phát, cởi mở và thoải mái trong cách diễn đạt của môi miệng đàn bà đến như vậy. Sách Diễm Ca cho thấy các phụ nữ xưa cũng có cơ hội ca tụng những nét đẹp phái tính không chút e dè như các chị em hiện nay của họ.

Người yêu của tôi: khuôn mặt tươi sáng, nước da hồng hào,

Nổi bật giữa muôn ngàn trai tráng.

Ðầu chàng: khối vàng ròng tinh luyện,

Mái tóc chàng gợn sóng nhánh cọ non,

Ðen huyền chim ô thước.

Mắt chàng nằm gọn giữa bờ mi,

Như đôi bồ câu tắm bên dòng suối sữa.

Ðôi má chàng tựa luống hoa thơm,

Như vầng phương thảo.

Cặp môi chàng là đoá huệ thắm tươi,

Chứa chan tươm mộc dược.

Ðôi nắm tay như những trái cầu vàng

Dát kim châu bảo thạch.

Thân mình chàng tựa ngọc ngà nguyên khối

Nạm đá quí xanh lam.

Ðôi chân chàng như đôi trụ bạch ngọc

Dựng trên đế vàng ròng.

Tướng mạo chàng tựa núi Li-băng,

Kiêu hùng như ngàn cây hương bá.

Miệng chàng êm ái ngọt ngào,

Cả con người những dạt dào hương yêu.

Người tôi yêu là như thế, tình quân tôi là như vậy,

Hỡi thiếu nữ Giêrusalem!
(Dc 5: 10-16).

Sau cùng, ở một đoạn khác, người đàn ông diễn tả một cách hết sức thơ mộng lòng thủy chung trường cửu của mình. Chàng xin Cô Dâu đặt chàng thành ấn tín trên trái tim nàng. Cặp tình nhân nào cũng ước mơ cuộc tình của họ trong thời gian quen nhau sẽ tiếp tục sống mãi và trở thành phần thường tại trong nhau.

Anh đã đánh thức nàng dưới gốc cây táo.

Chính nơi đây, thân mẫu sinh ra nàng,

Chính nơi đây, nàng đã lọt lòng mẹ.

Xin đặt anh như chiếc ấn trên trái tim em,

Như chiếc ấn trên cánh tay em.

Phải, tình yêu mãnh liệt như tử thần,

Cơn đam mê dữ dội như âm phủ.

Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy,

Một ngọn lửa thần thiêng.

Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu,

Sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp.
(Dc 8:5-7)

2.THÁNH VỊNH

Trong đoạn văn kết thúc bản Diễm Ca của Salômôn trên, người đàn ông nhắc đến sức mạnh của tình yêu được chàng ví như ngọn lửa của chính Giavê. Tình yêu, lòng thủy chung và Thiên Chúa có tương quan mật thiết với nhau. Thực vậy, Chúa là nguồn mọi thủy chung, và muốn cho tình yêu mãi mãi lớn mạnh, nó phải nuôi dưỡng bằng lòng chung thủy. Thánh Vịnh 89 là một ca khúc và lơì kinh cầu xin lòng thủy chung của Chúa:

Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng,

Qua muôn ngàn thế hệ

Miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài.

Vâng con nói: Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu,

Lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.

Xin Chúa phán: Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn,

Ðã thề cùng Ða-vit, nghĩa bộc Ta,

Rằng: dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời,

Ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ.

Lạy Chúa, thiên đình xưng tụng những kỳ công của Chúa,

Cộng đoàn chư thánh ca ngợi lòng thành tín của Ngài.

Trên cõi trời cao, nào có ai sánh tầy Ðức Chúa?

Trong hàng thần thánh, hỏi có ai giống Chúa được chăng?

Thiên Chúa oai phong giữa triều thần thánh,

Vô cùng lẫm liệt trên hết cả quần thần.
(Tv 89: 1-8).

Ðáp ca cho Thánh vịnh này sẽ là: Lạy Chúa, cộng đoàn chư thánh ca ngợi lòng thành tín của Ngài!

3.THÁNH THƯ

Trong thời gian quen nhau, giao hợp tính dục là một vấn đề quan trọng. Truyền thống Kitô giáo, tiếp nối truyền thống Do thái trong Cựu Ước, luôn đặt việc giao hợp tính dục trong một mối liên hệ vừa gồm tín thác yêu thương vừa chứa đựng một thực thể vững bền được nuôi dưỡng bằng lòng thủy chung như nhất. Những cuộc làm tình tạm bợ trong đó hai thể xác gặp nhau để mua vui cho nhau mà không hề có trao đổi bản thân để hướng tới một tình yêu vững bền là một việc nằm bên ngoài mạc khải của Chúa. Thánh Phao lô làm nổi bật chân lý ấy trong Thư gửi tín hữu Côrintô. Dân thành này tin rằng người ta có quyền làm bất cứ chuyện gì kể cả việc chơi điếm. Thánh Phaolô nhắc họ nhớ rằng giao hợp là việc kết hiệp của hai thể xác, nhưng thể xác ta đã được Chúa Kitô giải thoát trong thân thể Người; nó là đền thờ Chúa Thánh Thần và do đó, sự trao ban thân xác ấy cho người khác chỉ có thể thực hiện trong bối cảnh một tình yêu bền vững. Liên hệ nào thiếu điều đó là làm cho thân xác mình mất hết ý nghĩa và tầm quan trọng của nó, là phá hủy tình yêu và không thích đáng với Chúa Kitô là Ðấng sống trong thân xác ta cũng như trong cả con người của ta:

Tôi được phép làm mọi sự; nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự; nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi. Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ hủy diệt cả cái này và cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại.

Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Chúa Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Chúa Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào! Anh em chẳng biết rằng ăn ở với người kỹ nữ là nên một thân xác với người ấy sao? Thật thế, có lời chép rằng cả hai sẽ thành một xương một thịt. Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.

Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mnình.

Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em
. (1 Cor 6: 12-20).

4.PHÚC ÂM

Thời gian quen nhau là thời gian của những dự ước hân hoan về mối liên hệ. Nhưng là mối liên hệ nào? Tạm bợ hay vĩnh viễn? Mặc dù Cựu Ước cho phép ly dị, nhưng điều đó không hẳn đẹp lòng Giavê. Ðó là điều Chúa Kitô đã bị phái Pharisêu chất vấn.

Có mấy người Pharisiêu đến gần Ðức Giêsu để thử Người. Họ nói: thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không? Người đáp: Các ông không đọc thấy điều này sao: thuở ban đầu, Ðấng Tạo hóa đã làm ra con người có nam có nữ và Người đã phán: vì thế người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly. Họ thưa với Người: Thế sao ông Môsen lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ? Người bảo họ: Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsen đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu. Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp dâm bôn, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình (Mt 19:3-9).

Ðó là một trong những giáo huấn rõ rệt nhất của Chúa Kitô, và thời gian quen nhau là thời gian để trắc nghiệm xem mối liên hệ này liệu có tồn tại bao xa, đến bốn mươi, năm mươi năm hay không. Không phải chỉ trắc nghiệm xem có xứng đôi vừa lứa hay không mà thôi, mà còn phải xét cái động cơ khiến người ta đính kết với nhau trong hôn nhân nữa. Liệu hai người có hoàn toàn tự do về phương diện xã hội và tình cảm để có thể tín thác với nhau hay bị thúc đẩy bởi những áp lực mà họ không thể cưỡng lại được?

Thời gian quen nhau là thời gian của những dự ước hân hoan về mối tương quan yêu đương bền vững, nhưng cũng là thời gian thích hợp để nhìn vào chiều sâu xem hai người có đủ khả năng và ý chí bước vào một cam kết vĩnh viễn hay không. Trong lời nguyện giáo dân, nên có những lời cầu xin thích đáng để xin Chúa ban sức mạnh và lòng khích lệ.

NHỮNG NĂM ĐẦU MỚI LẤY NHAU

Trong truyền thống Giáo hội Phương Tây, hôn nhân khởi đầu khi hai vợ chồng trao đổi lời thề hứa hiến thân trọn vẹn cho nhau như những con người toàn diện và hoàn hợp sự dâng hiến ấy về phương diện tính dục. Công đồng Vatican 2 tuyên bố sự kết hợp ấy là do Ðấng Tạo Hóa thiết lập và điều hoà bằng luật lệ của Ngài. Nó được đâm rễ trong giao ước phu phụ dựa trên sự thoả thuận bản thân không thể phản hồi được. Nhờ thế, qua cái hành vi nhân bản trong đó vợ chồng hiến dâng và chấp nhận lẫn nhau, một liên hệ được thiết lập, liên hệ ấy, do ý Chúa và dưới con mắt xã hội, có tính cách trường cửu (1).

Trong đoạn văn trên, Giáo hội quan tâm vạch cho ta thấy sự khởi đầu của một liên hệ có tính trường cửu. Tuy nhiên ta biết rằng vợ chồng cảm nghiệm cuộc hôn nhân của họ từng giai đoạn một, mỗi giai đoạn có những thách đố riêng mà họ phải vượt qua. Trong sách này, giai đoạn đầu bao gồm năm năm đầu tiên, là những năm rất chủ yếu đối với cuộc hôn nhân. Khoảng 30 đến 40 phần trăm các đổ vỡ hôn nhân đã xẩy ra trong giai đoạn này, hoặc ít nhất những vấn nạn khởi diễn từ giai đoạn này sẽ dẫn đến những đổ vỡ trong tương lai. Cho nên khi hôn nhân được quan niệm như một liên hệ không ngừng khai mở, thì giai đoạn này rất quan trọng. Thánh Kinh có rất nhiều đoạn có thể ứng đáp cho giai đoạn này. Hôn nhân để làm chi? Ý nghĩa của những năm đầu này là gì? Giao hợp tính dục mang ý nghĩa gì? Ðó là một vài vấn đề có thể đem ra suy niệm trong dịp này. Vợ chồng có thể lắng nghe các đoạn văn Thánh Kinh thích hợp, và trong diễn trình thánh lễ dùng lời cầu nguyện mà suy gẫm và dâng lên Chúa những cảm nghiệm của chính mình.

1.CỰU ƯỚC

Có hai trình thuật về Sáng thế. Trình thuật thứ hai, thực ra, lại là trình thuật có trước và là trình thuật làm nổi bật khía cạnh liên hệ trong hôn nhân một cách rõ ràng hơn cả:

Chúa là Thiên Chúa phán: con người ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng.

Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lấp thịt thế vào. Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.

Con người nói: Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.
(St 2: 18-23).

Rõ ràng, Chúa muốn đàn ông và đàn bà có tương quan với nhau. Bản chất họ đòi họ phải bổ túc lẫn nhau. Theo cái nhìn của Thánh Kinh, việc người phụ nữ ngày nay đi tìm sự bình đẳng về giá trị giữa các phái tính là điều chẳng có chi phải sợ sệt. Vì trong đoạn Sách Thánh này, rõ ràng yếu tính của người đàn bà cũng tương tự như yếu tính của người đàn ông.

Một điểm khác được đoạn văn trên nêu rõ là nhu cầu đòi vợ chồng, muốn kết hôn, phải rời bỏ cha mẹ mình. Ðiểm này vẫn còn đúng cho cả xã hội ngày nay nữa. Khi kết hôn, hai vợ chồng phải thấy mình được tự do thoát khỏi uy quyền của bố mẹ để có thể coi nhau như những nhân vật chính trong cuộc sống của mình. Khi bố mẹ pha mình vào hoặc khi đôi vợ chồng trẻ không thể nào tách khỏi bố mẹ, thì mối liên hệ vợ chồng của họ không thể nào điều hành hữu hiệu và cuộc hôn nhân của họ thực chất chưa bắt đầu.

Ðiểm thứ ba cần ghi chú là bản chất hoàn toàn trong sáng của giao hợp tính dục. Ðã đành đây là bức tranh trước cuộc Sa Ngã, nhưng việc Chúa Kitô giao hòa cái bản tính nhân loại đã sa đoạ với Thiên Chúa Ngôi Cha đã khôi phục mọi sự trở lại với cái khả thể tinh ròng của chúng. Cuộc Sa Ngã là chuyện có thực và tính dục bị thiệt hại cùng với toàn thể nhân loại. Nhưng hôn nhân, khi được sống bằng đời sống ơn thánh, đã khôi phục được cái khả thể tươi đẹp, hân hoan và yêu thương mà Thiên Chúa đã muốn vạch cho con người. Trong thân mật xuồng xã của cuộc sống lứa đôi, vợ chồng sẽ mặt đối mặt trần truồng. Không phải chỉ trần truồng thể xác mà còn trần truồng xã hội và tâm lý nữa. Hai vợ chồng sẽ học biết chiều sâu của nhau, và tình yêu của họ luôn luôn theo đuổi một hoài mong được đáp ứng toàn diện, chính xác và thích đáng.

Trình thuật thứ nhất về Sáng thế thực ra là trình thuật có sau. Nó giống với trình thuật thứ hai ở nhiều điểm, nhưng cũng có điểm khác. Trong khi trình thuật thứ hai nhấn mạnh đến khía cạnh liên hệ, thì trình thuật thứ nhất này nhấn mạnh đến khía cạnh phụ tạo (procreation).

Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình. Thiên Chúa sáng tạo NÓ theo hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa sáng tạo CHÚNG có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho chúng và Thiên Chúa phán với chúng: Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất. (St 1: 26-28).

Trong đoạn văn trên, việc con người giống Chúa đã được xác định một cách không chút mơ hồ. Ðàn ông và đàn bà đã được dựng nên theo hình ảnh của Ngài và do đó, một lần nữa, Thánh Kinh xác nhận sự bình đẳng về vị thế và phẩm giá giữa các phái tính dù họ có những chức năng khác nhau. Nhưng đoạn văn trên khi nhấn mạnh đến NÓ và CHÚNG đã chỉ rõ rằng ta chỉ có thể hiểu nhân loại trong tương quan đàn ông đàn bà. Sự phân chia phái tính là điều căn bản và, dù ta không hiểu được mầu nhiệm chung quanh bản tính Thiên Chúa mà đoạn văn nhắc đến, nhưng ta có thể an tâm nói rằng cả hai phái tính đều có mặt trong Thiên Chúa. Ta cũng có thể nói rằng sự kết hợp giới tính của họ dính liền với bản nhiên của họ và sự kết hợp ấy không chỉ tốt mà thôi mà còn rất tốt nữa. Sau cùng, cái phần yếu tính làm nên cái tốt của nó chính là đặc tính trao ban sự sống. Nhưng như ta đã biết quá rõ, cái đặc tính trao ban sự sống này chỉ có tính phụ tạo ở một số dịp hiếm hoi, phần đại đa số là sự hiệp thông của yêu thương. Và tình yêu chính là chìa khóa mở cửa đi vào bản tính Thiên Chúa, là đặc điểm yếu tính trong liên hệ giữa các phái tính và sự kết hợp dục tính giữa các phái tính ấy.

Như thế, hai đoạn văn trên thiết lập ra hai khía cạnh căn bản trong cuộc gặp gỡ đàn ông đàn bà, một liên hệ với mọi khía cạnh và tính sáng tạo của nó. Cựu Ước còn cho thấy nhiều cái nhìn thông suốt khác về mối liên hệ này. Thí dụ, một trong những lời chỉ trích cho rằng đối với truyền thống Kitô giáo, giao hợp tính dục bị coi là bất hợp pháp trước hôn nhân đã trở thành hợp pháp sau hôn nhân. Khi người ta nói đến giao hợp tính dục theo ngôn từ thô trực (crude) của được phép hoặc không được phép, Kitô giáo quả chỉ là một tôn giáo vụ luật lệ (legalistic religion) mà không quan tâm chi đến chính bản chất của tính dục. Nó chỉ quan tâm đến đúng sai, chứ không nhắc chi đến các tính chất bản thân của tính dục. Lời chỉ trích này không hẳn sai, nhưng nói như thế là chưa phản ảnh được những cái nhìn thông suốt của Thánh Kinh, truyện Tô-bi-a sẽ cho ta thấy điều khác hẳn. Ta đã được biết về người vợ tương lai của Tô-bi-a và những khó khăn cô đang gặp phải. Không ai không biết cô đã kết hôn bẩy lần và tên quỉ tồi tệ nhất trong hàng ngũ quỉ là tên Asmodeus đã lần lượt giết hết bẩy người chồng của cô trước khi họ có thể ăn nằm với cô theo nghĩa vợ chồng (Tb 3:8). (Bản Vulgate dịch rằng họ bị giết khi đang “đi vào trong nàng”: mox ut ingressi fuissent ad eam)

Thực ra chưa có lời giải thích thỏa đáng nào về việc điều gì đã xẩy đến cho Sa-ra và bẩy người chồng của cô. Theo lối giải thích phỏng đoán của chúng tôi đó có thể là vì Sa-ra không có khả năng hoàn hợp cuộc hôn nhân của cô. Tâm lý học hiện đại gọi đó là lối đáp ứng quá lo âu đối với việc giao hợp tính dục. Dù sao, thực tế đã rõ là cô rất buồn khổ vì sự thất bại của mình, buồn khổ đến độ toan bề tự vận. Sách Tôbia thuật lại như sau:

Vậy ngày hôm ấy, lòng cô Sa-ra ưu phiền và cô kêu khóc. Rồi lên lầu trên ở nhà cha cô, cô định thắt cổ tự tử. Nhưng nghĩ lại, cô tự nhủ: sẽ không bao giờ người ta nhục mạ được cha tôi và nói với người: ông chỉ có một cô con gái yêu quí, thế mà vì bạc phận, cô đã thắt cổ tự tử! Như vậy tôi sẽ làm cho tuổi già của cha tôi phải buồn phiền đi xuống âm phủ. Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi, để đời tôi không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa. (Tb 3: 10).

Từ ngữ nhục mạ có thể ám chỉ việc cô thiếu khả năng giao hợp tính dục. Thế nhưng Tô-bi-a lại yêu cô, và dù đã nghe biết những tai họa giáng xuống các người chồng trước của cô, vẫn quyết định xin cưới cô làm vợ. Ðêm tân hôn, Tô-bi-a và Sa-ra cùng cầu nguyện với nhau trước khi hoàn hợp cuộc hôn nhân của mình và lời cầu nguyện của họ đã trở thành lời kinh tân hôn cổ điển. Họ cầu nguyện như thế này:

Lạy Thiên Chúa của tổ tiên chúng con. Xin chúc trụng Chúa, xin chúc tụng Thánh Danh đến muôn thuở muôn đời! Các tầng trời và công trình của Chúa phải chúc tụng Chúa đến muôn thuở muôn đời! Chính Chúa đã dựng nên ông A-đam, dựng nên cho ông một người trợ thủ và nâng đỡ là bà Evà, vợ ông. Và loài người đã sinh ra từ hai ông bà. Chính Chúa đã nói: Con người ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một người trợ thủ giống như nó. Giờ đây không phải vì lòng dục, mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con, cho chúng con được chung sống bên nhau đến tuổi già (Tb 8:5-7).

Ðó là điều thực sự đã xẩy ra. Còn sau đây chúng tôi xin đưa ra một giả thuyết nhằm giải thích rằng chính thái độ nhã nhặn và đầy âu yếm của Tô-bi-a đã khắc phục được các khó khăn của Sa-ra giúp nàng hoàn hợp được cuộc hôn nhân của mình.

Dầu vậy điều quan trọng là phải tìm hiểu thêm lời tuyên bố của Tô-bi-a cho rằng chàng không cưới Sa-ra vì lý do sắc dục. Trong bối cảnh trắng đen của hợp pháp tính, việc giao hợp đương nhiên là được phép sau khi đã cưới nhau. Và Tô-bi-a đã ân ái với Sa-ra nhiều lần. Ðiều Tô-bi-a muốn làm sáng tỏ ở đây là chàng quan tâm đến vợ trước các khóai cảm tính dục của mình. Ðộng lực của chàng phát xuất từ trái tim, và trái tim tất nhiên liên hệ mật thiết đến tình yêu.

Tình yêu trong giao hợp không những đòi hai vợ chồng phải sẵn sàng làm tình khi được người bạn đời yêu cầu, nó còn có ý nghĩa hơn thế nữa. Nghĩa là, người khởi xướng lời yêu cầu ấy phải bảo đảm là mình sẽ không đòi hỏi nếu người bạn đời chưa sẵn sàng. Sự hy sinh ấy là một thành phần trong tình yêu vợ chồng, và do đó, vợ chồng nào biết quan tâm đến nhau đều phải luôn ý thức về sự sẵn sàng của nhau. Nhiều người chỉ trích các phương pháp tiết dục định kỳ (chỉ làm tình trong những thời kỳ không thể thụ thai) như là quá đòi hỏi hy sinh nơi cặp vợ chồng. Nhưng thực ra, hy sinh hiện diện khắp cùng trong cuộc sống vợ chồng khi một người muốn làm tình nhưng người kia chưa sẵn sàng.

Một khi hai người cùng thỏa thuận giao hợp, thì người khởi xướng phải đảm bảo là người bạn đời của mình được chuẩn bị một cách thích đáng để đáp ứng, là cực khóai phải được cả hai cùng đạt tới và sự trao đổi được thăng hoa thành trao đổi săn sóc và yêu đương, một trao đổi phải tiếp diễn sau khi đã đạt cực khoái, đặc biệt khi cực khoái ấy chỉ xẩy ra một chiều. Bởi thế, lý do sắc dục mà Tô-bi-a nhắc đến có nghĩa là chỉ biết quan tâm đến khoái cảm một chiều, cho riêng mình, mà quên trìu mến quan tâm đến người bạn đời của mình. Tính dục trong những năm đầu tiên phải là một phương thế mạnh mẽ nhằm chuyên chở khóai cảm, niềm vui và quan tâm kính trọng nhau.

Nhưng tính dục chỉ là một phần cuộc sống của hai người mới cưới nhau. Họ cần có đủ thì giờ để hiểu nhau, để chia sẻ và tạo dựng cuộc sống chung. Người đàn ông rất thường khi cưới vợ nhưng vẫn tiếp tục sống cái cuộc sống như hồi còn độc thân, dành thì giờ cho đủ thứ công việc cũng như bạn bè hơn là cho vợ. Ngược lại cũng có những bà vợ chuyên tiêu phí thì giờ với thân nhân hơn là với chồng.

Cựu Ước nhấn mạnh đến nhu cầu vợ chồng phải dành thì giờ cho nhau:

Một thanh niên mới cưới vợ sẽ khỏi phải nhập ngũ, và người ta sẽ không bắt anh ta sung vào bất cứ nghĩa vụ nào, anh ta sẽ được miễn dịch một năm để ở nhà mà mua vui cho vợ mới cưới (Ðnl 24:5).

Ngày nay, không quân đội nào dễ dãi như thế. Nhưng nhu cầu phải có giờ để tạo nên nếp sống mới chung với nhau là điều tối quan hệ.

2.THÁNH VỊNH

Cũng như mọi người khác, Tô-bi-a đã hướng về Chúa để tìm ra căn bản vững bền cho tình yêu của mình. Chúa là tình yêu và từ tình yêu này nẩy sinh ra tình yêu vợ chồng. Những năm đầu của hôn nhân phải được dùng làm chứng tá cho tình yêu ấy, và Thánh vịnh 103 đã diễn tả điều này cách thâm thúy. Ðáp ca xin thưa: Hồn tôi hỡi, chúc tụng Chúa đi!

Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,

Toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!

Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,

Chớ khá quên mọi ân huệ của người...

Chúa là đấng từ bi nhân hậu,

Người chậm giận và giầu tình thương,

Chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi.

Người không cứ tội ta mà xét xử,

Không trả báo ta xứng với lỗi lầm....

Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,

Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,

Một cơn gió thoảng là xong,

Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.

Nhưng ân tình Chúa thiên thu vạn đại,

Dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.

Người xử công minh cả với đời con cháu,

Cả những ai giữ giao ước của Người,

Và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người ban
. (Tv 103: 1-2, 8-10, 15-18)

3.THÁNH THƯ

Hai vợ chồng khơi màn cuộc sống hôn nhân của họ bằng cam kết yêu nhau cả thể xác lẫn tâm hồn. Thánh Phaolô có những lời khôn ngoan cả về hai phương diện ấy. Thánh nhân chuộng đời sống độc thân, điều ấy đã hiển nhiên. Nhưng Ngài rất thực tế về tính dục. Tính dục ấy nếu không được biểu lộ trong tuơng quan yêu thương thì nó sẽ tìm ngõ khác, mà Thánh nhân thì không bao giờ muốn khích lệ dâm đãng. Do đó, liên hệ yêu đương trong hôn nhân là chuyện thích đáng, và trong mối liên hệ ấy, tính dục đóng một vai trò quan trọng. Nhiều người cho rằng dù có quan điểm tích cực như thế, Thánh Phalô thực ra nhìn nhận bậc vợ chồng một cách khá miễn cưỡng. Tuy nhiên sự miễn cưỡng này phải được nhìn theo cái hậu cảnh trong đó Thánh nhân đang mong chờ việc Chúa đến lần thứ hai. Ngày ấy chẳng còn bao xa nữa, nên Ngài muốn ai ai cũng phải sẵn sàng. Thành thử ra, mặc dù Ngài không phản đối hôn nhân hoặc tính dục, nhưng vì Ngài có cái viễn tượng lớn hơn, nên Ngài không muốn khích lệ bất cứ điều gì có thể làm mất chú tâm vào những đối tượng đời đời. Tuy nhiên, ở bên trong những giới hạn ấy, thì Ngài tỏ ra tích cực cả trong vấn đề hôn nhân lẫn vấn đề tính dục.

Trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô trả lời các câu hỏi của họ liên quan đến tính dục và hôn nhân (1Cor 7:1-7). Nên nhớ rằng thánh Phaolô coi việc sống độc thân như một ơn phúc và bậc vợ chồng cũng vậy; Ngài không coi trọng cái nào hơn cái nào.

Nhưng sau cùng, Thánh Phaolô vượt lên trên những vấn đề thực tế ấy để dẫn ta vào cái nhìn sâu sắc về hôn nhân. Chúa đã tự mặc khải đầy đủ nơi Chúa Giêsu Kitô. Ðến lượt mình, Chúa Kitô đã trở thành đầu của Giáo hội, là Nàng dâu của Người. Cũng như Chúa Kitô đã liên hệ mật thiết với Giáo hội thể nào, thì vợ chồng cũng liên hệ thân thiết với nhau như thế. Việc hiển linh của Thiên Chúa trong Chúa Kitô ấy sẽ tiếp diễn qua sự hiện diện của Chúa Kitô trong hai vợ chồng. Như thế, đối với Thánh Phaolô, giữa việc Thiên Chúa tự tỏ mình ra đầy đủ nơi Chúa Kitô, với việc Chúa Kitô kết hiệp hoàn toàn với Giáo hội và hôn nhân như một giáo hội nhỏ trong đó Chúa Kitô chủ trì mối liên hệ vợ chồng, có một sợi dây nối kết rõ ràng, vì trong tất cả những mối liên hệ ấy ta đều thấy bóng dáng yêu thương. Tất cả những điều này sẽ được tìm thấy trong cái nhìn sâu sắc của Thánh Phaolô qua Thư gửi Tín hữu Êphêsô 5:21-32 đã được trích trong Chương Một. Một lối giải thích về đoạn văn thời danh này là: như Chúa Kitô và Giáo hội đã kết hiệp nên một với nhau về phương diện thể lý trong tương quan đầu mình và thân thể như thế nào, vợ chồng cũng kết hiệp nên một với nhau về phương diện thể lý như thế chủ yếu qua giao hợp tính dục. Nhưng liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo hội, dù có tính thể lý (bodily), còn đi xa hơn thế. Vì trọn vẹn hữu thể thần linh đã được liên kết không thể tháo gỡ với Giáo hội, nên hai vợ chồng cũng phải kết hợp với nhau một cách thâm thiết không những chỉ về phương diện thể lý mà thôi, mà còn cả về phương diện xã hội, tình cảm và tri thức nữa. Tuy nhiên, thể lý là hạ tầng cơ sở cho tất cả các chiều kích kia. Các hành vi xã hội cần có xác thân mới thực hiện được, các trao đổi xúc cảm và tri thức cũng thế.

4.PHÚC ÂM

Biến cố Phúc âm thích hợp nhất chính là sự hiện diện của Chúa Kitô trong tiệc cưới Cana, là dịp để Ngài làm phép lạ đầu tiên.

Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Chúa Giêsu. Chúa Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Chúa Giêsu nói với Người: Họ hết rượu rồi! Chúa Giêsu đáp: Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến. Thân mẫu Người nói với gia nhân: Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.

Ở đó, có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Chúa Giêsu bảo họ: Các anh đổ đầy nước vào chum đi. Và họ đổ đầy đến miệng. Rồi Người nói với họ: Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc. Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân múc nuớc thì đã biết), ông mới gọi tân lang lại và nói: Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ. Chúa Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê
(Ga 2:1-11).

(Còn tiếp)
 
Để xây dựng những Quan Hệ hài hòa… giữa người với người
Nguyễn Văn Thành
08:00 18/08/2008
Để xây dựng những Quan Hệ hài hòa… giữa người với người
(trên con đường giữ Nước và dựng Nước)

Trong những bài chia sẻ được giới thiệu trước đây, trên diễn đàn nầy, tôi đã quảng diễn và nhấn mạnh những trọng điểm như sau: Thứ Nhất, ngôn ngữ là con dao hai lưỡi. Khi được sử dụng một cách máy móc, tự động, trong cuộc sống hằng ngày, phương tiện nầy có thể mang đến nhiều ngộ nhận, trong những quan hệ tiếp xúc và trao đổi, giữa người với người. Nó dẫn khởi nhiều xung đột, thậm chí giữa hai vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái...

Tuy nhiên, cũng nhờ vào ngôn ngữ, chúng ta phát hiện được những sào huyệt mê cung của Vô Thức. Từ đó, chúng ta có thể từ từ chuyển hóa Vô Thức thành Ý Thức, trên con đương xây dựng và phát huy Bản Ngả cũng như những quan hệ cần thiết giữa người với người. Thứ Hai, nhờ con đường ngôn ngữ, chúng ta mang ra giữa vùng ánh sáng của Ý Thức, những xúc động tiêu cực, tê liệt, tràn ngập và ngụy trang, thậm chí đã lâu ngày bị dồn nén, ức chế, chối từ hoặc che giấu. Khi được diễn tả một cách rõ ràng, trung thực như vậy, khổ đau, cho dù khốc liệt, oái oăm và nhức nhối, không thể biến thân thành những phương tiện bạo động bùng nổ ra bên ngoài, hay là xói mòn, tiêu hủy lòng tự tin của chúng ta, ở bên trong nội tâm. Thứ Ba, ngôn ngữ cũng là con đường diệu vợi cho phép chúng ta bộc lộ với anh chị em đồng bào, tấm lòng đồng cảm, thái độ nhìn nhận và chất lượng làm người của chúng ta, một cách đơn phương và vô điều kiện. Không đòi hỏi, chờ đợi « một cử chỉ có thiện chí », từ phía người đối diện, rồi khi đó chúng ta mới chấp nhận làm người có hiểu biết và tình thương.

* Bài chia sẻ nầy sẽ quảng diễn thêm một cách rộng rãi hơn, điểm thứ ba trên đây, bằng cách đề nghị những bước đi lên cụ thể, khi xây dựng những quan hệ tích cực và hữu hiệu, giữa người với người.

- Trong Bước số Một, tôi sẽ phân biệt và tách rời khỏi nhau, hai lãnh vực « Người và Việc ».

Hẳn thực, trong đời sống làm người, bao lâu chúng ta chưa chấp nhận và tôn trọng quyền khác biệt của người khác đang có mặt với chúng ta, chúng ta chưa thể nào thiết lập những quan hệ chung sống hài hòa, kiện toàn và bổ túc cho nhau. Đây là một tiến trình lâu dài, liên lỉ, không bao giờ kết thúc.

Trái lại, trong lãnh vực Việc, điều thiết yếu là chúng ta cần học tập và tôi luyện phương pháp thương lượng với nhau, để tiến tới những giao điểm, những vùng hội tụ hay là trung gian, những mảnh đất đứng chung với nhau. Không đồng ý « cùng với nhau nhìn về một hướng », không chia sẽ một số giá trị chung, chúng ta không thể hợp tác và thành tựu những kết quả cụ thể mong muốn cho nhau và với nhau. Trong Bước số Hai, tôi sẽ nhấn mạnh thêm: Khi thương lượng với nhau, điều tiên quyết cần thành đạt là cả hai bên đều thắng, nghĩa là gặt hái những kết quả tích cực, cụ thể và khách quan với nhau, cho nhau và nhờ nhau. Không có kẻ thua. Trái lại, trong mỗi quan hệ hài hòa và đồng cảm, cùng đích cần nhắm tới là vấn đề thành người.

Lẽ đương nhiên, khi kết dệt những quan hệ xây dựng, cả hai bên - người và chúng ta - sẽ thâu lượm dễ dàng những thành quả tốt đẹp. Thế nhưng, chúng ta không chờ đợi, đòi hỏi phải có kết quả cụ thể, trong địa hạt thương lượng, rồi mới dấn bước trên con đường làm người. Một bên là tiến trình. Bên kia là kết quả cụ thể. Cho nên, tôi chỉ đơn phương làm người. về phía tôi. Tôi thực hiện những điều cần thực hiện.

Sau cùng, trong Bước số Ba, tôi sẽ trình bày: đâu là những động tác cụ thể cần được tôi tức khắc dấn thân thực hiện một cách khoa học. Pải chăng từ ngày hôm nay, không trì hoãn, chúng ta có trách nhiệm xây dựng những quan hệ với người khác, bắt đầu từ môi trường gia đình, thậm chí với đứa con vừa đi ra khỏi lòng mẹ, chưa hoàn toàn ý thức về mình. Trách nhiệm ấy thuộc bản sắc làm người của chúng ta.

Bài Chia Sẻ Một - Phân biệt giá trị của Người

Và kết quả cụ thể Việc Khi nói đến Người, chúng ta nói đến những quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa hai người với nhau, trong tất cả mọi hoàn cảnh chung sống, thuộc đời sống gia đình, cũng như thuộc địa hạt xã hội. Ngay từ giây phút đầu tiên, lúc đứa bé vừa ra chào đời, em đã cần kết dệt những quan hệ với người mẹ, hay là với một người nuôi nấng, đùm bọc em giống như một người mẹ. Nhờ đó, em mới có khả năng sống và thành người. Chính người mẹ cũng cần phải thiết lập những quan hệ với đứa con và bao nhiêu người khác, mới có thể chu toàn vai trò làm người và làm mẹ một cách tốt đẹp. Hẳn thực, suốt cuộc sống làm người, từ lúc sinh ra cho đến khi lìa đời, những mạng lưới quan hệ chằng chịt sẽ dạy cho tôi ba bài học chủ yếu: Bài học thứ nhất: Giữa người khác và tôi có những nét khác biệt « đương nhiên và ắt có ».

Quyền khác biệt ấy thuộc bản sắc làm người và cần phải được tôn trọng. Bằng không, chất lượng làm người của cả hai người - người không biết tôn trọng và người không được tôn trọng - đều bị tổn thương trầm trọng. Ngoài ra, nhờ khác biệt, người ấy và tôi có khả năng bổ túc, kiện toàn cho nhau, trên suốt tiến trình làm người. Người khác nói được là một tấm gương soi, trong đó tôi nhận ra khuôn mặt xinh đẹp của tôi, cũng như bao nhiêu đường nhăn và vết thẹo...Trong một vài tôn giáo và nền văn hóa, xưa và nay, người khác được coi như là một « Hồng Ân ». Ít nhất về mặt lý thuyết, họ là « vị đại diện hữu hình của Thượng Đế Vô Hình », đang có mặt với tôi, trên những chặng đường xuôi ngược của cuộc đời.

Tuy nhiên, cũng vì những nét khác biệt ấy, bao nhiêu tranh chấp, xung đột, thiên kiến, hận thù... cũng có thể bùng nổ, giữa người ấy và tôi. Chính Triết gia người Pháp J.P.SARTRE đã khẳng định: « người khác là hỏa ngục ».

Bài học thứ hai: Giữa người khác và tôi, cũng có rất nhiều điểm GIỐNG NHAU, cho dù người nầy sinh ra ở Nam và kẻ kia xuất phát từ miền Bắc.

Nhờ vào những đồng điểm ấy, hai người có thể « xích lại gần nhau » và yêu nhau. Dưới một khía cạnh nào đó, họ nhận thấy mình là « một phần nửa » của nhau, đã cùng nhau « chia sẻ một bào thai », trong cung lòng của một mẹ và một cha. Giống như những cặp vợ chồng trẻ trung ở miền Bình Trị Thiên, họ không ngần ngại gọi nhau là Mình. « Mình với Ta, tuy hai mà một. Ta với Mình, sao một mà hai ? »

Bài học thứ ba: Người khác và tôi CẦN nhau, trong rất nhiều công việc hoặc dự án, tốt cũng như xấu, xây dựng, tích cực cũng như tiêu cực và phá hoại.

Hẳn thực, theo lối nhìn của nhà tâm lý xã hội CRÈVECOEUR J.J. (1), khi tôi từ chối một cách rộn ràng bằng mồm miệng, cũng như khi tôi thinh lặng đồng lõa, tôi đều góp phần tích cực của mình, để nuôi dưỡng những trò chơi quyền lực, trong những xã hội rộng và hẹp, thuộc tầm cỡ hoàn vũ, hay là trong giới hạn chính trị của một khu vực. Theo lối nói ngày nay, chúng ta tất cả đều « liên đới với nhau », đều « đồng trách nhiệm ». Ai ai cũng đóng góp phần mình, khi có một « con sâu đang đục khoét », trong lòng xã hội. Hẳn thực, tôi không hối lộ. Nhưng tôi đã làm gì trong những giới hạn của tôi ? Tôi vẫn mua vé chợ đen, khi lên tàu, để có chỗ ngồi đàng hoàng, thoải mái. Tại các cơ sở y tế, tôi nhờ cậy người quen thân, để được ưu tiên « không sắp hàng » chờ đợi, như bao nhiêu người khác...Chính vì những lý do đó, thay vì phê phán, tố cáo kẻ khác có tác phong « tùy tiện », có lẽ tôi hãy bắt đầu nhìn mình: tôi đang « tùy tiện » ở đâu, trong những chu vi hoạt động của tôi ? Ngược lại, tôi cũng có khả năng « làm con én nho nhỏ tạo nên mùa xuân », trong những tầng sâu thăm thẳm của nội tâm tôi. Từ điểm xuất phát đó, con én ấy sẽ dần dần làm « vết dầu loang », cho người khác. Nếu chất lượng thực sự của chúng ta là hương, tự khắc mùi thơm sẽ lan tỏa ra chung quanh. Để làm người, ai ai cũng cần CHO. Và đồng thời, chúng ta cũng đang NHẬN lại rất nhiều, từ bốn phương thiên hạ. Xin và cho thuộc bản chất làm người. Tuy nhiên, CHO không phải là từ trên ban phát một cách trịch thượng. XIN không phải là chối từ quyền lợi và giá trị tự tại của mình. Khi cho, chúng ta nhận mình là người truyền thừa một gia tài vô tận, trong chính con tim và cuộc đời làm người. Khi xin, chúng ta ý thức mình luôn luôn « làm đứa con » trong lòng Trời Đất, không đòi hỏi, không đặt điều kiện. Xin là nhìn nhận mình đang được thương yêu. Trong cuộc sống, dưới chế độ Vô Thức, trái lại, quan hệ xin-cho có nguy cơ đánh mất bản chất cao quí và trọng đại, bằng cách bị xuyên tạc và thoái hóa, thành đồ hàng hóa mua chác, chiếm hữu, kiểm soát, đút lót... Nữ Thi sĩ Xuân Quỳnh đã nhận thức được cả ba bình diện « Khác, Giống và Cần », trong mỗi quan hệ làm người, nhất là trong địa hạt tình yêu giữa Biển và Thuyền (2):

« Từ ngày nào chẳng biết, « Thuyền nghe lời Biển khơi. « Cánh hải âu sóng biếc « Đưa Thuyền đi muôn nơi. « Lòng Thuyền nhiều khát vọng, « Và tình Biển bao la. « Thuyền đi hoài không mỏi, « Biển vẫn xa... còn xa. (...) « Chỉ có Thuyền mới hiểu « Biển mênh mông nhường nào. « Chỉ có Biển mới biết « Thuyền đi đâu, về đâu. « Những ngày không gặp nhau, « Lòng Thuyền đau rạn vỡ. « Nếu từ giả Thuyền rồi, « Biển chỉ còn sóng gió. » Xuyên qua hai hình tượng Biển và Thuyền, phải chăng Xuân Quỳnh đã gọi mời chúng ta cảm nghiệm thế nào là quan hệ giữa người và người, trong những nét đẹp tinh tuyền, nguyên khởi của nó: NHẬN mà không cần xin nài, than vản. CHO mà không đòi hỏi lòng biết ơn.

Phải chăng đó là cốt tủy của tình mẹ con, trong những tháng ngày đầu đời của chúng ta ? Phải chăng người mẹ, như tôi đã nói tới, khi trình bày Phương Pháp Phân Tâm Học của FREUD, đang làm Siêu Ngã cho đứa con của mình. Đang ở trên, để có một lối nhìn bao quát và toàn diện, không quên sót điều gì. Đang ở trên, để có thể dễ dàng bảo đảm sự có mặt tích cực của mình, về tất cả những gì mà đứa con đang cần. Đang ở trên, như con gà mẹ ấp ủ bầy con, dưới đôi cánh, một đàng để tạo lại hơi ấm của bào thai. Đàng khác, để đứa con cảm thấy mình an toàn, trước mọi hiểm họa có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Người mẹ ở trên, làm Siêu Ngã. Nhưng không độc tài, đàn áp. Không cưỡng chế, ép buộc. Người mẹ ở trên. Nhưng « ở trên » để có thể đồng hành và chia sẻ, nhờ một lối nhìn bao quát và toàn diện. Người mẹ ở trên, nhưng đồng thời cũng « ở trong » và « ở với », đặt mình vào vị trí của con, để hiểu con, như chính đứa con hiểu mình. Vui với con, Cười với con. Bi bô với con. Đưa bàn tay xoa bóp, vuốt ve nhẹ nhàng, để đứa con cảm thấy có mẹ đi theo mình, vào giấc ngủ. Và khi đứa con thức dậy, mở mắt ra, sau một giấc ngủ ngon lành, hình ảnh đầu tiên xuất hiện trước mặt bé, là nụ cười hạnh phúc của mẹ. Hình ảnh khách quan nầy phát sinh, trong đứa con, một cảm nghiệm hạnh phúc và vui sướng: Mẹ có mặt, để đón nhận mình. Tôi là một nhân vật « quan trọng và có ý nghĩa », đối với mẹ. Trái lại, khi đứa con khóc, một nhu cầu đang từ từ chớm nở trong nội tâm. Và đồng thời, nhờ nhu cầu ấy tác động, trẻ em sẽ mơ tưởng một đối tượng, có khả năng thỏa mãn ước mơ của mình. Chính khi đó, hình ảnh người mẹ xuất hiện bên ngoài, trùng hợp với hình ảnh mà đứa con đang ước mơ bên trong. Nhờ sự trùng hợp nầy, đứa bé có thể phát huy lòng tự tin, cảm thấy mình có khả năng « sáng tạo » bà mẹ theo khuôn khổ và tầm ước mong cụ thể của mình. Cốt lõi của Bản Ngã nằm ở trong ý thức về khả năng nầy. Và cốt lõi nầy sẽ từ từ lớn dần. Bản Ngã của đứa bé sẽ xuất hiện, nhờ bà mẹ biết làm Siêu Ngã, đúng lúc, đúng chất lượng và đúng liều lượng, đối với thực tế và nhu cầu của đứa con. Quan hệ Mẹ Con, trong những đường hướng tích cực và xây dựng như vậy, là mẫu thức nguyên tượng, nguyên thủy cho mọi quan hệ giữa người với người. Làm người, trong tinh thần và lăng kính ấy, bao gồm ba chiều hướng: Thứ nhất, tôi làm người « cha mẹ » cho người khác, để soi sáng và nâng đỡ họ. Thứ hai, tôi làm người « đồng hành và chia sẻ », để biến cuộc đời vô vị, tầm thường, thành một tác phẩm đầy ý vị và lạ thường. Thứ ba, tôi làm một « đứa con hạnh phúc », để phản ảnh hạnh phúc của cha mẹ, chính khi quí vị chọn lựa « nằm bên ướt, để nhường lại bên ráo », cho tôi nằm. Với những lối nói riêng bịệt, tác giả Stephen R. COVEY (3), cũng đề xuất ba đường hướng tương tự, cho mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi giữa người với người:

- Điểm một: Khi tiếp xúc, chúng ta lắng nghe người khác, để tìm hiểu họ, thay vì đợi chờ người khác phải hiểu mình,

- Điểm hai: Khi tiếp xúc, mục tiêu cần thành đạt là « Người thắng, tôi thắng. Cả hai cùng thắng với nhau, nhờ nhau ».

- Điểm ba: Trong mọi quan hệ hài hòa, xây dựng và tích cực, người và tôi « tương sinh, tương thành, tương tức và tương tạo ». Cơ hồ, trong quan hệ mẹ con, mẹ sinh con ra, tạo mọi điều kiện cho con thành người. Nhưng đứa con cũng đang nuôi lại mẹ, với nụ cười, với tiếng nói líu lo, với thái độ « vùi đầu vào lòng mẹ », để thỏ thẻ: « Mẹ ơi, con thương Mẹ ». Nó đang cho lại bà mẹ, những gì bà đang cần, để ngày ngày bà có thể làm người. Trong tiếng Anh, Stephen R. COVEY đã sử dụng một từ thời trang « Synergizing ». Syn có nghĩa là cho nhau, với nhau. Ergizing, hình thức rút gọn của Energizing, có nghĩa là tạo ra năng động, nhiệt lực, hứng khởi, sức mạnh. Trong tinh thần và lăng kính nầy, Synergizing có nghĩa là « Một cây làm chẳng nên non, ba cây họp lại thành hòn núi cao ». Synergizing là cùng nhau tạo nên một nguồn năng lực lớn lao, phát xuất từ hai thành tố đầu tiên, nhưng bây giờ đang nhân ra thành ngàn lần, triệu lần to lớn hơn nguồn gốc ban đầu. Từ Ergizing còn có một xuất xứ khác trong tiếng Hy Lạp là Erg, có nghĩa là hành động, tác động. Cho nên hiện tượng cộng hưởng sẽ xảy ra - synergizing - khi hai người tác động qua lại hai chiều trên nhau. Nói khác đi, khi hai người hợp tác với nhau, họ có khả năng « đồng hành và chia sẻ ». Khi họ hoạt động, họ có với nhau « một trăm cánh tay ». Khi họ cứu xét một vấn đề, họ có cùng nhau « một trăm bộ óc, một trăm cặp mắt ». Khi họ lắng nghe, họ có với nhau « một trăm đôi tai ». *** Khi nói đến « NGƯỜI », xuyên qua tất cả những nhận xét trên đây, chúng ta đã nói đến « một TIẾN TRÌNH làm người ». Trên con đường ấy, không ai làm ông chủ. Không ai là người đã « tới nơi » hay là đã thực sự « đạt cùng đích ». Và cũng không ai làm đầy tớ. Không ai có quyền lèo lái, điều khiển, áp đặt và chỉ đạo người khác từ trên, từ ngoài. Không ai có quyền coi kẻ khác là công cụ, đồ vật. Ai ai cũng được kêu mời làm người và coi trọng quyền làm người của kẻ khác, dù người ấy đang là một đứa bé sơ sinh, vừa đi ra khỏi cung lòng của mình.

Trái lại, khi nói đến « VIỆC », chúng ta không thể không nhắm tới những kết quả cụ thể. Trong công việc, chúng ta phải biết Thương Lượng. Khởi điểm là những nét khác biệt, trong cách ghi nhận tin tức, trong cách thuyên giải, tìm ra ý nghĩa, hay là trong những phản ứng xúc động, cũng như trong các thể thức thiết lập những quan hệ trao đổi. Nhưng tận điểm là nơi HỘI NGỘ, là những điểm đồng ý với nhau, hay là một số giá trị đang được cùng nhau chia sẻ. Và trong cuộc sống làm người, chỗ nào có hội ngộ, chỗ ấy có minh đức. Minh Đức vừa là Anh Sáng, vừa là Năng động. Vừa là Hiểu biết, vừa là Tình thương.

Bài Chia Sẻ số Hai: Người và Việc không được

đồng hóa lẫn lộn vào nhau Khi nói đến Việc, chúng ta nhắm tới những kết quả cụ thể, thích hợp cho cả hai người đang trao đổi và thương lượng với nhau. Trong điều kiện hiện tại, họ và chúng ta đang có những sở thích, nhu cầu và giá trị khác nhau. Đó là lẽ thường tình, tất yếu. Cho nên, khi họ và chúng ta cảm nghiệm những quan hệ tranh chấp và xung đột, con đường cần dấn bước là sáng tạo một cách hữu hiệu và khoa học vùng giao tiếp, hội tụ. Trên đó, quyền lợi, nhu cầu của cả hai bên đều được coi trọng. Lẽ đương nhiên, người và việc, trong thực tế cụ thể, đang giao thoa chằng chịt và khắng khít vào nhau, chồng chéo lên nhau một cách phức tạp, đến độ chúng ta nhiều khi không biết phải bắt đầu tháo gỡ từ chỗ nào. Vì thiếu lối nhìn đứng đắn và phương pháp giải quyết hữu hiệu, nhiều người chấp nhận hy sinh hay là xóa bỏ những quyền lợi riêng tư của mình, để bảo tồn những quan hệ tốt đẹp với kẻ khác. Nhằm bênh vực cách làm nầy, những người ấy thường lặp đi lặp lại và đề cao câu tục ngữ: « Một sự nhịn, chín sự lành ». Trong thực tế cụ thể, họ NHỊN ở ngoài mặt. Nhưng trong nội tâm, một tiếng nói cứ ngày đêm lải nhải bên tai họ, trách mắng họ: « Mày dại khờ. Mày hèn nhát. Mày để cho kẻ khác chèn ép, ức hiếp mày ». Rốt cuộc, trong những điều kiện như vậy, « chín điều lành » không bao giờ xuất hiện. Thay vào đó, họ có thể trầm mình trong những hội chứng buồn lo, hay là mất ăn, mất ngủ, khó tiêu hóa...Nguyên nhân chính yếu của bao nhiêu hiện tượng tâm thần ấy là nhu cầu cơ bản của họ không được nhìn nhận, tôn trọng, thỏa mãn và đáp ứng.

Ngoài ra, rất nhiều người dễ lầm tưởng rằng: Để có một quan hệ hài hòa với một người, chúng ta PHẢI đồng ý với người ấy, trong tất cả mọi vấn đề. Chúng ta PHẢI chia sẻ mọi giá trị của người ấy. Hẳn thực, bao lâu chúng ta chưa có khả năng đem ra giữa vùng ánh sáng của Ý Thức, những tầng lớp tin tưởng và qui luật vô thức như vậy, đã ăn đời ở kiếp từ bao nhiêu năm trong nội tâm, chúng ta vẫn tiếp tục bị khống chế: Chúng ta chưa « biết mình là ai », chưa trở thành Bản Ngả có ý thức độc lập và tự lập nhạy bén và sáng suốt. Khi nói đến Bản Ngã, chúng ta cũng dễ lầm tưởng rằng: đó là một kết quả « hoặc có hoặc không ». Trong thực tế sinh động của cuộc sống hằng ngày, trái lại, Bản Ngã là một tiến trình « vừa có vừa không », làm bằng những bước đi, những bài học, những thất bại và những thành công, không ngừng tiếp nối nhau. Bản Ngã là một hiện thực rất phức tạp. Nhìn lại cuộc đời, tôi nhận thấy tôi đã vi phạm nhiều lỗi lầm. Những ý định đã có mặt trong nội tâm của tôi, không phải luôn luôn là những ý định trung trực. Thêm vào đó, trong lứa tuổi « ăn chưa no lo chưa tới », tôi đã góp phần, tạo nên nhiều vấn đề tranh chấp và xung đột, khi sống và làm việc với bạn bè đồng liêu. Mặc dù vậy, tôi vẫn là con người có giá trị. Ngày hôm nay, một số bạn bè luôn luôn thương tôi. Về mặt luân thường, tôi không phải là thánh nhân, cũng không phải là ác quỉ. Trên bình diện khả năng chuyên môn và nghề nghiệp, trong thời gian phục vụ trẻ em chậm phát triển, tôi đã tạo niềm tin cho những học sinh, mà cha mẹ đã giao phó cho tôi. Trên bình diện lý tưởng, tôi đã kinh qua những chặng đường « ba chìm bảy nổi tám lênh đênh », và tôi không ém nhẹm những hèn yếu và phản bội ấy. Nhưng cũng nhờ đó, tôi học được bài học « đồng cảm và tha thứ » đối với những ai « mang tiếng bỏ cuộc, đầu hàng », trên bước đường làm người. Xuyên qua bao nhiêu nhận xét cụ thể ấy, tôi muốn khẳng định một số điểm rất quan trọng sau đây: Nhờ vào khả năng sống và xây dựng những quan hệ đặt nền tảng trên tình người, tình đồng bào, tình nhân loại, chúng ta có thể dễ dàng vượt qua những tình huống tranh chấp và xung đột, khi hai người hoặc hai phe đang có những quyền lợi khác biệt nhau. Mặc dù vậy, chúng ta không gắn chặt vào nhau hai lãnh vực « Người và Việc ». Chúng ta không dẹp bỏ quyền lợi và nhu cầu chính đáng của mình, chỉ vì để duy trì một quan hệ tốt đẹp với những người cùng chung sống. Chúng ta cũng đừng lừa gạt mình, khi nêu ra lý do « Bản sắc, Bản Ngã », để phủ nhận quyền lợi và nhu cầu làm người của kẻ khác. Bản Ngã là một con đường hay là một tiến trình cần xây dựng và phát huy cũng như đổi mới, từng ngày. Bản Ngã không bao giờ là một tận điểm bất di bất dịch. Nói cách khác, chúng ta không thể làm người, chừng nào chúng ta không biết coi trọng quyền làm người cơ bản của người khác. Trái lại, khi chúng ta, một cách đơn phương, vô điều kiện, tìm cách thăng tiến chất lượng làm người của kẻ khác, chính chúng ta cũng đang đi lên, tiến tới trên con đường thành người. Nói tóm lại, trong cả hai lãnh vực Người và Việc, một đàng chúng ta cần ý thức và khẳng định nhu cầu cơ bản và chính đáng của mình. Đàng khác, không những chúng ta tôn trọng nhu cầu làm người của kẻ khác, chúng ta còn có trách nhiệm « đồng cảm » với họ, bằng cách tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhằm giúp họ thỏa mãn nhu cầu làm người của mình. Nhu cầu, như tôi đã nhấn mạnh trong nhiều bài chia sẻ, thường có mặt ở đằng sau mỗi xúc động. Nói rõ hơn, bốn thành tố Nhu Cầu, Xúc Động, Yêu Cầu và Giới Hạn giao thoa chằng chịt với nhau. Khi xây dựng quan hệ hài hòa cũng như khi thương lượng, chúng ta cần phải ý thức một cách sáng suốt về sự có mặt của bốn thành tố ấy.

Ý thức như vậy có nghĩa là xác định, với những phương tiện như: gọi ra ánh sáng, kêu tên, diễn tả bằng ngôn ngữ, tìm phương tiện đáp ứng và thỏa mãn.

-Người và Tôi cần gì ? (nhu cầu), - Người và Tôi cảm nghiệm thế nào ? (xúc động), - Người và Tôi muốn gì ? (yêu cầu hay là ước vọng), - Người và Tôi không thể chấp nhận những điều kiện khách quan nào ? (giới hạn hay là ngưỡng khổ đau). Nếu ngày ngày, chúng ta học tập, tôi luyện, để phát huy ý thức về bốn thành tố trên đây, nơi người khác cũng như trong chính bản thân mình, chúng ta đang ở trên con đường làm người hay là trở thành Bản Ngã. Đồng thời, chúng ta cũng đang tạo điều kiện năng động, giúp đỡ kẻ khác làm người với chúng ta, như chúng ta.

Bài Chia Sẻ số Ba: Xây dựng Quan Hệ một cách « vô điều kiện », với sáu bước đi tới

Khi chúng ta xây dựng quan hệ giữa người với người, mục đích mà chúng ta cần nhắm tới là lắng nghe, tìm hiểu và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Chúng ta không nuôi ẵm ý đồ thay đổi kẻ khác, tìm cách lèo lái hay là ép buộc họ nhận làm của mình những quan điểm chủ quan của chúng ta. Tiến trình xây dựng nầy vẫn có mặt, khi chúng ta thương lượng với mục tiêu cụ thể là thành đạt những đồng thuận. Với kết quả khách quan nầy, người khác tôn trọng và thỏa mãn quyền lợi của tôi, cũng như tôi tôn trọng và thỏa mãn quyền lợi của kẻ khác. Cho dù kết quả cuối cùng nầy không thành đạt, tôi vẫn coi trọng tính người và tình người của kẻ khác. Không vì một lý do nào, tôi tranh giành độc quyền làm người cho tôi và tìm cách hạ bệ kẻ khác xuống hàng « phế liệu bỉ ổi ». Nói khác đi, tôi không thể nhân danh bất kỳ một lý tưởng nào, cho dù cao cả đến đâu, để truất phế quyền lợi và giá trị làm người của kẻ khác. Tôi chọn lựa « thái độ sống và làm » như vậy, « một cách đơn phương, vô điều kiện », thậm chí khi kẻ khác hô hào bôi nhọ và truất phế tôi. Tôi tiếp tục xây dựng những quan hệ hài hòa và tôn trọng, đối với kẻ khác, mặc dù họ không đáp ứng, trong ngôn ngữ và hành động của mình. Trong tinh thần và lăng kính ấy, Bài Chia Sẻ Số Ba nầy sẽ giúp chúng ta xác định một cách cụ thể và rõ ràng những bước đi lên, hay là những tác động, cần được thực hiện, trên tiến trình xây dựng quan hệ giữa người với người.

Trên con đường làm người nầy, tôi không lẻ loi, cô đơn một mình. Nhiều tác giả có tầm cỡ quốc tế như R. FISHER, D. STONE, Stephen R. ROGER, Marshall B. ROSENBERG, Gerald JAMPOLSKY...(4), và nhất là NGUYỄN TRÃI, trong lòng Đất Nước Đại Việt, đang có mặt với tôi. Sức mạnh nội tâm của những vị ấy đang là động cơ thúc đẩy tôi tiến tới, mặc dù con đường còn hiểm trở, đầy chông gai. Tiến trình xây dựng quan hệ tích cực và hài hòa bao gồm sáu bước quan trọng sau đây (5):

Bước thứ nhất: Vừa tình vừa lý, Bước thứ hai: Lắng nghe và hiểu biết, Bước thứ ba: Diễn tả, thông đạt một cách rõ ràng trực tiếp, không úp mở, ngụy trang, Bước thứ bốn: Khả tín trong ngôn ngữ và hành động. Đồng thời, kiểm chứng một cách khoa học những tin tức, trước khi tin lời nói của kẻ khác, Bước thứ năm: Trau dồi khả năng thuyết phục, khi thương lượng, thay vì đàn áp, cưỡng chế, nhất là dùng bạo động ép buộc kẻ khác đồng ý, ký tên, Bước thứ sáu: Nhìn nhận và đón nhận giá trị làm người của kẻ khác, bất kể họ là ai.

Bước thứ nhất: Coi trọng Lý và lắng nghe Tình Khi dấn bước vào con đường xây dựng quan hệ, cũng như khi thương lượng về những quyền lợi cụ thể và chính đáng, Tình và Lý là hai tiếng nói cần được coi trọng và lắng nghe, một cách đồng đều.

Lý nằm trong địa hạt tư duy, suy nghĩ, lý luận, lối nhìn hay là thuyên giải. Khi lý không được coi trọng, một cách đúng tầm, chúng ta sẽ không biết mình đi về đâu, đi trên con đường nào, đi với phương tiện nào, đi theo thứ tự nào...Lý là ánh sáng soi đường dẫn lối, nhất là về những điều cần làm, những cạm bẫy nên tránh. Một cách đặc biệt, chúng ta vận dụng lý, trong 4 địa hạt khác nhau: Địa hạt thứ nhất: khảo sát những vấn đề cụ thể mà chúng ta đang gặp, bằng cách trả lời những câu hỏi: điều gì, thế nào, tại sao, với ai, ở đâu... Địa hạt thứ hai: xác định nguồn gốc hay là nguyên nhân đã gây ra cho chúng ta những khó khăn hiện thời. Thông thường, chúng ta quay về quá khứ, để khảo sát khía cạnh nầy. Đia hạt thứ ba: khám phá và liệt kê những đường hướng giải quyết hay là những phương pháp tiếp cận, trong đó có những chủ thuyết hiện hành đang được ứng dụng trong nhiều môi trường khác nhau. Trong địa hạt nầy, chúng ta hướng đến tương lai gần và xa, để tìm ra những chân trời rộng mở. Địa hạt thứ bốn: những bước cụ thể cần thực hiện, theo một chương trình hay là kế hoạch dài hoặc ngắn hạn. Ở đây, chúng ta đi từng bước khoan thai, không nôn nóng muốn đến điểm hẹn ngay lập tức. Chúng ta không thúc ép hoặc cưỡng bức chính mình. Không đứng núi nầy trông núi nọ. Giờ phút hiện tại được chúng ta đón nhận như một quà tặng cao quí. Le présent est un présent. Từ présent trong vế đầu có nghĩa là hiện tại. Từ thứ hai có nghĩa là một món quà, một của lễ. Một cách cụ thể, trong vấn đề thương lựơng có tính khoa học, chúng ta cũng đi lên từng bước một, kinh qua những giai đoạn thiết yếu y hệt như vậy. Giai đoạn Một: Liệt kê những vấn đề của cả hai bên. Giai đoạn Hai: Xác định những quyền lợi hay là lợi ích, mà mỗi bên đặt lên bàn thương thuyết ( interests). Giai đoạn Ba: Cả hai bên ngồi lại khảo sát với nhau những con đường có thể chọn lựa, khả dĩ thỏa mãn từng quyền lợi của mỗi bên (options). Giai đoạn Bốn: Khảo sát những tiêu chuẩn khách quan, hợp lý, hợp pháp của mỗi con đường có thể chọn lựa, và được cả hai bên chấp thuận ( criteria). Giai đoạn Năm: Cùng nhau quyết định và chọn lựa những điểm đồng ý (agreements). Giai đoạn Sáu: Đề xuất một lối thoát « tôn trọng tình người và tính người » cho cả hai bên, khi công cuộc thương lượng không mang lại những kết quả đồng thuận mong muốn (alternatives). Mặc dù với bao nhiêu cách làm hợp lý ấy, chúng ta không thể không ngồi lại, cùng nhau lắng nghe « những vết thương lòng rướm máu » của nhau. Xúc động là động cơ thúc đẩy chúng ta làm người. Quên mất yếu tố « Tình », chúng ta chỉ là gỗ đá. Chúng ta không còn là con người. Và khi không cưu mang chất người trong lòng mình, làm sao chúng ta có thể thương lượng ? Thay vào đó, chúng ta sẽ chỉ biết « dùng lý của kẻ mạnh », nghĩa là đi vào con đường súng ống, bom đạn, hận thù, chết chốc và lầm than...

Trong phần HAI vừa qua, tôi đã nói khá nhiều về lắng nghe, nhìn nhận, tìm hiểu, tôn trọng. Ở đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều:

Duy những ai đã bị khổ đau nghiền nát trong cuộc đời, mà vẫn có khả năng vùng đứng lên, người ấy đang có một kho tàng lớn lao, trong nội tâm: « biết ĐỒNG CẢM » với mình và với người khác. Với một tấm lòng « đầy Hiểu Biết và Tình Thương » nầy, chúng ta mới có thể lắng nghe lời của NGUYỄN TRÃI:

« Mở rộng Cửa NHÂN, mời khách đến, « Vun trồng CÂY ĐỨC, nuôi con ăn. »

Bước thứ hai: Tìm hiểu kẻ khác Tìm hiểu kẻ khác bao gồm nhiều động tác ăn khớp với nhau như: lắng nghe kẻ khác, đi lại con đường tư duy của họ, đặt ra những câu hỏi cụ thể và chính xác, để yêu cầu họ giải thích cho chúng ta khung qui chiếu của họ. Hẳn thực, khung qui chiếu bao gồm nhiều thành tố tác động qua lại và có ảnh hưởng trên nhau. Và mỗi người có một khung qui chiếu riêng biệt, độc đáo, trên con đường tư duy của mình, mặc dù bộ sườn hướng dẫn vẫn luôn luôn bao gồm bốn thành tố:

- Thành tố thứ nhất là thể thức thâu lượm và ghi nhận những tin tức do môi trường cung ứng,

- Thành tố thứ hai mang tên là « Tiến trình tư duy ». Ở đây, những động tác được chúng ta thực hiện mang nhiều tên gọi khác nhau, tùy theo sở thích và thói quen của mỗi tác giả: Nhận thức, lối nhìn, quan diểm chủ quan, thể thức thuyên giải, những nấc thang suy luận, cách thế nhìn đời, vũ trụ quan. Tên gọi bên ngoài đã khác nhau. Huống hồ khi đi vào nội dung cụ thể, có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu ý kiến. Người xưa đã có những nhận xét tương tự, trong câu nói « Bá nhân, bá tánh ». Một trăm người có mặt, sẽ trình bày một trăm cách thấy khác nhau.

- Thành tố thứ ba là những tình trạng của nội tâm, bao gồm nhiều xúc động. Và trong lãnh vực nầy, như trên đây tôi đã nói tới, chúng ta cần phân biệt: nhu cầu, yêu cầu, giới hạn, phản ứng nội tâm với rất nhiều danh hiệu khác nhau.

- Thành tố sau cùng nằm trong địa hạt quan hệ tiếp xúc và trao đổi. Khi lắng nghe và tìm hiểu khung qui chiếu của kẻ khác, thái độ mà chúng ta cần ôm ẵm, tôi luyện và mài nhọn, mỗi ngày, là hiếu kỳ, thích học hỏi. Và bài học khó khăn nhất, trong lòng cuộc đời là « biết mình và nhận mình đã SAI LẦM ». Sở dĩ như vậy, vì « Tư Duy Độc Lộ » và « Tư Tưởng NHỊ NGUYÊN » đang trấn áp cõi lòng của mỗi người. Với tư duy độc lộ, chúng ta chỉ thấy một con đường duy nhất: tôi đúng, kẻ khác sai. Với tư tưởng nhị nguyên, trái lại, chúng ta giành phần tốt cho mình và coi kẻ khác là phế liệu, đồi trụy và ngụy phản.

Bước thứ ba: Diễn tả mình và thông đạt một cách trong sáng Trong bốn nghìn năm văn hiến, chúng ta đã phải trải qua « Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây ». Cho nên, vì lý do sống còn và chiến đấu chống ngoại xâm, chúng ta đã tạo cho mình một thói quen hào hùng là « có mặt khắp mọi nơi, biến mất bất kỳ lúc nào, không ai hay, không ai biết ». Duy tiếng « Dạ », hoặc tiếng « Vâng » của chúng ta cũng có hai nghĩa « đồng ý » và « không đồng ý ». Một cách nào đó, mỗi lần phát biểu, tôi luôn luôn muốn cho kẻ khác phải hiểu rằng: Tôi nói vậy, nhưng không phải vậy. Trường hợp tôi sai lầm, tôi vẫn còn có lý do, để tự biện minh. Thêm vào đó, cách giáo dục và dạy dỗ của các Thiền sư, trong ba Triều Đại phồn thịnh là Lý, Trần và Lê, luôn luôn đề cao phương pháp « vô ngôn », và khinh thường lời lẽ dài dòng, luộm thuộm. Cho nên, chúng ta không có thói quen « nói nhiều, nói hết, nói đúng đích, nói cho đến nơi đến chốn ». Chúng ta có xu thế « gợi ý », đưa tay « chỉ mặt trăng », và không bao giờ phát huy nhu cầu « đụng đến mặt trăng », với hai tay chứng nghiệm. Ngoài ra, vì đất nước của chúng ta nhỏ bé, bên cạnh một lãnh thổ lớn lao có vị thế và uy quyền lâu đời, chúng ta khôn ngoan, không muốn đương đầu, trực diện, nhìn thẳng mặt. Chúng ta có kế sách « thu mình lại », hay là « rút vào hang động », như con chuột, trên đường di động của con voi đồ sộ, nặng nề, dập nát tất cả những gì không biết lẩn tránh ra hai bên. Trong điều kiện và thân phận của con người, mọi phương tiện đều có tính lưỡng năng, cơ hồ con dao hai lưỡi, vừa có ích trong khía cạnh nầy, vừa gây tai hại ở một khía cạnh khác. Nếu chúng ta quá đề cao một phương tiện, chúng ta sẽ lầm tưởng rằng: không có một phương tiện nào khác, ngoài cách làm độc đáo của chúng ta. Trong vấn đề diễn tả và thông đạt, chúng ta cũng còn ở trong một tình thế lưỡng năng như vậy. Chúng ta tự đặt mình trong điều kiện khẩn trương và chiến đấu. Cho nên chúng ta luôn luôn quyết định một mình, không cảm thấy nhu cầu phải tham khảo những người khác. Hệ quả của tình trạng nầy là chúng ta thông đạt « một chiều ». Kẻ khác có bổn phận lắng nghe và thừa hành. Họ không có quyền « góp ý và phản hồi ». Thêm vào đó, sau bao nhiêu năm hòa bình, chúng ta vẫn còn giữ lại thói quen của thời chiến, luôn luôn ngụy trang mỗi tin tức phát ra. Nói đúng hơn, chúng ta úp úp, mở mở... đến độ chỉ chúng ta mới hiểu chúng ta muốn nói gì. Nếu người khác không hiểu, hỏi lại... họ sẽ bị chúng ta gắn vào một nhãn hiệu là « kém thông minh, không bén nhạy... », hay là « có ý đồ phản động, chống đối... » Tôi cố tình phân tích một cách cặn kẻ như vậy, nhằm gây ý thức rằng: làm người, chúng ta không thể không học. Học mỗi ngày. Học với mọi người, thậm chí với một trẻ sơ sinh, vừa ra khỏi lòng mẹ.

* Bài học thứ nhất là lắng nghe một cách trân trọng, khi kẻ khác nói.

* Bài học thứ hai là biết nêu ra những câu hỏi, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ khác diễn tả, chia sẻ con người đích thực của mình.

* Bài học thứ ba là nói về thực tại, thực tế và thực chất của mình. Hẳn thực, không ý thức về mình, không cưu mang trong mình một mục đích, một chí hướng rõ ràng và trong sáng, làm sao chúng ta có thể nói. Nói phải chăng là chia sẻ chính mình một cách trung thực, thay vì lượn lẹo ? Tất cả những gì tôi đang có, trong bản thân và cuộc đời, đều là quà tặng, do kẻ khác mang đến cho tôi. Tất cả những gì tôi ĐANG THÀNH và SẼ THÀNH, là quà tặng, tôi có trách nhiệm chia sẻ lại cho người khác, nhất là những thế hệ đến sau tôi. Khi chia sẻ như vậy, chúng ta hãy có gan nói về mình, dùng sứ điệp « Ngôi Thứ Nhất số ít ». Chính tôi đã thấy. Chính tôi đã nghe. Chính tôi đã cảm. Chính tôi đã có kinh nghiệm. Chính tôi đã CHỨNG NGHIỆM. Tôi không lặp lại như keo vẹt, những lời đồn thổi hay là những dư luận không có căn cứ. Tôi không bịa đặt. Tôi không vẽ vời sự thật để quảng cáo và tuyên truyền cho cá nhân của tôi. Chia sẻ như vậy không phải là lên mặt mô phạm, dạy đời. Nhưng là dâng hiến một tấm tấm lòng làm người, cho anh chị em đồng bào, đồng loại, đúng như NGUYỄN TRÃI đã nói, cách đây hơn năm thế kỷ:

« Chăn lạnh choàng vai, đêm chẳng ngủ. « Suốt đời ôm mãi nỗi lo dân ». ***

Bước thứ tư: Khả tín và tin vào người Trong đọan nầy, tôi muốn nhấn mạnh hai điều: Thứ nhất là sống làm sao, để xứng đáng với lòng tin của kẻ khác. Thứ hai là tin vào người khác, một cách sáng suốt và khôn ngoan. Không nhắm mắt tin, một cách mù quáng, trước khi kiểm chứng một cách khoa học những điểm tựa của lòng tin. Trong khuôn khổ của chương và đoạn nầy, tôi không thể trình bày một cách rốt ráo, mọi khía cạnh. Tôi chỉ nhấn mạnh một vài trọng điểm như sau: Thứ nhất, tôi có khả năng tạo niềm tin, khi tôi sử dụng một loại ngôn ngữ chính xác và rõ ràng. Ví du, khi tôi hẹn với ai, tôi sẽ có mặt lúc sáu giờ chiều, tôi không thể nhẫn nha đến điểm hẹn, lúc tám giờ tối. Khi không chắc chắn, tôi cần phải thêm vào những lối nói như ước chừng, có lẽ, thường thường... Phương pháp « năm ngón tay » của A: ROBBINS, mà tôi đã giới thiệu khi bàn về Vô Thức, trong một bài chia sẻ, có thể giúp tôi phát huy lòng tin nơi kẻ khác (6). Thứ hai, tin tức không thể đồng hóa với giả thuyết. Và giả thuyết không phải là chân lý. Sau hết, kết luận của tôi chưa hẳn là kết luận của người đang nghe tôi. Không phân biệt một cách chính xác những bình diện khác nhau, trên tiến trình tư duy, chúng ta sẽ luộm thuộm « bắt râu ông nọ đặt cằm bà kia », và dần dần chúng ta sẽ đánh mất lòng tin của những ai nghe chúng ta. Thứ ba, trong những lời hứa, chúng ta có bổn phận thực hiện đúng lúc, đúng thể thức và đúng số liệu...Khi nói mà không làm, hay là làm một cách qua loa, lấy lệ, chúng ta sẽ trở thành người lừa gạt, gian dối. Nói tóm lại, khi đề cập vấn đề khả tín, chúng ta cần lưu tâm một cách nghiêm minh, đến hai địa hạt. Trong địa hạt thứ nhất, chúng ta cần thường xuyên đánh sáng và vuốt nhọn khả năng thông đạt chính xác của chúng ta. Trong địa hạt thứ hai, chúng ta phải « nhất quán »: Nói và làm ăn khớp với nhau. Nét mặt và hành vi bên ngoài xuất phát từ một thái độ trung thực, ở bên trong nội tâm. *** Ưu tư thứ hai của chúng ta, trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi, là tin vào người, trong những điều kiện nào, với những mức độ như thế nào. Trên bình diện nầy, người chủ động vẫn là chính chúng ta. Khi lời nói của kẻ khác không rõ ràng, chúng ta hãy giúp họ mang đến cho chúng ta những tin tức chính xác. Ví dụ, bạn hẹn với tôi gặp nhau lúc 8 giờ để ăn tối. Nhưng tôi biết rõ vào giờ ấy bạn hay bị cản trở, vì công việc bề bộn của bạn. Trong trường hợp như vậy, bạn điện thoại cho tôi biết trước lúc bảy giờ, có được không ? Trường hợp kẻ khác đã lỗi hẹn, chưa hẳn vì họ giả dối, muốn lừa gạt hay là có ác tâm và ác ý. Trong cuộc sống, người khác cũng như chúng ta có thể gặp bao nhiêu điều xảy ra ngoài ý muốn, vào phút cuối cùng, không thể tiên liệu, tiên phòng Ví dụ, trên đường đi đến nơi hẹn, họ gặp tai nạn xe hơi. Hay là năm phút trước lúc họ ra đi, đứa con của họ bị té ngã, gãy tay. Họ phải cấp tốc chở con họ vào bệnh viện. Cho nên, họ đã lỗi hẹn với chúng ta. Trường hợp kẻ khác thuộc hạng người không đáng được chúng ta tin tưởng, chưa hẳn vì họ xấu về mặt luân lý hoặc đạo đức. Có thể những khổ đau đang làm cho họ kiệt quệ, về mặt ý chí và trí nhơ, nên họ không bao giờ có khả năng giữ lời hứa, hay là thực hiện những điều họ cam kết. Nói tóm lại, vấn đề tin vào một người thuộc về lãnh vực quan hệ giữa người với người. Cho nên, trước khi không tin vào ai, chúng ta cần có thái độ lắng nghe, tìm hiểu, trắc nghiệm hay là kiểm chứng những tin tức mà chúng ta đã thâu nhận về người ấy. Dù thế nào chăng nữa, người ấy vẫn được chúng ta kính trọng, vì họ là người. Trong đa số trường hợp, họ cần chúng ta nâng đỡ, để dần dần trở nên khả tín, đối với những người khác. ***

Bước thứ năm: Thương lượng và thuyết phục, thay vì cưỡng chế Trong địa hạt thương lượng, NGUYỄN TRÃI là tấm gương sáng ngời, không những cho Quê Hương Đại Việt mà thôi, nhưng còn cho tất cả những ai thiết tha với chí hướng làm người, trên khắp năm châu bốn bể. Câu nói bất hủ của tác giả nầy, ở vào thế kỷ thứ mười lăm, đã xác định phương hướng cho những ai dấn bước vào con đường thương lượng:

« Lấy Đại Nghĩa mà thắng hung tàn, « Lấy Chí Nhân mà thay cường bạo. » Hẳn thực, chỗ nào cường bạo đang còn thống trị, trong tâm hồn, con người ở chỗ ấy không thể xây dựng và phát huy con đường làm người. Họ đang còn làm « chó sói » đối với nhau, như người La Tinh đã có nhận xét, cách đây hơn một nghìn năm. Khi đi con đường « Chí Nhân », chúng ta chỉ thuyết phục, soi sáng, thay vì cưỡng bức, áp chế, thủ tiêu, thanh trừng, khi kẻ khác không đồng ý với chúng ta. Khi thương lượng, chúng ta không « cố chấp » lập trường trước sau như một của chúng ta, và không biết coi trọng phía bên kia đang có những nhu cầu và nguyện vọng chính đáng như thế nào. Khi thương lượng, chúng ta bắt đầu ngồi lại với phía bên kia, lắng nghe họ, và CÙNG NHAU khảo sát lợi ích của nhau. Chúng ta có quyền làm người. Họ cũng có quyền được chúng ta cư xử và kính trọng, với tất cả tư cách làm người như chúng ta, ngang chúng ta. Khi thương lượng, chúng ta cùng với phe bên kia sáng tạo những con đường đồng thuận, càng nhiều càng tốt. Những con đường nầy được xác định một cách khách quan và khoa học, với những tiêu chuẩn hợp lý, hợp pháp và hợp tình được cả hai bên chấp nhận. Trong tinh thần ấy, không bên nào có thể tùy tiện áp đặt, một cách đơn phương, những qui luật cho bên kia. Khi thương lượng như vậy, không có kẻ thắng người thua. Cả hai bên cố quyết làm người và tạo điều kiện, cho kẻ khác cũng có khả năng làm người với mình, giống như mình. Và như trước đây tôi đã nhấn mạnh lui tới, nhiều lần, khi hai người biết làm người với nhau như vậy, họ có « một trăm con mắt », để nhìn. « Một trăm lỗ tai » để nghe. « Một trăm cánh tay » để sáng tạo. « Một trăm quả tim », để làm người và làm NGƯỜI anh em (7).

Bước thứ sáu: Nhìn nhận và Chấp nhận nhau Bước thứ sáu nầy thu tóm và tổng hợp năm bước vừa qua. Hẳn thực, khi người khác và chúng ta không chấp nhận nhau, MỘT CÁCH VÔ ĐIỀU KIỆN, làm sao chúng ta có thể cùng nhau xây dựng quan hệ tình người. Làm sao chúng ta kính trọng quyền lợi làm người của nhau. Công việc và thái độ chấp nhận ấy bao gồm những động tác cụ thể và tất yếu sau đây:

Thứ nhất là chú trọng vào con người cụ thể đang hiện diện trước mặt chúng ta, với bao nhiêu thao thức, trăn trở, khổ đau và thất bại trong cuộc đời, cũng như với bao nhiêu hoài vọng và ước mơ, phấn đấu và vươn mình tới. Con người ấy đáng được chúng ta lắng nghe và coi trọng.

Thứ hai, con người ấy đã trải nghiệm cuộc sống, trong những hoàn cảnh và điều kiện oái oăm, khắc nghiệt, đáng được chúng ta tìm hiểu, đồng cảm, để rút tỉa những bài học quí hóa, cho chính cuộc đời của chúng ta.

Thứ ba, con người ấy, đằng sau một bề ngoài rất tầm thường, đang có những giá trị cao cả, đáng được chúng ta phát hiện, để ngày ngày nuôi dưỡng và phát huy lòng tin của chúng ta vào con người và vào cuộc đời với những viễn tượng kỳ diệu và cao cả.

Thứ bốn, biết thêm một con người là biết thêm một chân trời rộng mở, cơ hồ chúng ta đi du lịch ra nước ngoài, để thấy mình rõ hơn, với bao nhiêu khuyết điểm, cũng như với bao nhiêu đức tính không có nơi người khác.

Thứ năm, người khác, dù họ là ai, ở đâu, làm gì, thuộc lứa tuổi nào... cũng đang bổ túc cho chúng ta, ở một phương diện cụ thể nào đó. Cho nên, khi cởi mở, đón nhận, tham khảo họ, chúng ta đang làm giàu cho bản thân và cuộc đời của mình. Trong Sa Mạc Sahara, sau một lần bị tai nạn máy bay, văn hào A. Saint-Exupéry, lúc ấy là phi công, phải sống ba ngày ba đêm một mình giữa trời đất, vũ trụ. Sau khi gặp lại được một người du mục bản địa, tác giả cảm thấy tràn đầy hạnh phúc và lòng biết ơn. Anh mắt và đôi tay của người ấy, theo lời tự thú của Saint-Exupéry, là « một Hồng Ân » làm cho ông đã chết đi, bây giờ được sống lại, giữa con người, với con người, nhờ con người.

Tháng 8 năm 2008

Bí Chú:
1) J.J. CRÈVECOEUR – Relations et Jeux de Pouvoir – Equinoxe 21, Toulouse 1999
2) 100 bài thơ tình – Nhà XbGiáo dục, Hà Bội 1993
3) Stephen R. COVEY – The 7 habits of higly effective people – Simon&Schuster, London 1989
4) D.STONES – Difficult conversations – M.Joseph, London 1999, M.B. ROSENBERG – Nonviolent Communication –, Puddle Dancer Press, CA 2001
5) Roger FISHER – Getting Together – Business Books, London l889, Roger FISHER – Getting to Yes – Penguin Books, N.Y. 1991, Roger Fisher – Beyond Machiavelli – Tools for coping with conflict – Harvard University Press, London 1994
6) R. ROBBINS Unlimited Power: a Black choice – Simon&Schuster, N.Y.1997, NGUYỄN Văn Thành – Sơn Tinh và Thủy Tinh – TN, Lausanne Mùa Thu 2003
7) NGUYỄN Văn Thành – Đồng Cảm để Đồng Hành – Tình Người 2003
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Gái Huế Và Nón Bài Thơ
Trầm Tĩnh Nguyện
01:37 18/08/2008

GÁI HUẾ VÀ NÓN BÀI THƠ



Ảnh của Trầm Tĩnh Nguyện, Việt Nam ( Hình chụp bên bờ sông Hương)

Ơi o gái Huế dễ thương,

Xin o gìn giữ mùi hương lặng thầm.

Ơi o xứ Huế trầm ngâm.

(Trầm Tĩnh Nguyện)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền