Ngày 10-08-2014
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Quân khủng bố Hồi Giáo ISIS ra tối hậu thư cho người Yazidi
Đặng Tự Do
17:32 10/08/2014
Hàng trăm gia đình người Yazidi bị quân khủng bố Hồi Giáo ISIS bắt được đã bị buộc phải cải sang Hồi Giáo trong ngày Chúa Nhật 10 tháng 8 hoặc là bị giết. Hãng thông tấn AP cho biết trong số những người bị quân Hồi Giáo bắt ít nhất 500 người đàn ông Yazidi đã bị quân khủng bố Hồi Giáo ISIS hành quyết. Bộ trưởng nhân quyền Iraq Mohammed Shia al-Sudani tố cáo thêm là ít nhất 300 thiếu nữ người Yazidi đã bị bắt làm nô lệ và bị đưa về Mosul.

Về số phận của những người chạy thoát, Anh quốc cho biết có đến 150,000 người đang trốn trên núi Sinjar là nơi tương truyền có con thuyền ông Nôe. Ngoại trưởng Pháp là ông Laurent Fabius hiện đang có mặt tại Baghdad để xúc tiến việc cứu trợ những người Yazidi đang bị kẹt trên núi Sinjar nói rằng đã có ít nhất 70 người phần lớn là phụ nữ và trẻ em đã chết vì đói khát dưới cái nóng 45 độ mùa hè ở miền Bắc Iraq.

Người Yazidi là một cộng đồng cổ xưa, tập trung ở Iraq nơi dân số lên đến 600,000 người. Tuy nhiên, họ cũng có mặt tại Iran, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ. Họ theo một tôn giáo theo đó người ngoài cộng đồng không được chấp nhận và các tín hữu không tiết lộ cho người ngoài về các chi tiết nghi lễ của họ. Về cơ bản, người Yazidi tin vào Đức Chúa Trời và bảy thiên thần bảo vệ thế giới. Họ nói ngôn ngữ Kurd.

Một nghị sĩ người Yazidi nói với tờ Christian Science Monitor: "Trong lịch sử của chúng tôi, chúng tôi đã phải chịu đựng 72 cuộc thảm sát. Chúng tôi đang lo lắng Sinjar có thể là cuộc thảm sát lần thứ 73".

Cuộc thảm sát lần thứ 73 có thể là lần thảm sát sau cùng vì tình trạng của người Yazidi rất bi đát. Theo trục đông tây, Ebril, thủ phủ của người Kurd nằm ở phía Đông. Kế đến là Mosul. Vùng núi Sinjar nằm ở phía Tây sát với biên giới Syria. Nói tắt một điều là họ bị bao vây chung quanh bởi quân khủng bố Hồi Giáo ISIS.

Trong một cố gắng phi thường nhằm cứu những người đang lang thang tuyệt vọng trên vùng núi Sinjar, các tổ chức bác ái tại Ebril đã phối hợp với quân đội Kurd dùng trực thăng đưa những phẩm vật cứu trợ và nước uống đến cho những người Yazidi trên vùng núi Sinjar.

Trong đoạn video này, chiếc trực thăng cứu trợ đã phải bắn trả trận mưa đạn từ dưới đất bắn lên để đến được vùng núi Sinjar. Nhiều người Yaziki đã nhanh chân nhảy lên trực thăng để được đưa đến những vùng đất an toàn.

Trong thông cáo báo chí, Hoa Kỳ cho biết vào ngày thứ Bẩy 09 tháng 8, lúc 15:20 giờ quốc tế, một nhóm máy bay chiến đấu và máy bay không người lái của Hoa Kỳ đã tấn công vào một đoàn xe thiết giáp và xe vận tải của quân khủng bố Hồi Giáo ISIS đang xả súng tàn sát những người Yazidi. Các máy bay này đã tiêu hủy hai xe thiết giáp và hai xe vận tải của quân khủng bố.
Trẻ em người Yazidi
 
Một thoáng Hàn Quốc và giáo hội Công Giáo Hàn Quốc
Lm. Nguyễn Hữu An
11:31 10/08/2014
Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ đến thăm Hàn Quốc từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 8 nhân dịp Đại hội Giới trẻ Á châu lần thứ sáu. Theo tường thuật của thông tín viên Simone Orendain của đài VOA, đây là chuyến viếng thăm đầu tiên trong vòng gần 20 năm của một nhà lãnh đạo Tòa thánh Vatican tới một nước Châu Á. Các giới chức Nam Triều Tiên mô tả chuyến viếng thăm của Ðức Giáo hoàng đến nước họ lần đầu tiên trong vòng 25 năm là “có ý nghĩa rất lớn”. Hàn Quốc rộng 99.268 km vuông với dân số 50.220.000 người,trong đó có 5.393.000 người Công Giáo, chiếm 10,7% dân số. Trong suốt 50 năm qua, có lẽ đã không có quốc gia nào trên thế giới có được sự phát triển liên tục trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo như Hàn Quốc. Chúng tôi có dịp hành hương đến đất nước này, nay nhân sự kiện Đại hội Giới trẻ Á châu, xin được điểm lại vài nét về xứ sở nhân sâm và kim chi.

1.Đôi nét lịch sử cận đại

Năm 1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Đại Hàn kết thúc ách đô hộ của Nhật kéo dài 35 năm (1910- 1945).

Xem Hình

Lúc ấy, các lực lượng Đồng Minh quyết định chia cắt Đại Hàn ra làm hai: miền Nam với sự giúp đỡ của Mỹ và miền Bắc với sự giúp đỡ của Liên Xô. Năm 1948, quân đội Liên Xô rút khỏi miền Bắc và năm sau, 1949, quân đội Mỹ cũng rút khỏi miền Nam.

Năm 1950, được sự ủng hộ của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, Bắc Hàn, dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành, phát động chiến tranh, tung quân qua biên giới Nam Hàn, gọi là để thống nhất đất nước. Sau khi Liên Hiệp Quốc thất bại trong nỗ lực hòa giải và ngăn chận chiến tranh, Tổng thống Truman quyết định đưa quân Mỹ và một số nước đồng minh sang giúp Nam Hàn trong cuộc chiến đối đầu với miền Bắc. Lúc ấy, Trung Quốc cũng quyết định can thiệp (với sự trợ giúp khí giới của Liên Xô).

Cuộc nội chiến Nam Bắc Hàn trở thành cuộc đối đầu trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc, trong đó có lúc (ví dụ riêng đợt phản công mùa xuân năm 1951), quân Trung Quốc nhảy vọt lên đến khoảng 700,000 người.

Đến giữa năm 1953, hai bên tuyên bố đình chiến. Cuộc chiến tranh kéo dài ba năm để lại thảm kịch nặng nhất là có ít nhất trên hai triệu thường dân, từ cả hai miền, bị giết chết, kể cả bị giết tập thể.

Sau chiến tranh, Đại Hàn lại bị chia làm hai, lấy vĩ tuyến 38 làm biên giới. Phía Nam được biết dưới tên chính thức là Đại Hàn Dân Quốc (thường được gọi tắt là Hàn Quốc); phía Bắc, Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên (thường được gọi tắt là Triều Tiên).

Ban đầu, cả Bắc và Nam Hàn đều gánh chịu một di sản giống nhau. Đó là ách đô hộ kéo dài 35 năm của đế quốc Nhật Bản, cuộc nội chiến kéo dài 3 năm và số thương vong được xếp vào loại lớn nhất trong tất cả các cuộc chiến tranh trong nội bộ một quốc gia ở thế kỷ 20, sự nghi kỵ và thù hận không phải giữa hai miền Nam Bắc. Những di sản ấy thể hiện rõ trong tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của cả hai miền ngay sau chiến tranh như nghèo khổ, lạc hậu và độc tài.

Nhưng 50 năm sau, khoảng cách giữa hai miền, Hàn Quốc và Triều Tiên, khác nhau vời vợi. Vào giữa thập niên 1950, cũng giống như Triều Tiên, Hàn Quốc nằm trong danh sách những quốc gia nghèo, tương tự vô số các quốc gia nghèo khác ở châu Á và châu Phi. Nhưng từ giữa thập niên 1960 thì họ nhảy vọt. Suốt cả mấy thập niên sau đó, họ được xem là một trong vài quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Giới nghiên cứu thường nêu lên một ví dụ về sự phát triển thần kỳ của Hàn Quốc: năm 1957, thu nhập trên đầu người của Hàn Quốc thấp hơn hẳn Ghana, một quốc gia thuộc Tây Phi; bốn mươi năm sau, vào năm 2008, thu nhập của họ cao gấp 17 lần Ghana! Hiện nay, Hàn Quốc nằm trong nhóm 20 quốc gia giàu mạnh nhất thế giới (G-20). Một số thương hiệu của Hàn Quốc trở nên quen thuộc trên phạm vi toàn cầu, hầu như đi đâu cũng gặp: Hyundai, Samsung, Daewoo và LG.(x. Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc).

2. Giáo Hội Hàn Quốc.

Triều Tiên có lịch sử lâu dài với hơn 5 ngàn năm, chịu ảnh hưởng truyền thống Phật Giáo và Khổng Giáo. Kitô Giáo được du nhập vào Ðại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592. Lúc ấy có một số người Ðại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Ðại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế.

Mãi đến đầu thế kỷ 18, Triều Tiên mới đón nhận ánh sáng Đức tin Công Giáo và phát triển mạnh vào cuối thế kỷ 19. Các triều đại phong kiến đã có những cuộc bách hại Kitô Giáo trong nhiều năm và đã có trên 10 ngàn Kitô hữu hy sinh mạng sống để minh chứng Đức tin.

Năm 1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã phong chân phước cho 79 vị tử đạo. Năm 1968, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã phong chân phước cho 24 vị tử đạo. Ngày 14 tháng 10 năm 1984, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho 103 vị tử đạo Hàn Quốc.

Từ năm 1960 đến năm 2010, dân số Hàn Quốc từ 23 triệu đã tăng lên 48 triệu người. Lợi tức bình quân tính trên đầu người gia tăng từ 1.300 USD lên 19.500 USD hằng năm. Số Kitô hữu từ 2% tăng lên 30%, trong đó có khoảng 11% là tín hữu Công Giáo, tức khoảng 5,4 triệu. Số linh mục từ 250 lên đến 5.000. Số tân linh mục hằng năm vào khoảng 130 đến 150 vị. Với 5.000 linh mục hiện nay, tính bình quân, mỗi vị coi sóc 1.100 tín hữu. Số tín hữu Công Giáo gia tăng 3% mỗi năm. (Linh mục Piero Gheddo). Văn phòng Trung ương Thống kê Giáo Hội cho biết: Giáo Hội Công Giáo tại Hàn Quốc, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2013, có 16 giáo phận, 1.673 giáo xứ và 843 trung tâm mục vụ, với 35 giám mục, 4.261 linh mục,10 phó tế, 1.489 đại chủng sinh và 395 tiểu chủng sinh, 516 nam tu sĩ và 9.016 nữ tu, 123 thừa sai giáo dân và 14.195 giáo lý viên.

Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc điều hành 328 trung tâm giáo dục thuộc mọi cấp lớp với 221.020 học sinh theo học, 49trung tâm đặc biệt và 200 cơ sở khác, 40 bệnh viện, 4 phòng khám, 9 trại phong, 513 nhà an dưỡng cho người già và người khuyết tật, 277 trại mồ côi và nhà trẻ, và 83 trung tâm tư vấn gia đình và bảo vệ sự sống. (VIS).

Đức Hồng Y Nicholas Cheong Jin Suk, Tổng Giám mục thủ đô Seoul, cho biết trong 10 năm qua, số tín hữu Công Giáo Hàn Quốc đã gia tăng từ 3 lên đến hơn 5 triệu. Như thế, Giáo Hội Hàn Quốc là Giáo Hội tiến triển mạnh nhất châu Á. Tại Hàn Quốc, quyền tự do tôn giáo được hoàn toàn tôn trọng.

Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn năm 1984 để phong thánh cho 103 vị Tử Đạo. Trong đó có Thánh Anrê Kim Taegon, linh mục, Thánh Phaolô Chong Hasang, Chủng sinh, và 98 người Hàn Quốc cùng ba vị thừa sai người Pháp. Tất cả đều tử đạo trong khoảng từ năm 1839 và 1867. Trong số đó có các giám mục và linh mục, nhưng hầu hết là giáo dân với 47 phụ nữ, 45 đàn ông.

Trong bài giảng lễ phong thánh, ÐGH Gioan Phaolô II đã nói:"Giáo Hội Hàn Quốc thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt. Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10,000 vị tử đạo. Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở huy hoàng của Giáo Hội Hàn Quốc ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ tuyến".

Nét độc đáo của Giáo Hội Hàn Quốc đó là sự cộng tác tuyệt vời của giáo dân vào công cuộc rao giảng Tin Mừng. Khác với lịch sử của các Giáo Hội khác trên thế giới, Giáo Hội Nam Hàn là do chính các giáo dân thành lập. Vào thế kỷ XVIII, một vài triết gia người Hàn đã sang Bắc Kinh gặp được nhà truyền giáo nổi tiếng Lm Matthêô Ricci. Sau khi thụ huấn và chịu phép Rửa tội, họ về nước đem theo cuốn Thánh Kinh và họ dịch sang tiếng Hàn rồi rao giảng Tin Mừng và thành lập Giáo Hội Công Giáo. Trong các năm 1779-1836, khi các thừa sai đầu tiên người Pháp tới Đại Hàn, thì Kitô giáo đã được phổ biến trong nước, nhưng sau đó bị bách hại khốc liệt. Nhưng sự cộng tác của giáo dân thì vẫn tồn tại mạnh mẽ. Ngày nay tại Hàn Quốc, những ai muốn gia nhập Kitô giáo đều biết rằng mình phải có bổn phận dấn thân trong một hiệp hội hay phong trào nào đó hiện hữu trong các giáo xứ.

Từ thập niên 1980, trong 10 năm chuẩn bị lễ phong thánh cho các vị tử, Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc đã phát động phong trào mỗi một tín hữu phải làm sao giúp cho một người khác theo đạo. Nhờ đó, số tín hữu đã gia tăng gấp đôi.

Hiện nay, Giáo Hội Hàn Quốc đang sống chương trình gọi là "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", nghĩa là vào năm 2020, số tín hữu Công Giáo đạt tỷ lệ 20% tổng số dân Hàn Quốc, lý tưởng là gia tăng gấp đôi số tín hữu hiện nay để đạt con số 10 triệu người Công Giáo.

3. Những Đền thánh Công Giáo, nơi thu hút khách hành hương

Đoàn hành hương chúng tôi có 4 ngày ở đất Hàn nên dành trọn mỗi ngày đến một Đền thánh để tìm hiểu học hỏi và dâng lễ.

a. Đền thánh Yongsu ở Khu tưởng niệm Linh mục Kim Dae-gun, Thánh Tử Đạo đầu tiên tại đảo Cheju.

Buổi sáng sớm, sau khi thưởng thức món mì chay Uđông, đoàn chúng tôi đi qua cây cầu dài 21km bắc qua biển. Người Hàn gọi là “vĩ đại cầu”. Hành trình hơn 80km đến làng AnSung linh thiêng. Đang là mùa xuân nên khí hậu mát mẻ, núi rừng ngát xanh, khung cảnh tuyệt đẹp. Núi xanh bao bọc trung tâm hành hương. Nơi đây có Nhà thờ và nhiều nhà nguyện nhỏ và nhiều dãy nhà khác ẩn khuất trong vườn cây xanh mát. Đây là nơi lý tưởng để tĩnh tâm, linh thao.

Một nữ giáo dân phụ trách khu vực đền thánh giới thiệu cho chúng tôi về miền đất thánh thiêng và Thánh Anrê Kim. Chị chào mừng đoàn hành hương tín hữu Công Giáo Việt Nam. Vào năm1801, chính quyền phong kiến cấm đạo tuyệt đối. Sau 200 năm lịch sử, du khách đến xứ sở thanh bình này cảm nhận miền đất thiêng được khởi đi từ dòng máu tử đạo. Năm 1846 vị Lm đầu tiên của Hàn quốc là Thánh Anrê Kim bị chặt đầu nên người dân gọi ngọn núi thiêng này là núi chặt đầu.

Trước khi chết, thánh nhân có 3 câu nói nổi tiếng: tôi đem đức tin vào Hàn quốc và tôi luôn cầu nguyện cho đất nước bình an, tôi không bao giờ từ bỏ đức tin và tôi sẽ sống lại.

Anrê Kim Taegon là linh mục Ðại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao. Sáu năm sau khi học hỏi những tinh hoa của Tin Mừng, ngài trở về quê hương qua ngã Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và được thụ phong linh mục. Trở về trên con thuyền nhỏ nên ngài lạc đường và sau nhiều ngày lênh đênh trên biển ngài lên bờ lần đầu tại đảo Cheju. Đảo Cheju là nơi du lịch chính của Hàn Quốc, và đã thu hút 7.578.000 du khách Hàn Quốc và nước ngoài trong năm 2010.Giáo phận Cheju, nơi có đảo Cheju, có 67.496 tín hữu Công Giáo theo thống kê năm 2009. (UCA News 6-5-2011).

Đền thánh Yongsu, nơi tôn kính Thánh Tử Đạo Anrê Kim Taegon bình yên giữa núi rừng hùng vĩ. Thánh nhân đã cử hành Thánh lễ đầu tiên của mình ở Hàn Quốc tại đây. Chúng tôi hôn kính xương thánh và viếng mộ và của ngài. Mộ của thân mẫu thánh nhân cũng nằm trên ngọn đồi nhỏ phía sau.Chúng tôi dâng thánh lễ trong nhà nguyện nhỏ ấm cúng.Tạ ơn Chúa đã đưa chúng tôi đến nơi đây hành hương và cầu nguyện bên mộ phần thánh tử đạo.

Sau khi ăn trưa chúng tôi đi một hành trình dài 4 giờ xe đi về thành phố thủ phủ Kwangju, một trong 6 thánh phố lớn nhất của xứ sở Kim Chi.

Hệ thống giao thông xứ Hàn quá hiện đại như các nước Âu châu và Mỹ. Không thấy một xe honda nào trên quốc lộ. Không thấy một bóng dáng cảnh sát nào đứng đường.

Alex thuyết minh cho biết về lịch sử và văn hóa kinh tế xứ Hàn. Tổng thống Pắc Chung Hy trong 18 năm lãnh đạo (1961-1979) đã đưa đất nước phát triển. Từ một đất nước không có tài nguyên khoáng sản. Với ¾ diện tích đất đai là núi đồi. Đất đai chỉ sản xuất được 1 mùa, không có lương thực. Phía Bắc giáp Triều Tiên và ba phía kia giáp biển đầm lầy. Pac Chung Hy cùng nội các đã tìm ra đường lối phát triển đất nước. Công trình đầu tiên là mở tuyến đường Bắc Nam phát triển cơ sở hạ tầng. Xây dựng sân bay quốc tế Incheon và thành phố Seoul. Đưa học sinh sinh viên sang Mỹ du học nhièu nghành nghề, đặc biệt là nghành y học để các bác sĩ trở về chăm sóc sức khỏe tốt cho dân. Phát triển đất nước phải bắt đầu từ gia đình rồi đến xã hội. Mọi du học sinh khi thành đạt đều trở về giúp xây dựng quê hương.

Ngày nay ở Hàn quốc có 4 nghành kinh tế chủ lực. Đó là xây dựng, công nghệ điện tử, sản xuất xe hơi và đóng tàu biển. Người dân làm việc chăm chỉ cần cù và được trả lương xứng đáng với khả năng. Lương kỹ sư là 60.000usd/năm và tăng theo thời gian, sau 10 năm làm việc mức lương đạt 100.000usd/năm. Mức lương thấp nhất dành cho người lao động thủ công cũng rất cao 1500usd/tháng. Chế độ bảo hiểm và an sinh xã hội rất tốt nên không có người ăn xin, người bán vé số dạo.

b. Linh Địa Đức Mẹ Naju.

Từ sáng sớm chúng tôi đến thăm vùng đất thánh Naju. Một chị giáo dân từng du học Mỹ làm việc ở văn phòng truyền giáo của giáo phận hướng dẫn và giới thiệu rất tận tình.

Naju là một thị trấn nhỏ với khoảng 90 ngàn dân thuộc miền Tây Nam bán đảo Triều Tiên, cách Thủ đô Seoul chừng 320 Kilô mét về phía nam. Naju thuộc Giáo phận Kwangju. Bộ phim truyền thuyết Jumong được quay tại Naju.

Chúng tôi vào viếng Thánh đường Hoa Hồng. Nơi đây có Thánh tượng Đức Mẹ ban ơn lành chảy huyết lệ liên tiếp từ ngày 30 tháng 6 năm 1985, đã gây chấn động cho cả nước.

Thánh tượng này là sở hữu của gia đình ông bà Julia Kim (Tên bà là Hong Sun Yoon và tên ông là Man Box Julio Kim), một gia đình Công Giáo công chức trong thành phố. Bà Julia chính là người được Đức Mẹ hiện ra để mời gọi mọi người cầu nguyện cho có sự an bình trên thế giới. Chúng tôi được xem phim tư liệu về thánh địa Naju. Sau đó đoàn chúng tôi tiếp tục hành trình lên núi thánh Đức Mẹ Naju. Giữa núi rừng bao la, ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ ban ơn tâm hồn lữ khách được nâng lên trong cuộc gặp gỡ thân tình với Mẹ. Chúng tôi chọn một cây thánh giá gỗ và lần lượt chia nhau vác bắt đầu đi 14 chặng đàng thánh giá. Những giáo dân Bắc 54 thuộc lòng kinh nguyện, sốt sắng trong mỗi chặng thương khó của Chúa. Kết thúc đàng thánh giá nơi thánh tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng tôi đọc kinh và hát ca sốt mến dâng tất cả cho trái tim Cực Thánh Chúa Giêsu.

Ban chiều trở lại thánh đường Hoa Hồng, chúng tôi dâng lễ. Cha linh hướng và cộng đoàn Nữ tu cùng tham dự thánh lễ. Dù không hiểu tiếng Việt nhưng họ cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện.

Sau thánh lễ, thật may mắn, bà Julia Kim từ bệnh viện đến thăm và nói chuyện với chúng tôi. Người phụ nữ đã bước vào tuổi 65, hơn 20 năm bị ung thư vẫn trẻ trung và thật phúc hậu. Trước khi nói chuyện bà tặng cho các linh mục chuỗi Mân Côi xin các linh mục đặt tay chúc lành, một cử chỉ thật khiêm tốn. Bà chào mừng đoàn Việt Nam từ một nơi rất xa đã đến hành hương nên dù đang điều trị tại bệnh viện bà vẫn cố gượng dậy để đến gặp gỡ. Bà cầu chúc mọi người sức khỏe và bình an trong ơn lành của Đức Mẹ. Bà nói về đức tin. Khi tin vào Chúa và Đức Mẹ chúng ta luôn có bình an. Nghe bà nói chuyện tôi nhận thấy bà có đức tin mạnh mẽ và đời sống cầu nguyện thân mật với Chúa với Đức Mẹ nên bà rất khiêm tốn và trọn niềm tín thác.

Julia sinh năm 1947 là con gái của một vị học giả cổ điển Trung hoa. Cụ thân sinh của Julia đã bị mất tích trong thời Nam Bắc phân tranh và cô em út cũng qua đời khi mới lên 2 tuổi. Julia sống với mẹ, một người mẹ can đảm và chuyên cần lam lũ nuôi con ăn học qua hết bậc trung học. Đến năm 25 tuổi (1972) cô kết hôn với Juliô, người con cả trong gia đình. Ông bà sinh được 4 cháu (Tên là Rosa, Tomas, Térèsa và Philip). Ông bà đã lãnh nhận được ơn đức tin và đã trở thành con Giáo Hội vào lễ Phục sinh 1981.

Sau lần trở lại, bà dành hết thì giờ vào việc phục vụ khách hàng (nơi cửa tiệm hớt tóc của bà), lo cơm nước cho chồng con và săn sóc gia đình.

Ông Lubino Park là khách hàng quen thuộc của bà. Ông bị chứng bệnh sưng phổi từ khi ông phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện Lao trị. Ông xin bà Julia cầu nguyện cho trước khi khám nghiệm giải phẫu. Vốn có tinh thần tông đồ, nên bà đã dâng một tuần bảy ngày với các việc hy sinh và kinh nguyện để cầu cho ông. Kết quả sau ba lần tái khám, bác sỹ cho hay ông đã khỏi bệnh cách lạ lùng. Để trả ơn bà Julia, ông xin tặng bà một món quà tôn giáo bày bán trong tiệm ảnh tượng của nhà thờ. Bà Julia chọn bức tượng Đức Mẹ ban ơn lành làm kỷ vật và cũng là để nhớ ơn Mẹ đã nhậm lời bà cầu nguyện.

Sau khi sinh cháu thứ tư, bà mắc một chứng bệnh ung thư. Trước cảnh tượng đau đớn năm chờ chết, bà đã nhiều lần ý "chấp nhận cái chết" với chồng con. Bà cũng cố gượng viết một chúc thư dành cho người sẽ làm vợ kế của chồng bà. Bà cũng được cha Sở xứ đạo Naju thường xuyên đến cho bà lãnh nhận Mình Thánh Chúa và khuyên nhủ ủi an trong khi chờ chết. Hôm ấy trong giấc ngủ mơ, bà thấy mình được Chúa chỉ dẫn đọc Thánh Kinh. Bà mở nhằm đoạn sách nói về người đàn bà loạn huyết lâu năm được Chúa chữa lành nhờ lòng tin. Sau giấc chiêm bao ấy, cũng nhờ lòng tin, bà được Chúa cho hoàn toàn bình phục, lại ban cho hết những gì bà khẩn cầu. Vì thế, nghĩ đến ơn Chúa ban, bà quyết định biến nhà mình thành nơi cư trú cho mọi kẻ nghèo hèn. Từ tháng 5, 1985 cơn bệnh của bà lại tái phát, nhưng Chúa vẫn cho bà đủ sức để làm việc phục vụ. Đức Mẹ đã tỏ cho Julia Kim biết về con đường thiêng liêng theo thánh Têrêsa thành Lisieur là cầu nguyện, sinh hoạt chung, chịu đựng hy sinh, làm việc đền tội dâng lên Thiên Chúa vì yêu mến và sống khiêm nhường hiệp ý với Mẹ thì rất có giá trị trong việc cứu rỗi các linh hồn.

Bà Julia kể: Sau khi đi thăm Kwangju, tôi đến Naju lúc 11g20 khuya ngày 30 tháng 6 năm 1985. Tôi đọc kinh Mân Côi xin cho kẻ có tội được ơn trở lại và cho những người đang đau khổ tại Kwangju. Đang khi đọc kinh, tôi ngạc nhiên thấy nước mắt chảy dài trên đôi mắt tượng Mẹ. Tôi hồ nghi không phải là nước mắt Mẹ nên tôi đánh thức chồng tôi đang ngủ gục, để nhìn cho rõ. Hai chúng tôi nhìn sát mắt Mẹ và chúng tôi xác định là nước mắt thật sự đã chảy ra từ khoé mắt Mẹ.

Sáng hôm sau tôi thức dậy từ 6 giờ và đi thẳng đến chân tượng Mẹ để quan sát lại. Tôi thấy những giọt nước Phép tôi vẩy lên tượng khi đêm đã khô sạch, nhưng vệt nước chảy từ khoé mắt Mẹ hôm qua, giờ vẫn còn chảy đều. Trước khi rời nhà đi làm, Juliô bảo tôi "đừng tiết lộ cho ai biết về hiện tượng lạ này" Anh lại bảo tôi "phải cầu nguyện sốt sáng hơn" nữa.

Vì thế, chẳng bao lâu sự kiện Đức Mẹ khóc tại Naju được loan đi khắp nơi và thiên hạ kéo đến đông nghẹt cả đường phố. Gia đình ông bà Juliô đã trở thành nơi cầu nguyện suốt đêm ngày.

Đức Tổng Giám Mục Gong Hee Victorius Yoon đã để tâm nghiên cứu và nghiệm xét những sự lạ xảy ra tại đây và đã công bố với các cha trong ngày tĩnh tâm của các Linh mục Giáo phận rằng: "Sự kiện Đức Mẹ khóc chảy nước mắt không thể chối được. Chúng tôi thường xuyên quan sát các sự kiện và diễn tiến của biến cố.... Và tôi cũng đang tiếp tục nghiên cứu các hậu quả...." (tháng 7 năm 1989).

Ngài cũng nói với cha Raymond Spies Chánh sở Xứ đạo Naju rằng: "Tôi hết sức tin tưởng vào hiện tượng Đức Mẹ chảy nước mắt tại Naju này. Tôi chấp nhận như là một sự có thật. Tôi chưa thấy nơi bà Julia nói điều gì trái với Tín lý của Giáo Hội. Xin cha cho tôi biết rõ tình hình bằng cách cung cấp cho tôi cả những thông điệp, nhật ký của bà Julia, các hình ảnh và băng hình nữa".

Đức Tổng Giám Mục Ivan Dias, Khâm Sứ Toà Thánh tại Nam Triều Tiên cũng công khai bày tỏ: "Tôi xin phó dâng sứ mạng Khâm Sai của tôi qua lời cầu nguyện của cha Raymond Spies, bà Julia và cũng cậy nhờ vào những sự đau khổ bí nhiệm của bà chịu nữa" (Ngày 22 tháng 12, 1991).

Chia tay cha Linh hướng, các Nữ tu, các thiện nguyện viên và bà Julia Kim trong lưu luyến, chúng tôi về thánh phố Kwanju nghĩ ngơi.

c.Thánh địa Chonjinam

Từ Kwanju chúng tôi đi hơn 3 giờ xe là đến vùng thánh địa Chonjinam trên núi cao.

Đức Ông Byon Ki – Young tiếp đón chúng tôi rất niềm nở và tặng sách “History of the Foundation of the Korean Catholic Church” do ngài biên soạn.

Chon-jin-am, một nơi gặp gỡ giữa Nho giáo, Phật giáo và Công Giáo, đã trở thành nơi khai sinh của Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc.

Vị Linh mục cai quản thánh địa chuyên đón đoàn hành hương đã đưa chúng tôi lên núi trước phần mộ của 5 linh mục đầu tiên và ngài giới thiệu đôi nét lịch sử hình thành Giáo Hội Hàn quốc.

Chon-jin-am có 5 ngôi mộ của 5 linh mục tử đạo khai sinh Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc. Các ngài đi tìm chân lý và gặp gỡ nơi Tin Mừng Chúa Giêsu rồi về nước các ngài truyền bá Tin Mừng. Họ đã xây dựng Giáo Hội Hàn Quốc mà không có sự giúp đỡ của các nhà truyền giáo nước ngoài.

Hiện nay, tại Chon-jin-am, đã đặt nền móng xây dựng vương cung thánh đường. Dự kiến sẽ kéo dài trong thời gian dài. Vương cung được mô phỏng theo phong cách lấy cảm hứng từ các tôn giáo khác nhau của người dân Hàn Quốc: Nho giáo, Phật giáo và Kitô giáo.(Xin đọc thêm tư liệu lịch sử tại web: chonjinam.org).

Đoàn chúng tôi đọc kinh cầu nguyện và xuống núi dâng lễ kính Thánh Antôn Pađôva trong nhà nguyện nhỏ dưới chân núi.

Ban chiều chúng tôi về thành phố Seoul ghé vào cửa hàng sâm nổi tiếng Ginseng Outlet, tham quan và mua quà lưu niệm.

d. Bảo tàng lịch sử Giáo Hội Hàn quốc và Thánh đường Juldusan

Seoul là thủ đô của Hàn Quốc, nằm bên Sông Hàn ở phía Tây Bắc Hàn Quốc. Thành phố cách biên giới với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên 50 km về phía Nam (Khu phi quân sự Triều Tiên). Với dân số hơn 10 triệu, Seoul là thành phố lớn nhất Hàn Quốc. Diện tích chỉ 605 km², đây là một trong những thành phố lớn có mật độ dân số cao nhất thế giới. Hệ thống giao thông quá hiện đại.

Seoul có một hệ thống tàu điện ngầm nối mỗi quận của thành phố và các khu vực xung quanh. Với lượng khánh hơn 8 triệu mỗi ngày, hệ thống tàu điện ngầm của Seoul được xếp vào một trong những hệ thống tàu điện ngầm bận rộn nhất trên thế giới. Tàu điện ngầm vùng đô thị Seoul có 12 tuyến phục vụ Seoul, Incheon, Gyeonggi, tây Gangwon, và bắc Chungnam.

Chúng tôi đến miền đất thánh thiêng giữa lòng thủ đô Seoul. Đó là bảo tàng lịch sử của Giáo Hội Hàn quốc. Một vị trí rất đẹp từ trên đồi cao nhìn xuống sông Hàn thơ mộng. Hàn Quốc tự hào với hàng loạt bảo tàng quốc gia và rất nhiều những bảo tàng chuyên đề dành cho những đối tượng riêng biệt. Các bảo tàng quốc gia trưng bày những hiện vật vô giá xuyên suốt chiều dài lịch sử 5000 năm của Hàn Quốc.

Chúng tôi dâng thánh lễ khởi đầu ngày mới trên miền đất có nhiều vị tử đạo vào năm 1866.

Một thiện nguyện viên nói tiếng Anh lưu loát hướng dẫn và thuyết minh cho chúng tôi về lịch sử Giáo Hội Hàn quốc, tham quan bảo tàng với nhiều chứng tích lịch sử Giáo Hội bị bách hại và đặc biệt là tư liệu hình ảnh Đức Gioan Phaolô II đến thăm Hàn quốc 2 lần (dịp phong thánh năm 1984 và dịp Đại hội Thánh Thể năm 1993). Nơi đây có dãy nhà trưng bày cách sống động những nhà tù và các dụng cụ tra tấn các vị tử đạo. Sau đó chúng tôi vào Thánh đường Juldusan viếng Chúa. Nhiều giáo dân Hàn đang lần chuỗi và cầu nguyện.

Sau khi chụp hình lưu niệm, chúng tôi chia tay các thiện nguyện viên với lời cám ơn chân thành.

Chỉ còn một buổi chiều tại Seoul, chúng tôi thăm lâu đài Kinh Bắc Cung – Gyeongbok Place, nơi ở và làm việc của các triều đại phong kiến Triều Tiên. Cung điện Kyongbuk - Cung điện ánh sáng và hạnh phúc. Cung điện được xây dựng vào năm 1394 dưới đời vua Chosun (1392 - 1910), đời vua cuối cùng của Hàn Quốc. Đây được xem là một công trình nghệ thuật nổi tiếng có phong cách và kiến trúc độc đáo và đẹp nhất Seoul. Cung điện là một tổng thể kiến trúc đồ sộ với những hồ sen thơm ngát, những ngôi chùa đá cổ kính và đặc biệt là những cung điện nguy nga, tráng lệ.

Chúng tôi tham quan Bảo tàng Dân tộc Quốc gia là bảo tàng quốc gia duy nhất về văn hóa dân gian, trưng bày khoảng 4.000 hiện vật về đời sống văn hóa. Tham quan Bảo tàng Cung điện Quốc gia trưng bày 40.000 hiện vật tái hiện lại lịch sử và văn hóa của triều đại Joseon. Sau đó đi chợ Dongdaemun mua sắm đặc sản xứ Hàn. Ban tối được nhâm nhi rượu Soju với gà hâm sâm, thưởng thức nhiều món kim chi quốc hồn quốc túy đất nước này.

Hôm sau kết thúc chuyến hành hương, chúng tôi lên đường sớm kịp chuyến bay từ Incheon về Sài gòn.

4. Thay lời kết

Hàn Quốc có diện tích là 99,720 cây số vuông, dân số 48,754,657 (tháng 7, 2011), Thu nhập bình quân đầu người là 30,000 Mỹ kim (năm 2010), tổng sản lượng quốc nội (GDP) là $1.459 trillion (2010) (trillion là một ngàn tỉ); xếp hàng thứ 13 trên thế giới. (theo tài liệu của CIA World Factbook).

Hiện nay Giáo Hội Hàn Quốc đang đẩy mạnh chương trình học hỏi Lời Chúa để truyền giáo cho xã hội đang thay đổi nhanh chóng ngày nay. Hy vọng chương trình "Rao giảng Tin Mừng hai mươi hai mươi", sẽ gia tăng tín hữu lên 10 triệu vào năm 2020.

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự ngày Giới Trẻ Á châu và lễ phong hiển Thánh cho 124 vị tử đạo Đại Hàn.

Linh Mục Rossi De Gasperis, SJ viết: Trong lịch sử hiện đại mặc dù chiến tranh lạnh đã chấm dứt trên thế giới, nhưng Đại Hàn vẫn còn là vùng ghi đậm dấu vết hậu qủa của nó với chiến tranh Triều tiên và sự kiện đất nước chia đôi lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới. Ngày 15 tháng 8 năm 1948 Cộng Hòa Nam Hàn khai sinh, trong khi ngày mùng 9 tháng 9 cùng năm, Bắc Hàn được tuyên bố là Cộng hòa dân chủ nhân dân Bắc Hàn. Ngày 25 tháng 5 năm 1950 Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn. Chiến tranh mau chóng trở thành toàn diện và bị quốc tế hóa với sự tham dự của Hoa Kỳ trợ giúp Nam Hàn, và Trung Quốc yểm trợ Bắc Hàn. Ba năm nội chiến đã khiến cho khoảng 400 ngàn người dân Nam Hàn bị giết, 55.000 lính Mỹ thiệt mạng và khoảng 1 triệu người dân Bắc Hàn và Trung quốc chết và bị thương. Ngày 27 tháng 7 năm 1953 Liên Hiệp Quốc chấp nhận nghị quyết chia đôi Triều Tiên lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới và là vùng phi quân sự. Nó là “bức tường Berlin của Á châu” ngăn cách và phân rẽ hàng trăm ngàn gia đình “người bắc kẻ nam”.

Trong hơn nửa thế kỷ qua chế độ cộng sản vô thần Băc Hàn đã tiêu diệt tôn giáo. Giáo Hội Công Giáo không còn linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân nữa. Tuy nhiên, Giáo Hội Nam Hàn đã không bao giờ coi bức tường ngăn cách hiện hữu, và đã liên tục dấn thân hoạt động cho việc thống nhất đất nước, qua các công tác bác ái cứu trợ nhân dân Bắc Hàn, đặc biệt là cứu đói.

Hội Đồng Giám Mục Nam Hàn đã thành lập một Ủy ban hòa giải nhắm nhiều mục đích khác nhau. Cha Timoteo Lee Eun-Hyung thành phần Ủy ban cho biết ngoài việc rao truyền Tin Mừng cho Bắc Hàn là nơi không có tự do tôn giáo, Ủy ban tìm mọi cách để trao đổi tin tức giữa hai miền, cũng như chia sẻ tình yêu thương liên đới, trong đó có việc trợ giúp các anh chị em Bắc Hàn định cư tại Nam Hàn. Ngoài ra còn có việc cầu nguyện chung. Gần biên giới có vài giáo xứ, trong đó vào mỗi ngày thứ tư tín hữu tụ tập nhau cầu nguyện cho người dân Bắc Hàn.

Hồi tháng 5 vừa qua ĐHY Andrew Yeom Soo-Jung, TGM Seoul đã sang thăm vùng kỹ nghệ Kaesong nằm trên đất Bắc Hàn. Đây là vùng có các hãng xưởng kỹ nghệ tạo công ăn việc làm cho 55.000 dân Bắc Hàn và là vùng đầu tư rất có triển vọng trong tương ái, đặc biệt khi hai miền Nam Bắc Hàn thống nhất với nhau. Hiện nay Nam Hàn là quốc gia phát triển kỹ nghệ đứng hàng thứ 11 trên thế giới. Nếu từ đây cho tới năm 2015 hai miền Bắc và Nam Hàn có thể thống nhất, thì với 70 triệu dân Đại Hàn vào năm 2050 Đại Hàn sẽ cỏ thể trở thành cường quốc kỹ nghệ thứ 8, vượt cả Đức và Anh quốc và với lợi tức đầu người lớn hơn của cả Nhật Bản. Vì thế chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô vào trung tuần tháng 8 này sẽ có thể góp phần mở ra các viễn tượng mới đầy hy vọng cho cả hai miền Bắc và Nam Hàn. (SD 4-8-2014. R.Vatican).

Đây là bài phỏng vấn linh mục Hur Young-Up phát ngôn viên tổng giáo phận Seoul.

Hỏi: Thưa cha, cha có cảm nghĩ gì về chuyến công du sắp tới của ĐTC tại Nam Hàn?

Đáp: Giáo Hội Đại Hàn là Giáo Hội đầu tiện tại Á châu được Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm. Qua biến cố ý nghĩa này Giáo Hội Đại Hàn trở thành cánh cửa rao giảng Tin Mừng tại Á chậu. Đức Thánh Cha đến Nam Hàn như là một chủ chăn để gặp gỡ dân chúng và gặp gỡ giới trẻ Á châu. Chúng ta có thể nói rằng Đại Hàn là quốc gia biểu tượng cho các nhu cầu của hòa bình và hòa giải. Vì thế, chuyên viếng thăm của Đức Thánh Cha có thể mang lại một sứ điệp quan trọng của niềm hy vọng và hoa bình cho đất nước chúng tôi.

Hỏi: Người dân Đại Hàn nghĩ gì về Đức Thánh Cha Phanxicô, thưa cha?

Đáp: Không phải chỉ có các tín hữu công giao mà tất cả mọi người dân Đại Hàn đều thích Đức Thánh Cha Phanxicô. Chúng tôi qúy trọng các kiểu cách thân thiện và sự đơn sơ của ngài, chúng tôi đanh giá cao kiểu ngài lo lắng cho cho người mghèo và những người bị gạt bỏ bên lề xã hội. Toàn dân Đại Hàn nóng lòng chờ được gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hỏi: Việc chuẩn bị đón tiếp Đức Thánh Cha tiến hành như thế nào thưa cha?

Đáp: Cùng với Giáo Hội chính quyền của chúng tội cũng ủng hộ việc chuẩn bị cho chuyên công du mục vụ này của Đức Thánh Cha Phanxicô. Vì thế tôi tin rằng các chuẩn bị bên ngoài cũng như bên trong đều quan trọng. Chuyến viếng thăm của Đức Thnah Cha không chỉ là một dịp đặc biệt cho Giáo Hội, mà cũng là một cơ may quan trọng cho các cuộc cải cách nội bộ và công tác rao truyền Tin Mừng nữa.

Hỏi: Thưa cha, cách đây 25 năm, hồi năm 1989, Đức Gioan Phaolô II đã viếng thăm Nam Hàn lần thứ hai. Đâu là các hoa trái của chuyến viếng thăm đó?

Đáp: Chuyến viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II đã đem lại các kết qủa tích cực cho Giáo Hội Đại Hàn. Giáo Hội đã được biết tới nhiều hơn trong xã hội và đã gây được ấn tượng tốt nơi người dân.

Hỏi: Tiến trình tục hóa liện quan tới Nam Hàn cũng giống như tại tất cả mọi quốc gia kỹ nghệ. Giáo Hội Nam Hàn đã trả lời ra sao?

Đáp: Ngày nay đất nước chúng tôi bị ảnh hưởng nặng nề của ý thức hệ chủ thuyết duy vật, cá nhân chủ nghĩa, tục hóa, và vô cảm tôn giáo. Bên trong Giáo Hội cũng có cùng vấn đề đó. Vì thế thật là điều quan trọng, khi Giáo Hội tìm ra các con đường mới và các phương thức mới để đương đầu với các vấn đề như thế. Tôi tin rằng đó là một nhiệm vụ quan trọng và là một mục tiêu đói với việc rao giảng Tin Mừng.

Hỏi: Các tín hữu Nam Hàn có sẵn sàng đương đầu với thách đố của công tác rao truyền Tin Mừng mới hay không?

Đáp: Tái truyền giảng Tin Mừng là một phương pháp mới giúp chúng ta canh tân đức tin của mình trong thế giới thay đổi nhanh chóng này. Thật là quan trọng việc chính Giáo Hội thay đổi trước để đi ra hướng về thế giới, và phổ biến Tin Mừng qua các phương tiện mới và với các kết qủa mới. Con đường Giáo Hội Đại Hàn phải đi còn dài, nhưng chúng tôi đang làm tốt chừng nào có thể để biến đổi việc rao giảng Tin Mừng thành hành động.

Hỏi: Chúng ta nhớ là Tin Mừng đã được phổ biến tại Đại Hàn năm 1700, có phải thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, đạo Công Giáo đã được đem vào trong đất nước chúng tôi sau khi các sách Công Giáo được dịch ra tiếng Đại Hàn, và các học sinh đại hàn bắt đầu học. Tiếp theo đó các tín hữu thành lập các cộng đoàn Công Giáo và rao giảng đức tin của họ cho các người khác. Như thế điều đặc biệt nhất của Giáo Hội Đại Hàn là nó đã bắt đầu qua các giáo dân, chứ không qua các thừa sai. Giáo Hội Đại Hàn đã chịu nhiều bách hại ngay lập tức. Nhưng cha ông chúng tôi đã duy trì được đức tin của họ, và tiếp tục phổ biến tin vui của Chúa Giêsu Kitô.

Hỏi: Thưa cha, đâu là dấn thân của Giáo Hội cho việc thống nhất đất nước?

Đáp: Đây là sứ mệnh của Giáo Hội Đại Hàn: làm việc cho hòa giải và thống nhất đất nước chúng tôi. Tôi tin rằng việc yểm trợ nhân đạo và các cuộc đối thoại chân thành là điều cần thiết nhất. Giáo Hội đã tiếp tục yểm trợ nhân đạo cả khi tương quan giữa Bắc và Nam Hàn căng thẳng.

Hỏi: Liên quan tới việc tái thống nhất đất nước việc đối thoại liên tôn có tầm quan trọng nào giúp đạt mục đích này không?

Đáp: Đối thoại liên tôn là một vấn đề quan trọng, nhưng không liên quan gì tới các mục tiêu chính trị. Tôi nghĩ rằng thật là một điều hay đẹp, khi con người thuộc nhiều tôn giáo khác nhau hiểu biết nhau và trân trọng vẻ đẹp mà mội tôn giáo đã đem đến cho con người.(RG 16-7-2014; vietvatican.net).

Lm Giuse Nguyễn Hữu An
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tuần chầu lượt giáo xứ Thinh Lạc giáo phận Vinh
Paul Văn Hạnh
09:22 10/08/2014
Tuần chầu lượt giáo xứ Thinh Lạc:

Vững tin vào Thiên Chúa nhờ ấn tín Chúa Thánh Thần

Sáng ngày 10/8, nhằm Chúa nhật XIX Thường niên, giáo xứ Thịnh Lạc hân hoan đón mừng Đức giám mục Giáo phận Phaolô Nguyễn Thái Hợp về dâng thánh lễ cao điểm tuần chầu đền tạ. Đồng tế với Ngài có cha Quản hạt, quý cha trong cũng như ngoài giáo hạt Ngàn Sâu. Với bà con giáo dân nơi đây, niềm vui ấy như được nhân lên gấp bội bởi trong thánh lễ, 174 con em trong giáo xứ đã được lãnh nhận ấn tín Chúa Thánh Thần qua bí tích thêm sức do Đức giám mục Phaolô chủ sự.

Xem Hình

7 năm 3 tháng -Những cột móc lịch sử

Chầu lượt năm nay cũng là thời điểm để bà con giáo dân giáo xứ miền sơn cước Thịnh Lạc cùng nhau nhìn lại chặng đường với biết bao biến cố, sự kiện cũng như những thăng trầm trong đời sống Đức tin của mỗi Ki-tô hữu nơi đây. Tính từ thời điểm Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên kí quyết định thành lập giáo xứ Thịnh Lạc đến nay đã là 7 năm 3 tháng tròn trĩnh. Con số ấy chẳng đáng đưa ra để so sánh với lịch sử rất nhiều giáo xứ trong giáo phận. Thế nhưng, với cộng đoàn tín hữu nơi đây thì quảng thời gian ngắn ngủi ấy là cả một quá trình dai dẳng để họ xây dựng cơ sở vật chất trong giáo xứ và đặc biệt là xây dựng đời sống Đức tin cũng như nếp sống người Ki-tô hữu ngay giữa đời thường.

Sau những tháng năm tháng kiêm nhiệm của linh mục quản xứ mẹ Làng Truông, ngày 21/8/2008, Bề trên Giáo phận quyết định bổ nhiệm tân linh mục Giuse Phan Đình Trung về coi sóc giáo xứ Thịnh Lạc. Đây được coi như là biến cố để lịch sử giáo xứ sang trang.

Là một linh mục trẻ tài năng và nhiệt thành cùng sự cộng tác đắc lực của hội đồng Mục vụ cũng như tinh thần đoàn kết của bà con tín hữu nơi đây, cha Giuse đã khiến cho hạt giống Tin mừng càng ngày càng triển nở và thực sự đi vào đời sống của mọi người.

Ngày 29/5/2012, niềm khát khao có ngôi thánh đường mới của cha Giuse Phan Đình Trung và bà con giáo dân giáo xứ Thịnh Lạc bắt đầu trở thành hiện thực khi Đức giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp chủ sự thánh lễ đặt viên đá góc tường xây dựng ngôi thánh đường mới. Với sự nỗ lực của cha Giuse cũng như tấm lòng quảng đại của những tấm lòng hảo tâm trong cũng như ngoài giáo xứ, đến thời điểm này, ngôi thánh đường mới đã cơ bản hoàn thành 70% khối lượng công việc để tiến tới ngày khánh thành và đưa vào sử dụng.

“Ra đi” trong Chúa Thánh Thần

Tuần chầu lượt của giáo xứ Thịnh Lạc được khai mạc bằng thánh lễ đồng tế của quý Cha trong giáo hạt Ngàn Sâu vào tối thứ 5. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng của Cha quản xứ cũng như hội đồng Mục vụ giáo xứ, tuần chầu lượt năm nay thật sự là “tuần Đại phục” của bà con giáo dân nơi đây.

Mở đầu thánh lễ cao điểm tuần chầu đền tạ và ban bí tích Thêm Sức, Đức giám mục Phaolô đã mời gọi cộng đoàn phụng vụ hiệp lời cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần cùng đồng hành và biến đổi các em, đặc biệt xin bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần hoạt động tích cực trong mỗi các em. Nhờ đó, các em sẽ bước sang một giai đoạn mới của người Ki-tô hữu trong Thánh Thần ngõ hầu được trở nên những người con gương mẫu của Chúa.

Trong phần quãng diễn Lời Chúa, Đức cha Phaolô nhắc nhở mỗi người Ki-tô hữu chúng ta phải biết tin tưởng, phó thác tất cả mọi sự trong tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa. Bằng những câu dẫn xác đáng trong Kinh Thánh, Đức cha đã nhấn mạnh sự yếu đuối, mỏng dòn của tất cả chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Để rồi, chỉ vì chạy theo vật chất phù phiếm, chạy theo đam mê hưởng thụ của thế gian mà chúng ta đã đánh mất lòng tin vào Thiên Chúa. Ngài nhấn mạnh: “Con thuyền Giáo hội chúng ta đang đi trên mặt biển, có lúc trời yên biển lặng nhưng mà có lúc sóng nổi lên chập chờn. Ngay cả trong cuộc đời, trong xã hội đất nước chúng ta cũng vậy. Trong những thập niên vừa qua, chúng ta thấy rằng, thân phận con người không có gì là muôn đời chắc chắn, cũng không có gì là vạn đại Thiên thu. Có những người hôm nay là triệu phú, qua một đêm đã biến thành kẻ lang thang không nhà. Cũng có những người hôm nay là nhà độc tài cai trị thét ra lửa, mấy ngày sau đã phải chui ống cống, chịu chết một cách nhục nhã. Tất cả đều là phận người, tất cả đều là cát bụi”. Với 174 em lãnh nhận ấn tín Chúa Thánh Thần, Đức cha Phaolô mong muốn tâm hồn các em thật sự được Chúa Thánh Thần biến đổi để được lớn lên trong truyền thống của Cha ông chúng ta mà giữ vững Đức tin bằng “Trí” và “Tâm” của mình, để từ đó, các em có thể “ra đi” bằng chính cuộc sống của mình với đồng loại. “Trong nền kinh tế tri thức này, Cha mong muốn các con phải biết lợi dụng cơ hội, lợi dụng những gì Cha mẹ dành cho các con mà gắng sức học hành, để cuộc đời các con trở thành người có ích cho xã hội, đặc biệt là Giáo hội chúng ta. Các con cũng phải biết nâng cái Tâm của mình lên để Chúa Thánh Thần có thể biến đổi các con để các con trở thành những môn đệ của Chúa Giêsu mà yêu thương đồng loại theo giới răn của Người”.

Paul Văn Hạnh
 
Đại hội 35 năm ngày cám ơn ủy ban Cap Anamur cứu người vượt biển tỵ nạn cộng sản
Thanh Sơn
21:32 10/08/2014
ĐẠI HỘI 35 NĂM NGÀY CÁM ƠN ỦY BAN CAP ANAMUR CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN

Ngày hội trùng dương rộn tiếng cười

Tim ta cảm tạ nở hoa tươi

Capanamur đầy nhân ái

Từ cảng Hamburg đi cứu người.


Vâng! từ cảng Hamburg này vào ngày 09.08.1979 con thuyền nhân ái Cap Anamur do ông bà Dr. Neudeck khởi xướng rời bến để lên đường tới hôm nay là ngày 09.08.2014 vừa đúng 35 năm.

Xem Hình

Hôm nay Cộng đồng người Việt tị nạn toàn nước Đức nói chung cũng như nhiều người đã đi định cư ở những quốc gia trên thế giới này, đã trở về đây mừng ngày kỷ niệm đúng 35 năm để nói lên lời tri ân từ trái tim, cám ơn Dân tộc Đức nói chung và đặc biệt mừng vị đại ân nhân 75 tuổi nói riêng là ông Dr. Neudeck.

Ông là hình ảnh của người Samaria nhân hậu xưa. Không chỉ riêng với 11.300 người Việt Nam đã phải rời bỏ quê cha đất tổ ra đi tìm tự do, vì không thể sống nổi dưới chế độ cộng sản cai trị hà khắc vào bậc nhất thế giới này. Những mạng người đang trôi nổi, lênh đênh trên biển cả, trên những con thuyền mong manh, thô sơ, mà phần chết rất nguy hiểm đang chờ chực phía trước họ. Ông cũng còn là người luôn mở rộng trái tim yêu thương đồng loại tới tất cả những nơi con người đang bị bạc đãi khắp nơi trên thế giới nữa. Vâng ! ông chính là người Samaria nhân hậu.

Hàng ngàn người đến từ khắp muôn phương đã hiện diện nơi đây để tri ân, để đem tình nhân ái đến với nhau và để cùng nhau đóng góp một chút gì có thể để những chương trình cứu giúp người khốn khổ của ông và ủy ban được tiếp tục.

Trong buổi lễ kỷ niệm hôm nay để tri ân ông bà Dr. Neudeck tôi thấy có sự hiện diện của những quan khách quan trọng:

Đức tổng giám mục Hamburg

Ông Philip Roesler nguyên phó thủ tướng Đức và chủ tịch đảng FPD.

Ông Franz Müntefering nguyên chủ tịch đảng SPD.

Thị trưởng thành phố Hamburg v. v...

Bên phía cộng đồng tị nạn cộng sản tôi thấy có:

Đại diện Asia có nhạc sĩ MC Nam Lộc

Ông GB. phùng Khải Tuấn chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo và BCH.

Bs.Mỹ Lâm chủ tịch Liên Hội NVTNcs. tại CHLB Đức và BCH.

Cùng rất nhiều hội đoàn mà tôi không thể nhớ cũng như biết hết được.

Những chức sắc phát biểu có Đức TGM. Hamburg.

Những chính trị gia bên chính quyền thì có thị trưởng thành phố Hamburg.

Cựu chủ tịch đảng SPD. Franz Müntefering

Cựu phó thủ tướng kiêm chủ tịch đảng FDP. Phillip Roesler v. v...

Đa số đều nói về tình nhân đạo với nhau cứu người là quan trọng nhất, Vì Thiên Chúa sinh vạn vật nhưng con người vẫn là qúy nhất. Chúng ta đều là con cái của Chúa không thể sống với nhau trong một xã hội mà cai trị nhau bằng sự ác nghiệt được, mà luôn phải mở rộng tấm lòng bác ái để giúp đỡ nhau, hãy đưa bàn tay ra để nắm lấy tay những con người đang gặp hoạn nạn vì đây không những chỉ vì tình thương không mà còn là một trách nhiệm mà Thiên Chúa đã nói cho chúng ta như vậy.

Đa số từ Đức Giam Mục tới các chính trị gia đều rất khen ngợi sự hội nhập tốt đẹp và sự thông minh của những con cái người Việt thuyền nhân trong những trường học với những hạng cao. Rất nhiều con cái của thuyền nhận nay đã ra trường trở thành bác sĩ kỹ sư tiễn sĩ giáo sư, giáo viên v.v... rất thành công trong việc học vấn và công ăn việc là cần cù và chăm chỉ.

Hôm nay, trong bài phát biểu và chia sẻ ông Dr Neudeck có nói một câu mở đầu bài phát biều ràng: "Tôi là người Việt Nam" Ich bin ein Vietnammese" cả công trường cùng vỗ tay.

Ông cũng chia sẽ tóm tắt lại đoạn đường chông gai 35 năm về trước lúc đó ông 40 tuổi đời sau bao nhiêu trăn trở trong lòng với những hình ảnh xảy ra với người Việt Nam trên biển đông, cuối cùng ông quyết định liều để thuê con tàu Cap Anamur ra khơi cứu người Việt nam tị nan trên biết đông, mặc dù chưa biết khi cứu được họ rồi sẽ ra sao? Khi đó chính phủ Đức thì chưa có chương trình nhận những người Việt Nam chúng ta. Nhưng mà cứu người là chính nên cứ lên đường cứu người cái đã rồi mọi sự tiếp theo sẽ tính sau. vì tình yêu thương đồng loại mạnh hơn tất cả những cái khác. Ông cũng nhắc đến một người mà luôn bênh đỡ những người tị nạn chúng ta và cũng có mặt hôm nay đó là kí giả truyền hình Franz Alt.

Đây là những vị ân nhân của chúng ta vì lúc bây giờ mà không có những bài báo của ông là người rất có uy tín và ông đã đưa lên truyền hình kêu gọi người dân Đức, và từ đây nhân dân Đức với biết đến và giúp đỡ tài chánh để con tàu có tiền và thực phẩm thuốc men để đi cứu chúng ta nhiều hơn.

Ông Franz Alt cũng có bài phát biểu với ngày đại hội hôm nay.

Chương trình diễn ra thật tốt đẹp vui vẻ với bài phát biểu cuối cùng của một chàng trai Việt nam 26 tuổi sinh ra và lớn lên ở Đức, cũng là chính trị gia của đảng FDP ở Hamburg.

Giọng nói mạch lạc rõ ràng. Chàng cũng nói cùng tuổi trẻ: chúng ta cần giữ cả hai nền văn hóa Việt-Đức. Tôi mong rằng có nhiều người Việt Nam tuổi trẻ theo về ngành chính trị để sau này giúp cho đất nuớc Việt Nam.

Bài hát Cap Anamur đã vang lên trên cảng Hamburg ngày hôm nay thật cảm động nóim lên tình người bác ái yêu thương, nhật là cái tên Cap Anamur không bao giờ phai mờ đi trong trái tim tôi và những người tị nạn cộng sản Việt Nam. Buổi lễ chấn dứt vào lúc 16 giờ thất tốt đẹp. Ban tổ chức mời tất cả cùng về hội trường Đại học quân sự Hamburg chung vui đêm văn nghệ mừng 35 năm ngày đại hội Cap Anamur.

Vì buổi lễ ngoài cảng Hamburg không tiện cũng như đủ thời gian để phát biểu nên ban tổ chức trong buổi văn nghệ có mời một số quan khách lên phát biểu như MC. nhạc sĩ Nam lộc v.v. đa số đều có nhận định gần giống nhau về ngày lễ thất ý nghĩa và cảm động. Nam Lộc cũng hát tặng đại hội nhạc phẩm để đời của ông viết lúc mới sang Hoa Kỳ mà rất nhiều người đã xúc động khi nghe tiếng hát ông cất lên bài " Sài Gòn vĩnh Biệt". Ông viết bài nhạc này với đầy cảm xúc năm 1975 khi cộng sản mới chiếm miền nam Việt Nam. Cảm tưởng mất quê hương.

Rất nhiều tiết mục đặc sắc trong chương trình văn nghệ đêm nay. Ca đoàn Hamburg đã đóng góp rất nhiều những hơp ca thật hay và ý nghĩa. Ban văn Võ Điểm Sáng đóng góp những màn Võ thuật Vovinam và những mà vũ tuyệt vời. Và bao nhiêu những danh ca đến từ khắp vùng đất nước Đức.

Gần 12 giờ đêm mà chương trình văn nghệ vẫn còn qúa hấp dẫn, một đêm văn nghệ thật phong phú và hay. Khán giả thì rất đông nên những gian hàng ăn đã bán hết sạch. Tôi ra lái xe về đến nhà là gần 3 giờ sáng hôm nay ngồi viết vội lại những gì mình nhớ được mà cặp mắt cứ muốn sụp xuống nên chắc chắn có nhiều thiếu sót mong ban tổ chức và qúy vị độc giả thông cảm.

Dưới đây là những số tài khoản vẫn đang cần sự đóng góp của tất cả những ai có lòng nhân ái yêu thương để ủy ban có điều kiện đi tiếp con đường bác ái yêu thương Cứu giúp người cùng khốn.

Thanh Sơn 10.08.2014
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Người Công Giáo vào đảng Cộng Sản được không?
Gioan Lê Quang Vinh
10:02 10/08/2014
NGƯỜI Công Giáo VÀO ĐẢNG CỘNG SẢN?

Khi nghe tin hội cựu chủng sinh một giáo phận nọ có anh đại diện là một đảng viên đảng cộng sản, thì tôi thấy cũng bình thường, vì đó là quyền tự do của họ. Thế nhưng khi tôi suy nghĩ lại và khi trao đổi với các anh em, thì phải nói thật là nhiều người thấy băn khoăn, lo lắng.

Chuyện tham gia một đảng phái nào là quyền chính trị của mỗi công dân. Nhưng khi anh là người Công Giáo mà gia nhập đảng cộng sản, một đảng phủ nhận Thiên Chúa, thì có hai khả năng: một là anh không còn tin Chúa nữa nhưng vẫn cố gắng chứng minh mình theo Đạo vì lý do gì đó, hai là anh đánh lừa tổ chức đảng. Cả hai đều không tốt.

Có một bác sĩ cũng là cựu chủng sinh, hiện là phó giám đốc một bệnh viện lớn. Khi anh được đề nghị gia nhập đảng để làm phó khoa Nội của bệnh viện, anh từ chối thẳng và nói: “Tôi là người Công Giáo, không vào đảng được. Nếu phải vào đảng để lên chức thì tôi thà bỏ bệnh viện về mở phòng mạch riêng”. Cuối cùng họ để anh làm phó khoa. Sau đó họ bổ nhiệm anh làm trưởng khoa Nội và rồi phó giám đốc bệnh viện cũng với lời đề nghị đó và anh cũng trả lời y như thế.

Mới đây một bác sĩ khác ở Đồng nai cũng được đề cử làm trưởng trạm xá với điều kiện vô đảng cộng sản, anh cũng từ chối và nói rõ: “Tôi là người Công Giáo”.

Một người Công Giáo có khả năng và sống trung thực, không thể vào đảng cộng sản, vì hai ý thức hệ và niềm tin trái ngược nhau. Chúa Giêsu nói: “Không ai làm tôi hai chủ”. Nhiều người Công Giáo vào đảng và nói: “Mình giả vờ thế chứ có toàn tâm toàn ý với đảng đâu?” Nói thế là anh tự chối bỏ đức tin dù là giả vờ, và khi anh đánh lừa tổ chức đảng, anh cũng không phải là người tốt.

Hiện tại Giáo Hội vì nhiều lý do chưa có văn bản chính thức về vấn đề này và các vị chủ chăn cũng tế nhị ít khi góp ý rõ ràng. Nhưng Đức Giáo Hoàng Piô XII vào năm 1949 đã ra Sắc Luật tuyên bố phạt tuyệt thông cho tất cả những người Công Giáo nào hợp tác với các tổ chức Cộng Sản. Sắc Luật nghiêm khắc này chỉ là để thi hành một Thông Điệp đã có từ năm 1937, với tên là "Divini Redemptoris" (Của Đấng Cứu Thế Thần Linh).Nên nhớ văn bản này vẫn còn hiệu lực và cho đến nay không có bất cứ văn bản nào của Giáo Hội phủ nhận hay giải thích khác về điều này.

Cho dù Giáo Hội không nói rõ đi nữa, thì cứ xét về đạo lý, người Công Giáo không thể tham gia bất cứ tổ chức nào phủ nhận hay chống đối Thiên Chúa, dù là giả vờ để kiếm địa vị, bảo vệ chỗ đứng như anh cựu chủng sinh vừa được nói đến.

Chúng ta thử lấy một ví dụ. Cha mẹ chúng ta là người tốt. Nhưng có một nhóm chống đối, lên án cha mẹ chúng ta, mời chúng ta tham gia vào nhóm đó. Nếu chúng ta là con có hiếu với cha mẹ, chúng ta có nên tham gia không? Câu trả lời có lẽ ai cũng biết rõ rồi.

Là người công dân trong một đất nước, người ta có thể đóng góp xây dựng đất nước bằng nhiều cách, nhưng nếu cố gắng bảo vệ công việc mình làm bằng những cách nịnh bợ, tâng bốc thì chỉ làm hại cho chính mình, gây gương xấu cho nhiều người và có tội với đảng cộng sản vì dám đánh lừa họ.

Gioan Lê Quang Vinh
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Nhân dịp Đức Phanxicô thăm Đại Hàn, tìm hiểu Lược Sử Giáo Hội Đại Hàn (1) Hàn
Vũ Văn An
01:45 10/08/2014
Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ tới Đại Hàn nhân dịp Ngày Giới Trẻ Á Châu lần thứ sáu tại giáo phận Daejeon từ 14 tới 18 tháng này. Đây là lần thứ ba, vị đứng đầu Giáo Hội Công Giáo tới đây (lần thứ nhất năm 1984 và lần thứ hai năm 1989 là của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II). Một vinh dự chỉ thua trưởng nữ Giáo Hội Á Đông là Phi Luật Tân, và hơn hẳn Giáo Hội Việt Nam. Lãnh nhận đức tin sau Việt Nam và tất nhiên bắt đầu bị bách hại chậm hơn Giáo Hội Việt Nam, nhưng các vị tử đạo Đại Hàn đã được phong hiển thánh sớm hơn các vị tử đạo Việt Nam, tức vào năm 1984, và được phong ngay trên quê hương, nơi các vị đổ máu đào minh chứng lòng trung thành với sứ điệp Tin Mừng của mình, một sứ điệp các vị mới vừa tiếp nhận không lâu.

Muốn hiểu được cái vinh dự lớn lao ấy, thiển nghĩ không thể không xem qua lược sử của Giáo Hội sinh động Đại Hàn.

I. Sự phát triển của Giáo Hội Công Giáo sơ khai tại Đại Hàn



1. Thiết lập Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn

Yi Seung-hun, người Đại Hàn đầu tiên được rửa tội tại Bắc Kinh, lấy tên là Phêrô. Từ Trung Hoa trở về, ông rửa tội cho Yi Byeok vào tháng Chín năm 1784 và thiết lập nên cộng đồng Kitô Giáo. Chính Yi Byeok đã khuyên Yi Seung-hun tiếp xúc với các nhà truyền giáo Tây Phương tại Bắc Kinh và học hỏi tín lý Công Giáo. Chính vì thế, Yi Byeok được coi là khởi điểm của Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn.

Sau khi rửa tội cho Yi Byeok, Yi Seung-hun rửa tội cho Gwon Il-sin thuộc dòng dõi một gia đình bác học hàng đầu vào lúc đó và là người nghiên cứu Đạo Công Giáo qua sách vở Tây Phương bằng tiếng Trung Hoa. Ba người Công Giáo đầu tiên của Đại Hàn này, tức Phêrô Yi Seung-hun, Gioan Baotixita YI Byeok và Phanxicô Xaviê Kwon Il-sin, được gọi là Các Cha Già Sáng Lập ra Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn. Ba “thánh Tông Đồ” này loan truyền Đạo Công Giáo cho cả các nhà trí thức của giai cấp quí tộc lẫn các giai cấp trung và hạ lưu.

Cộng đồng Kitô Giáo phát triển nhanh chóng nhờ sự tận tụy nồng cháy của họ đối với việc truyền giáo. Họ dịch các sách tín lý Công Giáo từ tiếng Trung Hoa sang tiếng Đại Hàn cho tín hữu sử dụng. Trong giai đoạn phát triển Giáo Hội dưới sự lãnh đạo của giáo dân này, họ đã tự chọn người làm linh mục và bắt đầu cử hành Thánh Lễ và ban các bí tích. Thời này vốn được mệnh danh là “ thời ngụy phẩm trật” (pseudo-hierarchy) của Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn. Nó được khởi diễn do ý ngay lành của các nhà lãnh đạo chỉ biết bí tích và phụng vụ qua sách vở họ nghiên cứu. Họ làm thế cũng để thoả mãn nhu cầu của một cộng đồng đang phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, cũng do sự dốt nát của họ về tín lý Công Giáo.

Chẳng bao lâu sau đó, họ bắt đầu nghi nghờ tính hợp pháp trong việc thực hành và ban các bí tích của họ. Cuối cùng, họ tham khảo Giám Mục Bắc Kinh để có được sự giải thích chân chính đối với việc thực hành của họ. Và họ ngưng việc thực hành đó ngay lập tức khi hiểu ra rằng nó bất hợp pháp và họ yêu cầu gửi các linh mục qua Đại Hàn.

2. Phát triển Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn

Khi nhận được lá thư của người Công Giáo Đại Hàn, Giám Mục Bắc Kinh rất có ấn tượng trước việc chính người Đại Hàn tự thành lập một cộng đoàn tín hữu để thực hành đức tin của mình. Để trả lời câu hỏi liên quan tới sáng kiến ban các bí tích của họ, ngài cho biết điều ấy không hợp pháp nhưng không tra vấn chi vì họ làm thế hoàn toàn vì không biết và do ý ngay lành. Rồi ngài hứa sẽ gửi một nhà truyền giáo tới Đại Hàn mà lúc đó đã có tới 4,000 tín hữu nhưng chưa có một linh mục nào.

Do biến cố đó, Đại Hàn được đặt dưới thẩm quyền tài phán của Giám Mục Bắc Kinh và Cha James Zhou Wen-mo, một linh mục Trung Hoa của Giáo Phận Bắc Kinh đã được phái qua Đại Hàn vào năm 1794. Sau khi tới đó, Cha Zhou phải giảng dạy Tin Mừng một cách bí mật với sự trợ giúp và che chở của tín hữu Đại Hàn. Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn, vào lúc đó, được sự trợ giúp của người dân thường và một số trí thức thuộc giai cấp thượng lưu.

Đến năm 1801, đã có khoảng 10,000 người theo đức tin Kitô Giáo, nhưng việc phát triển nhanh chóng này chẳng bao lâu gặp ngãng trở bởi các cuộc bách hại. Người Công Giáo Đại Hàn cố gắng liên lạc với Giám Mục Bắc Kinh và Tòa Thánh để tường trình tình huống của họ. Họ liên lỉ van nài Tòa Thánh phái các nhà truyền giáo tới và thiết lập cho họ một giáo phận riêng. Do đó, năm 1831, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin ở Rôma đã thiết lập Đại Diện Tông Tòa Joseon.

Hội Thừa Sai Paris (MEP) được ủy nhiệm trông coi Đại Diện Tông Tòa mới được thành lập này. Thành thử, các nhà truyền giáo Pháp đã bí mật tới Đại Hàn. Giám Mục Imbert là một trong số các vị này. Năm 1846, thầy Anrê Kim Tae-gon được thụ phong và trở thành vị linh mục đầu tiên của Đại Hàn. Đầu năm 1866, số người Công Giáo Đại Hàn lên tới khoảng 20,000 bất chấp nhiều cuộc bách hại tàn nhẫn.

3. Đời sống các tín hữu

Người Công Giáo bị bách hại không những bởi chính phủ mà còn bởi cộng đồng làng xóm và thân thuộc của họ nữa. Trong tình huống ngặt nghèo này, họ đã phải thành lập các Làng Kitô Giáo riêng cho mình gọi là “Gyouchon” tại những địa điểm hẻo lánh, mong có nơi yên ổn để thực hành tôn giáo của mình. Đời sống của họ không ổn định và an ninh vì họ phải di chuyển hết nơi này tới nơi nọ, để tránh sự rình mò của những người bách hại. Mọi người Công Giáo thới đó đều sống trong thân phận tội phạm vì đã theo một tôn giáo bị chính phủ cấm cản. Tại các Làng Kitô Giáo, họ sinh hoạt cộng đồng dưới sự hướng dẫn của các nhà lãnh đạo giáo dân, và đôi khi chia sẻ tài sản chung giống các Kitô hữu thời các Tông Đồ. Các nhà truyền giáo người Pháp tới Đại Hàn giữa thập niên 1800 có ấn tượng sâu sắc trước lối sống của tín hữu Đại Hàn trong các làng Kitô Giáo và ngưỡng phục cho hay “Lối sống Kitô Giáo thời các Tông Đồ chưa biến hẳn nhưng đang sinh động ở Đại Hàn này”.

Bất chấp các cuộc bách hại ngặt nghèo, Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn tiếp tục phát triển và nên vững mạnh nhờ sự tận tụy tuyệt vời của các nhà truyền giáo và các lãnh đạo giáo dân. Ngoài ra, sách vở Công Giáo được ấn hành bằng tiếng Đại Hàn, một thứ tiếng dễ học không như tiếng Trung Hoa vốn được các nhà trí thức thuộc giai cấp cao sử dụng. Nó đóng góp đáng kể vào việc phát triển đức tin Kitô Giáo nơi người bình dân.

Đòi hỏi nhân phẩm và bình đẳng của người bình dân, vốn là một sức mạnh thúc đẩy xã hội tiến triển, đã tìm được đáp ứng nơi giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo. Người Công Giáo hiểu được niềm tin mới và lòng tôn kính Thiên Chúa bằng chính nền văn hóa của họ nhờ những hạn từ như “trung với vua” và “hiếu với cha mẹ”. Nhờ thế, một loại văn hóa Công Giáo Đại Hàn hết sức độc đáo đã được khai sinh.

II. Việc bách hại Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn



1. Bối cảnh của việc bách hại

Đức tin Công Giáo va chạm với nền văn hóa cổ truyền của Đại Hàn ngay từ lúc nó được du nhập vào xứ sở này. Chính phủ thời đó không cho người dân Đại Hàn hưởng quyền tự do được tin theo tôn giáo mới vì họ coi đức tin Công Giáo là “giáo huấn bất kính” (profane teaching). Nhà cầm quyền cũng bác bỏ tín lý Công Giáo vì nó khác với tân Khổng Học, lúc đó vốn là ý thức hệ hàng đầu của chính phủ. Thí dụ, giáo huấn Công Giáo ngăn cấm thói quen thờ cúng tổ tiên trong khi phong tục của Khổng Giáo coi việc thờ cúng này là biểu thức quan trọng nói lên lòng hiếu kính con thảo đối với cha mẹ.

Nhưng dù Đạo Công Giáo bị luật pháp ngăn cấm, nhiều người vẫn tin nhận nó một cách chân thành tuy bí mật. Thành thử, các nhà cai trị coi sự gắn bó của người Công Giáo với niềm tin của họ như một thách thức trực diện đối với thẩm quyền nhà vua. Các tín hữu thì tin vào sự tách biệt giữa đức tin và nhà nước và nhấn mạnh tới đức tin của mình. Nhưng chính phủ không thể chấp nhận một quan niệm như thế, và tự giải thích tác phong của người Công Giáo như một chống đối trực diện đối với nhà vua. Đàng khác, người Công Giáo cũng bác bỏ hệ thống phẩm trật của xã hội và sự kỳ thị phái tính vốn được dùng để duy trì triều đại nhà Yi và trật tự xã hội. Do đó, chính phủ càng có lý do hơn để bách hại người Công Giáo vì họ nghĩ rằng những người này gây rối trật tự xã hội. Các Kitô hữu cũng công khai liên lạc với Giáo Hội tại Trung Hoa và các nhà truyền giáo người Pháp trong khi chính phủ cấm hay kiểm soát gắt gao bất cứ sự liên lạc nào của người dân thường với người ngoại quốc.

Tất cả các xử sự trên của người Công Giáo được hiểu như một thách thức trực tiếp đối với thẩm quyền nhà vua và chính sách của chính phủ. Thành thử, cuối cùng, triều đại nhà Yi đã tiến tới chỗ định nghĩa Giáo Hội Công Giáo là “giáo huấn bất kính” và bắt đầu chính thức bách hại nó.

2. Diễn trình bách hại

Cuộc bách hại người Công Giáo đầu tiên bắt đầu vào năm 1785, khoảng một năm sau khi Giáo Hội Công Giáo được thiết lập tại Đại Hàn. Cuộc bách hại này được công khai mở màn khi cảnh sát khám phá ra một cuộc tụ tập của các tín hữu. Tuy nhiên, trong giai đoạn thứ nhất của cuộc bách hại này, hình phạt tương đối nhẹ. Chỉ chủ nhà bị trừng phạt và phát vãng. Còn các tín hữu thuộc giai cấp quí tộc bị bị áp lực từ bỏ niềm tin của họ vào tôn giáo mới. Trong một xã hội lấy gia đình làm trung tâm, hình phạt do gia đình cũng có tác dụng y như hình phạt của chính phủ.

Cuộc bách hại năm 1791 xẩy ra do các tín hữu thuộc giai cấp quí tộc làm ngơ sắc lệnh của chính phủ chống lại đức tin Công Giáo. Các tín hữu này bác bỏ việc thờ cúng tổ tiên và thắp hương trước bài vị của các vị. Các hành vi này bị chính gia đình của họ và xã hội lên án như là các vi phạm trầm trọng chống lại lòng hiếu thảo. Người Công Giáo liên lụy vào việc này bị kết án tử hình ngay tức khắc. Biến cố này dẫn tới việc nhiều tín hữu thuộc giai cấp quí tộc ra khỏi Giáo Hội. Cuộc bách hại năm 1791 tương đối nhỏ nhưng là một biến cố quan trọng về nhiều phương diện.

Tiếp theo cuộc bách hại trên, một thái độ truyền giáo năng nổ nhằm chống lại nền văn hóa cổ truyền đã chiếm thế thượng phong trong Giáo Hội Đại Hàn thay vì một chủ trương truyền giáo nhằm tự thích ứng mình với nền văn hóa địa phương. Sự kình chống văn hóa này đã kích động nhiều cuộc bách hại gay gắt hơn. Cuộc bách hại trong các năm 1801, 1839, 1846 và 1866 dẫn tới cái chết của khoảng 100,000 tử đạo. Trong số các vị tử đạo này, có nhiều nhà lãnh đạo giáo dân xuất chúng. Ngoài ra, việc mất một nhà truyền giáo Trung Hoa và 12 nhà truyền giáo của Hội Thừa Sai Paris là một mất mát lớn đối với Giáo Hội. Trong số các vị tử đạo, 103 vị đã được Đức Gioan Phaolô II phong hiển thánh vào ngày 6 tháng 5 năm 1984 tại Yoido, Hán Thành. Và lần này, Đức Phanxicô sẽ phong chân phúc cho hơn một trăm vị khác.

3. Tác động của bách hại

Bách hại đã tăng cường đức tin nơi các tín hữu nhưng đồng thời cũng là một trở ngại đối với việc phát triển bình thường của Giáo Hội. Máu các tử đạo luôn trở thành hạt giống đức tin và là một cơ hội để tuyên xưng đức tin của ta vào Thiên Chúa. Tuy nhiên, mỏi mòn vì bách hại, Giáo Hội còn lại khá ít năng lực để truyền giáo. Bách hại cũng ảnh hưởng tới lối sống Kitô Giáo của tín hữu. Trong những ngày đầu, người Công Giáo Đại Hàn biết cách phải hòa hợp đức tin của họ ra sao với đời sống xã hội, nhưng từ khi bị ngăn cản bởi bách hại, sứ điệp của Tin Mừng gửi thế giới đã không còn được theo đuổi nữa. Bách hại cũng đã làm người Công Giáo chỉ hoài mong thế giới sắp đến mà thôi. Họ học được sự phân lập có tính nhị nguyên giữa “thế giới phàm tục” và “thế giới thánh thiện”. Trong đức tin, họ đi tìm sự sống thượng giới hay sự hoàn hảo của Kitô Giáo để tự giải thoát mình khỏi thứ thế giới đang đàn áp họ.

Đối với giai cấp quí tộc thời đó, việc bách hại các tín hữu có nghĩa là mất hết mọi đặc quyền họ vốn được hưởng. Và do đó, Giáo Hội Công Giáo trở thành một tôn giáo của người dân thường chứ không hẳn của giai cấp ưu tuyển. Chính vì thế, nó có đặc tính của một “phong trào tôn giáo Minjung” có nghĩa là bình dân.

Kết quả là vào cuối thế kỷ 19, lúc tự do tôn giáo được cho phép, người Công Giáo tỏ ra ít quan tâm tới việc thăng tiến xã hội của mình và do dự không muốn lãnh nhận vai trò lẵnh đạo nào trong thời phát triển mau chóng. Tuy nhiên, việc bách hại Giáo Hội Công Giáo vẫn là môt biến cố quan trọng trong lịch sử Đại Hàn. Chính nhờ nó, một số nhà trí thức bắt đầu lưu tâm tới việc nghiên cứu giáo huấn của Giáo Hội và tiếp nhận đức tin Công Giáo. Cảm kích vì gương hy sinh của các tín hữu, người dân thường cũng trở nên quan tâm tới Kitô Giáo hơn và tiếp nhận đức tin Công Giáo. Xét về nhiều phương diện, đời sống tin hữu cũng là một thách thức đối với trật tự xã hội và nâng cao ý thức về tầm quan trọng của tự do tư tưởng và tự do lương tâm. Nhờ đó, triều đại nhà Yi buộc phải thay đổi chính sách phản hiện đại của họ trong việc kiểm soát lương tâm người ta.

III. Tác động của đức tin Công Giáo đối với xã hội cổ truyền Đại Hàn



1. Tiền đề phân tích

Mọi tôn giáo và tín ngưỡng đều ảnh hưởng tới xã hội nơi chúng thuộc về và ngược lại chịu ảnh hưởng của các xã hội này. Tính hỗ tương này vốn hiện diện giữa xã hội cổ truyền Đại Hàn và đức tin Công Giáo ngay từ lúc du nhập vào đây vào cuối thế kỷ 18.

Sau đây là một khảo sát vắn vỏi nhằm để thấy đức tin Công Giáo đã tác động ra sao đối với xã hội cổ truyền và lịch sử Đại Hàn ngõ hầu có được một hiểu biết rõ ràng về lịch sử của Giáo Hội Công Giáo tại đây.

Ta cần xem xét ba điểm sau đây: Thứ nhất, hiểu biết chính xác các đặc điểm của đức tin Công Giáo lúc được du nhập vào Đại Hàn và các xu hướng thần học vào thời đó. Thứ hai, hiểu biết ảnh hưởng của đức tin Công Giáo đối với xã hội và bối cảnh xã hội thời ấy. Thứ ba, phân tích chức năng xã hội của những người thực hành đức tin Công Giáo. Khi suy tư về ba điểm vừa kể, ta sẽ khảo sát ảnh hưởng của Công Giáo đối với xã hội Đại Hàn giữa các năm 1784, năm đức tin Kitô Giáo được du nhập vào Đại Hàn, và năm 1876, năm được coi như khởi đầu cho cuộc hiện đại hóa Đại Hàn.

Ở đây, ta nên nhấn mạnh rằng đức tin Công Giáo mang vào Đại Hàn thế kỷ 18 có nhiều đặc điểm trung cổ. Nó không cùng nhịp với nền thần học hiện đại. Xã hội cổ truyền Đại Hàn vào lúc đó cũng đang ở một khúc rẽ sau thời trung cổ và đang trên đường tìm kiếm các giá trị hiện đại. Một số nhà trí thức đã bắt đầu tiếp nhận đức tin Công Giáo lúc ấy đang được truyền bá cho giai cấp hạ lưu. Trong bối cảnh của xã hội cuối thời trung cổ, nhiều người thuộc giai cấp hạ lưu coi đức tin Công Giáo là một hệ thống sống có giá trị. Thành thử, việc thực hành đức tin này ngụ ý một đối kháng xã hội.

2. Phát huy nhân phẩm

Một trong các hiệu quả của đức tin Công Giáo đối với tín ngưỡng và hệ thống giá trị của người Đại Hàn là việc khẳng nhận nhân phẩm. Hệ thống giá trị trổi vượt lúc ấy là thuyết Tân Khổng Học, một thuyết biện minh cho sự hiện hữu của giai cấp thống trị. Tân Khổng Học đặt căn bản trên sự bất bình đẳng giữa người với người và do đó biện minh cho việc giai cấp trên làm chủ giai cấp dưới. Tuy nhiên, tới thế kỷ 18, lối suy nghĩ ấy bị giai cấp dưới thách thức. Quan niệm về con người nhân bản trong đức tin Công Giáo khác với cùng quan niệm này trong Tân Khổng Học.

Giáo Hội giảng dạy sự bình đẳng và phẩm giá của mọi con người nhân bản vì họ được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Giáo Hội cổ vũ việc tôn trọng các giá trị của con người nhân bản và quyền tự do của họ.

Giáo huấn của đức tin Công Giáo trên gây ngỡ ngàng cho phần lớn các nhà trí thức thời đó. Cuối cùng, nó dẫn họ tới chỗ khám phá lại các giá trị của nền hiền triết Á Châu liên quan tới việc tôn trọng con người nhân bản. Thí dụ, Jeong Yak-yong (1762-1836), một triết gia nổi tiếng, chịu ảnh hưởng của sách vở Công Giáo, đã nhấn mạnh khá nhiều tới phẩm giá con người, không như các hiền giả Tân Khổng Học. Dựa vào quan niệm mới mẻ này về những con người nhân bản, và được viễn ảnh Công Giáo gợi hứng, người ta bắt đầu suy nghĩ về phương pháp cai trị và cơ cấu xã hội. Kết quả là, người ta ý thức được sự bình đẳng giữa người với người, ý thức được quyền lợi phụ nữ và phẩm giá trẻ em, coi chúng như những vấn đề xã hội quan trọng. Đức Tin Công Giáo đóng một vai trò có ý nghĩa trong việc phát huy phẩm giá con người vào lúc ấy.

3. Cổ vũ bình đẳng giữa mọi người

Xã hội cổ truyền Đại Hàn là một xã hội bất bình đẳng dựa trên hệ thống gia trưởng. Giống nơi nhiều xã hội cổ truyền khác, có một sự kỳ thị phái tính đối với phụ nữ và trẻ em bị đánh giá thấp. Trong bối cảnh xã hội như thế, sự đóng góp của đức tin Công Giáo vào việc phát triển xã hội, bằng cách nhấn mạnh tới tầm quan trọng của nguyên tắc bình đẳng giữa người với người, hết sức đáng kể.

Ngay từ khi Giáo Hội du nhập vào Đại Hàn, người Công Giáo đã tạo nên một cộng đồng đức tin mới, vượt quá nguồn gốc gia đình và địa vị xã hội. Thực vậy, họ bác bỏ hệ thống giai cấp vốn phân chia người ta thành quí tộc, trung lưu và hạ lưu, và họ gọi nhau là “bằng hữu trong đức tin” (Gyou). Tuy nhiên, xã hội dựa trên hệ thống giai cấp chặt chẽ không chấp nhận hiện tượng này.

Một số người thuộc giai cấp thượng lưu, khi chịu phép rửa, đã giải phóng các đầy tớ nam nữ của họ vì họ học được rằng mọi con người nhân bản đều bình đẳng, bất chấp giai cấp và địa vị xã hội. Với quan điểm Kitô Giáo này về con người nhân bản, người thuộc giai cấp hạ lưu thấy mình như sống trong “thiên đàng hạ giới”. Xã hội Đại Hàn coi mối liên hệ nam nữ như một liên hệ hàng dọc chủ tớ. Nhưng Giáo Hội Công Giáo cổ vũ sự bình đẳng giữa nam và nữ và cố gắng cổ vũ địa vị xã hội của người đàn bà, và một xã hội hiện đại dựa trên sự bình đẳng giới tính.

4. Ý thức văn hóa mới

Trong bối cảnh xã hội cổ truyền của Đại Hàn, Giáo Hội nâng cao một ý thức văn hóa mới và đem nó ra thực hành. Trong khi xã hội Đại Hàn lấy Tân Khổng Học làm trung tâm, coi nó như hệ thống văn hóa duy nhất có thể chấp nhận được, thì Giáo Hội cổ vũ việc tôn trọng chủ nghĩa đa nguyên văn hóa và nhấn mạnh tới tính khai phóng của văn hóa. Trong phương diện này, sự đóng góp của Giáo Hội vào xã hội cổ truyền Đại Hàn và vào lối hiểu văn hóa hiện đại, bao gồm việc tiếp cận với các trào lưu của thế giới, đã được thừa nhận cao độ.

Giáo Hội cũng đóng góp nhiều vào việc nghiên cứu và sử dụng “Hangeul", tức mẫu tự Đại Hàn. Sách về tôn giáo được viết bằng Hangeul, chứ không phải bằng chữ Trung Hoa. Các sách văn phạm và từ điển Đại Hàn được Giáo Hội ấn hành.

Dù bị bách hại, Giáo Hội vẫn cố gắng nâng đỡ các trẻ mồ côi với sự phụ giúp của hội “Các Thánh Anh Hài” và thận trọng cố gắng phát triển một hệ thống học đường hiện đại.

Như đã nhắc trên đây, tác động của Giáo Hội đối với xã hội cổ truyền Đại Hàn rất đáng kể. Bị bách hại gắt gao, chức năng của Giáo Hội trong việc cổ vũ tiến bộ xã hội tại Đại Hàn chỉ có tính tiềm năng hơn là động năng. Ấy thế nhưng, điều không còn hoài nghi là Giáo Hội đã thực hiện được sự đóng góp tích cực vào lịch sử Đại Hàn và dự phần vào diễn trình hiện đại hóa đất nước.

Còn tiếp
 
Nhân dịp Đức Phanxicô thăm Đại Hàn, tìm hiểu Lược Sử Giáo Hội Đại Hàn(2)
Vũ Văn An
01:46 10/08/2014

IV. Thời khám phá mới



1. Bối cảnh thời gian

Đại Hàn vốn duy trì liên hệ ngoại giao với Trung Hoa và Nhật Bản trước cuối thế kỷ 14 khi triều đại Joseon được thiết lập. Tuy nhiên, các liên hệ ngoại giao vào lúc đó chỉ có tính qui ước và, trong thực hành, rất khác với các qui ước hiện đại.

Năm 1876, Đại Hàn bắt đầu các liên hệ ngoại giao, theo lối hiện đại, với các nước bên ngoài. Hiệp Ước Thương Mại và Hữu Nghị với Nhật Bản đã được ký kết cùng với các Hiệp Ước ký với Hiệp Chúng Quốc, Anh, Đức, Nga và Pháp. Thời kỳ này được gọi là “Thời Chính Sách Mở Cửa” trong khi thời từ 1876 tới lúc triều đại Joseon sụp đổ năm 1910 được gọi là “Thời Chính Sách Mở Cảng” trong lịch sử Đại Hàn.

Đại Hàn đẩy mạnh hơn nữa việc hiện đại hóa của mình trong “thời Chính Sách Mở Cảng”. Trong diễn trình này, một số học giả Khổng Học cổ truyền cực lực chống đối các cải tiến. Tuy nhiên, dòng lịch sử đã xoay chiều, hướng tới một thế giới mới và nhiều nhà trí thức Đại Hàn lấy hệ thống và nền văn minh Tây Phương làm kiểu mẫu cho việc hiện đại hóa đất nước. Từ đó trở đi, thái độ kiêu hãnh qua đó dân Đại Hàn coi nền văn minh Tây Phương là man rợ hoặc chậm tiến đã từ từ thay đổi. Hậu quả là thái độ tiêu cực đối với Đạo Công Giáo, trước đây coi nó như đạo Tây Phương, nay đã thay đổi và các nhà truyền giáo ngoại quốc được chấp nhận. Giáo Hội tại Đại Hàn cố gắng dùng đà này để được tự do tôn giáo.

2. Tự do tôn giáo

Nhiệm vụ khẩn cấp nhất đặt ra cho Giáo Hội Công Giáo thời Chính Sách Mở Cảng là bảo đảm được tự do tôn giáo. Thực ra, kể từ lúc được du nhập vào Đại Hàn năm 1784, quan tâm lớn nhất của Giáo Hội Công Giáo vẫn là được tự do thờ phượng Thiên Chúa trong bình an. Tuy nhiên, trong hơn một trăm năm, quyền tự do này đã bị từ khước và các tín hữu chịu bách hại nặng nề. Việc tử đạo của các tín hữu là tiếng kêu than nói lên khát vọng được tự do tôn giáo và tự do thờ phượng Thiên Chúa của họ. Cuối cùng, khi tự do tôn giáo được công bố, nó được coi như một chiến thắng của các hy sinh và sự tử đạo của các tín hữu.

Các cố gắng chính thức để có tự do tôn giáo bắt đầu có sau thời Chính Sách Mở Cảng và cuối cùng đã đem lại kết quả. Có thể xét diễn trình này qua hai giai đoạn: Giai đoạn đầu là chính phủ ngấm ngầm bằng lòng cho phép thực hành tôn giáo. Thực vậy, từ năm 1882, tự do tôn giáo hầu như đã được ban cấp dưới lốt khoan dung. Lẽ dĩ nhiên, các luật lệ ngăn cấm đức tin Công Giáo vẫn còn đó và phong trào của các học sĩ Khổng Học chống lại Đạo Công Giáo vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên, dù biết có sự hiện hữu của Giáo Hội Công Giáo và hoạt động của các nhà truyền giáo, chính phủ vẫn không bách hại thêm nữa.

Giáo Hội lợi dụng tình thế trên để thiết lập các trường học tại Hán Thành nhằm giáo dục tín hữu và các học sinh khác. Tuy nhiên, hoạt động công khai như thế chỉ có thể có được với sự cho phép của chính phủ. Cho nên, năm 1882 được coi là năm khởi đầu chính sách khoan dung của chính phủ đối với Giáo Hội Công Giáo.
Đàng khác, năm 1886, Đại Hàn ký với Pháp một Hiệp Ước Thương Mại và Hữu Nghị. Thành thử, hoạt động của người Pháp tại Đại Hàn được bảo đảm. Nhờ thế, các nhà truyền giáo người Pháp có chiếu khán được tự do đi lại trong xứ dù luật lệ vẫn còn ngăn cấm đức tin Công Giáo. Chính phủ Đại Hàn khoan dung cho các nhà truyền giáo người Pháp hoạt động và để cho các tín hữu Công Giáo được thực hành đức tin.

Sau thời gian khoan dung, hoạt động của Giáo Hội Công Giáo được chính phủ Đại Hàn chính thức cho phép năm 1895. Sau đó không lâu, chính phủ còn ban hành một sắc lệnh ân xá cho một số tín hữu thuộc giai cấp thượng lưu chết vì đạo năm 1866. Hoàng Đế Gojong cho phép Giám Muc Mutel, Đại Diện Tông Tòa tại Đại Hàn, được triều kiến. Dịp này, hoàng đế còn phát biểu ý kiến về tự do tôn giáo và tỏ ý ân hận về việc đã bách hại Giáo Hội Công Giáo. Với nghĩa cử này của Hoàng Đế, chính phủ Đại Hàn chính thức thừa nhận tự do tôn giáo. Năm 1899, Chính Phủ Đại Hàn và Giám Mục Mutel ký Hiệp Ước Tôn Giáo và Nhà Nước. Hiệp ước này sau đó đã được bổ túc bằng Hiệp Ước Truyền Giáo năm 1904.

Chính Sách Mở Cảng, vốn là một đáp ứng hợp thời, đã đóng góp rất nhiều vào việc chính thức cho phép người Công Giáo được hưởng tự do tôn giáo. Tuy nhiên, nó cũng là kết quả của nhiều cố gắng trì chí nơi các tín hữu và các nhà truyền giáo trước thời Chính Sách Mở Cảng. Cùng với việc tuyên bố tự do tôn giáo, các hạn chế đối với việc thực hành Phật Giáo cũng đã được bãi bỏ và Giáo Hội Thệ Phản cũng dấn thân trọn vẹn vào sứ vụ truyền giáo của họ. Xét chung, phong trào đòi tự do tôn giáo do người Công Giáo theo đuổi đã đóng góp rất lớn vào việc cổ vũ dân quyền của nhân dân Đại Hàn.

3. Đời sống tín hữu thời Chính Sách Mở Cảng

Người Công Giáo thời Chính Sách Mở Cảng tập trung các cố gắng của họ vào việc giành tự do tôn giáo trong khi vẫn tiếp tục việc truyền giáo của họ. Nhờ thế, số tín hữu tăng từ 13,625 người năm 1885 lên tới 73,517 người năm 1910, hay 7 phần trăm mỗi năm. Trong hoàn cảnh này, từ năm 1882, Giáo Hội bắt đầu thiết lập các giáo xứ tại Hán Thành và các thành phố lớn và cử các nhà truyền giáo cai quản các giáo xứ này. Từ năm 1885, họ thành lập các chủng viện để huấn luyện các linh mục Đại Hàn và bắt đầu tích cực tìm tòi tư liệu trong đời sống các vị tử đạo Đại Hàn để thiết lập truyền thống tử đạo của Giáo Hội tại Đại Hàn.

Trong số các tân tòng Công Giáo, người ta thấy một số trí thức tuyệt vời thành tâm tìm cách hiện đại hóa Đại Hàn. Tuy nhiên, đa số các tân tòng là nông dân nghèo và một số không ít đến với Giáo Hội với hoài mong thóat được nanh vuốt bóc lột của các viên chức tham nhũng. Một số tín hữu khác từng ẩn trốn thời bách hại nay cố gắng phục hồi địa vị xã hội cũng như sự giầu có họ vốn bị mất thời bách hại. Chính vì thế, tin hữu thời này đôi khi đụng chạm với các viên chức và nhà cầm quyền. Chính phủ gọi diễn trình này là 'gyoan' qua đó, người Công Giáo có thể mở rộng quyền tự do tôn giáo và phát huy địa vị xã hội của họ. Thời 'gyoan', các nhà truyền giáo và các viên chức chính phủ thường hay đối kháng với nhau.

Các nhà truyền giáo Thệ Phản bắt đấu tới Đại Hàn năm 1884. Họ khai triển một việc truyền giáo hết sức năng động ngay từ năm 1895 và con số người theo trong năm 1907 vượt quá số người Công Giáo vốn có hơn một trăm năm lịch sử. Nhờ tham dự vào giáo dục và các dịch vụ y khoa, các Giáo Hội Thệ Phản đã có thể thành công trong một khoảng thời gian ngắn ở Đại Hàn. Giáo Hội Thệ Phản cũng có những nguồn tài nguyên về người và vật chất để truyền giáo hơn các nhà truyền giáo người Pháp ở phía Công Giáo rất nhiều. Người Công Giáo bắt đầu tranh luận với người Thệ Phản về các vấn đề tín lý và các vấn đề liên quan tới kiến trúc thánh đường. Từ lúc đó trở đi, các liên hệ giữa các Giáo Hội Công Giáo và Thệ Phản càng ngày càng tệ đi.

VI. Giáo Hội Công Giáo Đại Hàn và Phong Trào Quốc Gia



1. Đương đầu với các thay đổi của thời đại

Thời kỳ từ cuối thế kỷ 19 qua đầu thế kỷ 20, trong lịch sử Đại Hàn, được gọi là thời xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. Với Chính Sách Mở Cảng, Đại Hàn buộc phải mở các cảng biển của mình do áp lực của các cường quốc bên ngoài và sự xâm lăng của các lực lương quân sự ngoại quốc, dẫn tới việc Nhật xâm lăng và sát nhập Đại Hàn vào năm 1910.

Dưới sự chiếm đóng của Nhật, nhân dân Đại Hàn chiến đấu để bảo vệ chủ quyền của mình bằng cách thành lập phong trào chống chủ nghĩa đế quốc bằng cả phương pháp bất bạo động lẫn kháng chiến có vũ trang. Các sử gia Đại Hàn tin rằng các phong trào này bắt nguồn từ chủ nghĩa quốc gia Đại Hàn.

Nhiều nước Tây Phương nhìn chủ nghĩa quốc gia một cách tiêu cực vì mối liên hệ của nó với chủ nghĩa kỳ thị sắc tộc và các cuộc xâm lược của các lân bang vốn tạo ra các tranh chấp về lãnh thổ. Giáo Hội Công Giáo, vào cuối thế kỷ 19 qua đầu thế kỷ 20, cũng nhìn chủ nghĩa quốc gia một cách tiêu cực. Nhưng đối với các nước yếu kém, chủ nghĩa quốc gia mang một ý nghĩa khác hẳn. Nó cung cấp cho họ một sức mạnh tinh thần trong cuộc chiến đấu duy trì độc lập hay để giành tự do khỏi các cường quốc Tây Phương và chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ.

2. Các phong trào quốc gia theo viễn ảnh bất bạo động

Từ thời Chính Sách Mở Cảng, phong trào quốc gia đã được báo chí và giáo dục tích cực cổ vũ một cách hòa bình. Trong quá trình này, nhân dân hiểu rõ sự cần thiết phải nghiên cứu phương cách bảo vệ chủ quyền quốc gia và phải thực hiện các cố gắng cụ thể để thực hiện cho bằng được mục tiêu này. Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn vào thời này chấp nhận các phong trào bất bạo động trên nguyên tắc và hỗ trợ chúng. Nhiều người Công Giáo can dự vào các phong trào công dân đòi độc lập. Thực vậy, Giáo Hội và các cá nhân Công Giáo đã đóng góp đáng kể vào sự tiến triển của chủ nghĩa quốc gia Đại Hàn.

Công cuộc giáo dục là một trong các phong trào quốc gia bất bạo động, trong đó, Giáo Hội Công Giáo đã tham gia một cách tích cực. Hệ thống giáo dục hiện đại lần đầu tiên có hình dạng là ở giai đoạn này. Năm 1882, Giáo Hội Công Giáo mở Trường Inhyeon ở Hán Thành, một việc vốn được coi như bước đầu tiến tới việc khởi diễn hệ thống giáo dục hiện đại tại Đại Hàn. Giáo Hội Công Giáo điều hành tới 124 ngôi trường trên khắp đất nước ngay từ thập niên đầu tiên 1900. Các ngôi trường này dạy các học sinh về giáo huấn Công Giáo và đưa ra các cố gắng nhằm khôi phục chủ quyền của họ. Tuy nhiên, phần đông các trường này đã bị đóng cửa vì chính sách giáo dục áp chế của chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản và vì các khó khăn tài chánh.

Một phong trào quốc gia khá mạnh nhằm cứu đất nước cũng đã được báo chí khởi xướng. Để sánh bước với phong trào này, Giáo Hội lập ra một tờ tuần san lấy tên là “Gyeonghyang Sinmun". Đây là tờ tuần san do giáo quyền và một số giáo dân Công Giáo có liên hệ tới các phong trào quốc gia như “Hiệp Hội Độc Lập” điều khiển. Tờ tuần san “Gyeonghyang Sinmun” lúc đó là một trong các tuần san có ảnh hưởng nhất trong xã hội Đại Hàn, nhưng chẳng bao lâu sau, bị đóng cửa vì áp lực của chính phủ thực dân Nhật Bản.

Một phong trào quốc gia bất bạo động khác trong Giáo Hội là các buổi tụ tập cầu nguyện. Năm 1904, giới trẻ Công Giáo tại Hán Thành tổ chức một cuộc tụ tập để cầu nguyện tại Nhà Thờ Chánh Tòa Myeongdong nhằm chống lại mưu toan của chính phủ Nhật muốn cưỡng đoạt đất đai quốc gia. Cầu nguyện để bảo vệ xứ sở của mình vốn là một hành vi tự nhiên đối với người Công Giáo Đại Hàn. Trong khi đó, vào năm 1907, một chiến dịch thanh thỏa nợ nần của quốc gia với Nhật Bản đã được phát động. Mục tiêu của phong trào này là bảo vệ đất nước khỏi chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản bằng cách trả lại các khoản tiền quốc gia đã vay. Nhân dân Đại Hàn vào thời này nghĩ rằng chủ quyền của họ bị lâm nguy vì các khoản nợ Nhật Bản. Những người cổ vũ cho chiến dịch lừng danh này là Seo Sang-don, một người Công Giáo nhiệt thành tại Daegu. Chiến dịch này được thi hành tích cực trong Giáo Hội. Nhưng sụp đổ khi Đại Hàn bị sát nhập vào Nhật năm 1910.

3. Kháng chiến có vũ trang

Từ giai đoạn đầu cuộc chiếm đóng của Nhật, các phong trào kháng chiến có vũ trang đã xuất hiện khắp trong nước. Cuộc chiến đấu quốc gia chống chủ nghĩa thực dân Nhật ác liệt đến độ đã có tới 50,000 người Đại Hàn hy sinh từ tháng Tám năm 1907 tới tháng Chín năm 1909. Bất chấp chủ trương chính thức của Giáo Hội Công Giáo là ủng hộ chế độ thực dân, rất nhiều người Công Giáo Đại Hàn đã tham gia phong trào kháng chiến có vũ trang. Những người Công Giáo này theo tiếng lương tâm của họ để tích cực tham gia các chính nghĩa quốc gia.

Tôma An Jung-geun là một trường hợp điển hình. Dấn thân đầu tiên của anh cho đất nước là trong lãnh vực giáo dục, nhưng sau đó, anh chuyển hướng và tham gia kháng chiến vũ trang giành công lý. Khi An Jung-geun ám sát Ito Hirobumi, viên cai trị Đại Hàn của thực dân Nhật, tại nhà ga xe lửa Harbin ở Trung Hoa ngày 26 tháng Mười năm 1909, anh trở thành biểu tượng của lòng ái quốc anh hùng đối với nhân dân Đại Hàn.

Năm 1910, nhà cầm quyền Nhật khám phá ra một phong trào quốc gia sau khi nhận được tin mật từ một nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo. Năm 1911, một số người Công Giáo Đại Hàn tích cực tham gia phong trào giành độc lập. Điều này được xác nhận bởi chính những người Công Giáo bị bắt thuộc Phong Trào Giành Độc Lập Một Tháng Ba. Một số người Công Giáo tham gia Chính Phủ Lâm Thời Đại Hàn ở Thượng Hải. Ở Chien-tao, Trung Hoa, một nhóm kháng chiến có vũ trang đã được các người Công Giáo thành lập, và cùng với Phong Trào Giành Độc Lập Đại Hàn, họ đã chiến đấu anh dũng chống lại quân đội Nhật. Nhiều người Công Giáo tham gia phong trào kháng chiến trên bình diện cá nhân cho tới tận lúc Đại Hàn được độc lập năm 1945.

Tuy nhiên, giáo quyền minh nhiên chống đối cuộc kháng chiến có vũ trang của người Công Giáo Đại Hàn nhằm chống lại người nhật vì các ngài cho rằng chế độ thực dân và việc xâm lăng của chủ nghĩa đế quốc là điều có thể chấp nhận được. Hàng giáo phẩm Công Giáo nhấn mạnh tới việc phân lập giữa Giáo Hội và nhà nước và nhìn chủ nghĩa quốc gia phần lớn theo viễn tượng chính trị. Bởi thế, giáo quyền từ khước không ban bí tích hòa giải và rước lễ cho An Jung-geun. Các ngài cũng đã tuyệt thông một nhà ái quốc Công Giáo, người từng bị cảnh sát Nhật tra tấn dã man vì “tội” tham gia phong trào quốc gia. Trong các hoàn cảnh khó khăn như thế, các người Công Giáo ái quốc vẫn không ngưng hoạt động, vì cho rằng đức tin vào Thiên Chúa của họ và tình yêu quê hương có thể cùng hiện hữu.

4. Kết luận

Đại Hàn liên tục bị chủ nghĩa đế quốc gây hấn suốt từ năm 1876 tới năm 1945. Trong quá trình này, Giáo Hội cho thấy rõ ý định của mình là ủng hộ chủ nghĩa quốc gia bất bạo động và cổ vũ ý thức quốc gia. Tuy nhiên, Giáo Hội phản đối kháng chiến có vũ trang chống người Nhật, vì thừa nhận chế độ thực dân Nhật tại Đại Hàn là hợp pháp, và không ủng hộ việc tín hữu can dự vào phong trào giành độc lập. Bất chấp chủ trương chính thức này, một số rất đông người Công Giáo Đại Hàn không màng nguy hiểm tới tính mạng đã tham gia các phong trào giành độc lập. Giáo Hội đã thất bại trong việc trở nên một với nhân dân Đại Hàn. Hậu quả của thất bại này sẽ thấy rõ trong việc giảm thiểu đáng kể con số tân tòng và hiện tượng bị các nhà trí thức cũng như xã hội nói chung cô lập. Tác dụng xã hội của chủ trương chính thức thời chế độ thực dân của Giáo Hội đã có những hiệu quả tiêu cực sau ngày độc lập khi Giáo Hội có nhiệm vụ định vị mình trong lòng xã hội Đại Hàn.

VI. Tình huống Giáo Hội Công Giáo thời thực dân



1. Bối cảnh thời gian

Năm 1910, Đại Hàn bị Nhật xâm lăng và trở thành một khu khai khẩn của Nhật. Kể từ lúc đó cho tới lúc giải phóng năm 1945, người Đại Hàn liên tục chiến đấu chống chế độ thực dân của Nhật ngõ hầu bảo vệ chủ quyền của mình. Trong các phong trào giành độc lập hồi đó, quan trọng nhất là Phong Trào Giành Độc Lập Một Tháng Ba xuất hiện năm 1919. Phong trào này thúc đẩy việc thành lập Quân Đội Độc Lập Đại Hàn tại Mãn Châu và Chính Phủ Lâm Thời Đại Hàn tại Thượng Hải là tổ chức đã dẫn tới Phong Trào Giành Độc Lập cho Đại Hàn.

Trong quá trình trên, Nhật càng tăng cường chế độ thực dân của họ tại Đại Hàn. Các nhà cấm quyền Nhật hứa hẹn tự do tôn giáo cho các nhà truyền giáo Tây Phương, nhưng họ thường xuyên vi phạm quyền tự do này bằng cách đàn áp và hạn chế hoạt động truyền giáo của các ngài. Thời kỳ này, Đại Hàn trở thành bàn đạp để Nhật xâm chiếm các nước Á Châu khác. Hậu quả là nhân dân Đại Hàn chịu đủ mọi hình thức bóc lột. Giáo Hội Đại Hàn đã phải thi hành công việc truyền giáo của mình trong những điều kiện khó khăn như thế.

2. Chủ trương của các nhà lãnh đạo Giáo Hội về chế độ thực dân

Khi Đại Hàn bị sát nhập vào Nhật năm 1910, có tất cả 73,517 người Công Giáo, và đa số hàng giáo sĩ đều là các nhà truyền giáo ngoại quốc kể cả vị Đại Diện Tông Tòa tại Đại Hàn. Các nhà truyền giáo này tạo thành giới lãnh đạo Giáo Hội lúc sát nhập vào Nhật. Nấp đàng sau nguyên tắc phân lập Giáo Hội và các nhà cầm quyền thực dân, các ngài cố gắng giập tắt tiếng nói của người Công Giáo Đại Hàn đang chiến đấu cho chủ quyền của họ. Do đó, các nhà truyền giáo, cả Thệ Phản lẫn Công Giáo, đều sẵn sàng chấp nhận bất cứ tình huống chính trị nào miễn là tự do tôn giáo được bảo đảm. Nhà cầm quyền Nhật, bằng mọi phương tiện, cố gắng hòa hoãn với các nhà truyền giáo ngoại quốc tại Đại Hàn ngõ hầu ngăn chặn công luận quốc tế khỏi chống lại việc họ sát nhập Đại Hàn. Thành thử, các nhà truyền giáo ngoại quốc kết cục đã tin tưởng nhà cầm quyền Nhật vì họ hứa hẹn bảo đảm tự do tôn giáo, và chấp nhận chế độ thực dân của Nhật áp đặt lên nhân dân Đại Hàn. Các ngài sợ rằng việc can dự của người Công Giáo Đại Hàn vào các phong trào quốc gia sẽ gây ra một cuộc bách hại đối với Giáo Hội. Tuy nhiên, một số nhà truyền giáo ngoại quốc vẫn phát biểu nhiều tâm tư chống Nhật của mình và cương quyết chống chế độ đàn áp của thực dân. Một số linh mục Đại Hàn đã liên lạc với Chính Phủ Lâm Thời Đại Hàn ở Thượng Hải và hỗ trợ họ một cách gián tiếp. Như đã nhắc trên đây, những người Công Giáo này coi thường việc cấm cản của Giáo Hội và đã tiếp diễn các hoạt động của mình dựa trên quan điểm lương tâm. Tình huống này tiếp diễn tới tận ngày giải phóng Đại Hàn khỏi chế độ thực dân Nhật vào năm 1945.

3. Tình hình truyền giáo của Giáo Hội

Từ ngày sát nhập Đại Hàn vào Nhật năm 1910, chính phủ thực dân đưa ra chính sách hai mặt đối với các sinh hoạt của Giáo Hội: hòa hoãn và đàn áp. Họ kiểm soát Giáo Hội một cách gián tiếp, cho tới năm 1915, qua việc qui định về giáo dục, truyền thông và văn hóa. Họ lập “các qui định về tôn giáo” để kiểm soát các sinh hoạt của giáo xứ một cách hữu hiệu hơn. Theo các qui định này, mọi nhà truyền giáo, giáo sĩ và nữ tu, bao gồm luôn các nhà lãnh đạo các địa điểm truyền giáo, buộc phải có phép của nhà cầm quyền Nhật mới được thi hành công việc truyền giáo. Các ngài không được lập nhà thờ hay các địa điểm truyền giáo mới nếu không có phép của nhà cầm quyền Nhật. Giấy phép chỉ được ban cấp khi nhu cầu cần xây dựng nhà thờ hay địa điểm truyền giáo mới, và chứng cớ có nguồn tài chánh vững chắc, được xác nhận. Quân cảnh Nhật thường xuyên lui tới các nhà thờ để thanh tra việc tuân thủ các qui định về truyền giáo, đồng thời xách nhiễu giáo sĩ và giáo dân.

Các qui định về truyền giáo được thu hồi vào thập niên 1920 nhờ Phong Trào Độc Lập Một Tháng Ba, nhưng các nhà cầm quyền thực dân tiếp tục kiểm soát và can thiệp vào các vấn đề riêng của Giáo Hội mãi tới lúc Đại Hàn được giải phóng năm 1945. Thời Thế Chiến II, chính phủ Nhật tống xuất nhiều nhà truyền giáo ngoại quốc và đàn áp hàng giáo sĩ địa phương và các nhà truyền giáo còn ở lại Đại Hàn. Các vị giám mục Pháp bị buộc phải từ chức, không được làm bản quyền các giáo phận.

Khi chính phủ Nhật chính thức thừa nhận tự do tôn giáo, Giáo Hội cố gắng tổ chức lại giáo phận, hy vọng nó sẽ phát triển. Năm 1911, Tông Toà Đại Diện Taegu được lập thêm và một vị thừa sai người Pháp đã được cử cai quản tòa mới. Tuy nhiên, sau khi chia giáo phận, đà phát triển của Giáo Hội bị chậm lại một cách đáng kể. Mức gia tăng người Công Giáo hàng năm từ năm 1910, năm Đại Hàn bị sát nhập vào Nhật, tới năm 1919, năm Phong Trào Độc Lập Một Tháng Ba diễn ra, chỉ còn là 2.1, chậm so với mức 6.9 gia tăng hàng năm thời Chính Sách Mở Cảng, cuối thế kỷ 19, và gần tương đương với mức tăng dân số vào lúc đó. Ta có thể thấy cỗi nguồn của việc nguội lạnh lòng nhiệt thành tôn giáo này trong việc sát nhập Đại Hàn vào Nhật, trong chính sách đàn áp Giáo Hội Công Giáo của nhà cầm quyền thực dân và trong thái độ thỏa hiệp của Giáo Hội. Từ năm 1919 tới năm 1944, Giáo Hội cho thấy một mức tăng hàng năm khá thấp vào khoảng 3 phần trăm.

Từ ngày có Phong Trào Độc Lập Một Tháng Ba năm 1919 cho tới ngày giải phóng năm 1945, Giáo Hội tiếp tục tiến triển, bất chấp bầu khí đen nghịt, nhờ các nhà truyền giáo ngoại quốc, các dòng tu và các nhà lãnh đạo Công Giáo Đại Hàn. Các Nữ Tu Dòng Thánh Phaolô Thành Chartres tới Đại Hàn năm 1888, Dòng Biển Đức Othilien đến Đại Hàn năm 1909. Năm 1920, Dòng Biển Đức Othilien được trao cho việc cai quản tông toà đại diện Wonsan. Tông tòa đại diện Yenki được tách khỏi tông toà đại diện Wonsan năm 1937. Năm 1940, Đan Viện Độc Lập Dokson và Tông Tòa Đại Diện Hamheung ra đời. Một phủ doãn tông tòa Maryknoll được thiết lập năm 1927 và các cha Dòng Columban được trao cho phủ doãn tông tòa Ch’unchon và Kwangju lần lượt trong các năm 1937 và 1939. Trong các thập niên 1920 và 1930, nhiều nhà truyền giáo nói tiếng Anh đã tới Đại Hàn.

Thời này được đánh dấu bằng việc hàng giáo sĩ Đại Hàn đóng góp vào việc phát triển Giáo Hội. Việc huấn luyện trọn vẹn hàng giáo sĩ Đại Hàn bắt đầu ngay từ năm 1895, nhờ vậy, tới năm 1900, Đại Hàn đã có 12 linh mục người bản xứ. Năm 1910, con số này lên tới 15, và tới năm 1944, có tất cả 132 giáo sĩ Đại Hàn toàn tâm toàn lực phục vụ Giáo Hội. Con số này cao hơn con số 102 giáo sĩ ngoại quốc đang phục vụ Giáo Hội Đại Hàn vào lúc đó. Năm 1937, phủ doãn tông toà Chonju ra đời dưới sự cai quản của hàng giáo sĩ Đại Hàn. Phủ doãn này dọn đường cho việc chuyển giao quyền kiểm soát các giáo xứ do các nhà truyền giáo ngoại quốc săn sóc cho hàng giáo sĩ địa phương. Năm 1942, giám mục Đại Hàn đầu tiên được cử làm Giám Quản Tông Tòa Hán Thành.

Cùng với sự gia tăng con số các tông tòa đại diện, Giáo Hội Công Giáo Đại Hàn cũng thực hiện nhiều sinh hoạt sùng kính, văn hóa và xã hội khác nhau, dù với phạm vi hạn chế. Lòng sùng kính Đức Mẹ, Phép Thánh Thể và Thánh Tâm Chúa Giêsu mà người Đại Hàn vốn thực hành từ những ngày bị bách hại nay được tăng cường. Với việc phong chân phước cho 79 vị tử đạo Đại Hàn, lòng sùng kính các vị tử đạo cổ truyền lâu đời nay được rực sáng lên. Đồng thời, Giáo Hội Công Giáo Đại Hàn cố gắng gia tăng các công trình phúc âm hóa của mình ngõ hầu lên sinh lực mới cho Giáo Hội. Các cố gắng lớn lao được đưa ra nhằm cổ vũ việc xuất bản các tập san định kỳ và các sách vở có thể đóng góp vào việc phát triển Giáo Hội.

4. Kết luận

Sau cuộc sát nhập Đại Hàn vào Nhật năm 1910, việc phát triển Giáo Hội bị chậm lại hẳn. Các nhà truyền giáo Pháp cảm thấy có cuộc khủng hoảng truyền giáo nên đã cố gắng mời các nhà truyền giáo của các nước khác để phát huy công việc truyền giáo. Thái độ của Giáo Hội tại Đại Hàn đối với chủ nghĩa quốc gia phần nào có trách nhiệm đối với đà phát triển chậm này. Thực vậy, đa số người Công Giáo ở Đại Hàn khát khao được độc lập, nhưng giáo quyền thì lại đứng đàng sau nguyên tắc phân lập Giáo Hội và nhà cầm quyền thực dân, để ra lệnh cho tín hữu phải dửng dưng với các khát vọng quốc gia của nọ. Thành thử, người dân Đại Hàn ít lưu tâm tới các cố gắng truyền giáo của Giáo Hội.

Tuy thế, Giáo Hội vẫn tiếp tục thực hiện nhiều tiến triển nhờ các cố gắng của hàng giáo sĩ Đại Hàn và các nhà truyền giáo ngoại quốc. Ngoài ra, Giáo Hội còn phát huy các việc sùng kính cổ truyền trong đời sống tín hữu. Các việc sùng kính này là động lực duy trì đức tin của họ và giúp họ vượt qua việc đàn áp và can thiệp của các nhà cai trị thực dân.

VII. Giáo Hội Công Giáo và Xã Hội Đại Hàn dưới ách cai trị thực dân (1)



1. Bối cảnh thời gian

Giai đọan giữa năm 1910 và năm 1945 được đánh dấu bằng nhiều thay đổi xã hội tại Đại Hàn vì nay nó đã trở thành một xã hội đa tôn giáo dưới sự cai trị thực dân của Nhật. Chính từ bối cảnh lịch sử này, ta có thể hiểu được lịch sử của Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn và lịch sử của nước này vào lúc đó.

Bề ngoài, các nhà duy đế quốc Nhật thừa nhận tự do tôn giáo và tự do biểu lộ đức tin cho người Đại Hàn. Chính vì lý do này, phần lớn các nhà truyền giáo Kitô giáo đã khoan dung chấp nhận chế độ thực dân Nhật tại Đại Hàn. Tuy thế, các nhà cai trị thực dân đòi một phân lập nghiêm nhặt giữa Giáo Hội và nhà nước nhằm hạn chế phạm vi của tôn giáo vào đời sau mà thôi. Trên thực tế, họ muốn kiểm soát tôn giáo và can thiệp vào mọi vụ việc tôn giáo của người dân Đại Hàn chỉ vì chính sách thực dân của họ. Nhưng họ không thể bách hại tôn giáo một cách bừa bãi vì đã cho phép tự do tôn giáo.

Trong tình huống trên, Khổng Giáo, vốn là tôn giáo hàng đầu của Triều Đại Joseon, đã liên tục thịnh trị. Cả Phật Giáo nữa, tôn giáo này từng bị bách hại thời Joseon, nay bắt đầu được truyền lan trở lại. Dưới ảnh hưởng của Phật Giáo Nhật, một số bộ phận trong Phật Giáo Đại Hàn cũng đã chấp nhận chính sách thân Nhật. Ngoài ra, nhiều tôn giáo bản địa đã nở rộ trở lại, trong đó có Daejong-gyo, thờ Dangun, người, theo dã sử, vốn lập ra Đại Hàn, và Cheondo-gyo (Đạo Trời) được thành lập vào giữa thế kỷ 19. Một số đạo này bị nhà cầm quyền thực dân bách hại vì đã trở thành các lực lượng tranh đấu cho độc lập quốc gia. Trong Giáo Hội Thệ Phản, các giáo phái cực đoan giữ một vai trò tích cực trong hoạt động truyền giáo.

2. Các liên hệ của Giáo Hội Công Giáo với các tôn giáo khác

Sau Thời Chính Sách Mở Cảng, là thời bảo đảm tự do tôn giáo, cùng với người Thệ Phản, người Phật Giáo và tín hữu các tôn giáo bản địa khác, người Công Giáo cũng được tự do phát biểu đức tin của mình. Thực thế, nhiều tôn giáo mới bắt nguồn từ xã hội Đại Hàn trong thời này và đem lại nhiều đặc điểm cho một xã hội đa tôn giáo.

Tuy nhiên, trong quá trình này, Giáo Hội Công Giáo, vì xác tín ý niệm "Extra ecclesia, nulla salus" (bên ngoài Giáo Hội, không có cứu rỗi), nên đã sống tách biệt với các tôn giáo khác và bác bỏ việc thông đạt với họ. Giáo Hội coi Phật Giáo như đạo thờ tà thần. Rõ ràng vì cuộc tranh cãi tại Trung Hoa năm 1742 liên quan tới việc tham dự các lễ nghi tôn kính tổ tiên, Tòa Thánh đã ngăn cấm người Công Giáo không được thực hành việc dâng cúng tổ tiên theo nghi lễ, một việc mà người dân Đại Hàn rất trân qúi như một phong tục truyền thống và tin rằng đây là các biểu lộ tự nhiên lòng hiếu kính con thảo đối với các bậc cha ông. Tới tận năm 1939, Giáo Hội vẫn còn coi việc thờ cúng tổ tiên này là mê tín, nhưng sau đó, đã cho phép tín hữu tham dự với một số hạn chế.

Ngăn cấm thờ cúng tổ tiên có nghĩa: người Đại Hàn phải từ bỏ các giá trị và phong tục truyền thống riêng của họ. Các nhà trí thức Đại Hàn truyền thống đương nhiên phản ứng bằng cách quay lưng lại với Đạo Công Giáo và coi Giáo Hội như là đồng lõa với những kẻ xâm lăng ngoại quốc.

Để làm gia trọng tình thế, Giáo Hội Công Giáo tại Đại Hàn còn mở rộng cuộc khủng hoảng với các Giáo Hội Thệ Phản nữa. Thệ Phản được du nhập lần đầu vào Đại Hàn khoảng năm 1884, một thế kỷ sau Đạo Công Giáo và người Công Giáo được cảnh giác về các giáo phái này từ năm 1840. Tại một số nơi, người Công Giáo và người Thệ Phản chạm trán nhau vì các vấn đề truyền giáo. Tới năm 1907, số người Thệ Phản vượt hẳn số người Công Giáo dù Giáo Hội Công Giáo du nhập sớm hơn nhiều và đã hiến cho xứ sở nhiều vị tử đạo. Các Giáo Hội Thệ Phản cũng phát triển nhanh hơn Công Giáo thời thực dân và cho tới nay, vẫn vượt con số người Công Giáo.

Có một số lý do tốt đẹp hơn cho sự thành công của người Thệ Phản. Thứ nhất, Giáo Hội Thệ Phản, song song với việc phúc âm hóa trực tiếp, đã đặt nặng các việc truyền giáo gián tiếp như giáo dục và chăm sóc y tế. Những công việc gián tiếp này khiến người ta trở lại đức tin Thệ Phản cách dễ dàng hơn. Đàng khác, Giáo Hội Công Giáo chỉ có thể tiếp xúc với một số người có giới hạn qua việc phúc âm hóa trực tiếp của mình nhờ số ít các linh mục và các nhà truyền giáo Đại Hàn.

Thứ hai, Giáo Hội Thệ Phản thành công trong việc huấn luyện thành phần ưu tú Đại Hàn. Nhờ thế, họ có khả năng đào tạo được một số mục sư Đại Hàn có trình độ cao. Dù họ được lãnh đạo bởi các nhà truyền giáo ngoại quốc, nhưng các mục sư người Đại Hàn này thực hiện được nhiều công trình truyền giáo rất có hiệu năng và đóng góp lớn lao vào sự phát triển của Giáo Hội Thệ Phản.

Thứ ba,các mục sư và tín hữu Thệ Phản thành thực dấn thân vào việc phát triển xã hội và các chính nghĩa quốc gia. Gương sáng của họ có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với quảng đại quần chúng Đại Hàn hơn là các nhà lãnh đạo Công Giáo mà ảnh hưởng chỉ quanh quẩn diễn ra bên trong Giáo Hội.

Thứ tư, người Thệ Phản có nguồn tài nguyên về người và về vật tư để yểm trợ công cuộc truyền giáo của họ hơn Giáo Hội Công Giáo.

Các nhân tố trên gây tác động đáng kể đối với sự gia tăng về thống kê của Giáo Hội Thệ Phản và việc phát triển của nó. Do bầu khí cạnh tranh và sự thất bại của Công Giáo không theo kịp Thệ Phản, Giáo Hội Công Giáo Đại Hàn đã cắt đứt mọi liên hệ với Giáo Hội Thệ Phản và các tôn giáo khác cũng như quyết định đi theo đường riêng của mình, do đó, đã tự cô lập mình.

Cắt đứt đối thoại với các tôn giáo cổ truyền và Giáo Hội Thệ Phản là khía cạnh nổi bật nhất trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Đại Hàn thời thực dân. Lúc đó, chỉ nhờ có tôn giáo, người ta mới tổ chức hay thiết lập được tình liên đới với người khác. Đó là cách thuận tiện nhất để người Đại Hàn đến với nhau vì các viên chức thực dân cấm người Đại Hàn không được thiết lập các hiệp hội dân sự. Các nhà lãnh đạo tôn giáo, nhờ lên tiếng trong tình liên đới với người khác, có ảnh hưởng lớn trên công luận.

Giáo Hội Công Giáo, đã tự cô lập với các tôn giáo khác và từ khước bất cứ liên hệ nào với họ, còn hạn chế ảnh hưởng của mình hơn nữa trong xã hội Đại Hàn. Thí dụ, Giáo Hội Công Giáo là tôn giáo lớn duy nhất không có đại diện trong ban lãnh đạo của Phong Trào Độc Lập Một Tháng Ba; phong trào này là phong trào độc lập chống sự cai trị của Nhật quan trọng nhất của Đại Hàn; nó là một phong trào do các nhà lãnh đạo tôn giáo tổ chức và điều hành trước nhất.

Còn tiếp
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Sông Nước Miền Nam
Nguyễn Ngọc Liên
21:15 10/08/2014
SÔNG NƯỚC MIỀN NAM
Ảnh của Nguyễn Ngọc Liên
Anh gọi Hậu Giang thương nhớ
Ngọt ngào ơi sông chở những nguồn thương..
(Trích thơ của Lam Hồng Minh)