Ngày 20-07-2018
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:36 20/07/2018
89. MÙA ĐÔNG KHÔNG CÓ QUẦN
Trời rơi nhiều tuyết, lão hoà thượng mặc áo da muốn cưỡi ngựa ra khỏi nhà.
Hoà thượng trẻ đốt lò trong chùa không có quần để mặc, lạnh quá đến nỗi lưỡi cũng cóng lại, ông ta hỏi:
- “Lão sư phụ, trời lạnh như thế này mà sư phụ còn muốn đi đâu ?”
Lão hoà thượng nói đi thuyết giảng, hoà thượng trẻ đốt lò cũng muốn đi nghe giảng.
Lão hoà thượng mắng:
- “Nói càn, con hiểu cái gì mà đi chứ ?”
Hoà thượng trẻ đốt lò chỉ chỉ phần dưới eo lưng của mình nói:
- “Con muốn nghe trong sách Phật mà sư phụ giảng đó có nói trong mùa đông giá lạnh của tháng chạp, người ta có nên mặc quần hay không ?”
(Tiếu niệm lục)

Suy tư 89:
Có một vài linh mục không muốn “truyền đạt” những hiểu biết về lễ nghi phụng vụ của Giáo Hội cho giáo dân, bởi vì các ngài sợ giáo dân hiểu rồi phản đối các ngài, khi các ngài tuỳ tiện làm theo ý mình mà không giữ luật chữ đỏ cũng như những quy định khác của Giáo Hội; có một vài linh mục đã “trách” các linh mục khác, vì những linh mục này giảng giải rất rõ ràng mạch lạc về các quy định của Giáo Hội về lễ nghi cũng như những điều về phụng vụ, giáo luật, kinh thánh, luân lý căn bản cho giáo dân, lý do mà các linh mục trách là: đừng cho giáo dân biết nhiều quá !!
Giáo dân phản đối hay không là do cách sống của chính vị linh mục ấy chứ không phải vì sự hiểu biết nhiều về phụng vụ hay kinh thánh của họ, bởi vì có một vài linh mục giảng dạy giáo dân hãy bắt chước sự khó nghèo của Đức Chúa Giê-su, nhưng chính các ngài lại sống như ông hoàng trong một giáo xứ mà giáo dân đa phần cơm không đủ ngày hai bữa; Đức Chúa Giê-su niềm nở đón tiếp những người nghèo bất hạnh, bệnh tật và chữa lành cho họ, nhưng có một vài vị mục tử lại “giằng mặt” giáo dân khi họ xin lễ mà bổng lễ không đủ đúng như quy định...
Tất cả mọi giáo dân đều có quyền được học hỏi và nghiên cứu giáo lý, luân lý hoặc các vấn đề của của Giáo Hội nếu họ muốn, bởi vì cũng có rất nhiều giáo dân muốn biết trong giáo lý có đoạn nào nói giữa một thế giới văn minh và phát triển như hôm nay, người giáo dân có nên “mặc quần” hay không, tức là có quyền được học hỏi về các vấn đề trong Giáo Hội hay không, bởi vì có những vị mục tử cứ nạt nộ giáo dân rằng mấy người biết gì về thần học mà nói !!
Học để biết và biết để sống, biết để truyền giáo, biết để yêu mến Chúa và tha nhân chính là cái biết của giáo dân từ nơi cách sống của cha sở mình vậy.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)

-----------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN 16 TN)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:37 20/07/2018
Chúa Nhật 16 THƯỜNG NIÊN

Tin Mừng: Mc 6, 30-34.
“Họ như bầy chiên không người chăn dắt.”


Bạn thân mến,
Có nhiều lần vì muốn kiếm nhiều tiền hoặc kinh tế suy thoái, nên bạn phải làm ngày làm đêm không ngơi nghỉ, cho nên một lúc nào đó kiệt quệ thân xác, bệnh hoạn đến, thì chính bản thân bạn sẽ không làm được gì cả, tiền bạc dành dụm làm ngày làm đêm cũng không đội nón ra đi theo cơn bệnh của bạn mà thôi.
1. Nghỉ ngơi của thế gian.
Nghỉ ngơi của bạn và tôi hoặc của những người thế gian là đóng cửa đi du lịch, đi nước ngoài, đi nhậu nhẹt với bạn bè, và có khi đắm mình trong những chơi bời hưởng thụ làm cho thân xác tâm hồn càng mệt hơn, tóm lại nghỉ ngơi của người thế gian là không làm việc gì cả, chỉ để nghỉ ngơi ăn uống và vui chơi.
Sự nghỉ ngơi đó ngày càng được những đại gia có tiền, những người trung lưu đang coi như cái mốt của thời đại, họ nghỉ ngơi không phải để tinh thần và thể xác lại sức, nhưng là để hưởng thụ: hưởng thụ mọi thứ có thể, bởi vì họ quên mất mình là một con người có trí có óc, có tinh thần và thể xác. Lối hưởng thụ ấy làm cho họ ngày càng trở nên một kẻ nô lệ cho đồng tiền, bởi vì họ làm việc để có tiền và hưởng thụ, rồi sau đó lại nổ lực lao động mà không được nghỉ ngơi đúng nghĩa như Đức Chúa Giê-su đã dạy.

2. Nghỉ ngơi của các môn đệ Chúa.
Có cách nghỉ ngơi khác, mà người thế gian cho là ngược đời, đó là sự nghỉ ngơi của người môn đệ Đức Chúa Giê-su, nói chung là những người Ki-tô hữu, nói riêng là những người đã dâng mình làm tôi tớ Chúa trong thiên chức linh mục hoặc tu sĩ nam nữ.
Nghỉ ngơi của các môn đệ Chúa là để cho tâm hồn ở trạng thái lắng động, để tâm hồn yên tĩnh dễ dàng nghe suy tư, kiểm thảo và thấy mình hơn sau những tháng ngày mệt nhọc vì công việc tông đồ, mục vụ. Đức Chúa Giê-su không nhìn thấy dân chúng nhiệt tình theo mình mà “ham” để rồi quên cả chính bản thân mình, nhưng Ngài rất biết rằng muốn công việc lâu dài thì cần phải có thời gian ngơi nghỉ, và ngơi nghỉ trong Chúa là điều rất cần thiết cho người làm công tác tông đồ mục vụ.
Nghỉ ngơi của người môn đệ Chúa không như người thế gian, nhưng vượt qua tất cả những gì mà người thể gian đã làm khi nghỉ ngơi, đó là tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, thanh vắng chứ không nơi phố xá đông người, nghỉ ngơi chứ không phải nhậu nhẹt đình đám, đó là một thực tế mà Đức Chúa Giê-su đã nói với các tông đồ: anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.
Bạn thân mến,
Nghỉ ngơi là điều phải có trong cuộc sống của con người, nhưng cách nghỉ ngơi của người môn đệ Chúa thì có khác với người thế gian.
- Người môn đệ Chúa nghỉ ngơi là để kiểm thảo lại cuộc sống của mình- người thế gian nghỉ ngơi là tụm năm tụm ba để chỉ trích người khác.
- Người môn đệ Chúa nghỉ ngơi là để cầu nguyện bồi bổ sức cho tâm hồn và thân xác – người thế gian nghỉ ngơi là để hưởng thụ ăn uống chơi bời, có hại cho thân xác và tâm hồn.
- Người môn đệ Chúa nghỉ ngơi là tìm nơi thanh vắng để dễ dàng nhìn thấy chính bản thân mình – người thế gian nghỉ ngơi là tìm nơi ồn ào náo nhiệt, không phải để thấy mình, nhưng để kết giao bạn bè và cùng với họ ăn uống chén tạc chén thù.
Nghỉ ngơi là điều cẩn thiết, nhưng luôn nhớ rằng mình là môn đệ của Chúa Giê-su, tức là linh mục, tu sĩ nam nữ và là người Ki-tô hữu.
Xin Chúa chúc lành cho chúng ta.
------------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:41 20/07/2018

37. Nhiệt tâm chân chính là ở nơi việc phụng sự Thiên Chúa, ý nguyện luôn luôn năng nổ dũng cảm.

(Thánh Thomas Aquinas)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")

----------
http://www.vietcatholicnews.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Hai điều chính yếu cho sứ vụ tông đồ
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
21:52 20/07/2018
Chúa Nhật XVI THƯỜNG NIÊN B (Gr 23,1-6; Ep 2,13-18; Mc 6,30-34)
Hai điều chính yếu cho sứ vụ tông đồ

Chúa Nhật vừa rồi, chúng ta đã nghe thánh Máccô kể lại việc Chúa Giêsu sai các Tông Đồ đi truyền giáo. Lời Chúa hôm nay kể lại việc các Tông Đồ trở về và kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành quả mà họ đã thực hiện theo sứ vụ đã được ủy thác. Tuy nhiên, để không chạy theo những hoạt động và thành quả bên ngoài mà lơ là đời sống nội tâm, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ và cả chúng ta nữa nuôi dưỡng hai điều cần thiết, đó là “cầu nguyện và có lòng thương xót” khi hoạt động tông đồ.

1- Trở về với đời sống cầu nguyện
Trước hết, chúng ta nói về vai trò của cầu nguyện. Quả thế, sau những ngày miệt mài truyền giáo, Chúa Giêsu thấy các ông cần được nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng nên Người bảo: “Anh em hãy lánh riêng ra đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,32).
“Lánh vào nơi thanh vắng” có nghĩa là tách mình khỏi sự ồn ào, khỏi sự huyên náo bên ngoài, để đi vào trong thinh lặng nội tâm, cầu nguyện và gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Ở đây Chúa Giêsu muốn các môn đệ và chúng ta ý thức rằng: cầu nguyện là việc làm cần thiết cho đời sống Kitô hữu và sứ vụ truyền giáo. Cầu nguyện là linh hồn của đời sống và hoạt động tông đồ: Không cầu nguyện, chúng ta dễ chạy theo hình thức bề ngoài mà thiếu ý nghĩa bên trong; Không cầu nguyện, người môn đệ Chúa dễ bị biến chất và tha hóa; Không cầu nguyện, chúng ta chỉ là những nhà hoạt động xã hội thuần túy, chứ không phải là chứng nhân của Chúa. Vì thế, cầu nguyện là rất cần thiết.
Vậy thì phải cầu nguyện như thế nào? Chúng ta thường có thói quen cầu nguyện là lôi kéo Thiên Chúa xuống, theo những nhu cầu, ý muốn và toan tính của chúng ta. Cầu nguyện như thế chưa phải là cầu nguyện theo cách thức mà Chúa Giêsu dạy. Theo đó, cầu nguyện là tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và để cho Người lối kéo chúng ta lên với thế giới của Người, để lắng nghe tiếng Chúa, để có những tầm nhìn và tâm tư của Chúa. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong Vườn Dầu là một dẫn chứng cụ thể: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con” (Lc 21,42). Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đó, Người tiếp tục: “Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 21,42). Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến” (Lc 11,2). Đó là ý hướng mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta thực hành khi cầu nguyện.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta cầu nguyện, Người còn là mẫu gương tuyệt hảo về cầu nguyện. Người cầu nguyện mỗi ngày: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện ở đó” (Mc 1,35). Người cầu nguyện trước những biến cố quan trọng, như khi chọn các Tông Đồ: “Chúa Giêsu đi ra núi cầu nguyện và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6,12).
Như thế, đối với Chúa Giêsu, cầu nguyện là tìm kiến thánh ý Thiên Chúa, chứ không phải là muốn kéo Thiên Chúa theo ý riêng mình. Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện mỗi ngày, biết nghĩ ngơi và tĩnh dưỡng trong Chúa để kín múc sức mạnh từ chính Thiên Chúa cho đời sống và sứ vụ chúng ta. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu dạy các Tông Đồ tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.

2. Người chạnh lòng thương
Điều chính yếu thứ hai đó là lòng thương xót. Cũng Tin Mừng Máccô hôm nay kể lại một chi tiết rất ý nghĩa: “Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (Mc 6,32).
Ở đây, chúng ta có một chi tiết quan trọng diễn tả tấm lòng mục tử của Chúa Giêsu: Người “chạnh lòng thương;” Người có một trái tim nhạy bén, một trái tim biết rung cảm và thương xót trước những nổi đau, khó khăn và cô đơn mà con người đang phải gánh chịu. Trái tim của Chúa Giêsu như trái tim của một người mẹ đau chính nỗi đau của người con. Nên suốt cuộc đời, Đức Giêsu xuất hiện như sứ giả của Lòng Thương Xót Thiên Chúa Cha, Người đến xoa dịu nỗi đau và cứu vớt con người. Khi nhìn thấy đám đông dân chúng bơ vơ, không người chăn dắt, Người chạnh lòng thương xót họ cách sâu xa (x. Mt 9,36). Khi thấy những người đau yếu, bệnh hoạn, tật nguyền, bị quỷ ám, Người chữa lành cho họ (x. Mt 14,14 tt; Mc 5,19). Và tấm lòng chạnh thương đó đạt tới tột đỉnh khi Người chấp nhận chết trên thập giá và phục sinh để mang lại ơn cứu độ cho con người. Điều này được thánh Phaolô nói trong bài đọc II, nhờ cái chết của Người, Chúa Giêsu đã liên kết dân ngoại và dân Do thái; hòa giải nhân loại với Thiên Chúa.
Ngoài ra, hình ảnh “một đám người rất đông, bơ vơ, không người chăn dắt” là hình ảnh nói về thế giới và con người hôm nay. Hơn lúc nào hết, chúng ta đang sống trong một thời đại mà sự vô cảm đang lan tràn khắp nơi. Có biết bao nhiêu người phải sống trong cảnh khốn khổ vì nghèo đói, thất nghiệp và chiến tranh; có biết bao gia đình phải sống trong cảnh bấp bênh, không nhà cửa, không nghề nghiệp, không tương lai; có biết bao người trẻ là nạn nhân của bạo lực, oán thù và lừa lọc gian dối, họ bị tước đi quyền được đến trường, được học hành; có biết bao người già, người bị bệnh tật, tù đày đang ở trong cảnh cô đơn, loại trừ và bỏ rơi v.v... Họ đang thiếu người giúp đỡ; họ đang cần được hướng dẫn và chăm sóc. Họ đang thiếu vắng lòng thương xót và cần đến lòng thương xót Chúa.

3- Biết chạnh lòng thương như Chúa
Nếu nói rằng trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu là trở nên giống Người, là có những tâm tư tình cảm như Người, thì cũng có nghĩa là biết “chạnh lòng thương” như Chúa và trở nên những thừa tác viên của lòng thương xót Chúa cho anh chị em mình.
Bởi đó, khi khai mạc Công Đồng Vatican II, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã chọn “lòng thương xót hơn là kết án” làm định hướng mục vụ cho Giáo Hội trong thế giới hôm nay. Giáo Hội phải thực sự là chứng nhân của lòng thương xót Chúa. Đặc biệt, Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn toàn thể Giáo Hội, cách riêng các mục tử của Chúa tiếp tục áp dụng nguyên tắc “thương xót” như là “liều thuốc” để đưa con người thời nay về với Thiên Chúa.
Là môn đệ Chúa Kitô, tất cả chúng ta được mời gọi trở thành những người “biết chạnh lòng thương,” hay nói cách khác, hãy trở thành những người có trái tim mục tử của Chúa Giêsu, để có thể đồng cảm, đồng hành với anh chị em mình, nhất là với những người đau khổ. Vì chỉ có lòng thương xót Chúa mới thực sự là ngọn lửa thắp lên để sưởi ấm lòng người. Chỉ có lòng thương xót Chúa mới có thể quy tụ con người lại với nhau bên bếp lửa hồng đó. Và chỉ có lòng thương xót Chúa mới có thể vực con người đứng dậy, trở về với Thiên Chúa sau những vấp ngã, thất vọng, đổ vỡ trong cuộc đời này. Tắt một lời, cuối cùng chỉ có lòng thương xót Chúa mới cứu rỗi thế giới.
Như thế, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hai điều: một đàng, chúng ta luôn biết trở về với đời sống nội tâm, tĩnh lặng, nghĩ ngơi để cầu nguyện và gặp gỡ thân tình với Chúa; đàng khác, đối diện thực trạng cuộc sống hôm nay, chúng ta đồng thời được mời gọi hãy biết chạnh lòng thương và trở thành người mang lòng thương xót Chúa cho những ai chúng ta gặp gỡ và phục vụ. Như thế, đời sống Kitô hữu và sứ vụ của chúng ta chắc chắn sẽ mang lại nhiều hoa trái tốt đẹp cho Nước Chúa và cho cứu độ của anh chị em mình. Amen!


 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bề trên tổng quyền nói rằng những nữ tu dòng Mẹ Teresa không liên quan gì đến vụ bán trẻ em.
Giuse Thẩm Nguyễn
12:57 20/07/2018
Nữ tu Mary Prema, bề trên tổng quyền của Dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Teresa tuyên bố rằng các nữ tu không liên quan gì đến vụ bán trẻ em từ một cơ sở dành cho những bà mẹ không chồng ở Ấn Độ,

Cuộc bắt giữ một nữ tu của Dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Teresa và một nhân viên tại một cơ sở chăm sóc các bà mẹ không chồng ở miền đông của thành phố Ranchi, Ấn Độ, với cáo buộc là bán một trẻ mới sinh, đã dẫn đến việc nhà cầm quyền Ấn Độ ra lệnh thanh tra tất các các cở chăm sóc được điều hành bởi các nữ tu.

Cuộc bắt giữ vào đầu tháng này xảy ra khi có một khiếu nại của một cặp người Ấn rằng họ đã trả 120,000 Rupees cho cô Anima Indwar, một nhân viên tại nhà chăm sóc Nirmal Hriday (Trái Tim dịu dàng) điều hành bởi các nữ tu nằm ở thủ đô bang Jharkhand.

Tuyên bố chính thức của Nữ Tu Prema

Bề trên Tổng Quyền là Nữ Tu Mary Prema đã cho phổ biến thông cáo báo chí vào hôm Thứ Ba rằng việc bán trẻ mới sinh đã “không liên quan gì đến Cộng Đồng của Nhà Dòng Thừa Sai Bác Ái.”

Nữ tu đã viết trong một tuyên bố chính thức rằng, “Chúng tôi rất sầu buồn và đau đớn về những việc xảy ra gần đây tại cơ sở nhà dòng Thừa Sai Bác Ái (MC), dù rằng chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào tiến trình pháp lý đang tiến hành, chúng tôi muốn bày tỏ niềm hối tiếc và đau buồn về những gì đã xẩy ra và khẳng định rõ ràng rằng chúng tôi lên án hành động cá nhân, mà nó không liên quan gì đến Cộng Đoàn nhà dòng Thừa Sai Bác Ái.

Trong lúc tỏ ra tin tưởng vào luật pháp và tòa án, nữ tu Prema lấy làm tiếc rằng “Nhiều huyền thoại đang được loan truyền, thông tin bị bóp méo và những tin bịa đặt đang được thổi phồng và những bình phẩm vô căn cứ đang ném vào các Nữ Tu của Mẹ Teresa.”

Sự kiện

Trong thông cáo báo chí, Nữ Tu Prema kể lại chuyện rằng khi cô Karishma Toppo, một bà mẹ không chồng, sinh đứa con vào ngày 1 tháng Năm tại nhà chăm sóc Nirmal Hriday, cô ấy đã nói với ban ghi danh hộ tịch rằng cô ấy sẽ bỏ đứa con của mình để giao cho Ủy Ban An Sinh Trẻ Em (CWC), một cơ sở cấp quận của chính quyền có nhiệm vụ lo việc nhận con nuôi.

Cô Indwar, một nhân viên được các nữ tu rất mực tin tưởng, đã cùng với cô Toppo và người giám hộ mang đứa trẻ ấy đến Ủy Ban An Sinh Trẻ Em, nhưng Nữ Tu Premas lưu ý, không có trung tâm hay bấy cứ nữ tu nào có thể đoan chắc là liệu đứa trẻ ấy được thực sự giao cho CWC hay không, nếu như ủy ban không đưa ra sự công nhận sau khi nhận giữ đứa trẻ.

Khi CWC tra hỏi về đứa trẻ vào ngày 3 tháng Bẩy, thì Indwar thừa nhận là đứa trẻ ấy đã bị bán cho nơi khác. Cô ta đã bị bắt giao cho cảnh sát.

Sau này mới rõ ra là 120,000 Rupees mà cặp vợ chồng nhận nuôi ấy đã trả, thì Indwar nhận 20.000 Rs, người giám hộ nhận 10,000 Rs và Toppo, người mẹ sinh đứa con ấy, nhận 90,000 Rs để theo đuổi việc học của cô ấy.

Ngày hôm sau, Nữ tu Concelia, người phụ trách phần mục các bà mẹ không chồng và Nữ tu Marie Deane, bề trên cơ sở Nirmal Hriday bị bắt. Nữ tu Deanne sau đó được thả ra.

Bôi xấu Mẹ Terresa và Giáo hội.

Đức Giám Mục Theodore Mascarenhas, Tổng Thư Ký của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Ấn Độ (CBCI) và là Giám Mục Phụ Tá của giáo phận Ranchi đã nói với đài truyền hình Mirro Now rằng ngài lấy làm tiếc về những gì đã xảy ra tại cơ sở Nirmal Hriday ở Ranchi quả là chuyện “đau buồn, thảm kịch và đáng bị lên án, không thể chấp nhận được”. Tuy nhiên, Cộng Đoàn Dòng Dòng Thừa Sai Bác Ái“rõ ràng không liên quan đến việc này.”

Qua điện thoại với đài Tin Tức Vatican, Đức Giám Mục Mascarenhas nói rằng những kẻ cơ hội vì quyền lợi riêng đang ra sức khai thác vấn đề này để bôi xấu Mẹ Terresa và Giáo Hội Công Giáo.
Source: Vatican News Mother Teresa’s nuns not involved in baby sale says superior general
 
Tâm thư của Đức Hồng Y Timothy Dolan gởi các tín hữu Công Giáo về Chín Tuần cầu nguyện cho Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ
Đặng Tự Do
15:38 20/07/2018
Tổng thống Donald Trump, đã đề cử ông Brett Kavanaugh vào chức vụ thẩm phán của Tòa Án Tối Cao Hoa Kỳ để thay thế cho Thẩm Phán Anthony Kennedy tuyên bố nghỉ hưu vào ngày 27 tháng 6 năm 2018. Việc bổ nhiệm của tổng thống Trump còn phải được sự phê chuẩn của Thượng Viện Hoa Kỳ.

Việc phê chuẩn này chắc chắn là rất khó khăn vì ứng viên Kavanaugh là một người Công Giáo ngoan đạo, nổi tiếng chống lại phán quyết cho phép phá thai, thường được gọi là phán quyết Roe chống Wade, của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ. Các phương tiện truyền thông thế tục cho rằng một khi được bổ nhiệm vào Tòa Án Tối Cao, ông Cavanaugh và những vị Thẩm Phán khác sẽ hình thành khối đa số và sẽ tìm cách lật lại vụ Roe chống Wade.

Thấy trước việc phê chuẩn này sẽ rất là khó khăn, Đức Hồng Y Daniel DiNardo N. Galveston-Houston, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã viết thư cho các thành viên của Thượng Viện vào ngày 6 tháng 7, thúc giục họ đừng coi việc ủng hộ phán quyết Roe chống Wade như là một điều kiện tiên quyết để phê chuẩn một ứng viên Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ.

Ngày 19 tháng 7, Đức Hồng Y Timothy Michael Dolan, Tổng Giám mục New York và là Chủ tịch Ủy ban các hoạt động phò sinh của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ (USCCB) đã ra một tuyên bố mời gọi tất cả mọi người thiện chí tham gia vào một chiến dịch cầu nguyện để sự thay đổi ở Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ sẽ dịch chuyển quốc gia chúng ta gần hơn đến ngày mà mỗi người đều được luật pháp bảo vệ và được hoan nghênh trong cuộc sống.

Dưới đây là toàn bộ tuyên bố của Đức Hồng Y Dolan:

“Ngay sau khi Chánh Án Tòa án Tối cao Anthony Kennedy tuyên bố nghỉ hưu, các nhóm phò phá thai đã bắt đầu vận động hành lang tại Thượng viện Hoa Kỳ để bác bỏ bất kỳ ứng cử viên nào không hứa sẽ ủng hộ phán quyết Roe chống Wade.

Dù Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ không ủng hộ hay phản đối việc xác nhận bất kỳ ứng cử viên nào do tổng thống bổ nhiệm, chúng ta có thể và nên gióng lên mối quan tâm nghiêm trọng về một tiến trình xác nhận mà đang bị thao túng bởi những nỗ lực nhằm buộc các ứng cử viên thẩm phán phải hỗ trợ phán quyết Roe chống Wade như một điều kiện tiên quyết.

Mỗi thứ Sáu, từ ngày 3 tháng 8 đến ngày 28 tháng 9 năm 2018, tôi mời gọi tất cả mọi người thiện chí cùng tôi cầu nguyện để sự thay đổi này tại Tòa án Tối cao Hoa Kỳ sẽ giúp quốc gia của chúng ta đến gần hơn với ngày mà mỗi con người được luật pháp bảo vệ và được hoan nghênh trong cuộc sống. Mạng lưới Call to Prayer của USCCB sẽ chia sẻ những lời cầu nguyện và tài nguyên giáo dục và một lời mời gọi chay tịnh vào ngày thứ Sáu cho ý chỉ này.

Cầu xin Đức Mẹ Guadalupe can thiệp cho sự chữa lành của đất nước chúng ta và dân tộc chúng ta sau nhiều thập kỷ phá thai theo yêu cầu.”

+ Đức Hồng Y Timothy Michael Dolan

Chủ tịch Ủy ban các hoạt động phò sinh của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ


Các tài liệu của Call to Prayer có thể truy cập tại địa chỉ http://www.usccb.org/issues-and-action/take-action-now/call-to-prayer/legal-protection-of-human-life.cfm. Những ai muốn tham gia nỗ lực cầu nguyện chín tuần này có thể ghi danh tại www.usccb.org/pray để tham gia vào chương trình này và các sáng kiến cầu nguyện tiếp theo của Call to Prayer qua email hoặc qua tin nhắn điện thoại.
 
Lại chuyện người đời muốn điều hành tôn giáo: Thủ tướng Úc kêu gọi cắt chức tổng giám mục bị kết án vì không báo cáo vụ lạm dụng.
Giuse Thẩm Nguyễn
16:16 20/07/2018


Thủ tướng Úc là Malcolm Turnbull hôm thứ Năm đã kêu gọi ĐGH cắt chức Tổng Giám Mục Phillip Wilson của Adelaide, người đã bị kết án vào tháng Năm vì đã không tường trình vụ tố cáo lạm dụng tình dục trẻ em đã được báo cáo với ngài vào thập niên 1970.

Theo tờ The Australian, Turnbull đã nói vào ngày 19 tháng Bẩy rằng “Theo như nhữg gì Phillip Wilson có liên quan, thì ông ta nên từ chức, ông ấy nên từ chức.”

“Và đã đến lúc ĐGH sa thải ông ta. Có nhiều nhà lãnh đạo đã kêu gọi ông ấy từ chức, rõ ràng là ông ấy nên từ chức, và tôi nghĩ đã đến lúc vị có quyền tối thượng của giáo hội hành động và sa thải ông ấy.”

Turnbull chuẩn bị để gặp một nhóm các giám mục Úc và nói rằng họ sẽ “thảo luận một loạt những đề tài này.” Giáo hội ở Úc đang tìm kiếm sự rõ ràng về quỹ liên bang dành cho các trường Công Giáo.

Tổng Giám Mục Wilson, 67 tuổi, bị kết án vào ngày 22 tháng Năm vì dấu kín vụ lạm dụng bởi một linh mục trong cùng giáo xứ ở New South Wales vào thập niên 1970. Vào lúc ấy ngài mới thụ phong linh mục được một năm.

Những nạn nhân của vụ bê bối này là Peter Creigh và một người khác dấu tên vì lý do pháp lý, nói rằng cả hai đã trình với cha Wilson về việc bị lạm dụng bởi linh mục James Fletcher. (Mới làm linh mục, chân ước chân ráo đến một giáo xứ thì biết làm gì khác hơn. Ngoài ra, lời tố cáo của hai thằng nhóc lúc ấy liệu có đáng tin không? Sự việc ấy đã xảy ra trên 40 năm. Có ai bị kết án vì một hành vi không cố ý, chẳng phải do mình gây ra, mà chỉ là thiếu xót, xảy ra với một khung thời gian dài như thế không? Có chăng là việc tố cáo những vị chức sắc trong Giáo Hội?)

Vị tổng giám mục bị kết án vào ngày 3 tháng Bẩy với một mức án tù 12 tháng, và dường như sẽ thi hành án tại gia, nhưng ngài dự trù sẽ kháng án.

Tổng giám mục Wilson nói rằng “Tôi ý thức về những cuộc gọi tôi từ chức và tôi đã cho là rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, vào lúc này, tôi có quyền hành xử quyền pháp lý của tôi và tuân theo tiến trình của luật pháp. Bởi vì tiến trình luật pháp ấy chưa hoàn tất, tôi không có ý định từ chức vào lúc này.”

“Tuy nhiên, nếu tôi không thành công trong việc kháng cáo của tôi, tôi sẽ ngay lập tức xin từ chức với Tòa Thánh,”

ĐGH đã bổ nhiệm ĐGM Gregory O’kelly của Port Pirie làm tổng quản của Tổng Giáo Phận Adelaide.

Đức Tổng Giám Mục Mark Colereide của Brisbane, Chủ tịch Hội Đồng Gíam Mục Úc đã nói vào ngày 5 tháng Bẩy rằng “ một số những nạn nhân còn sống, những nhà vị vọng của Úc và những thành viên khác của cộng đồng đã công khai kêu gọi Tổng giám Mục Wilson từ chức.”

“Mặc dầu chúng ta không có quyền buộc ngài phải làm thế, một số các giám mục Úc cũng đã khuyên ngài một cách riêng tư, chỉ có ĐGH mới có quyền buộc một vị giám mục từ chức.”

Tổng Giám Mục Coleridge nói rằng hội đồng đã theo dõi “rất chặt chẽ” vụ án của Tổng Giám Mục Wilson và họ tôn trọng quyết định kháng cáo của ngài vì đó là “quyền của bất cứ công dân nào”, nhưng nói rằng “chúng tôi cũng nhận ra nỗi đau thương đã gây ra cho những nạn nhân còn sống, nhất là những người bị lạm dụng bởi Jim Fletcher.”

.
Source: Catholic News Australian PM calls for removal of archbishop convicted of not reporting abuse
 
Đức Thánh Cha gửi một tín thư tới cuộc họp mặt của ''Cuộc Đại hội Các Nhóm Đức Mẹ''
Thanh Quảng sdb
22:38 20/07/2018
Đức Thánh Cha gửi một tín thư tới cuộc họp mặt của "Cuộc Đại hội Các Nhóm Đức Mẹ"

Đức Thánh Cha hôm thứ Sáu 20/7 đã gửi một thông điệp chúc mừng tới những tham dự viên về một cuộc họp các phong trào Công Giáo quốc tế dành cho các cặp vợ chồng Kitô giáo tại Fatima, Bồ Đào Nha.

Trong lời chào mừng Đức Thánh Cha Phanxicô gửi cho những tham dự viên của cuộc họp lần thứ 12 của “Đại hội Các Nhóm Đức Mẹ” đang diễn ra tại Fatima từ 16 đến 21 tháng Bảy rằng “Giáo Hội lên án tội lỗi, bởi vì Giáo Hội phải nói lên sự thật, nhưng đồng thời Giáo Hội cũng phải giang tay ôm ấp các tội nhân như chính thân phận lỗi lầm của mình vậy ”.

“Đại hội Các Nhóm Đức Mẹ”, cũng được biết đến với những từ viết tắt END, là một phong trào tập trung vào tinh thần tâm linh được thành lập ở Pháp vào năm 1938 theo sáng kiến của một vài cặp vợ chồng và một linh mục là Cha Henry Caffarel.

Các cặp vợ chồng ban đầu bắt đầu tập hợp hàng tháng để đào sâu sự hiểu biết của họ về Bí tích Hôn nhân và tìm cách liên kết chặt chẽ các cặp vợ chồng gia đình vào một tổ chức, một nhóm.

Phong trào mới này được chính thức ra mắt vào tháng 12 năm 1947 và hiện đang có mặt tại khắp 5 châu lục, tại 95 quốc gia, với hơn 13.500 nhóm, dưới sự hướng dẫn của bà Maria Berta và ông José Moura Soares.

ĐTC khuyến khích những người tham gia trong buổi họp mặt này hãy mở lòng, để nhìn vào nội tâm và nhận ra rằng mình cũng là những tội nhân với mong muốn được Chúa cứu chuộc.

Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý rằng cánh tay mở rộng của Chúa Kitô trên thập tự giá "cho thấy không ai bị loại trừ khỏi tình yêu của Chúa Cha hay từ lòng thương xót của Ngài", vì Chúa Giêsu "không ngừng hiến thân mình hầu cứu chuộc bất kỳ một người anh em nào của Ngài" và Ngài mời gọi chúng ta cũng hành động như vậy!
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Biết Bao Giờ Trong Vòng Tay Của Mẹ !
Sơn Ca Linh
07:49 20/07/2018
Nhớ ngày chia đôi đất nước với hiệp định Genève – 20/7/1954

Mẹ Việt nam mấy ngàn năm lịch sử,
Đã được bao thời thống nhất an yên ?
Mười hai sứ quân cát cứ mỗi miền,
Huynh đệ tương tàn tranh nhau ngai báu.

Nhà Mạc nhà Lê rừng xương sông máu,
Cùng nhà “Bách Việt” bôi mặt đá nhau.
Dòng sông Gianh bao năm tháng trở màu,
Nhuộm máu anh em hài đàng Trịnh Nguyễn.

Chiếc cầu Hiền Lương một thời chiến tuyến,
Huynh đệ tương tàn đôi cõi Bắc Nam.
Mượn bom Mỹ, vay đạn Tàu… tàn sát dã man,
Con một mẹ mà mỗi con một chiến tuyến…

Cái giá “chia đôi” thật là đau điếng,
Lưỡi hái tương tàn cướp mấy triệu sinh linh.
Bao thập niên rồi mà vẫn cứ mới tinh,
Lát cắt hận thù giữa đôi đường ý hệ.

Sông Bến hải dẫu đôi bờ nối lại,
Mà lòng người vẫn tít tắp chia xa.
Cầu Hiền Lương cho dẫu có bắt qua,
Nhưng kẻ “Bắc” người “Nam” biết bao giờ mới gặp ?

Tình tự anh em không dè bị đánh cắp.
Để làm đồ cúng cho một trò “hữu nghị viển vông”.
Mẹ Tổ Quốc ơi, Mẹ có đau không ?
Nhìn lũ con rứt ruột mãi hận thù xâu xé !

Biết bao giờ trong vòng tay của Mẹ,
Dẫu đứa “vàng”, đứa “đỏ”, đứa “xanh”,
Thằng vô thần, thằng có đạo, luôn cả bọn lưu manh,
Cùng nghe tiếng mẹ ru và hoà chung câu hát :

“Còn trời còn nước còn non,
Ta chung một mẹ vuông tròn thương nhau” !

Sơn ca Linh
(20/7/2018)



 
Văn Hóa
Sứ Vụ Thiên Chúa và Dự Án Giêsu: Người Nghèo và “Người Khác” như Những Người Trung Gian của Nước Trời và Những Người Chủ Đạo của Giáo Hội
Vũ Văn An
00:19 20/07/2018
Sứ vụ của Thiên Chúa hay việc sai đi của Thiên Chúa (Missio Dei) là một hạn từ thần học Kitô Giáo. Hạn từ này càng ngày càng nổi tiếng từ hậu bán thế kỷ 20 trở đi. Nhiều người cho là do nhà truyền giáo học người Đức Karl Hartenstein sáng chế. Dù sao, nó được Hội Nghị tại Willingen năm 1954 của Hội Đồng Truyền Giáo Quốc Tế sử dụng và được nhà thần học Georg Vicedom của Giáo Hội Luthêrô khai triển.

Nhưng người đem lại cho nó một mô tả xúc tích chính là David Bosch thuộc Giáo Hội Cải Cách khi ông này quả quyết: “truyền giáo chủ yếu không phải là một sinh hoạt của giáo hội, nhưng là một thuộc tính của Thiên Chúa. Thiên Chúa là một Thiên Chúa sai đi” (Transforming Mission, Maryknoll: Orbis Books, 1991, 389–390). Cùng trong đường hướng này, Jurgen Moltmann viết: “không phải giáo hội có sứ vụ cứu rỗi phải chu toàn trong thế giới; nó là sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần qua Chúa Cha, một sứ vụ có bao gồm giáo hội” (The Church in the Power of the Spirit: A Contribution to Messianic Ecclesiology, London: SCM Press, 1977, 64).

Từ đó, có một sự thay đổi nhẹ nhàng nhưng cương quyết hướng tới cái hiểu truyền giáo như sứ vụ của Thiên Chúa. Trong các thế kỷ trước đây, truyền giáo được hiểu theo nhiều nghĩa khác thế. Đôi khi được hiểu chủ yếu theo nghĩa cứu chuộc (soteriological) tức cứu chuộc các cá nhân khỏi trầm luân đời đời. Hay theo nghĩa văn hóa: dẫn đưa người ở phương Đông và phương Nam vào các ơn phúc và đặc ân của Kitô Giáo Phương Tây. Khi khác lại theo nghĩa giáo hội: để mở rộng Giáo Hội hay một hệ phái nào đó. Có khi cũng theo nghĩa lịch sử cứu rỗi: hiểu như một diễn trình nhờ đó thế giới, do từ từ biến đổi hay do một biến động lớn, sẽ biến đổi thành Vương Quốc Thiên Chúa.

Người ta cho rằng với các lối hiểu trên, mối liên hệ nội tai qua lại giữa Kitô học, cứu thế học và học lý Ba Ngôi, rất quan trọng đối với giáo hội sơ khai, đã từ từ nhường chỗ cho một trong các cách giải thích khác nhau về tín lý ơn thánh.

Từ hậu bán thế kỷ 20, người ta hiểu truyền giáo được dẫn khởi từ chính bản tính Thiên Chúa, và được đặt trong ngữ cảnh học lý Thiên Chúa Ba Ngôi, chứ không phải giáo hội học hay cứu thế học. Học lý cổ điển về sứ vụ của Thiên Chúa hiểu như Chúa Cha sai Chúa Con, và Chúa Cha cùng Chúa Con sai Chúa Thánh Thần được mở rộng để bao gồm một “chuyển động” khác tức Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần sai giáo hội vào thế gian.

Với cái hiểu trên, sứ vụ truyền giáo của chúng ta tự nó sẽ không có sự sống: chỉ ở trong tay Thiên Chúa sai đi nó mới thực sự được gọi là sứ vụ. Và điều này nữa: sáng kiến truyền giáo phát xuất từ một mình Thiên Chúa.

Thành thử truyền giáo được nhìn như một chuyển động từ Thiên Chúa tới thế gian; giáo hội được coi như một dụng cụ để thi hành sự sai đi này. Có giáo hội vì có sai đi, chứ không ngược lại. Tham dự vào việc sai đi là tham dự vào chuyển động yêu thương của Thiên Chúa hướng tới dân Người, vì Thiên Chúa là nền tảng của việc sai tình yêu đi.

Như Darell Guder nói nhân danh The Gospel and Our Culture Network, chúng ta bắt đầu thấy ra rằng giáo hội của Chúa Giêsu Kitô không phải là mục đích hay mục tiêu của tin mừng, mà đúng hơn chỉ là một dụng cụ và nhân chứng... Chính sứ vụ của Thiên Chúa đã kêu gọi và sai chúng ta, giáo hội của Chúa Giêsu Kitô, đi để trở thành một giáo hội truyền giáo trong các xã hội của chúng ta, trong các nền văn hóa trong đó chúng ta hiện diện (Missional Church: A Vision for the Sending of the Church in North America, Grand Rapids, MI: Eerdmans Publishing, 1998, 4-5).

Chính trong ngữ cảnh trên, Paulo Suess, nhà thần học Công Giáo người Đức, nhưng sinh hoạt ở Ba Tây và là nhà sáng lập ra ngành học hậu đại học về truyền giáo tại đây, trong International Review of Mission, Vol. XCII, n. 367, tháng Mười năm 2003 có bài viết tựa là “Missio Dei and the Project of Jesus: The Poor and the “Other” as Mediators of the Kingdom of and Protagonists of the Churches” (Sứ Vụ Thiên Chúa và Dự Án Giêsu: Người Nghèo và “Người Khác” như Những Người Trung Gian của Nước Trời và Những Người Chủ Đạo của Giáo Hội), một bài vốn nguyên ủy viết cho Hội Nghị Willingen.

Trong phần nhập đề, sau khi nói đến cảnh bới rác của dân nghèo ở Asunción, Paraguay mà ông được chứng kiến nhân tham dự hội nghị đại kết Châu Mỹ La Tinh lần thứ tư về “teologia india”, tháng Năm năm 2002, và việc hàng giáo phẩm ở đây giữ một khoảng cách tín lý với đống rác ấy, tác giả tự hỏi: “liệu ý niệm thần học missio Dei, nói đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế gian, có được thông truyền một cách có ý nghĩa trong những cảnh tượng bạo lực như thế này không?

Theo ông, Châu Mỹ La Tinh có 500 năm lịch sử giáo hội nhưng lịch sử này chưa bao giờ ăn khớp với lịch sử nhân bản đã có từ 30 hay 40 ngàn năm của lục địa này. Ông cho rằng, đối với thần học Châu Mỹ La Tinh, thực hành luôn đóng vai trò quan trọng hơn là việc đào sâu vào ngôn từ hơn nhằm biện minh hay tái dựng nhưng cuốc xẻng đào xới bị gẫy hết khi gặp nền đất đầy sỏi đá của thực tại. Liệu trong bối cảnh này, ý niệm missio Deicó còn tác dụng gì không? Cụ thể hơn, làm thế nào biến các chủ đề của missio Deithành tin mừng cho người nghèo và “người khác”?

Theo Suess, ý niệm missio Deigiả thiết một lịch sử suy niệm lâu dài về mầu nhiệm Ba Ngôi. Ngay cả bây giờ, điều này cũng vẫn đưa chúng ta vào một mê hồn trận các hạn từ phức tạp về sự sống nội thẳm (processiones, phát sinh) và hoạt động bên ngoài (missiones, sai đi) của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đến mức nào thì các missiones (sai đi) này có thể được dùng như các loại suy cho điều ngày nay ta gọi là truyền giáo hay bản chất truyền giáo của giáo hội? Liệu missio Dei có gì liên quan đến các cơ sở và hoa trái của niềm hy vọng mà chúng ta có thể giải thích (1 Pr. 3:15) không?

Đối với Kitô hữu, mô hình missio Deithoạt đầu nói về sự hiện diện và, cùng một lúc, sự siêu việt của Thiên Chúa. Không tạo vật nào đã được nhìn thấy Thiên Chúa (Ga 5:37; 6:46). Việc sai Chúa Giêsu đi chính là vì việc Người được nhìn thấy, chứng từ có thế giá của Người (Ga 3:11). Sự căng thẳng giữa tính siêu việt của Thiên Chúa một đàng và đàng kia sự hiện diện của Người trong thế giới khiến chúng ta lưu ý đến vấn đề làm trung gian cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Missio Deilà ý niệm thần học giúp ta nói đến cả hai, cả sự hiện diện lẫn tính siêu việt của Thiên Chúa.

Các vay mượn văn hóa dùng để giải thích missio Deiphát xuất từ xa, đúng thế, nhưng đối với chúng ta, truyền giáo mà không dính líu gì tới missio Deichắc chắn chỉ còn là một sứ vụ giải phóng đạo đức – xã hội ngắn hạn. Ngược lại, một truyền giáo chỉ biết trừng trừng dán mắt vào sự thật trong sứ điệp cứu rỗi của nó mà thôi kết cục sẽ sa vào chủ nghĩa cực đoan.

Các Kitô hữu tìm cơ sở cho việc truyền giáo được họ hiểu như một sứ vụ hy vọng và yêu thương trong đức tin, trong Thiên Chúa, Đấng khôn rò. Vị Thiên Chúa yêu thương này không thể mãi mãi ở một mình và khép kín nhưng phải tự hiến mình trong tương quan. Vị Thiên Chúa khôn rò và siêu việt này để lại các dấu vết hữu hình không những trong tạo thế mà, đối với các Kitô hữu, trên hết, trong việc mạc khải và nhập thể của Ngôi Lời. Chúng ta lần rở lại các dấu vết này của Thiên Chúa khi tìm cơ sở cho việc truyền giáo và việc hợp pháp hóa nó một cách hợp bối cảnh và phổ quát. Chúng ta đi lại nẻo đường mạc khải truyền khẩu và văn bản cả mạc khải bằng các dấu chỉ không lời (non-verbal) nữa cho tới khi vươn tới cơ sở vô hình của nó. Khởi đi từ con đường cứu rỗi chuyên biệt có tính Kitô Giáo, như đã được cung hiến cho nhân loại qua việc nhập thể của Ngôi Lời nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cố gắng công bố lượng nhân từ của Thiên Chúa cho mọi hữu thể nhân bản. Lịch sử cứu rỗi địa phương tạo thành cái khung cho sự cứu rỗi phổ quát. Tính phổ quát này cần phải được chấp nhận vì, nếu không, cứu rỗi sẽ trở thành chuyện của số ít người được ưu đãi và may mắn.

Missio Deidứt khoát cho thấy việc sai đi và hiện diện phổ quát của Thiên Chúa. Nó cho thấy một hình thức hiện diện đặc thù của Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi dưới hình thức pneuma (thần khí) và logos (lời) nhập thể. Nền tảng vô hình của missio Deitrong thần học được mô tả bằng thuật ngữ “ba ngôi nội tại” (immanent trinity). “Ba ngôi nội tại” phối hợp điều thần học gọi là sự phát sinh (processiones) nội tại của thần khí (pneuma) do “sự thở hơi” ("spiration") của Chúa Cha và Chúa Con, và sự phát sinh của lời do việc "sinh ra” ("procreation") bởi Chúa Cha. Những cuộc phát sinh của lờithần khí này, trong suy tư thần học hiểu là do tình yêu nơi Thiên Chúa giả định đòi hỏi, sau đó đã được mô tả chính xác hơn như là “thông truyền” (communication) và "tương quan" (relationship). Cơ sở vô hình của “Ba Ngôi nội tại” trùng hợp với các hậu quả hữu hình của “Ba Ngôi nhiệm cục (lịch sử cứu rỗi)” (nhập thể, thập giá/phục sinh và sai Chúa Thánh Thần xuống) mà chúng ta gọi là missio Dei. Điều đó giải thích tại sao thần học cổ điển coi missio Deilà đỉnh điểm của các mầu nhiệm quan trọng nhất của đức tin và là việc tiếp tục theo lối loại suy các phát sinh vốn đã bắt đầu “trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17:24).

Sự hiện diện của Thiên Chúa

Missio Deitrước nhất chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa do việc sai lờithần khí đi. Việc sai lời đi vào bản tính thực sự nhân loại của Chúa Giêsu thành Nadarét được tiếp nối với sự sai Chúa Thánh Thần xuống thế gian và giáo hội. Việc sai Chúa Thánh Thần đi cũng xẩy ra với mỗi con người cá thể. Việc cư ngụ của Thiên Chúa Ba Ngôi trong các hữu thể nhân bản đã được tha thứ là một trong các mục tiêu của missio Dei(Ga 14:23); việc này, tuy thế, không được hiểu như một việc đặc thù hóa sự hiện diện và hành động cứu rỗi của Thiên Chúa. “Việc sai đi” và “việc cư ngụ của Thiên Chúa Ba Ngôi” luôn có nghĩa sự hiện diện toàn diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa Cha không ở đâu đó “đàng sau” thần khí được sai đi và ngôi lời nhập thể, do đó, chịu mất căn tính, như chữ ẩn dụ “sai đi” có thể gợi ý, như thể người nhận bài sai và sứ giả khác với người sai. Thiên Chúa được mạc khải qua Chúa Con như người sai lờithần khí đi và đồng thời như lờithần khí. Trong cách hiểu thông thường của chúng ta, sứ vụ và sai đi luôn liên hệ tới việc thay đổi nơi chốn. Với missio Dei, câu truyện không như thế. Việc ngôi lời thần khí đến trong thế gian nhỏ bé của chúng ta, xét theo vũ trụ học, không hề làm cho Thiên Chúa hay “một phần của Thiên Chúa” (lờithần khí) khiếm diện “ở một nơi khác nào đó” nhưng chỉ có thể hiểu như một biểu hiện đặc biệt của Thiên Chúa duy nhất và hiện diện khắp nơi trong các điều kiện lịch sử và nhân học mà thôi.

Luôn luôn là Thiên Chúa duy nhất ba ngôi, Đấng đến với chúng ta trong nhiều hình thức khác nhau của cho đi và sự sống thần linh như thần khí lời, như Chúa Thánh Thần và Chúa Con, và là Thiên Chúa từ muôn đời tới muôn đời, trong khi vẫn là Thiên Chúa xa cách và mầu nhiệm vô cùng. Thiên Chúa không phải chỉ là người sai. Nơi Chúa Con và thần khí, Thiên Chúa đồng thời là người được sai đi. “Bất cứ ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14:9). Hai vị có một sự đồng nhất trong việc rao giảng (kerygmatic identity): "Chúa Cha, Đấng sai Ta, chính Người đã ban cho Ta lệnh truyền phải nói gì và phải tuyên bố gì” (Ga 12:49).

Vì Thiên Chúa duy nhất cũng là Thiên Chúa ba ngôi, nên sứ vụ của Thiên Chúa, tức missio Dei, cũng chỉ luôn được hiểu nhờ loại suy. Thiên Chúa không sai các phần hay các phái viên của Ba Ngôi đi. Sứ vụ của Thiên Chúa, trong căn bản, chỉ là một dấu hiệu của sự hiện diện toàn diện của Người giữa chúng ta. Nói cách khác, Thiên Chúa không đến với những hữu thể nhân bản vô thần thánh qua việc sai đi... Do đó, truyền giáo là truyền bá đức tin chứ không phải truyền bá Thiên Chúa. Truyền giáo chỉ công bố phương cách chuyên biệt của Thiên Chúa, Đấng luôn hiện diện. Nếu ta cũng coi giáo hội có tính “truyền giáo từ trong bản chất” (Ad gentes, 2), và ta hiểu bản chất này đến nỗi trong giáo hội không còn hoạt động hay sự công bố nào mà không có tính truyền giáo, cả ad intra (đối nội) lẫn ad extra (đối ngoại), thì sự phân biệt giữa lịch sử giáo hội và lịch sử truyền giáo sẽ không còn nữa. Thâm hậu hóa đức tin tại “các nước truyền thống theo Kitô Giáo” cũng là một hình thức truyền bá đức tin. Lịch sử giáo hội luôn luôn là lịch sử truyền giáo, và lịch sử truyền giáo là lịch sử giáo hội. Nên không hề có “các xứ truyền giáo” hiểu theo nghĩa ngược với các xứ không truyền giáo...

Truyền giáo của giáo hội là truyền giáo qua việc thành lập các cộng đồng. Các giáo hội và cộng đồng nào hiểu rõ Kitô Giáo là gì đều là những giáo hội và cộng đồng truyền giáo, và việc sai đi các thành viên của họ chỉ là một hình thức đặc biệt của đặc tính truyền giáo. Điều này cũng áp dụng vào đời sống các dòng tu. Theo chân Chúa Giêsu, sống như anh chị em trong cộng đồng và trong sự nghèo khó theo tin mừng là các dấu chỉ tinh thần truyền giáo của mọi hội dòng (Xem John Paul II, Vita consacrata, No. 72, 1996). Trong lịch sử thế giới, lịch sử giáo hội và lịch sử truyền giáo, missio Deichỉ có thể được công bố trong tư cách môn đệ. Nó là sự tiếp nối lịch sử của mặc khải Thiên Chúa ba ngôi, mà sự tự đổ mình ra bằng lời và dấu chỉ luôn diễn ra bên trong và bên ngoài các giáo hội như những định chế: “Như Cha đã sai Con vào thế gian thế nào, con cũng sai chúng vào thế gian như vậy” (Ga 17:18).

Thực hành hàng ngày của Giáo Hội không luôn dành chỗ cho missio Dei. Ngay trong giáo hội, chúng ta cũng phải lưu ý tới sự hiện diện mầu nhiệm của Thiên Chúa. Muốn thế, ta được kêu gọi tạm ngưng mọi lề thói hàng ngày của định chế, cùng với mọi mong ước có được các giải pháp ma thuật và công trình làm ăn nói chung. Các tín hữu cũng luôn luôn phải đương đầu với việc thiếu lòng tin (Mc 9:24). Việc Thiên Chúa tự phát biểu luôn diễn ra dưới hình thức tự đổ mình ra đầy hàm hồ (xem K. Rahner, Grundkurs des glaubens. Einführung in den Begriff des Christentums, 5th ed. Freiburg i. Br., Herder, 1977, p. 222). Việc phúc âm hóa và công bố truyền giáo, do đó, luôn được ngỏ cả với giáo hội chúng ta lẫn những người ở bên ngoài giáo hội này. Giáo hội mà bản tính chủ yếu có tinh thần truyền giáo luôn tự phúc âm hóa mình cùng một lúc (Evangelii nuntiandi, 15). Mọi thầy cô dạy Thánh Kinh cũng đều là học trò của vương quốc Thiên Chúa (Mt 13:52). Và lời kêu gọi thống hối, vốn là một phần của việc công bố rằng nước Thiên Chúa đã gần kề, luôn giả thiết vị giảng thuyết và giáo hội phải thống hối trước.

Kỳ sau: Kế hoạch của Thiên Chúa
 
Sứ Vụ Thiên Chúa và Dự Án Giêsu: Người Nghèo và “Người Khác” như Những Người Trung Gian của Nước Trời và Những Người Chủ Đạo của Giáo Hội, kỳ cuối
Vũ Văn An
17:42 20/07/2018
Kế hoạch của Thiên Chúa
Nếu missio Dei là sự biểu hiện tình yêu tỏa sáng của Thiên Chúa, thì không cơ sở nào cần thiết đối với missio Dei nữa, ngoại trừ chính tình yêu thần thánh không cần cơ sở và có tính yếu tính này (Ad gentes, 2). Trong thực hành và suy tư truyền giáo, tình yêu tỏa sáng của missio Dei thường chỉ được trình bầy một cách quá dò dẫm. Nó thường bị che khuất bởi những kiểu nói bi quan, coi cứu chuộc như “việc sửa chữa có kế hoạch”, sửa chữa sáng thế của Thiên Chúa, do cuộc Sa Ngã tạo ra. Tuy nhiên, coi điều gọi là “kế hoạch” của Thiên Chúa theo cách vốn bắt nguồn từ missio Dei sẽ khiến ta thay đổi sự nhấn mạnh. Lúc đó, “kế hoạch” này sẽ mặc một hình thức khác: “tình yêu tỏa sáng của Thiên Chúa” được tái cấu hình với việc sai lời, tức Con cứu rỗi của Thiên Chúa, và thần khí, tức người ban và mang thứ lực năng động ta gọi là ơn thánh, đi. Chúa Thánh Thần đập bể mọi cơ cấu nhập thể của sự ác vốn đại biểu cho trận đồ kế hoạch phản loạn. Chúa Con, Đấng trở thành con người trong Chúa Giêsu thành Nadarét, mở ra các viễn ảnh mới cho kế hoạch của Thiên Chúa. Trong sự hợp nhất và liên tục với thần khí, việc nhập thể của lời đem đến một chọn lựa giữa “phản dự án” (antiproject) và “dự án”.

Suốt trong lịch sử, truyền giáo luôn cố gắng tiến gần tới “kế hoạch thần thiêng” nói trên hơn. Vatican II nói đến việc này trong tương quan với bản chất truyền giáo của giáo hội, “vì, để phù hợp với mệnh lệnh của Thiên Chúa Cha, Giáo Hội đã bắt nguồn từ việc sai Chúa Con và sai Chúa Thánh Thần đi” (Ad gentes, 2). Giáo hội biểu lộ missio Dei trong sinh hoạt truyền giáo của mình, như là “một biểu hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa và việc chu toàn mệnh lệnh này trong thế giới và trong lịch sử thế giới” (Ad gentes, 9).

Về phương diện tài liệu, tất cả những điều trên xem ra có tính kết luận, nếu không có sự kiện này là các ý niệm làm nền đã mất hết tính tươi mát nguyên thủy của chúng do việc thế giới hiện đại đã xa lìa truyền thống, và, thứ hai, các điều kiện thực dân trước thời hiện đại vẫn còn thịnh hành. Sự kiện này dẫn tới hai trận tuyến diễn ra giữa giai cấp ưu tú (élite), những người, theo kiểu hậu hiện đại, có thể lo liệu sống mà không cần bất cứ kế hoạch nào, và khối đại đa số người dân Châu Mỹ La Tinh, những người giải thích “kế hoạch của Thiên Chúa” như là một khẳng định cho rằng bất công là “ý muốn của Thiên Chúa”. Họ nghĩ rằng “kế hoạch của Thiên Chúa” diễn ra trong hai giai đoạn: giai đoạn một là thực dân hóa và “các đau khổ trần gian” được khắc phục bởi giai đoạn hai tức giai đoạn “vinh quang nước trời”. Vị bề trên tỉnh Dòng Tên, Antonio Vieira, do đó, đã có thể gọi nạn nô lệ của người Châu Phi tại Ba Tây là “phép lạ vĩ đại của ơn quan phòng và lòng thương xót từ trời”. Đến thăm một hãng làm đường ở Bahia năm 1633, ngài nói với các nô lệ:

“Ôi, ước chi các người da đen mang từ các sa mạc Êtiôpia và được đưa tới Ba Tây hiểu ra rằng họ mắc nợ Thiên Chúa và mẹ rất thánh của họ xiết bao qua điều bề ngoài xem như đầy ải, tù đầy và bất hạnh nhưng thực ra là một phép lạ, một phép lạ vĩ đại! Hãy cho tôi hay, cha mẹ anh chị em, những người sinh ra, sống và sẽ chết trong cái tăm tối của người ngoại đạo, không một chút ánh sáng đức tin và hiểu biết về Thiên Chúa, họ sẽ đi về đâu khi chết? Họ thẩy đều... xuống hoả ngục và bị thiêu đốt ở đấy ngay lúc này và sẽ bị thiêu đốt ở đó mãi mãi về sau...” (Antonio Vieira, "Sermão décimo quarto (1633)", trong: Sermões. Obras completas do Pe. Antõnio Vieria. Porto, Lello & Irmãos. 1951, vol. 4, Tomo 11, No. 6. p. 301).

Thứ rao giảng trấn an của ngày qua ấy, hiện nay, vẫn chưa chấm dứt. Ở Châu Mỹ La Tinh (và cả ở phần đông Đông Á?), người ta học được từ rất sớm cách chấp nhận sự an ủi từ bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, ngay ở nơi họ có thể cố gắng làm việc để thay đổi tình huống. Đây có thể là chiến lược để sống còn. Đấng Cứu Thế chịu đau khổ vẫn là nơi ẩn náu đối với nhiều người. Tuy nhiên, các quyền lực hiện có đã biến Kitô Giáo thành một ý thức hệ trấn lột. Kitô Giáo Thứ Sáu Tuần Thánh thiếu hẳn chiều kích “công lý phục sinh” vốn triệt tiêu các bản án tử hình do các kẻ chiến thắng áp đặt.

Dự án Giêsu

Các kinh nghiệm làm người ta thức tỉnh của thời hiện đại tạo ra nền thần học giải phóng và thực hành mục vụ đi kèm với nó trong việc tái duyệt các quan điểm cực đoan và biện minh ý thức hệ; Kitô giáo duy thực dân trước đây đã đạt được sự tự ý thức về mình lớn lao hơn. Các năng động tính của missio Dei được áp đặt quá nhanh lên một “kế hoạch thần thánh vĩnh cửu” có tính hữu thể học mà bề ngoài xem ra “một cỡ nhưng phù hợp với mọi người” (one-size-fits-all), trong đó, các giấc mơ trong ý muốn của Thiên Chúa biến thành một thời khóa biểu thông thường. Nhưng “kế hoạch thần thánh” này cũng có thể được giải thích là “dự án của Thiên Chúa”, được tiếp nối trong dự án Giêsu thành Nadarét.

Dựa vào tiền đề niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô và vào kairos (thời thuận lợi) của những bối cảnh lịch sử và văn hóa khác nhau, nhiệm vụ truyền giáo là trì chí công bố sự cứu chuộc có tính giải phóng. Trước tấm phông các vấn đề nóng bỏng của mọi thời đại, truyền giáo phải cho thấy việc cứu cuộc như một giải pháp, cả cho lịch sử lẫn cho tập thể và cho đời sống bản thân của các cá nhân.

Tin mừng Luca thách thức ta ngay ở đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu với một chọn lựa quan trọng giữa dự án của thế gian, ở đây tạm gọi là “phản dự án”, và dự án của Thiên Chúa, điều vốn tượng trưng cho sứ điệp chính yếu trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Sử dụng kiểu nói “phản dự án” bao trùm được nhiều yếu tố của điều, theo qui ước, ta vẫn gọi là “tội tổ tông” trong thần học, dù có những điểm khác nhau về nền tảng. Nếu ta nói tới nhân tính của Chúa Giêsu một cách nghiêm túc, thì thực tại cám dỗ của lời nhập thể không thể bị hạ giá chỉ như trò đóng kịch vì các mục đích sư phạm.

Câu truyện chính Chúa Giêsu bị cám dỗ cho thấy việc có thể có một phản dự án toàn diện, nghĩa là có cả tính xã hội, chính trị lẫn tôn giáo, về nước Thiên Chúa (Lc 4:1-13). Phản dự án này theo dõi Chúa Giêsu không rời chân, không chỉ trong lời nói của các địch thủ của Người mà còn trong cả các câu hỏi của chính các môn đệ của Người về “việc tái lập vương quốc Israel”. Giấc mơ của họ hướng về dĩ vãng. Họ nghĩ tới vương quốc của Đavít như một thay thế cho Đế Quốc Rôma. Thậm chí họ còn thách thức Chúa Kitô phục sinh với khả thể này khi hỏi: “Lạy Thầy, nay có phải là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” (Cv 1:6).

Phản dự án là dự án của các ông hoàng thế gian. Nó làm người ta hóa mù. Thánh Phaolô viết: “trong trường hợp của họ, thần của thế gian này đã làm mù tâm trí những người không tin” (2 Cr. 4:4). Phản dự án là lãnh vực cứ thế tiếp nối các thỏa hiệp phiến diện dân túy và những trao đổi tiểu qui mô khiến thế giới giữ nguyên trạng. Nó thuộc lãnh vực cung ứng những mẩu dư thừa tiện nghi nhỏ nhoi trong việc duy trì các đặc ân của mình, lãnh vực xã hội tiêu thụ, và lãnh vực quyền lực, danh tiếng và thờ thần tượng. Đối với Chúa Giêsu, các rủi ro khá cao và đây là một thay thế thực sự. Tại sao không thỏa mãn các hoài mong của người dân thường? Tại sao không nắm lấy dòng lịch sử trong bàn tay và, bằng một lời mạnh mẽ, cải thiện thế giới?

Giáo hội thừa hưởng cơn cám dỗ này và suốt trong lịch sử bị nó ám ảnh. Giáo hội tìm ra nhiều lý do để không chia tay với các nhà cai trị, và liên tục bị đánh tả tơi vì các đòi hỏi quyền lực, đặc ân và tăm tiếng. Khi các Kitô hữu Châu Mỹ La Tinh, những người từng liên minh với các quyền lực thực dân và kêu cầu ơn quan phòng của Thiên Chúa, tự dấn thân vào cuộc đấu tranh chống sự ác nhưng cũng chấp nhận các đặc ân từ giai cấp quyền thế và duy trì tăm tiếng ma qủy trên tháp nhọn các tiền đình đền thờ mạ vàng để vinh danh Thiên Chúa, họ quả mù lòa đối với sự ác ngay trong hàng ngũ của họ và từ chối, không dành công lý phục sinh cho Chúa Kitô chịu đóng đinh.

Chúa Giêsu bêu riếu nền văn hóa đặc ân của thời ngài vì mọi đặc ân đều che đậy một tiếng nói đã bị bịt miệng. Đặc ân là việc đầu tư của kẻ quyền thế; trong một nền kinh tế bóc lột, họ đòi người ta phải phục tùng và giữ im lặng. Trong các tình huống chính trị và được đặc ân về kinh tế và xã hội, người ta thấy thiếu hẳn lòng nhiệt thành thiêng liêng và ơn gọi làm tông đồ. Quyền lực ban ân huệ cho công việc truyền giáo, và cung cấp cho nó tiền bạc, vinh dự và đặc ân, chính là người hủ hóa nó. Cách tốt nhất để làm im tiếng nói tiên tri của các giáo hội không phải là bách hại mà là cung cấp cho họ các đặc ân vật chất và có tính biểu tượng.

Các trói buộc chằng chịt của việc bảo trợ, chẳng hạn, đã làm hại nặng nề việc phúc âm hóa và cả giáo hội nữa. Khi các nhà truyền giáo bắt đầu vứt bỏ đồ dằn (ballast) ý thức hệ, họ trở thành người nguy hiểm đối với hệ thống thực dân. Việc tiếp tục xua đuổi các tu sĩ Dòng Tên khỏi Ba Tây cho thấy sự hiện diện và vai trò làm trung gian văn hóa của họ giữa các nhà cai trị thực dân và xã hội bản địa bỗng trở nên nguy hiểm xiết bao khi việc truyền giảng tin mừng của họ thách thức các tiền đề quan trọng của chính sách thực dân hóa. Xua đuổi, ăn cướp các trạm truyền giáo và việc tử đạo: tất cả đều là các khoảnh khắc của “ký ức nguy hiểm” của lịch sử giúp ta tái suy nghĩ toàn bộ quá khứ, hiện tại và tương lai của truyền giáo. Những dịp như thế thường dẫn ta, tuy chậm, đến trách nhiệm phải có đối với các nạn nhân của chủ nghĩa thực dân mà ngày nay chúng ta quen gọi là “ưu tiên chọn người nghèo và ‘người khác’”.

Nếu giáo hội nghèo và không được nhìn nhận, vì người của mình không được nhìn nhận, thì “những người khác” và người nghèo có cơ cùng đến với nhau trong các cơ sở của mình. Sự gần gũi người nghèo là hòn đá góc để xây lên các bài giảng có ý nghĩa và các tuyên bố mạnh bạo. Nó cũng thử nghiệm cả lời kêu gọi dấn thân cho truyền giáo, lời kêu gọi không sống nhờ các ý hướng tốt mà nhờ một nền công lý và một tình yêu lớn hơn. Ưu tiên chọn người nghèo và “người khác” như là những người chủ đạo trưởng thành đòi một nền đạo đức chuyên nghiệp trong việc truyền giáo biết bác bỏ nền văn hóa đặc ân. Việc bác bỏ này là một thứ praeambula fidei (lời nói đầu đức tin) của bất cứ cuộc công bố đức tin nào, và là một lời nói đầu nhằm thừa nhận người nghèo và “người khác” như những người đã trưởng thành và cũng nhìn nhận vai trò chủ đạo của họ trong thế giới mới và trong một giáo hội sống động. Bánh ăn trên bàn ăn của mọi hữu thể nhân bản và hoa hồng trong các thửa vườn của người hàng xóm họ không phải chỉ là thành quả của những cuộc chiến đấu lâu dài dành công lý mà còn là những cuộc cử hành Thánh Thể và Bữa Tiệc Ly của Chúa cách hữu hình nữa.

Chúa Giêsu, đầy Chúa Thánh Thần (Lc 4:1-14), đã đưa ra một đề kháng có tính chương trình chống lại cơn cám dỗ thực sự của một trật tự thế giới đặt căn bản trên việc ưu tiên có quyền có bánh ăn, quyền lực và tăm tiếng. Người nhập thể missio Dei vào dự án vương quốc Thiên Chúa, và trong ba bài diễn văn định hướng và ở bất cứ nơi nào tin mừng nói về bánh ăn, đã đánh dấu mốc cho một thứ luận lý học hoàn toàn khác. Trong bài diễn văn ở hội đường Nadarét (Lc 4:14tt), bài giảng trên núi (Lc 6:20-49, Mt 5:3-12) và việc phán xét các dân nước (Mt 25:31-46), Chúa Giêsu đã làm nổi bật những người được ngỏ lời và các người chủ đạo của vương quốc Thiên Chúa; việc nuôi ăn 5 ngàn người cho thấy nguyên tắc cơ cấu hóa của Người. Dự án của Chúa Giêsu dành cho những người nghèo, bị chà đạp, tù đầy, mù lòa, đói ăn, bị ghét bỏ, trông như ngoại nhân, người bệnh và bị loại trừ. Họ vừa là người được ngỏ lời vừa là người cổ vũ dự án này. Thiên Chúa chấp nhận sự đụng chạm nhân bản của người nghèo và thành phần cặn bã của xã hội. Họ là mạc khải và bí tích của Thiên Chúa trong thế giới. Họ là những người trình bầy missio Dei trong lịch sử.

Dĩ nhiên, ở đây, tính thông thường truyền thống đã sụp đổ. Dự án Giêsu tiền giả định một thứ luận lý hoàn toàn khác. Các nhu cầu căn bản của nhân loại không được thỏa mãn nhờ quyền ưu tiên hay các biện pháp kinh tế mà là nhờ luận lý học chia sẻ và phân phối. Bánh ăn không được thu lượm để phân phối, mà trước nhất là một nhóm nhỏ, 5 ổ bánh và 2 con cá được phân phối. Gợi ý của Chúa Giêsu “các con hãy cho họ thứ gì để họ ăn đi” trái ngược với gợi ý của các môn đệ; các ông nghĩ rằng người ta nên “đi vào vùng và làng chung quanh và mua thứ gì đó mà ăn” (Mt 14:15tt; Mc 6:36tt). Khi tất cả đã được phân phối và cho đi, còn dư đến 12 thúng (Mt 14:13-21). Không phải chuyện tích lũy, kinh tế hay đề phòng, tất cả là luận lý học thế gian, đã giải quyết được các vấn đề. Trái lại, các biện pháp này mang lại hậu quả mù quáng và tạo ra sự khốn cùng. Chỉ trong việc phân phối và bẻ bánh, đôi mắt các môn đệ mới mở ra và việc nhìn nhận sau đó mới trở thành một hình thức yêu thương, như thưở khởi nguyên của sáng thế (Lc 24:13-35: St 4:1).

Vấn đề hiện nay là không biết những người chủ đạo mới của dự án Giêsu có ý loại bỏ mọi người chúng ta trong giáo hội không vì chúng ta không sống nhờ các bãi rác mà là sống trong những căn nhà ấm cúng. Tin mừng trả lời câu hỏi này bằng cách trình bầy với ta 2 con người, những người, có lẽ giống chúng ta, cũng muốn leo vào dự án Giêsu, nghĩa là vương quốc Thiên Chúa. Hai người bắt đầu trễ này là thầy thông luật và chàng thanh niên giầu có. Họ tin mọi điều, tuân giữ truyền thống và các giới răn. Người thì biết hết mọi điều còn người kia thì có mọi thứ. Họ lo lắng về việc liệu có thuộc về vương quốc Thiên Chúa hay không. Cả hai hỏi Chúa Giêsu cùng một câu hỏi: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để thừa hưởng sự sống đời đời?” (Lc 10:25; 18:18).

Cả hai người đàn ông trên đều muốn bước vào dự án Giêsu qua các ngả xưa cũ có tính vụ luật và duy luân lý. Họ muốn tham dự vào dự án này với các phương thế ưu tiên sử dụng lề luật và các giới răn vốn chỉ dành cho những người có học và giầu có. Có lẽ họ sẵn lòng chấp nhận một ít qui định hay lề luật nữa, lẽ dĩ nhiên không phải để tháo bỏ các bức tường đền thờ trong lòng họ. Nhưng xin thầy đừng lìa xa hệ thống! Đừng thay đổi lối suy nghĩ của tôi! Và xin thầy làm ơn, đừng để mọi người tham gia! Nhưng của cải của thế giới này sẽ không đủ cho mọi người nếu các đặc ân của người giầu không bị bãi bỏ.

Chúa Giêsu không áp đặt bất cứ qui luật nào thêm lên con người. Thay vì nẻo đường nghĩa địa mà họ đang du hành, Người đề nghị với họ một quĩ đạo mới để đạt tới các tầng trời qua ngả diakonia, nghĩa là phục vụ những ai rơi vào tay trộm cướp hay, ngay lập tức, bán sạch mọi của cải tích lũy được. Đã đến lúc các giáo hội cũng nên quét sạch hết các đồng nát giấy vụn (junk) của họ. Các vấn đề của các giáo hội về sự thật chỉ có thể thông đạt được nhờ một sự hiện diện tích cực của người nghèo trong đời sống giáo hội. Khi giáo hội hiểu rằng không phải là vấn đề sự thật chỉ có thể hiểu bằng loại suy, nhưng người nghèo và người bị loại bỏ thành biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa trong định chế tan nát của mình, và khi người nghèo không phải chỉ là những người lãnh nhận tin mừng mà là những người được ủy nhiệm làm người mang nó, thì lúc ấy giáo hội mới có khả năng đòi cho mình vinh dự đã đem missio Dei vào lòng và thực sự là một giáo hội truyền giáo.

Sứ vụ Thiên Chúa, một sứ vụ từng xuất hiện nơi Chúa Giêsu thành Nadarét và tiếp tục sống mãi trong Chúa Thánh Thần có thể được tóm tắt đơn giản như sau: việc suy niệm về sự hiện diện của Thiên Chúa dẫn chúng ta tới những người bị đóng đinh của lịch sử. Missio Dei luôn dẫn ta bằng con đường Gôngôtha, con đường đau khổ. Nhưng missio Dei , hiểu như việc sai Thần Khí đi, cũng có nghĩa là cắt đứt với các viễn ảnh nô lệ phũ phàng và khuất phục tàn bạo. Missio Dei không phải là cuộc hành trình bước tới những cánh đồng giết chóc (killing fields). Nó là lễ khai tâm nhằm biến tình yêu lớn hơn kia thành công lý lớn hơn. Nó có nghĩa được dự phần vào thời khắc yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không chỉ ghi sổ người bị thương và người chết, như một máy ảnh, nhưng thổi vào họ Thần Khí của Người để họ có thể sống (Edk 37:14). Ánh mắt nhìn của Thiên Chúa được tháp tùng bằng một bài ca mới ca ngợi nền công lý Phục Sinh: “Chúa Kitô đã chỗi dậy!” Nhờ missio Dei , ngày Phục Sinh trở thành ngày đẩu tuần và chìa khóa của lịch sử.
 
VietCatholic TV
Bị cộng sản vu cáo là gian ác, khi sự thật lịch sử được trả lại, họ được tuyên thánh. Hàng trăm ngàn người Nga diễn hành vinh danh họ
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
17:29 20/07/2018
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Quý vị và anh chị em đang theo dõi phóng sự đặc biệt của chúng tôi về biến cố hàng trăm ngàn người Nga tưởng niệm 100 năm Sa Hoàng Nicholas Đệ Nhị bị cộng sản sát hại.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy đây là cuộc diễu hành vào lúc mờ sáng ngày thứ Ba 17 tháng 7 vừa qua tại thành phố Yekaterinburg trong rặng núi Urals.

Đức Thượng Phụ Kirill của Chính Thống Giáo Nga đã dẫn đầu đoàn rước và sau đó ngài chủ sự buổi lễ tưởng niệm 100 năm Sa Hoàng Nicholas Đệ Nhị và gia đình ông bị cộng sản thảm sát.

Hàng trăm ngàn người đã tham gia vào cuộc diễu hành này dù được tổ chức vào lúc 3 giờ sáng để đánh dấu đúng thời điểm xảy ra biến cố bi thảm này 100 năm trước đây.

Cuộc diễu hành bắt đầu vào những giờ đầu tiên của ngày thứ Ba từ địa điểm nơi cuộc hành quyết diễn ra ở thành phố Yekaterinburg trong rặng núi Urals và kết thúc tại một tu viện với lễ tưởng niệm biến cố lịch sử khi Sa Hoàng, phu nhân ông là một người gốc Đức, và 5 người con bị giết.

Nhiều tín đồ nhiệt thành đến từ khắp nước Nga và cả từ nước ngoài để tham gia vào nghi lễ đầy màu sắc trong đó nhiều người mang theo các ảnh tượng.

Một nhóm khác khoảng 20,000 người tham gia vào lễ tưởng niệm khi đoàn diễu hành của họ đến tu viện Ganina Yama sau cuộc rước dài đến 21 km.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Sa Hoàng Nicholas Đệ Nhị sinh ngày 18 tháng 5 năm 1868 là vị vua cuối cùng của nước Nga. Ông cai trị quốc gia từ ngày lễ Các Thánh 1 tháng 11 năm 1894 cho đến khi bị buộc phải từ bỏ ngai vàng vào ngày 15 tháng Ba năm 1917.

Mùa hè năm 1917, ông và gia đình bị bắt và bị giam tại thành phố Tobolsk /tô-bôn-ski/.

Bọn cộng sản đã bắn chết Sa Hoàng, vợ và năm đứa con ông cùng với những người hầu và bác sĩ của họ vào đêm 16 rạng sáng 17 tháng 7 năm 1918 khi họ đang bị canh giữ tại thành phố Sverdlovsk, giờ đây gọi là Yekaterinburg.

Tu viện Ganina Yama được xây dựng tại một trong những địa điểm mà các thi hài bị đốt cháy của vị Sa Hoàng Nga cuối cùng và gia đình của ông được chôn cất. Sau này, thi thể của họ được cải táng đến một nơi khác. Cuối cùng, xương của Nicholas, vợ ông và các con của họ đã được chôn cất tại Saint Petersburg vào ngày 17 tháng 7 năm 1998.

Năm 1981, khi cộng sản vẫn còn cai trị tại Nga, Sa Hoàng Nicholas, vợ ông và các con được Chính Thống Giáo Nga bên ngoài nước Nga tuyên phong là các vị tử vì đạo.

10 năm sau đó, tháng 8 năm 1981 xảy ra chính biến, đảng cộng sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

Ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời 15 tháng 8 năm 2000, Chính Thống Giáo Nga chính thức tuyên thánh cho ông.

Phát biểu với những người hành hương, Đức Thượng Phụ Kirill nói Nga nên rút ra những bài học “từ kinh nghiệm bi thảm và cay đắng này”.

“Chúng ta thực sự nên có một khả năng miễn dịch lâu dài đối với bất kỳ ý tưởng và bất kỳ nhà lãnh đạo nào kêu gọi chúng ta nắm lấy một tương lai hạnh phúc mới, đầy mơ hồ không biết đưa đất nước đi về đâu nhưng trước mắt là sự hủy diệt cuộc sống, truyền thống và đức tin của chúng ta”, nhà lãnh đạo Giáo Hội 71 tuổi nói.

Điện Kremlin không có lễ kỷ niệm chính thức nhưng các quan chức từ bộ văn hóa đến bộ quốc phòng đã tham gia vào các buổi tưởng niệm tại Mạc Tư Khoa.

Lễ tưởng niệm cái chết của Sa Hoàng ngày càng thu hút đông đảo người tham gia. Năm 2002, chỉ có 2,000 người tham gia vào một cuộc diễu hành tương tự. Năm nay con số đã lên đến hàng trăm ngàn người.