Ngày 17-07-2020
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:10 17/07/2020

30. Nếu ai muốn giấu đau khổ của mình không muốn để cho người khác biết, thì trên con đường thiêng liêng một ngày đi vạn dặm là tất nhiên, và lại được thần lực rất lớn.

(Thánh nữ Terese of Lisieux)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


-----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/samac.tw

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:15 17/07/2020
77. THỊ LANG KHÔNG RÂU

Giữa năm Chính Thống triều Minh có một quan thị lang tên là Vương Cố.

Mặc dù Vương Cố đẹp trai nhưng lại không có râu dài, phẩm hạnh cũng quá kém, lại thích nịnh hót thái giám Vương Chấn và bái ông ta làm cha nuôi.

Một hôm Vương Chấn hỏi hắn ta:

- “Thị lang, tại sao râu của mày không dài hử? ”

Vương Cố rợn người đáp:

- “Bố, bố không có râu, con trai là con làm sao dám có râu dài chứ !”

(Nhã Ngược)

Suy tư 77:

Người nịnh hót là người thường có cái miệng dẻo như kẹo kéo, lời nói ngọt như đường và ứng biến mau lẹ, gọi là trí trá, dù họ là người thông minh đẹp trai; mình có râu ngắn với người khác không có râu thì có liên quan gì chứ, đó chẳng qua là vì người nịnh hót nói ngọt như đường dẻo như kẹo, và người được nịnh hót có cái đầu...thái giám mà thôi.

Vương Chấn không có râu là vì ông ta làm thái giám, mà thái giám là những người tâm sinh lý không bình thường; vì nịnh mà Vương Cố đem mình đồng hóa mình như thái giám, đó là một cái nhục...

Ki-tô hữu là người có Đức Chúa Giê-su trong mình, là người được chọn làm dân riêng của Thiên Chúa, cho nên không thể đồng hóa cuộc sống đầy thánh sủng của mình với những người sống trong tội vì tham lam lợi lộc vật chất của cải, nhưng phải luôn sống can đảm dù mình nghèo khó, bởi vì có Đức Chúa Giê-su là của cải vô giá đang ở trong tâm hồn của mình.

Người Ki-tô hữu có râu hay không có râu thì chẳng sao cả, nhưng sống phóng đãng như người chưa hề biết Thiên Chúa là ai thì là chuyện phải xét lại, bởi vì đó là một gương mù nguy hiểm vô cùng...

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


---------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/samac.tw

http://nhantai.info
 
Lúa lẫn cỏ, thiện và ác
Lm. Nguyễn Xuân Trường
16:42 17/07/2020

Bệnh dịch, bạo loạn, bất công, ô nhiễm… đầy dẫy sự dữ đang xảy ra trên thế giới. Sự dữ khiến người ta đặt câu hỏi: Thiên Chúa quyền năng và yêu thương sao lại để sự dữ hoành hành khủng khiếp vậy? Dụ ngôn lúa lẫn cỏ lùng soi sáng cho chúng ta câu trả lời.

1.Chúa gieo lúa tốt. Chúa như người gieo lúa tốt, gieo những hạt giống yêu thương tốt lành vào mảnh vườn thế giới này. Chúa là Cha yêu thương chỉ gieo lúa lành lợi lộc cho thế giới này lấp lánh hạnh phúc, chứ Chúa không bao giờ gieo sự dữ khiến con người đau khổ.

2. Quỷ gieo cỏ lùng. Quỷ như kẻ thù gieo cỏ lùng sự dữ vào thế giới này. Thế giới chịu nhiều đau khổ là do quỷ dữ và những kẻ theo nó gây điều ác. Quỷ dữ xúi giục con người phạm tội gây đổ vỡ liên hệ yêu thương với Chúa, với nhau và với vạn vật. Thế giới thành tang thương chết chóc, người khóc quỷ cười.

3. Chúa để cỏ lùng. Nhiều người thầm ước Chúa phạt cho những đứa ác độc, khốn nạn chết ngay lập tức để thế giới yên bình. Nếu làm vậy thì Chúa thành sát thủ hay tên đao phủ rồi. Chúa yêu thương không làm vậy. Lòng Chúa thương xót luôn lớn hơn tội lỗi con người. Chúa luôn trao cơ hội cho tội nhân sám hối đổi đời. Tội nhân có thể trở thành thánh nhân.

4. Chúa đốt cỏ lùng. Chúa thương kẻ ác và luôn hy vọng họ sám hối làm lại cuộc đời. Tuy nhiên, Chúa là Chân Thiện Mỹ nên Ngài không dung túng cái ác. Thế nên, cuối cùng đến mùa gặt là ngày tận thế, cái ác dứt khoát phải bị tiêu diệt như thợ gặt gom cỏ quăng vào lửa đốt đi. Chung cuộc thiện sẽ thắng ác, lành sẽ thắng dữ, Thiên Chúa sẽ thắng ma quỷ.

Ai là lúa tốt, ai là cỏ lùng? Thực tế chẳng ai lành thánh 100%, và cũng chẳng ai ác độc 100%. Mảnh đất tâm hồn mỗi người đều có lẫn lúa và cỏ, thiện và ác. Con người chẳng là thiên thần mà cũng không là ác quỷ. Thế nên, điều cần làm không phải là diệt trừ tội nhân, mà là diệt trừ những tội lỗi, những điều xấu xa trong chính mỗi người chúng ta. Amen.
 
Giết Người Đi Thì Ta Ở Với Ai ?
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
21:40 17/07/2020
Giết Người Đi Thì Ta Ở Với Ai?

Chúa Nhật XVI TN A

“Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (x.Ed 18, 23). Câu Lời Chúa thường được lặp đi lặp lại trong suốt mùa Chay thánh nói lên tấm lòng của Đấng chúng ta tôn thờ. Phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa Nhật XVI TN A khởi đầu bằng đoạn trích sách Khôn ngoan làm nổi rõ lòng từ nhân của Thiên Chúa đồng thời gieo rắc niềm hy vọng cho tội nhân xiết bao: “Chúa xử khoan hồng vì Ngài làm chủ được sức mạnh… Làm như thế, Chúa đã dạy dân rằng: người công chính phải có lòng nhân ái. Ngài đã cho con cái niềm hy vọng tràn trề là người có tội được Ngài ban ơn sám hối” (Kn 12, 16-19). Chúng ta lại được nghe Chúa Giêsu nói thêm một số dụ ngôn về Nước Trời, đặc biệt là dụ ngôn “cỏ lùng trong ruộng” (Mt 13, 24-29).

1. ĐỪNG NHỔ CỎ, KẺO NHỔ LẪN CẢ LÚA:

Một mệnh lệnh xem ra nghịch thường, nếu có một chút hiểu biết về nghề nông và kinh nghiệm trồng lúa. “Công cuốc, công cày là công bỏ; công làm cỏ mới là công ăn”. Trước khi thuốc diệt cỏ ra đời, thì làm cỏ là một khâu không thể xao lãng trong nghề nông. Gieo trồng mà không làm cỏ thì chắc chắn “xôi hỏng, bỏng tay”; “mất cả chì lẫn cả chài”. Ngay cả chút “giống” bỏ ra cũng chẳng mong thu lại được, nếu không chịu làm cỏ.

Theo văn phong dụ ngôn thì điều muốn nói, muốn trình bày, chỉ có một hoặc hai điều mà thôi. Và điều muốn nói thường ở nơi câu kết hoặc nơi một chi tiết nghịch thường của câu chuyện. Và ta có thể nói rằng nội dung chính của dụ ngôn “cỏ lùng trong ruộng” muốn dạy ta là đừng tự phong làm “thẩm phán” của bất cứ ai. Với lý trí suy xét và dưới ánh sáng Lời Mạc khải chúng ta có thể phân biệt điều tốt, điều xấu, hành vi chính đáng, phải đạo và hành vi bất chính…nhưng chúng ta thật khó mà quy kết ai là chính nhân, ai là quân tử. Cha ông ta đã từng truyền dạy kinh nghiệm rằng vẫn có đó nhiều người “khẩu phật mà tâm xà” và cũng có nhiều người “ngoài miệng thì nói nam mô mà trong bụng lại chứa một bồ dao găm”. Nhân sinh quan về sự nhập nhằng đen trắng, chính nhân quân tử hay tiểu nhân, mắt người phàm khó biện phân, thì Kim Dung, một cây bút nổi tiếng loại hình tiểu thuyết võ hiệp lịch sử kỳ tình Trung Hoa đã trình bày xuyên suốt qua các pho truyện của ông như “Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Đại Hiệp, Cô Gái Đồ Long, Tiếu ngạo giang hồ…

Sau biến cố 1975, Chính quyền cộng sản đã ra lệnh bài trừ và tiêu hủy “các loại hình văn hóa phản động”, trong đó có tiểu thuyết của ngài Kim Dung. Lý lẽ đưa ra là cần minh bạch rõ ràng người xấu với kẻ tốt, phải rõ ràng “địch với ta”. Nếu không ta thì là địch. Nếu không theo cách mạng là phản động… Quả thật kiểu nhân sinh quan này tưởng rằng là triệt để nhưng thực ra là quá khích, độc đoán, một chiều… May thay, với thời gian, nhân sinh quan này hình như đang dần được chuyển hóa, đổi thay.

Con người, thường xem xét kẻ khác qua diện mạo bên ngoài, kiểu xem mặt mà bắt hình dong, vì thế, sai lầm là chuyện khó tránh. Thế mà ta lại cả gan muốn loại trừ người mà ta cho là xấu xa, là tội lỗi. Nếu giả như hễ ai đã phạm tội đều đáng bị loại bỏ, bị giết đi, thì thử hỏi có ai còn đáng sống. Và ngay chính bản thân ta cũng không đáng tồn tại. Giết người đi thì ta ở với ai? Hơn nữa, kẻ đáng giết trước hết, chính là ta!

2. HÃY BIẾT KIÊN NHẪN ĐỢI CHỜ:

Chỉ mình Thiên Chúa mới tỏ tường đâu là lúa, đâu là cỏ lùng. Chỉ có Chúa mới là Đấng thấu tỏ mọi bí ẩn tâm can con người. Thế mà Người lại chờ cho đến mùa gặt. Thiên Chúa không thích con người phải chết và cũng chẳng muốn tội nhân bị diệt vong. Chỉ một người tội lỗi sám hối ăn năn là cả triều thần thiên quốc vui mừng khôn xiết hơn chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn (x.Lc 15, 7). Lượng từ bi vô biên của Chúa nào ai đo lường được. Người kiên nhẫn đợi chờ vì Người là Đấng Hoàn Thiện, là Cha từ nhân, Đấng chậm bất bình và rất mực khoan dung. Người kiên nhẫn đợi chờ vì Người biết con người là hữu thể đang chuyển thành (l’homme c’est l’être en devenir). Không một thánh nhân nào mà không có một quá khứ (quá khứ lỗi lầm), chính vì thế, chẳng có một tội nhân nào lại chẳng có thể có một tương lai (tương lai tốt đẹp). Với con người nhiều khi là không thể, vì quá khó, khó hơn cả lạc đà chui qua lỗ kim, nhưng với quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể (x.Mt 19, 23-26).

3.CHỜ ĐỢi KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ NGỒI KHOANH TAY HAY ĐỨNG NHÌN:

Rất có thể có nhiều người viện cớ rằng mình có thể sai lầm trong phán đoán để rồi không làm gì cả. Và cũng có thể có nhiều người vì lười biếng hoặc nhát đảm nên vô tình phạm đến đức trông cậy khi khoán trắng mọi sự cho Chúa. Chúng ta cần khử trừ sự xấu nhưng không được phép loại bỏ tội nhân. Ngoại trừ Mẹ Maria được Chúa gìn giữ vẹn tuyền, còn chúng ta, thảy đều là tội nhân cách này hay cách khác. Tuy nhiên, trong thực tế, giữa sự xấu với người xấu nhiều khi khó phân biệt ranh giới. Hơn nữa, có khi khoan dung với người xấu thì lại vô tình để cho sự xấu lan truyền. Vấn đề thật nan giải! Một trong những cách thế xem ra khôn ngoan là chỉ lên án hay cảnh báo các hiện tượng tiêu cực cách chung chung mà không ám chỉ trực tiếp một ai để rồi “ai có tật thì giật mình”. Tuy nhiên, làm sao tránh được chuyện công luận hướng ngay về một hay những ai đó khi có một sự xấu được nêu lên và bị kết án. Đã là phương thế, đặc biệt các phương thế mang tính tiêu cực như khử trừ, loại bỏ, lên án…, thì không một phương thế nào là hoàn hảo và tối ưu.

Một kinh nghiệm nhà nông, đó là nếu lúa tốt nhanh, thì cỏ sẽ bị che rợp và khó phát triển. Cần nổ lực sử dụng các phương thế tích cực. Hãy làm chút men nồng. Chỉ một nắm men nhỏ thì cả khối bột sẽ dậy men (x.Mt 13, 33). Trong khi khoan dung, kiên nhẫn với tội nhân thì chúng ta cần nhân rộng các nghĩa cử bác ái, những hành vi đạo đức, thánh thiêng, cao thượng. Thà thắp lên một ánh nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối. Một cây nến, hai cây nến, nhiều cây nến…cả không gian sẽ bừng sáng và đêm tối sẽ phải lùi xa.

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Giáo phận Hương Cảng lại phải ngưng các cử hành phụng vụ có công chúng tham dự
Đặng Tự Do
14:44 17/07/2020
Giáo phận Hương Cảng lại phải đưa ra quyết định tạm ngưng lần thứ hai các cử hành phụng vụ có công chúng tham dự từ ngày 15 tháng 7 năm 2020, vì làn sóng lan lây coronavirus lần thứ ba tại lãnh thổ này.

Hôm 14 tháng 7 năm 2020, Ðức Hồng Y Gioan Thang Hán, Giám quản Tông tòa Hương Cảng, đã ra quyết định trên đây và cho biết các cử hành phụng vụ có công chúng tham dự bị ngưng cho đến ngày 28 tháng 7 năm 2020, để giảm bớt tối đa nguy cơ lây nhiễm trong cộng đoàn. Ðức Hồng Y xin các tín hữu tham dự thánh lễ trực tuyến qua trang mạng của giáo phận (www.catholic.org.hk). Trên trang này luôn có thánh lễ hằng ngày và các cử hành phụng vụ khác.

Như lần tạm ngưng trước, Ðức Hồng Y Thang Hán cũng yêu cầu các giáo xứ tiếp tục mở cửa nhà thờ để các tín hữu có thể đến cầu nguyện riêng. Mọi người cần mang khẩu trang, khử trùng ở tay, và kiểm soát thân nhiệt, cũng như giữ khoảng cách an toàn xã hội. Trong thông cáo, Ðức Hồng Y cũng yêu cầu ngưng cử hành các bí tích như rửa tội, rước lễ lần đầu và thêm sức cho đến ngày 28 tháng 7 năm 2020. Ngoài ra, các lễ cưới và lễ an táng chỉ được tối đa 20 người tham dự.

Ðây là lần thứ hai Tòa Giám Mục giáo phận Hương Cảng thông báo ngưng thánh lễ, sau khi đại dịch bắt đầu lan tràn. Các biện pháp ngưng thánh lễ đã được thu hồi vào ngày 1 tháng 6 năm 2020, sau hơn ba tháng tiến hành.

Chính quyền đặc khu Hương Cảng đã ra lệnh áp dụng các biện pháp hạn chế xã hội từ nửa đêm ngày 14 tháng 7 năm 2020. Số người tham dự các cuộc hội họp, gặp gỡ bị giảm bớt từ 50 xuống còn 4 người.

Hôm 14 tháng 7 năm 2020, Hương Cảng có thêm 48 ca nhiễm mới, trong đó có 40 vụ lây nhiễm trong cộng đồng. Ít nhất 12 tài xế xe taxi có kết quả xét nghiệm dương tính hôm 13 tháng 7 năm 2020. Các hành khách của họ có thể đã bị lây và chính quyền cảnh giác nguy cơ dịch có thể tái bộc phát mạnh. Các lớp học bị ngưng từ ngày 10 tháng 7 năm 2020 và kỳ nghỉ hè được bắt đầu sớm hơn.

Các hạn chế mới bao gồm bắt buộc đeo khẩu trang y tế đối với những người sử dụng các phương tiện giao thông công cộng. Không được ăn tại chỗ trong các nhà hàng. Những người vi phạm có nguy cơ bị phạt 5, 000 đô la Hương Cảng, tức khoảng 645 Mỹ Kim.


Source:UCAN
 
Độc tài Maduro đang đẩy nhân dân Venezuela vào tầng đầu địa ngục. Các Giám Mục cảnh báo.
Đặng Tự Do
17:29 17/07/2020

Các giám mục Venezuela nói rằng các ngài không thể khoanh tay ngồi yên trong khi chính phủ của Tổng thống Nicolas Maduro đang củng cố đường lối độc tài của họ và người dân bị đói khát và thất nghiệp, cũng như càng ngày cảm thấy ít được bảo vệ hơn.

“Chúng tôi sống đắm chìm trong sự hỗn loạn chung ở mọi cấp độ của đời sống xã hội và cá nhân, ” các giám mục cho biết như trên trong một tuyên bố vào cuối hội nghị thường niên, được tổ chức trực tuyến để hạn chế sự lây lan của coronavirus.

Các ngài tố cáo rằng ngày nay các dịch vụ công cộng thường không còn nữa; và các hành động chính trị đã tách biệt với thiện ích chung; sự bất an và bất lực đó tiếp tục gia tăng; cuộc sống gia đình bị phá vỡ bởi thực tế là hầu hết các gia đình ngày nay không thể đáp ứng các nhu cầu cơ bản hàng ngày; một nền kinh tế lạm phát và bị đô la hóa làm tổn thương gần như toàn bộ dân số; và nền giáo dục đã bị tê liệt.

Các giám mục đã viết rằng đại dịch COVID-19 đang bùng phát theo cấp số nhân, và đó là một yếu tố làm tê liệt một phần đáng kể các hoạt động thông thường. Các ngài nhấn mạnh rằng cuộc khủng hoảng coronavirus thực sự đã xảy ra, ở mức kinh hoàng vì sự suy yếu của hệ thống y tế, tình trạng đáng buồn của những người về hưu mà không có hưu bổng, cũng như tình trạng thiếu xăng.

Mỗi ngày, người dân cảm thấy càng ít được bảo vệ hơn, do không có các tổ chức đưa ra những câu trả lời công bằng cho các vi phạm nhân quyền.

Theo các giám mục, người dân Venezuela muốn sống trong một nền dân chủ, và để điều này có thể xảy ra, cần phải tổ chức các cuộc bầu cử một cách khách quan và công bằng.

Các Giám Mục mạnh mẽ chỉ trích chế độ Maduro quan tâm nhiều hơn đến việc giữ được quyền lực trong tay và không đoái hoài gì đến phúc lợi của người dân. Maduro hiện kêu gọi bầu cử quốc hội, nhưng bọn cầm quyền lại ra sức bách hại các nhà lãnh đạo phe đối lập và cố gắng mua chuộc lương tâm. Cuộc bầu cử sắp tới, đầy rẫy những bất hợp pháp, thiên vị và chỉ gây mất niềm tin nơi công chúng.

“Chúng tôi yêu cầu một lần nữa những cuộc bầu cử tự do và dân chủ thực sự để hình thành một chính phủ mới và hòa nhập quốc gia cho phép chúng ta xây dựng đất nước mà tất cả chúng ta muốn, ” các giám mục viết. “Chúng tôi hết sức quan ngại trước tình hình là các lực lượng vũ trang, ngoài việc không tuân thủ nghĩa vụ bảo vệ nhân dân, đã chọn đứng một cách thiên vị chính trị về phía đảng cầm quyền”.

Như đã làm trước đó, các giám mục kêu gọi chính phủ cho phép viện trợ nước ngoài đến Venezuela, một điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói là một bước cần thiết nếu bọn cầm quyền muốn Vatican giúp hòa giải tình hình ở quốc gia Mỹ Latinh này.

Cuối bản tuyên bố dài bốn trang, các giám mục đã hô hào cách riêng các chính trị gia tự xưng là người Công Giáo phải để các giáo huấn xã hội của Giáo hội hướng dẫn để thay đổi hoàn toàn tình hình đất nước, và để mình được hướng dẫn bởi tinh thần phục vụ con người và thiện ích chung hơn là lợi ích cá nhân.

Các ngài tán thành các yêu cầu của Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, buộc bọn cầm quyền Venezuela phải thực hiện khẩn cấp các biện pháp nhằm giảm bớt khủng hoảng nghiêm trọng trong việc cung cấp thực phẩm và dược phẩm; công bố lịch bầu cử cho phép người Venezuela quyết định tương lai của họ; và việc áp dụng các công cụ pháp lý để đẩy nhanh quá trình thả tù nhân chính trị.


Source:Crux
 
Đức Hồng Y Tagle kêu gọi: Hãy chuẩn bị đối mặt với những hậu quả bi thảm của đại dịch Covid-19
Lm. Nguyễn Tất Thắng OP
07:45 17/07/2020
Bác Ái Quốc Tế - Caritas Internationalis là một liên minh toàn cầu gồm 162 tổ chức Bác ái Công Giáo quốc gia với công việc được truyền cảm hứng từ Tin Mừng.

Ban Tổng Thư Ký Bác Ái Quốc Tế báo cáo xử dụng 95% số tiền thu góp vào những hoạt động bác ái. Năm 2019 Bác Ái Quốc Tế thu được € 5, 075,967 và chi ra € 4, 884,995.

Bác Ái Quốc Tế - Caritas Internationalis đã trình bày Báo cáo thường niên 2019 tại cuộc họp báo qua web ngày 16 tháng 7, trong đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về các hoạt động của Liên đoàn với 162 tố chức quốc gia trên thế giới để phục vụ những người yếu nhất, đáp ứng các cuộc khủng hoảng nhân đạo trên toàn thế giới, nói lên những nhu cầu của những người nghèo nhất: từ cơn bão mạnh Idai ở miền nam châu Phi, đến đại dịch Ebola ở Cộng hòa Dân chủ Congo, tiếp cận 6 triệu người để nâng cao nhận thức và ngăn chặn virus nguy hiểm, cho đến cuộc khủng hoảng tị nạn Rohingya ở Bangladesh, hay "khủng hoảng dài hạn" như Venezuela và Gaza,

Bác Ái Quốc Tế đã huy động bằng cách trình bầy về bi thảm của những tình huống này đến "những văn phòng quyền lực" ở Geneva và New York. Khi trình bày báo cáo, Tổng thư ký Aloysius John đã thu hút sự chú ý đến hai "cuộc khủng hoảng lớn đòi hỏi phải có hành động ngay lập tức và quyết tâm của tất cả mọi người thiện chí, các nhà lãnh đạo và tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại": nợ của các nước nghèo nhất - "thường phải trả bằng mồ hôi và mệt nhọc của những người tận cùng ở những quốc gia này" - và các lệnh trừng phạt kinh tế ở Trung Đông. Lebanon, Syria và các nước láng giềng là những mối quan tâm của Đức Hồng Y Luis Tagle, chủ tịch của Bác Ái Quốc Tế, bởi vì "công dân thường và nghèo là nạn nhân của các biện pháp trừng phạt kinh tế"; các tình huống chiến tranh và bạo lực trên thế giới, một trở ngại cho khả năng công bằng xã hội. Đức Hồng Y kêu gọi chuẩn bị "đối mặt với hậu quả bi thảm của đại dịch Covid-19" và "nguy cơ hàng triệu người sẽ chết đói".

Lm. Nguyễn Tất Thắng OP

Nguồn: Servizio Informazione Religiosa
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Xuân Lộc: Thánh Lễ Phong Chức Linh Mục cho 39 Thầy Phó Tế.
Teresa Ngọc Lễ, O.P và Ban TT GP Xuân Lộc.
07:55 17/07/2020
Sáng Thứ Năm, 16/7/2020, tại Nhà Thờ Chánh Tòa của Giáo Phận, Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, Giám Mục Giáo Phận Xuân Lộc đã chủ sự Thánh Lễ Phong Chức Linh Mục cho 39 Thầy Phó Tế của Giáo Phận. Đây quả là một hồng ân tuyệt vời, mà vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã ban cho Giáo Phận Xuân Lộc có thêm 39 linh mục của Chúa, những người đảm nhận thiên chức thánh, trở thành những hiện thân của Chúa Giêsu để rao truyền và ban phát lòng thương xót của Thiên Chúa xuống trên đoàn dân của Ngài.

Xem Hình

Cùng đồng tế với Đức Cha Giáo Phận trong Thánh Lễ đặc biệt này, có Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, Tổng Giám Mục Giáo phận Sài Gòn, Đức Cha Gioan Đỗ Văn Ngân, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Xuân Lộc, Đức Cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh, Nguyên Giám Mục Giáo Phận, và hơn 400 quý linh mục gồm Cha Giuse Đệ Đoàn Viết Thảo, Giám Đốc Đại Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc, quý Cha Phó Giám Đốc, quý Cha Giáo Đại Chủng Viện, quý Cha Quản hạt, quý Cha trong và ngoài Giáo Phận. Đồng thời, đông đảo cộng đồng Dân Chúa cùng hiệp thông Thánh Lễ thật sốt sắng gồm quý Thầy Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc, quý tu sĩ nam nữ, quý Ông Bà Cố và gia đình các Tiến chức và đại diện các Giáo xứ liên hệ với quý Thầy Phó Tế được phong chức.

8g30, đoàn đồng tế từ khuôn viên Nhà Xứ tiến vào Nhà Thờ trong sự linh thiêng và thật nhiều ý nghĩa. Hình ảnh quý linh mục, quý Tiến Chức và quý Đức Cha trong phẩm phục màu trắng trong đoàn rước hơn 400 linh mục nối dài mãi quả thật là hình ảnh rất đẹp, rất đáng giá. Hình ảnh đó vừa nói lên một Giáo Hội lớn mạnh vì có sự đông đảo các linh mục, đồng thời cũng khơi gợi đến vinh quang rạng ngời của Thiên Chúa, cũng như sự tinh tuyền thánh thiện của Giáo Hội từ màu trắng phẩm phục các ngài đang mặc.

Sau các bài đọc, Đức Cha Giuse đã bắt đầu cử hành Nghi thức Phong Chức Linh mục cho các Tiến Chức. Với ba phần bao gồm Nghi thức Chuẩn bị, Nghi thức Bí Tích, Các Nghi thức Diễn giải được cử hành với lời dẫn giải không chỉ giúp các Tiến chức, nhưng còn giúp cộng đoàn tham dự hiểu rõ và cảm nghiệm sự thánh thiêng của Thiên Chức Linh mục, cũng như những gì các linh mục tương lai của Chúa cần thi hành trong phận vụ của họ.

Sau phần tuyển chọn trong Nghi thức Chuẩn bị, Đức Cha Giáo phận đã trao cho cộng đoàn và nhất là các Tiến chức những huấn dụ quan trọng, đặc biệt cần thiết khi họ trở thành linh mục và thi hành sứ vụ trong chức tư tế thừa tác khi Ngài nhấn mạnh đến các phận vụ cũng như trách nhiệm của người linh mục với Thiên Chúa, với Giáo hội và với đoàn Dân Chúa.

Huấn dụ của Đức Cha Giáo Phận với các Tiến chức

Với Thiên Chúa, Đức Cha Giáo phận đã nhấn mạnh đến phận vụ hằng ngày mà họ phải thực hiện trong tư cách là vị đại diện của Thiên Chúa, họ cần phải “thi hành nhiệm vụ giảng huấn, nghĩa là truyền đạt diễn giảng Lời Chúa và chỉ vẽ cho anh chị em mình biết áp dụng Lời Chúa vào cuộc sống hằng ngày… thi hành chức vụ thánh hóa các tâm hồn trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, nhất là qua bí tích Thánh Thể.” Nhưng để thi hành phận vụ rao giảng Lời Chúa cách xứng hợp, đem lại hiệu quả mà Thiên Chúa mong đợi, Đức Cha nói rằng “, các con phải chuyên chăm học hỏi, nghiên cứu trong các nguồn mạch tài liệu chính thống của Hội Thánh. Ngoài ra, các con phải chuyên cần suy gẫm để lấy lời Chúa làm sức sống và kim chỉ nam cho cuộc sống của các con.” Và để có thể dâng của lễ của nhân loại, đoàn dân lên Thiên Chúa trong hy tế Thánh Thể, Đức Cha nhấn mạnh “Khi dâng Thánh Lễ, các con sẽ hành động trong tư thế của Chúa Kitô (in persona Christi). Vì vậy, các con phải biết biến đời các con thành của lễ, hiệp cùng Chúa Kitô là lễ tế toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa Cha cho phần rỗi đời đời của nhân loại.”

Với Giáo Hội, dù các linh mục mang trong mình chức tư tế thánh thiện và vương giả, nhưng họ cần đến tính vâng phục và và sự hiệp nhất, khi tháp nhập vào trong thân mình Giáo Hội để trở thành thân thể duy nhất “các con hãy liên kết và tùng phục Đức Giám Mục Giáo phận và hiệp nhất với các anh em linh mục để chăm sóc đoàn chiên của Chúa.”

Với đoàn Dân Chúa, Đức Cha nhấn mạnh đến vai trò nối kết, sức mạnh hòa giải, thể hiện lòng thương xót với đoàn dân mà các linh mục cần thi hành “các con hãy là điểm quy tụ, là mối dây nối kết và là sức mạnh hòa giải để đoàn Dân Chúa được hưởng niềm an vui trong tinh thương yêu hiệp nhất. Với lòng thương xót của Chúa đầy tràn trong lòng, các con hãy đi tìm chiên lạc: những anh chị em tín hữu đã bỏ Chúa, ..và những anh chị em lương dân chưa được hưởng niềm vui của Chúa Kitô, Đấng cứu thế.”

Kết thúc bài huấn dụ với các ý tưởng đã trình bày, Đức Cha Giáo Phận tin tưởng các linh mục của Ngài sẽ “cộng tác hữu hiệu để biến ước mơ của Giáo phận chúng ta thành sự thật, trở thành ‘Thánh địa của lòng Chúa thương xót’” khi họ trở thành “những chứng nhân của lòng Chúa thương xót.”

Sau bài huấn dụ, phần Nghi thức Chuẩn bị tiếp tục với phần thẩm vấn và lời hứa của ứng viên. Tiếp đến, cộng đoàn sốt sắng hát Kinh Cầu Các Thánh để khẩn nài Chư Thánh trên Thiên Quốc cầu bầu giúp các Tiến chức có thể sống trọn đời linh mục thánh thiện và nhiệt thành chu toàn sứ mạng cao cả nhưng cũng đầy thách đố mà họ lãnh nhận. Liền kề sau đó, Phần hai với Nghi thức Bí Tích bao gồm việc đặt tay và lời nguyện thánh hiến đã biến đổi các ứng viên trở thành linh mục đời đời của Chúa, một ấn tín Bí tích không bao giờ tẩy xóa. Các Nghi thức Diễn giải như mặc phẩm phục, xức dầu bàn tay, trao chén rượu có bánh lễ và hôn chúc bình an tỏ rõ sứ mạng của chức tư tế thừa tác mà các tân linh mục vừa lãnh nhận. Trong các Nghi thức Diễn giải, Đức Tổng Giám Mục Giuse cùng Đức Cha Phụ Tá Gioan cũng đã đồng phụ giúp phần diễn nghĩa với Đức Cha Giáo Phận.

Sau tất cả các Nghi thức Phong Chức Linh Mục, Thánh Lễ được tiếp tục với phần Phụng vụ Thánh Thể. Nhưng ngay lúc này đây, cả Giáo phận Xuân Lộc như vỡ òa trong niềm vui khi trên bàn thờ thánh hiến hôm đó đã có thêm 39 Tân Linh Mục cùng cử hành Thánh Thể, khơi thêm 39 “con suối lòng thương xót” khơi chảy đến với Dân Chúa, đến với muôn người từ nguồn Suối Lòng Thương xót của Thiên Chúa.

39 tiến chức lãnh nhận thiên chức Linh mục, một con số quả tuyệt vời, là niềm mơ ước của biết bao Giáo Phận, trong và ngoài nước, như Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, Tổng Giám Mục Giáo phận Sài Gòn đã thưa với Đức Cha Giáo phận, quý Đức Cha, cũng như với quý Cha và cộng đoàn. “Thánh Lễ Phong chức Linh mục của ngày hôm nay, có thể nói là Thánh Lễ vĩ đại. Vĩ đại, vì một lúc Giáo phận đã có đến 39 Tân Linh Mục, một Thánh Lễ được xem như là đông nhất các tiến chức được phong chức tại Giáo Hội Việt Nam, và là niềm mơ ước của biết bao nhiêu Giáo phận khác trên thế giới khi mà ơn gọi sống đời thánh hiến ngày càng giảm sút.”

Tạ ơn Chúa, và tri ân quý Ông Bà Cố, gia đình các Tân Linh Mục vì đã gieo, vun trồng và nuôi dưỡng ơn gọi của các Ngài, như Đức Tổng Giuse đã nói “Chính nhờ đời sống đức tin, đạo đức từ các gia đình, mà Giáo phận Xuân Lộc đã có thêm 39 Tân Linh Mục hôm nay.”

Dù con số các tiến chức được phong chức linh mục là rất đông, nhưng Thánh Lễ không hề bị kéo dài, do chính nhờ sự khéo léo sắp xếp trong phần nghi thức các linh mục đặt tay trên các Tiến chức, phần các Nghi thức Diễn Nghĩa.

Tin, ảnh: Nt. Teresa Ngọc Lễ, O.P và Ban TT GP Xuân Lộc.
 
Truyền giáo Việt Nam hiện nay: Ánh sáng và Bóng tối
LM Mic. Nguyễn Khắc Minh
15:48 17/07/2020
TRUYỀN GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY: ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐI

I. Bối Cảnh Hiện Tại

Đức Cha Đinh Đức Đạo, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên tờ báo điện tử vaticaninsider.lastampa.it về kết quả truyền giáo tại Việt Nam, đã cho biết như sau:

“Năm 1960, số tín hữu Công Giáo là 2, 43 triệu người, số dân cả nước là 35 triệu người, tỷ lệ người Công Giáo trên dân số cả nước là 7%.
Bốn mươi năm sau, năm 2000, có 5, 2 triệu người Công Giáo, số dân cả nước là 77 triệu người, tỷ lệ người Công Giáo trên dân số cả nước là 6, 75%.
Năm 2014, có 6, 6 triệu người Công Giáo, số dân cả nước là 95, 2 triệu người, tỷ lệ người Công Giáo trên dân số cả nước là 7%.”[1]


Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn cho biết Theo thống kê của Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở, được công bố tại Hà Nội ngày 19/12/2019 mới nhất vừa qua cho thấy: Dân số VN là 96, 2 triệu người, có 16 tôn giáo được phép hoạt động với 13, 2 triệu tín đồ, chiếm 13, 7% tổng số dân cả nước. Trong đó số người theo Công Giáo là đông nhất với 5, 9 triệu người, chiếm 6, 1% dân số. Tỷ lệ dân số Công Giáo sút giảm từ 6, 61% năm 2009, xuống còn 6, 1% năm 2019.

Như vậy, dựa trên những con số trên đây thì kết quả của việc truyền giáo tại Việt Nam từ khi thiết lập hàng giáo phẩm cho đến nay dường như giậm chân tại chỗ! Và có thể nói là còn thụt lùi.

Linh mục Nguyễn Ngọc Sơn đã làm một so sánh về việc truyền giáo với Giáo hội Tin Lành ở Việt Nam, năm 1999: số tín hữu là 400, 000 người. Năm 2008: con số này đã lên tới 1, 500,000 người. Như thế, số tín hữu tăng gần 4 lần trong vòng 10 năm.

Ngoài ra, những con số về kết quả truyền giáo tại Giáo Hội Hàn Quốc cũng có thể làm cho chúng ta khâm phục:

● Năm 1949: Công Giáo và Tin Lành chỉ chiếm 1% dân số ở Hàn Quốc.
● Năm 2009: Công Giáo 9.65% và Tin Lành 26%. Cả nước có 35.65% theo Kitô giáo.
● Như vậy, chỉ trong vòng 60 năm (1949-2009) dân số Công Giáo tăng từ 1% lên 9.65% và trong 10 năm (1999-2009) tăng từ 7.73% lên 9.65%.[2]

Riêng Giáo Phận Cần Thơ, theo báo cáo của Đức Cha Stêphanô Giám Mục giáo phận với Đức Tổng Giám Mục Marek Zalewski đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam rằng; Người Công Giáo địa phận Cần Thơ giảm từ 4, 7% xuống còn 4, 4%.[3]

Theo phát biểu của Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu Long: “Số tín hữu gia nhập đạo, tức chịu phép Rửa tội, cho thấy thường do hai cách: hoặc sinh ra từ gia đình Công Giáo; hoặc do kết hôn với người có đạo (chiếm 80-90% trong số người lớn theo đạo). Như thế thì phải nói rằng việc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam sau 50 năm không có kết quả là bao, nếu dựa vào các con số thống kê.

Số người theo đạo không tương xứng với số nhân sự lo việc truyền giáo. Năm 2014, số linh mục cả nước là 4.635 (3.546 linh mục giáo phận và 1.089 linh mục dòng); số chủng sinh là 2.357, số tiền chủng sinh là 2.389; số tu sĩ là 19.717 (2.834 nam tu, 16.883 nữ tu); số giáo lý viên cả nước là 59.448 người. Tổng số các nhân sự gắn liền với việc truyền giáo là 88.546 người. Số người tân tòng gia nhập đạo năm 2014 là 41.395 người. So sánh hai con số 88.546 và 41.395, ta thấy cứ hai tín hữu ưu tuyển chưa đem được một người vào đạo. Đó là chưa nói đến con số rất lớn các hội viên hội đoàn Công Giáo tiến hành trong cả nước
.”[4]

Riêng về con đường Nam Sông Hậu - nối dài Cần Thơ và Sóc Trăng khoảng 60km, mà chỉ có 1 nhà thờ trên quốc lộ. Đi 30 km mới có được 1 nhà thờ. Còn các nhà thờ Tin Lành và chùa chiền có rất nhiều. Riêng về Tin Lành, cứ chỗ nào đông đông dân xíu là có điểm nhóm sinh hoạt. Còn Công Giáo thì cần phải có đủ thứ giấy tờ, phải có đất và có Linh Mục...

Nhà thờ giáo điểm truyền giáo Trà Ếch có từ 1935, đến nay chưa tới 100 người đi lễ. Hai điểm nhóm Tin Lành phía trước nhà thờ có khoảng 10 năm, nhưng mỗi điểm nhóm Tin Lành này cũng đã được vài chục người sinh hoạt thường xuyên mỗi Chúa Nhật.

Năm nào cũng có phong chức, biết bao Tân Linh Mục "ra trường", biết bao người trẻ dấn thân tận hiến tu trì trong các nhà dòng, biết bao cơ sở phát triển đầy hoành tráng, biết bao cộng đoàn mới được thành lập, biết bao khóa huấn luyện... Vậy mà tại sao tỉ lệ người Công Giáo vẫn giảm thụt lùi?

1. Hoàn cảnh xã hội thay đổi

a. Mặt trái:


Xã hội Việt Nam hôm nay đang nằm trong vòng xoáy thay đổi của cả thế giới. Khoa học kỹ thuật phát triển quá nhanh. Các ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ như điện thoại thông minh, máy móc... được ứng dụng trọng cuộc sống làm cuộc sống đầy đủ tiện nghi hơn... Điều này dẫn đến một xã hội thực dụng, tiêu thụ... Mục tiêu của con người thời đại dường như chỉ là kiếm tiền để mua được điện thoại, sắm sửa được máy móc, tìm cuộc sống tiện nghi... Nhiều người coi các giá trị tâm linh và nhân bản là thứ yếu hay dần lùi vào quên lãng...

Các cuộc di dân lên thành phố, các khu công nghiệp mọc lên, người dân miền quê bỏ ruộng vườn lên thị thành đi làm xí nghiệp, dẫn đến thay đổi cấu trúc xã hội, người di dân ít được quan tâm chăm sóc hơn, lên thành thị là mạnh ai nấy sống, ít biết nhau, cũng không còn thời gian thăm viếng quan tâm nhau... Sự trợ giúp từ cộng đồng tình làng nghĩa xóm ít đi. Đi lên thành phố là hầu như ra ngoài sự nhắc nhở và quan tâm của các vị mục tử bổn sở (hữu trách). Chưa nói tới những khu chung cư cao cấp ở các đô thị rất khó vào thăm, vì họ có bảo vệ kỹ càng. Tình liên đới không còn nữa...

b. Mặt tích cực:

Có nhiều người, tổ chức thích làm từ thiện, sẵn sàng nghĩ đến người khác, có điều kiện để thực thi, kể cả người trẻ...

Có một bộ phận người rất quan tâm và tìm về tâm linh, có vẻ như họ đang tìm hướng đi cho đời sống tâm linh mình. Có một số Công Giáo và kể cả không Công Giáo càng ngày càng đào sâu đời sống tâm linh, bám rất chắc vào các tôn giáo hoặc niềm tin họ theo đuổi... vì dường như cuộc sống xô bồ này làm nảy sinh nhu cầu tâm linh sâu đậm trong họ, và họ chỉ có thể thỏa mãn khao khát đó khi gặp được đúng đường đi trong tâm hồn.

2. Chính trị hiện nay

Tuy còn rất nhiều khó khăn và ngột ngạt, nhưng nếu nhìn vào khía cạnh tích cực thì ta thấy hoàn cảnh đất nước hiện nay cũng thông thoáng hơn trước nhiều (so với sau 1975). Đời sống kinh tế có tạm khá hơn. Sự quản lý về tôn giáo của nhà nước cũng có nhiều điểm thoáng hơn, các sinh hoạt tôn giáo cũng được tương đối dễ thở hơn trước (dù không phải hoàn toàn). Tuy cũng còn rất nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung là đã có phần đỡ hơn (hay ít ra là tại một vài địa phương), việc mở các giáo điểm ở miền Tây có lẽ dễ hơn ở các miền khác, việc tổ chức nghi lễ, các nơi hành hương... Nên nếu nhìn ra mặt tích cực thì cũng có lý do để tạm an ủi.

3. Giáo hội hiện nay

a. Tích cực


Giáo hội có nhiều người trẻ tận hiến, các chủng viện và dòng tu đầy người. Người đi tu rất còn được kính trọng. Nhiều người trẻ dám quảng đại dấn thân và phục vụ.

Đất nước kinh tế phát triển, nên cũng có nhiều người phất lên, và họ sẵn sàng đóng góp tài chính cho các công việc chung. Nên Giáo Hội cũng dễ xoay sở hơn trong các công việc cần thực thi.

Nhân sự Giáo hội, các giáo phận, các dòng tu phát triển, trình độ chuyên môn cũng được nâng cao. Giáo dân đông đúc nơi các nhà thờ thánh lễ. Họ còn nghe các vị thẩm quyền.

b. Khiếm khuyết

* "Bề trên quản trị" khác "bề trên truyền giáo"

Cũng theo phát biểu của Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu Long: “Trước hết do GHVN chưa có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về công cuộc loan báo Tin Mừng. Muốn nhận thức đúng thì cần phải biết quan điểm, đường lối và hoạt động của GH về vấn đề truyền giáo. Năm mươi năm qua, GH đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng liên quan đến sứ vụ truyền giáo... Nhưng đa số tín hữu Việt Nam, kể cả các linh mục, tu sĩ, không được học hỏi thấu đáo, thì không thể có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về việc loan báo Tin Mừng.”[5]

Các Đấng Bản Quyền, Bề Trên, Giám Mục... cũng còn chưa quan tâm nhiều đến việc Loan Báo Tin Mừng. Hoặc quan tâm mà chưa đủ, chưa thực tế, chưa có hành động cụ thể. Chỉ nói suông, hoặc giao phó việc Loan Báo Tin Mừng cho ai đó phụ trách. Coi như đó là xong là hoàn thành nhiệm vụ.[6]

Nếu không có sự thúc bách, đồng hành, nâng đỡ của bề trên. Chắc chắn "bề dưới” làm việc truyền giáo không nhiệt huyết và thiếu hiệu quả.

* Thiếu thống nhất, chương trình chung cho từng địa phương.

Các tổ chức, Giáo Hội địa phương chưa đưa ra được các phương pháp cụ thể, chiến lược chiến thuật rõ ràng về truyền giáo, chưa có mục tiêu cụ thể, chưa thống nhất đồng bộ, kể cả chưa có chương trình thích ứng với từng địa phương... Mạnh ai nấy làm, ai thích thì gồng mình lên làm, ai nhiệt huyết thì làm, ai không làm thì thôi.

* Các chủng viện, dòng tu

Các chủng viện tuy cũng có nhắc đến việc truyền giáo, nhưng hình như chưa đủ và thiếu thiếu điều gì đó rất là căn bản. Các Tân chức ra trường hầu như thiếu khả năng đáp ứng cho bối cảnh truyền giáo. Nhất là thiếu "tâm hồn" truyền giáo, ngại khó ngại khổ. Có quá đáng không khi nói nhiều chủng sinh ra trường chỉ để trở thành nhà kỹ trị bảo trì họ đạo có sẵn, hơn là vui say dấn thân ra đi rao giảng Tin Mừng cho vùng dân ngoại. Thiếu cả các kỹ năng truyền giáo. Thiếu những gương sáng cụ thể để họ noi theo.

● Thiếu gương sáng về truyền giáo cho chủng sinh noi theo

● Chương trình đào tạo chủng viện quá nặng về lý thuyết, duy lý, đào tạo về truyền giáo chưa đủ

● Thiếu điều kiện thực tiễn thực hành truyền giáo.

● Dẫn đến chủng sinh thiếu vắng "tâm hồn truyền giáo"... thiếu nhiệt tình.

Các dòng tu thì đua nhau mở nhà trẻ, nhưng các cơ sở bác ái từ thiện, y tế, giáo dục, trẻ mồ côi, người già neo đơn... gần như bị lãng quên. Hãy nhìn vào thực mỗi nhà dòng xem có bao nhiêu nhà trẻ và được bao nhiêu nhà mồ côi? Hãy nhìn các giáo phận xem có bao nhiêu cơ sở tôn giáo nhưng được mấy cơ sở cho người nghèo? Và cơ sở nào hoành tráng hơn? Đức Chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhấn mạnh giá trị của đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin Mừng: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân”.

Dù rằng công cuộc Tân Phúc-Âm hóa để loan truyền đức tin được nhắm đến ba đối tượng:

● Các kitô hữu vẫn giữ đạo;
● Những người đã được rửa tội nhưng nguội lạnh, để mời họ hoán cải, phục hồi niềm vui của đức tin;
● Những người chưa biết Chúa hay chối bỏ Ngài. (cf. EV.14).

Nhưng cho đến nay, nói chung, chúng ta chỉ mới chú trọng làm mục vụ cho những người đang giữ đạo, những con chiên ngoan hiền, chứ chưa quan tâm đủ đến những người khô khan nguội lạnh, hay những người chưa hề biết Chúa.[7]

* Giáo dân và đời sống đạo

Đức Tổng Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong diễn từ triều yết Đức Thánh Cha Phanxicô dịp Ad limina tháng 3.2018 nói đến não trạng “cầu an”, “thủ thân khép kín” đang tồn tại nơi Giáo Hội Việt Nam. Não trạng này chịu ảnh hưởng của quan điểm cho rằng “không nên loan báo Chúa Kitô cho người chưa biết, cũng như không nhất thiết gia nhập Giáo Hội, vì người tốt cũng được cứu độ.”

Hoặc trong bài thuyết trình của Đức cha Anphong Nguyễn Hữu Long tại hội thảo toàn quốc về Phúc Âm Hoá (Trung tâm Mục Vụ TGP Huế, 3/9/2018 – 6/9/2018) nói như sau: "Người giáo dân VN vẫn còn chú trọng giữ đạo hình thức bên ngoài chưa quan tâm đến giới thiệu đức tin cho người xung quanh".

Vị mục sư Rạch Vọp nói với Linh mục Chánh xứ Trà Ếch như sau: "Bên Công Giáo nhiều hoạt động đông đảo nhưng giáo dân bên Công Giáo không có hoạt động truyền giáo nhiều như bên Tin Lành. Các tín hữu Tin Lành hăng say thực hiện công việc rao giảng Tin Mừng.”

4. Tâm thức người Miền Tây

Do ảnh hưởng của địa lý, khí hậu sông nước hiền hòa... tâm thức người Miền Tây là mộc mạc, chân chất, bình dị... rất dễ thương gần gũi và tốt bụng. Đây là điểm rất thuận lợi cho việc Loan Báo Tin Mừng.

Chúng ta thấy thực tế là các dòng tu nước ngoài rất thích về Việt Nam mở rộng hội dòng, nhất là miền Nam và các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long.

Có một số linh mục đã tận dụng tốt điểm tích cực này, nên rất thành công trong việc mở mang nước Chúa cho người thôn quê miền Tây.

II. Những Khó Khăn và Thách Đố

1. Trong các quan niệm về truyền giáo.


Có một số quan niệm cho rằng không cần phải Loan Báo Tin Mừng, vì người ngoài Kitô giáo mà sống tốt vẫn được cứu độ.

Tài liệu làm việc (Lineamenta) chuẩn bị cho Thượng Hội đồng Giám mục khóa XIII năm 2012, số 35-36 trình bày vấn nạn này như sau: “Ngày nay có một sự lầm lẫn ngày càng tăng khiến nhiều người không nghe hoặc không thi hành mệnh lệnh truyền giáo của Chúa (xem Mt 28, 19). Người ta thường chủ trương rằng tìm cách thuyết phục người khác theo đạo là giới hạn tự do của họ. Theo quan điểm này, chỉ được phép trình bày ý tưởng của mình và mời gọi người ta hành động theo lương tâm họ mà không nhắm tới việc làm cho họ trở lại với Đức Kitô và đức tin Công Giáo. Có thể nói là chỉ cần giúp người ta trở nên nhân bản hơn hay trung thành hơn với đạo của họ; chỉ cần xây dựng những cộng đồng tìm kiếm công lý, tự do, hoà bình và tình liên đới. Hơn nữa, một số người còn chủ trương rằng không cần phải loan báo Đức Kitô cho những ai không biết Ngài, hoặc không cần phải khuyến khích họ vào Hội Thánh, vì họ vẫn có thể được cứu rỗi mà không cần phải minh nhiên biết Đức Kitô và không cần phải gia nhập Hội Thánh một cách chính thức” (số 35).

- Có nhiều ý kiến cho rằng Loan Báo Tin Mừng chi cho mệt. Giúp đỡ bác ái chi cho mệt. Vì họ ăn rồi họ cũng bỏ đạo. Vì LBTM cho họ vô đạo rồi họ trước sau họ cũng bỏ thôi. Vô ích.

- Nếu ta LBTM mà họ sau này bỏ đạo, thì linh hồn họ ai chịu trách nhiệm? ...

- Tôi có biết bao nhiêu việc làm còn không kịp, giờ đâu mà lo đi Loan Báo Tin Mừng? Giáo dân tôi lo còn chưa xong, lo chi tới chuyện đi đâu rao giảng.

- Tôi ngồi ở nhà đọc kinh cầu nguyện, soạn giảng cho hay, tập hát cho chuẩn... ý hướng về việc Loan Báo Tin Mừng, vậy tôi cũng là đang thực hiện việc LBTM rồi, cần chi đi đâu xa xôi, làm chi cho thêm rắc rối mệt mỏi.

2. Trong thực tế

- Trở ngại không được nâng đỡ, bề trên không hiểu. Anh em không ủng hộ. Thiếu hợp tác. Lẻ loi cô đơn LBTM, không khéo còn bị ghép thêm tội này tội kia.

- Trở ngại chính quyền địa phương, nhiều điểm nhiều nơi rất khó khăn để có được giấy phép hoạt động.

- Các tôn giáo khác và các tổ chức khác hoạt động rất mạnh, ta không khéo dễ bị mất sức hút ảnh hưởng.

- Khó khăn về tài chính. LBTM ít nhiều cũng cần tài chính. Nhưng đa số các hoạt động LBTM là do tự túc, tự quyên góp. Không hề có quỹ chung và nếu có cũng chẳng được bao nhiêu. Tiền bạc đổ dồn vào việc xây dựng... mà không dành phần tương xứng cho việc truyền giáo.

- Công Giáo rất hay là có tổ chức cơ cấu phẩm trật. Nhưng đôi khi chính cơ cấu phân ranh giới luật lệ lại giết chết việc LBTM.

- Thiếu đào tạo cán bộ LBTM, thiếu huấn luyện trường kỳ. Thiếu đi sự quan tâm của các vị bề trên hữu trách.

- Các hội đoàn thiếu sinh hoạt thiếu yếu tố LBTM, cứ lo linh đạo của hội đoàn mình mà không ý thức được LBTM cũng phải là linh hồn của các hội đoàn.

- Một trong những khó khăn lớn nữa và cũng là rất tế nhị khi cha sở sau phá những gì cha sở trước làm, hoặc không tiếp nối các công việc LBTM của cha sở trước, hoặc không có khả năng, hoặc không có tâm hồn LBTM, hoặc ích kỷ nhỏ nhen, hoặc muốn tạo dấu ấn của riêng mình, cái gì mình bày ra mình làm, cái gì của cha trước phá bỏ đi, thay đổi cả nhân sự, lãnh đạo tầm thường chứ không phải là lãnh đạo cao thượng... nên công việc chung LBTM nơi đó không tiếp tục đạt kết quả.

- …

III. Vượt Qua Trở Ngại

1. Mọi người cùng ý thức: Loan báo Tin Mừng để mời gọi người khác vào đạo vẫn là điều cần thiết


Tài liệu làm việc (Lineamenta) chuẩn bị cho Thượng Hội đồng Giám mục khóa XIII năm 2012 giải thích: “Mặc dù những người không phải là Kitô hữu vẫn có thể được cứu rỗi nhờ ân sủng Thiên Chúa ban cho, bằng những cách chỉ một mình Người biết, song Hội Thánh không thể không biết rằng mỗi con người đều muốn biết khuôn mặt thật của Thiên Chúa và vui hưởng hôm nay tình bạn của Đức Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Việc gắn bó với Đức Kitô, Đấng là Sự Thật, và trở nên thành viên của Hội Thánh Người không làm giảm tự do con người, nhưng đúng hơn nó gia tăng tự do và dẫn đưa tự do tới chỗ hoàn thiện nhờ một tình yêu xả kỷ và sự chăm lo cho hạnh phúc của mọi người. Quả là một món quà vô giá khi được sống trong vòng tay yêu thương của tất cả các bạn hữu của Thiên Chúa, nhờ được hiệp thông với thịt và máu ban sự sống của Con Thiên Chúa; và quả là vô giá khi đón nhận từ Người sự chắc chắn rằng tội lỗi của chúng ta được tha, và được sống trong tình yêu phát sinh từ đức tin! Hội Thánh muốn mọi người được dự phần vào sự giàu có ấy, để họ có thể đạt được chân lý sung mãn và các phương thế cứu độ, để “được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8, 21). Khi loan báo và thông truyền đức tin, Hội Thánh bắt chước chính Thiên Chúa, Đấng tự thông ban chính mình cho nhân loại bằng việc ban Con của Người là Đấng đổ tràn Thánh Thần để mọi người có thể được tái sinh làm con cái Thiên Chúa” (số 36)

Sắc lệnh Ad Gentes số 7 cũng quả quyết: “Dù Thiên Chúa có thể dùng những đường lối Ngài biết để đưa những kẻ không vì lỗi mình mà chưa biết Phúc Âm đến với đức tin, vì không có đức tin thì không thể làm vui lòng Ngài, nhưng Giáo Hội có bổn phận và đồng thời có thánh quyền rao giảng Phúc Âm; do đó, ngày nay và luôn mãi, hoạt động truyền giáo vẫn còn giữ trọn vẹn hiệu lực và cần thiết”.

ĐTC Phaolô VI khẳng định vị trí ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng và nhắc nhở các tín hữu: “Sẽ rất ích lợi nếu mỗi Kitô hữu và mỗi người rao giảng Tin Mừng cầu nguyện theo ý tưởng này: người ta cũng có thể được cứu rỗi bằng những cách thức khác, cho dù chúng ta không rao giảng Tin Mừng cho họ; nhưng đối với chúng ta, liệu chúng ta có thể được cứu rỗi hay không nếu vì sự trễ nải, sợ hãi hay hổ thẹn - điều mà Thánh Phaolô gọi là ‘xấu hổ vì Tin Mừng’ - hay vì những tư tưởng sai lạc mà chúng ta không rao giảng Tin Mừng? ” (Tông huấn Evangelii Nuntiandi)

2. Hành động cụ thể

- Mỗi vị bề trên phải là "Bề trên truyền giáo" chứ không nên là "bề trên quản trị". Bề trên phải nhúng tay vào việc truyền giáo. Chứ không chỉ hô khẩu hiệu rồi giao cho ai muốn làm gì thì làm.

- Các Giáo Hội địa phương nên có những chương trình thống nhất cụ thể để đưa ra thực hành cho việc LBTM nơi hoàn cảnh địa phương mình. Hằng năm, hàng tháng... cấp độ Giáo Phận, Giáo Hạt, giáo xứ, hội đoàn, giáo dân...

- Phải dành riêng ngân sách cụ thể rõ ràng tương xứng hằng năm cho việc truyền giáo.

- Đào tạo và nhấn mạnh căn tính LBTM cho các chủng sinh, tu sĩ... dồn hết sức để tạo điều kiện huấn luyện cho họ say mê LBTM. Các vị giáo sư bậc thầy dạy phải có những năm tháng sống tận các giáo điểm, có thể là Châu Phi, những xứ nghèo, quốc gia nghèo… để cảm nghiệm thực tế và có kinh nghiệm LBTM. Khi đó lời giảng của mình nặng ký hơn và mới có thể làm gương sáng về truyền giáo và giảng dạy thực tế cho các chủng sinh, tu sĩ noi theo. Cũng vậy, chủng sinh tu sĩ phải tạo huấn luyện và tạo điều kiện để trải nghiệm sống thực tế nơi các giáo điểm truyền giáo để nuôi dưỡng "hồn tông đồ".

- Đào tạo giáo dân thành nhân sự LBTM: Tạo các cộng đoàn cơ bản nhỏ. Làm men làm muối làm chứng nhân Tin Mừng cho những người xung quanh họ. Có chương trình huấn luyện rõ ràng định kỳ phân cấp... theo Địa phận, theo hạt, theo xứ đạo. Chính giáo dân làm việc này rất tốt và nhiều khi hiệu quả hơn các linh mục, tu sĩ.

- Mở rộng việc làm bác ái, giúp đỡ cụ thể cho người nghèo khổ: Thành lập những Trại Mồ Côi, nhà hưu dưỡng, bệnh viện Công Giáo, các cơ sở giáo dục... Điểm này ta còn thiếu rất nhiều.

- Các gia đình, các thành viên các hội đoàn, mỗi giáo dân... tìm cách kết thân với một cá nhân, bạn bè, gia đình bên chưa Công Giáo để yêu thương và chia sẻ LBTM.

- Tạo sân chơi cho các giới, nhất là giới trẻ và thiếu nhi... thu hút mọi thành phần.

- Dùng phương tiện truyền thông để LBTM, huấn luyện nhóm chuyên viên để làm các video clip... tốt đẹp, gương sáng để LBTM

-...

IV. Cách Thức Loan Báo Tin Mừng cho Người Miền Tây.

1. Mở rộng họ đạo, giáo điểm. (Cách thức của cha Fx Đinh Trọng Tự - Gp Cần Thơ)


Đầu tiên chúng ta nên mở rộng việc bác ái tại họ đạo, giáo điểm của mình. Các việc bác ái như là:

● Về giáo dục: Mở các lớp hè, mở các khóa học Anh Văn, vi tính, nấu ăn, chưng bông, học võ miễn phí... Điều này sẽ thu hút các học viên đến rất đông, và từ đó ta hỏi thăm làm quen, đến tận nhà thăm họ...

● Về y tế: ta nên mở phòng thuốc khám bệnh từ thiện bác ái miễn phí châm cứu Đông Tây Y, hàng tuần hoặc hàng tháng. Có nhiều tiền thì Tây Y, ít tiền hơn thì Đông Y, thuốc Nam, châm cứu.... Đây sẽ là điểm quy tụ nhiều người nghèo già bệnh, họ sẽ đến, ta gặp gỡ làm quen và giúp đỡ...

● Nhất là đi thăm viếng, cho con trẻ cái bong bóng, cho người già điếu thuốc lá... Họ rất có cảm tình, mà khi họ đã có cảm tình rồi thì nói gì họ cũng nghe. Họ không thấy Chúa, nhưng thấy ông cha đang sống với họ. Những điều trên sẽ tạo tiếng vang uy tín cho vị Linh mục, và khi đó đi đến đâu dân cũng thương cũng nể, dù là Công Giáo hay ngoại đạo. Họ sẽ đến với ta, và ta đến với họ. Ảnh hưởng của ta sẽ rộng ra và nhà thờ giáo điểm sẽ đông người đến.

2. LBTM từ một vùng trắng

Đi thăm vùng trắng. Ở đâu có điện đường trường trạm, có dân cư tập trung, ngã ba ngã tư ta nên đến thăm. Lân la làm quen nơi cây xăng, quán vỉa hè, điểm tâm sáng... nhờ người bán vé số dạo dò hỏi xem ở đây có người đạo Công Giáo mới tới làm ăn không? Nếu có ta tới tận nhà thăm, nếu không ta hỏi xem ở đây có ai nghèo không? Chắc chắn có người nghèo. Lúc đó ta sẽ cho chút quà nhỏ nhân dịp Noel, lễ Tết...

Từ đó ta sẽ làm quen lân la ra các bô lão trong vùng, các người già đứng đầu dòng tộc có uy tín, các vị cao niên trong khu vực. Ta sẽ liên hệ cho quà Giáng Sinh chút đỉnh bất kể lương giáo... ai nghèo là cho.

Ít nhiều trong đó cũng có người ngày xưa có đạo, hoặc ông bà cha mẹ có đạo, hoặc người thân lấy vợ lấy chồng có đạo, hoặc bạn bè có đạo, hoặc thời xưa khi đi học có mấy người bạn rủ tới lui nhà thờ.... Từ đó ta nắm lấy họ làm mắt xích, đến thăm họ, nhờ họ làm cầu nối với những người khác.

Ta đến thăm, lắng nghe, quan tâm, vui vẻ... họ sẽ yêu mến ta, và khi ta đã có uy tín với họ rồi thì từ đó họ sẽ dễ dàng nghe ta nói.

Được một người cao niên là được cả dòng họ đó. Được một em bé đón tiếp là được cả gia đình đó.

Mà cao niên thì ngồi nói chuyện, còn em bé thì cái bong bóng và vài ba câu tiếng Anh là lấy lòng được ngay.

Rồi mời họ tới nhà thờ mình chơi khi có dịp... Noel, lễ Tết...

Họ sẽ thấy hoạt động của ta, thấy giáo dân đông vui, ít nhiều cũng có người theo.

Bước tiếp theo ta mua đất nhỏ, hoặc thuê đất nhỏ, lân la làm quen chính quyền địa phương và âm thầm sinh hoạt vui chơi làm bác ái, dạy học cho thiếu nhi... tại chỗ đó. Và từ từ sẽ hình thành một cộng đoàn cơ bản nhỏ, từ đó nhân rộng ra... Với ơn Chúa, sẽ thành công!

3. Quan niệm về bác ái.

Có vài ý kiến cho rằng cho họ ăn rồi họ cũng bỏ. Giúp làm chi... khám bệnh từ thiện có hết đâu, khám làm chi...

Thư Giacôbê chương 2 câu 15-16 viết: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? ”

Thông Điệp Redemptoris Missio của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đặt các công việc bác ái trong chương 5 như là một hoạt động truyền giáo, cũng hệt như việc giảng dạy vậy. “Vì động lực của truyền giáo là tình yêu, mang tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Mà tình yêu là phải hành động, không nói suông. Vậy bất cứ cách nào chuyển thông tình yêu của Chúa, qua thái độ, tâm tình, cử chỉ, hành động... cũng là truyền giáo vậy. Hơn nữa sự cứu rỗi nằm ở toàn diện con người, không phải chỉ cứu rỗi linh hồn hạnh phúc đời sau, mà cả thân thể hạnh phúc đời này nữa. Sự cứu rỗi toàn diện con người đòi hỏi phải giải phóng con người khỏi những gì là hạ thấp nhân phẩm: nghèo đói, dốt nát, bất công...”

Bác ái là con đường ngắn nhất đi từ trái tim tới trái tim.

Như đã nói trên, người miền Tây rất hiền hòa, chân chất và nhân hậu. Vậy ta nên dựa vào điểm tích cực này để LBTM.

Thực sự họ nghèo chúng ta phải giúp đỡ họ cách vô vị lợi. Không cần họ vô đạo mà họ nghèo chúng ta cũng nên giúp họ. Bên anh em Cao Đài - Hòa Hảo làm rất tốt việc bác ái này...

Với người miền Tây chân chất, chỉ cần ít gạo mì đường, và một nụ cười cùng lời hỏi thăm… là ta đã lấy được lòng họ, cứu được linh hồn của họ. Từ đó ta đưa họ đến gặp gỡ một Đức Kitô đang sống (Christus Vivit). Chia sẻ kinh nghiệm về sự hiện diện sống động của Đức Kitô trong đời mình với họ. Rồi họ sẽ được gặp Ngài, có kinh nghiệm với Ngài và cảm nhận được Ngài yêu thương họ. Từ đó họ sẽ có niềm tin hứng khởi và niềm hy vọng.

V. Kết Luận: Hy Vọng Lên Đường

Đức Thánh Cha nhắn nhủ với chúng ta trong tông huấn Evangelii Gaudium rằng, “tôi chỉ muốn tìm lời động viên cho việc truyền giáo nhiệt thành hơn, vui tươi, quảng đại, can đảm, đầy tình yêu sâu xa và một cuộc sống được truyền đạt!”

Loan báo Tin Mừng yếu kém thể hiện một đức tin trống rỗng. Làm sao việc LBTM phải là một dòng chảy nóng bỏng thẩm thấu trong máu thịt tâm hồn người Kitô hữu thúc bách họ ra đi dấn thân tận hiến.

Điều này phải bắt nguồn mãnh liệt từ tình yêu Chúa Kitô, một kinh nghiệm tràn đầy hạnh phúc với Đức Kitô đang sống, để từ đó phun trào lên nguồn ân sủng thúc bách tín hữu ra đi rao giảng niềm vui hạnh phúc này.

Ai cũng có quyền được nghe và đón nhận Tin Mừng. Ta đã được nhận nhưng không, hãy giúp cho anh chị em mình cũng được nghe và đón nhận Tin Mừng cách nhưng không như vậy.

Xin Chúa Thánh Thần thúc bách ta theo mẫu gương của Mẹ Maria dịu hiền lên đường mang Chúa đến cho người anh chị em.

LM Mic. Nguyễn Khắc Minh

Chú thích:
[1] Vietnamese Church, when faith is not about numbers, https://www.lastampa.it/vatican-insider/en/2015/10/14/news/vietnamese-church-when-faith-is-not-about-numbers-1.35215113
[2] Để Nước Chúa trị đến trên quê hương “con rồng cháu tiên”, https://sjjs.edu.vn/blog/2017/09/08/de-nuoc-chua-tri-den-tren-que-huong-con-rong-chau-tien/#_ftn15
[3] Trích tài liệu dịp tĩnh tâm hạt Đại Hải 7/2020
[4] https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/canh-tan-hoat-dong-loan-bao-tin-mung-tai-viet-nam-ngay-nay-49002
[5] https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/canh-tan-hoat-dong-loan-bao-tin-mung-tai-viet-nam-ngay-nay-49002
[6] Bề trên quản trị" chứ không phải "bề trên truyền giáo", Cha Jerome Nguyễn Đình Công, giám đốc Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo tại VN, Khóa bồi dưỡng Thần Học và Truyền Giáo tại Vũng Tàu 30/-2/7/2020)
[7] Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu Long, https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/canh-tan-hoat-dong-loan-bao-tin-mung-tai-viet-nam-ngay-nay-49002
 
Văn Hóa
Gia Đình Công Giáo 3
Vũ Văn An
19:44 17/07/2020
4. Cuộc tranh cãi về “gia đình”

Nhân có những mưu toan muốn định nghĩa lại gia đình, năm 2010, trên tạp chí Christian Research Journal, Joe Dallas, giám đốc chương trình Genesis Counselling ở Tustin, California, một dịch vụ tư vấn Kitô giáo cho những người đàn ông đối phó với chứng nghiện tình dục, đồng tính luyến ái và các vấn đề liên quan đến tình dục / quan hệ khác, có bài viết tựa là “The ‘family’ quarrel” (https://www.equip.org/article/the-family-quarrel/), chúng tôi cho chuyển sang tiếng Việt sau đây:



Dẫn nhập

Định nghĩa về gia đình đã trở thành một trong những học lý gây tranh cãi nhất của Kitô giáo. Trong thời kỳ quốc tế đang duyệt lại vai trò hôn nhân và gia đình, việc chấp nhận rộng rãi lối sống thử (cohabitation) và tỷ lệ ly dị cao, các tín hữu bày tỏ sự không chắc chắn về điều gì cấu thành hoặc không cấu thành một gia đình, sự do dự về tầm quan trọng của khái niệm gia đình, hoặc việc không sẵn sàng nhìn nhận và tôn trọng khái niệm đó trong cuộc sống của họ. Một sự hàm hồ nói chung dường như đang gia tăng, trong cả Giáo Hội lẫn nền văn hóa, liên quan đến ý nghĩa và tầm quan trọng của gia đình. Thêm vào sự hàm hồ này là cuộc tranh cãi được khuấy động lên bất cứ khi nào một định nghĩa khách quan về gia đình và hôn nhân được tán dương. Vì chúng ta không thể duy trì một quan điểm chuyên biệt mà không phủ nhận trực tiếp hoặc gián tiếp các quan điểm khác, nên chúng ta chỉ còn biết xem xét liệu có nên giữ quan điểm của mình cho chính mình hay bày tỏ chúng với hy vọng có được một đối thoại hữu ích. Nhưng tham gia vào cuộc đối thoại liên quan đến gia đình như vậy có nguy cơ bị xem là một hành động phán xét, loại trừ hoặc thậm chí cuồng tín. Ba câu hỏi chính được đặt ra. Đầu tiên, Kinh thánh có đề ra một định nghĩa súc tích về gia đình không? Thứ hai, định nghĩa đó có quan trọng như một vấn đề tín lý / luân lý trong Giáo Hội không? Và cuối cùng, chúng ta có được kêu gọi cổ vũ và bảo vệ định nghĩa đó bên ngoài Giáo Hội không? Dù câu trả lời cho cả ba câu hỏi dường như rõ ràng là “có”, chúng ta vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện một sự minh xác rõ ràng hơn trong Giáo Hội và một sự táo bạo hữu lý hơn khi ngỏ lời với văn hóa.

Điều lạ là nếu các tín lý Tin Mừng có lúc xem ra bị đánh bại trong cuộc thảo luận, thì chúng luôn chiến thắng trong các kết quả (Charles Spurgeon)

Trong bộ phim năm 1993, Mrs Doubtfire, Robin Williams, cải trang thành một bà già giúp việc nhà, đã ngỏ lời an ủi cô gái nhỏ đang lo sợ vụ ly dị của cha mẹ sẽ kết liễu gia đình em như sau: “Katie ạ, có đủ loại gia đình khác nhau. Một số gia đình có một mẹ, một số gia đình có một bố hoặc hai gia đình. Một số trẻ sống với chú hoặc dì của chúng. Một số sống với ông bà, và một số sống với cha mẹ nuôi. Một số sống trong những căn nhà và khu phố riêng biệt ở các khu vực khác nhau của đất nước. Chúng có thể không gặp nhau trong nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm, vào một lúc nào đó. Nhưng, cháu ạ, nếu có tình yêu, đó là những mối liên hệ ràng buộc. Và cháu sẽ có một gia đình trong trái tim mãi mãi” (1). Đó là một tâm tư chung, ngày càng phổ biến và nghe rất nhân hậu – chính tình yêu tạo nên một gia đình, vì vậy những người bạn yêu thương có thể tạo nên đơn vị gia đình của bạn, một đơn vị gia đình chủ yếu được quyết định bởi cảm xúc, ít bởi máu mủ và hầu như không (nếu không phải là không hề) bởi giới tính hoặc chức năng đã được xác định một cách khách quan. Ở đây, câu nói thường được trích dẫn hai trăm năm nay của nhà thơ người Đức Johann Schiller, “Không phải máu thịt mà là trái tim biến chúng ta thành những người cha và những đứa con” (2) tìm được sinh khí mới trong các cố gắng hiện đại song hành như chiến dịch bằng hình của Gigi Kaeser vận động cho quyền làm cha làm mẹ của người đồng tính tựa là Tình Yêu Làm Nên một Gia đình (3) và lời bài hát của tác giả / nhạc sĩ Carol Lynn Pearson, “Nhưng đó không phải là điều khiến chúng ta muốn hát / Một gia đình không phải chỉ có thế. / Và đây là điều tôi đang nghĩ đến / Một gia đình thực sự là một gia đình khi nó có tình yêu” (4).

Dù quan điểm này đúng khi ca ngợi tính gắn kết được cảm nhận lúc tình yêu được chia sẻ giữa các đối tác hoặc các thành viên của một nhóm, nó vẫn có vấn đề đối với các tín hữu, những người vốn duy trì khái niệm Do Thái – Kitô Giáo truyền thống về gia đình, một khái niệm được xác định bởi các yếu tố khách quan như máu mủ, giới tính và / hoặc các vai trò đã được quy định rõ ràng.

Dù sao, nếu tình yêu tạo nên một gia đình, thì chúng ta phải làm gì với câu định nghĩa truyền thống về hôn nhân, vốn đơn hôn và có hình thức nam-nữ? Đối với vấn đề này, tại sao còn bận tâm với định chế? Nếu tình yêu, hơn là hôn phối, đặt nền tảng cho gia đình, thì giấy phép có liên quan gì đến nó? Cũng thế đối với các vai trò được cho là độc nhất mà các người cha và người mẹ vốn đóng trong việc dưỡng dục con cái, bởi vì nếu tình yêu bình phương với gia đình, thì con cái cũng được nuôi dưỡng một cách hữu hiệu bởi những người không có họ hàng, họ hàng xa hoặc người lạ, miễn là chúng được yêu thương. Vì vậy, nếu tình yêu là trọng tài cuối cùng, liệu sự hiểu biết hiện thời của chúng ta về gia đình có nên được duy trì, hay phải được sửa đổi để xua theo thời đại, hoặc bị loại bỏ hoàn toàn?

Khi mơ hồ trở thành thời thượng

Các căng thẳng gia tăng bất cứ khi nào giá trị của một định nghĩa khách quan (và độc quyền) được so sánh với một định nghĩa có tính bao gồm nhiều hơn, chủ quan nhiều hơn. Nói rằng “chỉ có một đường duy nhất” xem ra có vẻ gây chia rẽ, trong khi đó, nếu nói một cách quân bình hơn như, “bất cứ điều gì có vẻ đúng cho bạn thì đều O.K” rõ ràng đáng chấp nhận hơn. Trong lối nói chuyện lịch sự, pha phôi đôi chút chủ quan tính là điều tự nhiên, nhưng nên tránh, khi có thể, những khó chịu xã hội phát sinh khi một chủ trương bất khoan nhượng được đưa ra. Nhưng chủ đề càng quan yếu, nhiệm vụ bảo vệ sự thật chuyên nhất (exclusive) khách quan càng phải rõ ràng hơn. Ở đây, các lập luận về việc định nghĩa gia đình rất giống với những cuộc tranh luận hiện đại liên quan đến khái niệm chuyên nhất so với khái niệm bao gồm (inclusive) về Thiên Chúa. "Tôi không phải người tôn giáo; tôi là người tâm linh”, nhiều người ngày nay khẳng định như thế; họ cho rằng có nhiều con đường dẫn đến Thiên Chúa và nhiều cách để quan niệm về Người / Bà / Nó. Về điểm này, Kitô hữu khó có thể đồng ý, vì nhớ rằng chính Chúa Giêsu từng nói, “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14: 6), vì vậy, hiện nay, các tín hữu đang đối diện với thách thức cổ vũ một định nghĩa khách quan và chuyên nhất về Thiên Chúa và ơn cứu rỗi trong một thời kỳ khi chủ quan tính liên quan đến cả hai đang là một thời trang. Một thách thức tương tự cũng được đặt ra khi người ta đòi duyệt lại gia đình. Khi “tình yêu tạo nên một gia đình” được lập luận, chúng ta khó có thể đồng ý, vì nhớ rõ gia đình đã được định nghĩa chính xác ra sao trong Kinh thánh, khiến chúng ta bị thách thức phải cổ vũ một định nghĩa khách quan, chuyên nhất về hôn nhân và gia đình khi tính chủ quan liên quan đến cả hai trở thành thời thượng. Bất kể các căng thẳng xã hội, đây là một chủ đề mà chúng ta không thể để mình rụt rè. Các hệ luận đối với việc dưỡng dục con cái và ổn định văn hóa quả rất nhiều, rủi ro kể là rất lớn. Một quan niệm về gia đình được cùng nhau thỏa thuận sẽ xác định cách tiếp cận của quốc gia chúng ta đối với hôn nhân đồng tính, đa thê, các cặp vợ chồng sống với nhau ngoài hôn nhân, chuyển đổi giới tính, nhận con nuôi, bảo hộ con cái và ly dị.

Nói tóm lại, cuộc tranh cãi về “gia đình, tức cuộc tranh luận văn hóa về việc phải định nghĩa và bảo tồn nó ra sao, không còn là một vấn đề nhỏ nữa, mà đòi phải có một đáp ứng Kitô giáo rõ ràng và hợp lý. Ba câu hỏi chính vì thế được nêu lên ở đây: Kinh thánh có đề ra một định nghĩa súc tích về gia đình không? Định nghĩa này có quan trọng như một vấn đề tín lý / luân lý trong Giáo Hội không? Chúng ta có được kêu gọi cổ vũ và bảo vệ định nghĩa này ở bên ngoài Giáo Hội không?

Gia đình là một khái niệm

Để trả lời câu hỏi đầu tiên, chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách lưu ý rằng một cái nhìn tích cực về Kinh thánh đem lại một cái nhìn tích cực về gia đình. Hai phần của điều này rất đáng lưu ý: gia đình được định nghĩa và những vinh dự được dành cho nó ra sao trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Định nghĩa về gia đình phát sinh từ điều tiêu cực đầu tiên được Thiên Chúa dùng để nói về con người: họ vốn dĩ chưa hoàn thiện; điều này cho thấy họ được thiết kế để hùn hạp, cảm thông và sinh sản (St 1: 18-23). Mối liên hệ của họ với Thiên Chúa và môi trường xung quanh là nguyên vẹn, nhưng theo thiết kế của chính Thiên Chúa, Ađam đã được thiết định cho nhiều điều hơn thế nữa. Sự kết hợp của ông với Evà trở nên điều nhiều hơn đó, vì vậy điểm thoạt đầu chúng ta có thể đưa ra khi định nghĩa gia đình là nó được thai nghén trong việc Thiên Chúa đáp ứng nhu cầu con người. Nhận xét thứ hai liên quan đến hôn nhân, từ đó cuộc sống gia đình nảy sinh, và thiết kế ba yếu tố ban đầu của nó: dị tính luyến ái, đơn hôn, và được xây dựng để tồn tại vĩnh viễn, như đã được chi tiết hóa trong sách Sáng thế và được Chúa Kitô tái xác nhận (St 2:24; Mc 10: 6-9 ). Về yếu tố dị tính luyến ái trong thiết kế này (hiện đang là vấn đề gây tranh cãi nhất trong ba vấn đề), C. S. Lewis nhận xét:

"Khái niệm Kitô giáo về hôn nhân dựa trên lời lẽ của Chúa Kitô, Đấng phán rằng người đàn ông và vợ sẽ được coi như một sinh vật duy nhất – Người không phát biểu một tình cảm mà tuyên bố một sự kiện, giống như người ta quả quyết một sự kiện khi họ nói rằng chiếc khóa và chiếc chìa khóa của nó là một cơ chế, hoặc chiếc đàn viôlông và cung kéo nó là một nhạc cụ. Đấng phát minh ra cỗ máy nhân bản nói với chúng ta rằng hai nửa của nó, nam và nữ, được tạo dựng để kết hợp với nhau từng đôi, không những chỉ trên bình diện tình dục, mà là kết hợp hoàn toàn(5)".

Thiết kế tạo dựng nhấn mạnh rằng hai nửa không nhất thiết tạo nên một tổng thể, và tổng thể như một bổ túc nam-nữ vĩnh viễn và độc quyền tạo nên sự kết hợp hôn nhân. Theo tiêu chuẩn này, một số hành động nhất thiết phải bị coi là bất cập. Đồng tính luyến ái vi phạm thiết kế tương phản giới tính; gian dâm (liên hệ tình dục trước hoặc ngoài hôn nhân) dung túng đặc quyền gợi dục mà không có trách nhiệm giao ước; đa thê và ngoại tình vi phạm mục đích đơn hôn; và ly hôn phá hủy sự kết hợp vĩnh viễn mà hôn nhân có nghĩa vụ phải cung ứng. Kinh thánh rất ít cho phép các sai lệch, và nếu có, những sai lệch này có tiếng là vắn vỏi. Chế độ đa thê được thực hiện bởi một số tổ phụ trong Cựu Ước (chẳng hạn Ápraham, Giacốp, Đavít và Salômôn), nhưng hậu quả nghiêm trọng thường xảy ra sau đó, và trong khi nó được dung thứ trong thời Cựu Ước, sự không hài lòng của Thiên Chúa đã được Chúa Kitô và Thánh Phaolô làm sáng tỏ (Mc 10: 8; 1 Tm 3: 2). Tương tự như vậy, Chúa Giêsu khẳng định rằng ly dị, mặc dù được ban phép theo luật Môsê, là một lựa chọn bi thảm chỉ được xem xét nếu người phối ngẫu phạm tội ngoại tình (Mt 5: 31-32). Thành tố sinh học liên quan đến con cái không cứng ngắc, theo nghĩa việc định nghĩa trong Kinh thánh về gia đình thừa nhận việc nhận con nuôi hoặc làm cha mẹ kế (Môsê trong Xh 1: 15-22; Samuen trong 1 Sm 1, 2: 1-11; và Esther trong Et 2:15). Làm cha mẹ một mình không được khẳng định cũng không bị lên án, vì hoàn cảnh này, nằm ngoài sự kiểm soát của mẹ hoặc của cha, có thể cần phải có. Và dù nó cung cấp ít hơn lý tưởng hai cha mẹ, nó tồn tại trong phạm vi khái niệm gia đình. Điều chắc chắn là, hôn nhân và con cái đều là những điều nhiệm ý (options), không phải là điều bắt buộc (mandates). Không có gì trong Kinh thánh cho thấy mọi người phải kết hôn hoặc, tất cả những người đã kết hôn phải sinh con. Bất cứ con số lý do nào - như khuyết tật thể chất, hoàn cảnh sống hoặc sở thích cá nhân – cũng có thể xác nhận tình trạng độc thân của một người, hoặc tình trạng không có con của một cặp vợ chồng. Nhưng khi xem xét khái niệm trong Kinh thánh về gia đình, chúng ta kết luận rằng hôn nhân bắt buộc phải là đơn hôn và dị tính luyến ái và có ý định kéo dài vĩnh viễn, với việc hạn hữu cho phép chấm dứt nó. Con cái được nuôi dưỡng cách lý tưởng bởi cả cha mẹ ruột, nhưng cũng có thể được nuôi dưỡng bởi một cha hoặc một mẹ, cha mẹ kế hoặc cha mẹ nuôi. Đây là những cơ chế của cuộc sống gia đình được quy định trong sách Sáng thế, Lề Luật, Tin mừng và Các Thư. Các cơ chế này quan trọng đến nỗi việc vi phạm chúng nhẹ nhất cũng bị quở trách một cách sắc cạnh bởi Kinh thánh; mà mạnh nhất, là những hậu quả nghiêm trọng. Luật Do Thái quy định nhiệm vụ giữa các thành viên trong gia đình đã minh nhiên chi tiết hóa các hậu quả này (Đnl các chương 21-23, đối với một trong nhiều điển hình); bỏ bê cha mẹ vốn bị Chúa Kitô lên án (Mc 7:11) và được Thánh Phaolô coi như tội chối bỏ đức tin (1 Tm 5:16); tôn vinh cha mẹ được yêu cầu trong cả hai Giao Ước (Xh. 20:12; Mt15: 4); và khả năng lãnh đạo đúng đắn trong gia hộ được coi là điều kiện tiên quyết để lãnh đạo trong Giáo Hội (1 Tm 3: 4-5). Khó có thể phóng đại tầm quan trọng được Kinh thánh dành cho các liên hệ gia đình. Nhưng vinh dự chung dành cho các liên hệ này cũng rất quan trọng, bởi vì vinh dự này giúp giải thích tầm quan trọng của chủ đề. Gia đình vừa được Thiên Chúa qui định và định nghĩa, đóng ấn tầm quan trọng của nó trong và vì chính nó. Nhưng nó cũng có tầm quan trọng mang tính biểu tượng nữa, vì nó nói lên bản tính của Người và tượng trưng cho mối liên hệ của Người với dân Người. Điều này càng nâng cao gia đình hơn nữa, từ một đơn vị quan yếu và có tính chức năng lên một minh họa thần thiêng. Vô số đoạn văn tiên tri và giáo huấn, chẳng hạn, coi hôn nhân như biểu tượng của sự kết hợp của Thiên Chúa với dân của Người. Cả Israel lẫn Giáo Hội đều hưởng vinh dự được gọi là người hứa hôn, hoặc cô dâu của Người (Is 50: 1; Eph. 5: 23-33; Kh 21: 9). Và trong khi sự kết hợp hôn nhân được coi như liên hệ gia đình thường xuyên nhất tượng trưng cho các nguyên lý thần thiêng, các liên hệ gia đình khác cũng được sử dụng để biểu hiện bản tính và cam kết của Thiên Chúa đối với chúng ta. Liên hệ cha-con được sử dụng khi Chúa Cha được trưng dẫn như người chu cấp nhân từ (Mt 7:11); người chăm sóc biết hết mọi chuyện (Mt 5:32); người trọng kỷ luật (Dt 12: 7-8); và là người cha yêu dấu, đầy cảm thương (Tv 103: 13); trong khi, các đức tính dưỡng dục của một bà mẹ bao hàm sự dịu dàng đầy quan tâm của Thiên Chúa (Is 49:15). Hiểu gia đình là hiểu rõ hơn về Thiên Chúa; thật vậy, Chúa Giêsu dường như đã ngụ ý điều này khi Người tận dụng tình phụ tử trần gian để gia tăng cái hiểu của thính giả Người về Cha trên trời của Người (Mt 7: 7-11). Như thế, rõ ràng có một định nghĩa rõ ràng và khách quan về gia đình, mà Kinh Thánh coi là quan trọng từ trong nội tại và tượng trưng cho Thiên Chúa. Không nhà nghiên cứu Kinh thánh nghiêm túc nào có thể phủ nhận rằng gia đình là điều quan hệ.

Gia đình là một khái niệm quan yếu

“Tuyệt thông” là biện pháp đau đớn cuối cùng, được Bách Khoa Britannica định nghĩa là “một hình thức khiển trách của giáo hội qua đó một người bị loại trừ khỏi sự hiệp thông với các tín hữu, khỏi các nghi lễ hoặc bí tích của Giáo Hội và các quyền lợi của tư cách thành viên Giáo Hội” (6). Lưu ý mức độ nghiêm trọng cần thiết của nó, Jonathan Edwards nhận xét rằng vạ tuyệt thông “không phải do con người thiết kế để hủy hoại con người, mà là để sửa chữa họ, và do đó có bản chất của một hình phạt khiển trách, ít nhất bao lâu nó do con người áp đặt; tuy nhiên, trong chính nó, nó vốn là một tai họa lớn lao và khủng khiếp, và là hình phạt nặng nề nhất mà Chúa Kitô đã qui định trong Giáo Hội hữu hình. Mặc dù trong nó, Giáo Hội chỉ tìm kiếm thiện ích của con người và sự phục hồi khỏi tội lỗi của họ, sau một cuộc xét xử đúng đắn, xem ra không có lý do gì để hy vọng sự phục hồi của họ bằng các phương thế nhẹ nhàng hơn, nhưng tùy thánh ý tối cao của Thiên Chúa, liệu nó có phải chỉ là việc làm bẽ mặt họ để họ ăn năn, hay đó là việc hủy diệt họ một cách khủng khiếp và vĩnh viễn; như luôn đã xẩy ra nơi người này hay người nọ” (7). Thành thử, khi trả lời câu hỏi thứ hai của chúng ta - Định nghĩa gia đình có quan yếu như một vấn đề tín lý / luân lý trong Giáo Hội không? -chúng ta nên nhớ rằng vạ tuyệt tông đầu tiên được nhắc đến trong Tân Ước đã diễn ra để đáp ứng việc vi phạm giao ước gia đình của tín hữu và đáp ứng mã thượng của Giáo Hội. Thánh Phaolô đã cảnh giác khi được kể cho nghe các mối liên hệ loạn luân công khai của một người Corintô với mẹ kế và phẫn nộ về thái độ hững hờ (casual) của Giáo Hội. Vì vậy, trong 1 Cr 5, ngài quở trách các độc giả của ngài vì đã cho phép một hình thức gian dâm “không được nêu tên nhiều như thế nơi người ngoại giáo” (câu 1); vì đã khoái chí trước sự làm ngơ của mình (câu 2); và vì dường như không biết gì tới lý lẽ căn bản của Đức trong sạch Kitô giáo: cơ thể của chúng ta không thuộc về chúng ta, nhưng đúng hơn là đền thờ của Chúa Thánh Thần (câu 19-20). Khi ra lệnh cho họ loại trừ kẻ gian dâm không biết ăn năn, Thánh Phaolô đưa ra hai lời kêu gọi tổng quát: Há anh em không biết sao? Còn nếu anh em biết, sao anh em không làm gì?

Ngày nay, có lẽ chúng ta phải sử dụng một bức thư khác của Thánh Phaolô! Theo một cuộc thăm dò năm 2003 do George Barna thực hiện, bốn mươi chín phần trăm người trả lời tự nhận mình là người “tái sinh”, coi việc sống chung với nhau ngoài hôn nhân là điều có thể chấp nhận được, ba mươi ba phần trăm ủng hộ phá thai, ba mươi lăm phần trăm cảm thấy tình dục trước hôn nhân rất được, và hai mươi tám phần trăm thấy không có vấn đề gì với nền văn hóa khiêu dâm. Đáp lại, Barna nhận xét, “thậm chí hầu hết mọi người có liên hệ với đức tin Kitô giáo dường như cũng không tuân theo các tiêu chuẩn luân lý của Kinh Thánh. Sự việc dường như trở nên tồi tệ hơn trước khi chúng trở nên tốt hơn - và xem ra chúng sẽ không trở nên tốt hơn trừ khi có sự lãnh đạo luân lý mạnh mẽ và hấp dẫn để thách thức và chuyển hướng suy nghĩ và hành vi của người ta. Ở thời điểm này, sự lãnh đạo như vậy đang khiếm diện (8).

Trong trường hợp khiếm diện sự lãnh đạo như vậy, việc hàm hồ giữa đúng và sai, cộng với một thái độ hững hờ đối với chính mình, có đất phát triển rất mạnh. Điều cần là sự rõ ràng. Dù sao, nếu câu hỏi trong tựa đề cuốn sách của Francis Schaeffer, "Vậy Thì Chúng Ta Nên Sống Ra Sao? ", không nhận được câu trả lời nào rõ ràng từ bục giảng, thì không ai phải ngạc nhiên khi mọi người làm điều đúng “theo ý mình” (Tl 17: 6). Thánh Phaolô chắc chắn nghĩ đến điều này khi ngài nói với các tín hữu Côrintô tránh xa bất cứ Kitô hữu nào có hành vi gian dâm (1 Cr 5:11) và khi ngài nói với tín hữu Êphêsô sống theo cách khiến sự vô luân tình dục sẽ không bao giờ được nêu tên ở nơi họ ( Eph. 5: 2). Chúng ta có thể thêm vào đó, việc ngài so sánh cuộc kết hợp hôn nhân với cuộc kết hợp của Chúa Kitô và Hội thánh của Người (Eph. 5:32), những mệnh lệnh của ngài về các vai trò hôn nhân và cha mẹ cùng con cái (Eph. 5: 22-6: 4), và việc ngài nhấn mạnh rằng lòng trung thành của người đàn ông đối với các trách nhiệm gia đình trực tiếp liên hệ đến việc tuyên xưng đức tin (1 Tm 5: 8) và tư cách lãnh đạo của họ (1 Tm 3: 5), và điều càng rõ ràng hơn nữa là định nghĩa và giá trị của gia đình là một khái niệm quan yếu qua đó, ba điểm đơn giản cần được bục giảng nêu ra, một cách lớn tiếng và thường xuyên: “Đây là điều tạo nên một gia đình”. “Đây là các vai trò và trách nhiệm liên hệ”. “Đây là lý do tại sao gia đình quan trọng”.

Gia đình là một khái niệm quan yếu đáng được cổ vũ trong văn hóa

Câu hỏi thứ ba của chúng ta - Chúng ta có được kêu gọi cổ vũ và bảo vệ định nghĩa kinh thánh về “gia đình” bên ngoài Giáo Hội không? -Có lẽ là câu hỏi khó nhất. Một mặt, CS Lewis cảnh giác chống lại việc áp đặt các tiêu chuẩn hôn nhân Kitô giáo lên xã hội thế tục: “Các giáo hội nên thẳng thắn thừa nhận rằng phần lớn người dân Anh không phải là Kitô hữu và do đó, không thể hy vọng họ sống cuộc sống Kitô hữu” (9). Cũng thế, chính Thánh Phaolô nói rằng ngài không có tư cách phán xét những người không có đức tin phạm tội tình dục (1 Cr 5:12), tuy nhiên, việc cổ vũ một khái niệm bổ ích dường như khác xa với việc phán xét những người bác bỏ khái niệm này. Ở đây, lời giải thích về ân sủng chung của Chuck Colson dường như có thể áp dụng được: “Là các tác nhân ân sủng chung của Thiên Chúa, chúng ta được kêu gọi góp tay duy trì và đổi mới công trình sáng tạo của Người, đề cao các định chế tạo dựng là gia đình và xã hội, theo đuổi khoa học và học thuật, tạo ra các công trình nghệ thuật và mỹ thuật, và hàn gắn và giúp đỡ những người đau khổ do hậu quả của cuộc Sa Ngã” (10). Nếu có thể chứng minh rằng các vai trò gia đình được Kinh thánh tiến dẫn phục vụ tốt nhất cho cả những người tin lẫn những người không tin, thì định nghĩa Kinh thánh về gia đình đáng được cổ vũ trong nền văn hóa. Một số nghiên cứu thế tục chứng thực sự khôn ngoan của định nghĩa Kinh Thánh về gia đình và những lợi ích mà cách riêng, trẻ em gặt hái được khi định nghĩa đó được tuân thủ.

Cặp kết hôn đáng kể

Sau khi nghiên cứu 174 học sinh tiểu học, 58 trong số đó đang được nuôi dưỡng bởi các cặp dị tính “sống chung với nhau” (chưa kết hôn), 58 bởi các cặp đồng tính và 58 bởi các cặp kết hôn dị tính, Sotorios Sarantakos, một nhà xã hội học người Úc, đã đưa ra kết luận sau đây: “trong cuộc nghiên cứu này, các cặp kết hôn dường như cung cấp môi trường tốt nhất cho sự phát triển giáo dục và xã hội của đứa trẻ” (11). Đo lường thành tích của trẻ em trong một số lĩnh vực - ngôn ngữ, toán học, thể thao, giao du, thái độ học tập, quan hệ phụ huynh và nhà trường, vai trò phái tính, liên quan đến trường học, hỗ trợ liên quan đến trường học và nguyện vọng của cha mẹ đối với thành tích của con - con cái của các cặp kết hôn đã đạt thành tích tốt nhất (12).

Các ông bố đáng kể

Khi phân tích hơn một trăm cuộc nghiên cứu nhằm khảo sát tác động của những ông bố ruột đối với con cái, Ronald Rohner và Robert Veneziano đã kết luận, “Nhìn chung, tình yêu của người cha dường như cũng có liên quan nhiều như tình yêu của người mẹ đối với phúc lợi và sức khỏe tâm lý của con cái” (13). Các nhà nghiên cứu Thụy Điển cũng đã đi đến một kết luận tương tự khi công bố các phát hiện của họ dưới tiêu đề, “Những đứa trẻ nào có một người cha tích cực gặp ít vấn đề về tâm lý và tác phong hơn” trong số ra tháng 2 năm 2008 của Acta Paediatrica. Sau khi khảo sát các tường trình về 22, 300 bộ dữ liệu từ 16 cuộc nghiên cứu nhằm so sánh những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi và không bởi những người cha, họ nhận xét, “những đứa trẻ nào sống với cả mẹ lẫn cha cũng có ít vấn đề về tác phong hơn những đứa chỉ sống với mẹ. Cuộc duyệt xét đã khảo sát 24 bài báo được xuất bản từ năm 1987 đến năm 2007, bao gồm 22, 300 bộ dữ liệu cá thể từ 16 cuộc nghiên cứu. 18 trong số 24 bài báo này cũng bàn đến tư thế kinh tế xã hội của các gia đình được nghiên cứu” (14). Những phát hiện không hẳn độc đáo. Các nghiên cứu được trích dẫn bởi Trung tâm Làm Cha Toàn Quốc (15) và Trung tâm Nghiên cứu Trẻ em của Đại Học New York (16) kết luận rằng những người cha đóng góp một cách độc đáo vào việc phát triển của con cái họ theo những cách không thể sao chép hoặc thay thế được.

Các bà mẹ đáng kể

Cuộc nghiên cứu xác nhận vai trò độc đáo của người cha trong việc nuôi dạy con cái thế nào, thì hiển nhiên nó cũng có những điểm tương tự để nói về việc làm mẹ như thế. Thí dụ, Mạng lưới Nghiên cứu Việc Chăm sóc Trẻ thơ Từ Sớm đã phát hiện ra rằng việc chăm sóc các trẻ sơ sinh và trẻ em mẫu giáo bởi những người không phải là mẹ ruột các em, ngược với mối liên kết từ sớm với mẹ ruột của chúng, có liên quan đến các vấn đề tác phong ở tuổi lớn hơn (17). Ngoài ra còn có những mất mát về cảm xúc và tác phong khi không có sự hiện diện của một người mẹ, phong cách làm cha mẹ của bà có tính bổ sung, nhưng khác với phong cách của một người cha, điều này khiến Trung tâm Nghiên cứu Trẻ em của Đại Học New York nhận xét, “Tóm lại, những người ủng hộ quan điểm coi người cha thiết yếu thấy sự đóng góp phụ huynh của những người cha mẹ và của những người mẹ có liên hệ với giới tính của họ, trong đó, các bà mẹ thường nhấn mạnh đến sự nối kết, tính liên quan, sự an toàn và chăm sóc, trong khi những người cha nhấn mạnh đến quyền tự chủ, hành động, chấp nhận rủi ro và tuân theo các quy tắc” (18). Tất cả những điều này đã khiến David Popenoe kết luận, liên quan đến tầm quan trọng của cả hai cha mẹ, “Chúng ta nên phủ nhận quan điểm cho rằng 'các bà mẹ có thể tạo nên các ông bố tốt', cũng như chúng ta nên phủ nhận quan điểm của những người theo chủ nghĩa nữ quyền cực đoan cho rằng ‘các ông bố có thể tạo nên các bà mẹ tốt' - Hai giới tính khác nhau tận cốt lõi, và mỗi giới tính đều cần thiết - về mặt văn hóa và sinh học – đối với việc phát triển tối ưu của con người" (19).

Sinh học đáng kể

Khi khảo sát mối liên hệ giữa cha mẹ ruột và con cái của họ, kết quả cũng rõ ràng và không có gì đáng ngạc nhiên là: nơi nào quan tâm đến việc dưỡng dục con cái, thì sinh học là điều đáng kể. Cơ quan Nghiên cứu các Xu hướng Trẻ em, chẳng hạn, trong một bản tóm tắt, đã nhận định “Một bộ phận nghiên cứu sâu rộng cho chúng ta biết: trẻ em có lợi nhất khi chúng được lớn lên với cả cha mẹ ruột trong một cuộc hôn nhân ít xung đột... Do đó, không đơn giản chỉ là sự hiện diện của hai cha mẹ, như một số người đã giả định, mà là sự hiện diện của hai cha mẹ ruột dường như hỗ trợ sự phát triển của trẻ em” (20). Tương tự như thế, một bản tóm tắt của Trung tâm Luật pháp và Chính sách Xã hội cho rằng “trẻ em thành công hơn khi được nuôi dưỡng bởi hai hai cha mẹ kết hôn, ruột thịt, có mối liên hệ ít xung đột” (21). Judy Jones, giám đốc tổ chức phi lợi nhuận Giúp Ngăn chặn Hội chứng Tha hóa Cha mẹ, nhất trí rằng: “Trẻ em nào bị tước quyền tiếp xúc thường xuyên với cả mẹ lẫn cha của chúng có nguy cơ cao hơn sẽ lạm dụng ma túy, bỏ học, mang thai ở tuổi vị thành niên và nhiều vấn đề về tác phong và cảm xúc khác”. Kết luận không thể tránh né mà người ta rút ra từ những nghiên cứu này đã được David Blankenhorn, chủ tịch của Viện các Giá trị Mỹ có trụ sở tại New York và là người tự cho là “Dân chủ Cấp tiến”, nhưng đã chỉ trích việc vội vàng định nghĩa lại hôn nhân và gia đình của chúng ta. Khi ông nhận định:

"Hôn nhân là một quà tặng mà xã hội ban cho thế hệ tiếp theo của nó. Hôn nhân (và chỉ hôn nhân) hợp nhất ba chiều kích cốt lõi của việc làm cha mẹ - sinh học, xã hội và pháp lý - thành một hình thức phò con trẻ: cặp kết hôn. Hôn nhân nói với đứa trẻ: Người đàn ông và người đàn bà mà sự kết hợp tình dục đã làm nên con cũng sẽ ở đó để yêu thương và nuôi nấng con. Hôn nhân nói với toàn xã hội: Với mỗi đứa trẻ sinh ra, có một người mẹ và một người cha được thừa nhận, có trách nhiệm phải giải trình đối với đứa trẻ và đối với nhau” (22).

Nếu đơn vị gia đình truyền thống cung cấp khuôn khổ tốt nhất cho việc phát triển cảm xúc và tinh thần, thì những đứa trẻ ổn định được dưỡng dục bên trong khuôn khổ đó sẽ trở thành những người trưởng thành ổn định có xác suất nhất cung cấp được một khuôn khổ tương tự cho thế hệ tiếp theo. Hiệu quả dây chuyền (ripple effect) không thể không giúp tạo ra sự ổn định văn hóa, làm chứng cho một thiết kế đã được giải thích trong Sách Sáng Thế và được xác nhận vào năm 2010 và xa hơn thế nữa. Không điều gì trong số này phủ nhận những điều tốt đẹp mà người lớn và trẻ em gặt hái được trong các môi trường ít truyền thống hơn. Ở đây, chúng ta đồng ý phần nào với Mrs Doubtfire, trong điều này: bất cứ sự kết hợp nào của con người biết thực sự quan tâm đến nhau đều có lợi cho mọi người liên hệ. Vì vậy, cuộc tranh cãi về gia đình không phải là một đề xuất hoặc thế này / hoặc thế nọ (either/or). Vấn đề không phải là liệu các kết hợp phi truyền thống có mang lại lợi ích gì không – có, chúng có mang lại lợi ích; chúng sẽ mang lại lợi ích. Nhưng nhóm nào mang lại lợi ích tối đa? Điều gì đã vận hành thì có thể không phá hủy, nhưng nó cũng không phải là lý tưởng. Và khi thảo luận về hiệu năng và tương lai của một nền văn hóa, không có gì khác hơn lý tưởng nên được cố gắng vươn tới. Gia đình được quan niệm bởi Đấng Tạo Hóa để đáp ứng nhu cầu tạo thế của Người và như một đại diện hữu hình, trần thế cho bản tính của Người. Các thành viên của gia đình, khi kết hợp với nhau, cung cấp một bức tranh ghép trong đó người quan sát ghi nhận được các yếu tố nam và nữ, dịu dàng và uy quyền, hồn nhiên, hiểu biết và sáng tạo khôn tả. Thiên Chúa vừa được tôn vinh vừa được đại diện khi các nối kết gia đình vững ổn. Nhưng để vững ổn, trước tiên chúng phải được định nghĩa và hiểu rõ, vì vậy, có lời kêu gọi phải giảng dạy chủ đề này rõ ràng hơn, toàn diện hơn trong các Giáo Hội của chúng ta. Tương tự như vậy, việc trung thành với những gì chúng ta được dạy trong Kinh thánh về đức khiết tịnh, một vợ một chồng và các trách nhiệm gia đình đang khiếm diện một cách bi thảm, và cho đến khi chúng ta chú ý đủ đến sự mất nối kết giữa những gì chúng ta giảng dạy và những gì chúng ta sống, chúng ta khó có thể mong đợi nền văn hóa sẽ coi trọng chúng ta khi chúng ta cổ vũ các tiêu chuẩn mà chính chúng ta không áp dụng cho chính mình. Lúc ấy, định nghĩa gia đình, khi được hiểu và đem ra sống, có thể được cổ vũ một cách toàn vẹn nơi một thế giới đang vật lộn với những vấn đề thân mật, nhu cầu tình cảm và các phức tạp trong tình dục của con người. Các câu trả lời mà chúng ta cung cấp chắc chắn sẽ khiến nhiều người ngỡ ngàng, chỉ cần tưởng tượng điều gì sẽ xẩy ra bất cứ khi nào một nhân vật công cộng thú nhận mình hiểu hôn nhân và gia đình theo lối truyền thống! Nhưng chúng cũng sẽ nâng cao ý thức và có thể trở thành phương tiện để mọi người khao khát tình yêu và an toàn có thể tìm ra các câu trả lời.

Giám mục giáo phái Giám chức William Frey đã ám chỉ điều trên khi ngài nhắc lại tác động của Giáo Hội tiên khởi đối với xã hội La Hy, một tác động phần nào được tạo ra bởi việc nó hiểu và cổ vũ các giá trị gia đình: “Một trong những đặc điểm hấp dẫn nhất của các cộng đồng Kitô giáo tiên khởi là nền đạo đức tình dục triệt để của họ và cam kết sâu sắc của họ đối với các giá trị gia đình. Những điều này... đã thu hút nhiều người đến với họ, những người đã bị vỡ mộng bởi những bừa bãi thái quá của điều được chứng minh là nền văn hóa đang suy tàn. Ngày nay, há không tuyệt diệu cho Giáo hội của chúng ta hay sao khi tìm được lòng can đảm phản văn hóa như vậy? ” (23). Thật tuyệt diệu, đúng thế. Và, quan trọng hơn, nó hoàn toàn là chuyện có thể thực hiện được.
________________________________________________________________________

Ghi chú

1. “Mrs. Doubtfire Script Transcription, ” http://www.script-o-rama.com/movie_scripts/m/mrsdoubtfire-script-transcript.html.
2. Như đã trích trong “Deconstruction and Reconstruction: The Family Experience, ” Florida State University Museum of Fine Arts, http://www.mofa.fsu.edu/pages/learning/resources/familyexperience.pdf.
3. Trích dẫn trong University of Massachusetts Press, http://www.umass.edu/umpress/author/k.html.
4. Carol Lynn Pearson and Newell Dayley, “What Makes a Family? ” Ensign (March 1978), 48 (http://lds.org/ldsorg/v/index.jsp? vgnextoid=2354fccf2b7db010VgVCM1000004d82620aRCRD&locale=0&sourceId=8189d0640b96b010VgnVCM1000004d82620a____&hideNav=1).
5. C. S. Lewis, Mere Christianity (San Francisco: Harper Collins, 2002), 61.
6. http://www.britannica.com/EBchecked/topic/197846/excommunication.
7. Jonathan Edwards, “The Nature and End of Excommunication, ” http://www.jonathanedwards.org/Excommunication.html.
8. “Morality Continues to Decay, ” The Barna Group (November 3, 2003), http://www.barna.org/barna-update/article/5-barna-update/129.
9. Lewis, 112.
10. Charles Colson and Nancy Pearcey, How Now Shall We Live? (Wheaton, IL: Tyndale House, 1999), xii.
11. Sortirios Sarantakos, “Children in Three Contexts: Family, Education, and Social Development, ” Children Australia 21, 3 (1996): 23; trích dẫn trong Getting I Straight: What the Research Shows about Homosexuality, ed. Peter Spriggs and Timothy Dailey (Washington, D.C.: Family Research Council, 2004), 109-10.
12. Ibid.
13. Ronald Rohner and Robert Veneziano, “The Importance of Father Love: History and Contemporary Evidence, ” Review of General Psychology 5, 4 (2001): 382-405; trích dẫn trong Glenn T. Stanton and Kjersten Oligney, “Refuting Points No One is Making, ” http://www.citizenlink.org/pdfs/fosi/marriage/AAP_Analysis.pdf.
14. “Children Who Have an Active Father Figure Have Fewer Psychological And Behavioral Problems, ” Science Daily, February 15, 2008, http://www.sciencedaily.com/releases/2008/02/080212095450.htm.
15. Blair and Craig Brooke-Weiss, “Father Love: Keeping Families Connected, ” http://www.fatherlove.com/articles/riskfactors.html.
16. http://www.education.com/magazine/article/Ref_Many_Meanings_Family/.
17. Jay Belsky et al., “Are There Long-Term Effects of Early Child Care? ” Child Development 78, 2 (2007): 681-701.
18. http://www.education.com/magazine/article/Ref_Many_Meanings_Family/.
19. Trích dẫn trong Stanton and Oligney.
20. Kristin Anderson Moore et al., “Marriage from a Child’s Perspective: How Does Family Affect Children, and What Can We Do about It? ” Child Trends Research Brief (June 2002), trích dẫn trong Stanton and Oligney, 12.
21. Mary Park, “Are Married Parents Really Better for Children? ” Center for Law and Social Policy brief (May 2003), cited in Stanton and Oligney, 12.
22. Judy Jones, “Children Missing Contact with Both Biological Parents at Risk, ” 24/7 Press Release (June 22, 2005), http://www.24-7pressrelease.com/view_press_release.php? rID=6509.
23. “Protecting Marriage to Protect Children, ” op-ed, Los Angeles Times, September 19, 2008.
24. Richard Ostling, “What Does God Really Think about Sex? ” Time, June 24, 1991.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hè Về Phượng Nở
Lê Trị
12:26 17/07/2020
HÈ VỀ PHƯỢNG NỞ
Ảnh của Lê Trị

Quê hương chớm nở phượng hồng
Bâng khuâng tình bạn mỗi lần Hè sang !
Tan trường về với thôn làng
Tung tăng nắng Hạ, muôn vàn nguồn vui
(Lê Trị)
 
VietCatholic TV
Thánh Lễ Chúa Nhật 16 Quanh Năm 19/7/2020 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
21:41 17/07/2020

Bài Ðọc I: Kn 12, 13. 16-19

"Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn trở lại".

Trích sách Khôn Ngoan.

Ngoài Chúa, không có chúa nào khác chăm sóc mọi sự, ngõ hầu minh chứng rằng Chúa không đoán xét bất công. Vì chưng, sức mạnh của Chúa là nguồn gốc sự công minh, và vì Người là Chúa mọi sự, nên tỏ ra khoan dung với mọi người. Chúa chỉ tỏ sức mạnh Chúa ra khi có kẻ không tin vào uy quyền của Chúa, và triệt hạ kẻ kiêu căng không nhìn biết Người.

Vì là chủ sức mạnh, nên Chúa xét xử hiền lành, Chúa thống trị chúng ta với đầy lòng khoan dung: vì khi Chúa muốn, mọi quyền hành tuân lệnh Người. Khi hành động như thế, Người dạy dỗ dân Người rằng: Người công chính phải ăn ở nhân đạo, và Người làm cho con cái Người đầy hy vọng rằng: Người ban cho kẻ tội lỗi ơn ăn năn sám hối.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 85, 5-6. 9-10. 15-16a

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa nhân hậu và khoan dung

Xướng: Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài.

Xướng: Các dân tộc mà Chúa tạo thành, họ sẽ tới, lạy Chúa, họ sẽ thờ lạy Ngài, và họ sẽ ca tụng danh Ngài. Vì Ngài cao cả và làm những điều kỳ diệu; duy một mình Ngài là Thiên Chúa.

Xướng: Nhưng lạy Chúa, Ngài là Thiên Chúa từ bi, nhân hậu, chậm bất bình, rất mực khoan dung và thủ tín. Xin đoái nhìn đến con và xót thương con.

Bài Ðọc II: Rm 8, 26-27

"Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho xứng hợp, nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Ðấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 13, 24-30 {hoặc 24-43}

"Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Trong lúc mọi người ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo cỏ lùng vào ngay giữa lúa, rồi đi mất. Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra. Ðầy tớ chủ nhà đến nói với ông rằng: "Thưa ông, thế ông đã không gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Vậy cỏ lùng từ đâu mà có? " Ông đáp: "Người thù của ta đã làm như thế". Ðầy tớ nói với chủ: "Nếu ông bằng lòng, chúng tôi xin đi nhổ cỏ". Chủ nhà đáp: "Không được, kẻo khi nhổ cỏ lùng, các anh lại nhổ luôn cả lúa chăng. Hãy cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa gặt. Và đến mùa, ta sẽ dặn thợ gặt: "Các anh hãy nhổ cỏ lùng trước, rồi bó lại từng bó mà đốt đi, sau mới thu lúa lại chất vào lẫm cho ta".

{Người lại nói với họ dụ ngôn khác mà rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt đó bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".

Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn, Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian". Sau khi giải tán dân chúng, Người trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe". Người đáp rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong Nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".}

Ðó là lời Chúa.