Ngày 16-07-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:01 16/07/2009
Chương 20

KHIÊM TỐN



“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 14, 11)


N2T


1. Việc thiện là chung điểm, nên dùng sự khiêm tốn để chôn giấu và bảo tồn sự thiện, bằng không thì kiêu ngạo sẽ sống và sự thiện sẽ bị diệt, là mệt nhọc mà không công đức gì cả.

(Thánh Augustine)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:03 16/07/2009
N2T


174. Con người ta vẫn phải sống và cũng vẫn phải làm việc, bởi vì cuộc sống chính là lao động chứ không phải là sống vật vờ.

 
Tập sống Lời Chúa trong anh em
Lm. Jude Siciliano, OP
14:23 16/07/2009
CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN (B)

Gr 23: 1-6; Tv 23: 9-14; Ep 2: 13-18; Mc 6: 30-34

Bài Phúc âm hôm nay diễn tả dân chúng như một đàn cừu lạc bị vỡ đàn tìm đến Chúa Giêsu. Điều này làm tôi nhớ lại ngày tôi gặp một nhóm người chăn cừu ở miền Tây của bang Virginia. Tôi và những người đó cũng đã đọc bài Phúc âm hôm nay. Những người chăn cừu đố rằng “nếu có 100 con cừu trong chuồng, và một con nhảy rào chạy ra ngoài, thì còn lại mấy con?” Tôi trả lời ngay rằng, còn 99 con, nhưng tôi vẫn còn hơi hồ nghi. Và câu trả lời của một người chăn cừu làm tôi hiểu là tôi không biết gì về cừu cả. “Không còn con nào”. Cừu là một giống vật rất ngu, hễ một con nhảy rào ra được là cả bầy đều nhảy theo con đó. Người chăn cừu phải luôn luôn canh chừng bầy cừu, vì sớm muộn gì chúng cũng có thể bị lạc, hay bị chó sói bắt. Tôi làm sao biết được điều này, vì làm gì có cừu và người chăn cừu trên đường phố ở Brooklyn, nơi tôi thường chơi khúc côn cầu thời còn bé.

Nhưng những người trong Kinh Thánh thì hiểu bài Phúc âm đang nói về người chăn cừu. Thiên Chúa dùng ngôn sứ Giê-rê-mi-a để nói, Ngài thất vọng với những kẻ lãnh đạo dân Israel. Họ là những người có bổn phận dẫn dắt đoàn chiên của Chúa: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền… Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng…” (Gr 23,3-4)

Ai dám nói là chúng ta, người thời nay, ít hiểu lời Chúa Giêsu và lối sống của Ngài hơn các Môn đệ? Dựa vào Phúc âm hôm nay thì những người thời Chúa Giêsu và cả chúng ta đều khó hiểu về những bổn phận trong đời sống hàng ngày. Các dụng cụ tinh vi thời nay là những sáng kiến hay, nhưng gây nhiều phiền phức trong cuộc sống. Chúng ta có thể liên lạc với nhau một cách mau chóng, nhưng lại khó lòng tránh khỏi những phiền hà đó. Có rất nhiều họ đạo, thường dán thông báo: “Trước thánh lễ yêu cầu giáo dân nào có điện thoại cầm tay hoặc máy nhắn tin xin vui lòng tắt máy”. Thật không có gì phiền phức bằng lúc đang dâng thánh lễ trong trang nghiêm, bỗng có tiếng chuông điện thoại reo lên. Những người dự Thánh lễ có thể chịu được tiếng trẻ con khóc hơn là nghe tiếng điện thoại cầm tay reo của một giáo dân nào quên tắt. Rồi lại có tiếng nhắc lần nữa: “Xin quý vị vui lòng tắt điện thoại cầm tay”.

Chúa Giêsu và các Môn đệ không gặp những phiền hà với những dụng cụ tối tân làm mất sự yên tĩnh khi họ đang nghỉ. Nhưng họ lại gặp một phiền phức khác là số đông dân chúng đang tìm người dẫn dắt. Trong bài đọc 1 về ngôn sứ Giê-rê-mi-a và bài Phúc âm: “họ như bầy chiên không người chăn dắt”, ta thấy thời đó xem đức vua như là người mục tử. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a chỉ trích những người mục tử của Juda, cả về quân sự và tôn giáo đã không dẫn dắt đúng nên để đàn chiên lạc lối. Cung cách lãnh đạo thì thối nát, và lời hướng dẫn sai lạc nên xảy ra sự điêu tàn của Giê-ru-sa-lem, và dân chúng bị bắt đi đày ở Babylon. Dân chúng thời đó cần người lãnh đạo tốt để dẫn dắt họ. Giê-rê-mi-a báo cho họ biết là chính Thiên Chúa sẽ tự Ngài dẫn dắt dân Ngài. Và dân chúng tin lời hứa ấy sẽ được thực hiện, dưới hình thức là sẽ có một vị vua khác đến để giúp dân Israel trở lại thành một dân tộc hùng mạnh như xưa. Chúng ta, những người Kitô hữu, hiểu lời hứa ấy ám chỉ vào Chúa Giêsu như trong bài Phúc Âm hôm nay. Thế nhưng, Ngài không dẫn dắt dân chúng với binh quyền và của cải trần thế.

Thử nhìn vào Thánh vịnh 23, khi nói về lời hứa, Thiên Chúa là Đấng chăn chiên lành. Theo Thánh vịnh đó, thì Thiên Chúa dẫn đưa đàn chiên đến đồng cỏ xanh và suối mát để nghỉ dưỡng. Ngài sẽ làm chúng ta không còn lo sợ nữa, nhất là khi gặp kẻ thù trước mặt chúng ta. Ngay cả khi đối mặt với bóng tối sự chết. Thiên Chúa, Đấng Mục Tử nhân lành, sẽ dọn bàn cho chúng ta. Ngài xức dầu thánh để an ủi và thêm sức mạnh cho chúng ta. Bạn có bao giờ ngồi bên giường người đang hấp hối chưa? Nếu có, thì bạn chắc đã biết là Thiên Chúa cũng có ở đó, và Ngài sẽ thực hiện như lời Ngài hứa với dân Israel qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta… và sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng…”

Vì Chúa Giêsu không phải là người lãnh đạo về quân sự như dân chúng mong đợi, vậy thì Ngài dẫn dắt bằng cách nào? Thánh Mác-cô hôm nay cho chúng ta biết là Chúa Giêsu dẫn dắt đàn chiên bằng lời giảng dạy của Ngài. “Chúa Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương…”

Tôi không phải là một bác sĩ, nhưng nếu tôi trông thấy một người đang nằm dưới đất máu chảy đầm đìa, tôi tìm cách cầm máu cho người đó.

Nếu thấy một người mù băng qua đường đang lúc đông xe, tôi sẽ đến kéo họ đứng trên lề đường.

Nếu gặp một người đang đói, tôi sẽ mang thức ăn cho họ. Đó là việc đầu tiên tôi phải làm.

Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài biết phải làm gì để đáp ứng ngay nhu cầu trước tiên của đám đông dân chúng theo Ngài.

Khi Chúa Giêsu bước xuống thuyền để lên bờ, Ngài thấy quần chúng vây quanh đông đảo nên “Ngài chạnh lòng thương…” Ngài thấy điều trước tiên họ cần nơi Ngài là lời giảng dạy. Đám quần chúng thời đó và chúng ta hôm nay đều khao khát nghe lời Chúa Giêsu dạy. Vì thế, phần thứ nhất của Thánh lễ luôn là Phụng vụ Lời Chúa. Vì chúng ta cần nghe Tin mừng của Thiên Chúa, nên chúng ta mới đến dự Thánh lễ hôm nay.

Người Mục Tử nhân lành mà Đức Chúa hứa đã đến. Và Ngài đang giảng dạy cho đàn chiên lạc. Ngài là Mục Tử chân chính mà dân chúng mong đợi. Ngài không muốn rời xa họ vì Thiên Chúa luôn ở với đàn chiên Ngài. Họ sẽ học về nước Trời và qua Chúa Giêsu, họ sẽ biết được Thiên Chúa hằng yêu thương họ, Ngài sẵn sàng tha tội cho họ, cho dù thế giới có ruồng bỏ họ. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ là những người được Ngài thương yêu nhiều nhất. Và nước Thiên Chúa là nước công chính, bình an và đầy yêu thương. Chúa Giêsu giảng cho họ hiểu là nếu họ chấp nhận lời Ngài, và chấp nhận nước Trời đến với họ thì họ sẽ đối xử với người khác như Thiên Chúa đã đối xử với họ. Nghĩa là, họ phải thương yêu nhau, đón tiếp tha nhân, tha thứ cho kẻ thù, săn sóc cho người đau ốm, đón nhận kẻ hèn kém vào bàn tiệc chung với họ.

Chúng ta thấy rõ trong Phúc âm Thánh Mác-cô, Chúa Giêsu được dân chúng theo rất nhiều. Bài Phúc âm hôm nay chứng tỏ điều ấy. Đám đông quần chúng chạy bộ qua bờ bên kia để đón Ngài, vì Ngài đã qua bằng thuyền rồi. Họ đón Ngài để nghe lời Ngài giảng dạy. Đó là điều mà giới lãnh đạo quân sự và tôn giáo của dân Israel không làm được. Họ sẽ có mục tử khôn ngoan như ngôn sứ Giê-rê-mi-a hứa “…Ngài sẽ cai trị, và sẽ thi hành điều công chính trên vương quốc của Ngài…”

Người Mục tử nhân lành biết thương yêu. Điều trước tiên đám dân chúng cần là được nghe lời giảng dạy. Ngay cả trong thời bây giờ, nhiều người trong chúng ta có cuộc sống ổn định, đủ để nuôi gia đình, đủ để đi du lịch, nhưng thử hỏi đời sống chúng ta sẽ đưa chúng ta đi về đâu? Chúng ta đi đúng đường chưa? Hay chúng ta đang lang thang đâu đó vô định? Chúa Giêsu là Đấng Chăn Chiên Lành. Ngài là của ăn, là sự khôn ngoan. Vì thế, mỗi tuần chúng ta hợp nhau nơi Bàn Tiệc thánh để đón nhận ơn Khôn Ngoan trong lời Chúa và Bánh Hằng Sống khi cùng chia sẻ với nhau.

Thử hỏi đám quần chúng hôm ấy có cảm nhận được những gì đã xảy ra khi gặp Chúa Giêsu không? Vì người giàu cũng như người nghèo, người tốt cũng như người tội lỗi, người khỏe mạnh cũng như người yếu đau, đều cùng chung một Bàn Tiệc như nhau. Và họ tìm được gì nơi đó? Sau bữa tiệc cộng đoàn, họ có đối đãi với nhau khác trước không? Họ có bỏ qua những hận thù, quên đi những vết thương cũ hay không? Họ có chia sẻ bữa ăn với người khác như họ đã được lãnh nhận nơi bữa ăn này không? Nếu họ có biến chuyển, tức là họ đã hiểu được rồi đấy. Chúng ta cũng có thể trao đổi với nhau những điều này. Sau khi chúng ta nghe Phúc âm, cùng chia sẻ Bữa Tiệc thánh, chúng ta đã thay đổi được gì trong đời sống chúng ta chưa?

Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP
 
Sự công chính là kim chỉ nam
Jos. Tú Nạc, NMS
18:08 16/07/2009
Chúa Nhật XVI Thường Niên – Năm B (Jeremiah 23: 1-6; Psalm 23; Ephesians 2: 13-18; Mark 6: 30-34)

Mặc dù hình ảnh đời sống của người chăn cừu vô tư và thanh thản đó là bất cứ việc gì cũng dễ dàng. Việc canh giữ một thành viên lạc lối qui tụ và tìm kiếm sau khi lạc đàn tự nó quả là công việc toàn thời gian. Nhưng trên tất cả các điều đó, có sự kiên định và cảnh giác không nao núng mà phải được rèn luyện để bảo vệ đàn cừu không bị những thú ăn thịt tấn công mà không một lời cảnh báo. Thời gian ít ỏi được dành cho những người chăn cừu, những người mà hiếm hoi thời gian để suy nghĩ về sự thanh thản và an toàn của riêng mình – ít nhất trong trường hợp người chăn cừu khả tín. Người chăn cừu phải chiếm lĩnh sự an toàn và thịnh vượng của đàn được nguyên vẹn đối với người chủ.

Tiên tri Jeremiah đã dùng biểu tượng người chăn cừu để miệu tả hình ảnh những nhà lãnh đạo của con người – những người chịu trách nhiệm về sự thịnh vượng, phát đạt vật chất và tinh thần đối với quốc gia. Sự ích kỷ, tham lam, dốt nát, bất tài, tham vọng quyền uy của họ đã dẫn đến sự điêu đứng, suy tàn của quốc gia và nhân dân. Nhân dân, những người mà được trao cho để bảo vệ và dẫn dắt đã bị tán loạn và tàn phá. Điều đó có thể cộng hưởng với kinh nghiệm riêng của chúng ta đối với sự bất trung, bất tín trong tay những người lãnh đạo tôn giáo, xã hội và chính trị.

Thật chẳng may, lợi lộc cá nhân hoặc sự bảo vệ của thể chế thường gạt sang một bên sự hạnh phúc và thịnh vượng của sự phân chia giai cấp. Theo Jeremiah, Thiên Chúa có một giải pháp đơn giản: Người sẽ đảm đương công việc tự Người bằng việc ban cho con người những nhà lãnh đạo chân chính. Những nhà lãnh đạo này – một trong những đặc biệt – sẽ cai trị bằng sự công bình và chính trực, và quốc gia này sẽ trở nên thịnh vượng. Nhưng ít khi chúng ta gặp những nhà lãnh đạo này – và có lẽ danh nghĩa này bởi nhà lãnh đạo mẫu mực mà được kêu gọi sẽ nói với chúng ta một điều gì đó rất quan trọng: “Đức Chúa là sự công chính của chúng ta.” Tinh thần của sự công bình và chân chính là nhà lãnh đạo của chúng ta và được tìm thấy bên trong chúng ta. Chúng ta cần được xây dựng tâm hồn và tâm trí của riêng mình trên những lề lối của Thiên Chúa hơn là tìm kiếm một người nào khác để nói với chúng ta làm điều gì hoặc sống như thế nào.

Máu của Đức Ki-tô đặt sự kết thúc trước dã tâm và bạo lực – ít nhất đó là mục đích. Chúa Giê-su đã có ý định gạt sang một bên những rào cản nhân tạo mà sự sống nhân loại tạo ra để tự chia rẽ nhau. Phần này là ý nghĩa ưu việt hoặc một sự đặc biệt khoa trương một cách dễ dàng cái tôi của một tổ chức hoặc một nhóm người: Chúng tôi được Thiên Chúa yêu mến, sau cùng, chúng tôi đạo đức và tinh thần cao cả với tha nhân. Sứ mệnh và cái chết của Chúa Giê-su được hỗ trợ để mang đến an bình và hòa giải nhưng điều đó dường như lãng quên đối với chúng ta. Một số người có thể nói rằng có ác ý hơn bao giờ hết: sự đối kháng tôn giáo, quốc gia và chủng tộc đã kích động biết bao hận thù và bạo lực của thế giới. Chúng ta cần nhớ rằng Chúa Giê-su chịu chết không chỉ vì mục đích thế giới siêu nhiên, mà còn để tạo ra những điều rất khác nơi đây trên thế trái đấy này – để cứu chuộc chính ta khỏi chính chúng ta.

Chúa Giê-su và các tông đồ đã kiệt sức và đói. Họ đã mang thông điệp tiếp cận của vương quyền Thiên Chúa rông khắp mọi nơi không hao mòn ý chí. Bây giờ, lúc này dường như tất cả những điều tốt lành đạt được đã vời xa tất cả - sẽ tìm một nơi êm ả để nghỉ ngơi và thư giãn phần nào. Trong cách nói hiện đại, họ không phải là những ứng viên “mệt mỏi.” Nhưng điều đó không phải để là: những đám đông con người đã thấy nơi mà họ hướng về và đến đó trước tiên của họ. thật là dễ dàng để tưởng tượng cảm giác chìm đắm mà họ đã trải qua cái chết trên con thuyền khi họ thấy đám đông chờ họ. Điều đó đã trở nên dễ dàng trở lại với con thuyền để cố gắng đến một nơi khác, hoặc để họ đi xa.

Nhưng lòng trắc ẩn là cả hai: điều đáp trả và nguyên tắc cai trị, vì Chúa Giê-su thấy nhu cầu và sự tuyệt vọng của họ. Họ đang nóng lòng chờ đợi những ngôn từ của hy vọng, cổ vũ và phực hồi niềm tin của tình yêu và sự chăm sóc của Thiên Chúa. Và họ đang mưu cầu sự khôn ngoan – làm thế nào để sống với những đời sống công chính và thánh thiện trong một thế giới rối ren và đen tối. Không có nhiều nguyện vọng, sự nhận thức tâm hồn và những phương thức nội tại để trả lời những nhu cầu đó. Con người đã không có những người lãnh đạo đích thực và không sự hướng dẫn. Trí khôn ngoan, lồng nhân hậu, tính kiên nhẫn và sự hiện diện – những điều này là nhu cầu của thời đại chúng ta – không phù hợp, kiềm chế và đạo đức. “Chúa Giê-su đã bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều” – nếu chúng ta chỉ có thể thực hiện những điều đó cho nhau và cho một thế giới không còn hy vọng.

(Nguồn: Regis College – The School of Theology)
 
Bốn giá trị căn bản của đời sống xã hội
Gioan Lê Quang Vinh
18:11 16/07/2009
HỌC THUYẾT GIÁO HỘI VỀ VIỆC XÂY DỰNG
NGÔI NHÀ SỰ SỐNG (bài 2)

Bốn nguyên tắc của Học Thuyết Xã Hội Công Giáo gắn liền với bốn giá trị xã hội, những giá trị phổ quát và là nền tảng cho mọi định chế xã hội qua mọi thời gian. Bốn giá trị xã hội đó là Sự Thật, Tự Do, Công Lý và Tình Yêu. Các nguyên tắc và các giá trị này đi chung và bổ túc cho nhau. Giáo Hội còn nhấn mạnh “Các giá trị ấy chính là điểm tham chiếu không thể thiếu cho chính quyền”(1). Ở đây chúng tôi xin sắp xếp trình bày bốn giá trị này theo một bố cục chung để quí độc giả tiện theo dõi: Nghĩa vụ đối với giá trị đó; giá trị đó đặc biệt ứng dụng trong lĩnh vực nào; kết quả của việc sống giá trị đó.

BÀI 2: BỐN GIÁ TRỊ CĂN BẢN CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1. Sự Thật

Nghĩa vụ: Mọi người có ba nghĩa vụ đối với sự thật: hướng tới sự thật, tôn trọng sự thật và làm chứng về sự thật một cách có trách nhiệm (2).

Sống trong một xã hội mà con người không phân biệt cái thật và giả, cái đúng cái sai thì các nghĩa vụ này càng cần được thúc đẩy để được thực hiện cấp bách hơn.

Người ta đang than phiền và cảnh báo về cái giả dối cứ lan truyền, mà cả trong giáo dục cũng đề cao cái giả từ lâu. Cái nguy hiểm của giáo dục sai lạc là nó còn ăn sâu đến lối sống con người về sau này. Do đó mà Học Thuyết Xã Hội Công Giáo còn nêu một nghĩa vụ nữa: nỗ lực giáo dục.

Lãnh vực: Sự thật phải được tôn trọng trong mọi lãnh vực xã hội, nhưng việc tìm kiếm sự thật cần nhấn mạnh trong hai lãnh vực truyền thông đại chúng và kinh tế (3).

Truyền thông đại chúng ngày nay không còn đánh lừa con người được nữa vì có quá nhiều kênh thông tin chung quanh nó. Một khi đã không tôn trọng sự thật, các phương tiện truyền thông không còn được tin tưởng, và trở nên hoang phí.
Kết quả: Khi sự thật được tôn trọng, có hai kết quả tích cực cho xã hội: Con người tránh được các lạm dụng; và dễ hành động phù hợp các đòi hỏi khách quan của luân lý (4)

2. Tự Do

“Tự do là dấu chỉ cao đẹp nhất nơi con người, cho thấy con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa”. Và như vậy, tự do là dấu chỉ phẩm giá con người. (5)

Nghĩa vụ: HTXHCG dạy rằng mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do. Quyền thể hiện tự do, đặc biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo, là một đòi hỏi không thể thiếu trong phẩm giá con người. (6)

Như vậy rõ ràng khi người ta không tôn trọng tự do của con người, thì người ta không thể đề cao phẩm giá và nhân vị được. Tự do cũng phải xây dựng trên sự thật và công lý.

Lãnh vực: Giáo Hội dạy rằng con người phải được tự do tìm kiếm sự thật, bày tỏ các tư tưởng tôn giáo, văn hoá và chính trị của mình. Thứ hai, con người phải được tự do lực chọn bậc sống, chọn hướng nghề nghiệp, theo đuổi các sáng kiến kinh tế, xã hội hay chính trị của mình (7).

Kết quả: Khi tự do được tôn trọng, con người nhận ra giá trị thật của mình là hình ảnh Thiên Chúa, mình luôn hướng về siêu việt và biết tự chủ, có cơ hội phát triển về mọi mặt.

3. Công Lý

Sống trên đời, người ta ai cũng mắc nợ: nợ Thiên Chúa sự sống và mọi thứ mình có, nợ mọi người khác trong xã hội. công lý chính là “có ước muốn kiên định và vững chắc trả những gì mình mắc nợ Chúa và tha nhân” (8). Công lý là những điều phù hợp với bản chất sâu xa của con người.

Nghĩa vụ: Phải tôn trọng các hình thức của của công lý: công lý giao hoán, công lý phân phối, công lý pháp lý và công lý xã hội (9). Nói đơn giản hơn, phải tôn trọng công bằng xã hội, phân phối tài sản hợp lý, luật pháp phải công bằng, chính trực.

Như thế, khi công bằng chưa được thực hiện, tài sản của chưa được về đúng chủ nhân thật của nó… thì chưa có công lý.
Lãnh vực: Công lý phải đươc thực thi trong mọi lãnh vực của đời sống con người. Đặc biệt, công lý cần quan tâm trong các khía cạnh xã hội, chính trị, kinh tế và các khía cạnh cơ cấu của các vấn nạn và các giải pháp cho từng vấn nạn.
Kết quả: Khi công lý được thực thi cùng với bác ái và liên đới, thì nó sẽ thành con đường dẫn đến hoà bình (10), như gợi ý của Thánh Kinh (x. Isaia 32,17; Gc. 3,18) “Hoà bình là kết quả của tình liên đới” (11). Và như vậy, thế giới sẽ tốt đẹp hơn nhiều.

4. Tình Yêu

Giáo Hội trung thành với giới răn trọng nhất mà Đức Giêsu đã truyền dạy, nhấn mạnh rằng công lý mà không có tình yêu thì “công lý có thể phản bội chính mình”, nghĩa là nỗ lực thực thi công lý lại có nguy cơ làm phương hại đến công lý. Vì vậy, Giáo Hội dạy “Giữa các đức tính nói chung, và đặc biệt giữa các đức tính, các giá trị xã hội và tình yêu, có một mối liên kết rất sâu xa mà chúng ta cần phải nhận thức càng ngày càng đầy đủ hơn” (12).
Nghĩa vụ: Tình yêu phải được đề cao trên tất cả các giá trị khác.

Lãnh vực: “trong bất cứ lĩnh vực quan hệ liên vị nào, có thể nói, công lý phải được điều chỉnh thật nhiều bởi tình yêu, vì như thánh Phaolô nói, tình yêu hay bác ái vốn ‘nhẫn nại và nhân hậu’ hoặc có thể nói, đó là tình yêu mang những đặc điểm của lòng thương xót, là cốt tuỷ của Tin Mừng và của Kitô giáo” (13)

Kết quả: (14)

- “Chính từ nguồn cội yêu thương sâu xa ấy mà các giá trị như sự thật, tự do và công lý đã khai sinh và phát triển”.
- “tình yêu và chỉ có tình yêu (bao gồm cả tình yêu nhân hậu mà chúng ta quen gọi là “lòng thương xót”) mới có khả năng khôi phục con người trở lại với chính mình”
- “Chỉ có tình yêu, ngay trong đặc tính của nó là “mô thức của mọi đức tính”, mới có thể làm sinh động và định hình cho các sự tương tác trong xã hội, đưa chúng tới sự hoà hợp trong bối cảnh một thế giới ngày càng phức tạp”

Trên đây chỉ là tóm tắt hết sức ngắn gọn của bản tóm lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo. Nhìn lướt qua bản tóm tắt này, chúng ta có thể thấy được giáo huấn của Giáo Hội sâu xa, phù hợp với bản chất của con người như thế nào. Học thuyết Xã Hội của Giáo Hội sở dĩ có giá trị trường tồn bởi vì học thuyết ấy đặt nền tảng trên nhân vị, phẩm giá con người do Chúa sáng tạo, và cắm rễ sâu vào Lời Chúa và thánh truyền. Đánh giá về giáo huấn của Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Thông điệp Centesimus Annus đã viết: ““… Giáo huấn xã hội của Giáo Hội tự nó là một công cụ hữu hiệu để loan báo Tin Mừng. Thật thế, giáo huấn ấy công bố cho mọi người biết Thiên Chúa và mầu nhiệm cứu độ của Ngài trong Đức Kitô, và cũng nhờ đó, mạc khải cho con người biết chính mình. Trong ánh sáng ấy, và chỉ trong ánh sáng ấy, giáo huấn này đề cập đến hết mọi điều: nhân quyền của mỗi người, đặc biệt của “giai cấp lao động”, gia đình và giáo dục, các bổn phận của Nhà Nước, trật tự của quốc gia và quốc tế, đời sống kinh tế, văn hoá, chiến tranh và hoà bình, cũng như việc tôn trọng sự sống từ khi thụ thai cho đến lúc lìa đời”.

Nguyện xin Mẹ là Mẹ Giáo Hội, giúp chúng con ngày càng hiểu rõ và thực thi giáo huấn của Giáo Hội và xin Mẹ mở lòng cho những người có trách nhiệm trong xã hội chúng con, để họ đến gần với công lý, sự thật, tự do và yêu thương.

Chú thích:
(1) (2) (3) (4) HTXHCG, chương 4, 198.
(5) (6) Ibid. chương 4, 199.
(7) Ibid. chương 4, 200.
(8) Ibid. chương 4, 201. cf. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 1807; x. Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, II-II, q. 58, a.1: Ed. Leon. 9,9-10: justitia est perpetua et constans voluntas jus suum unicuique tribuendi.
(9) Ibid. chương 4, 203
(10) Ibid. chương 4, 205.
(11) Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, 39: AAS 80 (1988), 568.
(12) HTXHCG, chương 4, 204
(13) Ibid, chương 4, 206. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Dives in Misericordia, 14: AAS 72 (1980), 1224; x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 2212.
(14) HTXHCG, chương 4, 204-208.
 
Mục tử tốt lành
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
18:59 16/07/2009
Chúa nhật XVI thường niên

“Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác, sấm ngôn của Đức Chúa” ( Gr 23,1 )… “Này Ta để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi…”( c.3 ). Các hành vi gian ác của các mục tử đã rõ ràng với lời nguyền rủa của Giavê qua miệng tiên tri Giêrêmia. Đó là những mục tử làm cho đàn chiên tan tác vì chẳng lưu tâm gì đến đàn chiên. Đó là những mục tử chỉ biết lo cho bản thân, mãi mê kiếm tìm quyền lực, thu tích của cải. Và chuyện gì sẽ đến, rồi sẽ đến, đó là sự vinh thân phì da và sự sa đoạ cách này kiểu khác của những người mang danh mục tử. Các hậu quả mà chính vị mục tử gánh lấy có thể không xảy ra ở đời này nhưng chắc chắn không thể tránh được ở đời sau. Tuy nhiên, với chính đàn chiên thì hậu quả như nhãn tiền ở đời này. Đàn chiên tan tác, con thì gầy yếu, con thì bệnh tật, con thì bỏ mạng dưới móng vuốt của thú dữ rừng hoang… Chính vì lợi ích của đàn chiên nên Thiên Chúa không thể không ra tay đúng lúc, đúng thời. Người sẽ loại bỏ các mục tử vô tâm và bất nhân ấy để rồi “sẽ cho xuất hiện các mục tử tốt lành”(c.4 ).

Vị mục tử tốt lành “chính danh” đã xuất hiện. Có thể nói rằng một người duy nhất trong nhân loại đã tự giới thiệu: “Ta là mục tử tốt lành” ( Ga 10,11 ) đó là Chúa Giêsu Kitô, Cứu Chúa của chúng ta. Đây là một sự tự khẳng định không phải liều lĩnh hay khoa trương, nhưng rất có căn cứ. Chính con người và cuộc đời của Chúa Giêsu mà Tin Mừng tường thuật xác nhận cho ta căn cứ này. Tin mừng Thánh Gioan trình bày khá đấy đủ về hình ảnh vị mục tử nhân lành. Đó là người biết chiên, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên, là người luôn đi trước đàn chiên để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và dòng suối mát, để bảo vệ đàn chiên trước nanh vuốt của sói dữ và ác thù. Chúa Nhật XVI TN B, Mẹ Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta đoạn Tin Mừng thánh Maccô mô tả một vài nét về vị mục tử ấy, đó là người biết quan tâm đến đàn chiên cách cá thể và cụ thể, toàn diện và đến cùng.

1.Yêu thương cách cá thể và cụ thể: Giêsu không chỉ yêu thương đàn chiên cách tổng thể nhưng còn với tính cách cá thể từng chiên một. Người sẵn sàng bỏ 99 con chiên để tìm cho đựơc một con chiên lạc bầy. Đó là người phụ nữ bị bệnh băng huyết đã 12 năm. Đó là người bại tay trong một Hội Đường nhân ngày hưu lễ. Đó là hai người bị quỷ ám ở vùng Ghêrada, là em bé con ông Giairô, trưởng Hội đường đựơc chỗi dậy từ cõi chết. Và giờ đây, đó là nhóm Mười Hai tông đồ đang mệt nhoài vì chuyến đi truyền giáo vất vả.

Tình yêu của mục tử Giêsu không dừng lại ở tình cảm xuông, nhưng luôn được thể hiện bằng hành động cụ thể, thiết thực, thấy được, cảm đựợc và chứng nghiệm được. Không phải chúng ta cổ võ chủ nghĩa duy hiệu năng nhưng lắm khi việc coi thường các kết quả bên ngoài cũng là một trong những cách thế che đậy sự thiếu dấn thân tích cực hoặc biện minh cho một thứ tình cảm hời hợt trên môi miệng.

2.Yêu thương cách toàn diện: Vị mục tử Giêsu không phải yêu thương đàn chiên cách phiếm diện hoặc chỉ có linh hồn hay chỉ có thể xác. Người chăm sóc đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn. Không chỉ rao giảng tin mừng cho dân chúng, nhưng khi thấy họ đang cồn cào vì bụng đói thì Người đã cho họ no nê bằng bánh và cá. Người không chỉ chữa lành bệnh tật cho chiên mà còn xua trừ ma quỷ ra khỏi chiên. Người không chỉ nhắm đến chuyện tâm linh mà còn lo lắng cả phương diện thể lý của các môn đệ. “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” ( Mc 6,31 ). Một lời chỉ dạy vừa thân tình vừa thiết thực. Giữa một thế giới đầy tiếng động, lắm tất bật do bởi công việc, nhiều căng thẳng vì các kế hoạch, chương trình chồng chất… thì một vài giây phút nghỉ ngơi, thư giãn quả là rất cần thiết cho thể lý và tâm hồn. Ai không biết nghỉ ngơi thì cũng khờ dại không kém gì người lười biếng không chịu làm việc. Một vị thầy vừa lo lắng cho các môn sinh việc làm là sai đi truyền giáo sau khi đã ban cho họ quyền trên bệnh tật và ma quỷ, nay lại còn lo cho họ cả chuyện nghỉ ngơi, đích thật là vị mục tử tốt lành.

3.Yêu thương cho đến cùng: Nói đến tính đến cùng trong tình yêu của vị mục tử Giêsu, chúng ta dễ dàng liên tưởng đến việc Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên. Tuy nhiên bài Tin Mừng Chúa Nhật này lại cho ta thấy một nét trong tình yêu đến cùng của Người đó là sẵn sàng từ bỏ nhu cầu chính đáng của mình vì nhu cầu cấp thiết của đàn chiên. “Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” ( c.34 ).

Hơn bao giờ hết, ngày nay, chúng ta không chỉ mong mà còn khao khát có được nhiều mục tử tốt lành. Chúng ta cầu nguyện. Quả không sai. Thế nhưng, chúng ta đừng quên Chúa muốn thánh ý của Người được thể hiện qua những con người, qua chúng ta. Hãy nỗ lực cộng tác với Chúa để loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử gian ác, những mục tử chỉ biết mưu cầu lợi ích bản thân, những mục tử làm đàn chiên tan tác, những mục tử không có tấm lòng với chiên, không lo lắng cho đàn chiên cách cá thể từng chiên một, cách cụ thể bằng hành động. Hãy loại ra khỏi cộng đoàn những mục tử không biết yêu thương đàn chiên cách toàn diện cả xác lẫn hồn, cả chuyện tâm linh lẫn đời sống thể lý, kinh tế văn hoá… Và hãy loại đi cả những mục tử chỉ biết đặt nhu cầu của mình, cho dù là chính đáng, lên trên nhu cầu cấp thiết của đàn chiên.

Nghe hai từ loại bỏ thì có vẻ nhẫn tâm và bất hiếu hay vô đạo. Cách riêng với tâm lý Á đông thì thường không nỡ “cạn tào ráo máng”. Hơn nữa, tín hữu chúng ta vốn sợ mang tai mang tiếng khi có chuyện đụng chạm đến các đấng bậc bề trên. Hình như bà con người dân Vinh, người dân xứ Nghệ rất sợ mang tiếng chống cha, chống cụ, và lại còn sợ Chúa phạt, khiến cả gia đình ngóc đầu lên không nỗi. Dĩ nhiên, nếu chúng ta loại bỏ các mục tử gian ác bằng các phương thế tiêu cực thì quả là đáng trách và không phải phép. Không ai là không thể đổi thay. Vậy cách thế tích cực hơn là hãy tìm cách xây dựng các chủ chăn vô tình, tắc trách, thành những mục tử nhân hậu, tốt lành theo khả năng và hoàn cảnh của chúng ta. Các phương thế xây dựng thì đủ kiểu, nhiều cách, miễn sao chúng được thực thi trong đức ái.

Năm linh mục đã mở ra. Không riêng gì các linh mục phải nỗ lực thánh hóa bản thân mà cả cộng đoàn dân Chúa phải tích cực dệt xây cho chiên trong đàn lẫn ngoài đàn có thêm nhiều mục tử tốt lành, chính danh, chính hiệu.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:53 16/07/2009
CON DIỆC THÍCH KIỆN.

Con diệc quen thói cáo trạng trong khi cầu khẩn:

- “Đấng tạo hóa ạ, Ngài xem, con chim bay không trồng cũng không thu, nhưng lại sống nhàn nhã thoải mái, không phải lo ăn mặc, thật quá lười biếng. Hoa bách hợp không kéo sợi cũng không dệt, từ sáng đến tối chỉ làm đỏm cho mình, thật là rất dễ hao kiệt [tinh thần]. Ngài có nên cho họ một bài giáo huấn để họ tỉnh táo chăng?”

Đấng tạo hóa thở dài, nói:

- “Người tự cho mình là nhân nghĩa ơi, khuyết điểm lớn nhất của con chính là: thích đóng người khác vào thập giá”.

(Trích: Truyện đồng thoại dành cho người lớn)

Suy tư:

Người biệt phái vào cầu nguyện trong đền thờ (Mt 18, 9-12) đã tố cáo người thu thuế đang qùy cầu nguyện ở phía sau: “Lạy Chúa, con không như cái thằng thu thuế tội lỗi kia, nó không ăn chay mỗi tuần, nó không bố thí mà chỉ biết bóc lột, nó…”

Có những tín hữu khi vào toà xưng tội nhưng không chấp nhận tội của mình, mà cứ đổ tội cho người khác: “Thưa cha, nếu con mẹ ấy không chửi con thì con sẽ làm ngơ; thưa cha, nếu thằng cha đó không có chọc ghẹo con, thì con không có mắng nó là đồ tồi, đồ dơ dáy…”

Có những người lúc cầu nguyện mà cứ phân bì với người khác: “Lạy Chúa, sao Chúa cho nó giàu có thế, tiền dư bạc thừa để nó ăn chơi đàng điếm, nếu Chúa cho con thì con không như nó đâu, con sẽ bố thí cho người nghèo, con sẽ dâng cho nhà thờ, con sẽ…”

Nếu trong khi cầu nguyện mà chúng ta biết nói: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vô cùng, vì Chúa đã ban cho con như con đang có, nếu con giàu có, thì chắc con sẽ kiêu ngạo vô cùng; nếu con hơn mọi người, thì chắc là con coi trời chằng có ki-lô-gam nào cả. Lạy Chúa, Chúa ban cho anh [chị] ấy nhiều thứ quá, tiền bạc, danh vọng, vợ đẹp con ngoan, xin Chúa cho họ biết sử dụng những thứ ấy để làm sáng danh Chúa và có ích cho họ, cho mọi người…”

--------------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:54 16/07/2009
N2T


2. Khói lửa dù nóng, nếu không bỏ vào trong than thì không lâu sau sẽ bị giập tắt; ánh sáng của đức hạnh dù lớn, nếu không dùng khiêm tốn để chôn giấu bảo vệ, thì không lâu sau cũng sẽ bị giập tắt.

(Thánh Gregory)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:56 16/07/2009
N2T


175. Tự tin là động lực của cuộc sống.

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Viện bảo tàng danh tiếng của Tòa Thánh sẽ mở cửa vào ban đêm
Nguyễn Long Thao
01:06 16/07/2009
ROME 15/07/09- Kể từ 24 tháng 7 năm 2009, viện bảo tàng Tòa Thánh Vatican sẽ mở cửa vào ban đêm để du khách thưởng lãm những tác phẩm tuyệt hảo về văn hóa và nghệ thuật hiếm qúy của nhân loại.

Ông Antonio Paolucci, Giám Đốc Viện Bảo Tàng của Tòa Thánh, viết thông báo trên tờ L'Osservatore Romano rằng thời gian mở cửa vào ban đêm của viện bảo tàng sẽ kéo dài từ 7 giờ tối đến 11 giờ đêm. Ông cũng nói đây là lần thử nghiệm và nếu thành công viện bảo tàng sẽ tiếp tục mở cửa theo chương trình này.

Theo lịch trình hàng tuần, viện bảo tàng Tòa Thánh mở cửa từ 9 giờ sáng đền 6 giờ chiều từ Thứ Hai đến thứ Bảy và hàng năm thu hút khoảng 4 triệu rưỡi du khách. Việc mở cửa thêm giờ vào buổi tối, theo vị Giám Đốc, là để thu hút khách địa phương vì ban ngày họ thường phải nhường chỗ cho du khách khắp thế giới. Đồng thời mở cửa ban đêm để du khách có dịp thưởng lãm những tác phẩm nghệ thuật dưới ánh sáng đặc biệt của ban đêm.

Được biết chương trình viện bảo tàng Vatican mở cửa ban đêm là bắt chước các viện bảo tàng danh tiếng như Louvre ở Paris và Uffiz ở Florence, Ý đã mở cửa ban đêm và thu hút số đông khán giả.

Theo thông báo, những người muốn vào thăm viện bảo tàng Vatican vào ngày 24 tháng 7 này phải mua vé qua mạng.
 
Đức Thánh Cha dùng trọn mùa hè để thưởng thức thiên nhiên, âm nhạc và đọc sách
Bùi Hữu Thư
03:25 16/07/2009
Dân điạ phương rất hân hoan đón Đức Thánh Cha

INTROD, Ý, ngày 15 tháng 7, 2009
(Zenit.org).- Theo báo L’Osservatore Romano, Đức Thánh Cha Benedict XVI dùng những ngày nghỉ hè tại rặng núi Alps bên Ý để nghe âm nhạc và đọc sách, mặc dầu ngài cũng sẽ tiếp tục theo dõi các biến cố trên thế giới.

Đức Thánh Cha đến Les Combes trong tỉnh Introd ngày thứ hai, nơi này nằm trong thung lũng Aosta phía bắc Ý. Ngài sẽ nghỉ ngơi tại nhà nghỉ của ngài do Dòng Salêdiêng cai quản cho đến ngày 29 tháng 7.

Đức Giám Mục Giuseppe Anfossi ở Aosta khẳng định rằng dân điạ phương rất phấn khởi vì lại được đón tiếp Đức Thánh Cha một lần nữa; lần cuối cùng ngài đến đây là hè năm 2006. Đức Giám Mục cũng cho biết sẽ có buổi cầu Kinh Truyền Tin vào trưa ngày 26 tháng 7.

Đức Giám Mục nói, "Sự hiện diện của ngài giữa chúng tôi khiến chúng tôi rất vui mừng,” mặc dầu sẽ có rất ít các vụ tiếp xúc với ngài. “Chúng tôi chưa chuẩn bị một chương trình gì đặc biệt hay hoành tráng. Chúng tôi kính trọng việc nghỉ ngơi của ngài; chúng tôi sẽ tụ tập lại nếu ngài muốn và khi nào ngài muốn."

Vùng bắc Ý cho Đức Thánh Cha có nhiều thời gian để vui hưởng thú thiên nhiên. Đức Giám Anfossi ghi nhận là Đức Thánh Cha “ôm ấp vấn đề môi sinh trong tim ngài.” Và nhà nghỉ được trang bị một đàn dương cầm từ khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến nghỉ hè tại đây. Nơi đây cũng có “một thư viện rất đầy đủ.”

Đức Thánh Cha Benedict XVI dự trù sẽ đọc kinh Truyền Tin trước công chúng tại Romano Canavese (nơi Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tarcisio Bertone sanh ra) và tại Les Combes. Ngài cũng sẽ gặp gỡ các linh mục, tu sĩ và giáo dân thuộc Giáo phận Aosta.

Vì Đức Thánh Cha cư ngụ trong cơ sở của Dòng Salêdiêng, vị bề trên tổng quyền là cha Pascual Chávez, có mặt để đón tiếp ngài.

Vị linh mục Mễ Tây Cơ nói với ngài ngày thứ hai, "Con rất vui sướng được gặp ngài.” Cha Chávez giới thiệu ngài với cộng đoàn Salêdiêng và khẳng định rằng, “Chúng con rất hân hoan vui mừng vì Đức Thánh Cha đã trở lại Les Combes. Đức Thánh Cha đang ở trong nhà của ngài. Chúng con sẽ luôn ở bên ngài bằng lời cầu nguyện."
 
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giáo Hoàng và Tổng Thống Mỹ
Vũ Văn An
08:43 16/07/2009
Như mọi người biết, gần đây Đức GH Bênêđíctô XVI đã tiếp kiến Tổng Thống Obama tại Vatican. Cuộc gặp gỡ này được tờ tuần báo Mỹ The America mô tả là có đủ đặc điểm của một cuộc gặp gỡ giữa những người đã quen biết nhau từ lâu, mặc dầu, trên thực tế, hai vị chưa gặp nhau lần nào, bất cứ tại nơi đâu. Điều này dễ hiểu, bởi lúc Đức Hồng Y Ratzinger nổi tiếng khắp thế giới, thì Obama chỉ là một sinh viên bình thường, chưa ai biết đến tên. Và lúc Đức HY Ratzinger lên ngôi Giáo Hoàng, thì Obama mới chân ướt chân ráo bước vào quốc hội tiểu bang Illinois.

Những người Công Giáo của Obama

Theo tờ The America, sự quen biết biểu kiến giữa hai vị nguyên thủ quốc gia này là công khó của các nhà ngoại giao Vatican, những người suốt mấy năm qua đã âm thầm làm việc để bắt tay với các giới chức Hoa Kỳ và thiết lập được những cuộc đối thoại thực tiễn và bổ ích. Tờ tuần báo Anh The Tablet, thì cho rằng một phần ảnh hưởng Công Giáo đối với ông Obama là do những người họ gọi “Người Công Giáo Của Obama”, những người cổ xúy cho Giáo Hội với đường dây nói truyện trực tiếp với ông này. Theo tờ này, hiện có những người Dân Chủ Công Giáo mới đang xuất hiện trong hành lang quyền lực tại Mỹ. Họ trẻ trung, dấn thân vào chính trị và thường có chung một hậu cảnh tổ chức cộng đồng như chính ông Obama. Mặc dù sự ủng hộ của những người Công Giáo như Edward Kennedy, Thượng nghị sĩ Chris Dodd (Connecticut) hay của Nancy Pelosi có đem lại lợi điểm cho Obama trong lúc tranh cử, nhưng những người này nặng tính bộ lạc và ý thức hệ. Nên chiến thắng sau cùng của Obama đã giúp ông có cơ hội cổ xúy một loại người Dân Chủ Công Giáo mới và khác thế, những người tham gia chính trị không dựa vào tinh thần bộ lạc, dòng tộc cho bằng vào ý hướng, tư tưởng, sử dụng tư trang (blog) và e-mail để liên lạc chứ không tới thăm các văn phòng nghiệp đoàn.

Một trong những người đó chính là Giáo Sư Miguel Diaz, tân đại sứ Mỹ tại Vatican. Dạy thần học tại Đại Học Minnesota, Diaz là một học giả biết đem thần học của Karl Rahner vào kinh nghiệm Công Giáo Mỹ gốc Latinh. Nhóm Công Giáo Liên Minh Vì Ích Chung (Catholics in Alliance for the Common Good) hết lời ca tụng việc bổ nhiệm này. Liên Minh Vì Ích Chung vốn là một tổ chức vận động mới của người Công Giáo Mỹ, chủ tịch là Elizabeth Bagley, cựu đại sứ dưới thời Bill Clinton. Tổng giám đốc và là đồng sáng lập ra tổ chức này chính là Alexia Kelley, từng làm việc lâu năm cho Chiến Dịch Phát Triển Nhân Bản (Campaign for Human Development), một chương trình chống nghèo toàn quốc của Giáo Hội. Bà rời chương trình này để đảm nhiệm chức vụ giám đốc Trung Tâm Các Sáng Kiến Dựa Trên Đức Tin và Cộng Đồng của Bộ Y Tế Và Dịch Vụ Nhân Bản. Trong chức vụ mới này, bà vừa giúp các tổ chức có căn bản đức tin nhận được tài trợ vừa giữ vai trò liên lạc giữa các giáo hội và chính phủ.

Người Công Giáo Đoàn Kết (Catholics United) là một tổ chức vận động Công Giáo khác theo kiểu mới. Chủ trương của tổ chức này là: Nghiêm chỉnh lãnh nhận mọi giáo huấn xã hội và chính trị của Giáo Hội, và khước từ bất cứ sự pha loãng đức tin nào để phục vụ nền chính trị đảng phái. Giám đốc chính trị của nó, James Salt, vốn tham gia chính trị sau khi làm việc cho Pax Christi, một tổ chức Công Giáo dấn thân tranh đấu cho chính nghĩa bất bạo động.

Đức Tin Trong Đời Sống Công (Faith in Public Life) cũng là một tổ chức thuộc loại này, nhằm cổ vũ, một cách không chia rẽ, vai trò của đức tin trong sinh hoạt chính trị. Các tổ chức này không có tính đảng phái một cách chuyên biệt. Chúng được phát sinh để đáp ứng điều họ cho là đảng phái lợi dụng các giáo hội. Nói cụ thể, trong khi một số tổ chức như Hội Đồng Nghiên Cứu Gia Đình hay Người Mỹ Đoàn Kết Phò Sự Sống thường được coi là phò bảo thủ, phò Cộng Hòa, thì các nhóm mới này được coi như cán cân thăng bằng có tính cấp tiến, phò Dân Chủ.

Nhờ những hoạt động của nhóm này, trong diễn văn đọc tại Trường ĐH Notre-Dame, ông Obama ủng hộ các cố gắng nhằm giảm thiểu con số các trường hợp phá thai bằng cách tăng cường các chăm sóc tiền hộ sản (pre-natal care) cũng như các trợ giúp kinh tế đối với các phụ nữ mang thai ngoài ý muốn. Những cố gắng này phần lớn là của những nhóm tín hữu cấp tiến. Đối với họ, giảm con số phá thai là một câu tụng niệm hàng ngày. Chủ trương của họ là tìm cách phò sự sống bên trong một đảng phái phò phá thai.

Mark Linton hiện là phát ngôn viên về các vấn đề thuộc đức tin tại Bộ Gia Cư Và Phát Triển Đô Thị và gần như là liên lạc viên chính của chính phủ về các vấn đề Công Giáo. Trước đây, trong chiến dịch tranh cử của Obama, ông ta giữ vai trò vận động người Công Giáo. Ông đóng vai trò chính trong việc đề cử Giáo Sư Diaz làm tân đại sứ bên cạnh Tòa Thánh và góp phần chính vào bài diễn văn tại ĐH Notre-Dame.

Những người Công Giáo bên cạnh Obama hiện nay được cả Douglas Kmiec, một giáo sư luật và từng phục vụ trong chính phủ Reagan, ca ngợi về tinh thần nới vòng tay và cung cách họ bắt tay với tân chính phủ. Theo tờ The Tablet, các chính trị gia Công Giáo thế hệ Kennedy buộc phải bước vào trận chiến chống các thiên kiến đối với người Công Giáo bằng cách chứng tỏ lòng yêu nước của mình. Người Công Giáo thế hệ Obama, ngược lại, lãnh trách nhiệm trình ủy nhiệm thư Công Giáo của mình, chứ không phải ủy nhiệm thư Hoa Kỳ. Ủy nhiệm thư của họ nặng về phía công bằng xã hội, khác với đàn anh bảo thủ quá chú trọng đến vấn đề phá thai. Dù bạn đồng ý với họ hay không, họ vẫn đang được Obama lắng nghe.

Xoay chiều?

Trước khi bay sang Rôma gặp Đức Thánh Cha, ông Obama từng gặp gỡ đại diện truyền thông Công Giáo. Trong cuộc gặp gỡ vào ngày 2 tháng Bẩy ấy, Obama bảo đảm với các đại diện kia rằng ông có ý định bảo vệ quyền lương tâm của các nhân viên ngành chăm sóc sức khỏe, khác với luận điệu lúc đang tranh cử và liền sau khi vừa thắng cử vẻ vang. Theo cha Owen Kearns, chủ bút tờ National Catholic Register, một trong các thành viên truyền thông tham dự cuộc gặp gỡ, Obama cho rằng ý định của ông ta đối với quyền lương tâm đã bị hiểu lầm. Obama tuyên bố: “tôi nghĩ lý do duy nhất khiến chủ trương của tôi ra mù mờ là vì nó xuất hiện vào phút chót, một thay đổi vào giờ thứ 11 đối với các điều luật về lương tâm từng được chính phủ trước đẩy quá xa mà chúng tôi quyết định sẽ đảo ngược… Tôi là là người tin các điều khoản về lương tâm. Tôi từng ủng hộ điều khoản về lương tâm lành mạnh tại Illinois dành cho các bệnh viện và những người cung cấp dịch vụ sức khỏe Công Giáo. Tôi từng thảo luận vấn đề đó với Đức Hồng Y George khi ngài tới Văn Phòng Bầu Dục này, và trong bài diễn văn tại (Trường ĐH) Notre-Dame, tôi đã lặp lại việc tôi ủng hộ điều khoản về lương tâm hữu hiệu… Tôi có thể cam đoan với các độc giả của qúy vị rằng khi việc tái duyệt hoàn tất, sẽ có điều khoản vững mạnh về lương tâm trong đó. Có thể nó sẽ không thoả mãn các tiêu chuẩn của mọi người phê phán nó, nhưng chắc chắn nó sẽ không yếu hơn điều khoản trước khi có sự thay đổi".

Trong cuộc gặp gỡ báo chí này, ông Obama cũng đề cập tới việc ông sẽ tới yết kiến Đức GH Bênêđíctô XVI nhân dịp ông qua Ý dự hội nghị G8. Tuy nhấn mạnh rằng, cũng như mọi cuộc gặp gỡ cấp chính phủ khác, nhất định sẽ có những thoả thuận và bất đồng giữa Đức Giáo Hoàng và Ông khi hai vị gặp nhau, nhưng Obama cho hay cuộc gặp gỡ này là một vinh dự lớn cho ông, trong đó ông sẽ cùng Đức GH bàn về Trung Đông, thay đổi khí hậu và di dân.

Tuy Obama không liệt kê vấn đề sự sống trong nghị trình, nhưng nhân dịp này, ông có nhắc tới Đức Hồng Y Joseph Bernardin, cố tổng giám mục Chicago từ 1982 tới khi qua đời vào năm 1996. Ông cho rằng: Đức Hồng Y Bernardin phò sự sống và chưa bao giờ do dự phát biểu công khai quan điểm ấy, nhưng ngài có phương thức hết sức nhất quán gọi là “chiếc áo không tà” (seamless garment) vốn nhấn mạnh tới các vấn đề khác nữa. Các vấn đề ấy, theo Obama, xem ra đang bị cuộc tranh luận về phá thai chôn vùi. Tuy thế, Đức Giáo Hoàng sẽ nhắc ông nhớ vấn đề then chốt ấy và nếu đồng thời ông chịu đọc Đức Ái Trong Sự Thật thì ông sẽ hiểu ý nghĩa đích thực của Chiếc Áo Không Tà mà cả Đức Hồng Y Bernardin lẫn Đức Bênêđíctô đều hết sức bênh vực.

Điều may là đại diện tờ Commonweal Magazine, Paul Baumann, đã hỏi thẳng về việc ông đang tìm kiếm cơ sở chung cho vấn đề ngừa thai. Obama cho hay: “Tôi không bao giờ có ảo tưởng là nhờ đối thoại, chúng ta sẽ loại bỏ được mọi dị biệt trong vấn đề này. Dù thế, tôi cũng có thể cho qúy vị hay dăm ba ý niệm về việc giúp giới trẻ có được những quyết định thông minh để đừng can dự vào các hoạt động tính dục một cách cẩu thả, vì hoạt động này có thể dẫn tới những vụ thai nghén ngoài ý muốn, về sự quan trọng của việc cho/nhận con nuôi như một giải pháp thay thế cho việc phá thai, về việc chăm sóc các phụ nữ mang thai để họ dễ dàng hơn trong việc chăm sóc con cái. Đó là ba lãnh vực trong đó tôi sẽ hết sức ngỡ ngàng nếu chúng ta không (thể) có được những thoả thuận có ý nghĩa”.

Tuy thế, ông vẫn cho rằng “làm tình đàng hoàng và giáo dục luân lý” phải đi song song với việc ngừa thai mới giảm thiểu được những vụ thai nghén ngoài ý muốn. Ông nói: “Tôi nhìn nhận rằng điều ấy đi ngược lại tín lý của Giáo Hội Công Giáo, cho nên tôi không mong được một ai đó vốn cảm nhận mạnh mẽ về vấn đề này dựa trên đức tin tôn giáo có thể nhất trí với tôi, nhưng đó là quan điểm bản thân của tôi. Rất có thể chúng ta sẽ không đạt được một ngôn từ hoàn toàn đi đôi với nhau trong trận tuyến này”.

Về việc phá thai, ông cho rằng “Tôi sẽ hết sức ngạc nhiên nếu những người tin rằng phá thai nên được hợp pháp hóa mà lại phản đối ngôn từ cho rằng ta phải ráng giảm thiểu các hoàn cảnh trong đó người đàn bà thấy mình bó buộc phải phá thai. Nếu họ chủ trương như thế, tôi xin được bất đồng với họ. Tôi không biết có hoàn cảnh nào trong đó phá thai lại được coi là một dịp hay một quyết định hạnh phúc cả”.

Đức Giáo Hoàng và Ông Tổng Thống

Chính với những chủ trương và tâm tư ấy, ông Obama đã tới yết kiến Đức Bênêđíctô XVI tại Vatican. Trong lịch sử liên hệ giữa Vatican và Hoa Thịnh Đốn, đây là lần thứ 26 một vị giáo hoàng đích thân nói truyện với một tổng thống Mỹ. Cuộc gặp gỡ lần đầu diễn ra giữa tổng thống Woodrow Wilson và Đức Bênêđíctô XV vào năm 1919, sau khi Thế Chiến I kết thúc. Phải bốn thập niên sau, mới lại có cuộc gặp mặt thứ hai diễn ra giữa Tổng Thống Dwight D. Eisenhower và Đức Gioan XXIII năm 1959. Trong tất cả 26 lần gặp gỡ ấy, 17 lần diễn ra tại Vatican và phần lớn xẩy ra dưới thời Đức Gioan Phaolô II.

Cho đến những năm gần đây, liên hệ chính trị giữa hai bên là một liên hệ không thoải mái. Thực ra, các liên hệ này chỉ mới có cách nay một phần tư thế kỷ. Trước đó, không hề có một tiếp xúc chính thức nào kể từ năm 1870 (năm các lãnh thổ giáo hoàng bị mất) tới năm 1939, là năm Tổng Thống Franklin Roosevelt đề cử Myron Taylor làm đặc sứ tới Vatican. Bởi thế, hình ảnh một tổng thống Mỹ hớn hở và kính trọng chào đón đức giáo hoàng khiến người ta rất đỗi hân hoan.

Không biết ông Obama có hân hoan hay không, nhưng theo Hiệp Sĩ Tối Cao Carl Anderson, ông hẳn gặt hái được nhiều trong chiến dịch đi tìm cơ sở chung cho những cải tổ gay go của ông đối với vấn đề sức khỏe nói chung của dân Mỹ, trong đó có các vấn đề liên quan tới sự sống.

Về vấn đề này, nếu ông sẵn sàng lắng nghe, chắc chắn ông sẽ không thất vọng, vì theo bản tin Zenit, Đức Giáo Hoàng đã nói nhiều với ông về các vấn đề phá thai, bảo vệ lương tâm và đạo đức sinh học. Bản thông cáo chung do Vatican công bố cũng đã chính thức ghi nhận điều đó: “cuộc đàm thoại trước nhất nhằm tới các vấn đề đang được mọi người quan tâm và hiện đang tạo thành mối thách thức lớn cho tương lai mọi quốc gia và cho tiến bộ thực sự của mọi dân tộc, như việc bảo vệ sự sống và quyền mọi người được theo lương tâm của mình”. Sau đó, cuộc đàm thoại mới quay sang các vấn đề khác như di dân, chính trị quốc tế và tầm quan trọng phải dạy người trẻ biết giá trị của khoan dung.

Như để Obama khỏi “nghe tai này quên tai kia”, Đức Giáo Hoàng tặng ông bản thông điệp “Đức Ái Trong Sự Thật” vừa được ngài công bố kèm theo thư năm 2009 của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin về “Phẩm Giá Con Người” (Dignitas Personae) đặc biệt đề cập tới vấn đề đạo đức sinh học.

Theo cha Lombardi, phát ngôn viên Tòa Thánh, lá thư năm 2009 của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin hết sức có ý nghĩa. Vì hiện nay, tại Mỹ, đang có cuộc tranh luận lớn về giá trị nền tảng của sự sống con người và trong vấn đề này, quan điểm của của Giáo Hội và nền chính trị của ông Obama đang có nhiều dị biệt, đôi khi rất lớn. Tuy nhiên, cha cho hay, Obama xác nhận rằng “cùng với cam kết của cả chính phủ, ông có ý định giảm thiểu bao nhiêu có thể con số các vụ phá thai”.

Trong những ngày tới, hy vọng “ý định” của ông sẽ được thể hiện qua nhiều kết quả tích cực và cụ thể. Dù sao, như Hiệp Sĩ Tối Cao, Carl Anderson, đã nhận xét, Obama đã “biểu lộ được một nhậy cảm đối với sự đồng thuận càng ngày càng lớn mạnh giữa nhân dân Hoa Kỳ nhằm ủng hộ quyền sống, hạn chế phá thai, và bảo vệ lương tâm”. Theo Hiệp Sĩ Tối Cao, năm điều sau đây phải được dùng để đo thiện chí của Obama trong những ngày sắp tới

Thứ nhất, bảo đảm phải có điều luật liên bang nhằm bảo vệ quyền lương tâm của các định chế và nhân viên Công Giáo. Thứ hai, luật lệ về chăm sóc sức khỏe không được hợp pháp hóa cửa sau cho phá thai. Thứ ba phải có các chương trình giảm thiểu con số phá thai bằng cách giúp đỡ các vụ thai nghén gặp khủng hoảng, theo chiều hướng phò sự sống, cũng như các chương trình khuyến khích thanh thiếu niên tiết dục. Thứ bốn, phải duy trì các phụ khoản phò sự sống (pro-life riders) hiện có trong dự luật chuẩn chi hàng năm. Theo Anderson, những phụ khoản nhằm hạn chế việc tài trợ của liên bang đối với phá thai này cũng có nói tới các vấn đề bảo vệ lương tâm; loại bỏ chúng là bắt người chịu thuế phải trả tiền cho các vụ phá thai, ngược với lương tâm của họ. Sau cùng, phải hủy bỏ ý định điển chế hóa sắc lệnh tổng thống đối với việc bác bỏ Chính Sách Mexico City là chính sách cấm dùng tiền liên bang tài trợ các chương trình phá thai ở ngoại quốc.

Trong việc này, không biết những người Dân Chủ Công Giáo mới trên đây có đóng góp được gì tích cực hay không?
 
Đức Thánh Cha xót thương 168 nạn nhân vụ rớt máy bay
Bùi Hữu Thư
22:07 16/07/2009
VATICAN, ngày 16, tháng 7, 2009 (Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI bầy tỏ lòng thương cảm về vụ máy bay rớt tại Iran làm cho 168 người trên phi cơ bị thiệt mạng.

Đức Thánh Cha khẳng định điều này trong một điện tín gửi qua Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tarcisio Bertone, sau khi được tin ngày thứ tư về “thảm kịch trên không phận Jannat Abad gần Qazvin."

Chiếc phi cơ Nga, kiểu Tupolev Tu-154, đang bay từ Tehran, Iran, tới Yerevan, thủ đô Armenia, đã bốc cháy 16 phút sau khi cất cánh.

Chuyến bay của hãng Hàng Không Caspian đâm xuống một cánh đồng và nổ tung, làm cho các mảnh vụn văng xa tới 70 thước.

Đức Thánh Cha gửi lời “phân ưu chân thành tới các chức quyền dân sự và gia đình các nạn nhân."

Điện tín viết bằng tiếng Anh, được gửi cho Tổng Giám Mục Jean-Paul Gobel, Khâm Sứ Tòa Thánh tại Iran, nói rằng Đức Thánh Cha “cầu nguyện cho sự yên nghỉ ngàn thu của các nạn nhân và cầu xin Thiên Chúa Cao Cả và Hay Thương Xót an ủi và ban sức mạnh cho những ai đang khóc thương các người thân yêu đã thiệt mạng."

Đa số hành khách đều là người Iran, nhiều người thuộc cộng đồng thiểu số Armenian.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Khóa Ca Trưởng II tại Tổng giáo phận Hà Nội
Gioan Đình Sơn
18:16 16/07/2009
HÀ NỘI - Vào hồi 8 giờ ngày 16 tháng 7 năm 2009, tại hội trường Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội (ĐCVHN) đã diễn ra lễ khai giảng khóa ca trưởng II trong bầu khí vui tươi và thân thiện. Thành phần tham dự có quý cha trong giáo phận, quý thầy đại chủng sinh, quý sơ Dòng Mến Thánh Giá và Phaolô Hà Nội cùng đông đảo anh chị ca trưởng đến từ các xứ đạo trong giáo phận nhà.

Về phía giảng viên của khóa học có Giáo sư - Nhạc sư Phạm Đức Huyến (trưởng đoàn), cùng các phụ giảng từ Mỹ về phối hợp tổ chức. Cũng nên nói thêm về nhạc sư Phạm Đức Huyến, là một trong số những học trò ưu tú, đồng thời ông cũng là cháu ruột của nhạc sư Hải Linh. Ông sang Mỹ định cư từ năm 1990. Trong suốt thời gian này ông liên tục mở những lớp ca trưởng để hướng dẫn cho những anh chị ca trưởng khắp nơi trên thế giới, đây là lớp thứ 99 mà ông đứng ra tổ chức và giảng dạy. Lớp học lần này cũng là nhã ý của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, ngài muốn thúc đẩy và kiện toàn nền thánh nhạc của giáo phận, đặc biệt là dịp hè.

Trong diễn từ khai mạc, Cha Giuse Maria Vũ Thanh Cảnh, trưởng ban thánh nhạc tổng giáo phận khẳng định: Vai trò của âm nhạc trong đời sống con người là thiết yếu, nó đã và đang xuất hiện trong hầu hết những sinh hoạt của chúng ta. Trong những nghi thức tôn giáo thì âm nhạc lại càng quan trọng hơn, Thánh Augustino nói: Hát hay là hai lần cầu nguyện. Điều đó nói lên tầm mức quan trọng của lời ca tiếng hát trong các nghi thức cử hành Phụng vụ.

Như vậy, vai trò của người ca trưởng thật quan trọng. Như thánh nhân nói thì hát hay, hát bằng chính con tim là giúp được cộng đoàn cầu nguyện, nhưng để được như vậy thì người ca trưởng phải là người biết cầu nguyện trước tiên. Để trở thành người ca trưởng đã khó, nay muốn trở thành người ca trưởng công giáo càng khó hơn. Điều đòi hỏi nơi các ca trường công giáo là trình độ, tâm tình và đạo đức, nhạc sư Phạm Đức Huyến nói.

Kết thúc bài phát biểu của mình, ông nói: Cho dù trình độ hay tinh thần phục vụ thế nào chăng nữa thì lí tưởng cao cả nhất của việc chúng ta học thánh ca là để phục vụ Thiên Chúa.

Sau bài phát biểu của nhạc sư, bài ca “Tình gia đình” được cất lên để khép lại lễ khai mạc nhưng mở ra một tuần làm việc miệt mài của thầy và trò trong khóa ca trưởng II (từ ngày 16 đến ngày 22 tháng 7 năm 2009). Nguyện Chúa Thánh Thần thêm sức để những nốt nhạc chúng ta xướng lên sẽ là những nốt nhạc tình yêu, nốt nhạc của lòng cảm mến tri ân Thiên Chúa qua Đức Tổng Giám Mục Giuse và Ban giảng huấn.
 
Giáo xứ Đăng Cao theo Mẹ lên Núi Thánh Carmêlô
Hoàn Nguyên
18:31 16/07/2009
VINH - Theo quan niệm của Kinh Thánh, núi là biểu tượng của Chúa, là nơi Thiên Chúa hiện diện. Trải dài hơn 360 năm kể từ ngày hạt giống đức tin được gieo vào đây, theo tương truyền như thế, giáo xứ Đăng Cao đang từng bước theo mẹ Maria tiến lên Núi Thánh.

Xem hình ảnh

Vùng đất cổ kính niềm tin

Không một chút chần chừ nghi ngại, tuy không biết rõ vào thời Thừa sai nào, nhưng ông Trùm giáo họ Đăng Cao, năm nay vào độ lục tuần, trả lời khi tôi hỏi: vào năm 1647 nơi đây đã có người theo đạo. Tôi nói: “Nếu như thế là liền sau thời nhà truyền giáo Đắc Lộ”. Ong nói ngay: “Đúng, các cố nói như thế!”.

Thời điểm mà vùng đất Đăng Cao này được đón nhận hạt giống Tin Mừng có đúng như ông Trùm nói không thì chưa thể xác định được. Nhưng rõ ràng nơi đây đã có một truyền thống đức tin mạnh mẽ, nhất là lòng sùng kính Đức Maria.

Không biết từ lúc nào nơi đây đã có một sự tôn kính Đức Mẹ núi Camêlô hay Đức Mẹ Núi Cát Minh. Các linh mục cao niên trong giáo phận kể rằng, trước đây, mỗi ngày lễ Đức Mẹ Camêlô, thì Hội Con Đức Mẹ Camêlô hay Hội Ao Đức Bà Camêlô trong giáo phận và cả ngoài giáo phận, nhất là vùng Thanh Hóa, hành hương về đây rất đông. Hẳn là phải có một truyền thống nào đó, nên sau khi ngôi thánh đường được hoàn thành và cung hiến vào năm 2007, Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên đã đặt nơi đây làm Đền Thánh Đức Mẹ Camêlô.

Lễ hội Đức Mẹ Camêlô năm 2009

Trong những năm gần đây, mỗi lần ngày lễ Đức Mẹ Núi Camêlô về là nhiều người gần xa, nhất là những người đã từng vào Hội Ao Đức Bà trước đây, hành hương về Đền Thánh Đức Mẹ Camêlô tại giáo họ trị sở của giáo xứ Đăng Cao, thậm chí nhiều người còn về đây từ chiều hôm trước (15.7). Hai năm trở lại đây, các tín hữu về Đền Thánh này từ chiều hôm trước càng đông hơn, do buổi chiều hôm đó có lễ kỷ niệm Cung hiến Đền Thánh và tối đến thường có diễn nguyện thánh ca hay rước kiệu Đức Mẹ. Năm nay, sau Thánh lễ chiều vào lúc 17giờ, tối đến, vào lúc 20giờ, có nghi thức cung nghinh tượng Đức Mẹ Núi Camêlô từ họ Kim Loan về Đền Thánh, dài gần 2 km. Và khi về Đền Thánh thì có phần dâng hoa kính Đức Mẹ.

Riêng phụng vụ ngày chính lễ 16.07.2009, được diễn ra vào lúc 7giờ. Toàn bộ giáo xứ Đăng Cao với ba họ (Đăng Cao, Kim Loan và Đông Yên) với 1208 tín hữu, trong khi đó số người phải lo công tác ngày lễ đã mất nhiều, thế nhưng do có các đoàn thể từ xứ mẹ Phú Vinh và một số nơi khác về nên đoàn rước với trang phục đủ sắc màu vẫn nối đuôi nhau.

Trước sự hiện diện của 20 linh mục, đông đảo tu sĩ, chủng sinh và giáo dân, cha Phanxicô Võ Thanh Tâm, Tổng Đại diện giáo phận Vinh nói rằng: Đức Mẹ vì yêu chúng ta nên đã chuẩn bị và giúp đỡ cho chúng ta chống lại ba thù bằng một phương tiện hữu hiệu, đó là Ao Đức Bà. Cha Tổng Đại diện nhắc lại lời Đức Mẹ hứa thánh Simon Stock vào ngày 16.7.1251 trên núi Camêlô: “Ai mang áo này, Mẹ sẽ ban cho ơn sám hối trong giờ sau hết. Mẹ sẽ chăm sóc họ trên đường dương thế cho đến khi đạt tới hạnh phúc quê trời.” Rồi cha mời gọi cách thiết thực: “Như thế, những ai yêu mến Đức Mẹ thì phải nghe lời Đức Mẹ. Lời Đức Mẹ là mời gọi loài người hãy cải tà quy chính để trở nên hoàn thiện như Cha trên trời. Phải công chính và nhân từ như Thiên Chúa chốn trời cao”.

Nếu như thông điệp đó gửi tới mọi người hiện diện trong Thánh lễ, thì càng nhắm tới giáo xứ Đăng Cao hơn. Bởi hơn ai hết, cộng đoàn nơi đây đã chọn Đức Mẹ Camêlô làm Quan Thầy, được vinh dự sống bên cạnh trung tâm Đền Thánh kính Đức Mẹ trong giáo phận.

Đón nhận lời mời gọi đó để thay đổi cuộc sống, để nên giống Chúa, thì chẳng khác gì họ đang từng bước tiến về Núi Thánh, bởi như đã nói núi là biểu tượng của Thiên Chúa: “Chúa là núi đá cho con nương ẩn” (Tv 143,1). Núi còn là nơi Thiên Chúa tỏ mình ra (x. Xh 3, 1-20; 24, 3-8; 1V 19, 4-15…).

Hẳn là các tín hữu nơi đây sẽ tiếp tục có những bước dài để tiến về Núi Thánh, bởi họ luôn có Đức Mẹ đồng hành. Nhớ lại những ngày tháng gian nan thời xa xưa, khi họ đã từng chạy tìm sự nương ẩn nơi Đồn Tây, là vị trí xóm đạo Đăng Cao hiện nay, để tránh sự bách hại về niềm tin, thì nay trong thời hòa bình, không lẽ gì họ lại không thể hiện đời sống của người con cái Cha trên trời. Càng nên giống Cha trên trời, như cha Tổng Đại diện nói, là họ càng thể hiện lòng yêu mến Đức Mẹ, càng cùng Mẹ tiến gần về Núi Thánh.
 
Giáo phận Phan Thiết có thêm 6 Phó Tế
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
18:39 16/07/2009
PHAN THIẾT - Hôm nay 16.7.2009, Giáo Phận Phan Thiết tổ chức lễ phong chức 6 Thầy Phó Tế tại Nhà thờ Chính toà. Có 5 Thầy tốt nghiệp khóa VIII Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài gòn: Giuse Nguyễn Công Hoàng, Antôn Nguyễn Thế Học, Phêrô Đào Thanh Khánh, Phêrô Vũ Nhật Trí, Tađêô Nguyễn Quang Trung, và Thầy Giuse Phạm Xuân Mạo, tốt nghiệp Học viện Đaminh Sài gòn.

Đức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan đồng tế thánh lễ với Đức Ông GB Tổng đại Diện, cha Giám đốc Chủng viện Thánh Nicola, các cha Giáo sư Đại chủng viện Sài gòn, khoảng 70 Linh mục trong và ngoài giáo phận. Đông đảo chủng sinh, tu sĩ nam nữ, thân nhân và cộng đoàn Dân Chúa chung lời cầu nguyện.

Trong bài giảng huấn, Đức cha Phaolô nói đến tác vụ các phó tế.

Anh chị em thân mến, vì những người sắp được gọi lên chức phó tế là con cái chúng tôi và là thân nhân bạn hữu của anh chị em, xin anh chị em hãy chú ý suy nghĩ xem họ sắp bước lên bậc như thế nào trong thừa tác vụ. Được dũng mạnh nhờ ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ giúp Giám mục và hàng linh mục của ngài, đồng thời tỏ mình là tôi tớ mọi người trong thừa tác vụ Lời Chúa, bàn thờ và bác ái. Họ sẽ là thừa tác viên phục vụ bàn thờ, loan báo Phúc Âm, chuẩn bị tế lễ, trao Mình và Máu Chúa cho tín hữu. Ngoài ra theo lệnh Giám mục, họ sẽ khuyên bảo lương dân cũng như tín hữu, dạy giáo lý, chủ toạ kinh nguyện, ban phép Thánh tẩy, chứng hôn và chúc lành cho hôn phối, đem của ăn đàng cho người hấp hối, chủ sự các nghi thức an táng.

Qua việc đặt tay từ thời các Tông đồ truyền lại, họ được thánh hiến và liên kết chặt chẽ hơn với bàn thờ, sẽ nhân danh Giám mục hay các linh mục quản xứ chu toàn thừa tác vụ bác ái. Nhờ ơn Chúa giúp, họ hãy làm mọi công việc ấy, để anh chị em biết rằng họ thật sự là môn đệ của Đấng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ.

Đức cha huấn đức các Thầy như sau: Còn các con thân mến, các con sắp lên chức phó tế, Chúa đã nêu gương để các con làm theo như Người đã làm. Vậy, phó tế là những thừa tác viên của Đức Giêsu Kitô, Đấng ở giữa các môn đệ như người phục vụ, các con hết lòng làm theo ý Thiên Chúa trong lòng mến, các con hân hoan phục vụ Chúa thế nào thì hãy hân hoan phục vụ tha nhân như thế. Vì không ai có thể làm tôi hai chủ, nên các con hãy coi mọi đam mê xác thịt và tiền tài là ách nô lệ tà thần.

Vì các con tự nguyện tiến lên chức phó tế, các con phải là những người có tiếng tốt, đầy khôn ngoan và Thánh Thần, giống như những người ngày xưa các Tông đồ tuyển chọn để thi hành thừa tác vụ bác ái. Các con sẽ thi hành thừa tác vụ của các con trong bậc độc thân. Vì chưng, đó vừa là dấu chỉ vừa là động lực của bác ái mục vụ, đồng thời cũng là nguồn mạch phát sinh nhiều hoa trái thế gian. Bởi vì khi được lòng mến chân thành đối với Đức Kitô thúc đẩy, và sống đạo đức hoàn hảo trong bậc này, các con sẽ gắn bó dễ dàng hơn với Đức Kitô bằng một con tim không chia sẻ, sẽ được tự do để phục vụ Thiên Chúa và con người, sẽ thuận lợi hơn trong việc giúp người ta được tái sinh.

Được bén rễ sâu trong đức tin, các con hãy ăn ở trong sạch và không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa và người đời, là điều phù hợp với các thừa tác viên của Đức Kitô và với các người ban phát những mầu nhiệm Thiên Chúa. Các con đừng để mất tin cậy vào Phúc Âm, vì các con không phải chỉ là những người nghe, mà còn phải là thừa tác viên của Phúc Âm. Gìn giữ mầu nhiệm đức tin trong lương tâm ngay thẳng, các con hãy minh chứng bằng việc làm Lời Chúa mà các con rao giảng bằng miệng, để dân Kitô hữu được Chúa Thánh Thần làm cho sống, trở nên của lễ tinh tuyền được Chúa chấp nhận. Và tới ngày thế mạt, khi ra đón Chúa, các con có thể nghe Người phán: “Hỡi tôi tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng vui mừng với Chúa của ngươi”.

Lãnh nhận chức thánh Phó tế, các Thầy tiếp tục đi giúp xứ, thi hành tác vụ để chuẩn bị tiến tới chức thánh Linh mục.

Xin cho các thầy được dồi dào các nhân đức Phúc Âm: chân thành yêu thương, lo cho người bệnh và người nghèo, khiêm tốn thi hành quyền bính, sống đời trong sạch, tuân giữ kỷ luật đời sống thiêng liêng. Xin cho nếp sống các Thầy chiếu giãi luật Chúa, để nhờ làm gương về cách ăn nết ở, các Thầy được dân thánh noi theo. Và khi nêu bằng chứng lương tâm tốt lành, các thầy được kiên trì và vững mạnh trong Đức Kitô cũng như ở trần gian, noi gương Đức Kitô là Đấng không đến để được phục vụ nhưng để phục vụ.(Lời nguyện phong chức).

Khởi đầu Năm Linh Mục, các Thầy Phó tế là món quà quý nhất Chúa ban cho Giáo phận. Cầu chúc các Thầy sẽ trở nên những linh mục đạo đức thánh thiện.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Công an Huyện Thống Nhất tiếp tục sách nhiều giáo dân ở Gia Kiệm
CTV CSsR
20:56 16/07/2009
GIA KIỆM - Như tin đã đưa, ngày 13/07/2009 anh Nguyễn Văn Long nhận được giấy mời của công an huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai với nội dung cụt lủn là để “làm việc”. Theo giấy mời này, bộ phận gặp anh là “đội an ninh nhân dân” của công an huyện.

Nguyên nhân sự việc bắt đầu từ khi anh Long xây tượng đài Đức Mẹ La Vang trong vườn nhà mình, một việc làm bình thường của người giáo dân khu vực xóm Đạo Dốc Mơ, Gia Kiệm và qui định của pháp luật cũng không hề có điều khoản nào cấm cản. Nhà anh Long ở cách rất xa đường quốc lộ, con đường vào nhà anh chưa được trải nhựa nên rất khó đi, nhất là vào mùa mưa. Hai bên đường đi người dân trồng rất nhiều chuối và các loại hoa màu khác.

Anh Long vừa xây xong các trụ thiên bằng xi măng thì ông Nguyễn Quang, chủ tịch xã Gia Kiệm đã liên tục sách nhiễu anh, chửi bới và yêu cầu anh phải đập các trụ thiên này.

Tuy nhiên, nhận thấy sự phi lý trong những việc làm của ông chủ tịch xã và công an xã, công an huyện, anh Long đã kể chuyện này cho nhiều người biết và rất nhiều người dân trong khu vực anh ở đều biết việc này. Sự việc được phản ánh trên các phương tiện truyền thông nhiều chiều. Điều này làm cho ông chủ tịch xã Gia Kiệm (Nguyễn Quang) tức tối nên ông đã quyết định trả thù bằng cách kêu gọi, lôi kéo công an huyện vào áp đảo tinh thần anh Long và gia đình.

Ngày 13/7/2009 trưởng công an huyện Thống Nhất, thượng tá Ngô Văn Chiến, đã ký giấy mời anh Long đến “làm việc” vào lúc 8g00 ngày hôm sau 14/7/2009. Nhận thấy giấy mời này không liên quan đến mình, vì anh chẳng làm gì ảnh hưởng đến “an ninh nhân dân” và vì giấy mời của thượng tá Chiến không tôn trọng người dân khi chỉ đưa ra một lý do cụt ngủn là “làm việc” nên anh Long đã không ra công an huyện. Có lẽ các cán bộ huyện Thống Nhất đã quen với lối làm việc cửa quyền, hống hách, trịch thượng nên chỉ cần viết giấy mời như thế là buộc người dân phải đến.

Vẫn thói nào tật nấy, công an huyện lại tiếp tục sách nhiễu giáo dân. Ngày 15/7/2009 thượng tá Trần Sỹ Huỳnh đã gửi tiếp giấy mời lần 2 cho anh Long ra “làm việc”.

Không biết sự việc sẽ tiếp diễn ra sao trước hành động sách nhiễu giáo dân của chính quyền huyện Thống Nhất. Không biết đến bao giờ các “đầy tớ của nhân dân” kia mới biết tôn trọng người dân khi làm việc. Tại sao công an huyện Thống Nhất không dám viết rõ lý do mời anh Long? Phải chăng có điều gì khuất tất trong việc này!!! Chẳng lẽ dựng tượng trong vườn nhà mình mà lại ảnh hưởng đến “an ninh nhân dân” hay sao mà “đội an ninh nhân dân” được phô bày ra để đe doạ giáo dân?...

Mới đây, có một người khi khám bệnh bị phát hiện nhiễm virus cúm heo (H1N1). Lập tức gia đình anh ta bị công an đến bao vây, làm việc để điều tra nguyên nhân phát bệnh và cách ly để phòng bệnh cho những người chưa bị nhiễm! Việc này chẳng phải là việc của các chuyên viên y tế hay sao, hà cớ gì lại đưa công an đến để ra oai? Công an thì hiểu biết gì về lãnh vực y tế? Hay đây là thói quen thâm căn cố đế của nhà cầm quyền địa phương, hễ động một tí là đưa công an tới để muốn làm gì thì làm?...

Vụ việc ở Gia Kiệm hình như cũng đang diễn ra theo kiểu này.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giáo hội Việt Nam đã phát triển thế nào qua 477 năm lịch sử truyền giáo của mình, 1533-2010 ?
Trần Văn Cảnh
06:40 16/07/2009
Giáo hội Việt Nam đã phát triển thế nào qua 477 năm lịch sử truyền giáo của mình, 1533-2010 ?

Bài nói chuyện với các linh mục và tu sĩ Việt Nam
Ngày thứ ba, 30.06.2009
Trong Đại Hội VIII, của Hội Liên Tu sĩ Việt Nam tại Pháp
từ 29/06 đến 01/07/2009, tại GXVN Paris


Kính thưa quí cha, quí sư huynh và quí sơ,

Mở đầu bản « ĐỀ CƯƠNG GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM MẦU NHIỆM – HIỆP THÔNG – SỨ VỤ » phổ biến hồi tháng 10.2008 vừa qua, Ban Tổ chức NĂM THÁNH 2010 của HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM đã viết: « Giáo Hội tại Việt Nam không ngừng hát vang điệp khúc “Hãy cảm tạ Thiên Chúa vì Chúa nhân từ; muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136), đặc biệt trong thời gian cử hành Năm thánh kỷ niệm 50 năm thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam. Trong lời ca dâng lên từ đáy thẳm tâm hồn, các môn đệ của Đức Kitô trên cả đất nước Việt Nam muốn hoà chung lời tạ ơn, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa đã ban cho mình được phúc nhận biết Ngài và cả hồng phúc được chịu khổ vì Ngài (x.1 Pr 3, 14; 4, 13-14; 1 Tx 1, 6)....
Giáo Hội trên đất nước này đã từng ngày lớn lên trong nguồn ơn thánh và có thể nói là đã vươn tới sự trưởng thành với hàng Giáo phẩm Việt Nam được thành lập năm 1960 » (1).
Như vậy, lời cảm nhận đầu tiên mà Ban Chuẩn Bị Năm Thánh của HĐGMVN đã muốn gởi đến các tín hữu việt nam trong dịp chuẩn bị và cử hành Năm Thánh 2010 là « Hãy cảm tạ Thiên Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương ». Yêu thương cụ thể mà Chúa đã dành cho GHVN là đã cho nó « từng ngày lớn lên trong nguồn ơn thánh và có thể nói là đã vươn tới sự trưởng thành ».
Cảm nhận này cũng là cảm nhận của cha Nguyễn Đình Thắng, chủ tịch Hội Liên Tu sĩ Việt Nam tại Pháp, khi ngài ngỏ lời mời tôi gợi ý cho các thành viên của hội trong dịp Đại Hội lần thứ VIII năm 2009 này, về đề tài « Giáo hội việt nam đã phát triển thế nào qua 477 năm lịch sử truyền giáo của mình, 1533-2010 » ?
Xin mời quí cha, quí sư huynh và quí sơ, chúng ta cùng nhau chuẩn bị Năm Thánh 2010 bằng cách đi một vòng về thăm GHVN, theo hướng của 3 mục đích mà HĐGMVN đã đề ra cho Năm Thánh 2010:
• trước nhất, nhìn lại quãng đường lịch sử truyền giáo của GHVN, 1533-2010 (2);
• rồi, từ đó, nêu ra những dữ kiện nổi bật, chứng tỏ sự « lớn lên và trưởng thành » truyền giáo của GHVN và đặc biệt là của hàng giáo sĩ và tu sĩ (3);
• và sau cùng, trong phần thảo luận nhóm, nhìn tới tương lai truyền giáo của một Giáo Hội Mầu nhiệm - Hiệp thông - Sứ vụ (4).


I. Lịch sử truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam, 1533-2010

Nội qui cử hành Năm Thánh 2010 đã xác định 3 mục đích của Năm Thánh. Mục đích thứ nhất là: « Việc cử hành Năm Thánh 2010 nhằm nhìn lại quãng đường lịch sử gần 500 năm truyền giáo qua 3 thời kỳ: 126 năm Bảo Hộ (1533-1659), 300 năm Tông Toà (1659-1960), đặc biệt là 50 năm Chánh Toà (1960-2010). Nhìn lại lịch sử nhằm mời gọi cộng đồng Dân Chúa Việt Nam cùng chung lòng tạ ơn Chúa đã thương ban cho Dân Người được hình thành, tồn tại và phát triển qua những thăng trầm của lịch sử, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn đối với Toà Thánh và các bậc tiền nhân đã góp phần tích cực vào việc loan Tin Mừng và xây dựng Giáo Hội trên đất nước Việt Nam » (5). Những gì đã xẩy ra trong ba thời kỳ của đường lịch sử truyền giáo Việt Nam ?

Thời kỳ BẢO TRỢ, 1533-1659: tiếp nhận Tin Mừng để xây nền Giáo Hội
Thời kỳ Bảo trợ trải dài trên hai giai đoạn lịch sử việt nam: giai đoạn Nam Bắc Triều Lê Mạc (1527-1592) và một phần giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh (1570-1786). Ba sự kiện quan trọng đáng ghi nhớ về thời kỳ Bảo Trợ Truyền Giáo:

1. Thế kỷ XVI, Công giáo vào Việt Nam và thành lập bốn cộng đoàn đầu tiên. Trong thế kỷ XVI, lịch sử Việt Nam loạn lạc với những tranh chấp giữa nhà Mạc và nhà Lê (1527-1592). Bắc triều nhà Mạc, cũng như Nam triều nhà Lê đều mời đón người Âu châu vào buôn bán với mình. Làm tuyên úy cho các thương thuyền người Âu, các giáo sĩ theo thương gia người Âu bắt đầu đền và truyền giáo ở Việt Nam. Năm 1533, Theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, vào tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ I (1533), một người Âu Châu tên là Inêkhu đến truyền giáo ở làng Ninh Cường, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ thuộc giáo phận Bùi Chu, tỉnh Nam Định ngày nay (6). Địa điểm thứ hai đã được tiếp nhận Tin Mừng là Thanh Hóa, với việc tòng giáo của công tử Đỗ Hưng Viễn, con quan đại thần triều Lê trung hưng, vào khoảng những năm 1560-1570, rồi với việc đến Việt Nam truyền đạo của hai cha triều Alphonso de Costa và Juan Gonsalves vào năm 1590 và rửa tội cho công chúa Mai Hoa. Cũng trong thế kỷ XVI, địa điểm thứ ba đã được đón Tin Mừng là Quảng Nam - Thuận Hóa, với việc hai linh mục dòng Daminh là cha Luis de Fonseca và Grégoire de la Motte đến Quảng Nam năm 1580-1586, và sau đó, việc ba nhà truyền giáo khác dòng Đa Minh, là cha Alfonso Jímenez, cha Diego và thầy trợ sĩ Juan Bautista Deza đến Cửa Hàn vào năm 1595 và đã khuyên được 2 tù nhân bị án tử hình ở Thuận Hóa theo đạo và an táng theo lễ nghi công giáo. Địa điểm thứ bốn được đón tin mừng là Thăng Long. Theo lời mời của Mạc Mậu Hợp, một phái đoàn các cha dòng Phanxicõ, gồm 4 linh mục là D. Operosa, B. Ruiz, P. Ortis, Fr. Montila và 4 thầy trợ sĩ cập bến An Quảng (Quảng Yên), ngày 01.05.1583. Nhưng khi vừa rời bến để lên Thăng Long, thì tầu bị bão đánh dạt sang đảo Hải Nam. Hai năm sau, cha Ruiz, đã 61 tuổi, trở lại được Thăng Long, được vua tôi Nhà Mạc đối xử tử tế và được tự do giảng đạo, nhưng không có ai theo đạo. Ngài chỉ rửa tội được cho một em bé sắp chết.

2. Thế kỷ XVII, Công giáo hội nhập vào xã hội việt nam và thành lập nhiều cộng đoàn khác. Sang thế kỷ XVII, với phân tranh Trịnh Nguyễn (1570-1786), xã hội Việt Nam vẫn còn loạn lạc với bảy trận đánh Bắc Nam: 1627, 1630, 1635, 1648, 1655, 1661, và 1672. Chúa Trịnh cũng như chúa Nguyễn, ai cũng muốn tiếp xúc với người Âu Châu để võ trang cho mình. Tiếp nối công việc tìm đường truyền giáo của các cha Đaminh và Phanxicô đã thực hiện trong thế kỷ XVI, sang thế kỷ XVII, các cha dòng Tên đã đến gieo vãi Tin Mừng rộng rãi hơn trên khắp các miền Việt Nam. Từ năm 1615 đến 1643 ở Đàng Trong và từ năm 1627 đến 1663 ở Đàng Ngoài, trên dưới 30 thừa sai dòng Tên đã đến truyền giáo ở Việt Nam. Nhiều vị giảng đạo bằng tiếng việt. Và tầt cả đều thích ứng Tin Mừng vào phong tục việt nam. Đây là cử chỉ hội nhập văn hoá đầu tiên. Nhờ vậy, hạt giống Tin Mừng đã được dễ dàng đón nhận: nhiều cộng đoàn khác đã được thành lập. Ở Đàng trong, cha François Buzomi và các đồng bạn đã mang Tin Mừng đến 5 cộng đoàn: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Thuận Hóa. Ở Đàng Ngoài, cha Đắc Lộ và đồng bạn đã mang tin mừng đến 7 cộng đoàn: Thanh Hóa, Nghệ An, Thăng long, Kẻ Bắc, Kẻ Đông, Kẻ Nam, Kẻ Tây.

3. Công giáo đã khai sinh ra chữ quốc ngữ cho văn học việt nam. Để loan báo Tin Mừng, tất cả các linh mục dòng Tên đến Việt Nam, đều đã học tiếng Việt. Nhiều vị rất thông thạo. Cha Francois de Pina là người ngoại quốc thứ nhất rất thông thạo tiếng việt, người thứ nhất giảng mà không cần thông dịch viên. Cha Gaspar d’Amaral đã sáng tác từ điển Việt Bồ và cha Antonio Barbosa đã sáng tác từ điển Bồ Việt. Cả ba đều là người Bồ. Và cha Đắc Lộ đã sáng tác và cho in, năm 1651, hai tác phẩm quốc ngũ đầu tiên: cuốn Tự điển việt bồ latinh và cuốn giáo lý công giáo Phép giảng tám ngày.
Vào năm 1659, Giáo Hội Việt Nam, chưa có giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh, nhưng có khoảng 100.000 tín hữu. 20.000 trong Nam; 80.000 ngoài Bắc (7), qui tụ quanh 340 nhà thờ (8). Cùng với các thừa sai khác, cha Đắc Lộ đã khai sinh ra Chữ Quốc Ngữ. Như vậy, cho thời kỳ 126 năm Bảo Trợ (1533-1659), ba sự việc quan trọng đã được thực hiện: 1- Công Giáo vào Việt Nam và 12 cộng đoàn đầu tiên đã đón nhận Tin Mừng, 2- Công Giáo hội nhập vào xã hội Việt Nam, 3- Công giáo khai sinh chữ quốc ngữ và văn học công giáo việt nam.

Thời kỳ TÔNG TÒA, 1659-1960: xây nền để phát triển Giáo Hội
Thời kỳ Tông Tòa trải dài trên 5 giai đoạn lịch sử việt nam: Trịnh Nguyễn phân tranh (1570-1786), Tây Sơn (1786-1802), Nhà Nguyễn (1802-1884), Bảo hộ Pháp (1884-1954), Quốc Cộng Nam Bắc (1954-1975). Ba việc đã được mở đầu ở thời Bảo Trợ vẫn được tiếp tục thực hiện, thêm vào đó, bốn việc quan trọng đáng ghi nhớ khác đã được thực hiện trong thời kỳ Tông Tòa này:

4. Thành lập và tổ chức các giáo phận tông tòa ở Việt Nam. Các cha dòng Tên bị trục xuất khỏi Việt Nam. Cha Đắc Lộ đã về Âu Châu vận động Giáo Hội gởi giám mục đi truyền giáo ở Việt Nam, trong ba năm 1649-1652 ở Rôma và hai năm 1653-1654 ở Paris. Kết quả là ngày 09.09.1659 Ðức Thánh Cha Alexandre VII ban sắc lệnh thiết lập 2 giáo phận truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam: Ðức Cha François Pallu được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Ngoài, thêm quyền cai quản 5 tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc và Tứ Xuyên của Trung Quốc và nước Lào; và Ðức Cha Pierre Lambert de la Motte được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Trong, thêm quyền cai quản các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và Đảo Hải Nam của Trung Quốc và gồm luôn cả Chiêm Thành. Từ đây, ngày 09.09.1659 được coi là ngày mở đầu cho thời kỳ thứ hai trong lịch sử truyền giáo ở Việt Nam: thời kỳ TÔNG TÒA (9).
Hai mươi năm sau, vào năm 1679, Giáo phận Đàng Ngoài (1659) được chia làm hai giáo phận mới: giáo phận Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng) từ sông Hồng ra phía biển với tân Giám mục Deydier và giáo phận Tây Đàng Ngoài Hà Nội, từ sông Hồng đến biên giới Lào, đặt dưới quyền của Giám mục J. de Bourges. Giáo phận thứ ba được thành lập. Thế kỷ XVIII không một địa phận mới nào đã được thành lập. Lý do chính yếu vì những cấm cản, bắt bớ, giết hại đã bắt đầu nghiêm trọng. Sang thế kỷ XIX, 6 giáo phận mới được thiết lập: Sài gòn (1844), Vinh (1846), Bùi Chu (1848), Huế (1850), Bắc Ninh (1883) và Hưng Hóa (1895). Rồi trong đầu thế kỷ XX, 8 giáo phận mới đã được thiết lập: Phát Diệm (1901), Thanh Hóa (1932), Kon Tum (1932), Thái Bình (1936), Vĩnh Long (1938), Lạng Sơn (1939), Cần Thơ (1955) và Nha Trang (1957).

5. Thành lập giới tu sĩ và hàng giáo sĩ việt nam. Một trong những sứ mệnh hàng đầu của hai giám mục tông tòa là đào tạo linh mục bản xứ. Bởi vậy, việc đầu tiên khi mới tới Thái Lan, Đức cha Lambert đã nghĩ đến chuyện lập chủng viện và năm 1666, ngài đã xây cất cơ sở chủng viện thánh Giuse tại Ayuthia. Hai năm sau, năm 1668, Đức cha đã truyền chức linh mục cho hai vị việt nam đầu tiên Ðàng Trong: cha Giuse TRANG và cha Luca BỀN. Vài tháng sau cùng năm 1668 này, Ðức cha cũng đã truyền chức linh mục cho hai vị đến từ Ðàng Ngoài. Ðó là cha Gioan HUỆ và cha Bênêditô HIỀN. Sau đó, trong chuyến kinh lý Đàng Ngoài, Đức cha Lambert đã truyền chức linh mục cho 7 vị khác vào năm 1670. Đó là các cha: Mactinô MÁT(1670-1684), Giacôbê CHIÊU (1670-1683), Philiphê NHÂN (1670-1672), Antôn QUẾ (1670-1685), Simon KIÊN (1670-1684), Lêôn TRỤ (1670-1692), và Vitô TRI (1670-1705). Cũng dịp này, Ðức cha Lambert de la Motte đã ban các chức nhỏ cho 20 vị khác và phép cắt tóc cho khoảng 20 chủng sinh trẻ hơn. Hàng giáo sĩ Việt Nam đã thực sự được thành lập.
Cũng năm này, ngày thứ tư lễ tro, 19.02.1670, Ðức cha nhận lời khấn của 2 nữ tu Mến Thánh Giá đầu tiên. Ðó là chị Agnès và chị Phaolô tại Phố Hiến, trên một chiếc thuyền neo tại sông Hồng, đối diện với làng Bái Vàng. Hai tu viện Mến Thánh Giá đầu tiên đã được thành lập ở xứ Ðàng Ngoài, một ở Kiên Lao, tỉnh Nam Ðịnh, nay thuộc địa phận Bùi Chu, một ở Bái Vàng, tỉnh Hà Nam, nay thuộc địa phận Hà Nội. Dòng Mến Thánh Giá đã được thành lập, mở đầu việc đào tạo tu sĩ tận hiến.

6. Tăng lượng và tăng phẩm giáo hữu. Nhờ đã được đào tạo kỹ lưỡng và có nhiệt tình truyền giáo, các thừa sai hải ngoại Paris đã gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp: số giáo dân tăng trưởng không ngừng. Vào năm 1659, Giáo Hội Việt Nam có 100.000 giáo dân. 300 năm sau, năm 1960, số giáo dân việt nam đã tăng lên 21 lần, đạt con số 2.096.540 tín hữu công giáo.
Nhưng niềm hãnh diện nhất của Giáo Hội Việt Nam là đức tin vững mạnh của tín hữu. Dòng dã trong 5 thế kỷ, từ thế kỷ XVI đến XX, rất nhiều lần giáo dân việt nam bị cấm cản, bắt bớ, giết hại vì đức tin. Dưới thời Trịnh Nguyễn và Tây Sơn, 30.000 tín hữu tử đạo; Dưới thời ba vua nhà Nguyễn Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, 40.000 tín hữu bị giết vì đạo; Và với Phong trào Văn Thân, 60.000 tín hữu đã bị giết hại vì đức tin công giáo. Tổng cộng, 130.000 người tử vì đạo vì xưng và làm chứng cho đức tin.

7. Đóng góp xây dựng văn hóa và xã hội cho Việt Nam. Tiếp nối con đường hội nhập văn hóa mà cha Đắc Lộ đã vạch ra, các cha thừa sai hải ngoại Paris tiếp tục đóng góp rất nhiều vào việc xây dựng và phát triển văn hóa việt nam.
Trong lãnh vực văn học, nhiều sách nghiên cứu về ngôn ngữ việt nam, đặc biệt các tự điển đã được tiếp tục. Tự điển Việt Latinh của Pierre Pigneaux (1772), Latinh Việt của Jean-Louis Taberd (1838), Việt Latinh của Joseph Theurel (1877), Việt Pháp của Jean Génibrel (1898), Tự điển Việt Hoa Pháp của Gustave Hue,… Nhiều sách đạo bằng chữ nôm và chữ quốc ngữ đã được sáng tác, nhiều sách về văn hóa giáo dục bằng chữ quốc ngữ đã được sáng tác (10).
Trong lãnh vực chính trị kinh tế, một sự kiện lịch sử khác, dẫu không thuộc sứ mệnh của giáo hội, nhưng đã được một trong những giám mục thừa sai thực hiện, đó là việc Đức cha Bá Đa Lộc (1741-1799) đã giúp Nguyễn Vương lập nên Nhà Nguyễn và tham chính, làm Đại thần với chức Sư Phó. Ngài đích thân tham gia vào binh đoàn trong cuộc tấn công quân Tây Sơn tiến chiếm và bảo vệ thành Diên Khánh (Nha Trang), 1792-1794 (11).
Trong lãnh vực giáo dục, Nhiều trường đã được thiết lập, mà đầu tiên là các trường chủng viện đào tạo chủng sinh và linh mục đã được thành lập. Cha François Deydier đã lập « chủng viện nổi » ngay năm mới đến Việt Nam, 1666. Tiếp theo đó, nhiều chủng viện khác đã được thành lập: Kiên lao, Kẻ Cốc (1683), Lục Thủy (1686), Kẻ Lò (1697), Lái Thiêu (1789),… Sau đó, là các trường học ngoài đời: tiểu học và trung học. Vào năm 1939, ở Đông Dương, người ta đếm được 1.783 trường công giáo, thâu nhận 121.172 học trò.
Trong lãnh vực xã hội, nhiều cơ sở từ thiện đã được thành lập: trường câm điếc Lái Thiêu lập năm 1866, trại phong Qui Hòa lập năm 1929, …Tiếp theo đó, nhiều cơ sở xã hội khác dần dà đã được giáo hội thành lập, cô nhi viện, bệnh xá, trại cùi, nhà hộ sinh, phòng phát thuốc,…

Kết quả là 300 năm sau, vào năm 1960, Giáo hội Việt Nam có 17 giáo phận, có 130.000 người tử vì đạo, có 23 giám mục, 1.914 linh mục, 5.789 tu sĩ, 1.530 đại và tiểu chủng sinh, có 2.096. 540 tín hữu, trên tổng số 29.200.000 dân, chiếm tỷ số 7.17% dân số (12). Số giáo hữu tăng gấp 21 lần. Giáo Hội, dẫu không ngừng bị bách hại bởi chính quyền, đã tạo ra một nền văn học quốc ngữ mới cho Việt Nam, đã tham gia tích cực vào việc xây dựng và cải tiến văn hóa, giáo dục và xã hội cho Việt Nam.


Thời kỳ CHÍNH TÒA, 1960-2010: phát triển để Giáo Hội trưởng thành
Thời kỳ Chính Tòa, tuy mới bắt đầu chưa được 50 năm, nhưng đã trải dài trên hai giai đoạn lịch sử Việt Nam: Giai đoạn Quốc Cộng Nam Bắc (1954-1975) và giai đoạn Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa (1975-2010). Ba việc khai trương thời Bảo Trợ và bốn việc bắt đấu thời Tông Tòa vẫn được đều đặn thực hiện. Thêm vào đó, năm việc mới đã được thực hiện.

8. Thành lập hàng giáo phẩm việt nam.
Từ năm 1933, bắt đầu có giám mục người Việt Nam. Đến năm 1959, 14 linh mục việt nam đã được tấn phong giám mục. Đó là các đức cha: Nguyễn Bá Tòng (1933), Hồ Ngọc Cẩn (1935), Ngô Đình Thc (1938), Phan Đình Phùng (1940), Lê Hữu Từ (1945), Phạm Ngọc Chi (1950), Trịnh Như Khuê (1950), HHoàng Văn Đoàn (1950), Trần Hữu Đức (1951), Trương Cao Đại (1953), Nguyễn Văn Hiền (1955), Nguyễn Văn Bình (1955), Khuất Văn Tạo (1956) và Bùi Chu Tạo (1959).
Thấy rằng Giáo Hội Việt Nam đã đủ trưởng thành, ngày 24-11-1960, Đức Thánh Cha Gioan XXIII thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam; các giám mục hiệu toà trở thành CHÍNH TÒA với 3 toà Tổng giám mục ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Thành lập thêm ba giáo phận Đà Lạt, Mỹ Tho và Long Xuyên trong giáo tỉnh Sài Gòn. Số các giáo phận tăng lên thành 20: 10 ở giáo tỉnh Hà Nội, 4 ở giáo tỉnh Huế và 6 ở giáo tỉnh Sài Gòn.

9. Các giáo sĩ việt nam tham gia vào giáo triều Roma với nhiều chức phận khác nhau: nghị phụ, hồng y, chủ tịch, sứ thần, bí thư,.… Hai năm sau khi được cất lên hàng Giám Mục Chính Tòa, vào năm 1962, kỳ họp đầu tiên của Công Đồng Chung Vatican II, từ ngày 11/10 đến 08/12/1962, 17 đức cha của các giáo phận Miền Nam Việt Nam đã đến Rôma tham dự công đồng và gặp Đức Thánh Cha Gioan XXIII. Nhiều đức cha đã tiếp tục đến dự các kỳ họp thứ II năm 1963, thứ III năm 1964 và thứ IV năm 1965.
Từ năm 1976, việt nam bắt đầu có hồng y và cho đến nay, tất cả chúng ta có 5 vị. Đó là các vị sau đây: Trịnh Như Khuê (1976), Trịnh Văn Căn (1979), Phạm Đình Tụng (1994), Nguyễn Văn Thuận (2001) và Phạm Minh Mẫn (2003).
Ngoài ra, một số giáo sĩ việt nam đã được chọn lựa để tham gia các chức vụ tại giáo triều Rôma, Đức Ông Trần Ngọc Thụ Bí Thư của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Ông Trần Văn Khả phục vụ Bộ Phụng Tự, Đức Ông Nguyễn Văn Phương làm việc ở Bộ Truyền Giáo, hay phục vụ tại các Tòa Khâm Sứ, như Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Tốt, ….

10. Giáo sĩ và tu sĩ việt nam đi làm mục vụ trên khắp thế giới. Năm 1975, chính quyền Miền Bắc chiến thắng chính quyền Miền Nam và thống nhất quốc gia trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Khoảng một triệu nggười miền Nam đã bỏ nước đi tỵ nạn trên khắp các quốc gia trên thế giới, từ Á, qua Âu, sang Mỹ, đến Úc và Phi châu. Trong số những người tỵ nạn chính trị năm 1975 này, người công giáo chiếm một số quan trọng. Ngày nay, trên khắp các nước nhiều giáo sĩ và tu sĩ góp phần truyền giáo, không chỉ cho người việt nam, mà cả cho người bản xứ nữa. Hội Tu sĩ Việt Nam tại Pháp hiện nay qui tụ 450 hội viên linh mục, chủng sinh và tu sĩ. Làm việc mục vụ toàn thời cho giáo dân việt nam không quá 10 vị. Khoảng 50 vị phục vụ bán thời cho giáo dân việt nam. Số còn lại, một số là sinh viên đang theo học hay tu nghiệp, đại đa số phục vụ cho giáo hội địa phương Pháp.

11. Thành lập Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Ngày 01.05.1980 có thể được coi là một trong những ngày lịch sử của Giáo Hội Việt Nam, Vì đó là ngày đầu tiên mà 33 vị giám mục khắp ba miền Việt Nam đã có thể về tham dự Đại Hội Giám Mục Việt Nam và đã thành lập qui chế Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. « Hội đồng Giám mục Việt Nam là một tổ chức có tính cách pháp nhân gồm tất cả các giám mục đang thi hành phận sự mục vụ nơi các giáo phận tại nước Việt Nam. Tổ chức này có nhiệm vụ cổ vũ tình liên đới để phát huy các thiện ích mà Giáo Hội cống hiến cho Dân Chúa bằng các hình thức tông đồ và các phương pháp thích hợp với hoàn cảnh của thời đại, trong tinh thần gắn bó với dân tộc và đất nước (x. Thư Chung HĐGM VN 1980, số 9, 10, 11, 12). HĐGM VN lấy mục đích xây dựng Giáo Hội mầu nhiệm - hiệp thông - truyền giáo và phục vụ con người trong xã hội làm điểm quy chiếu cho mọi sinh hoạt và quyết định của mình ».
Với một Ban Thường vụ, một Văn phòng và 16 Ủy ban chuyên biệt, HĐGM VN đã đưa cho GHVN một sức sống mới, một tổ chức mới và một cách làm việc mới. Mà Năm Thánh và Đại Hội Dân Chúa 2010 là một biểu lộ khách quan.

12. Giáo hội phong hiển thánh 117 vị tử đạo ở Việt Nam. Ngày 16-11-1985 Ðức Hồng Y Giuse Trịnh Văn Căn, chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục (HÐGM) Việt Nam, đã chính thức gửi thỉnh nguyện thư lên Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II để xin « cho lệnh mở lại hồ sơ các Chân Phúc tử đạo Việt Nam và cứu xét việc tôn phong các ngài lên bậc Hiển Thánh. Cả dân tộc Việt Nam, trong nước cũng như ngoài nước, nhất trí với con để dâng lời thỉnh nguyện này ». Ba năm sau, ngày 19.06.1988, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã chính thức làm lễ tôn phong hiển thánh cho 117 chân phước tử đạo ở Việt Nam, tại quảng trường thánh Phêrô tại Rôma, trước sự hiện diện của 15.000 ngưới, trong đó có rất nhiều người công giáo việt nam đến từ khắp thề giới.

13. Tâm thức Việt Nam của Giáo dân Việt Nam. Thư chung 1980 của HĐGM VN, đã xác định rõ ràng rằng « Hội Thánh là dân Thiên Chúa, Hội Thánh vì loài người; Hội Thánh của Chúa Kitô gắn bó với dân tộc và đất nước, Cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng tổ quốc, Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc ». Từ đó, tín hữu việt nam, theo gương cha Đặng Đức Tuấn và ông Nguyễn Trường Tộ, giáo sĩ cũng như giáo dân, dần dà có một tâm thức mới: ý thức rõ rệt mình là việt nam công giáo, dấn thân tham gia trách nhiệm xây dựng quốc gia dân tộc, để bảo vệ và phát triển chân lý và công bình xã hội, mở rộng nhân bản trên nền tảng Tin Mừng.

Sau 50 năm Chính Tòa (1960-2010), « Tính đến 31-12-2007, Giáo hội Công giáo Việt Nam có 26 giáo phận: 10 ở Giáo tỉnh Hà Nội, 6 ở Giáo tỉnh Huế và 10 ở Giáo Tỉnh TP-HCM, 2 Hồng y, 2 Tổng Giám mục, 38 giám mục, 3.510 linh mục, 14.968 tu sĩ nam nữ, 6.087.659 tín hữu trên tổng số 85.154.900 người, chiếm 7,15% dân số. Trong gần 50 năm qua, GHCGVN đã có thêm 9 giáo phận mới, số tín hữu tăng gấp 3, số linh mục tu sĩ tăng gấp đôi » (13). Giáo hội Công Giáo đã lớn lên và đã trưởng thành.

Ngày mai:

II. GHVN đã lớn lên và trưởng thành
 
Văn Hóa
Đau đầu cái điện thoại
Hai Tôm Cần Giờ
18:06 16/07/2009
Không ai phủ nhận chuyện khoa học kỹ thuật ngày nay góp phần rất lớn vào cuộc sống. Thế nhưng cũng không ai phủ nhận được những hệ quả không tốt từ những phát minh, những tiện nghi hiện đại.

Chục năm trước đây, để sở hữu một chiếc điện thoại không phải là chuyện giản đơn. Thời ấy, có cái Phone-link hay Call-link đeo trước bụng là có thể “vênh mặt lên trời” được rồi. Thời nay, hết rồi cái thế hệ tin nhắn qua tổng đài. Cần gì, người ta chỉ cần với thao tác nhỏ là bấm bấm vài cái hay hiện đại hơn là lấy ngón trỏ “chọt chọt” vài cái là tha hồ mà thông tin liên lạc.

Chiếc điện thoại di động quả thật là lợi ấy nhưng kèm theo đó là bao nhiêu điều hại. Có những người không biết thường lạm dụng nó nhưng không ngờ rằng sóng từ chiếc điện thoại gây những thiệt hại vô hình không kể xiết. Bên cạnh cái thiệt hại vô hình ấy thì còn những thiệt hại mà ta thấy được đó là các tin nhắn có những nội dung quấy rối cũng như những tin nhắn “quà tặng” bất đắc dĩ. Kèm thêm đó, nếu tính toán một chút thì hàng tháng khách hàng của các mạng di động phải chi trả một con số thật kinh khủng.

Thật sự để thông tin liên lạc làm ăn hay thông tin chẳng là bao nhưng tán gẫu và cả những chuyện không hay qua cái điện thoại di động thì nhiều vô kể.

Thêm nữa là từ ngày có cái điện thoại nó nảy sinh ra chuyện “điện thoại thời trang”. Thế là bà con ùn ùn vào cuộc để chạy theo với những mẫu mã mới vừa tung ra thị trường. Với những người làm ăn được thì đó cũng là chuyện bình thường nhưng nghiệt một nỗi bản tính của con người là thích “bằng chị - bằng em” để rồi cứ đua nhau mà sắm. Nhớ lại, có vài học viên lớp giáo lý mình phụ trách, họ không ngần ngại khoe chiếc điệc thoại mới keng hơn ba triệu đồng mua trả góp vì lương hàng tháng của họ hơn triệu bạc ! Hỏi tại sao phải mua với cái giá cao như thế, thời trang như thế thì họ cũng nói thẳng rằng nếu dùng cái giá thấp thì “mắc cỡ”.

Với những người đi làm có tiền như thế thì dùng điện thoại hay thay điện thoại mới cũng tạm gọi là chấp nhận vì họ còn có “đồng ra đồng vào”.

Nhớ đến những người ở thành phố, nhìn lại bà con vùng đất nghèo mình đang sống, cái điện thoại phải chăng gọi là cái “cục rắc rối” cho cuộc đời.

Một em kia, mới học lớp 10 nhưng sở hữu chiếc điện thoại 2 triệu bạc. Thật sự thì 2 triệu bạc với cái điện thoại đó nó chẳng là gì cả nhưng nghiệt một nỗi là nhà của em phải chạy ăn từng bữa.

Mới hôm qua, các em lại xúm nhau lại, tưởng chuyện gì, hoá ra là cái điện thoại. Cũng một em kia, mới lớp 10, em lại sở hữu chiếc điện thoại “nắm trượt” mới khui hộp.

Chuyện gia đình hay chuyện các em trang bị cho mình cái điện thoại đó là chuyện tự do cá nhân, tự do gia đình nhưng riêng tôi và cha xứ, những người đang giúp ở cái vùng biển mặn nghèo này thấy làm sao ấy ? Nếu nhắc nhở thì các em sẽ bảo là khó tính nhưng nếu lặng im thì thấy không đành vì đó là phận sự của những người có trách nhiệm, có phận vụ giáo dục không chỉ đức tin mà còn nhân cách cho các em nữa.

Ngậm ngùi lắm khi biết được đa phần ở đây là dân nghèo. Cuộc sống của họ quanh quẩn với cái việc làm đất, mò cua, bắt ốc … với những cái nghề bấp bênh như thế đủ ăn là khá lắm rồi chứ làm gì có cái chuyện sắm điện thoại này điện thoại nọ. Mà hình như ai cũng biết, sắm điện thoại không hay sao ? Lại phải mua sim và nạp thẻ. Thoạt tính thì nó chẳng là bao nhưng với những gia đình thiếu ăn thiếu mặc như các em ở vùng truyền giáo nghèo này nó là vấn đề.

Giả như cha mẹ của các em dư ăn dư để để mà trang bị cho các em để các em được “bằng chị - bằng em” với các bạn thì âu cũng là chuyện thường tình. Đáng tiếc thay là cha mẹ của các em vẫn thường “gõ cửa” các dì, các cha.

Hết sức là buồn cười khi vay nợ để mua điện thoại và để nạp thẻ ! Có em - chỉ học lớp 10 - ba thì đi làm mướn, mẹ thì chiên từng cái bánh quai vạc đắp đổi qua ngày nhưng em lại sở hữu một chiếc điện thoại mà chúng bạn phải trầm trồ thán phục !? Thử hỏi mới lớp 10, sáng sớm đi học đến chiều tối về đến nhà, có làm ăn buôn bán gì đâu để mà sắm điện thoại. Ấy vậy mà ngày nay, nếu như không có điện thoại thì lại là điều mặc cảm với bà con lối xóm.

Ở nhà, có đứa cháu lớp 11, mẹ cũng thương con như những bà mẹ khác. Đã nhiều lần cũng muốn “chiều” con nhưng bị cậu ngăn cản. Sáng đạp xe đi học, ở nội trú đến chiều đạp xe về nhà thì sắm điện thoại làm chi ? May mà trường của cháu học đã ra “chiếu chỉ” cấp dùng di động. Sắm cho cháu thì dễ nhưng biết bao điều lo lắng sau khi cháu có cái điện thoại.

Ở cái vùng truyền giáo nghèo này không chỉ giáo dục đức tin mà còn phải chăm chút từng chút một cho các em về lối suy nghĩ, cách hành động và thậm chí cả từng lời chào, lời cảm ơn.

Cái điện thoại cái mà ai cũng mong có và có được cái thật hiện đại. Thế nhưng, giá trị cái điện thoại, mục đích sử dụng, khả năng chi trả tuỳ thuộc vào quyết định của mỗi người.

Cái điện thoại, xem ra rất nhỏ nhưng nó lại mang đến nhiều phiền toái, nhiều sự đau đầu cho con người, cách riêng là những vùng đất nghèo phải chạy ăn từng bữa.
 
Tôi muốn hỏi
Micae Nguyễn Ngọc Sáng
18:45 16/07/2009
Kính thưa quí ông bà là ông, bà, cha, mẹ, anh, em, họ hàng của thầy Đaminh Phùng Thế Minh, tôi muốn hỏi quí ông bà: ông bà có buồn không?

Tôi không có khùng khi đặt câu hỏi này, bởi vì sau khi đọc “hung tin” vừa đăng trên Vietcatholic, tôi đã khóc, tôi đã buồn!

Tôi khóc vì thương một người trẻ biết hy sinh. Cái hy sinh của thầy không phải mới có ở lần này khi thầy nhảy ra làm một việc “cứu tử”, để thay đổi vị trí sống-chết với một em bé đang ở trong tình trạng cực kỳ hiểm nghèo. Tôi còn thấy cái hy sinh của thầy khi thầy chấp nhận cuộc sống “hiến dâng”, lìa xa gia đình, quên đi tuổi thanh xuân, chấp nhận đi phục vụ nơi một xứ nghèo. Nhưng lần này, quả là một gương hi sinh cao độ.

Tôi đã khóc vì cái chết của thầy tức tưởi quá. Tôi đã khóc vì thầy chết sớm quá, còn trẻ quá. Thầy đã chết khi mà cha mẹ anh em đang trông chờ một tin vui là thầy sẽ trở về thăm một ngày nào đó, nhưng ngày đó lại là ngày đón thầy trong chiếc áo quan. Dám nhảy vào “cuộc” mà thầy biết là hiểm nguy, thì nói gì, nếu thầy “chưa chết”, thầy sẽ còn làm biết bao nhiêu chuyện khác để giúp ích cho những người đã và đang trông đợi ở thầy, những gia đình và trẻ em nghèo Campuchia. Tôi đã khóc như những em Campuchia mà tôi thấy trong các bức hình, mấy em đó đang khóc thầy vì mấy em biết là từ nay, sẽ không còn gặp được thầy nữa.

Nếu thầy là con hay em gì tôi thì tôi sẽ buồn biết bao nhiêu, thì ai là cha mẹ anh em của thầy, mấy vị ấy sẽ buồn biết bao nhiêu! Kể từ nay, không còn ai có thể gặp lại thầy. Tội nghiệp, mấy em trẻ Campuchia sẽ không còn gặp lại nữa người đã đem cho chúng nó nụ cười. Nay mai, mấy em đó sẽ ngóng trông ngưòi không bao giờ trở lại.

Tôi buồn vì Giáo Hội và xã hội này đã mất đi một người có lòng. Đâu phải tất cả mọi người trong vai trò của thầy đều có thể có nghĩa cử đó của thầy. Nhiều người có thể kêu cứu, hò hét, la to hơn, nhưng dám nhảy vào chỗ tử sinh như vậy, dễ gì có được mấy ai.

Thầy Minh ơi! Tôi cầu nguyện lòng từ bi Chúa thương người biết hi sinh.

Em Minh ơi! Tôi viết bài này để khóc em!