Ngày 10-07-2014
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:32 10/07/2014
PHƯƠNG PHÁP LÀM GIÀU
N2T

Con kiến hỏi:
- “Có cách gì có thể làm cho chúng ta thêm giàu có không?
Đấng tạo hóa nói:
- “Có, sự thoả mãn”.
(Hạnh Lâm Tử)

Suy tư:
Con người ta thường có túi tham không đáy.
Bạn thử lấy cái thùng không đáy mà đi gánh nước xem sao? Gánh cả ngày cũng chỉ được một vài giọt, chứ đừng nói là một thùng lớn.
Lòng tham không đáy tức là không bao giờ thoả mãn với những gì mình có: có tiền muốn có thêm, có xe rồi đòi mua xe mô đen hơn, có ti vi đòi mua video, có vi tính đòi “chơi” mạng lưới internet hiện đại hơn, có vợ rồi lại đòi thêm vợ nữa.v.v…
Vậy mà Đấng tạo hóa lại nói thoả mãn là làm thêm sự giàu có, thật rắc rối ?
Nhưng lời Ngài nói đếu là sự thật, nếu chúng ta thoả mãn với những gì mình có, rồi vui thú hưởng thụ những gì mình đang có với tất cả niềm vui vẻ và tạ ơn, mà không mơ ước được như người này người nọ, không ghen tương hậm hực với người khác, không phải là ta đã giàu có sao?
Thỏa mãn chính là vui vẻ chấp nhận những gì mình đang có, đó chính là sự giàu có rất dễ dàng tìm kiếm trong cuộc sống của chúng ta vậy.
Thiên Chúa chính là nguyên nhân và động lực của thỏa mãn ấy, bởi vì có Chúa rồi thì tham muốn gì nữa chứ !

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư

----------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:37 10/07/2014
N2T

20. Thiên Chúa dùng tình yêu thánh thiện để cứu chuộc loài người chúng ta, đến nỗi vì chúng ta mà hy sinh mạng sống của mình. Như vậy, mặc dù chúng ta hết lòng yêu Ngài thì cũng không đủ để báo đáp tình yêu của Ngài.

(Thánh Francis of Sales)
------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài Huấn Từ của ĐTC Phanxicô dành cho Giới Trẻ GP Abruzzo và Molise
Phaolô Phạm Xuân Khôi
13:28 10/07/2014
“Nền văn hóa tạm bợ không gia tăng sự tự do của chúng ta, nhưng cướp đi khỏi chúng ta phần số thực sự của mình,… Thật đáng buồn khi đến một tuổi nào đó, nhìn lại quãng đường đời mà mình đã đi qua, và chỉ tìm thấy nhiều mảnh vụn khác nhau, không đồng nhất, không dứt khoát: tất cả đều tạm bợ ... Đừng để kẻ khác tước đoạt ước ao xây dựng những điều cao qu‎ý và vững bền trong cuộc đời các con!”

Dưới đây là bản dịch bài Huấn Từ của ĐTC Phanxicô ban hành ngày 5 tháng 7 năm 2014 trong buổi gặp gỡ giới trẻ của Giáo phận Abruzzo và Molise tại Quảng Trường Đền Thánh Castelpetroso.

* * *


Các bạn trẻ thân mến, chào các con!

Cảm ơn các con vì sự hiện diện rất đông và vui vẻ của các con. Cảm ơn Đức Cha Pietro Santoro vì việc phục vụ trong mục vụ giới trẻ của ngài; và cám ơn con, Sarah, con đang đứng hàng đầu về những hy vọng và quan tâm của những người trẻ ở Abruzzo và Molise.

Các con biết rằng nhiệt tình và bầu không khí tưng bừng thường rất hay lây. Nhiệt tình hay lây. Nhưng các con có biết từ nhiệt tình này đến từ đâu không? Nó đến từ một chữ Hy Lạp có nghĩa là “có một cái gì đó của Thiên Chúa ở bên trong” hay “được ở trong Thiên Chúa.” Sự nhiệt tình, nếu lành mạnh, chứng tỏ điều này: là một người có một điều gì đó của Thiên Chúa trong mình và vui vẻ bày tỏ điều ấy. Các con mở lòng ra - cách nhiệt tình – với niềm hy vọng và khao khát sự sung mãn, khao khát làm cho tương lai của các con, cho toàn thể cuộc đời của các con, có ý nghĩa, khao khát thoáng thấy con đường phù hợp cho từng người cùng chọn con đường mang đến cho mình bình an và chu toàn sứ vụ làm người. Con đường thích hợp, chọn một con đường ... điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là không đứng yên - một người trẻ không thể ngồi yên! - và bước đi. Nó có nghĩa là đi về phía một cái gì; bởi vì một người có thể di chuyển mà không tiến bước, nhưng “đi lang thang”, đi vòng vòng, vòng vòng, vòng vòng trong cuộc sống ... Nhưng cuộc đời không được tạo ra để “quay vòng,” nhưng được tạo ra để “đi”, và đây là thách đố của các con!

Một đàng, các con đang tìm kiếm những gì thực sự quan trọng, nhưng vững bền và dứt khoát trong thời gian, đang tìm câu trả lời có thể soi sáng tâm trí các con và sưởi ấm tâm hồn các con, không những chỉ trong không gian của một buổi sáng, hoặc một khoảng đường ngắn, nhưng mãi mãi. Ánh sáng mãi mãi ở trong tâm hồn các con, ánh sáng mãi mãi ở trong trí khôn các con, tâm hồn mãi mãi và dứt khoát được ấm áp. Đàng khác, bàn về việc sợ thất bại - đó là sự thật, những người bước đi có thể đi lạc – về việc sợ dính lứu đến nhiều điều cũng thế - các con đã nghe rất nhiều lần - về cám dỗ luôn luôn mở ra một lối thoát nhỏ, mà nếu cần thì luôn luôn có thể mở ra những cảnh trí và những cơ hội mới. Tôi đang đi theo đường hướng này, tôi chọn hướng này, nhưng tôi sẽ để cửa này mở ra, nếu tôi không thích, tôi sẽ quay lại và sẽ bỏ đi. Sự tạm bợ này không tốt; không tốt vì nó làm cho trí khôn ra tăm tối và tâm hồn ra giá lạnh.

Xã hội hiện đại và những khuôn mẫu văn hóa hiện hành của nó – chẳng hạn như nền “văn hóa tạm bợ” - không cung cấp cho chúng ta một môi trường thuận lợi cho việc hình thành những lựa chọn vững bền cho cuộc sống với những mối liên hệ vững chắc, được xây dựng trên đá tảng tình yêu và trách nhiệm, chứ không trên đống cát của cảm xúc nhất thời. Khát vọng tự chủ của cá nhân được đề cao đến mức luôn luôn đặt vấn đề với tất cả mọi sự cùng cắt đứt một cách dễ dàng những chọn lựa quan trọng và đã được suy nghĩ lâu dài, những con đường của cuộc đời đã được khởi đầu cách tự do với cam kết và sự hiến thân. Điều này nuôi dưỡng sự hời hợt trong việc gánh vác trách nhiệm, bởi vì trong tận đáy lòng chúng ta, chúng có thể vẫn được coi là điều chúng ta thể thoái thoát. Hôm nay tôi chọn điều này, ngày mai tôi chọn điều khác ... gió thổi chiều nào tôi ngả theo chiều ấy; hoặc khi tôi không còn nhiệt tình nữa, không còn ước mong nữa, tôi bắt đầu một con đường khác ... Và như thế điều ấy “biến” cuộc đời của tôi thành một mê cung. Nhưng cuộc hành trình không phải là một mê cung! Khi các con thấy mình mình đang lạc trong một mê cung, tôi đi về phía này, tôi sẽ đi về phía kia, tôi đi phía này ... hãy dừng lại! Hãy tìm một lối để thoát khỏi mê cung này; hãy tìm một lối: các con không thể thiêu huỷ cuộc đời bằng cách chạy vòng vòng.

Tuy nhiên, các bạn trẻ thân yêu, tâm hồn con người mong ước những điều cao cả, những giá trị quan trọng, những tình bằng hữu sâu xa, những mối liên hệ được củng cố, thay vì bị cắt đứt, trong những thử thách của cuộc đời. Con người khao khát yêu thương và được yêu thương. Đây là khát vọng sâu xa nhất của chúng ta: yêu thương và được yêu thương; và đó là điều chắc chắn. Nền văn hóa tạm bợ không gia tăng sự tự do của chúng ta, nhưng cướp đi khỏi chúng ta phần số thực sự của mình, phần số xác thực và đích thực nhất. Đó là một cuộc đời tan nát. Thật đáng buồn khi đến một tuổi nào đó, nhìn lại quãng đường đời mà mình đã đi qua, và chỉ tìm thấy nhiều mảnh vụn khác nhau, không đồng nhất, không dứt khoát: tất cả đều tạm bợ ... Đừng để kẻ khác tước đoạt ước ao xây dựng những điều cao qu‎ý và vững bền trong cuộc đời các con! Đó là những gì dẫn các con hướng về phía trước. Đừng hài lòng với những mục tiêu nhỏ nhen! Hãy khát khao hạnh phúc, hãy can đảm lên, can đảm ra khỏi chính mình, để sống tương lai của các con cùng với Chúa Giêsu trong sự viên mãn.

Một mình chúng ta không thể làm được điều ấy. Khi phải đương đầu với áp lực của các biến cố và thời trang, một mình chúng ta không bao giờ có thể tìm thấy con đường đúng, và nếu tìm thấy, chúng ta sẽ không có đủ sức mạnh để kiên trì, để đối phó với những thăng trầm và những trở ngại không thể lường trước được. Và ở đây Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: “Nếu các con muốn ... hãy theo Thầy.” Người mời gọi chúng ta đồng hành với Người trên cuộc hành trình, không khai thác chúng ta, không biến chúng ta thành nô lệ, nhưng làm cho chúng ta được tự do. Trong sự tự do này Người mời gọi chúng ta đồng hành với Người trên cuộc hành trình. Chỉ có như thế. Chỉ cùng với Chúa Giêsu, nhờ cầu xin Người và đi theo Người mà chúng ta nhìn thấy rõ viễn cảnh (tương lai) và có sức mà tiếp tục. Người yêu thương chúng ta một cách rõ ràng, Người đã chọn chúng ta một cách dứt khoát, và cuối cùng Người đã ban chính Mình Người cho mỗi người chúng ta. Người là Đấng Bảo Vệ và Anh của chúng ta, và sẽ là Vị Thẩm Phán duy nhất của chúng ta. Tốt đẹp biềt bao khi có thể đương đầu với những thăng trầm của cuộc sống trong tình bằng hữu của Chúa Giêsu, có bên mình Con Người sứ điệp của Người! Người không lấy đi quyền tự chủ hoặc tự do của chúng ta; trái lại, Người thêm sức mạnh cho tình trạng mỏng giòn của chúng ta, cho phép chúng ta được tự do thật sự, tự do làm việc lành, mạnh mẽ để tiếp tục làm như vậy, có thể tha thứ và xin được tha thứ. Đó là Chúa Giêsu, Đấng đồng hành với chúng ta, Chúa là thế!

Một lời mà cha muốn lặp lại, bởi vì chúng ta thường quên rằng Thiên Chúa không biết mệt khi tha thứ. Và đó là sự thật! Tình yêu của Ngài thật cao cả, là điều luôn luôn gần gũi chúng ta. Chúng ta là những người cảm thấy mệt mỏi khi xin được tha thứ, nhưng Ngài luôn luôn tha thứ, mỗi khi chúng ta xin.

Ngài tha thứ cho chúng ta một cách dứt khoát, xóa sạch và quên đi tội lỗi của chúng ta nếu chúng ta khiêm nhường và tin tưởng quay về với Ngài. Ngài giúp chúng ta để chúng ta không thất vọng trong những khó khăn, không coi chúng là những gì không thể vượt qua được, và tin tưởng vào Ngài, rồi lại quăng lưới để bắt được mẻ cá đáng kinh ngạc và đầy tràn, các con sẽ có can đảm và hy vọng, ngay cả khi phải đương đầu với những khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra. Can đảm và hy vọng là quà tặng cho tất cả mọi người, nhưng đặc biệt phù hợp với người trẻ: can đảm và hy vọng. Tương lai chắc chắn nằm trong tay Thiên Chúa, trong bàn tay của Cha Quan Phòng. Điều này không có nghĩa là phủ nhận những khó khăn và vấn đề, nhưng nhìn chúng như tạm thời và có thể giải quyết được. Những khó khăn, những khủng hoảng, với sự giúp đỡ của Thiên Chúa và thiện chí của tất cả mọi người, có thể được khắc phục, thắng vượt và biến đổi.

Cha không muốn kết thúc mà không nói một lời về một vấn đề có ảnh hưởng đến các con, một vấn đề mà các con đang sống là tin tức: thất nghiệp. Thật đáng buồn khi thấy những người trẻ “không có – mà cũng không có.” Điều này, “không có - mà cũng không có,” nghĩa là gì? Không có học vì họ không có thể, họ không có khả năng hoặc việc làm. Và đây là thách đố mà tất cả chúng ta như một cộng đồng cần phải thắng vượt. Chúng ta phải tiếp tục thắng vượt thử thách này! Chúng ta không thể buông xuôi để đánh mất cả một thế hệ trẻ, những người không có phẩm giá cao vì việc làm! Việc làm cho chúng ta phẩm giá, và tất cả chúng ta phải cố gắng hết sức vì chúng ta không thể để mất một thế hệ trẻ. Phát triển khả năng sáng tạo của chúng ta ngõ hầu những người trẻ cảm thấy niềm vui về phẩm giá đến từ việc làm. Một thế hệ không có việc làm là một thất bại tương lai cho quốc gia và cho nhân loại. Chúng ta phải chiến đấu chống lại việc này. Và giúp nhau tìm một giải pháp, sự trợ giúp và đoàn kết. Những người trẻ thì dũng cảm, cha đã nói, những người trẻ có hy vọng và - thứ ba - những người trẻ có khả năng đoàn kết. Và từ đoàn kết này là một từ mà người ta không muốn nghe trong thế giới hôm nay. Một số người cho đó là một từ tục tữu. Không, nó không phải là một từ tục tữu, nó là một từ Kitô giáo: tiến bước cùng với anh em mình để giúp khắc phục những vấn đề. Can đảm, với hy vọng và tình đoàn kết.

Chúng ta tụ họp trước Đền Thờ Đức Mẹ Sầu Bi, được dựng lên ở nơi hai thiếu nữ của vùng đất này, Fabiana và Serafina, năm 1888, đã có một thị kiến về Mẹ Thiên Chúa khi hai cô làm việc ngoài đồng. Đức Mẹ Maria là một người Mẹ, luôn luôn giúp chúng ta khi chúng ta làm việc và khi chúng ta tìm việc làm, khi chúng ta có những ý tưởng rõ ràng và khi chúng ta đang bối rối, khi cầu nguyện bộc phát và khi tâm hồn cảm thấy khô khan: Mẹ luôn ở đó để giúp đỡ chúng ta. Đức Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng ta, và Mẹ Hội Thánh. Nhiều người nam nữ, trẻ già đã quay về phía Mẹ để dâng lời cảm tạ và xin ơn. Đức Mẹ Maria dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu ban cho chúng ta hòa bình. Chúng ta trông cậy vào Mẹ với lòng tin tưởng vào sự giúp đỡ của Mẹ, với lòng can đảm và hy vọng. Xin Chúa chúc lành cho mỗi người trên bước đường của các con, trên cuộc hành trình dũng cảm, hy vọng và đoàn kết của các con. Cảm ơn các con!

Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện với Đức Mẹ: Kính mừng Maria …

http://giaoly.org/vn/
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hành hương Thánh địa: Ai cập, Kim Tự tháp, Núi Sinai, Tu viện St. Catherine
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
10:00 10/07/2014
HÀNH HƯƠNG THÁNH ĐỊA 2014

PHẦN I: Kim Tự Tháp – Núi Sinai


Tôi đi hành hương Thánh Địa lần thứ hai, được thăm viếng quê hương của Chúa Giêsu, Đấng tôi yêu mến và hằng rao giảng về Người. Đến lần nữa để cầu nguyện và chiêm ngắm, để tìm tòi và cảm nghiệm, để biết thêm những nơi chưa đến. Thánh Địa vẫn luôn luôn là điểm tựa cho lòng tin, nơi gặp gỡ của những anh em tín hữu cũng như không tín hữu, để cùng tìm ra Nguồn Sáng cho cuộc đời.

Hình ảnh

Thánh Địa, miền đất mà Chúa Giêsu đã sinh ra, lớn lên, rao giảng Tin Mừng rồi Tử Nạn và Phục Sinh; một Đức Giêsu lịch sử, đã làm người và sống tại đất nước Do Thái. Đặt tay lên tảng đá nơi Đức Mẹ quỳ gối đáp lời “Xin vâng”, quỳ cầu nguyện trước tảng đá mà Chúa Giêsu đã quỳ cầu nguyện trước cuộc khổ nạn, hôn kính tảng đá nơi đặt xác Chúa Giêsu hạ xuống từ thập giá…và bao nhiêu địa danh khác gắn với cuộc đời Đấng Cứu Thế, thật đáng yêu đáng kính và đáng nhớ.

Lm Giuse Nguyễn Đức Quang, Chánh xứ Nghĩa Hòa – Hạt Trưởng Hạt Chí Hòa – Giáo Phận Sài Gòn, tổ chức chuyến hành hương Thánh Địa “Bước theo Chân Chúa Giêsu” với lộ trình: Cairô – Sinai – Bethlehem – Giêrusalem – Giêricô – Nazareth - Galilêa – Haifa – Amman – Petra, từ ngày 06/05/2014 đến ngày 20/05/2014.

Công ty du lịch KLP (Khang Long Phúc) Sài Gòn đồng hành chuyến hành hương này. Đoàn chúng tôi có 38 thành viên, gồm 9 linh mục và 29 giáo dân từ nhiều giáo xứ thuộc Giáo phận Sài gòn, Phan thiết.

Từ Tân Sơn Nhất đến Sân bay quốc tế Doha hơn 7 giờ bay. Sau khi nghỉ ngơi tại khách sạn của sân bay, chúng tôi tiếp tục hành trình thêm 2giờ30 bay nữa mới đến sân bay Cairô. Xe công ty du lịch địa phương đón đoàn tại phi trường. Bắt đầu cuộc hành trình 14 ngày xuyên qua 4 nước: Ai cập – Palestina –Israel và Jordan.

Chúng tôi đến tham quan Kim Tự Tháp là một trong 7 kỳ quan cổ của thế giới, Viện giấy Papyrus nơi lưu giữ loại giấy viết có niên đại lâu đời nhất, tham quan Tu viện Thánh Catherine cổ kính nhất, nơi có di tích Bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi, leo núi Sinai với độ cao 2.285m lên tới đỉnh núi nơi ông Môsê nhận 10 điều răn Thiên Chúa ban. Đặc biệt, đi trong miền đất Palestina và Israel, chúng tôi theo bước chân Chúa, viếng từng dấu tích Đấng Cứu Thế đã đi qua. Đi lại con đường lịch sử như Phúc Âm kể vẫn thấy đâu đây hình bóng Chúa Giêsu thấp thoáng trên mọi nẻo đường. Những ngày cuối đi qua Vương Quốc Jordan, lên núi Nebo, nơi Môsê được Thiên Chúa cho nhìn về Đất Hứa trước khi chết, tham quan Thành phố cổ Petra vẫn thường được gọi là Thành Phố Hoa Hồng Đỏ là một trong 7 kỳ quan hiện đại của thế giới.

Mỗi nơi hành hương đều có hướng dẫn viên riêng. Mỗi nơi đến chúng tôi như được tiếp thêm đức tin và gia tăng lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội. Ở những nơi hành hương đã gợi lên trong tâm hồn chúng tôi bao tâm tình ngưỡng mộ thán phục và thành kính nguyện cầu.Một chuyến đi đầy dấu ấn và kỷ niệm.

Hàng ngày, chúng tôi đều dâng thánh lễ tại một Nhà thờ đã đăng ký trước và chụp hình chung lưu niệm. Thời tiết bên vùng Trung đông đang cuối xuân nên vẫn mát dù trời luôn nắng gay gắt. Mỗi nơi hành hương gợi lên bao cảm xúc, bao tâm tình yêu mến và tạ ơn Thiên Chúa, Đức Mẹ và tri ân Giáo Hội.

Cha Quang đã dành nhiều thời gian dịch thuật các tài liệu giúp mọi người hiểu nhiều hơn. Ý nghĩa cuộc Hành hương không mang tính chất du lịch, nhưng mang tính chất trở về cội nguồn Kitô giáo, nơi Chúa Giêsu sinh ra, rao giảng Tin mừng, làm phép lạ, cuối cùng chịu chết và sống lại để thực hiện ơn cứu độ. Để giúp cho mọi thành viên khi tham quan hiểu được ý nghĩa vắn gọn nhưng đầy đủ về lịch sử các di tích, Cha Quang đã cố gắng chuyển dịch sang Việt ngữ phần lớn tác phẩm bằng tiếng Anh mang tựa đề “Holy Land, Follow the steps of Jesus” của Nữ tác giả Etty Boochny và David B. Capes xuất bản năm 1999. Bà Etty Boochny là hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp rất thành công ở Thánh địa trên 20 năm nay. Còn Tiến sĩ David B. Capes là một Mục sư thuộc hệ phái Tin lành Baptist, hiện đang phục vụ tại các Nhà thờ của Tiểu bang Georgia và Tennessee; ông đang là Giáo sư phụ giảng tại College of Humanities ở Đại học Baptist Bang Houston, Hoa Kỳ. Ông còn là một diễn giả và học giả rất nổi tiếng.

Tác phẩm này được thực hiện với sự chứng thực và hỗ trợ của Sr Macrina Scott O.S.E là Giám đốc Trường Kinh thánh Công Giáo của Tổng Giáo phận Denver, Hoa Kỳ và Tiến sĩ Jim Fleming E.d.D, Giám đốc Điều hành Trung tâm Tài liệu Kinh thánh ở Giêrusalem. Ngoài ra tôi còn tham khảo và trích dịch một vài điểm trong quyển sách nhan đề “The Holy Land” của Nhà xuất bản Palphot được ấn hành với sự giúp đỡ của Học viện “Studium Biblicum Franciscanum” thuộc dòng Phanxicô và tham khảo cả bản tiếng Pháp của tác phẩm này.

I. AI CẬP

Những ngày ở Ai cập, chúng tôi đi tham quan Kim tự tháp, Tượng Nhân sư, viện giấy Papyrus, viện Bảo tàng Ai cập, Tu viện Thánh Catherine và Núi Sinai. Hành trình dài đi ngang qua sa mạc mênh mông, qua Biển Đỏ, kênh đào Suez, sông Nile… Trong tác phẩm vĩ đại của nền văn học Ba Tư (Perse) “Nghìn lẻ một đêm” có viết: “Những ai chưa đến Ai cập được xem như chưa biết thế giới. Bụi nơi đây được làm bằng vàng. Dòng sông Nile ở đây là một kỳ quan. Phụ nữ nơi này giống như những thiên thần. Và không thể khác hơn được vì Ai cập là chiếc nôi của nền văn minh nhân loại”. Trên bản đồ, hình bình hành Ai cập và bán đảo Sinai tạo thành một vùng đất có diện tích hơn một triệu cây số vuông. Dòng sông Nile mang hai sắc màu xanh trắng bắt đầu từ cao nguyên Ruanda, chảy qua Ai cập theo hướng Nam – Bắc và kết thúc tại biển Địa Trung Hải. Châu thổ sông Nile như một cây quạt khổng lồ màu xanh đang xòe ra và thủ đô Cairô như một viên ngọc sáng đính vào đầu mút của nó…Nền văn minh Ai cập cổ đại đã hình thành từ cách đây hàng ngàn năm và là một trong những nền văn minh cổ đại phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử. Không chỉ là chủ nhân của những kim tự tháp đã trở thành kỳ quan thế giới, người Ai cập cổ đại còn sáng tạo ra nhiều thứ tuyệt vời khác. Sách viết hấp dẫn như vậy, nhưng đi đâu, chúng tôi cũng thấy những trạm lính gác kiểm tra an ninh chặt chẽ, sa mạc khô cằn, đường phố và nhà cửa còn nhếch nhác…

Ai cập quốc danh chính thức là Cộng hòa Ả Rập. Ai cập là một nước cộng hòa nằm ở Bắc Phi, Trung Đông và Tây Nam Á. Ai cập có biên giới với Libi ở phía tây, Sudan ở phía nam, với Israel ở đông bắc. Vai trò địa chính trị quan trọng của Ai cập xuất phát từ vị trí chiến lược là một quốc gia liên lục địa ở cả châu Á và châu Phi, họ sở hữu một cầu nối lục địa (Eo đất Suez) giữa Châu Phi và Châu Á, và một cầu nối đường thuỷ (Kênh Suez) nối giữa Biển Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương thông qua Biển Đỏ.

Ai cập là nước đông dân thứ hai ở Châu Phi, với khoảng 83 triệu người. Hầu hết dân số tập trung dọc theo hai bờ sông Nile (nhất là tại Alexandria và Cairô) và tại Châu thổ và vùng gần Kênh đào Suez.

Ai cập là một nước Hồi giáo với gần 90% dân số theo đạo này, phần lớn thuộc dòng Sunni một nhánh của Hồi giáo. Người theo Cơ Đốc giáo chiếm khoảng 10% dân số, phần lớn là dòng Chính thống giáo Copt với 9%, 1% còn lại gồm Công Giáo, Chính thống giáo Hy Lạp, Chính thống giáo Syria, và Chính thống giáo Armenia, phần lớn sống tại Alexandria và Cairo.Hiện vẫn còn một cộng đồng Do Thái nhỏ, với khoảng 300 người Ai cập. (x.vi.wikipedia.org/wiki/AiCập)

1. Kim Tự Tháp Kheops (Đại Kim Tự Tháp Giza)

Kim tự tháp Kheops là công trình cao nhất thế giới vào thời điểm năm 2.570 TCN. Nó đã phá kỷ lục của Kim tự tháp đỏ Sneferu, Ai cập. Chiều cao nguyên thủy của nó là 146,6m còn chiều cao hiện nay chỉ còn 138.8m

Kim tự tháp Kheops còn gọi là kim tự tháp Khufu hoặc Đại kim tự tháp Giza, là một trong những công trình kiến trúc cổ nhất và duy nhất còn tồn tại trong số 7 kỳ quan thế giới cổ đại. Cách chung các nhà Ai cập học cho rằng kim tự tháp này được xây dựng mất 20 năm và hoàn thành vào năm 2.560 TCN. Mọi người đều cho rằng kim tự tháp này được xây dựng làm lăng mộ cho Hoàng đế Pharaon Kheops thuộc Triều đại thứ tư thời Ai cập cổ đại. Người ta cho rằng Hemiunu, vị tể tướng của Kheops lúc bấy giờ, là kiến trúc sư của Đại Kim tự tháp này.

Đại Kim Tự Tháp này là kim tự tháp lớn nhất trong 3 kim tự tháp trong vùng Giza Necropolis giáp ranh với Cairô, thủ đô Ai cập. Nó là phần chính của một phức hợp các công trình bao gồm cả hai ngôi đền lăng tẩm thờ Kheops (một gần kim tự tháp và một gần sông Nil), 3 kim tự tháp nhỏ hơn cho các bà vợ của Kheops, và một kim tự tháp "vệ tinh" nhỏ hơn. Có một con đường nối hai ngôi đền và một lăng tẩm nhỏ bao quanh kim tự tháp danh cho các quý tộc. Một trong ba kim tự tháp nhỏ có chứa mộ của hoàng hậu Hetepheres (được khám phá năm 1925), em gái và vợ của Sneferu và mẹ của Kheops. Khi khai quật, dự án vẽ bản đồ Giza đã khám phá ra nhiều tòa nhà và các công trình khác trong khu vực này.

Cách đó vài trăm mét về phía tây nam, có một Kim tự tháp hơi nhỏ hơn một chút là Kim tự tháp Khafre, vị vua này là một trong những người kế vị Kheops và người ta cho rằng ông là người đã xây dựng tượng Đại nhân sư (Đại Sphinx Giza). Thêm vài trăm mét nữa về phía tây nam là Kim tự tháp Menkaure, người kế vị Khafre, với chiều cao khoảng một nửa Đại kim tự tháp. Hiện nay, kim tự tháp Khafre là kim tự tháp cao nhất trong nhóm kim tự tháp, vì Đại kim tự tháp đã mất khoảng 8m chiều cao vì các vật liệu trên đỉnh bị đánh cắp.

- Kỹ thuật xây dựng kim tự tháp của người Ai cập

Những dụng cụ hỗ trợ thời cổ đại hình RJ hay RL có thể đã được người ta sử dụng để đưa các khối đá nặng hàng tấn lên cao.

Người ta đã thử đưa ra nhiều ước tính khác nhau về số nhân lực cần thiết để xây dựng Đại kim tự tháp.

Vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, nhà sử học Hy Lạp là Herodotus đã ước lượng việc xây dựng có thể cần tới 100.000 người trong vòng 20 năm.

Kiến trúc sư người Ba Lan, Wieslaw Kozinski cho rằng cần phải có 25 người mới mang được một khối đá nặng 1,5 tấn, nên ông ước tính số nhân công là 300.000 người tại công trường, và với khoảng 60.000 người ở những nơi khác.

Vào thế kỷ 19, nhà Ai cập học, William Flinders Petrie cho rằng, nhân công không phải là nô lệ thuần túy mà còn là dân cư ở những vùng nông nghiệp tại Ai cập,vì khi sông Nil có lũ thì các hoạt động nông nghiệp tạm ngưng nên họ cần việc làm trả lương.

Nhà Ai cập học, Miroslav Verner cho rằng, số lao động được tổ chức thành một hệ thống cấp bậc, gồm các toán 1.000 người, cấp dưới là các nhóm 200 người, rồi sau đó còn phân chia thành nhiều nhóm nhỏ nữa theo trình độ tay nghề. Việc xây dựng Đại kim tự tháp không đòi hỏi quá 30.000 nhân công.

Nhà toán học Kurt Mendelssohn cho rằng, lượng nhân công cao nhất có thể lên tới 50.000 người, trong khi Ludwig Borchardt và Louis Croon lại cho rằng, con số đó chỉ khoảng 36.000.

Công ty Daniel, Mann, Johnson, & Mendenhall hợp tác với Mark Lehner và các nhà Ai cập học khác đã ước tính toàn bộ dự án này cần lượng nhân công trung bình là 13.200 người và cao điểm là 40.000. Người ta không sử dụng ròng rọc, bánh xe, hay các công cụ sắt. Họ cho rằng từ khi khởi công xây dựng tới khi hoàn thành Đại Kim tự tháp người ta mất khoảng 10 năm. Cuộc nghiên cứu của nhóm này ước tính số lượng khối đá được sử dụng trong việc xây dựng vào khoảng 2 đến 2,8 triệu khối đá, nhưng con số chính xác giảm còn 2 triệu khối đá sau khi trừ bớt diện tích khoảng không các phòng bên trong. Đa số các học giả đồng ý với con số ước tính này. Những tính toán của các nhà Ai cập học cho rằng số nhân công phải đạt được mức 180 khối đá trên giờ (ie. 3 khối/phút) với 10 giờ lao động mỗi ngày để đặt mỗi khối đá riêng biệt vào vị trí của chúng. Nhưng ước tính này không được nhiều người ta công nhận.

Các nhà Ai cập học chấp nhận kết quả các ước tính như sau: 2.400.000 khối đá được sử dụng trong vòng 20 năm, mỗi ngày công nhân làm việc liên tục 10 giờ.Tuy nhiên, công trình xây dựng không bao gồm khoảng thời gian và nhân công cần thiết cho việc thiết kế, khảo sát và chuẩn bị mặt bằng với diện tích 13 mẫu Anh của Đại kim tự tháp. Nó cũng không bao gồm thời gian xây dựng: 2 kim tự tháp chính khác trên cùng một công trường, con Đại Nhân Sư (Sphinx), các đền đài, các hệ thống đường đắp cao, nhiều dặm vuông mặt bằng được lát đá, chuẩn bị mặt bằng toàn bộ thung lũng Giza, 35 bến tàu thuyền được đục vào trong đá nền cứng. Toàn bộ thung lũng Giza đã được xây dựng trong thời cai trị của nhiều vị vua Ai cập Pharaon trong vòng chưa tới 100 năm. Bắt đầu với vua Djoser cầm quyền từ 2687-2667 TCN, 3 kim tự tháp lớn khác cũng đã được xây dựng: Kim tự tháp bậc thang Saqqara (được cho là Kim tự tháp đầu tiên của Ai cập), Kim tự tháp Bent và Kim tự tháp đỏ của vua Sneferu. Cũng trong giai đoạn này (từ 2686 đến 2498 TCN) con đập Wadi Al-Garawi đã sử dụng khoảng 100.000 mét khối đá và gạch trong việc xây dựng. Bắt đầu từ Saqqara, nhà Ai cập học Barbara Mertz đã cho rằng gần 700 kim tự tháp đã được xây dựng ở Ai cập trong khoảng thời gian gần 500 năm.

- Sơ đồ bố trí của Đại Kim tự tháp

Học giả cổ đại Diodorus Siculus cho rằng, các khối đá lớn được kéo lê dọc một hệ thống các đường dốc để tới độ cao cần thiết. Herodotus lại cho rằng, các khối đá sử dụng xây dựng Đại kim tự tháp được đặt vào vị trí bằng cách đưa chúng lên dần từng giàn giáo bằng gỗ ngắn liên tiếp. Gần đây, Mark Lehner cho rằng một đường dốc hình xoắn ốc, bắt đầu từ mỏ đá dẫn tới phía đông nam và tiếp tục chạy quanh bên ngoài Kim tự tháp. Các khối đá có thể đã được đặt trên các xe trượt chạy trên đường được bôi trơn bằng nước hoặc sữa. Một số học giả khác lại cho rằng các khối đá được di chuyển nhờ con lăn, súc gỗ tròn đặt liên tục bên dưới các khối đá.

Nếu một đường dốc được sử đụng để đưa các khối đá cao nhất vào vị trí thì nó phải ngày càng thu hẹp lại bởi vì đỉnh kim tự tháp nhỏ dần lên phía trên. Tuy nhiên, việc xây dựng con đường dốc đó cũng đòi hỏi rất nhiều nhân lực, có thể chiếm quá nửa số nhân công. Việc khai quật vùng phía nam Đại kim tự tháp cho thấy bằng chứng sót lại của một con đường dốc gồm hai bức tường được xây bằng gạch vụn được trộn với Tafla hai bên. Ở giữa được nhồi cát và thạch cao tạo nên thân đường. Người ta đã phát hiện ra con đường này trong khi thiết kế hệ thống âm thanh và ánh sáng tại Giza. Theo kích cỡ lý thuyết về con đường dốc tầm cỡ lớn đáp ứng yêu cầu cho việc xây dựng Đại kim tự tháp, chúng ta sẽ không hiểu con đường dốc cỡ nhỏ mới được khám phá đó được dùng vào việc gì.

Giáo sư hàng không Caltech Mory Gharib cho rằng, người Ai cập có thể đã di chuyển các khối đá bằng sức gió, nhờ vào các cánh diều và các ròng rọc chứ không phải nhờ số lượng nô lệ đông đảo.

Nhà khoa học vật liệu Joseph Davidovits thừa nhận rằng, các khối đá kim tự tháp không phải là đá đục đẽo, nhưng phần lớn là hình thức bê tông đá vôi: chúng được 'đổ khuôn' giống như với xi măng hiện đại. Đá vôi mềm chứa nhiều kaolinit được khai thác ở con suối cạn phía nam cao nguyên Giza. Chúng được ngâm trong những bể lớn gần sông Nil cho tới khi rữa trở thành sền sệt như hồ. Vôi (được tìm thấy trong tro bếp) và natri (cũng được người Ai cập sử dụng trong ướp xác) được trộn vào. Sau đó các bể này được để bốc hơi tự do, còn lại một hỗn hợp như đất sét ướt. Thứ "bê tông" ướt này sẽ được mang tới công trình và được đóng vào trong các khuôn gỗ có thể tái sử dụng trong vài ngày để trải qua một quá trình phản ứng hóa học tương tự như sự 'đông cứng' của xi măng. Ông cho rằng, các khối đá mới sẽ được đổ khuôn ngay tại chỗ, bên trên khối cũ.

Khi xây dựng, Đại kim tự tháp cao 146,5 mét, nhưng sau này vì bị ăn mòn và bị mất trộm phiến đá trên đỉnh (chóp tháp) nên chiều cao hiện tại chỉ còn là 138,75 m. Theo giới chuyên môn, cạnh đáy nguyên thủy dài 231mét mỗi phía và chiếm khoảng diện tích xấp xỉ 53.000 mét vuông. Ngày nay, mỗi cạnh dài khoảng 230,36 mét. Kích thước bị giảm đi một chút và vẻ ngoài thô sơ hiện nay vì nó đã mất những tấm đá bóng ốp bên ngoài. Một số tấm đá bóng có kích thước lên tới 2,5 mét chiều dày và nặng hơn 15 tấn.

Vào năm 1301, một trận động đất lớn đã làm nhiều tấm đá ốp ngoài rơi ra, sau đó bị Vua Hồi giáo Bahri An-Nasir Nasir-ad-Din al-Hasan mang đi năm 1356 để xây dựng các đền thờ Hồi giáo và các pháo đài tại Cairo gần đó. Ngày nay, người ta vẫn có thể thấy các tấm đá đó tại các công trình nêu trên. Những nhà thám hiểm sau này đã thông báo về nhiều đống vật liệu vụn nát ở đáy các kim tự tháp, hậu quả của sự sụp đổ tấm ốp sau đó và cuối cùng chúng đã bị dọn dẹp cho các cuộc khai quật. Tuy nhiên, hiện nay ta vẫn thấy nhiều tấm đá ốp quanh đáy Đại kim tự tháp, điều này chứng minh tài nghệ xây dựng và lắp đúng vị trí.

Trong vòng 4.000 năm, đây là công trình cao nhất thế giới, và tiếp tục giữ vị trí này cho tới khi tháp Thánh đường Lincoln cao 160 mét được hoàn thành năm 1300.

Kim tự tháp được xây dựng bằng những khối đá vôi, bazan hay hoa cương đã được đẽo gọt. Lõi được làm phần lớn bằng những khối đá vôi thô chất lượng thấp khai thác từ mỏ phía nam kim tự tháp Kheops. Những khối đá này nặng trung bình từ 2 -4 tấn. Các khối đá vôi chất lượng cao được sử dụng làm tấm ốp ngoài, một số khối đá có trọng lượng tới 15 tấn. Đá vôi được lấy từ Tura, khoảng 8 dặm từ phía bên kia sông Nil. Mỏ đá hoa cương có khoảng cách gần 500 dặm tại Aswan với những khối nặng tới 60-80 tấn, được sử dụng cho các cánh cổng và các căn phòng.

Người ta ước lượng, tổng khối lượng kim tự tháp khoảng 5,9 triệu tấn với thể tích khoảng 2.600.000 mét khối.

Khi hoàn thành, Đại kim tự tháp được ốp ngoài bởi các phiến 'đá ốp' trắng– nghiêng, nhưng có đỉnh phẳng, được mài rất trắng. Nhờ vậy công trình tỏa sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời và thậm chí cả ban đêm khi có ánh trăng, mọi người cũng quan sát thấy nó từ các ngọn núi phía nam Ai cập, với khoảng cách 300 km. Hiển nhiên ngày nay, mọi thứ còn lại chỉ là lõi kim tự tháp kiểu bậc thang, nhưng nhiều phiến đá ốp vẫn có thể được thấy xung quanh đáy. Các phiến đá ốp Đại kim tự tháp và Kim tự tháp Khafre (được xây dựng ngay bên cạnh) được cắt chính xác tới mức trên toàn bộ diện tích bề mặt chúng chỉ lệch khỏi mặt phẳng thực 1/50 inch. Chúng được gắn vào nhau hoàn hảo tới mức tới tận ngày nay, ta cũng không thể nhét được một mũi dao vào giữa khe nối.

Đại kim tự tháp có cách bố trí bên trong khác với các kim tự tháp khác trong vùng. Số lượng đường đi và phòng lớn nhất, các chi tiết được hoàn thiện tinh vi. Độ chính xác trong xây dựng. Các bức tường trong toàn bộ kim tự tháp đều trơn và không được khắc chữ, nhưng có những hàng chữ viết trên tường, người ta cho là do các công nhân viết lên các phiến đá trước khi chúng được ráp với nhau. Tất cả 5 phòng phụ đều có khắc chữ. Đoạn chữ nổi tiếng nhất là đoạn nhắc tới tên Kheops: "năm 17 triều Kheops. Một đoạn chữ khác viết "những người bạn của Kheops", có thể là tên của một trong những toán thợ. Dù đây không phải là một bằng chứng không thể phủ nhận được về việc Kheops là người đầu tiên ra lệnh xây dựng Đại kim tự tháp, tuy nhiên nó thật sự xóa bỏ mọi nghi vấn về việc ít ra ông cũng có tham gia vào một số công đoạn xây dựng trong thời cai trị của mình.

Ba phòng bên trong Đại kim tự tháp đều được bố trí ở vị trí trung tâm, trên trục đứng của kim tự tháp. Phòng thấp nhất ("phòng chưa hoàn thiện") được đục vào đá xây kim tự tháp. Phòng này là phòng lớn nhất, nhưng chưa hoàn thành, chỉ mới được đục thô vào đá. Phòng giữa, hay Phòng Nữ hoàng, là phòng nhỏ nhất, có kích thước khoảng 5,74 × 5,23 mét, và cao 4,57 m. Bức tường phía đông phòng có một hốc tường lớn có lẽ đã từng chứa một pho tượng. Người Ai cập cổ đại tin rằng pho tượng này sẽ được dùng làm một con tàu "dự trữ" cho Ka (ie. linh hồn) của Pharaon, nếu xác ướp bị phá huỷ. Tuy vậy, mục đích thực sự của căn phòng vẫn còn là điều bí ẩn.

Ở cuối, hàng loạt những lối dài dẫn vào trong kim tự tháp là cấu trúc của phòng chính, Phòng Hoàng đế. Phòng này ban đầu có kích thước 17 × 34 × 19 ft, gần kiểu hình khối kép. Các đặc điểm chính khác của Đại kim tự tháp gồm Phòng trưng bày lớn, quan tài được tìm thấy trong Phòng Hoàng đế, cả các lối lên và lối xuống, và phần thấp nhất của "phòng chưa hoàn thiện" bên trên.

Phòng trưng bày lớn (49 × 3 × 11 m) có đặc điểm thiết kế kiểu tay đòn đỡ khéo léo và nhiều "khoảng trống" được đặt cách quãng đều nhau dọc theo chiều dài mỗi phía đáy với một "cái rãnh" chạy dọc chiều dài sàn phòng. Những khoảng trống này được dùng làm gì hiện vẫn là điều bí ẩn.

Quan tài trong phòng Hoàng đế được khoét trong một phiến đá granit Aswan màu đỏ và quá lớn để được mang vào qua đường đi bên trong. Quan tài có được dự định đựng xác Hoàng đế hay không hiện nay vẫn còn là điều chưa được biết, nhưng nó quá ngắn đề đặt một người có tầm vóc trung bình vào trong mà lại không gập cong chân lại (một kỹ thuật không được áp dụng trong nghi lễ tang Ai cập) và nắp của nó cũng không được tìm thấy.

"Phòng chưa hoàn thiện" nằm 90 feet sâu dưới đất và còn ở tình trạng thô, thiếu tính chính xác như các phòng khác. Phòng này không được các nhà Ai cập

học xem xét bởi vì đơn giản đó chỉ là một sự thay đổi kế hoạch, những người thiết kế đã dự định dùng nó làm phòng chôn cất nhưng sau này Vua Kheops đã thay đổi ý kiến và muốn được chôn trong một phòng ở cao hơn.

Hai nhà Ai cập học không chuyên người Pháp, Gilles Dormion và Jean-Yves Verd'hurt, vào tháng 8 năm 2004 đã tuyên bố rằng, họ đã khám phá ra một phòng chưa từng được biết tới trước đó dưới mặt đất, Phòng nữ hoàng bên trong kim tự tháp sau khi sử dụng radar tìm kiếm và phân tích kiến trúc. Họ cho rằng phòng này vẫn chưa bị xâm phạm và có thể đang chứa thi thể nhà vua. Họ cũng cho rằng Phòng Hoàng đế, phòng thường được cho là nơi yên nghỉ ban đầu của Kheops không phải được xây dựng với mục đích làm phòng chôn cất.

Theo Dr. Schoch, nếu thông tin do cuộc nghiên cứu đưa ra là chính xác, nó sẽ tạo ra cảm giác cho rằng kim tự tháp đã được xây dựng và tiếp tục được xây dựng trong nhiều thời kỳ và các Pharaoh sau này như Kheops là những người thừa kế duy nhất các lăng mộ đã từng tồn tại trước đó, chứ không phải là người đầu tiên xây dựng, và vì thế chỉ đơn giản là xây dựng lại hay sửa chữa lại các công trình có trước.

Tương tự như nhiều công trình lăng mộ từ thời cổ đại khác, cùng với thời gian, Đại Kim tự tháp đã trở thành chủ đề của nhiều giả thuyết suy đoán và giải thích về nguồn gốc, niên đại, phương thức xây dựng cũng như mục đích sử dụng của nó.

Các ý kiến đó đã trở thành một phần của văn hóa đại chúng ít nhất từ đầu thế kỷ 20 với giả thuyết cho rằng các kim tự tháp được những người tị nạn từ Atlantis xây dựng.

Một chủ đề thường thấy trong nhiều giả thuyết liên quan tới kim tự tháp Giza và các địa điểm cự thạch khác trên thế giới là ý kiến cho rằng, chúng không phải là các sản phẩm của các nền văn hóa và văn minh trong lịch sử quy ước mà là tàn tích lâu đời hơn nữa của một nền văn hóa rất cổ đại và tiến bộ chưa từng được biết đến. Nền văn minh này được cho là đã bị tiêu diệt từ thời cổ đại bởi một thảm họa lớn vào khoảng thời kỳ chấm dứt kỷ băng hà cuối cùng, theo đa số họ cho là khoảng năm 10.500 TCN. Riêng đối với Đại Kim tự tháp, các giả thuyết cho rằng nó đã được xây dựng bởi nền văn minh ngày nay đã mất, hoặc việc xây dựng nó có ảnh hưởng từ kiến thức (ngày nay đã mất) học được từ nền văn minh đó. Quan điểm sau này thường được các nhà lý thuyết gần đây như Hancock và Bauval, là những người đã biết Đại Kim tự tháp có hình thức bố trí tương tự Vành đai chùm sao Orion và Sirius ở thời điểm năm 2450 TCN ủng hộ, dù họ cho rằng sơ đồ bố trí kim tự tháp Giza đã được thực hiện từ năm 10.450 TCN.

Sự tồn tại theo tiên nghiệm của một nền văn minh như vậy được các nhà lý thuyết mặc nhiên công nhận và họ cho rằng đó là cách giải thích thích đáng duy nhất cho việc tại sao những nền văn hóa văn minh nhất thời cổ đại như Ai cập và Sumer, lại có thể đạt tới những đỉnh cao kỹ thuật như thế ngay từ khi mới bắt đầu xuất hiện và có lẽ cũng chưa từng có tiền lệ.

Sau khi tham quan các Kim tự tháp và tượng Nhân sư, chúng tôi đi đến nhà nguyện Dòng Phanciscan dâng thánh lễ đầu tiên trên đất Ai cập. Cha Lộc.OP, chủ tế và chia sẻ Lời Chúa. Các Nữ tu vui mừng đón tiếp và hàn huyên thăm hỏi.

Trở về khách sạn nghỉ ngơi sau một hành trình dài vất vả.

Sáng hôm sau, chúng tôi tham quan viện giấy Papyrus và Viện bảo tàng Ai cập tại thành phố Cairô.

2. Viện Giấy Papyrus

Ai cập, quốc gia có dòng sông Nile chảy qua, nơi sản sinh ra một trong các nền văn minh sớm nhất thế giới, để lại cho nhân loại các di sản kiến trúc đồ sộ như các Kim tự tháp, các kiệt tác về hội họa, điêu khắc hay nghệ thuật ướp xác... Nhiều ngành nghề tại quốc gia này như đánh bắt cá, nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đã ra đời phát triển thịnh vượng ngay từ hàng nghìn năm trước công nguyên. Một trong những nghề thủ công tiêu biểu đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với người Ai cập cổ đại cũng như hiện đại, giúp biến đổi xã hội và nâng nền văn minh lên tầm cao mới đó là nghề làm giấy papyrus (giấy cói).

Vào tham quan viện giấy, trước tiên có một nhân viên biểu diễn cho chúng tôi xem cách người Ai cập sản xuất loại giấy này từ mấy ngàn năm trước. Giấy papyrus được ghi nhận đã được sử dụng lần đầu tiên ở Ai cập cổ đại, vương triều thứ nhất khoảng 4.000 năm trước công nguyên. Giấy papyrus có màu ngà, nâu vàng, cứng nhưng có thể uốn cong, và đặc biệt rất bền, được làm từ lõi của một loại cói có tên papyrus, cao khoảng 2-3m mọc hai bên bờ sông Nile. Để hoàn thành sản phẩm giấy papyrus cần trải qua nhiều công đoạn khác nhau, đòi hỏi tay nghề khéo của người thợ. Trước tiên, họ thu hoạch thân cây papyrus và cắt thành những khúc dài, bóc bỏ vỏ xanh phía bên ngoài lấy phần lõi xốp, cán dập phần lõi này càng mỏng càng tốt và ngâm chúng vào trong nước khoảng 3 ngày để khử đường. Sau đó, chúng sẽ được ép hết nước và xếp thành các lớp. Lớp thứ nhất trải san sát, ghế nhẹ các mép lên nhau khoảng 1mm. Lớp thứ hai được trải tương tự nhưng vuông góc với lớp thứ nhất. Hai lớp này sẽ được ép lại với nhau và được chèn dưới một vật có trọng lượng lớn, thông thường là phiến đá to để ép khô trong khoảng 6 ngày. Lượng đường còn lại papyrus sẽ liên kết dính các thớ sợi với nhau. Cuối cùng, khi giấy đã khô, bề mặt giấy được đánh nhẵn bằng vỏ ốc hoặc miếng ngà voi. Chất lượng thành phẩm phụ thuộc vào một số yếu tố bao gồm vị trí trồng cây papyrus, tuổi cây, mùa thu hoạch cây, và quan trọng nhất là lớp lõi trong thân cây. Giấy papyrus đẹp nhất được làm từ lớp phía trong cùng lấy từ cây papyrus mọc ở vùng châu thổ sông Nile. Không có loại vật liệu nào có thể thay thế được giấy paparus cho đến năm 751, khi người Ả Rập biết cách làm bột giấy nhờ việc thả tự do cho tù binh Trung Quốc để đổi lấy bí quyết làm giấy. Cách làm giấy thông thường đó dễ hơn rất nhiều, nhưng độ bền lại kém xa so với giấy papyrus. Tuy nhiên, sự ra đời của bột giấy ngày càng khiến việc sản xuất giấy paparus bị đình đốn, kết quả là loài cây này dần biến mất khỏi hai bờ sông Nile. Mãi cho tới năm 1969, nghề làm giấy papyrus mới được khôi phục nhờ công của nhà khoa học người Ai cập có tên là Hassan Ragab. Ông đã giới thiệu lại cây papyrus cho người dân Ai cập và bắt đầu trồng lại loại cây này gần thủ đô Cairo. Hassan cũng nghiên cứu phương pháp làm giấy paparus. Dẫu kỹ thuật chính xác làm giấy được giữ bí mật và người Ai cập cổ không ghi chép lại bằng chữ viết, nhưng sau nhiều năm nghiên cứu, cuối cùng ông đã tìm ra và nghề thủ công truyền thống cho người Ai cập được khôi phục đến tận ngày nay. Như xưa, các sản phẩm giấy Papyrus vẫn phục vụ đời sống con người trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là nghệ thuật và du lịch.

Chúng tôi chiêm ngắm cách ngạc nhiên và trầm trồ khen ngợi trước những tác phẩm nghệ thuật và nhiều người mua tranh làm qùa kỷ niệm.

3. Viện Bảo Tàng Ai Cập ở Cairô

Rời viện giấy papyrus, chúng tôi đến viện bảo tàng. Xe chạy dọc theo sông Nile, thuyền bè tấp nập qua lại. Dòng sông xanh mát chảy qua trung tâm thành phố Cairô mang đến sự sống cho con người và cây cỏ giữa sa mạc nắng cháy.

Lối vào viện bảo tàng quá nhiều lính gác với xe tăng và súng ống như tư thế sẵn sàng chiến đấu. Chúng tôi nín thở đi qua hàng rào an ninh để vào tham quan.

Viện bảo tàng trưng bày những kiệt tác nghệ thuật cổ đại trải dài suốt lịch sử Ai cập, lưu giữ bộ sưu tập nghệ thuật lớn nhất thế giới với trên 250.000 hiện vật, gồm cả hiện vật trong lăng mộ Vua Tuttakhamen. Bộ sưu tập kho báu bằng vàng, đồ trang sức.. được cất giữ bí mật trong mộ của vị vua này đến tận năm 1920 mới được các nhà khảo cổ khám phá khai quật lên.

Vào buổi sáng hơn 90 năm về trước, nhà khảo cổ học người Anh Howard Carter cùng với huân tước Carnarvon đã mở dấu niêm phong hầm mộ chôn cất xác ướp của vua Tutankhamun cùng với kho báu ở Thung lũng các vị vua. Đây là lần đầu tiên các nhà khảo cổ phát hiện được lăng mộ của một vị vua Ai cập

còn khá nguyên vẹn. Bên cạnh xác ướp, họ còn tìm thấy gần 5.000 hiện vật, trong đó có nhiều món đồ bằng vàng ròng quý giá giúp con người tìm hiều kỹ hơn về lịch sử Ai cập cổ đại.

Vua Tutankhamun là vị Pharao trẻ nhất và nổi tiếng nhất trong các vị hoàng đế Ai cập. Ông là người đã trị vì quốc gia trong khoảng thời gian 10 năm và qua đời khi đang độ tuổi thanh xuân (19 tuổi). Loài người đã thêu dệt nên nhiều giai thoại xung quanh cái chết bí ẩn của vị Vua này.

Ngày 04/11/1922, dưới sự hỗ trợ tài chính của lãnh chúa giàu có George Herbert - người đam mê về lịch sử Ai cập cổ đại. Howard Carter nhà khảo cổ học người Anh đã mở dấu niêm phong lăng mộ vua Tut. Kể từ đây, những tin đồn về lời nguyền và những cái chết kỳ lạ, không rõ nguyên nhân của những người tham gia vào cuộc khai quật nơi an nghỉ của Pharao vĩ đại bắt đầu xuất hiện.

Theo một số tài liệu, trong khi khám phá mộ của vua Tutankhamun, huân tước Carnarvon đã nhìn thấy một dòng chữ có nội dung: “Cái chết sẽ nhanh chóng đến với ngươi, nếu kẻ nào dám xâm phạm sự thanh bình của hoàng đế...”.

Bốn tháng sau đó, lãnh chúa Herbert chết vì bị muỗi cắn dẫn đến nhiễm trùng máu. Sau đó, huân tước Carnarvon cũng qua đời. Cái chết cũng lần lượt đến với người em cùng cha khác mẹ và cô nữ hộ lý của ông, tiếp đến là một tỷ phú Mỹ đã từng vào thăm hầm mộ, người thợ chụp ảnh, vị bác sĩ đã chụp hình X-quang xác ướp của Pharao, một người đồng nghiệp của ông tên là Arthur Meis (vốn cũng tham gia khai quật hầm mộ) và vợ của huân tước là bà Almina. Hầu hết những người tham gia quá trình khai quật đều chết một cách bí ẩn. Vì vậy, người ta đồn đoán rằng, lời nguyền của vua Tutankhamun đã ứng nghiệm.

Tuy nhiên, cơ quan chức năng cuối cùng xác định được rằng dòng chữ khắc trong lăng mộ của vị vua này là do các phóng viên “sáng tạo” ra câu chuyện đó. Lời nguyền chết chóc của Tutankhamun cũng không hề tồn tại mà là hành động, âm mưu giết người của một kẻ cuồng tín.

Trong cuốn sách của nhà sử học Mark Benyon, một kẻ tôn thờ quỷ Satăng có tên Aleister Crowley chính là hung thủ gây ra cái chết của 6 trong số 20 người khai quật mộ vua Tutankhamun. Thậm chí, cảnh sát còn phát hiện ra hắn đang lên kế hoạch thực hiện vụ giết người thứ 7 và làm cho mọi người tin rằng, lời nguyền chết chóc của vua Tutankhamun là có thật.

Nhà sử học Benyon cho biết, Crowley dường như bắt chước cách giết người của kẻ cuồng sát Jack Ripper. Thêm vào đó, hắn tin rằng nếu bản thân giết càng nhiều người thì tội ác của mình sẽ càng khó bị bại lộ.

Một nguyên nhân khác khiến tội ác của Crowley không bị phát giác trong nhhiều năm là bởi mọi người đều tin vào lời nguyền của xác ướp vua Ai cập cổ đại và không hề nghĩ đến khả năng họ bị sát hại.

Trong nhiều năm qua, không ít các học giả suy đoán rằng, cái chết đột ngột và đầy bí ẩn của vua Tutankhamun khi đang ở tuổi 19 là do bị ám sát. Người ta cho rằng, ông bị sát thủ đánh một cú chí mạng vào đầu dẫn đến tử vong. Và chuyện soán ngôi đoạt vị luôn tồn tại xưa như trái đất, có nhiều giả thuyết chỉ ra rằng Vua Tuttankhamun bị chính người chú của mình sát hại để cướp đoạt ngôi báu. Tuy nhiên, gần đây các chuyên gia đã xác định là vết nứt trong hộp sọ của vua Tut do một tai nạn trong quá trính ướp xác hoặc do những người trong đoàn khảo cổ của ông Carter đã không cẩn thận làm “hư” thi hài của vị vua trẻ tuổi này.

Năm 2005, một nghiên cứu chỉ ra rằng, trước khi qua đời vua Tutankhamun đã bị gãy chân và nhiễm trùng do vết thương không được xử lý triệt để. Theo một giả thuyết, vua Tut đã gặp chấn thương ở chân do bị ngã ngựa trong một chuyến đi săn. Thêm vào đó, các nhà khoa học đã tiến hành xét nghiệm DNA của xác ướp vào năm 2010 và phát hiện ra vị hoàng đế này mắc bệnh sốt rét. Căn bệnh này có thể là nguyên nhân làm trầm trọng thêm vết thương bị nhiễm trùng ở chân hoặc khiến ông bị ngã ngựa. Người ta còn đưa ra giả thuyết rằng, một con hà mã đã cắn hoàng đế khiến ông qua đời khi còn rất trẻ.

Trong thời gian trị vì, Vua Tutankhamun thay đổi lại những trật tự của vua cha. Trong suốt thời gian cai trị, vua dường như không để xảy ra những biến cố lớn. Tuy nhiên, vị vua trẻ đã tiến hành một cải cách có ý nghĩa to lớn. Cha của ông là vua Akhenaten được coi là thần Aten - vị thần quan trọng nhất của Ai cập. Ông cũng là người được dân chúng tôn thờ hơn so với các vị thần khác. Thêm vào đó, vua Akhenaten cũng chuyển thủ đô Ai cập từ Thebes đến một vùng đất mới ở Aten. Nhưng kể từ khi lên ngai vàng, vua Tutankhamun được cho là người đã làm đảo ngược những trật tự tôn giáo trong dân chúng. Cụ thể, vua trẻ cho khôi phục lại việc thờ thần Amun chứ không thờ vua cha như trước đây. Ông cũng ra lệnh chuyển thủ đô trở lại vùng đất kinh kỳ xưa là Thebes. Ngoài ra, ông cũng thay đổi tên của mình từ Tutankhaten (cái tên gắn liền với vị thần Aten) sang Tutankhamun (ý nghĩa của tên mới gắn với vị thần Amun).

Năm 2010, các nhà nghiên cứu thực hiện phân tích ADN xác ướp này và họ tin rằng, vị vua trẻ vĩ đại của Ai cập

được sinh ra do mối quan hệ cùng huyết thống giữa pharao Akhenaten với một trong số những người chị em gái của ông. Kết hôn cận huyết là một trong những truyền thống của hoàng gia Ai cập cổ đại. Vào thời kỳ đó, người ta cho rằng, họ là con cháu của các vị thần và kết hôn với những thành viên trong gia đình là cách để duy trì dòng máu tinh khiết, không bị pha tạp.

Các chuyên gia cho rằng, xu hướng kết hôn cận huyết dẫn đến những đứa trẻ được sinh ra sẽ có nguy cơ cao mắc khuyết tật bẩm sinh giống như bị hở hàm ếch... Không chỉ được sinh ra trong mối quan hệ cận huyết, vua Tutankhamen cũng đã kết hôn với người chị gái của mình là Ankhesenamun.

Khi nhà khảo cổ Horward Carter phát hiện ra lăng mộ của vua Tutankhamun, ông nhìn thấy một căn phòng chứa đầy vàng bạc vô giá như những bức tượng làm bằng vàng ròng, đồ trang sức dùng trong các nghi lễ, những chiếc thuyền nhỏ thể hiện ước muốn về cuộc hành trình đến Netherworld và một ngôi đền để chứa nội tạng ướp của Pharao. Thêm vào đó, khu hầm mộ còn có hai quan tài nhỏ chứa hai xác chết trẻ con.

Sau khi kiểm tra DNA, các nhà khảo cổ kinh ngạc phát hiện ra một trong hai xác chết đó là con gái chết yểu của vua Tutankhamun. Xác ướp còn lại dường như cũng là con của vị vua này. Các chuyên gia đưa ra giả thuyết rằng, vị vua trẻ và người chị gái sinh ra những đứa con từ mối quan hệ cận huyết nên chúng thường bị dị tật và chết non.

Ngày nay vào ngày 04 tháng 11 hàng năm, Ai cập tổ chức lễ hội kỷ niệm ngày "Vua Tuttankhamun" ngày mà lăng mộ ông được nhà khảo cổ Horward Carter tháo bỏ niêm phong. Để tưởng nhớ đến vị Pharao trẻ vĩ đại này và ngày mà ông được tìm thấy sau hơn 3.000 năm ẩn sâu dưới lòng đất.

II. SINAI

Sau khi tham quan viện bảo tàng, chúng tôi đến Nhà thờ Thánh Giuse tại trung tâm thành phố Cairô dâng thánh lễ, Cha Phan chủ tế và chia sẽ Lời Chúa.

Bữa cơm trưa tại Nhà hàng Tàu thật ngon miệng. Chúng tôi lên đường đi về phía cực nam bán đảo Sinai, hơn 8 giờ xe chạy mới tới Thành phố Sharm el-Sheikh.

Sáng sớm hôm sau chúng tôi lên đường đi Sinai. Tranh thủ thời gian dài ngồi trên xe, tôi đọc lại sách Xuất hành, tìm hiểu ơn gọi của Môsê và những biến cố lịch sử đặc biệt của dân Chúa. Sức hấp dẫn về Sinai đã tiếp thêm sức mạnh cho chúng tôi quyết tâm phải leo lên tận nơi Môsê nhận 10 điều răn trên đỉnh Sinai.

Sách Xuất hành chương 3 kể chuyện: Thiên Chúa gọi ông Môsê từ bụi cây bốc cháy: “Bấy giờ ông Môsê đang chăn chiên cho bố vợ là Gítrô, tư tế Mađian. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi.Ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi? ". Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Môsê! Môsê! " Ông thưa: "Dạ, tôi đây! ". Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh.". Người lại phán: "Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp." Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa. Đức Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Aicập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Aicập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút. Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ítraen đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Aicập. Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô để đưa dân Ta là con cái Ítraen ra khỏi Aicập.". Ông Môsê thưa với Thiên Chúa: "Con là ai mà dám đến với Pharaô và đưa con cái Ítraen ra khỏi Aicập? " Người phán: "Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra khỏi Aicập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này.". Ông Môsê thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái Ítraen và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao? ". Thiên Chúa phán với ông Môsê: "Ta là Đấng Hiện Hữu." Người phán: "Ngươi nói với con cái Ítraen thế này: "Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.". Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: "Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia.".

A. Từ gia tộc Abraham đến dân tộc Israel (Xh 1-18)

a. Con cháu Israel bị áp bức tại Ai cập

Đọc sách Xuất hành 1, 6-14, trong vài dòng ngắn ngủi tác giả đã dồn ép lịch sử 400 năm bằng cách nhảy từ Giuse đến Môsê. Trong thời gian ấy con cháu Israel sinh sôi nảy nở đông đúc. Vào khoảng năm 1570, những người Hyksos bị dân bản xứ Ai cập lật đổ, và dĩ nhiên dân Israel cũng bị thất sủng đối với chính quyền mới. Họ bị nhà cầm quyền Ai cập nghi kỵ và tìm cách chận đứng sự phát triển bằng cách bắt họ làm lao dịch nặng: nung gạch để xây dựng các thành Phithom, Ramses, thậm chí còn ra lệnh tiêu diệt các bé trai.

b. Môsê được kêu gọi

Khi vận mệnh của họ dường như đã sa xuống tận đáy vực sâu thì một vị cứu tinh đã được chuẩn bị: đó là Môsê, một khuôn mặt nổi bật nhất trong Cựu Ước.

Tuổi ấu thơ và thời niên thiếu của ông đã được Thiên Chúa chuẩn bị qua việc ông được cứu thoát và đưa vào nuôi dạy trong hoàng cung Ai cập, để có điều kiện sau này lãnh đạo dân Chúa. Một ngày kia ông đã khám phá ra dòng dõi của mình, và nhân cơ hội giết chết một người Ai cập, ông đã trốn vào hoang địa ở xứ Mađian. Xứ này tọa lạc ở phía Nam Êđom và phía Đông vịnh Araba. Ông muốn liên đới với dân tộc của mình đang bị áp bức hơn là được sống tại triều đình Pharaô.

Tại xứ Mađian, ông đã trở thành người chăn chiên cho nhạc phụ và được thanh tẩy suốt 40 năm (Cv 7, 30). Sau đó, giai đoạn quan trọng nhất cuộc đời ông bắt đầu. Thiên Chúa hiện ra với ông trên núi Khorep (Sinai) dưới dạng một ngọn lửa giữa bụi gai mà bụi gai không bị thiêu rụi. Sự tò mò đã đưa ông đến gần ngọn lửa. Nhưng từ giữa ngọn lửa, Thiên Chúa đã kêu gọi ông. Thiên Chúa Hằng Hữu, trước sau như một, đã nói với Môsê như đã nói với Abraham, Isaac và Giacóp trước kia. Người tự mạc khải mình là Thiên Chúa, Đấng trung tín trong các lời hứa và vô cùng xót thương dân Người đang bị áp bức tại Ai cập. Người quyết định cứu thoát họ và dẫn đưa về đất hứa.

Cũng như các vị đại ngôn sứ khác, Môsê cảm thấy như bị đè bẹp dưới sự uy nghi của Thiên Chúa và nhận lấy sứ mạng: “Bây giờ hãy đi, Ta sai ngươi đến với Pharaô để bảo vua ấy cho dân Ta ra khỏi Ai cập”. Môsê cảm thấy mình yếu đuối, nhưng Thiên Chúa chỉ đơn giản nói với ông: “Ta sẽ ở với ngươi”. Như thế Môsê có sứ mạng đi giải phóng dân Israel nhân danh Thiên Chúa, nhưng tên Người là gì? Ông xin Thiên Chúa cho biết tên của Người. Nhưng tên và ngôi vị là một, làm sao Môsê có thể chiếm hữu tên hằng hữu của Người được. Do đó, câu trả lời của Thiên Chúa mang đầy bí ẩn: “Ta là Giavê”. Người ta đã tranh luận rất nhiều về từ này. Giavê: Ta là Đấng Ta Là. Môsê còn đang do dự vì không có tài ăn nói, nhưng Thiên Chúa đã giải quyết bằng cách đề cử Aharon, anh ông, nói thay ông. “Chính Ta sẽ giúp các ngươi nói, ngươi và nó, và sẽ gợi ý những gì các ngươi phải làm”. Như thế chính Thiên Chúa dùng Môsê và Aharon để giải phóng dân Người bằng bàn tay mạnh với cánh tay hùng.

c. Cuộc xuất hành (-1250)

Môsê trở lại Ai cập và bắt đầu thương lượng với Pharaô để cho dân Israel ra đi. Pharaô không chịu, buộc lòng Thiên Chúa phải ra tay bằng những điềm thiêng và tai họa. Pharaô vẫn tiếp tục bướng bỉnh cho đến tai họa cuối cùng: sát hại tất cả các con đầu lòng tại xứ Ai cập, trừ các con người Do thái, nhờ máu chiên được bôi trên mi cửa. Thần sát hại đã vượt qua các cửa nhà có bôi máu chiên. Đó là cuộc vượt qua đầu tiên, cuộc vượt qua mang đầy ý nghĩa mà, theo lệnh Thiên Chúa, con cái Israel sau này phải cử hành hàng năm: họ giết chiên, ăn hối hả để tưởng niệm cuộc vược qua của Thiên Chúa bảo vệ dân Người và cuộc vượt qua Biển Đỏ dưới sự bảo vệ của Thiên Chúa.

Với tai họa cuối cùng này, Pharaô đành phải để dân Israel ra đi. Nhưng ngay sau đó Pharaô đổi ý, đem xa mã đuổi theo. Thiên Chúa đã ra lệnh cho Môsê phân rẽ nước biển đỏ để dân Israel đi qua và vùi dập xa mã Pharaô. Bằng cách này Thiên Chúa đã chứng tỏ quyền năng mạnh mẽ và lòng từ bi cứu vớt của Người.

Trong số những người ra khỏi Ai cập, không phải chỉ có con cháu Israel, mà còn có những người khác cũng lợi dụng cơ hội để thoát ách nô lệ Ai cập. Chỉ khi đã vào hoang địa, các nhóm này mới chấp nhận một nếp sống chung. Và như thế, họ cùng với con cháu Israel trở thành một dân tộc.

d. Hành trình qua sa mạc.

Sau khi được cứu thoát cách lạ lùng, người Israel bắt đầu một cuộc hành trình dài xuyên qua sa mạc. Suốt 40 năm, họ được thử thách, tinh luyện để vào đất hứa. Đó là thời gian giáo dục để trở thành một dân tộc, một cuộc giáo dục từ từ, dạy họ tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa bằng cách thi thố những phép lạ, dạy họ tín nhiệm vào sự quan phòng của Thiên Chúa bằng cách ban manna, chim cút và nước vọt ra từ tảng đá. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người trong sa mạc là một sự hiện diện đầy yêu thương.

B. Từ dân Israel trở thành dân thánh.

a. Giao ước Sinai.

Trong sách Xuất hành 3,12; 5,1, khi kêu gọi Môsê tại núi Khorep, Thiên Chúa đã mạc khải kế hoạch giải phóng dân Người khỏi Ai cập và truyền Môsê dẫn dân vào sa mạc, đến thờ phượng Thiên Chúa trên núi này.

Giờ đây khi dân Israel đã đến tại núi Sinai, Thiên Chúa lại phán với Môsê: “Chính các ngươi đã nhìn thấy cách Ta đối sử với người Ai cập, cách Ta dẫn đưa các ngươi đến với Ta trên cánh phượng hoàng. Từ đây nếu các người vâng lời và kính trọng giao ước Ta, Ta sẽ kể các ngươi là dân riêng của Ta... Ta sẽ kể các ngươi là một vương quốc tư tế và một dân tộc thánh thiện” (Xh 19, 4-7). Lời hứa kỳ diệu này đã biến Israel thành một dân tộc trung gian giữa các dân tộc, nhưng đó mới chỉ là hình bóng của một dân tộc thánh thiện đích thực sau này.

Môsê, vị trung gian giao ước đã được Thiên Chúa triệu lên núi Sinai và Người trao cho ông thập giới và bộ luật giao ước để truyền đạt cho dân chúng. Dân chúng đồng thanh đáp lại: “Tất cả những luật Giavê đã viết, chúng tôi sẽ đem ra thi hành” (Xh 24, 3). Ý muốn của Thiên Chúa đã biểu lộ qua thập giới. Đó là giới luật căn bản Thiên Chúa ban cho Israel, một thứ luân lý vừa tầm một dân tộc thô sơ. Mỗi giới răn đều đặt nền tảng trên nhân đức rõ rệt nhất và tự nhiên nhất, đối với Thiên Chúa và tha nhân. Ba giới răn đầu liên quan đến bổn phận đối với Thiên Chúa: sự độc tôn, sự kính trọng và việc dành riêng cho Thiên Chúa một ngày trong tuần. Bảy giới răn sau liên quan đến chính mình và tha nhân.

Để đánh dấu giao ước vừa được ký kết, Môsê cho dựng 12 trụ đá tượng trưng cho 12 chi tộc Israel thành một bàn thờ, sau đó ông rảy máu vật hy tế lên bàn thờ và dân chúng đồng thời đọc: “Đây là máu giao ước Giavê đã ký kết với các ngươi”.

Môsê lại lên núi và ở lại đó 40 đêm ngày để nhận từ tay Thiên Chúa các phiến đá ghi lề luật và các huấn lệnh. Dân chúng chờ đợi lâu, nản chí và quên lề luật mà họ vừa mới hứa tuân giữ. Họ tự tạo cho mình hình tượng con bò con để thờ lạy. Môsê được Thiên Chúa cho biết tội ác của dân và Người nổi cơn thịnh nộ. Môsê giận dân quẳng bể các phiến đá và trở lên núi cầu nguyện xin Thiên Chúa tha thứ. Thiên Chúa nhậm lời ông, tha thứ cho dân và tái lập giao ước.

Tội ác của dân và việc tái lập giao ước mở đầu một cuộc chiến lâu dài qua nhiều thế kỷ: dân chúng thường xuyên bất trung với những cam kết của họ, còn Thiên Chúa thì luôn luôn trung thành với những lời Người đã hứa. Người sai các ngôn sứ đến kêu gọi dân sám hối như người cha luôn luôn sẵng sàng đón nhận đứa con hư hỏng và không ngừng theo đuổi kế hoạch cứu dộ của Người.

b. Khám giao ước, nhà tạm và hy tế.

Giao ước Sinai được cụ thể hóa qua các yếu tố như khám giao ước, nhà tạm và hy tế.

b1. Khám giao ước.

Khám giao ước được tạo ra do lệnh truyền của Thiên Chúa để vừa ghi nhớ giao ước, vừa là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Đây là một khám bằng gỗ keo, dài 2 xích rưỡi, rộng 1 xích rưỡi và cao 1 xích rưỡi, được dát vàng ròng cả trong lẫn ngoài. Bên trong chứa đựng hai bia đá thập giới, có lẽ có ít manna và chiếc gậy của Aharon. Nắp khám làm bằng vàng ròng gọi là nắp xá tội hay bàn xá tội, hai đầu có trang trí hai Kêrubim. Vào ngày lễ xá tội, máu các vật tế sinh được vị thượng tế rảy trên bàn xá tội ấy.

b2. Nhà tạm

Khám giao ước được đặt ngoài trại, trong một cái lều gọi là nhà tạm hay là lều tạm, lều tập họp, trướng tao phùng. Nó được coi như một thứ thánh điện, nơi Thiên Chúa tiếp cận và trò chuyện thân mật với dân Người, là dấu chỉ cứu độ cho dân trên con đường tiến về đất hứa. Khi Môsê ra khỏi trại đi đến lều tạm thì toàn dân đứng lên, mỗi người đứng trước cửa lều mình. Khi Môsê vào lều tạm, cột mây hạ xuống ngay cửa lều và Thiên Chúa đàm đạo với ông.

b3. Hy tế

Có nhiều kiểu hy tế. Có hy tế trong đó toàn thể vật hy tế được thiêu hủy trên bàn thờ, gọi là hy tế toàn thiêu. Có hy tế hiệp thông, trong đó một phần hy tế được thiêu hủy, phần còn lại dành cho các vị tư tế và người dâng lễ để họ chia sẻ với gia đình và bạn bè trong một bữa ăn cộng động. Có hy tế xá tội, trong đó sự rảy máu là một yếu tố nổi bật hơn cả. Cũng có hình thức dâng lễ bằng hoa quả, hương liệu và bánh. Mười hai chiếc bánh được đặt thường xuyên trong lều tạm, tượng trưng sự hiện diện của 12 chi tộc trước mặt Giavê. Vào cuối tuần các tư tế sẽ ăn những chiếc bánh ấy rồi làm lại những bánh khác.

Các lễ tế này có một ý nghĩa sâu xa đối với dân Israel. Chúng được coi như những vật cống hiến cho Đấng có quyền trên muôn vật. Những hy tế hiệp thông nói lên ý nghĩa hiệp nhất. Như những lời giao ước ngày xưa được bảo chứng bằng một bữa ăn cộng đồng, cũng vậy, lời giao ước này, tức là tôn giáo giữa dân riêng với Thiên Chúa được tăng cường bằng một bữa ăn. Hy tế xá tội cho thấy mọi người đều có ước muốn căn bản được đền tội.Tội lỗi là sự lạm dụng các tạo vật, do đó phải được đền bù bằng cách tự ý khước từ một vài quyền sử dụng các vật ấy.

Như thế, giao ước những yếu tố như giới luật nói lên ý muốn Thiên Chúa, khám giao ước nói lên sự hiện diện của Người, lều tạm nói lên sự gặp gỡ thân tình giữa con người với Thiên Chúa và hy lễ nói lên thái độ suy phục của con người đối với Thiên Chúa. Tất cả những yếu tố đó người Israel gọi là giao ước thì chúng ta sẽ gọi là tôn giáo, nếu chúng ta hiểu, tôn giáo là sự ràng buộc giữa Thiên Chúa với dân Người, cũng như giao ước là sự ràng buộc giữa Giavê với dân Israel. Như thế, với việc ký kết giao ước cách long trọng với Thiên Chúa, dân Israel từ một dân tộc đã biến thành một dân thánh, một tôn giáo.

c. Khuôn mặt của lãnh tụ Môsê

Vì Israel vừa là một dân tộc như mọi dân tộc, vừa là dân thánh của Thiên Chúa, nên vai trò lãnh đạo của Môsê không những chỉ nằm trên phương diện chính trị, mà hơn nữa trên phượng diện tôn giáo.

Môsê là nhà giải phóng, là vị cứu tinh, đã góp phần giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ ngoại bang. Đồng thời ông cũng là nhà lập pháp tuyệt vời có công xây dựng nền tảng pháp lý cho quốc gia Israel sau này.

Đối với Thiên Chúa, Môsê là người tôi tớ, là bạn thân mà Thiên Chúa có thể nói chuyện diện đối diện. Mặc dù đức tin của Môsê có lúc bị sa sút, nhưng Thiên Chúa vẫn coi ông là tôi tớ trung thành nhất và đối xử với ông như bạn hữu (Xh 33, 11). Thiên Chúa đã mạc khải tên và ý định của Người cho ông, đã nói chuyện với ông từ trong đám mây và chia sẻ vinh quang của Người cho ông, khiến gương mặt ông cũng rạng ngời ánh sáng (Xh 34, 29-35).

Đối với dân Do thái, Môsê là vị ngôn sứ vô song mà Thiên Chúa dùng để mạc khải luật Người cho dân. Ông là phát ngôn viên của Thiên Chúa. Ông dạy dân sống phù hợp với luật Chúa. Vì sứ mạng ngôn sứ này, Môsê cũng đã chịu rất nhiều đau khổ và là kẻ đứng đầu trong số những tôi tớ Thiên Chúa bị bách hại (Cv 7, 52). Ông trở thành hình ảnh báo trước vị đại ngôn sứ sẽ đến là Đức Kitô.

Ngoài ra Môsê còn là vị trung gian của giao ước, là người bầu cử cho dân. Ông là người duy nhất cùng với Đức Giêsu được Tân ước mệnh danh là đấng trung gian, và do đó ông trở thành tiền ảnh của Đức Kitô, đấng trung gian của giao ước mới hoàn hảo hơn.

Nói chung, qua các tước hiệu: cứu tinh, nhà lập pháp, trung gian và ngôn sứ, Môsê trở thành vị tiền hô và hình ảnh của Đấng Cứu Thế. Môsê bắt đầu thi hành sứ mệnh vào lúc 80 tuổi. Ông đã không vào được đất hứa vì một sự yếu đuối đầy huyền bí, nhưng Thiên Chúa đã cho ông nhìn thấy đất ấy và ông qua đời lúc được 120 tuổi. Và Thánh Kinh viết: “Từ đó trong dân Israel không còn một vị ngôn sứ nào giống như Môsê nữa, ông là người Thiên Chúa biết diện đối diện” (Đnl 34, 10).

4. Tu Viện Thánh Catherine, nơi có di tích Bụi gai bốc cháy.

Xe chạy hơn 3 giờ, băng qua sa mạc mênh mông và núi đá trùng điệp, chỉ có đất đá, khô cằn, lâu lâu mới thấy một bụi gai có màu xanh sự sống. Chúng tôi đến phía nam bán đảo Sinai thuộc vùng Đông Bắc Ai cập. Việc tạo hình những núi đá với màu sắc khác nhau chứng tỏ có những nếp uốn địa chất náo động làm cho khung cảnh của Sinai rất hùng vĩ. Đây cũng là nơi gặp gỡ giữa Phi châu và Á châu.

Sinai là một sa mạc rộng lớn và đáng sợ (Đnl 1,19). Ngày xưa dân Israel đã lưu lạc 40 năm nơi đây rồi mới đến được Đất Hứa. Dưới chân ngọn núi người Ả rập gọi là Djebel Moussa ie.

Từ bãi đậu xe, phải đi bộ gần cây số mới đến Tu viện. Giữa núi đá sừng sững, Tu viện có nhiều vườn cây xanh um, hệ thống nước tưới có lẽ từ các giếng khoan sâu trong lòng đất.

Tu viện thánh Catherine thuộc Chính thống giáo Hy lạp. Đây là một trong những tu viện lâu đời nhất trên thế giới vẫn còn hoạt động. Tu viện nằm trong lãnh thổ của Giáo Hội Chính Thống tại Sinai. Đây cũng được coi là linh địa của cả ba tôn giáo lớn trên thế giới: Kitô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo. Trên núi Sinai, Môisê đã lãnh nhận 10 điều răn.

Vào thời các Hoàng đế Pharaon, những cuộc thám hiểm của người Ai cập khai thác những mỏ đồng và mỏ đá quý lam ngọc. Còn những dấu vết cho thấy một ngôi đền kính nữ thần Hathor được khám phá tại Sirabit el-Kadem tại vùng Sinai.

Khu vực Tu viện được xây dựng kiểu pháo đài theo lệnh của Hoàng đế Justiniano vào giữa những năm 527 đến 565. Một bia đá khắc bằng tiếng Hy lạp cho biết Tu viện này được dâng kính Hoàng đế và Hoàng hậu Theodosia. Địa điểm xây cất nằm trên địa danh “Bụi cây bốc cháy” được đề cập trong Kinh Thánh (Xh, 3). Bụi cây (một loại cây thấp dưới 3 mét) được trình bày như là một cây có gai (còn được gọi là "cây dâu tằm hoang dã"). Chính tại nơi đây Môisê đã nghe tiếng Đức Chúa từ giữa bụi cây bốc cháy mà không bị thiêu rụi. Địa điểm xây dựng là một nơi được coi là khắc nghiệt và theo truyền thống người ta đã đến định cư ở đây ngay từ Thời kỳ Đồ đồng đầu tiên (3.000 năm TCN). Chính vì vậy, nó đã trở thành một linh địa được những người hành hương của cả ba tôn giáo độc thần lớn yêu thích.

Tuy nhiên, hoạt động của Tu viện dường như đã bắt đầu từ rất lâu. Một nhà nữ du khảo tên là Egeria viết bằng tiếng La tinh vào cuối thế kỷ IV cho biết sự hiện diện của rất nhiều tu sĩ trong vùng vào thời kỳ này. Một thế kỷ sau khi những người Kitô hữu đầu tiên trốn cuộc bách hại chạy đến đây. Thánh Gioan Climaque (còn được gọi là Gioan người Sinai) là một tu sĩ nổi tiếng đã sống trong tu viện này. Anastasius người Sinai và là bề trên của tu viện này vào hậu bán của thế kỷ VII.

Vào những năm 630, quân đội Ả Rập Amr ibn al-As, đã chiếm đóng Sinai theo sau đó là cuộc định cư của các bộ lạc từ Ả rập. Những tuyến đường thương mại bị ảnh hưởng mạnh mẽ do hai cuộc chiến tranh Ả Rập-Byzantine đầu tiên. Sinai từ từ không còn người sinh sống, tiến trình này đã bắt đầu xảy ra vào thế kỷ III vào thời chiến tranh giữa người Ba Tư và Byzantine. Chỉ có một ngoại lệ là Tu viện Thánh Catherine vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay và không ngừng là một điểm hội tụ đích thực của Kitô giáo tại Sinai. Hiện nay cộng đoàn có khoảng 40 tu sĩ nam (vào thời Trung cổ có đến 200 tu sĩ).

Vào thời Thập tự chinh lần I, thập tự quân hiện diện ở Sinai năm 1270 nên Kitô giáo tây phương lưu tâm đến địa danh này và làm gia tăng số người hành hương đến tham quan tu viện. Dường như tu viện còn được chính Muhammad bảo vệ vì Tu viện còn có một bản sao tác phẩm mang tên Achtiname, trong đó tiên tri Muhammad được coi như là người bảo vệ và có một ngôi Đền thờ Hồi giáo mang tên Fatimid được xây dựng ở bên trong bức tường thành của tu viện nhưng đã chẳng bao giờ được sử dụng vì ngôi đên này không hướng về Mecca theo truyền thống của Hồi giáo.

Tu viện có tường thành bao quanh như một pháo đài và thuộc quyền tài thẩm của Giáo Hội Chính thống Hy lạp ở Giêrusalem. Trung tâm tu viện có ngôi Nhà thờ Chúa Biến Hình với bức tranh khảm đá nổi tiếng ở lòng giữa nhà thờ. Trước tiên, tu viện được dâng kính cho Đức Trinh Nữ Maria. Sau đó vào thế kỷ IX, được dâng kính cho Thánh nữ Catherine thành Alexandria (một vị thánh tử đạo vào thế kỷ thứ tư), vì vào thời điểm này người ta phát hiện ra thi hài của thánh nữ. Theo truyền thống, thi hài được đặt ở ngọn núi bên cạnh và được các thiên thần và một vị ẩn sĩ khám phá ra và di chuyển thi hài này về tu viện cách lạ lùng. Lòng sùng kính thánh nữ Catherine được lan truyền mạnh mẻ ở phương Tây dưới sự thúc đẩy của các Quận Công vùng Normandie. Từ cuối thế kỷ X trở đi, điều này kéo theo sự hồi sinh các cuộc hành hương của phương Tây đến núi Sinai. Thông thường những khách hành hương đến ở tại Jerusalem. Thời gian đến nghỉ tại tu viện được giới hạn từ ba đến bốn ngày, và khách hành hương được các tu sĩ tiếp đón và phục vụ

Thư viện của tu viện có những thủ bản Kinh thánh rất cổ xưa (trước năm 1000). Đây là bộ sưu tập lớn thứ hai trên thế giới sau thư viện Vatican (Codex Vaticanus). Vào tháng 5 năm 1984, Konstantin von Tischendorf đến tu viện để nghiên cứu và ông đã khám phá ra bộ văn bản tiếng chuyên môn gọi là Codex Sinaiticus có niên hiệu từ thế kỷ IV. Đây được coi như là bộ sưu tập thủ bản Kinh thánh cổ xưa và đầy đủ nhất. Hiện nay Codex Sinaiticus đang này trong thư viện quốc gia của Anh quốc tại Luân đôn. Tu viện còn chứa hơn 3.500 đầu sách bằng các thứ tiếng: Hy Lạp, Coptic, Ả Rập, Armeni, Do Thái, Gruzia, Syria. Trong số đó có một quyển Kinh thánh từ thế kỷ VI.

Tu viện sở hữu một bộ sưu tập rất lớn những bức tranh khảm đá, những bức ảnh thánh của Hy Lạp và Liên xô, các chén thánh và các hòm thánh tích.

Bức tranh khảm đá về biến cố Hiển dung ở lòng giữa Nhà thờ là một trong những bức tranh khảm đá thuộc trường phái Byzantine nổi tiếng nhất.

Tu viện là một trong những bảo tàng nghệ thuật tranh ghép cùng các biểu tượng nghệ thuật lớn trên thế giới với những tác phẩm (120 tác phẩm) được vẽ bằng chất liệu sơn dầu có niên đại từ thế kỷ thứ 5, 6 mang phong cách Nghệ thuật của các cuộc Thập tự chinh.

Tu viện này thuộc danh sách các di sản thế giới của Unesco từ năm 2002.

Vì đây là một khu du lịch và hành hương rất nổi tiếng trên thế giới nên Ai cập đã xây một sân bay quốc tế tại vùng này.

5. Núi Sinai

Từ Tu viện Cathreine, một giờ chiều trời nắng như đổ lửa, không một gợn gió, đoàn chúng tôi một số đi bộ, một số đi lạc đà leo lên núi Sinai (25usd mỗi người một lạc đà đi vòng lên, và vòng xuống giảm còn 10usd). Những thanh niên và thiếu niên dẫn đường, mỗi người đi trước dắt theo 3-4 lạc đà. Hơn 5km đường lên dốc theo hình zic zắc, đá lởm chởm, đường nhỏ hẹp chênh vênh bên vách núi bên vực thẳm, ngồi trên lưng lạc đà mà cứ sợ nó trượt chân e rơi xuộng vực sâu! Có nhiều trạm dừng của khách bộ hành, còn lạc đà thì đi suốt. Đến trạm cuối chúng tôi phải xuống lạc đà để cuốc bộ leo núi. Có cậy gậy chống đỡ, hơn một giờ mệt nhoài lần lượt từng người cũng lên tới đỉnh núi. Bà Cố cha Lộc đã ngoài 70 cũng vừa lên tới, mọi người vỗ tay chúc mừng.Trên đỉnh núi Sinai có hai nhà nguyện nhỏ, Nhà nguyện Công Giáo thời Byzantine và Đền thờ Chính thống giáo ở kế cận nhau. Từ đỉnh núi phóng tầm mắt chung quanh, trùng điệp núi non chập chùng. Chúng tôi vô cùng hạnh phúc vì đã chinh phục được đỉnh núi Sinai, lên tận nơi mà hơn 3.000 năm trước ông Môsê đã gặp gỡ Thiên Chúa “diện đối diện”. Chúng tôi cầu nguyện từ đoạn sách Xuất hành chương 19, hát những Thánh vịnh chúc tụng, mọi người chụp nhiều hình lưu niệm vì đây là dịp “ngàn năm một thưở”, khó đi lần thứ hai. Nếu biển gợi lên cái gì mênh mông bao la thì núi gợi lên cho chúng tôi cái gì cao cả hùng vĩ. Trong nhiều tôn giáo, núi là biểu tượng cho sự uy nghi hùng vĩ, sự cao cả. Núi được coi như nơi ngự trị thích hợp cho thần thánh. Do đó nhiều đền chùa được xây trên núi cao mời gọi con người hướng thượng. Người Việt Nam coi núi như biểu tượng của cha, nước như biểu tượng của mẹ: “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Kinh Thánh nói khá nhiều đến núi. Sion là ngọn Núi Thánh được nói đến nhiều hơn cả. Trong Thánh Kinh, núi thường được xem là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa thần linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Thánh Kinh đều diễn ra trên núi. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận Lề Luật cho dân riêng. Êlia đã ròng rã 40 ngày đêm lên núi Khoreb để gặp gỡ Chúa. Núi là nơi Đức Giêsu cầu nguyện (Lc 6,12;9,28), nơi Đức Giêsu công bố Hiến Chương Nước Trời (Mt 5,1), nơi Đức Giêsu biến hình (Mt 17,1; Mc 9,2; Lc 9,28). Núi còn là nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh (Mt 27,33; Mc 15,22; Lc 23,33) và là nơi Người từ giã các môn đệ để về Trời (Mt 28,16).

Sách Xuất chương 19 kể rằng: Tháng thứ ba kể từ khi ra khỏi đất Ai cập, chính ngày đó con cái Ísraen tới sa mạc Sinai. Họ đã nhổ trại rời Rơphiđim tới sa mạc Sinai, và dựng trại trong sa mạc. Ísraen đóng trại ở đó, đối diện với núi…Ông Môsê lên gặp Thiên Chúa. Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. Ông Môsê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi.18 Cả núi Sinai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Môsê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. Đức Chúa ngự xuống trên núi Sinai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Môsê lên đỉnh núi, và ông đi lên.

Có ba chân dung chính của ông Môsê trong bộ Ngũ Thư. Đầu tiên là việc ông sinh ra (Xh 1,15-2,22), được con gái của vua Pharao cứu thoát và nuôi dưỡng trong triều đình. Cuộc chạy trốn vào sa mạc vùng Midian nơi xảy ra cuộc gặp gỡ bí ẩn tại bụi gai rực cháy (Xh 3,1-12). Chính tại đây ông nhận nhiệm vụ giải thoát đồng bào Do thái, được mạc khải tên gọi đặc biệt của Thiên Chúa là Yahweh, ‘Ta là đấng Ta là’. Tên tuổi Môsê luôn đi với truyền thống gắn liền cuộc Xuất Hành, Giao Ước trên núi Sinai, và việc ban hành Mười Điều Răn. Ông đảm nhận nhiều vai trò khác nhau, là ngôn sứ, tư tế, thẩm phán, nhà giải phóng và nhà lập pháp. Ông cũng được ghi nhớ là người can thiệp, mục tử, người chữa bệnh, người làm phép lạ. Môsê không chỉ góp phần khai sinh dân Israel, mà trong ông, dân Israel thực sự trở thành dân được chọn.

Dựa trên Kinh Thánh và truyền thống dân Chúa, khuôn mặt của Môsê nổi bật như một người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa; đồng thời như một vị lãnh đạo quảng đại, đầy lòng xót thương, tuyệt đối liên đới với dân Chúa. Hai tâm tình này đã chi phối hoàn toàn con người Môsê, đã giằng co xâu xé con người ông đến độ ông muốn sống trọn vẹn cùng một lúc cả hai tâm tình mà bên ngoài xem ra như mâu thuẩn, không thể hoà hợp với nhau. “Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”. Có lẽ đó là lời tóm tắt đời sống và sứ vụ của Môsê; và có lẽ cũng qua lời đó, Môsê phơi bày con người chân thật của mình trước mặt Thiên Chúa, khi ông dừng chân bên ngưỡng cửa Hứa Địa và nằm xuống đó. Trên cương vị tư tế, Môsê đã thay cho dân đối với Thiên Chúa và trình việc của dân lên Thiên Chúa (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharon và con cái Aharon để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thành họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với lãnh vực thánh đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘’người của Thiên Chúa’’ (Tl 33,1; Yôs 14,6). Ngay trong lúc ông được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, tâm trí ông lại hướng về dân Chúa. Môsê đã đau khổ cùng dân Chúa và cho dân Chúa! Môsê đã chết với dân Chúa và cho dân Chúa! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa. Môsê luôn luôn đứng lên bênh đỡ, cầu bàu cho dân trước mặt Thiên Chúa.

Chính tại núi Sinai, dân Israel được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, đã được giao ước với Thiên Chúa. Việc thờ phượng Ngài được thiết lập thành một tôn giáo quốc gia. Đây không phải là một thứ giao kết giữa hai phía bình đẳng với nhau. Thiên Chúa, do lòng khoan hậu, mà ban giao ước cho dân Israel, và tự đặt ra cho họ những điều kiện phải tuân theo. Do đó, Giao Ước Sinai mang một sắc thái đặc biệt, bày tỏ một phương tiện chính yếu trong chương trình Cứu độ của Thiên Chúa.

Ngay từ biến cố "bụi gai bốc cháy", Thiên Chúa đã cho Môsê biết Danh Ngài cùng với ý định giải thoát con cái Israel, để đưa họ về đất Canaan (Xh 3,7-10, 16) …, vì Israel "là dân của Ngài" (3,10). Cuộc Xuất Hành cho thấy Thiên Chúa đang thực hiện ý định đó. Kế đến, Thiên Chúa cho biết ý định giao ước: "Nếu các ngươi quyết tâm nghe tiếng Ta mà giữ giao ước của Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta giữa các dân hết thảy, vì toàn cõi đất đều là của Ta. Còn các ngươi, các ngươi sẽ làm một vương quốc tư tế cho Ta, một dân thánh " (Xh 19, 5).

Khi ban giao ước và những lời hứa kèm theo cho dân Israel, Thiên Chúa cũng đặt ra những điều kiện mà Israel phải thi hành. Sách Ngũ Kinh cho biết nhiều điều khoản làm thành Lề Luật cho dân Israel. Điều khoản quan trọng nhất là: Israel phải tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi, không được thờ bất cứ thần nào khác (Xh 20,3). Israel phải tuân giữ mọi điều Thiên Chúa bảo: "Môsê triệu tập các kỳ mục của dân và trình bày trước mặt họ tất cả những lời lẽ Thiên Chúa đã truyền cho ông. Toàn dân cùng nhau đáp lại và thưa: tất cả những gì Thiên Chúa đã phán bảo, chúng tôi sẽ làm theo" (Xh 19,7). Đây là một sự cam kết long trọng, quan hệ đến vận mệnh lịch sử của dân Israel. Dân Thiên Chúa đứng trước một sự lựa chọn dứt khoát và quyết liệt: nghe lời Thiên Chúa, thì được Ngài chúc lành; còn không nghe, thì phải chuốc lấy tai họa (Xh 23,20-33; Tl 28; Lv 26).

Giao Ước tại Sinai mạc khải cách dứt khoát một phương diện chính yếu của chương trình cứu độ: Thiên Chúa đã muốn liên lạc với loài người, và thiết lập thành một cộng đoàn phục vụ Ngài, sống dưới Luật chính Ngài ban hành, để mang niềm hy vọng, do lời hứa của Ngài, truyền sang cho các thế hệ. Đó là giai đoạn đầu của chương trình cứu độ. Chương trình được thực hiện, nhưng mang tính cách hạn hẹp, vì xem ra lệ thuộc vào vận mạng lịch sử của dân tộc Israel; sự cứu độ có thể bị hiểu là do công trạng của loài người hơn là do hồng ân của Thiên Chúa. Đàng khác, khuôn khổ một dân tộc không phù hợp với tính cách phổ quát của chương trình cứu độ, đã được đề cao nhiều lần. Sau cùng, đối tượng của những lời hứa còn thiên về hạnh phúc trần thế, cho nên sắc thái tôn giáo độc đáo của Giao Ước Sinai không được rõ ràng, tức là thiết lập Nước Thiên Chúa trong dân Israel, để rồi, qua trung gian Israel mà lan rộng khắp địa cầu. Tuy nhiên, Giao Ước Sinai là chặng đầu của chương trình cứu độ, làm nòng cốt cho Mặc khải mai sau. Mà chính một người con cái Israel là Chúa Cứu Thế sẽ hoàn thành viên mãn Giao Ước Sinai, bằng một Giao Ước Mới, Giao Ước Vĩnh Cửu.

Lên núi Sinai là một hành trình ghi đậm dấu ấn không phôi phai trong tâm trí mỗi người chúng tôi. Lên núi là một việc làm đòi hỏi nhiều cố gắng. Đó không phải là cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng, khéo léo, can đảm. Càng lên cao càng có ánh sáng. Muốn có ánh sáng phải lên cao. Lên cao thì vất vả. Lắm lúc đụng phải sướn sốc cheo leo, đá sắc trơn trượt. Nhưng đổi lại, lên đỉnh núi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái an hoà với đất trời bao la.

Trời đã về chiều, chúng tôi xuống núi, ai cũng quyết tâm đi bộ, vừa đi vừa vui vẻ kể chuyện nên con đường dài như ngắn lại. Về khách sạn Sinai cách Tu viện Catherine khoảng 2km, chúng tôi nghỉ ngơi chuẩn bị hành trình đi Taba qua biên giới Israel để đến Đất Thánh.
 
Giáo họ Tân Phương GP Vinh mừng lễ bổn mạng
Paul Văn Hạnh
22:12 10/07/2014
Giáo họ Tân Phương kỷ niệm 20 năm bổn mạng thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự

Trong tâm tình mừng lễ bổn mạng Giáo lý viên Giáo phận, sáng 10/7, giáo họ Tân Phương (xứ Tràng Lưu) hân hoan mừng lễ kỷ niệm 20 năm nhận thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự làm quan thầy. Thánh lễ thêm phần long trọng khi có sự hiện diện và chủ tế của Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, đồng tế với Ngài có quý Cha trong và ngoài hạt Ngàn Sâu.

Đúng 7h30, Đoàn rước ca nhập lễ tiến vào ngôi thánh đường trong điệu Kèn tây trầm hùng của bài hát “Hát mừng thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự”.

Giáo họ Tân Phương (giáo xứ Tràng Lưu) thuộc địa phận Thị trấn Hương Khê (Hà Tĩnh) với hơn 2000 giáo dân. Nói như cách nói của Đức Cha Phaolô Maria trong phần khai lễ, trải qua nhiều thăng trầm phát triển, với sự quan phòng của thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự, đến nay giáo họ Tân Phương đã “lớn mạnh” không những về vật chất mà còn thăng tiến mạnh mẽ trong đời sống Đức tin, trong việc mang Tin mừng cứu độ đến với những người xung quang.

Chia sẽ trong thánh lễ, Đức Cha Phaolô Maria đã vẽ lại bức tranh kiêu hung của các thánh Tử đạo Việt Nam trong đó có thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự. “Cuộc tử đạo của Thánh Phêrô Tự là một biểu hiện sâu xa mối tình thầy trò, mối tình cha con tinh thần trong Giáo Hội. Ngày 31.7.1839, sau khi quân lính bắt được linh mục thừa sai Boric Cao, các tín hữu sợ liên lụy nên làm ngơ như không quen biết. Nhưng thầy giảng Tự lẽo đẽo đi theo đám lính, vừa khóc lóc vừa xin theo gót thầy mình. Quân lính thấy thế sinh nghi, bắt thầy đưa đến trước mặt vị thừa sai. Cha Cao vì không muốn thầy liên lụy, liền giả bộ không hề biết “người thanh niên” này là ai, sau lại tình nguyện bỏ tiền ra để chuộc tự do cho anh ta. Nhưng thầy Tự đã quyết tâm thực hiện ý định của mình khi làm điều đó. Thầy tuyên bố thẳng mình là đệ tử của người bị bắt, và năn nỉ với ngài: “Xin cha cho con theo cha đến cùng”.

Trước thái độ chí tình, vị linh mục xúc động, tháo chiếc khăn quàng, xé làm hai, trao một phần cho người môn sinh, cũng là cộng tác viên đắc lực nhiều năm qua và nói: “Cầm lấy, thầy hãy giữ lấy nó làm bằng chứng cho lời thầy đã hứa”. Thầy Tự đã giữ miếng vải đó suốt hai năm trời cho đến ngày tử đạo, trong đó gần bốn tháng cùng bị giam với người cha linh hồn”.

Đức Cha cũng mời gọi mọi thành phần dân chúa trong họ đạo Tân Phương biết noi gương Thánh nhân bổn mạng của mình mà làm chứng cho Chúa, đặc biệt mang ánh sáng Chúa Ki-tô vào chính cuộc sống và mọi người xung quanh mình, đặc biệt trong một xã hội ngày càng bị đồng tiền chi phối. “Các Ngài đã dùng chính thân mình để bảo vệ hạt giống Đức tin, dung chính máu của mình để làm chứng cho Chúa. Và hôm nay, chúng ta họp nhau nơi đây để cùng với bà con giáo dân giáo họ Tân Phương ca tụng thánh Phêrô Tự. Ngài là một thầy giảng nhiệt thành mang ánh sáng Tin mừng cứu độ đến với cha ông chúng ta, hạt giống Tin mừng đó đã nãy mầm và trổ sinh hoa trái cho đến tận hôm nay. Khi bị quân lính bắt, Ngài đã câm nín vượt qua mọi cực hình để giữ vững Đức tin và dùng chính mạng sống mình để tuyên xưng Đức tin đó trước mặt Thiên Chúa”. Đức Cha Phaolô Maria nhấn mạnh.

Sau thánh lễ, vị đại diện Hội đồng mục vụ giáo họ Tân Phương đã bày tỏ lòng tri ân đối với Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, quý Cha đồng tế, quý thầy, quý xơ và toàn thể cộng đoàn hiện diện trong thánh lễ. Bài cảm ơn có đoạn: “ … Chúng con xin cúi đầu cảm tạ những ân tình mà Đức Cha Phaolô Maria đã dành cho giáo họ chúng con, mặc dù tuổi đã cao, sức khỏe đã yếu nhưng Ngài đã không quản ngại đường sá xa xôi để về đây dâng thánh lễ cầu nguyện cho chúng con. Chúng con cũng xin hết lòng tri ân cảm tạ quý cha đồng tế đã về đây hiệp dâng thánh lễ quan thầy của chúng con, nguyện xin Thiên Chúa qua lời cầu bầu của Thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự ban cho quý cha sức khỏe, luôn nhiệt thành phục vụ dân Chúa…”.

Paul Văn Hạnh
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Đảng còn, dân sẽ bị lệ thuộc Tầu
Phạm Trần
14:36 10/07/2014
ĐẢNG CÒN, DÂN SẼ BỊ LỆ THUỘC TẦU


Sau hơn hai tháng không đuổi được giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Cộng ra khỏi thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế ở Biển Đông, đã đến lúc lãnh đạo và đảng Cộng sản Việt Nam hãy tự giác ngộ để trả lại quyền làm chủ đất nước cho dân trước khi qúa muộn với quân xâm lược phương Bắc.

Lý do vì:

Thứ nhất, đảng và lãnh đạo đã mất hết lòng tin trong dân và không có khả năng đòan kết dân tộc để bảo vệ đất nước.

Thứ hai, nhà nước chưa có bất cứ kế họach nào để giành lại Hòang Sa bị Trung Cộng chiếm bất hợp pháp từ tháng 01 năm 1974 và 8 đảo và bãi đá ở Trường Sa mất vào tay quân Trung Cộng từ tháng 3 năm 1988.

Thứ ba, Quân đội nhân dân cũng không có bất cứ hành động nào để ngăn chận Trung Cộng biến các vị trí chiếm được ở Trường Sa thành các đảo nhân tạo và lập căn cứ quân sự vĩnh viễn ở đó.

Thứ tư, Việt Nam không vận động được Liên Hiệp Quốc, Liên hiệp Châu Âu và Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN, Association of South East Asia Nations) mà Việt Nam là một trong 10 quốc gia hội viên, tuyên bố ủng hộ mình trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Cộng.

Thứ năm, các hành động bảo vệ chủ quyền của Việt Nam chi tập trung vào lời nói của Lãnh đạo là nhiều trong khi Trung Cộng tiếp tục hành động chiếm biển và tài nguyên của Việt Nam ở Biển Đông.

Thứ sáu, các hoạt động phản bác, tranh luận về chủ quyền lãnh thổ của các học gỉa và chuyên viên Việt Nam trên các diễn đàn Quốc tế không sánh kịp với Trung Cộng.

Thứ bảy, Việt Nam chỉ biết “phản ứng chạy theo” chiến dịch tuyên truyền rộng rãi của Trung Cộng về chủ quyền Biển Đông bằng bản đồ, tài liệu du lịch, sách giáo khoa và báo chí nhằm “hợp thức hóa” nhận thức của người đọc đối với “chủ quyền tự vẽ hình lưỡi Bò” chiếm gần hết 3.5 triệu cây số vuông Biển Đông.

Thứ tám, vài cuộc triển lãm tài liệu lịch sử về hai quần đảo Hòang Sa và Trường Sa cũng như tổ chức Hội thảo quốc tế “Hoàng Sa - Trường Sa: Sự thật lịch sử” diễn ra tại Đà Nẵng từ 19-21/06/2014, do trường Đại học Đà Nẵng và Đại học Phạm Văn Đồng tổ chức, tuy có chừng 100 học giả, nhà nghiên cứu quốc tế từ Mỹ, Pháp, Đức, Ấn Độ, Philippines và Việt Nam tham dự nhưng không tạo được tiếng vang trong dự luận Quốc tế.

Nguyên do vì cuộc triển lãm chỉ thu hút được người Việt trong nước, đa số là học sinh, sinh viên và ít khách du lịch hay nhân viên ngọai giao nước ngoài đến coi cho biết.

Trong khi đó thì chính quyền lại vô lý cấm báo chí không được theo dõi cuộc hội thảo Đà Nẵng nên các Hội thảo viên cũng chỉ “nói cho nhau nghe” mà thôi !

Việc làm tắc trách có hại này được Tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, người tham dự cuộc Hội thảo phê bình : “Báo chí truyền thông của ta đã có đóng góp rất lớn, hiệu quả và kịp thời trong công tác tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo nói chung cũng như hội thảo này nói riêng Tuy nhiên, đây là một hội thảo thuần túy khoa học chứ không phải một phiên tòa xử kín, các nhà báo chỉ được tham dự buổi khai mạc và phiên bế mạc. Nội dung thảo luận thì họ không được tham dự. Đây là một điều hết sức đáng tiếc.”

Than phiền của Tiếc sỹ Trục không ngạc nhiên vì từ lâu, bộ óc sợ hãi “làm phiền người láng giền phương Bắc” của những lãnh đạo Tuyên giáo Trung ương (bây giờ là Ủy viên Bộ Chính trị Đinh Thế Huynh) và địa phương khi chạm đến những vấn đề được gọi là “nhạy cảm” liên hệ đến Trung Cộng thì liền ra lệnh cho báo chí không được viết hay cấm tham dự.

Chẳng hạn như, cho đến ngày 02/05/2014 khi Trung Cộng đặt gián khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam thì báo đài mới được tự do nói thẳng các “tầu của Trung Quốc” đã tấn công các tầu cảnh sát biển và tầu cá Việt Nam gần giàn khoan.

Trước ngày 02/05/2014, các viên chức đảng, báo chí, ngay cả ngư dân Việt Nam bị lính Trung cộng gỉa dạng dân đánh cá hay tầu cảnh sát biển của Trung Cộng tấn công, đánh đập dã man và cướp phá tài sản, ngư cụ trên biển, hoặc bị đâm chìm tầu trong đêm tối cũng chỉ được Ban Tuyên giáo cho phép gọi chúng là “tầu lạ”, hay “tầu nước ngòai” !

Thậm chí quân và tầu chiến Trung Cộng đã công khai tấn công chiếm đảo và giết lính Việt Nam ở Trườngh Sa năm 1988 cũng từng được Sỹ quan hải quân Việt Nam gọi là “quân đội và tầu nước ngoài” !

Hải quân Việt Nam chỉ “đích danh tố cáo Trung Cộng” đã xâm lược bất hợp pháp Trường Sa từ ngày 31/12/2013.

Báo Tuổi trẻ Online tường thuật: “ Tàu Hải quân Việt Nam khi qua khu vực các đảo Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam luôn tổ chức lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong sự kiện 14.3.1988 - chống Trung Quốc xâm chiếm quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam..

..Trong diễn văn của mình, thượng tá Ngô Duy Đỗ, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Trường Sa, Trưởng đoàn công tác, nhấn mạnh: “Ở vùng biển này, cách đây gần 26 năm đã diễn ra trận chiến đấu quyết liệt, quả cảm của cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 146-Trường Sa anh hùng, của các tàu HQ 604, HQ 605, HQ 505, Trung đoàn công binh 83 chống lại cuộc tấn công trắng trợn, bất ngờ của Hải quân Trung Quốc… Trường Sa và Hoàng Sa từ lâu là lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc ta trên biển Đông nhưng đối phương đã đưa lực lượng lớn xuống quần đảo Trường Sa, ngang nhiên dùng vũ lực chiếm giữ trái phép một số bãi đá ngầm của ta, gây nên sự kiện 14.3.1988, làm cho tình hình càng thêm căng thẳng, phức tạp”.

Vì có “những cái đầu óc chết” không dám chạm đến, dù là hành động phi pháp hay bạo lực trắng trợn chống con người và nước Việt Nam của Trung Cộng trong hàng ngũ “được gọi là Lãnh đạo tuyên truyền” của Cộng sản Việt Nam như đã chứng minh nên ông Trần Cộng Trục mới mỉa mai thêm: “ Có lẽ chúng ta cũng ít nhiều lo ngại khi thảo luận, "ngộ nhỡ" có những quan điểm phản biện bất lợi cho ta từ phía các học giả nước ngoài nên mới "cấm cửa" báo chí tham gia đưa tin, phỏng vấn các buổi thảo luận về nội dung chính của hội thảo.

Điều này đã làm mất đi cơ hội để đông đảo người dân và bạn bè quốc tế thấy được tính chính nghĩa của ta trong công cuộc bảo vệ chủ quyền, đồng thời các học giả, các nhà quản lý của ta cũng thấy được các mặt yếu kém, sơ hở của mình để khắc phục. Khi chúng ta đã tự tin về chủ quyền của mình, thì chẳng có gì chúng ta phải giấu giếm hay "họp kín" cả. Làm như vậy là lợi bất cập hại.” (Báo Giáo dục Việt Nam, 27/06/2014)

BẠN HAY THÙ CỦA TRUNG CỘNG ?

Bên cạnh những nhược điểm vừa nêu, Lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN cũng không chứng minh được bản lĩnh và khả năng bảo vệ lãnh thổ bằng những chính sách và biện pháp cụ thể.

Dư luận vẫn chưa được trả lời tại sao cho đến bây giờ, sau hơn 2 tháng từ ngày gìan khoan Trung Cộng vào “ngồi chễm chệ” trong vùng biển của Việt Nam mà Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa quyết định kiện Trung Cộng ra Tòa án Quốc tế ?

Ông trả lời thắc mắc này tại cuộc gặp cử tri Tây Hồ (Hà Nội) ngày 01/07 (2014) : “"Có ý kiến băn khoăn chiến tranh xảy ra thì sao? Chúng ta phải chuẩn bị mọi khả năng song mong nó không xảy ra… Đảng, Nhà nước, Quốc hội trên dưới một lòng làm hết trách nhiệm của mình. Chúng ta phải tiếp tục đấu tranh bằng mọi biện pháp, song đấu tranh hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, kể cả đấu tranh pháp lý.”

Nhưng đến bao giờ thì ông mới dám “đấu tranh pháp lý” tay đôi với Bắc Kinh ?

Ông Trọng là người thân Trung Cộng, theo lời Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh 1974-1987, đã trấn an và khuyên cử tri : “Biển Đông là vấn đề lớn, quan trọng, hệ trọng, nhạy cảm, được toàn dân và nhiều nước trên thế giới quan tâm, cũng là vấn đề liên quan đến sự ổn định, phát triển của đất nước sắp tới, cũng như việc giải quyết quan hệ với Trung Quốc, người bạn láng giềng lớn, muốn hay không cũng phải ăn đời ở kiếp với nhau, có ai chọn được láng giềng đâu”.

“Trong lịch sử đã nhiều lần, ta luôn phải tìm cách chung sống hòa bình, thân thiện, hợp tác, phát triển, đồng thời giữ được độc lập, chủ quyền….ta thẳng thắn công khai đến toàn thế giới, không nhân nhượng, rằng việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan là vi phạm pháp luật quốc tế, vi phạm chủ quyền của VN, vi phạm thỏa thuận cấp cao giữa hai nước.” (VietnamNet, 01/07/2014)

Tất nhiên Trung Cộng là “nước lớn” là “láng giềng lớn”, nhưng bảo phải “ăn đời ở kiếp” hay “chung sống hòa bình, thân thiện, hợp tác, phát triển…” với người hàng xóm đã bị chính báo của đảng lên án “tiểu xảo” và “hành động khiêu khích trắng trợn” chống Việt Nam thì không thể là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” , hay là bạn bè với nhau theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.

Vậy phải chăng, tuy ông Trọng nói là : “Ta đấu tranh toàn diện, kết hợp nhiều biện pháp, trên tinh thần hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, kiềm chế, không để xảy ra xung đột, chiến tranh…”, nhưng vẫn phải“ đồng thời giữ được an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, không để nội bộ rối ren...”

Nói như ông Trọng thì nghe cũng xuôi tai, nếu chỉ “biết nghe” và “không cần phải suy nghĩ hay nghiên cứu xem cái nghĩa thật của câu nói nằm ở đâu”, nhưng rõ ràng là ông muốn “chế độ” và “Đảng” phải được bảo vệ để tồn tại thì mới có thể đấu tranh với Trung Cộng.

Khốn nỗi “chế độ” và “Đảng” của CSVN đã bị Trung Cộng “kìm kẹp” và “xỏ mũi” lôi đi từ Hội nghị Thành Đô (Tứ Xuyên, Trung Cộng) năm 1990 bằng những “cú lừa” ngọai mục thì làm gì còn khả năng và nghị lực” để “tống cổ” cái gian khoan Hải Dương 981 về Tầu nữa đâu mà “bảo vệ” để làm gì và cho ai ?

Lý do vì vào năm 1990, khi Chủ nghĩa Cộng sản ở Liên Sô và các nước Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Âu đã và đang đi vào chỗ chết thì Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh đã xin sang gặp lãnh đạo Cộng sản Tầu Giang Trạch Dân ở Thành Đô để mưu cầu sự ủng hộ để bảo vệ chế độ và cùng với Tầu bảo vệ Chủ nghĩa Xã hội để tái lập lại “Thế giới Cộng sản”.

Nhưng giờ đây Trung Cộng không còn theo Chủ nghĩa Cộng sản kiểu Nga Sô nữa mà đã tự chế ra điều được gọi là “Xã hội Chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc” để theo đuổi “Giấc mơ Trung Hoa”, trong đó có chủ trương phải “bảo vệ chủ quyền biển” là quyền lợi “cốt lõi” của Trung Cộng.

Hẳn ông Nguyễn Phú Trọng và đảng CSVN phải biết rất rõ Chủ tịch và Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Cộng Tập Cận Bình muốn gì và Việt Nam đang mắc nợ Bắc Kinh bao nhiều ngàn Tỷ dollars cho nên từ sau Hội nghị Thành Đô qua hai “triều đại” Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười, và đặc biệt từ năm 1999 đến nay, Việt Nam –dưới thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu-- đã phải nhượng bộ đòi hỏi “phải được phần trội hơn” của Trung Cộng trong các Hiệp ước Biên giới (1999), Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ (2000) và Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ (2000).

Sau đó đến thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh từ 2001 đến 2010 rồi đến phiên ông Nguyễn Phú Trọng từ 2011, đảng CSVN tiếp tục trao cho Trung Cộng, qua hình thức “đấu thầu rẻ để chắc chắn trúng thầu” đến 90% các dự án kinh tế và kỹ nghệ quan trọng như điện lực, khóang sản, cơ khí, dệt may, xi măng, làm đường cao tốc nối liền Việt-Trung, dự án khai thác Bauxite trên vùng đất chiến lược Tây Nguyên đều nằm trong tay Trung Cộng.

Các Bộ Chính trị từ thời Nguyễn Văn Linh (1986) đến Nguyễn Phú Trọng (từ 2011) phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và lịch sử về những việc làm “nhượng Tầu hại Việt” của họ.

Như vậy thì làm sao mà Việt Nam có thể “thoát Trung” nếu đảng CSVN còn tồn tại với chính sách đối phó “nửa vời” với Trung Cộng ở Biển Đông và trên tất cả các lĩnh vực khác ?

Cũng vì đảng CSVN đã bị Trung Cộng trói tay chân từ năm 1990 nên Bắc Kinh đã không đánh mà thắng bằng mua chuộc và mưu mẹo để giờ đây được tự do “xâm nhập rất sâu” vào hệ thống chính trị, kinh tế, ngoại giao và quốc phòng nên Việt Nam đã hết đường thoát.

Vì vậy mà không nên ngạc nhiên khi thấy ông Nguyễn Phú Trọng khuyến cáo cử tri Hà Nội rằng : “Các lãnh đạo, đoàn thể, địa phương đều đã lên tiếng mạnh mẽ, có cả diễu hành phản đối, Chính phủ cũng mới họp tìm cách phát triển kinh tế ra sao trong bối cảnh Biển Đông căng thẳng… mọi lời nói, cử chỉ, hành động đều phải cẩn trọng, phối hợp nhịp nhàng trên các mặt trận.”

Do đó, theo ông Trọng : “ Biển Đông là vấn đề lâu dài, cơ bản, đụng chạm đến chủ quyền quốc gia: TQ muốn hiện thực hóa đường lưỡi bò, độc chiếm Biển Đông, muốn Hoàng Sa – Trường Sa là của TQ. Ta luôn nói Hoàng Sa – Trường Sa là của VN, trong bối cảnh thực tế TQ đang chiếm Hoàng Sa sau hai lần cưỡng chiếm. Vì vậy, phải làm sao khẳng định chủ quyền, đấu tranh lấy lại Hoàng Sa.

Đây là việc khó khăn, ta phải kiên quyết, kiên trì, bằng nhiều biện pháp, sai một ly đi một dặm, mặt nào không tốt đều ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển đất nước”.

Chủ trương “kéo dài thời gian đấu tranh với Trung Cộng” và “chiến thuật phải từ từ” nhưng không coi chừng “trâu chậm uống nước đục” của ông Trọng sẽ không thành công vì Trung Cộng thì vẫn hung hăng tiếp tục đem giàn khoan dầu vào biển Việt Nam trong khi đảng CSVN lại không dám rũ bỏ cái điều viển vông “Lý tưởng tương đồng” với Bắc Kinh thì Việt Nam sẽ tiếp tục lún sâu vào tròng lệ thuộc mọi mặt với Trung Cộng.

E rằng nếu cứ e dè,co vòi và hy vọng hão huyền vào Lãnh đạo Trung Cộng sớm muộn cũng sẽ “nhận ra “chân lý đồng chí” để “sống chung hòa bình” với Việt Nam thì tòan vẹn lãnh thổ khó mà còn nguyên.

Tuy vậy, ông Trọng vẫn chủ trương: “ Đấu tranh bằng mọi biện pháp hòa bình, kể cả đấu tranh pháp lý, không mong muốn chiến tranh, xung đột xảy ra nhưng phải chuẩn bị tất cả mọi phản ứng.”

Nhưng đàng CSVN đã chuẩn bị chưa ? Nếu có, tại sao không cho dân biết mà để dân phải hỏi như cử tri Tây Hồ đã thắc mắc với ông hôm 01/07 (2014) ?

Thế rồi người đứng đầu đảng CSVN lại khuyên dân đừng nhầm lẫn giữa “lãnh đạo xấu” và “người dân tốt” của Trung Cộng.

Ông bảo: “Cũng cần chú ý phân biệt nhân dân TQ và các lãnh đạo Trung Quốc, phân biệt những người gây hấn, đặt giàn khoan với 1,3 tỷ người dân Trung Quốc.”

Nhưng nếu cứ “nhịn đói mà chờ sung rụng” thì có thoát chết không ? Muốn có miếng ăn thì phải “tay làm hàm nhai”. Không ai có cơm thừa mà đem bố thí cho kẻ khỏe mạnh mà lười biếng, chỉ giỏi lý luận cùn mà không dám nhìn xem ánh sáng có còn ở cuối dường hầm không ?

Thực tế của Việt Nam ngày nay là : Nếu cứ bám lấy chủ trương của ông Nguyễn Phú Trọng và đàng CSVN là phải kiên định “bảo vệ chế độ” và “bảo vệ đảng” để “bảo vệ dân” và “bảo vệ chủ quyền lãnh thổ” trong cuộc đấu tranh với kẻ thủ cực kỳ nguy hiểm Trung Cộng thì dân tộc sẽ chỉ bị đẩy đến gần ngưỡng cửa lệ thuộc phương Bắc mà thôi.

Vì vậy, muốn giữ nước và dựng nước thì người CSVN phải vượt ra khỏi tư duy giáo điều và chậm hiểu để lột xác khỏi chiếc áo Cộng sản xơ cứng, lạc hậu đang tác hại đến tận xương tủy dân tộc.

Mọi phương án tiếp tục kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản độc tài Hồ Chí Minh để duy trì chế độ Cộng sản ở Việt Nam chỉ có hại cho dân cho nước mãi mãi.

Với tình hình cực kỳ nguy nan hiện nay, ai cũng thấy chỉ có một chế độ tự do, dân chủ và đòan kết tòan dân mới bảo vệ được Tổ quốc trước âm mưu bành trướng và bá quyền của “láng giềng Trung Cộng”.

Cũng nên biết rằng nếu chẳng may nước mất vào tay Trung Cộng thì đảng CSVN có được phép tồn tại không hay sẽ bị “chặt đầu” ráo trọi ?

Phạm Trần

(07/014)
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Nguyên văn tài liệu ''Cảm Thức Đức Tin Trong Đời Sống Giáo Hội''(1)
Vũ Văn An
21:24 10/07/2014
Dẫn Nhập
1. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, “Thánh Thần chân lý phát xuất từ Chúa Cha” và làm chứng cho Chúa Con (Ga 15:26), mọi người đã nhận phép rửa đều tham dự vào chức vụ tiên tri của Chúa Giêsu Kitô, “chứng tá trung thành và đích thực” (Kh 3:14). Họ có nhiệm vụ làm chứng cho Tin Mừng và cho đức tin tông truyền trong Giáo Hội và trong thế giới. Chúa Thánh Thần xức dầu cho họ và trang bị cho họ để họ đảm nhận ơn gọi cao cả ấy, bằng cách ban cho họ một sự hiểu biết rất bản vị và thâm hậu về đức tin của Giáo Hội. Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan, tín hữu được ngỏ những lời này: “anh em đã được Đấng Thánh xức dầu cho, và tất cả anh em đều được hiểu biết”, “việc xức dầu mà anh em đã nhận được (từ Chúa Kitô) đang ở trong anh em, và anh em không cần bất cứ ai dạy dỗ anh em nữa”, “việc Người xức dầu cho anh em đã dạy anh em mọi điều rồi” (1Ga 2:20, 27).

2. Thành thử, tín hữu có được một bản năng đối với chân lý của Tin Mừng, bản năng này giúp họ khả năng nhận biết và tán thành học lý và thực hành Kitô Giáo chân chính, và bác bỏ những gì là sai lầm. Vì được nối kết với hồng ân đức tin từ trong nội tại, bản năng siêu nhiên này được gọi là cảm thức đức tin (sensus fidei), và nó giúp các Kitô hữu khả năng chu toàn ơn gọi tiên tri của họ. Trong bài diễn văn đầu tiên lúc đọc kinh Truyền Tin, Đức Giáo Hoàng Phanxicô trích lời một phụ nữ khiêm nhường và cao niên mà ngài từng gặp trước đây rằng: “Nếu Chúa không tha thứ hết mọi sự, thì thế gian này đâu còn hiện hữu”; và ngài cảm phục nhận xét như sau: “đây chính là sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần ban cho” (1). Cái nhìn thông sáng của người đàn bà là một biểu hiện chói sáng của cảm thức đức tin, là cảm thức, song song với việc giúp ta biện phân phần nào các sự việc của đức tin, còn phát huy sự khôn ngoan đích thực và làm nẩy sinh việc tuyên xưng sự thật, là điều xẩy ra ở đây. Do đó, cảm thức đức tin rõ ràng là một tài nguyên sống còn đối với việc tân phúc âm hóa là việc mà Giáo Hội đang dấn thân vào ở thời đại ta (2).

3. Như một ý niệm thần học, cảm thức đức tin nói tới 2 thực tại khác biệt nhau dù có liên hệ mật thiết với nhau, một đàng là Giáo Hội duy nhất, “cột trụ và chiến lũy của sự thật” (1Tm 3:15) (3), một đàng là các tín hữu cá thể, những người vốn thuộc về Giáo Hội nhờ các bí tích khai tâm, và là những người, nhờ thường xuyên cử hành Thánh Thể, đã tham dự cách riêng vào đức tin và vào đời sống Giáo Hội. Một đàng, cảm thức đức tin nói tới khả năng bản thân của tín hữu biện phân được chân lý đức tin, bên trong hiệp thông Giáo Hội. Đàng khác, cảm thức đức tin cũng có ý nói tới một thực tại có tính cộng đoàn và có tính Giáo Hội, đó là bản năng đức tin của chính Giáo Hội, nhờ đó, Giáo Hội nhận biết Chúa của mình và công bố lời của Người. Theo nghĩa này, cảm thức đức tin được phản ảnh nơi sự đồng thuận của người đã nhận phép rửa trong việc qui phục tín lý đức tin hay một yếu tố nào đó của giáo lý hành động Kitô Giáo (Christian praxis) một cách sống động. Sự đồng thuận (consensus) này đóng một vai trò sống còn trong Giáo Hội: sự đồng thuận của các tín hữu (consensus fidelium) là tiêu chuẩn chắc chắn để ta xác nhận liệu một học lý hay một thực hành đặc thù nào đó có thuộc đức tin tông truyền hay không (4). Trong văn kiện này, chúng tôi sử dụng hạn từ cảm thức đức tin của tín hữu (sensus fidei fidelis), để chỉ khả năng bản thân của người tín hữu biết biện phân chính xác các vấn đề thuộc đức tin, còn hạn từ cảm thức đức tin của các tín hữu (sensus fidei fidelium) là để nói tới bản năng đức tin của toàn thể Giáo Hội. Theo đồng văn này, cảm thức đức tin có ý nói tới cả hai thực tại vừa kể và đối với thực tại thứ hai, hạn từ cảm thức của các tín hữu (sensus fidelium) cũng đã được sử dụng.

4. Sự quan trọng của cảm thức đức tin trong đời sống Giáo Hội vốn đã được Công Đồng Vatican II nhấn mạnh một cách mạnh mẽ. Vì muốn phá bỏ hình ảnh biếm họa về một phẩm trật tích cực và một hàng ngũ giáo dân thụ động, và cách riêng ý niệm cho rằng có sự tách biệt hoàn toàn giữa Giáo Hội giảng dậy (Ecclesia docens) và Giáo Hội học tập (Ecclesia discens), nên Công Đồng đã dạy rằng mọi người đã nhận phép rửa đều tham dự, theo cách riêng của mình, vào ba chức vụ của Chúa Kitô là tiên tri, linh mục và vương đế. Cách riêng, Công Đồng dạy rằng Chúa Kitô chu toàn chức vụ tiên tri của Người không những nhờ phẩm trật mà còn nhờ cả hàng giáo dân nữa.

5. Tuy nhiên, trong việc tiếp nhận và áp dụng giáo huấn của Công Đồng về chủ đề này, nhiều câu hỏi được đặt ra, nhất là về các tranh cãi liên quan tới một số vấn đề tín lý hoặc luân lý khác nhau. Cảm thức đức tin chính xác là gì và làm sao nhận diện được nó? Đâu là nguồn Thánh Kinh của ý niệm này và cảm thức đức tin hành xử ra sao trong truyền thống đức tin? Cảm thức đức tin liên hệ ra sao với huấn quyền trong Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng và các giám mục, và với thần học? (5). Đâu là điều kiện để thi hành cảm thức đức tin này cách chân chính? Cảm thức đức tin có phải là một điều gì khác với ý kiến đa số của tín hữu trong một thời và tại một nơi nhất định nào đó không, và nếu khác, thì nó tác động ra sao đối với những người này? Tất cả các câu hỏi này đòi được trả lời nếu ý niệm cam thức đức tin muốn được hiểu một cách trọn vẹn hơn và sử dụng một cách tin tưởng hơn trong Giáo Hội ngày nay.

6. Mục đích của bản văn này không nhằm đưa ra một giải thích thấu đáo cho hạn từ cảm thức đức tin mà chỉ minh giải và đào sâu một số khía cạnh quan trọng của ý niệm chủ yếu này nhằm giải đáp một vài vấn đề, nhất là liên quan tới việc làm thế nào nhận diện được cảm thức đức tin chân chính trong hoàn cảnh có tranh cãi, như khi có căng thẳng giữa giáo huấn của huấn quyền và một số chủ trương cho rằng mình nói lên cảm thức đức tin chẳng hạn. Thành thử, bản văn này sẽ trước hết xem sét các nguồn Thánh Kinh của ý niệm cảm thức đức tin và cách ý niệm này khai triển và hành xử trong lịch sử và truyền thống Giáo Hội (chương một). Bản chất của cảm thức đức tin tín hữu (sensus fidei fidelis) sau đó sẽ được xem xét cùng với các biểu hiện của nó trong cuộc sống bản thân của người tín hữu (chương hai). Bản văn, sau đó, sẽ suy nghĩ về cảm thức đức tin các tín hữu (sensus fidei fidelium) tức là cảm thức đức tin trong hình thức Giáo Hội của nó, trước nhất xem xét vai trò của nó trong việc phát triển học lý và thực hành Kitô Giáo, sau đó tầm quan trọng của nó đối với huấn quyền và thần học, rồi tầm quan trọng của nó đối với cuộc đối thoại đại kết (chương ba). Sau cùng, bản văn sẽ tìm cách nhận diện các tâm hướng (dispositions) cần có để tham dự vào cảm thức đức tin chân chính, và cũng sẽ suy nghĩ về một số áp dụng các điều mới tìm ra này vào sinh hoạt cụ thể của Giáo Hội (chương bốn).

Còn tiếp
_______________________________________________________________________________________________________________________
(1) Đức Phanxicô, Kinh Truyền Tin, 17 /3/2013
(2) Xem Đức Phanxicô, Tông Huấn, Niềm Vui Tin Mừng (2013) các số 119-120.
(3) Các trích dẫn Thánh Kinh trong bản tiếng Anh, lấy từ New Revised Standard Version. Chúng tôi dịch sang tiếng Việt theo lối trích dẫn này.
(4) Trong văn kiện của mình về Việc Giải Thích Tín Điều (1989), Ủy Ban Thần Học Quốc Tế (ITC) nói tới "cảm thức đức tin" như một "cảm thức nội tâm" nhờ đó, dân Chúa "nhận ra rằng các lời giảng dạy là lời của Thiên Chúa chứ không phải lời lẽ con người và do đó, tiếp nhận và bảo vệ chúng hết dạ trung thành" (C,II,1). Văn kiện đó cũng nhấn mạnh tới vai trò của đồng thuận tín hữu (consensus fidelium) trong việc giải thích tín điều (C, II, 4).
(5) Trong một vă nkiện mới đây tựa là Thần Học Ngày Nay: Viê4n Tượng, Nguyên T7ác và Tiêu Chuẩn (2012), ITC nhận diện cảm thức đức tin như một chủ đề nền tảng hay điểm qui chiếu của thần học (số 35).
 
Nguyên văn tài liệu ''Cảm Thức Đức Tin Trong Đời Sống Giáo Hội''(2)
Vũ Văn An
21:24 10/07/2014

Chương một: Cảm thức đức tin trong Thánh Kinh và Thánh Truyền



7. Kiểu nói cảm thức đức tin không có trong cả Thánh Kinh lẫn giáo huấn chính thức của Giáo Hội, cho mãi tới Vatican II. Tuy nhiên, ý niệm cho rằng Giáo Hội như một toàn thể không sai lầm trong niềm tin của mình, vì là thân mình và là hiền thê của Chúa Kitô (xem 1Cor 12:27; Eph 4:12; 5:21-32; Kh 21:9), và rằng mọi chi thể Giáo Hội đều lãnh nhận một việc xức dầu tự nó đã giảng dạy họ (xem 1Ga 2:20, 27), đều được phú ban cho thần khí sự thật (xem Ga 16:13) là một ý niệm được mọi nơi coi là hiển nhiên ngay từ buổi đầu của Kitô Giáo. Chương này sẽ truy nguyên những đường hướng phát triển chính của ý niệm này, trước nhất trong Thánh Kinh và sau đó trong lịch sử tiếp theo của Giáo Hội.

1. Giáo huấn Thánh Kinh

a) Đức tin như một đáp trả Lời Thiên Chúa

8. Trong suốt Tân Ước, đức tin được trình bày như một đáp trả nền tảng và dứt khóat của con người đối với Tin Mừng. Chúa Giêsu công bố Tin Mừng để đem con người tới đức tin: “Thời giờ đã nên trọn, và nước Thiên Chúa đã tới gần; hãy thống hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Thánh Phaolô thì nhắc các Kitô hữu tiên khởi nhớ lời ngài loan báo về cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô để đổi mới và thâm hậu hóa đức tin của họ: “Anh chị em thân mến, giờ đây tôi muốn nhắc nhở anh chị em về tin mừng tôi đã công bố cho anh chị em, tin mừng mà anh chị em đã lãnh nhận và đang nắm vững, nhờ đó anh chị em được cứu rỗi, nếu anh chị em giữ đúng như tôi đã loan báo, nếu không, anh chị em chỉ tin uổng công” (1Cor 15:1-2). Cái hiểu đức tin trong Tân Ước bắt nguồn từ Cựu Ước, nhất là từ đức tin của Ápram, người đã tin vào các lời hứa của Thiên Chúa (St 15:6; xem Rm 4:11, 17). Đức tin này là lời đáp trả tự do đối với việc công bố lời Thiên Chúa, và như thế, nó là một hồng ân Chúa Thánh Thần mà những ai tin thực sự cần lãnh nhận lấy (xem 1Cor 12:3). “Việc vâng phục đức tin” (Rm 1:5) là kết quả ơn thánh Chúa, Đấng đã giải thoát con người và ban cho họ tư cách chi thể của Giáo Hội (Gl 5:1, 13).

9. Tin Mừng phát huy đức tin vì nó không chỉ thông truyền tin tức tôn giáo mà còn công bố lời Thiên Chúa, và “sức mạnh cứu rỗi” của Người, một sức mạnh đã thực sự được lãnh nhận (Rm 1:16-17; xem Mt 11:15; Lc 7:22 [Is 26:19; 29:18; 35:5-6; 61:1-11]). Nó là Tin Mừng của Ơn Thánh Thiên Chúa (Cv 20:24), là “mạc khải về mầu nhiệm” Thiên Chúa (Rm 16:25), và là “lời sự thật” (Eph 1:13). Tin Mừng có một nội dung có chất lượng: nước Thiên Chúa đến, Chúa Giêsu chịu đóng đinh sống lại và được hiển dương, mầu nhiệm Thiên Chúa cứu rỗi và hiển dương ta nhờ Chúa Thánh Thần. Tin Mừng có một chủ đề mạnh mẽ: Chính Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, đã sai các tông đồ và các người theo chân các ngài ra đi. Tin Mừng mang hình thức công bố trực tiếp, một cách đầy linh hứng và đầy thẩm quyền, bằng lời và bằng việc làm. Muốn lãnh nhận Tin Mừng, ta cần đáp ứng bằng cả con người mình “hết tâm hồn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi” (Mc 12:31). Đó là đáp trả của đức tin, vốn là “bảo đảm cho những điều ta hy vọng, xác tín những điều ta không thấy” (Thư Do Thái 11:1).

10. ‘“Đức tin” vừa là hành vi tin hay tín thác vừa là điều được tin hay được tuyên xưng, vừa là fides qua vừa là fides quae. Cả hai khía cạnh này luôn đi đôi với nhau một cách không thể tách biệt, vì tín thác là tán đồng một sứ điệp có nội dung khả niệm, và tuyên xưng không thể bị giản lược vào chuyện môi mép, nó phải phát xuất từ trái tim (6). Cựu và Tân Ước rõ ràng chứng minh rằng hình thức và nội dung của đức tin thuộc về nhau.

b) Các chiều kích bản thân và Giáo Hội của đức tin

11. Sách Thánh chứng minh rằng chiều kích bản thân của đức tin được hòa nhập vào chiều kích Giáo Hội; cả hình thức số ít lẫn hình thức số nhiều của ngôi thứ nhất đều có ở đây: “chúng tôi tin” (xem Gl 2:16) và “tôi tin” (xem Gl 2:19-20). Trong các thư của ngài, Thánh Phaolô thừa nhận đức tin của các tín hữu vừa như một thực tại bản thân vừa như một thực tại Giáo Hội. Ngài dạy rằng ai tuyên xưng “Chúa Giêsu là Chúa” đều được Chúa Thánh Thần linh hứng (1Cor 12:3). Chúa Thánh Thầm tháp nhập mọi tín hữu vào thân thể Chúa Kitô và ban cho họ một vai trò đặc biệt để xây dựng Giáo Hội (xem 1Cor 12:4-27). Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, việc tuyên xưng một Thiên Chúa và chỉ một Thiên Chúa mà thôi được nối kết với việc thực sự có đời sống đức tin trong Giáo Hội: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Eph 4:4-6).

12. Trong các chiều kích bản thân và Giáo Hội của nó, đức tin có những khía cạnh có tính yếu tính sau đây:

i) Đức tin đòi thống hối. Trong lời công bố của các tiên tri Do Thái và của Thánh Gioan Tẩy Giả (xem Mc 1:4), cũng như trong lời giảng dạy Tin Mừng của Chúa Giêsu (Mc 1:14 tt) và trong sứ vụ của các Tông Đồ (Cv 2:38-42; 1Tx 1:9tt), thống hối có nghĩa xưng thú tội lỗi của mình và bắt đầu một cuộc sống mới giữa cộng đoàn ký giao ước với Thiên Chúa (xem Rm 12:1tt).

ii) Đức tin vừa được phát biểu vừa được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện và thờ phượng (leiturgia). Cầu nguyện có thể mang nhiều hình thức khác nhau: cầu xin, khẩn nài, ca ngợi, cảm tạ, và tuyên xưng đức tin là một hình thức cầu nguyện đặc biệt. Lời cầu nguyện theo phụng vụ, nổi bật nhất trong cử hành Thánh Thể, ngay từ buổi đầu, đã hết sức chủ yếu đối với đời sống của cộng đồng Kitô hữu (xem Cv 2:42). Cầu nguyện diễn ra cả ở nơi công cộng (xem 1Cor 140 lẫn ở nơi tư riêng (xem Mt 6:5). Với Chúa Giêsu, Kinh Lạy Cha (Mt 6:9-13; Lc 11:1-4) nói lên yếu tính của đức tin. Nó là “bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng” (7). Đáng lưu ý là ngôn ngữ của nó là ngôn ngữ “chúng tôi”.

iii) Đức tin đem lại hiểu biết. Ai tin người ấy có khả năng nhận biết chân lý của Thiên Chúa (xem Pl 3:10tt). Sự hiểu biết này phát sinh từ việc suy niệm cảm nghiệm của ta về Thiên Chúa, dựa vào mạc khải và tham dự vào cộng đồng tín hữu. Đây là chứng tá của nền thần học khôn ngoan của cả Cựu và Tân Ước (Tv 111:10; xem Cn 1:7; 9:10; Mt 11:27; Lc 10:22).

iv) Đức tin dẫn tới tuyên xưng (marturia). Được Chúa Thánh Thần linh hứng, các tín hữu biết Đấng họ tín thác (xem 2Tm 1:12), và họ có khả năng giải thích niềm hy vọng ở trong họ (xem 1Pr 3:15), nhờ các lời tuyên xưng Tin Mừng đầy tính tiên tri và tông truyền (xem Rm 10:9tt). Họ làm việc này nhân danh họ; nhưng họ làm thế giữa cộng đồng tín hữu.

v) Đức tin bao hàm tin tưởng. Tín thác Thiên Chúa có nghĩa đặt căn bản cho toàn bộ cuộc sống ta trên lời hứa của Thiên Chúa. Trong Thư Do Thái 11, nhiều tín hữu trong Cựu Ước được nhắc tới như những thành phần của một cuộc diễn hành vĩ đại, qua không gian và thời gian, hướng về Thiên Chúa trên trời, được Chúa Giêsu, “Đấng đi tiên phong và là người hoàn thiện đức tin của ta” hướng dẫn (Dt 12:3). Các Kitô hữu là thành phần của cuộc diễn hành này, cùng chia sẻ một niềm hy vọng và xác tín như nhau (Dt 11:1), và “được bao quanh bởi một đám mây chứng nhân vĩ đại” (Dt 12:1).

vi) Đức tin kéo theo trách nhiệm, nhất là việc bác ái và phục vụ (diakonia). Các môn đệ sẽ được nhận biết “qua hoa trái của họ” (Mt 7:20). Các hoa trái này chủ yếu thuộc đức tin, vì đức tin, một nhân đức vốn phát sinh từ việc lắng nghe lời Thiên Chúa, đòi người môn đệ phải vâng theo ý Thiên Chúa. Đức tin công chính hóa (Gl 2:16) là “đức tin hành động qua bác ái” (Gl 5:6; xem Gc 2:21-24). Thực vậy, yêu anh chị em ta chính là tiêu chuẩn đối với tình yêu Thiên Chúa (1Ga 4:20).

c) Khả năng biết và làm chứng cho sự thật của các tín hữu

13. Trong sách Giêrêmia, “một giao ước mới” đã được hứa hẹn; giao ước này bao hàm việc nội tâm hóa lời Thiên Chúa: “Ta sẽ đặt lề luật Ta trong chúng, và Ta sẽ viết luật đó lên trái tim chúng; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không dạy nhau hoặc nói với nhau “hãy biết Thiên Chúa”, vì mọi người trong chúng đều sẽ biết Ta, từ những kẻ thấp hèn nhất tới những kẻ cao cả nhất trong chúng, Thiên Chúa phán như vậy; vì Ta sẽ tha thứ tội lỗi của chúng, và sẽ không nhớ tới tội lỗi của chúng nữa” (Gr 31:33-34). Dân Thiên Chúa cần được tái tạo như mới, tiếp nhận “một tinh thần mới” để có thể nhận biết và tuân theo lề luật (Ed 11:19-20). Lời hứa này được ứng nghiệm trong thừa tác vụ của Chúa Giêsu và trong đời sống của Giáo Hội nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Nó đặc biệt nên trọn trong lúc cử hành Thánh Thể, trong đó, tín hữu lãnh nhận chén “giao ước mới” bằng máu Chúa (Lc 22:20; 1Cor 11:25; xem Rm 11:27; Dt 8:6-12; 10:14-17).

14. Trong diễn văn từ giã ở Bữa Tối Cuối Cùng, Chúa Giêsu hứa sẽ ban cho các môn đệ “Đấng An Ủi”, vốn là Thần Khí Sự Thật (Ga 14:16,26; 15:26;16:7-14). Thần Khí sẽ nhắc các ông nhớ các lời lẽ của Chúa Giêsu (Ga 14:26), giúp họ khả năng làm chứng cho lời Chúa (Ga 15:26-27), “chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, công chính và phán xét” (Ga 16:8), và “hướng dẫn” các môn đệ “vào mọi chân lý” (Ga 16:13). Tất cả những điều này xẩy ra nhờ ơn Chúa Thánh Thần qua mầu nhiệm vượt qua, được cử hành trong đời sống cộng đồng Kitô Giáo, nhất là trong Thánh Thể, cho tới ngày Chúa đến (xem 1Cor 11:26). Các môn đệ có một cảm thức linh hứng về sự thật luôn hiện thực trong lời Chúa, nhập thể nơi Chúa Giêsu, và ý nghĩa của lời này đối với ngày nay (xem 2Cor 6:2), và đây là điều thúc đẩy Dân Chúa, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, sẵn sàng làm chứng cho đức tin của họ trong Giáo Hội và trong thế giới.

15. Môsê từng muốn cho mọi người trong dân trở thành tiên tri nhờ tiếp nhận thần khí Chúa (Ds 11:29). Ước muốn này đã trở thành lời hứa cánh chung nhờ tiên tri Gioen và trong biến cố Ngũ Tuần, Thánh Phêrô đã tuyên bố rằng lời hứa ấy đã được ứng nghiệm: “Thiên Chúa nói, trong những ngày sau cùng, Ta sẽ tuôn tràn Thần Khí ta trên mọi thân xác, và con trai con gái các ngươi sẽ nói tiên tri” (Cv 2:17; xem Ge 3:1). Thần Khí được hứa ban ấy (xem Cv 1:8) đã được đổ xuống, giúp tín hữu nói “về những việc làm đầy quyền lực của Thiên Chúa” (Cv 2:11).

16. Lời mô tả đầu tiên về cộng đoàn tín hữu Giêrusalem tổng hợp 4 yếu tố sau đây: “Họ chuyên chăm lắng nghe giáo huấn của các tông đồ, hiệp thông, bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2:42). Việc chuyên chăm vào 4 yếu tố này đã mạnh mẽ nói lên đức tin tông truyền. Đức tin bám lấy giáo huấn chân chính của các Tông Đồ, là giáo huấn luôn nhắc ta nhớ tới giáo huấn của Chúa Giêsu (xem Lc 1:1-4); nó lôi cuốn các tín hữu vào tình hiệp thông với nhau; nó được đổi mới nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa trong lúc bẻ bánh; và nó được dưỡng nuôi nhờ lời cầu nguyện.

17. Trong Giáo Hội Giêrusalem, khi xẩy ra tranh chấp giữa người Hy Lạp và người Do Thái liên quan tới việc phân phối thực phẩm hàng ngày, mười hai tông đồ đã triệu tập “toàn thể cộng đoàn môn đệ” và đưa ra quyết định: “làm vui lòng toàn thể cộng đoàn”. Toàn thể cộng đoàn này đã chọn “bẩy người có tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan” và đặt họ trước mặt các tông đồ. Các vị cầu nguyện rồi đặt tay lên họ (Cv 6:1-6). Khi có vấn đề xẩy ra tại Giáo Hội Antiôkia liên quan tới việc cắt da qui đầu và việc thực hành Lề Luật, thì vấn đề này đã được trình lên cho Giáo Hội mẹ ở Giêrusalem phân xử. Công đồng các tông đồ, từ đó phát sinh, có một tầm quan trọng hết sức lớn lao đối với tương lai Giáo Hội. Thánh Luca mô tả trình tự các biến cố này một cách cẩn thận. “Các tông đồ và các vị trưởng thượng họp nhau để cân nhắc vấn đề” (Cv 15:6). Thánh Phêrô kể lại câu truyện ngài được Chúa Thánh Thần linh hứng đi rửa tội cho Ông Cornêliô và gia đình ông dù họ chưa được cắt da qui đầu (Cv 15:7-11). Thánh Phaolô và Barnaba thuật lại kinh nghiệm truyền giáo của họ tại Giáo Hội địa phương Antiôkia (Cv 15:12; xem 15:1-5). Thánh Giacôbê suy tư về các kinh nghiệm này dưới sự soi sáng của Thánh Kinh (Cv 15:13-18), và đề xuất một quyết định cổ vũ tính hợp nhất của Giáo Hội (Cv 15:19-21). “Thế rồi, các tông đồ và các trưởng thượng, với sự đồng ý của toàn thể Giáo Hội, quyết định chọn một số thành viên tại chỗ và phái họ đi Antiôkia cùng với Phaolô và Barbana” (Cv 15:22). Đối với Thánh Luca, các biến cố này cho thấy một hành động có tính đặc trưng Giáo Hội, bao gồm cả thừa tác mục vụ của các tông đồ và các trưởng thượng lẫn sự tham dự của cộng đoàn, nhờ đức tin mà có đủ tư cách tham dự.

18. Viết cho tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô cho rằng sự điên rồ của thập giá chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cor 1:18-25). Giải thích tại sao nghịch lý này có thể hiểu được, ngài nói: “chúng ta có tâm trí của Chúa Kitô” (1Cor 2:16; ἡμεῖς δὲ νοῦν Χριστοῦ ἔχομεν; nos autem sensum Christi habemus, theo Bản Phổ Thông). “Chúng ta” ở đây chỉ Giáo Hội Côrintô trong hiệp thông với các Tông Đồ như là một phần của toàn thể cộng đồng tín hữu (1Cor 1:1-2). Khả năng nhận ra Đấng Mêxia chịu đóng đinh là khôn ngoan của Thiên Chúa do Chúa Thánh Thần ban cho; nó không phải là một đặc ân của người khôn ngoan và của luật sĩ (xem 1Cor 1:20), nhưng là một đặc ân được ban cho người nghèo, người bị loại ra bên lề, và những ai bị coi là “điên rồ” dưới mắt thế gian (1Cor 1:26-29). Mặc dù thế, Thánh Phaolô vẫn phê phán người Côrintô vì “vẫn còn thuộc xác thịt”, vẫn chưa sẵn sàng dùng “đồ ăn đặc” (1Cor 3:1-4). Đức tin của họ cần phải trưởng thành và tìm được lối phát biểu tốt hơn bằng lời nói và việc làm.

19. Trong thừa tác vụ của ngài, Thánh Phaolô tỏ lòng kính trọng và muốn thâm hậu hóa đức tin của cộng đoàn của ngài. Trong câu 2Cor 1:24, ngài mô tả nhiệm vụ tông đồ của mình như sau: “tôi không muốn hàm ý rằng chúng tôi sai khiến đức tin anh em; đúng hơn, chúng tôi cùng làm việc với anh em để anh em được vui, vì anh em đã bền vững trong đức tin rồi”, và ngài khuyến khích tín hữu Côrintô: “Hãy bền vững trong đức tin của anh em” (1Cor 16:14). Với tín hữu Texalônica, ngài viết một lá thư “để củng cố và khuyến khích anh em vì đức tin của anh em” (1Tx 3:2), và ngài cầu nguyện cho đức tin của các cộng đoàn khác cũng như vậy (xem Cl 1:9; Eph 1:17-19). Không chỉ làm việc để gia tăng đức tin cho người khác, Thánh Tông Đồ biết rằng chính đức tin của ngài cũng cần được củng cố nhờ một loại đối thoại đức tin nào đó: “…để chúng ta cùng khuyến khích nhau bằng đức tin của mỗi người, cả đức tin của anh em lẫn đức tin của tôi” (Rm 1:12). Đức tin của cộng đồng là điểm qui chiếu đối với giáo huấn của Thánh Phaolô và là tiêu điểm đối với thừa tác mục vụ của ngài, tạo ra cả một trao đổi hữu ích hỗ tương giữa ngài và các cộng đoàn của ngài.

20. Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan, Truyền Thống tông đồ đã được nhắc tới (1Ga 1:1-4) và độc giả được nhắc nhở tới phép rửa của họ: “Anh em đã được Đấng Thánh xức dầu cho và tất cả anh em đều được hiểu biết” (1Ga 2:20). Thư viết tiếp: “Còn về phần anh em, việc xức dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Người vẫn ở trong anh em, và như thế, anh em không cần ai dạy dỗ anh em cả. Nhưng vì việc xức dầu này dạy anh em mọi điều, và việc xức dầu này chân thật, không dối trá, thì theo như nó đã dạy anh em, anh em hãy ở trong Người” (1Ga 2:27).

21. Cuối cùng, trong sách Khải Huyền, trong tư cách tiên tri, Thánh Gioan nhắc đi nhắc lại với các Giáo Hội (xem Kh 2-3) công thức sau đây “Ai có tai hãy lắng nghe Thần Khí đang nói với các Giáo Hội” (Kh 2:7, và các câu khác). Các chi thể Giáo Hội được khuyên nhủ phải lưu tâm tới lời hằng sống của Thần Khí, tiếp nhận lời ấy, và vinh tụng Thiên Chúa. Chính nhờ vâng phục đức tin, vốn cũng là hồng ân Chúa Thánh Thần, các tín hữu có khả năng nhận biết rằng giáo huấn họ đang tiếp nhận quả thực là giáo huấn của cùng một Thần Khí, và đáp ứng đối với các huấn giáo họ nhận được.

Còn tiếp
______________________________________________________________________________________________________________________
[6] Theology Today, §13.
[7] Tertullian, De oratione, I, 6; Corpus Christianorum, series latina (từ đây viết tắt là CCSL), 1, p.258.
 
Văn Hóa
Trận chung kết bóng đá tại Vatican
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
12:38 10/07/2014
Sau loạt trận đấu vòng loại trong các bảng và những trận vào vòng sâu tiếp theo, chủ nhân của chức vô địch bóng đá thế giới lần này đang dần xuất đầu lộ diện. Các đội tuyển được cho là ứng cử viên sáng giá luôn thuộc về hai Châu Lục Âu và Mỹ, vốn có nền bóng đá phát triển mạnh so với các khu vực khác trên thế giới. Ở vòng đấu bán kết vừa rồi, mỗi Châu Lục ấy đều có hai đại diện. Hai trận cuối cùng tranh giải nhất và giải ba cũng vẫn là trận đấu giữa Châu Âu và Châu Mỹ. Đặc biệt, trận chung kết năm nay có một sự trùng lặp rất tình cờ đối với các khán giả Công Giáo. Hai đội bóng thuộc hai quốc gia của hai Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI và Phanxicô. Đội tuyển quốc gia của các ngài là đối thủ của nhau trong cuộc chay đua ngôi vô địch. Có thể nói trận chung kết lần này nằm trong khuôn khổ Vatican.

Trước trận đấu, về lãnh vực chuyên môn, đã có nhiều tiếng nói của các chuyên viên mổ xẻ rất kỹ lưỡng điểm mạnh yếu của từng đội bóng. Họ cũng dự đoán chiến thuật mà mỗi bên sẽ áp dụng, cũng như tỷ số chung cuộc của trận đấu. Vị trí trong từng tuyến tương ứng với từng cầu thủ trong cách sử dụng người của hai huấn luyện viên cũng được đặt lên bàn cân. Tuy nhiên, dự đoán vẫn và dự đoán, vì trong bóng đá luôn có những bất ngờ. Trận bán kết giữa Đức và chủ nhà Brasil là một điển hình. Và như vậy chỉ khi tiếng còi của trọng tài thổi để kết thúc trận đấu, khi đó kết quả mới ngã ngũ.

Sở dĩ, hiện nay, trận chung kết trở thành chủ đề được giới khán giả Công Giáo đem ra bàn luận sôi nổi là vì Đức Thánh Cha Phanxicô rất mê bóng đá. Từ khi lên ngôi giáo hoàng, ngài đã tiếp kiến nhiều câu lạc bộ. Các bạn trẻ trên thế giới mỗi lần đến Roma cũng tặng cho ngài chiếc áo cầu thủ được in tên Phanxicô. Trong thể thao chuyện người thắng kẻ thua là đương nhiên. Tuy nhiên, mọi người xem ra lại thích suy đoán về cách phản ứng của hai Đức Thánh Cha trước khi tiếng còi khai cuộc của trận chung kết.

Lướt qua các trạng mạng xã hội, có rất nhiều ý kiến trái chiều. Một số người có đức bác ái Kitô giáo cao thì cho rằng đội nào thắng cũng đều xứng đáng cả, vì cả hai đội đều thuộc có liên quan đến hai Đức Thánh Cha. Một số khác hài ước hơn tìm cách đặt mẩu đối thoại về trận chung kết vào hình ảnh hai Đức Thánh Cha đang cầu nguyện tại nhà nguyện ở dinh thự mùa hè trong chuyến thăm đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đối với vị tiền nhiệm của ngài, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Có ý kiến lại cho rằng đội của Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chiến thắng vì đội này đã từng đoạt danh hiệu vô địch nhờ « bàn tay của Chúa ». Có người khác lại thắc mắc liệu hai Đức Thánh Cha có thể cùng ngồi xem chung trận đấu này. Một tình huống nữa cũng được đặt ra là khi một đội lên ngôi vô địch thì liệu Đức Giáo Hoàng của đội á quân sẽ gọi điện thoại cho vị kia để chúc mừng hay không.

Trước giờ bóng lăn mỗi đội đều ấp ủ niềm hy vọng chiến thắng ngang nhau. Trái bóng tròn bao giờ cũng tạo ra những bất ngờ. Đặc biệt hơn, trận chung kết lần này bóng chưa lăn mà đã có rất nhiều thú vị. Sẽ càng thú vị hơn nữa khi được nghe ý kiến sau trận cầu lịch sử này thốt ra từ miệng Đức Thánh Cha Phanxicô, một fan hâm mộ môn thể thao vua thượng thặng. Chúng ta hãy cùng chờ xem.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hoa Hướng Dương
Đặng Đức Cương
21:30 10/07/2014
HOA HƯỚNG DƯƠNG
Ảnh của Đặng Đức Cương
Rạng rỡ thay cánh hoa vàng khác lạ
Ân phúc lộc hướng dương hoa tháng Hạ
Nắng càng nồng hoa càng nở thêm to
Tình thanh khiết của tuổi mộng học trò
Hoa tháng Hạ mang rất nhiều ý nghĩa.
(Trích thơ của Nguyên Đỗ)
 
VietCatholic TV
Suy niệm cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô: 03/07 - 09/07/2014 - Câu chuyện Thánh Phaolô trở lại.
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
23:27 10/07/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật

Trong hai tháng hè 7 và 8 này, nhiều hoạt động của Đức Thánh Cha đã bị hủy bỏ, nhưng ngài vẫn muốn giữ lại giờ đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu hành hương tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào trưa Chúa Nhật hàng tuần. Chia sẻ với các tín hữu hôm Chúa Nhật 6 tháng 7 vừa qua, Ngài đã lấy cảm hứng từ bài Tin Mừng, trong đó có lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hỡi tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đức Thánh Cha nói rằng, lời mời gọi này của Đức Giêsu dành cho hết thảy mọi người, xưa cũng như nay, giàu cũng như nghèo, nhưng đặc biệt, Đức Giêsu dành cho những ai đang chịu đau khổ nhất.

Ngài cũng chia sẻ thêm rằng khi mang lấy ách của Chúa theo lời mời gọi của Ngài, chúng ta cũng phải trở nên những con người biết chia sẻ gánh nặng với anh chị em mình, trở thành người mang đến cho họ niềm an ủi.

Ngài nói:

“Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, chúng ta nghe thấy lời mời gọi của Chúa Giêsu. Ngài nói: "Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11,28). Khi Chúa Giêsu nói điều này, hiện diện trước mắt Ngài là những con người mà Ngài gặp gỡ hàng ngày trên đường đi lên Galilea: rất nhiều người đơn sơ, người nghèo, bệnh nhân, tội nhân, người bị gạt ra bên ngoài xã hội... Những con người này thường đi theo Ngài để nghe lời Ngài - lời trao ban hy vọng! Những lời của Đức Giêsu luôn trao ban niềm hy vọng! Họ cũng muốn chỉ cần chạm vào vạt áo của Ngài. Chính Đức Giêsu cũng đã đi tìm những đám đông mệt mỏi và bất lực như đàn chiên không có người chăm sóc này (x. Mt 9,35-36) và Ngài tìm họ để rao giảng cho họ biết về Nước Chúa và để chữa lành nhiều người trong số họ về thể xác cũng như tinh thần. Bây giờ, Ngài mời gọi hết thảy họ hãy đến với mình: "Hãy đến với Ta" và Ngài hứa ban cho họ nghỉ ngơi và bồi dưỡng.”

Đức Thánh Cha giải thích rằng: “Lời mời gọi này của Đức Giêsu nới rộng cho cả chúng ta ngày nay, vươn đến nhiều anh chị em đang bị đè nặng bởi những hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống, bởi những tình huống sinh tồn vất vả và nhiều khi chẳng có giá trị gì để nhắc tới. Trong những quốc gia nghèn nàn hơn, mà thậm chí nơi những vùng ngoại ô của những nước giàu, ta vẫn có thể tìm thấy nhiều người mệt mỏi và bất lực dưới sức nặng không thể chịu nỗi của việc bị bỏ rơi và sự dửng dưng. Sự hờ hững: dửng dưng của con người đối với những người thiếu thốn thật tệ hại biết bao! Tệ hại hơn, đó là sự dửng dưng của các Kitô hữu! Những người ở bên lề xã hội là những người nam nữ bị cái nghèo hành hạ, nhưng cũng có khi họ bị thương tổn vì chính sự bất mãn của cuộc sống và sự hụt hẫng. Nhiều người bị buộc phải tỵ nạn khỏi quê cha đất tổ của mình, đánh liều chính mạng sống của mình. Và còn cơ man những người mỗi ngày phải mang gánh nặng của một hệ thống kinh tế bóc lột con người, đè nặng trên họ cái "ách" không thể vác nỗi mà số ít những người có đặc lợi, đặc quyền không muốn chung lưng gánh vác. Chúa Giêsu nói với từng người con của Cha trên trời rằng: "Hãy đến với Ta, hỡi tất cả". Nhưng Ngài cũng nói điều này với những ai sở hữu nhiều thứ mà trong con tim của họ trống rỗng, không có Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng gửi gắm đến những người này: "Hãy đến với ta". Lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho tất cả. Nhưng cách đặc biệt, Ngài dành cho những ai đang đau khổ nhất.”

Đức Thánh Cha nói thêm rằng: “Chúa Giêsu hứa cho tất cả mọi người được nghỉ ngơi nhưng Ngài cũng trao ban cho chúng ta một lời mời gọi nữa, lời mời gọi giống như một mệnh lệnh: "Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng" (Mt 11,29). "Ách" của Chúa bao gồm cả việc giúp chia sẻ gánh nặng với người khác bằng tình yêu huynh đệ. Cứ mỗi khi nhận được sự nghỉ ngơi và êm ái nơi Đức Kitô, chúng ta cũng được mời gọi để trở nên sự nghỉ ngơi và êm ái cho anh chị em mình, với thái độ hiền lành và khiêm nhường, noi gương Thầy Chí Thánh. Sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng giúp chúng ta không chỉ chia sẻ gánh nặng của người khác nhưng còn không đè nặng lên họ quan điểm cá nhân, phán đoán, phê bình và sự hờ hững của chúng ta nữa.”

Cuối cùng, Ngài mời gọi người hãy hướng lòng về Mẹ Maria:

“Chúng ta hãy cầu xin Mẹ Rất Thánh, đón nhận dưới tà áo mẹ tất cả những ai mệt mỏi và bất lực để nhờ đức tin tỏa sáng, được chứng thực trong cuộc sống, chúng ta có thể trở thành nơi nghỉ ngơi cho những ai đang cần giúp đỡ, cần sự hiền lành và niềm hy vọng.”

2. Câu chuyện Thánh Phaolô trở lại.

Vị tử đạo tiên khởi

Ông Têphanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Có những người thuộc hội đường gọi là nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alêxanria, cùng với một số người gốc Kilikia và Tiểu Á, đứng lên tranh luận với ông Têphanô. Nhưng họ không tranh luận nổi với những lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông. Bấy giờ, họ mới xui mấy người phao lên rằng:

- Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xức phạm đến ông Môsê và Thiên Chúa".

Họ sách động dân và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Ðồng. Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng:

- "Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giêsu người Nadarét ấy sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Môsê đã truyền lại cho chúng ta".

- "Thế thì nó phải chết”

Ông Têphanô giảng giải nhưng họ không nghe, lòng họ giận điên lên, họ nghiến răng căm thù ông Têphanô và lôi ông ra ngoài thành ném đá. Saolô cũng ở trong số đám đông. Ông không ném đá nhưng giữ áo xống cho những kẻ ném đá và khích lệ chúng.

Ðược đầy ơn Thánh Thần, ông Têphanô đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Ðức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa".

Ông cầu xin rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con". Rồi ông quỳ xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này". Nói thế rồi, ông an nghỉ.

Nhận định về cái chết của vị tử đạo tiên khởi, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 nói:

Chứng tá của Thánh Têphanô, cũng như chứng tá của các vị tử đạo Kitô, chỉ ra cho những người đồng thời với chúng ta, thường bị chia trí và lạc hướng, biết là cần phải tín thác nơi ai, hầu mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Thực vậy, vị tử đạo là người chết với niềm xác tín chắc chắn mình được Thiên Chúa yêu thương, và khi không đặt điều gì trên lòng yêu mến Chúa Kitô, họ biết chọn lựa phần tốt đẹp nhất. Khi trở nên đồng hình dạng với cái chết của Chúa Kitô, vị tử đạo biết mình là hạt giống mang lại sự sống phong phú và mở ra trên thế giới những con đường hoà bình và hy vọng.

Lễ Thánh Têphanô tử đạo nhắc nhở chúng ta về bao nhiêu tín hữu, tại nhiều nơi trên thế giới, đang phải chịu thử thách và đau khổ vì niềm tin của họ. Chúng ta hãy phó thác anh chị em chúng ta cho sự phù hộ của thánh nhân trên thiên quốc, đồng thời, dấn thân nâng đỡ họ bằng lời cầu nguyện và luôn đặt Chúa Giêsu Kitô ở trung tâm đời sống chúng ta”. (26 Tháng 12 2009).

Ông Saolô ngã ngựa trên đường Đamát

Hồi ấy, Hội Thánh tại Giêrusalem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Ðồ ra, mọi người đều phải phải tản mác về các vùng quê miền Giuđê và Samari.

Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục. Chưa đã giận, nên ông đã tới gặp thượng tế xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Ðamát, để nếu thấy những người theo đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem.

- Tôi có những báo cáo cụ thể của người La Mã về những hoạt động ráo riết tại Đamát của những tên theo Giêsu người Nadarét.

- Đamát không thuộc thẩm quyền của chúng ta.

- Tôi chỉ cần 1 thư giới thiệu, ngựa và một số người khoẻ mạnh đi cùng.

- Rồi nhà ngươi làm sao.

-Tôi sẽ bắt tất cả bọn chúng và giải về Giêrusalem.

-Được đấy, cứ làm như thế đi.

- Ta sẽ cấp người và ngựa cho ngươi.

Đang khi Saolô đi đường và đến gần Ðamát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông: " Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?"

Ông nói:

"Thưa Ngài, Ngài là ai?"

Người đáp:

"Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ. Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì".

Những người cùng đi với ông dừng lại, sững sờ: họ nghe có tiếng nói, nhưng không trông thấy ai.

Ông Saolô từ dưới đất đứng dậy, mắt thì mở nhưng không thấy gì. Người ta phải cầm tay dắt ông vào Ðamát. Suốt ba ngày, ông không nhìn thấy, cũng chẳng ăn, chẳng uống.

Bấy giờ ở Ðamát có một môn đệ tên là Khanania. Trong một thị kiến, Chúa bảo ông đến chữa đôi mắt cho Saolô.

Ông Khanania liền trỗi dậy ra đi; ông vào nhà, đặt tay trên ông Saolô và nói:

"Anh Saolô, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Đức Giêsu, Ðấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần".

Ông Saolô bỡ ngỡ thưa:

"Nhưng tôi đã làm biết bao những điều ác cho các môn đệ Chúa tại Giêrusalem. Các thượng tế sai tôi đến đây và cho quyền bắt trói tất cả những ai kêu cầu danh Chúa".

Đừng lo, Chúa là đấng đầy lòng thương xót, anh sẽ nên khí cụ cho Ngài.

Ông Khanania chạm đến đôi mắt Saolô, lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Saolô, và ông lại thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa. Rồi ông ăn và khoẻ lại.

Ông ở lại Ðamát với các môn đệ mấy hôm, rồi lập tức ông bắt đầu rao giảng Ðức Giêsu trong các hội đường, rằng Người là Con Thiên Chúa. Mọi người nghe ông giảng đều kinh ngạc và nói: "Ông này chẳng phải là người Giêrusalem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh Giêsu sao? Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng tế sao?" Nhưng ông Saolô càng thêm vững mạnh, và ông làm cho người Dothái ở Ðamát phải bẽ mặt, khi minh chứng rằng Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia.

Vị Tông Đồ dân Ngoại đã là một chướng ngại, mà người ta phải tìm cách giết ngài, nhưng ngài vẫn không phàn nàn, lo lắng. Ngài tiến về phía trước để đến rao giảng Tin Mừng trong vùng Lycaonia và trong danh Thiên Chúa, ngài chữa lành một người bại liệt. Khi chứng kiến phép lạ này, dân ngoại nghĩ Phaolô và Banaba là những vị thần linh giáng lâm giống các vị thần Zeus và Hermes.

Bình luận về sự kiện này, trong Thánh Lễ ngày 19 tháng 05 tại nhà nguyện Santa Marta. Đức Thánh Cha Phanxicô nói:

Phaolô “đấu tranh để thuyết phục họ rằng các ngài là những người con người. Đó là những thử thách nhân loại mà Thánh Phaolô đã trải nghiệm”.

“Ngài bắt đầu rao giảng ở đó, thấy ai có đủ đức tin, ngài chữa lành bệnh cho họ. Ngài bình tĩnh trước sự phấn khởi của dân chúng, những người muốn tôn ngài lên làm thần linh, sau đó bằng ngôn ngữ văn hóa riêng của họ, ngài công bố rằng chỉ có duy mình Thiên Chúa là Thần. Điều này chỉ có được từ một con tim kiên định.”

Sau một thời gian khá lâu, người Do Thái cùng nhau bàn kế giết ông Saolô. Người ta canh giữ các cửa thành ngày đêm, để tìm dịp giết ông. Nhưng ban đêm, các môn đệ ông đã đưa ông qua tường thành bằng các đặt ông ngồi trong một cái thúng rồi dòng dây thả xuống.
 
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 04/07 – 10/07/2014 – Thảm cảnh nội chiến tại Syria
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
20:22 10/07/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Tường trình chuyến viếng thăm tổng giáo phận Campobasso của Đức Thánh Cha Phanxicô

Sáng thứ Bẩy 5 tháng 7, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viếng thăm mục vụ tại tổng giáo phận Campobasso và ngài dành buồi chiều để thăm giáo phận Isernia thuộc miền Molise, nam Italia.

Tổng Giáo phận Campobasso cách Roma 185 cây số về hướng đông nam và có 124 ngàn tín hữu.

Đức Thánh Cha đã đáp trực thăng đến Campobasso lúc quá 9 giờ sáng và gặp gỡ giới lao động và công nghệ tại Đại thính đường đại học Molise.

Sau lời chào thăm của giáo sư viện trưởng đại học, một bà mẹ trẻ công nhân của hãng xe Fiat, và một thanh niên nông dân 28 tuổi đã trình bày lên Đức Thánh Cha tình trạng của giới công nhân và nạn thất nghiệp của người trẻ, ngài đã ngỏ lời với mọi người trong bài huấn dụ và đặc biệt nói đến vấn đề nghỉ việc Chúa Nhật, một vấn đề liên hệ tới tất cả mọi người, chứ không phải chỉ liên quan đến các tín hữu. Đức Thánh Cha nói:

“Chúa Nhật nghỉ việc - trừ những dịch vụ cần thiết - nhắm khẳng định rằng ưu tiên không ở nơi kinh tế, nhưng nơi con người, nơi sự nhưng không, nơi những quan hệ không phải thương mại, nhưng là gia đình, thân hữu, và đối với các tín hữu, nơi quan hệ với Thiên Chúa và cộng đoàn. Có lẽ đã đến lúc chúng ta tự hỏi làm việc ngày Chúa Nhật có phải là thực sự là tự do hay không?”

Đề cập đến nạn thất nghiệp đang đè nặng trên miền Molise, Đức Thánh Cha ghi nhận nỗ lực của miền này đang tìm cách vượt thắng thảm trạng thiếu công ăn việc làm, liên kết tất cả những lực lượng trong tinh thần xây dựng. Ngài nói: “Bao nhiêu việc làm có thể được phục hồi qua một chiến lược có phối hợp với chính quyền quốc gia, một “hiệp ước về lao động” biết đón nhận những cơ may do các quy luật quốc gia và Âu Châu mang lại. Tôi khuyến khích anh chị em hãy tiếp bước trên con đường đó, có thể mang lại những thành quả tốt cho cả miền khác nữa”.

Thánh lễ

Giã từ đại học Campobasso, Đức Thánh Cha đã tới tại sân thể thao Romagnoli của thành phố để cử hành thánh lễ lúc gần 10 giờ sáng, trước sự tham dự của gần 80 ngàn tín hữu. Các Giám Mục miền Molise và khoảng 40 linh mục đồng tế tại lễ đài thật đơn sơ với mái che bằng các lá cây.

Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha đề cao chứng tá bác ái như con đường trổi vượt để loan báo Tin Mừng: “Giáo Hội luôn đi hàng đầu, là một sự hiện diện từ mẫu và huynh đệ, chia sẻ những khó khăn và sự dòn mỏng yếu đuối của con người”.

Đức Thánh Cha ca ngợi những nỗ lực của cộng đồng giáo phận Campobasso đang quảng đại thực hiện, với sự nâng đỡ của vị Giám Mục mục tử nhiệt thành. Ngài nói:

“Tôi khích lệ tất cả anh chị em, linh mục, tu sĩ nam nữ, tín hữu giáo dân, hãy kiên trì trên con đường này, phụng sự Thiên Chúa và anh chị em mình, phổ biến khắp nơi nền văn hóa liên đới. Sự dấn thân này rất cần thiết đứng trước những tình cảnh bấp bênh về vật chất và tinh thần, nhất là đứng trước nạn thất nghiệp, một tai ương đang đòi cố gắng và can đảm của tất cả mọi người. Nạn thất nghiệp đặc biệt đòi hỏi trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, của giới chủ xí nghiệp và tài chánh. Cần đặt phẩm giá con người ở trung tâm mọi viễn tượng và hoạt động. Các lợi ích và quan tâm khác, dù là hợp pháp, đều là điều thứ yếu”.

Đức Thánh Cha cũng nói đến tự do mà Chúa ban cho con người: trước tiên là tự do khỏi tội lỗi, khỏi tính ích kỷ dưới mọi hình thức.. Chúng ta cảm nghiệm tự do này trong cộng đoàn Kitô khi chúng ta đặt mình phục vụ nhau. Khi ấy Chúa giải thoát chúng ta khỏi những tham vọng và cạnh tranh, làm thương tổn tình đoàn kết và hiệp thông. Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự nghi kỵ, buồn sầu, sợ hãi và trống rỗng nội tâm, cô lập, tiếc nuối và than vãn...”

Các hoạt động kế tiếp

Sau Thánh lễ, Đức Thánh Cha đã viếng thăm và cầu nguyện tại Nhà thờ chính tòa Campobasso. Ngài chào thăm đại diện các bệnh nhân tại nhà thờ, trước khi đến dùng bữa trưa với 50 người nghèo tại trung tâm Caritas địa phương, gọi là “Nhà các thiên thần”, được biến cải từ một trường học cũ.

Rất đông tín hữu và dân chúng đứng hai bên những con đường ở trung tâm thành phố nơi Đức Thánh Cha đi qua trên chiếc xe díp mui trần. Họ reo hò vui mừng, vẫy cờ màu vàng trắng của Vatican.

Sau bữa trưa, Đức Thánh Cha trở lại sân trực thăng ở đại học Molise để bay về Đền thánh Castelpetroso, nơi có tôn kính tượng ảnh Đức Mẹ Sầu Bi.

Tại đây vào lúc 3 giờ 15, ngài để gặp gỡ giới trẻ miền Abruzzo và Molise.

Nói chuyện với hàng ngàn người trẻ tụ tập tại Đền thờ Castelpetroso, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo chống lại thứ "văn hóa tạm bợ" và các xu hướng đang thịnh hành trong xã hội đương đại.

Một nền văn hóa như vậy không thích hợp cho sự hình thành của một cuộc sống ổn định, là điều phải được xây dựng trên "đá tảng của tình yêu và trách nhiệm" hơn là "những hạt cát của cảm xúc." Nền văn hóa tạm bợ chỉ dẫn đến một thứ cá nhân chủ nghĩa trong đó hoài nghi tất cả mọi thứ, và dẫn đến một thái độ hời hợt khi đứng trước những trách nhiệm.

Tuy nhiên, trái tim con người mong muốn những điều tuyệt vời, những đức tính quan trọng, những tình bạn sâu sắc, và những mối quan hệ ngày càng phải được tăng cường chứ không phải là những quan hệ dễ đổ vỡ bởi những khó khăn của cuộc sống. "Con người khao khát yêu và được yêu," ngài nói.

Trong khi "văn hóa tạm bợ" xem ra có vẻ làm tăng tự do của chúng ta, nó thực sự tước đi phẩm giá của chúng ta. Ngài thách thức các bạn trẻ hãy khao khát hạnh phúc, và can đảm thoát ra khỏi bản thân mình ngõ hầu hướng tới một tương lai cùng với Chúa Giêsu.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta theo Ngài, "không phải để lợi dụng chúng ta, không phải để nô lệ chúng ta, nhưng để làm cho chúng ta được tự do."

Đức Thánh Cha tiếp tục chỉ trích tình trạng thất nghiệp hiện nay mà nhiều người trẻ tuổi phải đối mặt. Ngài nói rằng chúng ta không thể thoái thác trách nhiệm trước sự mất mát của cả một thế hệ thanh niên thất nghiệp. Chúng ta cần phải sử dụng sự sáng tạo của chúng ta để giới trẻ có thể trải nghiệm "niềm vui của nhân phẩm xuất phát từ công ăn việc làm."

Nhắc lại rằng đền thờ nơi cuộc gặp gỡ đang được diễn ra đã được xây dựng ngay trên địa điểm Đức Mẹ đã hiện ra vào năm 1888, Đức Thánh Cha kết luận diễn từ của ngài với lời cầu xin cùng Đức Maria. Sau đó, ngài ban phép lành cho những người trẻ tuổi đang trong "cuộc hành trình của lòng dũng cảm, hy vọng, và đoàn kết."

Chặng chót trong cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha diễn ra vào lúc 4 giờ rưỡi chiều tại nhà tù ở thành phố Isernia. Sau đó, ngài đến nhà thờ chính tòa để gặp các bệnh nhân vào lúc 5 giờ 45, trước khi gặp gỡ các tín hữu và dân chúng tại Quảng trường bên ngoài, để công bố năm thánh kỷ niệm 800 năm sinh nhật của thánh Phêrô Celestino Giáo Hoàng (1215-2015).

Theo chương trình, Đức Thánh Cha đáp trực thăng từ sân của doanh trại lính cứu hỏa ở địa phương vào lúc 7 giờ rưỡi để bay về Vatican cách đó 150 cây số vào lúc 8 giờ 15 phút tối.

2. Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ các nạn nhân bị lạm dụng tình dục

Trong cuộc họp báo trưa thứ Hai 7 tháng 7, Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh nói vào ban sáng Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ trong hơn ba giờ với sáu nạn nhân bị các giáo sĩ lạm dụng tình dục gồm ba người đàn ông và ba phụ nữ, từ Vương quốc Anh, Ireland và Đức.

Đức Thánh Cha đã gặp riêng với từng người trong khoảng nửa giờ, lắng nghe những câu chuyện và kinh nghiệm của họ.

Cha Federico Lombardi nói:

"Đó không phải là một cuộc họp hời hợt, ngay cả chiều dài của cuộc họp này cũng đã cho thấy cam kết và ý định để lắng nghe, để thấu hiểu sự việc. Nếu đó chỉ là một họp hình thức, nó đã ngắn hơn rất nhiều."

Phát ngôn viên Vatican giải thích rằng mỗi cuộc họp với từng cá nhân rất cảm động, không chỉ với các nạn nhân, mà cả Đức Giáo Hoàng cũng rất cảm động.

Cha Federico Lombardi nói với các ký giả:

"Tôi có thể cho các bạn biết rằng cảm giác chủ yếu là sâu lắng, tích cực và thanh thản. Chúng tôi thấy những người rất cảm động, hạnh phúc và biết ơn trước cơ hội để sống thời điểm này, cuộc họp này. Cuối cùng, tôi thấy Đức Giáo Hoàng rất xúc động. Bất kỳ người nào, bất cứ linh mục, hay vị mục tử nào đã kinh qua một cuộc họp về vấn đề này, với những người đã bị đau khổ rất nhiều vì những vết thương mà họ đã trải qua, thì nó luôn luôn là một cuộc gặp gỡ đặc biệt nặng nề. "

Sáu nạn nhân bắt đầu đến Santa Marta vào ngày Chúa Nhật. Một số có gia đình tháp tùng. Trong bữa ăn tối, Đức Giáo Hoàng đã chào đón họ. Sáng thứ Hai, họ đã tham dự Thánh Lễ buổi sáng tại nhà nguyện Santa Marta, cùng với các thành viên của Ủy ban Bảo vệ Trẻ Vị Thành Niên.

Buổi gặp gỡ này đã được Đức Thánh Cha công bố trước trên chuyến bay trở về từ Thánh Địa. Đức Thánh Cha cho biết:

"Sắp tới, chúng tôi sẽ có một Thánh Lễ tại tại nhà nguyện Santa Marta, với một vài người bị lạm dụng, và sau đó sẽ có cuộc gặp gỡ giữa tôi với họ"

Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết tất cả các nạn nhân đều là những người ở châu Âu.

"Hai người là từ Đức, hai người từ Anh hay Ai-len, tôi không chắc chắn. Tổng cộng là tám người, phải không?” Ngài hỏi Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh.

Đức Thánh Cha nói thêm:

“Có cả Đức Hồng Y O'Malley, cũng là một người trong ủy ban. Chúng ta cần phải tiến lên phía trước trong chuyện này với chính sách Zero tolerance” (tức là hoàn toàn không khoan nhượng).

Trước buổi gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha và nhóm các nạn nhân bị lạm dụng tình dục, Đức Hồng Y Sean O'Malley đã có một buổi họp hôm Chúa Nhật 6 tháng 7 với Ủy Ban Bảo Vệ Trẻ Vị Thành Niên.

Ủy Ban đang soạn thảo một quy chế mới, hướng đến một cấu trúc tổ chức nhằm mục đích giúp chữa lành các vết thương của lạm dụng, ngăn chặn tình trạng lạm dụng và làm mọi cách để việc giải quyết vấn đề lạm dụng trở thành một ưu tiên của toàn thể Giáo Hội.

Đức Thánh Cha nói:

"Một linh mục gây ra điều này là phản bội lại Nhiệm Thể Chúa, bởi vì các linh mục cần phải dẫn cậu bé này, cô gái này, người thanh niên này, người phụ nữ trẻ này, nên thánh. Và cậu bé này, cô gái này tin tưởng nơi vị linh mục. Thế mà thay vì đưa họ đến sự thánh thiện, lại lạm dụng họ. Thật là một tội lỗi rất nghiêm trọng. "

Ủy Ban Bảo Vệ Trẻ Vị Thành Niên cũng đang xem xét bổ sung thêm các thành viên từ các nước Á, Phi, mà hiện nay chưa có đại diện.

Đây không phải là lần đầu tiên một vị Giáo Hoàng gặp gỡ các nạn nhân bị lạm dụng tình dục. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã từng có những cuộc gặp gỡ như thế cũng với sự hiện diện của Đức Hồng Y Sean O'Malley của tổng giáo phận Boston, Hoa Kỳ.

Trong một diễn biến khác, hôm 4 tháng 7, Đức Tổng Giám Mục Silvano Tomasi, đại diện thường trực của Tòa Thánh tại Geneva nói rằng “việc huyền chức Józef Wesolowski là dấu chỉ cho thấy Tòa Thánh rất nghiêm chỉnh trong việc giải quyến vấn đề lạm dụng”.

Trong thông cáo đưa ra hôm 27 tháng 6, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin cho biết Józef Wesolowski, cựu sứ thần ở Cộng hòa Dominica, đã bị huyền chức, nghĩa là bị trục xuất khỏi hàng giáo sĩ và từ nay chỉ là một giáo dân bình thường.

Józef Wesolowski, 66 tuổi, đã là sứ thần Tòa Thánh tại Cộng hòa Dominica từ ngày 24 tháng Giêng năm 2008 cho đến khi bị triệu hồi về Tòa Thánh vào tháng 8 năm 2013 vì bị cáo buộc tội lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên tại Cộng hòa Dominica.

Sau tiến trình xét xử giáo luật, tiến trình tố tụng hình sự sẽ tiếp tục tại các tòa án dân sự của Tòa Thánh Vatican.

Vatican đã triệu hồi Józef Wesolowski vào tháng Tám năm ngoái và đã mở một cuộc điều tra sau khi Đức Hồng Y Nicolás López Rodríguez, tổng giám mục của Santo Domingo, thông báo cho Đức Giáo Hoàng về những cáo buộc chống lại Józef Wesolowski.

Józef Wesolowski được thụ phong linh mục ngày 21 tháng 5 năm 1972 và đã từng là sứ thần hay khâm sứ Tòa Thánh tại các nước Trung Á như Kazakhstan, Tajikistan, Kyrgzystan và Uzbekistan trước khi được bổ nhiệm đến Cộng hòa Dominica.

3. Đứng trước tuổi già suy thoái, tổng quyền dòng Tên bày tỏ ý định từ chức vào năm 2016

Trong bài phát biểu tại hội nghị những phát ngôn viên của Dòng Tên tại Tây Ban Nha, Cha Adolfo Nicolas cho biết ngài có ý định từ chức trong phiên họp khoáng đại của dòng Tên vào năm 2016.

Cha Nicolas đã được bầu làm tổng quyền dòng Tên sáu năm trước. Ngài nói rằng tuổi già là yếu tố chính trong quyết định từ chức của ngài.

Cha Nicolas nói:

"Chắc chắn, tôi không thể lãnh đạo Hội trong những năm sức khoẻ suy thoái. Sau tuổi 80, bạn bắt đầu quá trình suy thoái. Tôi thích rời khỏi công việc, khi tôi vẫn còn giữ lại được các giác quan của tôi, và không chờ đợi cho đến khi các thành viên dòng Tên bắt đầu tự hỏi, 'ông già ở Rôma không biết vẫn còn sống không? Điều này không tích cực chút nào. Bạn phải làm công việc của mình với một sự sáng suốt nhất định, và tốt hơn là hãy là khởi đầu chuẩn bị mọi thứ ngay từ bây giờ. "

Phiên họp khoáng đại của dòng Tên sẽ diễn ra vào năm 2016. Cho đến lúc đó, các thành viên dòng Tên trên toàn thế giới phải phân tích những thách thức mà xã hội đang phải đối mặt ngày hôm nay, và làm thế nào họ có thể giúp khắc phục chúng.

Cha Nicolas nói thêm:

"Tôi nghĩ rằng vai trò của chúng tôi hôm nay trong Giáo Hội là thúc đẩy những suy tư có chiều sâu, để chúng ta không làm những gì người khác đang làm: những gì ồn ào trên mặt báo, những gì là chỉ là tạm thời. Nhưng thay vào đó, chúng ta cần phải nhìn vào những thứ trong chiều sâu và cố gắng đáp ứng. những gì Giáo Hội cần bây giờ. "

Một trong những vấn đề mà dòng Tên sẽ xem xét là tình hình ở Trung Đông, nơi mà hai thành viên còn mất tích: là Cha Prem Kuman ở Afghanistan, và Cha Paolo Dall'Oglio ở Syria. Cha Nicolas cho biết rằng họ là những linh mục dòng Tên "hạng nhất", rất tận tâm, và nhận thức được những rủi ro mà họ phải đối mặt, nhưng đã không sợ hãi.

Ngài nói:

"Lấy ví dụ trường hợp cha Frank Van der Lugt, gần đây đã thiệt mạng tại Syria. Ngài nhận thức rõ là ngài đang đi dần đến chỗ tử đạo. Khi ngài có cơ hội để ra đi, trong bối cảnh áp lực quốc tế, ngài đã chọn ở lại. Ngài nói rằng trong khi đàn chiên của mình đang đau khổ, ngài chấp nhận ở lại với họ, và ngài đã bị giết. "

Việc từ chức của một vị tổng quyền dòng Tên không phải chưa lần nào xảy ra. Vị tiền nhiệm của cha Nicolas là cha Peter Hans Kolvenbach, đã từ chức vào năm 2008, với sự phê chuẩn của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI.

4. Hội Đạo Binh Chúa Kitô đón vị cố vấn với "niềm vui và sự tự tin"

Vị tổng quyền Hội Đạo Binh Chúa Kitô đã đón nhận "với niềm vui và sự tin cậy" vị cố vấn mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô gởi đến Hội Đạo Binh Chúa Kitô để giúp tái tổ chức.

Khi Đức Hồng Y Velasio de Paolis hết thời hạn đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 ủy thác để giúp tái tổ chức Hội Đạo Binh Chúa Kitô vào tháng Hai vừa qua, Tòa Thánh cho biết sẽ cử một vị cố vấn mới sẽ tiếp tục công việc tốt đẹp của Đức Hồng Y.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn linh mục Dòng Tên người Ý là cha Gianfranco Ghirlanda trong chức vụ này. Ngài một trong những cố vấn của Đức Hồng Y Velasio de Paolis.

Trong tư cách cố vấn, ngài sẽ không là một phần trong ban quản trị của Hội, nhưng có thể tham gia vào các cuộc họp khoáng đại.

Cha Eduardo Robles-Gil, là tổng quyền Hội Đạo Binh Chúa Kitô, cho biết:

"Ngài sẽ báo cáo định kỳ về Vatican về tiến trình hiệp nhất của phong trào, về việc tu chỉnh hiến pháp hội ... Sau khi hiến pháp hội được chuẩn y, ngài sẽ báo cáo về đời sống nội bộ của hội dòng. Đây là những gì Đức Giáo Hoàng muốn. Khi tôi gặp ngài tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha nói: tôi không muốn điều này thất bại, hãy tiến hành, tôi hỗ trợ tất cả anh em"

Cha Gianfranco là một chuyên gia giáo luật, và nhiệm vụ chính của ngài là giúp xác định những quy luật pháp lý cho phong trào Regnum Christi. Quá trình này đã bắt đầu vào tháng Ba, khi Đạo Binh Chúa Kitô chính thức yêu cầu ngài xem xét lại quy chế của phong trào.

Cha tổng quyền Eduardo nói:

"Đây là thách thức lớn nhất bởi vì chúng tôi phải tìm một cấu trúc pháp lý thích hợp cho bốn thực thể là anh chị em giáo dân trong Hội Đạo Binh Chúa Kitô, các chủng sinh và linh mục, các nữ tu, và nam tu"

Tháng Hai vừa qua Hội Đạo Binh Chúa Kitô đã trình lên Tòa Thánh một dự thảo hiến pháp nhưng Tòa Thánh đã yêu cầu thay đổi một vài điểm.

Sự điều chỉnh các văn bản của Hiến pháp sẽ mất vài tuần, trong khi việc thay đổi các cấu trúc kinh điển của Hội Đạo Binh Chúa Kitô sẽ phải mất nhiều năm. Các thành viên của hội nhìn về tương lai và cam kết tiếp tục công việc chính của mình.

Cha tổng quyền Eduardo tâm sự:

"Tôi gia nhập Hội sau lần đầu tiên đến với phong trào, nơi tôi đã học để nói về Thiên Chúa cho bạn bè của tôi, vì tình yêu đối với Giáo Hội, vì lợi ích các linh hồn, và bởi vì điều đó cũng tốt cho tôi nữa. Và tôi nghĩ tôi gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô một cách rất sống động và cá vị, và tôi tin rằng đó là điều tốt nhất chúng tôi có thể làm: giúp mọi người có một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô "

Hội Đạo Binh Chúa Kitô là một phong trào Công Giáo bao gồm cả giáo dân lẫn những người sống đời thánh hiến muốn làm việc chặt chẽ với nhau.

Hội Đạo Binh Chúa Kitô hiện diện ở 22 quốc gia, có 4 giám mục, 954 linh mục; 836 nữ tu và tập sinh; và 945 sinh viên tại các trung tâm dạy nghề.

5. Ủy Ban Thần Học Quốc tế công bố nghiên cứu về Sensus Fidei

Ủy Ban Thần Học Quốc tế (ITC) vừa công bố một nghiên cứu về Sensus Fidei, có thể dịch ra tiếng Việt là “cảm thức đức tin” trong đời sống của Giáo Hội, trong đó tập trung vào mối quan hệ giữa cảm thức của các tín hữu và hướng dẫn của huấn quyền.

Tài liệu của ITC giải thích rằng Sensus Fidei – cảm thức đức tin - đề cập đến "khả năng cá nhân của người tín hữu, trong tình hiệp thông với Giáo Hội, biết đón nhận các chân lý đức tin". Cảm thức đó, ủy ban nói, "là một nguồn lực quan trọng cho việc tân phúc âm hóa."

Truy tìm sự phát triển trong nhận thức của Giáo Hội về Sensus Fidei từ Thánh Kinh và các Giáo Phụ cho đến thế kỷ thứ 20, ITC nhấn mạnh rằng "bản năng tinh thần" là một ân sủng của đức tin, nó được củng cố bởi lời cầu nguyện và sự tham gia tích cực trong đời sống của Giáo Hội.

Trong khi người Công Giáo trung thành có một bản năng tự nhiên trước các chân lý đức tin, ITC cho biết, sự hiện hữu của huấn quyền là cần thiết để kiểm tra, hướng dẫn những bản năng này. Trong khi thừa nhận có những lúc các tín hữu có thể cảm thấy khó khăn chấp nhận những giáo huấn nhất định của Giáo Hội, tài liệu của ITC cho rằng ân sủng đức tin, làm phát sinh cảm thức đức tin, sẽ khiến người Công Giáo trung thành tìm kiếm một sự hiểu biết tốt hơn.

Tài liệu khích lệ các tín hữu suy nghĩ về những giáo huấn của Giáo Hội, nỗ lực hiểu và chấp nhận huấn quyền Hội Thánh. Phản ứng lại với huấn quyền Hội Thánh, về nguyên tắc, là không phù hợp với cảm thức đức tin đích thực.

6. Thảm cảnh nội chiến tại Syria

Cuộc nội chiến tại Syria đã bùng nổ theo sau cuộc nổi dậy Ả Rập và đã kéo dài hơn 3 năm qua khiến cho hơn 100,000 người chết, hàng trăm ngàn người bị thương và gây ra cảnh di cư cho hơn 4 triệu dân Syria. Trong cuộc bầu cử tổng thống tổ chức đầu tháng 6 vừa qua tổng thống Bashar Al Assad tái đắc cử, mặc dầu các lực lượng đối lập hoàn toàn đồng loạt tẩy chay cuộc bầu cử.

Ngày 14 tháng 6, trong sứ điệp gửi trên Twitter, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi cộng đồng quốc tế đừng quên dân nước Syria. Ngài viết: “Có nguy cơ lãng quên các nỗi khổ đau không đụng tới gần chúng ta. Chúng ta hãy phản ứng và cầu nguyện cho hòa bình tại Syria”. Thực ra từ nhiều tháng qua Đức Thánh Cha Phanxicô đã liên tục kêu gọi hòa bình cho Syria trong các buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần cũng như trong các buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật.

Ngoài ra trong chiến tranh nạn nhân đầu tiên là sự thật, vì mọi phía đều đổ tội cho nhau. Nước Pháp muốn đưa vấn đề các tội phạm tàn ác của Syria ra trước Tòa Án quốc tế, nhưng chắc chắn Nga sẽ bỏ phiếu chống. Cho tới khi nào chiến tranh chưa chấm dứt thì điều này sẽ chỉ có một kết qủa khiêm tốn.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn một nữ tu Trapist bên Syria.

Xin chị cho biết chị nghĩ gì về nguy cơ tình hình chiến sự tại Syria bị thế giới lãng quên?

Tôi nghĩ rằng có nguy cơ tình hình chiến sự của Syria bị thế giới quên lãng. Cả khi có rất nhiều người quảng đại tiếp tục trợ giúp người dân Siri. Vấn đề đó là vài tình trạng đang trở thành tin tức thời sự: việc chia nước Syria thành nhiều vùng dưới quyền kiểm soát của các lực lượng hồi cuồng tín, các vùng khác thì dưới quyền kiểm soát của chính quyền, thế rồi còn có sự kiện khí giới được cung cấp cho các lực lượng lâm chiến. Nhưng có nguy cơ lớn là chiến tranh trở thành tin thời sự và người ta quen thuộc với tình trạng này.

Đức Thánh Cha nói tới các nỗi khổ đau: người dân Siri đang khổ đau về điều gì?

Tùy theo từng vùng, nhưng nói chung toàn dân Syria đều đau khổ. Trong các vùng nơi tình hình tốt hơn một chút dân chúng khổ đau vì tình hình bất an. Người trẻ không có viễn tượng học hành. Thế rồi còn có các vùng như thành phố Aleppo đã không có nước từ 15 ngày nay, cũng không có điện và là nơi dân chúng khổ đau thực sự. Các bạn bè của chúng tôi sống tại đó đã kể cho chúng tôi biết cảnh đói khát mà họ phải chịu, và với các đầu đạn rơi liên tục vô tội vạ có thể gây chết người bất cứ lúc nào, rồi cảnh tiền lương không đủ sống... Vì thế người dân đau khổ rất nhiều về mặt vật chất và về mặt tinh thần.

Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Chúng ta hãy phản ứng”. Thế thì phải phản ứng như thế nào thưa chị?

Vâng, theo tôi thấy thì việc phản ứng đòi hỏi chúng ta hành động. Phản ứng theo các kiểu thông thường không đủ vì tình hình có nguy cơ trở thành tồi tệ thêm. Cần phải thực sự quan tâm tới hoàn cảnh và tìm hiểu các sự việc liên hệ, và chúng thường phức tạp, nhưng chỉ như thế mới có thể tìm ra các giải pháp.

Một lời cầu nguyện đặc biệt cho hòa bình Syria, là điều luôn luôn cần thiết đối với Đức Thánh Cha. Ngài đã tổ chức ngày cầu nguyện cho hòa bình trong toàn vùng Trung Đông với rất nhiều can đảm. Chứng tá này có được cảm nhận bên Syria hay không?

Theo tôi thì chứng tá cầu nguyện này của Đức Thánh Cha có tới và tới với tất cả mọi người, chứ không phải chỉ tới với dân nước Syria chúng tôi mà thôi. Hôm qua có một tín hữu hồi nói với chúng tôi: “Tôi là tìn hữu hồi, nhưng với lòng biết ơn vô bờ tôi nghĩ rằng Đức Thánh Cha đang làm rất nhiều cho chúng ta và cho dân nước Syria”. Như thế, tôi nghĩ là chứng tá cầu nguyện ấy đến với tất cả mọi người. Nó cần thiết lắm, vì tôi tin rằng có vài điều nào đó chỉ được giải quyết thực sự với một cái nhìn của việc cầu nguyện, bởi vì lời cầu nguyện cũng là một hành động và thay đổi kiểu nhìn các sự vật. Nó giúp bạn hiểu phải làm gì can thiệp ra sao, và lắng nghe người dân như thế nào.

Lời Đức Thánh Cha mời gọi cầu nguyện có giá trị đối với tất cả mọi người hay không, thưa chị?

Chắc chắn rồi. Tôi nghĩ là có chứ. Xem ra chúng ta luôn luôn cùng nhau đứng trước mặt Thiên Chúa Tạo Hóa và đứng trước sự thiện trong con tim của từng người. Tôi nghĩ rằng ngay từ đầu Đức Thánh Cha đã đưa ra lời mời gọi ấy với con người.

Trong nước láng giềng Iraq hiện đang có cuộc tấn công của các lực lượng hồi cuồng tín khiến cho toàn thế giới kinh hoàng. Các chị sống gần biên giới Iraq, và các người hồi cuồng tín đang hiện diện trong một vài vùng của nước Syria. Các tin tức này có khiến cho các chị lo sợ hay không? Và người ra có các phản ứng nào không?

Chắc chắn là điều này khiến cho chúng tôi rất âu lo, chính bởi vì người ta đang tạo ra một vùng rộng lớn liên tục đang nằm trong tay của các người hồi qúa khích. Một đàng điều này không gây ngạc nhiên cho lắm, nhất là đối với người Syria, bởi vì từ lâu họ đã trông thấy sự kiện này tiến tới, nhằm xé rách quốc gia thành các vùng dưới quyền kiểm soát của các phe phái khác nhau. Đàng khác, nó cũng khiến cho người ta lo âu và kinh hoàng, bởi vì bây giờ nó là một sự hiện diện đông đảo và cũng rất sinh động, các trận đánh ngày càng khốc liệt. Trước tình trạng này kết qủa cuộc bầu cử không khiến cho người ta ngạc nhiên, nhưng chắc chắn là nó không được đồng nhất. Tôi tin rằng người dân đã muốn nói rằng: “Chúng tôi muốn cùng nhau tái thiết quê hương. Chúng tôi muốn hòa bình, chúng tôi muốn an ninh.”

Bài giảng của Đức Thánh Cha tại nhà nguyện Santa Marta với các nạn nhân bị lạm dụng

Trong bài giảng tại nhà nguyện Santa Marta, Đức Thánh Cha nghiêm khắc tố giác và bày tỏ đau buồn vì tội ác của một số giáo sĩ, Giám Mục và linh mục, đã chà đạp sự ngây thơ trong trắng của các trẻ vị thành niên và ơn gọi tư tế của mình, qua việc lạm dụng tính dục của những người trẻ ấy. Tội ác này không phải chỉ là những hành vi đáng lên án, nhưng nó giống như một việc phạm thánh, vì những trẻ em nam nữ ấy đã được ủy thác cho đoàn sủng linh mục của các giáo sĩ ấy để dẫn đưa các em về cùng Thiên Chúa, vậy mà các giáo sĩ đó đã hiến tế các em cho thần tượng đam mê của họ. Họ đã xúc phạm đến chính hình ảnh Thiên Chúa. Tuổi thơ là một kho tàng quí giá. Con tim người trẻ, cởi mở và đầy tín thác, chiêm ngưỡng các mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa và tỏ ra sẵn sàng một cách đặc biệt được nuôi dưỡng trong đức tin. Ngày hôm nay con tim của Giáo Hội nhìn đôi mắt của Chúa Giêsu nơi các trẻ em nam nữ ấy và muốn khóc lóc. Giáo Hội xin được ơn khóc lóc trước những hành vi tội ác lạm dụng chống lại các trẻ vị thành niên, những hành vi để lại những vết tích suốt đời cho những người trẻ ấy.

Đức Thánh Cha nói:

Cảnh tượng Phêrô nhìn thấy Chúa Giêsu xuất hiện sau một cuộc thẩm vấn khủng khiếp. Phêrô với đôi mắt bắt gặp cái nhìn trách móc của Chúa Giêsu đã khóc. Cảnh này đến trong tâm trí tôi khi tôi nhìn vào anh chị em, và suy nghĩ về rất nhiều về những người nam nữ, những bé trai và bé gái. Tôi cảm thấy ánh mắt của Chúa Giêsu và tôi xin ơn để khóc, cầu mong ân sủng cho Giáo Hội phải khóc và đền bù cho những con cái của Giáo Hội đã phản bội lại sứ vụ của họ, và lạm dụng những người vô tội. Hôm nay, tôi rất biết ơn bạn vì đã phải đi rất xa để đến đây.

Tôi biết rằng những vết thương của anh chị em là một nguồn đau khổ sâu đậm về cảm xúc và tinh thần, và cũng là một nguồn tuyệt vọng. Nhiều người chịu kinh nghiệm ấy đã tìm cách bù trừ bằng sự nghiện ngập. Những người khác đã cảm thấy những xáo trộn trầm trọng trong các quan hệ với cha mẹ, vợ chồng và con cái. Đau khổ của các gia đình đặc biệt nặng nề xét vì thiệt hại do sự lạm dụng ấy gây ra làm thương tổn những quan hệ sinh tử ấy.

Một số người khác đã chịu thảm kịch kinh khủng của sự tự tử của một người thân yêu. Cái chết của những người con được Thiên Chúa yêu thương ấy đè nặng trên con tim và lương tâm của tôi và của toàn thể Giáo Hội. Với các gia đình ấy, tôi bày tỏ những tâm tình yêu thương và đau khổ. Chúa Giêsu bị tra tấn và hỏi cung trong sự thù ghét và Ngài bị dẫn đến một nơi khác và nhìn. Chúa nhìn một trong những người thân yêu, người đã chối bỏ Ngài và cái nhìn ấy làm cho người ấy khóc. Chúng ta hãy cầu xin ơn đền tạ ấy.

Các tội giáo sĩ lạm dụng tính dục chống lại các trẻ vị thành niên là có một hậu quá phá vỡ niềm tin và và lòng cậy trông nơi Thiên Chúa. Một số nạn nhân còn bám vào đức tin trong khi đối với những người khác, sự phản bội và bỏ rơi như thế làm hao mòn niềm tin của họ nơi Thiên Chúa. Sự hiện diện của anh chị em ở đây nói về phép lạ của niềm hy vọng, lướt thắng tăm tối sâu đậm. Chắc chắn thật là một dấu chỉ lòng từ bi của Thiên Chúa sự kiện chúng ta có cơ hội gặp nhau hôm nay, thờ lạy Chúa, nhìn thẳng nhau và tìm kiếm ơn hòa giải.

Trước mặt Thiên Chúa và dân của Ngài, tôi rất đau buồn vì những tội lỗi và tội ác trầm trọng giáo sĩ lạm dụng tính dục của anh chị em và tôi khiêm tốn xin lỗi. Tôi khiêm tốn xin lỗi vì những tội thiếu sót từ phía các vị lãnh đạo Giáo Hội đã không đáp trả một cách thích hợp những lời tố giác lạm dụng mà thân nhân và những nạn nhân bị lạm dụng nêu lên. Điều này càng gia tăng đau khổ cho những người bị lạm dụng và gây nguy hiểm cho các trẻ vị thành niên khác ở trong tình trạng rủi ro.

Đức Thánh Cha cam kết rằng:

“Chúng tôi sẽ tiếp tục cảnh giác về đào tạo các ứng sinh linh mục. Tôi hy vọng các thành viên ủy ban Tòa Thánh giúp đỡ để bảo vệ trẻ vị thành niêm, tất cả trẻ vị thành niên thuộc mọi tôn giáo, là những người bé nhỏ mà Chúa đang nhìn với lòng thương mến. Tôi xin sự giúp đỡ của Ủy ban để có thể có những chính sách tốt đẹp và các biện pháp trong Giáo Hội hoàn vũ để bảo vệ các trẻ emvà huấn luyện nhân sự của Giáo Hội để thi hành các chính sách và biện pháp ấy. Chúng ta phải làm tất cả những gì có thể để làm sao cho các tội ấy không tái diễn trong Giáo Hội nữa”.

Sau thánh lễ Đức Thánh Cha đã chào thăm các nạn nhân và sau bữa ăn sáng ngài đã gặp riêng họ trong hơn 3 tiếng đồng hồ cho đến 12 giờ 20 trưa, bình quân ngài gặp riêng mỗi người 30 phút.

7. Công bố logo của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Krakow

Ban tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2016 đã giới thiệu logo chính thức của biến cố này. Logo được thiết kế với những màu xanh lam, đỏ và vàng, là ba màu sắc của thành phố Krakow.

Logo được bao quanh bởi một đường viền màu đỏ là mầu sắc tiêu biểu của Ba Lan. Trong đó, có một dấu chấm màu vàng đánh dấu vị trí của Krakow. Trung tâm của sự chú ý là thánh giá, đại diện cho Chúa Giêsu Kitô. Ánh sáng của Lòng Thương Xót Chúa tỏa ra từ thánh giá với hai màu xanh và đỏ, tương tự như trong bức ảnh nổi tiếng "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa." Hình ảnh này cũng gắn liền với chủ đề cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới kỳ này, đó là ". Phúc thay ai có lòng xót thương"

Cuộc thi thiết kế logo Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới đã bắt đầu vào ngày 15 tháng Giêng năm nay. Những người giật được giải là hai người thiếu nữ Ba Lan đã hoàn thành thiết kế của họ tại Vatican, sau lễ phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II.

Ban tổ chức cũng công bố lời cầu nguyện chính thức của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2016 tập trung vào Lòng Thương Xót Chúa. Lời kinh kêu gọi sự phù trì của Đức Mẹ và Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị là vị thánh bảo trợ của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Krakow kỳ này.

8. Hội đồng các Hồng Y xem xét vai trò của phụ nữ, các cặp vợ chồng và giáo dân trong Giáo triều Rôma

Hôm thứ Sáu 4 tháng 7 là phiên họp cuối cùng trong khóa họp thứ 5 của nhóm các vị Hồng Y cố vấn cho Đức Giáo Hoàng về quản trị Giáo Hội và cải cách Giáo triều Rôma.

Nhóm các vị Hồng Y này trước đây thường được gọi là nhóm G8 vì gồm 8 vị Hồng Y. Nay báo chí gọi là nhóm G9 vì Đức Thánh Cha Phanxicô vừa chính thức đưa thêm Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh vào nhóm này.

Trong phiên họp hôm thứ Sáu, các vị đã xem xét lại cấu trúc của các phòng ban Vatican. Theo Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, "các vị đã thảo luận đặc biệt về Hội đồng Giáo hoàng về Giáo dân và Hội đồng Giáo hoàng về gia đình, nhấn mạnh sự đóng góp và vai trò của giáo dân, các cặp vợ chồng và phụ nữ."

Mặc dù, có nhiều anh chị em giáo dân là thành viên của các bộ, các Hội đồng Giáo hoàng và các ủy ban trung ương Tòa Thánh, Hiến Chế Pastor Bonus (Mục Tử Nhân Lành) có từ năm 1988 và hiện vẫn còn giá trị trông đợi nơi anh chị em giáo dân những trách vụ tư vấn chứ không điều hành công việc quản trị Giáo Hội.

Nhóm các vị Hồng Y cố vấn đang tìm kiếm những cách thức để trao cho anh chị em giáo dân nhiều trách nhiệm hơn, đặc biệt là trong các cơ chế có liên quan đến các vấn đề của riêng người giáo dân.

Cha Federico Lombardi nói rõ rằng "chưa có quyết định nào cụ thể đã được đưa ra" trong kỳ họp này.

Đức Giáo Hoàng và chín vị Hồng Y cũng đã trao đổi về công việc của các sứ thần Tòa Thánh, và về thủ tục bổ nhiệm giám mục.

Các vị đã lên đường trở về nhà với rất nhiều ý tưởng và dự án đang chờ giải quyết. Cuộc họp tiếp theo của các vị được dự trù diễn ra trong hai ngày 15 và 17 tháng Chín.

9. Cha Reginaldo, vị linh mục nổi tiếng nhất ở Brazil

Reginaldo Manzotti là một nhà văn, một ca sĩ trên truyền hình và đài phát thanh; nhưng trên tất cả, ngài là một linh mục.

Hai mươi lăm năm đã trôi qua kể từ khi được thụ phong linh mục, cha Reginaldo nói rằng ngài đã huy động tất cả các phương pháp có thể được để nói về Thiên Chúa. Ngài đã phát hành tám album. Một trong số những album này mang tên Dấu Thánh, là album bán chạy nhất tại Brazil năm 2014.

Công việc của ngài trên làn sóng phát thanh thu hút một lượng khán giả còn rộng lớn hơn. Chương trình phát thanh "Cảm nghiệm về Thiên Chúa," là một trong những chương trình truyền thanh phổ biến nhất được phát sóng trên làn sóng điện quốc gia 1300 của Brazil.

Những buổi hòa nhạc của ngài không giống bất cứ buổi hòa nhạc nào trên thế giới vì luôn luôn được bắt đầu với Thánh Lễ.

Làm bao nhiêu chuyện đó, cộng thêm với việc coi sóc một giáo xứ lớn, ngài vẫn còn giờ để điều hành một hiệp hội có tên là "Rao giảng Tin Mừng là cần thiết" nhằm thúc đẩy việc sử dụng các công nghệ thông tin tiên tiến trong các giáo phận tại Brazil.

Cha Reginaldo có hơn 3,3 triệu người hâm mộ trên Facebook, và con số này vẫn còn tăng lên.

10. Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi những vị cao niên tham dự ngày cầu nguyện cho gia đình hôm 28 tháng 9

Đức Giáo Hoàng đã thường xuyên bảo vệ vai trò của người cao niên, cả trong Giáo Hội và trong xã hội.

Hôm 25 tháng 7 năm 2013, Đức Thánh Cha nói:

"Chúng ta không chăm sóc người cao niên. Và sản sinh ra cả một thứ văn hóa gọi là chết nhân đạo. Những người cao niên không được lắng nghe, không được có ý kiến hay hành động theo ý họ".

Vì lý do này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã quyết định rằng ngày 28 Tháng 9 sẽ là ngày của họ, trong ngày đó tiếng nói của họ sẽ được lắng nghe. Đây sẽ là lần đầu tiên có một cuộc họp diễn ra giữa Đức Giáo Hoàng và người cao niên.

Đức Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Gia Đình nói:

"Những người lớn tuổi là một kho báu phi thường, một kho tàng của sự khôn ngoan, một kho tàng của truyền thống. Về bản chất, họ là những gốc rễ của xã hội, và tất cả chúng ta biết rằng một xã hội không có rễ giống như một cây thẳng đứng không có rễ. Vì lý do này, chúng tôi muốn cuộc họp quan trọng này có một chiều kích sâu sắc cả về tôn giáo, nhân bản, và Kitô"

Cuộc họp sẽ được tổ chức bởi Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình, và chủ đề của cuộc họp sẽ được lấy từ những lời của Đức Gioan Phaolô II: "Hồng ân của cuộc sống lâu dài"

Đức Tổng Giám Mục Vincenzo nói thêm:

“Tôi tin rằng điều rất quan trọng là dịp gặp gỡ này sẽ truyền cảm hứng cho một suy tư mới về tâm linh, văn hóa và, có thể nói là, nhân văn, để xã hội và Giáo Hội hiểu rằng tuổi già là một hồng ân.”

Hàng ngàn người cao tuổi sẽ đến quảng trường Thánh Phêrô để trình bày các chứng tá và tham dự Thánh Lễ với Đức Thánh Cha Phanxicô. Mục đích của cuộc họp là để nhắc nhớ về tầm quan trọng của người cao niên trong xã hội, cũng như để cử mừng rằng cuộc sống luôn luôn là đẹp, dù có hay không có những nếp nhăn.

Đức Tổng Giám Mục Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Gia Đình nhận xét:

"Một số người nói rằng tuổi già là một con tàu đang đắm dần. Không, nó là một cuộc hành trình đẹp, tôi phải gào lên điều này. Mong muốn của tôi là những lời này được vang vọng từ quảng trường Thánh Phêrô đến tất cả các quảng trường của thế giới: tuổi già đẹp biết bao! nếp nhăn đẹp làm sao! "

Đức Cha Vincenzo Paglia cũng nhắc lại rằng Tòa Thánh cũng đã kêu gọi một ngày cầu nguyện cho Thượng Hội Đồng về gia đình trong cùng một ngày 28 tháng 9. Chắc chắn, người già là một phần quan trọng của gia đình, và họ không nên bị lãng quên.

11. Các Giám Mục Peru chống lại nghị định của chính phủ cho phép phá thai

Chính phủ Peru vừa ban hành một nghị định mới cho phép thi hành một đạo luật được đưa ra vào năm 1924 cho phép phá thai trong một số trường hợp.

Trước diễn biến này, các giám mục Peru đã bày tỏ sự chống đối thẳng thừng của các ngài trong khi bày tỏ lo ngại rằng “pháp luật này sẽ mở ra cánh cửa đầu tiên trong lịch sử của Peru cho việc phá thai mà cuối cùng là cái chết của những con người vô tội. Nghị định mới này cũng là vô luân, vi hiến và bất hợp pháp. "

Các giám mục nói thêm: "Cả người mẹ mang thai và trẻ chưa sinh đều có cùng một quyền được sống, cả hai phải được nhà nước bảo hộ".

12. Phong trào Hiệp Thông và Giải Phóng họp hội nghị tại Rimini để thảo luận về các vùng ngoại vi của thế giới

Khoảng nửa triệu người sẽ đến thành phố Rimini vào tuần cuối cùng của tháng Tám để tham dự hội nghị của Phong trào Hiệp Thông và Giải Phóng về đề tài "các vùng ngoại vi hiện sinh và toàn cầu."

Giáo sư Giorgio Buccellati của đại học UCLA, California, Hoa Kỳ nói:

"Chúng ta đều rút ra ngoại vi. Chúng ta đều muốn tránh xa trung tâm, thậm chí cả cái trung tâm của riêng cá nhân chúng ta. Ngoại vi có thể trở thành một hình thức nương náu, có thể bấp bênh, hoặc cũng có thể rất có hiệu quả, nếu có ai đó cố gắng làm điều gì đó trong khi ở bên ngoài trung tâm. Vì vậy, nó là một tiêu đề hấp dẫn, thu hút sự chú ý. Sau đó, cũng có, mô hình của Đức Giáo Hoàng, khi ngài nói ngay rằng ngài đến từ vùng ngoại vi. Vì vậy. tôi nghĩ rằng có nhiều yếu tố làm cho đề tài này có tính thời sự. "

Khoảng 200 diễn giả sẽ trình bày các vấn đề về bạo lực và chiến tranh trên toàn cầu. Trong đó có các Bộ trưởng Ý về lao động và giáo dục, cũng như quan sát viên thường trực của Vatican tại Liên Hợp Quốc là Đức Tổng Giám Mục Tomasi. Ngoài các chính trị gia, các nhà lãnh đạo kinh doanh và văn hóa cũng sẽ nói về cách để đạt được hòa bình và mang lại hy vọng thông qua đối thoại và tình bạn ở các khu vực xung đột. Các nhà lãnh đạo tôn giáo, chẳng hạn như cha Pierbattista Pizzaballa lãnh đạo đoàn Hiệp Sĩ Thánh Mộ tại Thánh Địa, các vận động viên và nghệ sĩ cũng sẽ tham gia.

Cô Emilia Guarnieri, Chủ tịch Hiệp Hội Tình Huynh Đệ Giữa Các Dân Tộc nói:

"Với hội nghị năm nay, chúng tôi hy vọng sẽ tìm thấy những người mà chúng ta biết sẽ chia sẻ con đường của sự thật, một con đường khám phá, một con đường tích cực. Trên tất cả, chúng tôi hy vọng rằng cuộc họp này sẽ canh tân chúng ta một lần nữa."

Chương trình sẽ bao gồm hơn 100 hội nghị, 17 cuộc biểu diễn, 14 cuộc triển lãm, và 10 sự kiện thể thao. Tất cả các công việc có được là nhờ vào những nỗ lực của hơn 4.000 tình nguyện viên.