Ngày 29-06-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh Lễ Chúa Nhật 13 Mùa Thường Niên 30/6/2019 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
01:50 29/06/2019
Bài Ðọc I: 1 V 19, 16b. 19-21

"Êlisê đi theo Êlia".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Êlia rằng: "Êlisê, con ông Saphát, người Abel-Mêhula, ngươi hãy xức dầu phong y làm tiên tri thế ngươi".

Êlia ra đi tìm gặp Êlisê con ông Saphát, đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp thứ mười hai. Khi Êlia đến trước ông, thì đặt áo choàng mình trên ông. Lập tức ông bỏ bò lại và chạy theo Êlia mà nói rằng: "Tôi xin đi hôn cha mẹ tôi, rồi tôi theo ngài". Êlia nói với ông: "Ngươi đi đi, rồi trở lại, ta có làm gì ngươi đâu?" Êlisê rời Êlia, rồi bắt một đôi bò làm thịt, lấy cày làm củi đốt quay thịt cho dân ăn. Ðoạn ông đi theo làm đầy tớ Êlia.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa là phần gia nghiệp của con (c. 5a).

Xướng: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là Chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con

Xướng: Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.

Xướng: Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát.

Xướng: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn đời. -

Bài Ðọc II: Gl 4, 31b - 5, 1. 13-18

"Anh em được kêu gọi để được tự do".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa.

Hỡi anh em, anh em được tự do, nhưng đừng lấy nê tự do mà sống theo xác thịt; trái lại, anh em hãy lấy bác ái của Thánh Thần mà phục vụ lẫn nhau. Vì chưng, tất cả lề luật tóm lại trong lời này: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Nhưng nếu anh em cắn xé và phân thây nhau, anh em hãy coi chừng kẻo huỷ diệt nhau. Tôi nói điều này là: Anh em hãy sống theo thần trí, và đừng tìm thoả mãn theo đam mê xác thịt nữa. Vì đam mê xác thịt thì chống thần trí, và thần trí thì chống lại xác thịt; giữa đôi bên có sự chống đối nhau, khiến anh em không thi hành được những điều anh em mong muốn. Nhưng nếu anh em được thần trí hướng dẫn, anh em không còn sống dưới lề luật nữa.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 9, 51-62

"Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem. Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người. Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?" Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: "Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến, không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta". Và các Ngài đi tới một làng khác.

Ðang khi đi đường có kẻ thưa Người rằng: "Dù Thầy đi đâu tôi cũng sẽ theo Thầy". Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu". Người bảo một kẻ khác rằng: "Hãy theo Ta". Người ấy thưa: "Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã". Nhưng Người đáp: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa". Một người khác thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã". Nhưng Chúa Giêsu đáp: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa".

Ðó là lời Chúa.
 
“Không có nơi gối đầu”
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
05:41 29/06/2019
Chúa Nhật 13 Thường Niên Năm C

Chiếc xe khách Đà Lạt – Sài Gòn vừa dừng. Tôi bước xuống. Giữa trưa đầu mùa hè, cái nắng Sài Gòn hầm hập và gay gắt. Định gọi xích lô về nhà, còn đang ngơ ngác, tôi bỗng nghe từ phía sau có tiếng gọi:

- Anh về đâu, lên xe em về nè. Một người lái xích lô mời.
- À, tôi về...

Bỗng ánh mắt của người lái xích lô nhìn tôi không chớp, nhìn chằm chằm. Tôi hơi ngỡ ngàng.

- Ủa, H phải không? Đi đâu mới về vậy? Vừa hỏi, anh vừa lấy nón lau mồ hôi..

Đúng lúc đó, tôi mới nhận ra N, Bạn học từ khi lên lớp sáu. Hồi ấy N là học sinh giỏi, nhưng gia đình lại nghèo. Vì thế, sau khi tốt nghiệp trung học, N không thể tiếp tục học. Thế rồi chúng tôi chia tay nhau. Từ đó không có liên lạc gì. Sau bao nhiêu năm vật lộn với cuộc sống, bây giờ N già đi nhiều quá. Nước da đen sạm. Gương mặt và đôi mắt ấy nhuộm nắng, pha sương theo năm tháng mà hốc hác, sâu thẳm. Hàm râu chơm chởm và mái tóc rối bù càng làm cho tôi khó mà nhận ra thằng bạn của mình ngay tức khắc. Sau giây phút ngỡ ngàng, tôi trả lời N mà chưa hết thản thốt:

- À, mình đi Đà Lạt về. Trời ơi, Bạn đạp xích lô à, lâu chưa?
- Hơn ba năm...

Rồi N nói thật tự nhiên:
- Lên xe đi, mình chở về cho.

Tôi thoáng ngập ngừng, nhưng sợ bạn nghĩ ngợi, vội bước lên xe...

Bạn ạ, có bao giờ bạn nhìn cuộc sống của anh chị em xung quanh, rồi tự nhận ra mình chưa? Riêng lương tâm của tôi đã từng bị đánh động như thế. Nhìn anh chị em để thấy ơn Chúa ban cho mình lớn lắm, lòng thương xót của Chúa dành cho mình dào dạt. Có nhận ra như thế, bản thân mới có thể luôn luôn mang lấy lòng biết ơn Thiên Chúa, để đừng bao giờ quyên cảm tạ Người.

Hôm nay bài Tin Mừng cho biết có đến ba người xin theo làm môn đệ của Chúa. Ơn gọi của ba người mang ba màu sắc khác nhau. “Con chồn có hang, con chim có tổ, Con Người không có nơi gối đầu” là câu Chúa trả lời cho người đầu tiên xin theo Chúa. Tôi chỉ dừng lại nơi câu trả lời này để suy nghĩ về chính mình.

Suy niệm Lời Chúa Giêsu: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”, một lần nữa, tôi được đánh động. Lời Chúa thúc giục tôi đừng bao giờ phụ ơn Người.

Nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã trở nên nghèo khó đến nỗi phải sống một cuộc sống long đong, thiếu thốn, thì trong hoàng cảnh hiện tại, vẫn còn đó nhiều anh chị em đang họa lại khuôn mặt của Người bằng chính lối sống nghèo hèn, thiếu thốn của họ. Nỗi nghèo của Chúa Giêsu đã bắt đầu từ lúc mới sinh, trải dài đến hết cả cuộc đời của Người. Hành trình từ hang đá Bêlem đến đồi Canvê phải là cả một lẽ sống quý báu cho chúng ta khi dấn bước theo Chúa. Và nếu Người là lẽ sống của tôi, như bao nhiêu anh chị em khác, muốn họa lại khuôn mặt của Chúa Kitô, tôi phải học lấy hành trình Bêlem tiến về Canvê như Người.

Bởi vậy, chính Lời của Chúa Giêsu “Con chồn có hang, con chim có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”, làm tôi nhớ lại cuộc gặp gỡ với thằng bạn cũ trên bến xe hôm nào. Một thoáng suy tư ban đầu, tôi chợt nhận ra, bạn tôi giống Chúa Giêsu hơn tôi. Không biết có bao giờ anh nhận ra cái nghèo của anh là cái nghèo mà Chúa đã từng sống? Có lẽ anh cũng không hề biết, trong cái nghèo ấy, anh giống Chúa của mình? Bởi thế, lời khẳng định “bạn của tôi giống Chúa Giêsu hơn tôi”, chỉ là sự sám hối đến từ suy tư chủ quan mà thôi. Đó là cái nhìn trực giác của tôi nơi anh chị em để khám phá ra tình yêu của Chúa dành cho tôi.

Người ta thường nghĩ rằng, linh mục đó là người can đảm, dám từ bỏ, dám hiến thân cho Nước Trời và thế giới. Trong ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày cầu xin ơn Chúa thánh hóa linh mục, tôi đã lặp lại hình ảnh về ơn gọi hiến thân này để giúp anh chị em giáo dân suy niệm về ơn gọi tận hiến. Cũng trong chiều hướng suy tư về sự tận hiến, tôi đã mời gọi anh chị em giáo dân cầu nguyện cho các linh mục.

Đúng! Làm linh mục của Chúa, tôi đã có sự từ bỏ: Từ bỏ một mái gia đình riêng tư để gắn mình vào một gia đình rộng lớn là cộng đoàn dân Chúa. Tôi đã từ bỏ khi cố gắng vươn lên trong sự khiết tịnh mà Hội Thánh đòi hỏi. Trong lối sống hằng ngày, tôi phải mực thước, không sa đà trong tự do, không ăn nói thô tục, luôn tỏ ra xứng đáng là người lãnh đạo tinh thần cho anh chị em của mình... Tôi hiểu điều mà ai đó đã từng nói: “Linh mục là tấm bánh cho người ta ăn”. Tất cả những điều đó, cho thấy sự từ bỏ nơi tôi, linh mục của Chúa.

Tôi hiểu, bước theo Chúa, Người mời gọi tôi hãy sống nghèo khó. Có thể sự nghèo khó của tôi không đến mức thiếu thốn cả “nơi gối đầu”, nhưng ít nhất mỗi một ngày, tôi phải cố nên giống Chúa của mình hơn. Ai đó ví von: “Linh mục ban của thánh và nhận của phàm”. Không biết lời ví von ấy đúng? Nhưng nếu ít nhiều có sự thật, đó không còn là lời nói cho vui, mà trở thành lời bậc thốt từ nỗi xót xa.

Tôi biết, mình đã có sự từ bỏ. Nhưng thẳm sâu nơi thân phận loài người, chắc đã không ít lần, tôi yếu lòng và muốn nhận cho mình, thậm chí muốn nhận nhiều, hơn muốn từ bỏ. Vì thế, theo Tin Mừng, trước lời mời gọi của Chúa, dành cho ai đó đã từng muốn làm môn đệ Chúa: “Con chồn có hang, con chim có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”, tôi cần phải sám hối nhiều hơn. Vì chỉ có ý thức mình, tôi mới có thể giúp anh chị em của mình sống hoàn hảo cách hiệu quả nhất.

Sống tinh thần nghèo khó, Tôi sẽ rao giảng Lời Chúa để anh chị em của tôi biết từ bỏ, biết sống tinh thần nghèo khó như Chúa dạy. Tôi sẽ mạnh dạn chỉ cho những ai gặp phải hoàn cảnh khó khăn, đau khổ, lam lũ..., hãy hiến dâng những lao nhọc của bản thân để được đi trên chính nẻo đường mà Chúa đã đi, nhờ đó nên giống Chúa.

Nguyện xin Chúa giúp tôi thành chứng tá cho giáo huấn của Người. Amen.


 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:07 29/06/2019

20. Ngạo mạn là vượt qua sự yêu chính mình; lười biếng là sự khinh mạn Thiên Chúa.

(Thánh Augustinus)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


---------------

http://www.vietcatholicnews.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

https://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:13 29/06/2019
58. CHỈ BIẾT TRÂU NGỰA

Có một chàng rể ngu đần hết biết, mỗi lần làm gì thì vợ vẫn phải dùng lời dạy trước sau đó mới làm, rồi lại đem ông ta đi qua nhà nhạc phụ.

Có một lần vợ lại dạy ông ta:

- “Dòng dõi tôi có hai bức hoạ cổ, một là ngựa của Hàn Cán đang ăn cỏ thơm ở bến đò, hai là Lục Dương chăn trâu của Đới Tống ở bên đường”.

Khi đến nhà bố vợ, anh chàng rể ngốc ngẫu nhiên gặp hai bức tranh trên nên khen bức hoạ đẹp, bố vợ nghĩ thầm: “Tên rể này là tay biết coi tranh đây”.

Sau đó, nhà vợ mua muốn bức tranh “Mười tám học sĩ”, bố vợ bèn vội vàng lên tiếng mời chàng rể đến để coi tranh, chàng rể ngốc vừa nhìn thấy bức tranh liền nói:

- “Bức tranh cổ đẹp quá ! Ngựa của Hàn Cán đang ăn cỏ thơm ở bến đò, Lục Dương chăn trâu của Đới Tống ở bên đường.”

Những người coi tranh lớn tiếng cười rộ.

Nhạc phụ rất là mất mặt bèn lên tiếng chửi:

- “Mày chỉ nhận ra trâu ngựa, sao lại không nhận ra người !”

(Quảng Tiếu phủ)

Suy tư 58:

Bức tranh vẽ trâu ngựa và bức tranh vẽ người thì rất dễ phân biệt, chỉ có những ai bị khùng điên hoặc bị áp bức đe dọa mạng sống mới không thể hoặc giả vờ không phân biệt được.

Người Ki-tô hữu –nhờ ơn Chúa giúp- luôn biết phân biệt đâu là làm thân trâu ngựa cho ma quỷ đâu là làm con cái của Thiên Chúa.

Làm thân trâu ngựa cho ma quỷ là sống trong tội lỗi, tham lam, giận hờn, ghét ghen, kiêu căng, phê bình tha nhân.v.v... Làm con cái của Thiên Chúa thì luôn đi trong ánh sáng của Tin Mừng tức là kính mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận như chính mình...

Có người chỉ nhận ra những khuyết điểm của người khác mà không nhận ra những khuyết điểm của mình, họ là những công cụ gieo mầm sự ác cho mọi người, trái lại người luôn thấy cái tốt của tha nhân và nhận ra khuyết điểm của mình là người biết kiến tạo hòa bình và tình thân cho mọi người vậy...

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


-------------

http://www.vietcatholicnews.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

https://nhantai.info
 
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN 13 TN)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:16 29/06/2019
Chúa Nhật 13 THƯỜNG NIÊN

Tin mừng: Lc 9, 51-62.

“Đức Giê-su nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem. Thầy đi đâu tôi cũng xin đi theo”.


Bạn thân mến,

Có rất nhiều người xin đi theo làm môn đệ Đức Chúa Giê-su, nhưng họ vẫn còn xin trở về để giải quyết việc riêng tư của mình cũng như của gia đình, đây không phải là việc xấu nhưng là việc của những người thế gian, đây không phải là việc đáng trách nhưng là cái tâm lo lắng của con người, với đoạn Tin Mừng này, tôi chia sẻ với anh chị em về kinh nghiệm theo Đức Chúa Giê-su của mình:

1. Đức Chúa Giê-su mời gọi tôi đi làm môn đệ của Ngài, Ngài gọi tôi và tôi đã xác định đó là tiếng nói của Ngài trong cuộc sống của tôi nên tôi đã đi theo, nhưng trên đường đi tôi gặp rất nhiều tiếng gọi khác đó là tiếng gọi của bạn bè kêu tôi đi với họ để ăn chơi hưởng lạc; đó là tiếng gọi của tiền bạc kêu tôi đi theo nó để được sung sướng no ấm thân xác; đó là tiếng gọi tình cảm tự nhiên của con người mà lắm lúc tưởng chừng tôi đã nghe theo. Tất cả những tiếng gọi ấy đã át mất tiếng gọi của Đức Chúa Giê-su trong lòng tôi, thế nhưng Ngài vẫn đợi chờ và thỉnh thoảng gọi lớn tiếng để thức tỉnh tôi đang phân vân với những tiếng gọi khác, thế là tôi phải chọn lựa giữa hai tiếng gọi: tiếng gọi của thế gian và tiếng gọi của Đức Chúa Giê-su.

2. Nhiều tháng ngày tôi thao thức giữa hai tiếng gọi này và lắm lúc tôi tự biện hộ rằng, theo Chúa cũng được mà theo thế gian cũng được, miễn là tôi sống đạo tốt lành giữa đời. Ý nghĩ biện hộ này như con dao hai lưỡi làm tôi sực tỉnh: theo thế gian nhưng sống đạo tốt lành thì chưa thấy vì nó đang ở trong thì tương lai, nhưng ơn gọi tu trì vẫn cứ thôi thúc mỗi ngày một lớn, thế là tôi phớt lờ tiếng gọi của bạn bè, tiền bạc vật chất và của tình cảm mà bước theo Chúa…

Đi theo Đức Chúa Giê-su là một cuộc chiến đấu lâu dài với những ham muốn của cá nhân, nhưng cuộc chiến đấu này hứa hẹn một cuộc toàn thắng rất hạnh phúc, mà chỉ có những ai quyết tâm theo Ngài mới cảm nghiệm được.

Bạn thân mến,

Tôi theo Đức Chúa Giê-su để làm môn đệ của Ngài trong thiên chức linh mục, bạn được Đức Chúa Giê-su mời gọi làm môn đệ của Ngài trong đời sống tín hữu, tuy khác nhau về ơn gọi nhưng tôi và bạn có một điểm chung, đó là chúng ta đều được Đức Chúa Giê-su kêu gọi để làm chứng nhân cho Ngài ở trần gian này.

Mỗi ngày trong cuộc sống, Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy sống và làm chứng cho tình thương của Ngài đối với nhân loại. Ngài đã chọn tôi, chọn bạn để loan báo sứ điệp yêu thương này giữa thế gian, bằng chính cuộc sống bác ái và phục vụ của mình.

Xin Thiên Chúa đừng để một ai trong chúng ta viện nhiều lý do để từ chối lời kêu gọi của Ngài, dù lý do ấy rất hợp lý, nhưng xin Chúa ban cho chúng ta hiểu được rằng, lời kêu gọi của Ngài càng hợp lý hơn và có ích hơn cho bạn và tôi và tha nhân.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

-------------

http://www.vietcatholicnews.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

https://nhantai.info
 
Đức Kitô Là Tất Cả
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
09:19 29/06/2019
Một trong những dấu chỉ ấn tượng nhất của ngày lễ kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô-Phaolô, theo tôi, đó chính là sự “HIỆP NHẤT”.

Trước hết, chính trong ngày lễ hôm nay, tại hầm mộ của Thánh Phêrô, hai vị mục tử tối cao của hai Giáo Hội Công Giáo (ĐGH Phanxicô) và Chính Thống Giáo (Tổng giám mục Telmissos Job, đại diện Ðức Thượng Phụ Constantinople tại Hội đồng Ðại kết các Giáo Hội) cùng cầu nguyện bên nhau và sau đó cùng tham dự Thánh lễ[1]. Đây chính là “dấu chỉ sống động” của cuộc hành trình Đại Kết” đầy nhiêu khê để “chữa lành vết thương chia rẽ hơn 900 năm” mà cuộc đại ly giáo vào thế kỷ 11 (1054) đã gây ra cho “Thân Mình Hội Thánh”.

Sở dĩ Giáo Hội Công Giáo Rôma chọn ngày lễ kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô-Phaolô để bày tỏ “dấu chỉ Đại Kết” chắc chắn không ngoài những lý do sau :

Hai Thánh Tông Đồ Phêrô-Phaolô chính là “Quan Thầy” của Giáo Hội Công Giáo Rôma và là cột trụ của toà nhà đức tin Kitô giáo, cùng chung tay xây dựng “gia đình duy nhất của Đức Kitô” chính là Giáo Hội, như những “lời kinh Phụng vụ” mà Hội Thánh đọc lên hôm nay : “Chính nhờ các ngài mà Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin…” (Lời nguyện nhập lễ), “các ngài đã dùng đường lối khác biệt để quy tụ một gia đình duy nhất của Đức Kitô…” (Kinh Tiền Tụng).

Phải chăng cũng chính trong ý nghĩa “hiệp nhất” đó mà phụng vụ Lời Chúa trong chính ngày lễ kính Hai Thánh Tông Đồ hôm nay đã chọn đọc các trích đoạn Lời Chúa liên quan đến “nỗi khốn khó tù ngục” mà cả hai thánh nhân đều trải qua trong cuộc hành trình loan báo Tin Mừng.

- Bài đọc 1, sách Công Vụ Tông đồ tường thuật việc Thánh Phêrô bị tống ngục và toàn thể Hội Thánh cầu nguyện, để sau đó ngài được Chúa sai thiên thần đến giải thoát.

- Bài đọc 2 : trích thư thứ hai của thánh Phaolô gởi cho đồ đệ Timôthê. Đây chính là 1 trong những bức thư ngài viết từ nơi chốn ngục tù, một chứng từ sống động về tình yêu và sự trung thành của ngài dành cho Chúa Kitô, cho Hội Thánh và cho công cuộc loan báo Tin Mừng :

“Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện… Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời.” (2 Tm 4,7-8.17-18).

Nhưng có lẽ cái điểm chung độc đáo nhất của hai thánh Phêrô và Phaolô mà sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn chuyển tải, đồng thời mời gọi chúng ta cùng nỗ lực thực thi, đó chính là niềm tin trọn hảo, duy nhất, thuỷ chung vào Đức Kitô. Vâng, cả hai vị Tông Đồ vĩ đại nầy, mặc dù có những khác biệt thật rõ nét (Xuất phát điểm ơn gọi, khuynh hướng, trình độ tri thức lẫn phương cách hoạt động…) nhưng đều có chung một tiêu đích và tâm điểm cho cuộc đời : ĐỨC KITÔ LÀ TẤT CẢ, được phản ảnh qua chính lời tuyên xưng của Phêrô mà cả 3 Tin Mừng Nhất Lãm đều xác nhận : “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống." (Mt 16,16), hoặc qua nhiều lời tuyên xưng khác mà cả hai đã đã để lại như những chứng từ sống động :

- Đức Kitô là chọn lựa duy nhất : “Bỏ Thầy con biết đến cùng ai…” (Phêrô), “Đối với tôi, sống là Đức Kitô…”, “Tôi sống đây không phải tôi nhưng chính Đức Kitô sống trong tôi” (Phaolô)

- Đức Kitô là tình yêu duy nhất : “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Phêrô), “Không có gì tách tôi khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô” (Phaolô).

- Đức Kitô là niềm tin duy nhất : “Dù có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Phêrô), “Tôi đã chạy đến cùng đường và giữ vững niềm tin” (Phaolô)

- Đức Kitô là mệnh lệnh duy nất : “Vâng lời Thầy con xin buông lưới” (Phêrô), “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (Phaolô)

- Đức Kitô là Hội Thánh duy nhất : “Anh em là Dân tộc thánh…là những viên đá sống xây dựng đền thờ Thiên Chúa” (Phêrô), “Anh em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận” (Phaolô)…

Nhưng, nếu những chứng từ trên chỉ dừng lại ở nơi miệng lưỡi các ngài và cũng chỉ là những lời “khí khái” mang tính tuyên truyền, cổ động mà không được chứng nghiệm qua chính cuộc sống…thì chắc chắn, chúng ta không có đại lễ mừng hôm nay, không có hai vị Đại Thánh tiêu biểu của Kitô giáo. Tạ ơn Chúa ! Cả hai đều thực hiện “lời chứng về Đức Kitô” cách trọn hảo qua cuộc tử đạo tại cùng một thời và một nơi, để từ đó “toà nhà Giáo Hội” được dựng xây vững bền như lời Ca Nhập Lễ hôm nay Hội Thánh đã hát lên :

“Đây hai vị Tông Đồ đều anh dũng

Dang máu đào xây Giáo Hội ngàn thu,

Chén đắng Thầy trao, uống cạn chẳng từ;

Chúa ưu đãi, nâng lên hàng tâm phúc” (Ca Nhập lễ).

Theo truyền thuyết, Phêrô đã từng bị cám dỗ tìm “giải pháp an toàn” cho cộng đoàn Giáo Hội non trẻ, đã trốn chạy khỏi Rôma trong cuộc bách hại dữ dội của bạo chúa Nêrô. Tuy nhiên, trên con đường “Apia” huyền thoại, Đức Kitô đã nhắc khéo khi trả lời câu hỏi của Phêrô : “Domine Quo Vadis ?” (Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?). “Vì người đã bỏ đàn chiên mà đi, nên ta lại phải quay lại Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa chứ đi đâu” ! Phêrô đã quay về Rôma. Và rồi, bị đóng đing ngược đầu xuống đất khoảng năm 64; riêng Phaolô, vì là công dân mang quốc tịch Rôma, nên bị chém đầu cũng trên đồi Vatican sau đó mấy năm (khoảng năm 67).

Mừng lễ các ngài hôm nay chúng ta được gọi mời trở về với bài học hiệp nhất : hiệp nhất trong niềm tin và tình yêu dành cho Chúa Kitô và Hội Thánh. Hơn lúc nào hết, Hội Thánh hoàn vũ, Hội Thánh Việt Nam, giáo phận, giáo xứ, mỗi cộng đoàn… cần thiết có được tinh thần hiệp nhất nầy. Chỉ cần một yếu tố căn bản đó thôi, mỗi người sẽ vượt qua mọi đố kỵ, tỵ hiềm, chia rẽ, ích kỷ, tham vọng…để chung tay đắp xây ngôi nhà Hội Thánh.

Chúa Thánh Thần nào dập tắt sự đa dạng, phong phú, sáng tạo, đặc thù…của mỗi chi thể trong thân mình; nhưng Ngài là Đấng kiến tạo sự hiệp nhất, để tất cả, như những cành nho khác nhau, đều tháp nhập vào một Thân Nho duy nhất và cùng chịu cắt tỉa để trổ sinh hoa trái.

Trong lịch sử truyền giáo của Giáo Hội vào thế kỷ 16,17 đã cho thấy Dòng Tên đã thành công vượt bực tại Mỹ Châu cũng như Á Châu. Nhưng cuối cùng, để duy trì sự hiệp nhất, đành chấp nhận bị giải thể một thời gian khá lâu. Nếu mà lúc đó, cả Dòng Tên đồng thanh bất tuân ĐGH, đoạn tuyệt với Giáo Hội Mẹ, chắc bây giờ chúng ta lại có một ly giáo thứ 4 với tên gọi “Kitô giáo Dòng Tên” !

Tại Giáo Hội Việt Nam hôm nay cũng thế, một “Giáo điểm Tin Mừng” có thành công vang dội đến mấy trong công cuộc “đem nhiều người trở lại”, thì cũng hãy noi gương thánh Phaolô, trở về Giêrusalem để lắng nghe “công nghị các Tông Đồ”, cho dẫu vị thủ lãnh Giáo Hội có là một anh “dân chài dốt nát ! (Cv 15,7-29). Nếu ai đó muốn “một mình một cõi”, “đường ta ta cứ đi”, thì quả thật, đã chọn con đường hoàn toàn khác biệt với con đường hai thánh Phêrô-Phaolô đã chọn, đã thiết dựng và đã xây đắp bằng chính máu của mình.

Vâng, sứ điệp của ngày đại lễ hôm nay, cũng là sứ điệp cho muôn thế hệ Kitô hữu trong mái nhà Hội Thánh được dựng xây bởi hai đại Tông Đồ Phêrô-Phaolô, đó chính là ĐỨC KITÔ LÀ TẤT CẢ.

Trương Đình Hiền (29.6.2019)

[1] Xem bản tin đầy đủ trên trang mạng vietcatholic : http://www.vietcatholic.org/News/Html/251083.htm
 
CN 13C : Ba Người Muốn Theo Chúa
LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
09:22 29/06/2019
CN 13C : Ba Người Muốn Theo Chúa

Phần cuối của đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện ba người muốn theo Chúa. Chúng ta chẳng biết họ là ai, cũng chẳng rõ cuối cùng họ có theo Chúa hay không, nên mỗi người chúng ta dễ thấy mình nơi hình ảnh họ, để rồi chúng ta phải đưa ra lời đáp trả của mình.

Người thứ nhất hăng hái xin theo Ngài đi bất cứ nơi đâu.

“Thưa Thầy, Thầy đi đâu con cũng xin đi.” Thấy người ta ăn khoai, cũng vác mai đi đào !

Ðức Giêsu không giấu anh hoàn cảnh bấp bênh của mình. Ngài sống cuộc đời phiêu bạt, không mái nhà để trú, lúc nào cũng ở trong tư thế lên đường. Chấp nhận theo Ngài là chịu bỏ mọi an toàn, ổn định; là sống thân phận lữ khách trên mặt đất (x. 1Pr 2,11). Theo Ngài là theo Ðấng mà chỗ tựa đầu đầu tiên là máng cỏ, chỗ tựa đầu cuối là thập giá. Hay nói theo đức cha Oanh, đời Chúa gắn liền ba chữ đ : sinh ngoài đồng, sống ngoài đường, chết ngoài đồi. Nhưng mà cuộc sống nghèo làm Ngài tự do hơn, sẵn sàng hơn, trước những đòi hỏi bất ngờ của Chúa Cha và nhân loại.

Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với điều kiện : cho anh về chôn cất người cha trước đã. Anh muốn chu toàn bổn phận thiêng liêng của người con.

Ðức Giêsu coi trọng việc hiếu kính mẹ cha (x.Mt 15,3-9), nhưng Ngài đòi anh dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng. Câu trả lời của Ngài làm chúng ta bị sốc thực sự : “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết !” Dầu sao cái sốc giúp ta nhận ra mình vẫn quen thờ ơ trước một bổn phận thiêng liêng và hết sức cấp bách. Người chết nằm xuống thật đáng kính trọng ; nhưng có bao người sống đang cần phục vụ khẩn trương, sao lại bỏ bê !

Nhưng cắt nghĩa thế này ít gây sốc hơn : "Tôi phải chôn cha tôi" đó là cách nói ngày nay vẫn còn thông dụng ở Đông Phương. Một giáo sĩ Tây phương tên Waldmeter thuật lại chuyện người bạn của giáo sĩ là một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ giàu có và thông minh. Giáo sĩ khuyên anh nên du lịch Âu Châu sau khi tốt nghiệp để kiến thức được đầy đủ hơn, chàng Thổ trả lời: "Nhưng tôi phải chôn cha tôi trước đã". Vị giáo sư tỏ bày cảm thông và chia buồn về việc cha chàng qua đời. Nhưng thanh niên Thổ cho biết cha chàng vẫn còn sống, và chàng có ý nói mình phải làm tròn bổn phận đối với cha mẹ trước khi có thể lên đường du lịch. Và quả thật, anh không thể nào ra đi cho đến khi cha mình qua đời, và rất có thể còn nhiều năm nữa. Đó chắc cũng là ý muốn của thanh niên trong đoạn Tin Mừng này: "Một ngày kia, khi cha tôi chết đã, tôi sẽ theo Ngài".

Anh ta hoãn việc theo Chúa lại nhiều năm sau, nhưng Chúa Giêsu là Đấng khôn ngoan, Ngài biết rõ lòng người, Chúa biết rằng nếu chàng không theo Ngài lúc đó thì sẽ chẳng còn dịp nào nữa. Có nhiều lúc chúng ta được thôi thúc vào những công tác cao hơn, nhưng lần nào cũng vậy, chúng ta cứ bỏ lỡ cơ hội mà không hành động. Cái bi đát của đời sống thường ở chỗ bỏ lỡ thời cơ. Chúng ta được cảm thúc làm điều thiện hoặc từ bỏ một vài sự yếu đuối hay thói quen, chúng ta được thôi thúc nói với ai điều gì, một lời an ủi, cảnh cáo hoặc khuyến khích; nhưng thời giờ trôi qua, công việc vẫn chưa hoàn tất, điều ác vẫn chưa thắng được, lời vẫn chưa bao giờ nói.

Trong chúng ta, người tốt nhất vẫn còn một chút uể oải lười biếng nào đó, còn thói quen trì hoãn bỏ trôi công việc, còn sợ hãi và không dứt khoát, và cơ hội tốt thường không được chuyển thành hành động và sự việc. Chúa Giêsu đang phán cùng người này: "Trong giây phút này, ngươi cảm biết mình phải ra khỏi cái xã hội chết mà ngươi đang sống, ngươi nói chờ cho năm tháng qua đến khi cha ngươi chết thì ngươi mới ra đi ; hãy đi ngay bây giờ hoặc sẽ chẳng bao giờ ngươi ra khỏi đó". Nguyện Chúa ban cho ta sức mạnh quyết định để giúp chúng ta khỏi thảm cảnh của thời cơ đã mất.

"Con sẽ theo Chúa, nhưng hãy cho con về lo cho ba con đã,

con không biết khi nào các vị mãn phần.

Khi làm tròn chữ hiếu xong, con sẽ chọn theo thầy."

Lập luận có vẻ có hiếu đó, nhưng hãy biết "trước hết lo việc Chúa, còn mọi sự khác Chúa thêm cho sau."

Người thứ ba xin về từ giã gia đình trước đã. Ðức Giêsu đòi anh dứt khoát thẳng tiến như người cầm cày, không quay lại với những kỷ niệm quá khứ, không bị cản trở bởi những ràng buộc gia đình, để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa.

Không bao giờ có người nông dân nào có thể cày một luống thẳng trong lúc cứ ngoái nhìn lại đằng sau. Thế mà có nhiều người chân bước theo Chúa mà lòng còn đặt vào việc thế tục đã qua, lòng còn bị chia sẻ … Đối với hạng người này Chúa Giê-su không bảo "hãy theo Ta," cũng không bảo "hãy trở về", nhưng Ngài bảo "Ta không chấp nhận một sự phục vụ hâm hẩm." Thái độ hâm hẩm ấy chứng tỏ anh ta chưa nhận thức được cái đặc ân vinh hiển được Chúa kêu mời hay vẫn còn cân nhắc đặc ân ấy với hy sinh phải chịu.

Người thứ ba : xin cho tôi về từ giã gia đình trước.

Thực ra gia đình, nếu đó là vợ chồng, là một ràng buộc. Mà ràng buộc thì không được cắt đứt. Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân li. Cho nên khi Chúa nói từ giã gia đình, chắc là những cái không buộc phải ràng, tức là từ giã những giá trị đời này : nhà cửa, tiện nghi, thú vui, tiền tài, của cải…

Một linh sư Ấn Độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông. Có một người đàn ông nọ muốn xin làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân vị tu hành hai viên ngọc quý như của lễ ra mắt. Vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống sông. Tiếc của, người đàn ông giàu có liền nhảy xuống sông để cố tìm lại viên ngọc. Nhưng mất một ngày mà không tài nào tìm lại được. Chiều đến, người đàn ông xin vị linh sư chỉ rõ nơi linh sư đã ném viên ngọc quý. Vị linh sư cầm viên ngọc còn lại ném luôn xuống sông và nói: "Ta đã ném vào chỗ đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm".

Trong đời sống, nhiều lúc ta phải chọn lựa. Chọn lựa là chấp nhận hy sinh, bỏ một trong hai. Ðức Giêsu không dạy ta sống vô cảm hay bất hiếu, Ngài dạy ta can đảm tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã. Có bao nhiêu cái trước đã chi phối đời ta? Ðâu là lựa chọn ưu tiên một? Chúng ta cần sắp xếp lại thứ tự các ưu tiên cho đúng. Nếu Ðức Giêsu gặp tôi hôm nay và mời tôi theo Ngài, tôi có xin phép Ngài để làm cái gì đó trước đã không?

Chúng ta là Kitô hữu, tức là thân hữu, là bằng hữu của Chúa, mà cũng là người đi theo Chúa. Có lúc nào ta theo Đạo mà chẳng biết theo ai không ?

Triết gia Martin Buber có kể về đạo sĩ Naftali ở Ropschitz như sau: Trong thành phố nầy, những người giàu có thường mướn người bảo vệ nhà ban đêm. Những người nầy đi bách bộ chung quanh khu vực họ phải canh. Một buổi tối kia, đạo sĩ Naftali đi bách bộ trong phố. Ông gặp một người bảo vệ và hỏi anh: "Anh đi cho ai?" Anh nầy nói tên người chủ của anh và hỏi lại đạo sĩ: "Còn ngài, thưa đạo sĩ, ngài đi cho ai?" Câu hỏi đánh động ông như một mũi tên nhọn, ông trả lời một cách cực nhọc: "Cho đến bây giờ, ta chưa đi cho ai cả". Im lặng một hồi lâu, ông hỏi người bảo vệ: "Anh có muốn làm việc cho ta không?". Anh bảo vệ trả lời: "Tôi muốn lắm và tôi phải làm gì cho ngài?". Đạo sĩ trả lời: "Anh phải nhắc ta điều đó". ("ngài đi cho ai = ngài đang theo ai")

LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

(tổng hợp từ Lm Cao Siêu, Lm Ngọc Hàm và vài nguồn khác)
 
CN 13 C: Thiên Chúa cất tiếng gọi - con người đáp trả
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
09:26 29/06/2019
Bước vào Chúa Nhật thứ XIII thường niên, với chủ để chính là : " Chúa cất tiếng gọi". Ngỏ lời là sáng kiến của Thiên Chúa và con người đáp trả. Êlia và Êlisê là hai nhân chứng. Chúa đã dùng Êlia gọi Êlisê, Êlisê đáp trả (x.1 V 19,16b.19-21). Vì là sáng kiến của Thiên Chúa nên Chúa gọi người Chúa muốn :"Hãy theo Ta" (Lc 9, 51-62). Hôm qua cũng như hôm nay, Thiên Chúa vẫn đến gọi con người ngay giữa dòng đời. Chúa gọi Êlisê khi ông đang cày ruộng (x.1 V 19, 19). Tiếng gọi của Thiên Chúa là nhất. Chúa gọi, Êlisê không thể trốn được, đến nỗi ông không nói được gì. Tiếng gọi của Thiên Chúa là bắt buộc. Êlia làm điều tốt cho Êlisê khi ông đòi trở về nhà để hôn chào cha mẹ. Êlisê bỏ bò lại và chạy theo Êlia mà nói rằng: "Tôi xin đi hôn cha mẹ tôi, rồi tôi theo ngài" (1 V 19, 20).

Xem Video và nghe bài giảng

Khung cảnh thật đơn sơ, nhưng đầy xúc động, không giấu được. Khi Chúa gọi con người, con người không thể cưỡng lại, Ngài không dùng sức mạnh để áp đặt. "Êlisê con ông Saphát, đang cày ruộng với mười hai cặp bò, chính ông đang dẫn cày cặp thứ mười hai" (1 V 19, 19) nghĩa là công việc gần xong. Thiên Chúa đề ra cho ông một chân trời mới. Qua trung gian Êlia, Thiên Chúa gọi Êlisê một cách rất kín đáo : "Khi Êlia đến trước ông, thì đặt áo choàng mình trên ông" (1 V 19, 19). Không một lời chiêu mộ, không một huấn lệnh để bắt ông vâng theo. Êlisê thấy sự công chính và hành động ngôn sứ của Êlia, ông hiểu theo lòng mình. Tiếng Chúa gọi lay động lòng người.

Để đáp lại tiếng Chúa, con người phải có tự do là lẽ đương nhiên. Tự do này do Đức Kitô mang lại cho chúng ta. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô nói : "Đức Kitô giải thoát chúng ta để chúng ta thực sự tự do" (Gl 4, 31b). Chúng ta chỉ thực sự tự do khi chúng ta hoàn toàn đáp lại tiếng Chúa. Từ lúc Thiên Chúa gọi đến lúc con người đón nhận ân sủng để đáp trả cách tự do là cả một thời gian dài để đắn đo và cân nhắc. Như Êlisê, hành động trước tiên là ông thu mình vào trong dĩ vãng, và tìm kiếm sự an toàn nơi gia đình. Đây là người chắc chắn, nhưng ơn của Thiên Chúa là không đổi. Êlia từ chối sự trốn chạy của Êlisê, dù Êlisê không lượm áo choàng Êlia tặng cho. Khi Êlisê tìm gặp được sức mạnh, ông nắm bắt ngay, ông bỏ lại tất cả những gì mình đang có để dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa.

Tương tự như bài Tin Mừng, có ba người được gọi (x. Lc 9, 51-62). Nhưng lịch sử cuộc đời của mỗi người khác nhau. Vấn đề là tiếng Chúa gọi và sự đáp trả của con người.

Câu hỏi được đặt ra cho người thứ nhất khiến chúng ta suy nghĩ. Trước hết, anh không được Đức Giêsu gọi, anh đến xin làm môn đệ Người (x. Lc 9, 57). Giống như ở trường các thầy Rabbi, học trò đến xin theo học. Đức Giêsu không ở trong trường đặc biệt này, Người không có điều kiện ổn định, Người đang trên đường. Bước vào trường Giêsu là lên đường, từ bỏ tất cả những gì ổn định, ngay cả gia tài và địa vị. Theo Đức Giêsu là gắn bó với Người, lên đường tiến về phía trước, cần phải tự mình quyết định, nhưng không thể tiến bước một mình.

Người thứ hai là một ngoại lệ. Chính Đức Giêsu gọi anh. "Hãy theo Ta" ( Lc 9, 59). Người này được kêu gọi cách đặc biệt đi vào trong giao ước tình yêu gắn kết với Thầy. Đối với anh, Đức Giêsu yêu cầu từ bỏ cách triệt để, không trở về chôn cất mẹ cha. Khi anh thưa: "Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã". Nhưng Người đáp: "Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa" ( Lc 9, 59 - 60). Chúng ta không biết anh đáp lại ra sao, nhưng đòi hỏi ở đây cho thấy, phục vụ Nước Trời luôn kéo theo một sự từ bỏ tận căn. Từ bỏ chính là thước đo tình yêu của ta đối với Đức Giêsu.

Người thứ ba xin theo Đức Giêsu với điều kiện (x. Lc 9, 61). Như trong bài đọc I, thái độ là điều cần phải suy nghĩ. Đối với Đức Giêsu tra tay vào cầy, nghĩa là đang phục vụ người khác chuẩn bị cấy cầy, ngoái lại sau là bỏ dở việc. Quyết định này làm sáng tỏ điều trên. Từ bỏ gia đình không phải là một từ bỏ, vì nó mở ra một gia đình khác. Theo Chúa không loại trừ gia đình đầu tiên nhưng là mở rộng. Gia đình Thiên Chúa là gia đình có Thiên Chúa hiện diện, liên kết hết mọi người lại với nhau một cách chặt chẽ sâu xa hơn gia đình tự nhiên.

Tóm lại, nhân đức đầu tiên của trang Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống chỉ đẹp khi thực sự sống tự do. Chính tự do, Đức Giêsu "dứt khoát " lên đường đi Giêrusalem nơi Người biết rằng mình sẽ chết. Giá trị của cuộc sống lớn lao hơn khi người ta sử dụng tự do để phục vụ sự sống cho người khác. Cần bước qua những thử thách trong đời, lằng nghe tiếng Chúa gọi và đáp trả. Lịch sử nhân loại chúng ta đang sống, người này liên đới với người kia. Thánh Phaolô khuyên chúng ta : "Ước chi tự do của anh em không phải là cái cớ để làm thoải mãn tính ích kỷ của anh em, trái lại, anh em hãy phục vụ mọi người trong tình yêu" (Gl 5,13).

Công Ðồng Vaticanô II quả quyết rằng "kẻ được Thiên Chúa Cha kêu gọi… theo ý định của ân sủng Ngài" (Lumen Gentium, số 40). Đúng thế, theo Chúa là ra khỏi ý định riêng tư, để đặt mình trong bàn tay và ý định nhiệm mầu của Chúa. Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa là đặt mình trên đường theo Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con thưa với cả cuộc đời : "Lạy Chúa, này con đây, con xin đến để thi hành thánh ý Chúa" (x. Dt 10,7).

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong lễ trọng kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô và trao dây Pallium cho 31 TGM 29/6/2019
J.B. Đặng Minh An dịch
11:05 29/06/2019
Từ thời xa xưa Giáo Hội Roma đã có truyền thống cử hành lễ trọng kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô trong cùng một ngày. Tiếp tục truyền thống đó, lúc 9:30 sáng thứ Bẩy 29 tháng Sáu, Đức Thánh Cha đã chủ sự thánh lễ bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô. Dịp này, ngài cũng làm phép dây Pallium cho các vị Tổng Giám Mục chính tòa được bổ nhiệm trong 12 tháng qua.

Trong số 31 vị Tổng Giám Mục Chính Tòa được Đức Thánh Cha trao dây Pallium lần này, đặc biệt có Đức Cha Vũ Văn Thiên của tổng giáo phận Hà Nội. Ngài đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám mục Hải Phòng vào ngày 26/11/2002.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám mục Tổng giáo phận Hà Nội vào ngày 17/11/2018.

Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:


Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô đứng trước chúng ta như những chứng nhân. Các ngài không khi nào mệt mỏi với việc rao giảng và rong ruổi trên đường như những nhà truyền giáo từ vùng đất của Chúa Giêsu đến ngay tại Rôma này. Tại đây, các ngài đã đưa ra các chứng tá tột cùng, hiến dâng cuộc đời mình như những vị tử vì đạo. Nếu chúng ta đi vào trung tâm của chứng tá này, chúng ta có thể thấy các ngài là các chứng nhân cho sự sống, cho sự tha thứ và cho Chúa Giêsu.

Chứng nhân cho cuộc sống. Cuộc sống của các ngài, mặc dù, không gọn gàng và thẳng tắp. Cả hai vị đều có một lòng đạo sâu sắc: Phêrô là một trong những môn đệ đầu tiên (x. Ga 1, 41) và Phaolô rất nhiệt tình đối với truyền thống của tổ tiên mình ( Gal 1:14). Tuy nhiên, các ngài cũng đã phạm phải những sai lầm lớn: Phêrô chối Chúa, trong khi Phaolô bắt bớ Giáo hội của Chúa. Cả hai đều bị rúng động trước những câu hỏi của Chúa Giêsu: “Simon con ông Gioan, con có yêu mến thầy không? ( Ga 21:15); và “Saolô, Saolô, sao ngươi lại bắt bớ Ta?” (Công vụ Tông đồ 9: 4). Phêrô cảm thấy đau buồn trước những câu hỏi của Chúa Giêsu, trong khi Phaolô bị mù lòa trước những lời trách móc của Chúa. Chúa Giêsu gọi đích danh các ngài và thay đổi cuộc sống của các ngài. Sau tất cả những gì đã xảy ra, Ngài đặt niềm tin vào họ, nghĩa là vào kẻ đã chối Ngài và vào kẻ đã từng ra tay bắt bớ những môn đệ Ngài. Chúa đã đặt sự tin tưởng của Ngài vào những người tội lỗi có lòng ăn năn. Chúng ta có thể tự hỏi tại sao Chúa đã quyết định không ban cho chúng ta hai chứng nhân hoàn toàn liêm chính, với hồ sơ trong sạch và cuộc sống không chút tì vết? Tại sao lại là Phêrô, sao không là Gioan? Tại sao lại là Phaolô, mà không phải là Barnaba?

Có một giáo huấn quan trọng ở đây: điểm khởi đầu của đời sống Kitô không phải là sự xứng đáng của chúng ta; thật ra, Chúa chẳng làm được bao nhiêu với những người cho rằng họ tốt lành và cao trọng. Bất cứ khi nào chúng ta coi mình thông minh hơn hoặc tốt lành hơn những người khác, đó là khởi đầu của một sự kết thúc. Chúa không làm phép lạ với những người tự coi mình là công chính, nhưng với những người biết mình cần đến Ngài. Ngài không bị thu hút bởi sự tốt lành của chúng ta; đó không phải là lý do tại sao Ngài yêu mến chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta ngay trong tình trạng hiện nay của chúng ta; Ngài tìm kiếm những người không tự mãn, nhưng sẵn sàng mở lòng ra với Người, những người minh bạch trước mặt Chúa như Phêrô và Phaolô. Phêrô thưa ngay với Chúa Giêsu rằng: “Con là một kẻ tội lỗi” (Lc 5: 8). Còn Phaolô thì viết rằng ngài là “người rốt cùng trong số các Tông đồ, không đáng được gọi là một Tông đồ (1 Cr 15: 9)”. Trong suốt cuộc đời, các ngài giữ gìn sự khiêm nhường này đến tận cùng. Thánh Phêrô chết đóng đinh lộn ngược, vì thánh nhân cho rằng mình không xứng đáng được bắt chước Chúa của mình. Thánh Phaolô luôn thích cái tên của ngài, có nghĩa là “bé nhỏ”, và bỏ lại sau lưng tên khai sinh của mình, là Saolô, tên của vị vua đầu tiên của dân tộc Do Thái. Cả hai đều hiểu rằng sự thánh thiện không hệ tại nơi việc tôn mình lên nhưng trái lại là tự hạ mình xuống. Sự thánh thiện không phải là một cuộc thi đua, nhưng là vấn đề phó dâng sự nghèo khó của chính chúng ta mỗi ngày cho Chúa, Đấng làm những điều tuyệt vời cho những người thấp hèn. Bí quyết khiến họ bền đỗ giữa lúc yếu đuối là gì? Đó là sự tha thứ của Chúa.

Chúng ta cũng hãy nghĩ về các ngài như các chứng nhân cho sự tha thứ. Trong những thất bại của mình, các ngài đã gặp được lòng thương xót vô biên của Chúa, Đấng đã tái sinh các vị. Nơi sự tha thứ của Chúa, các ngài gặp được sự bình yên và niềm vui không thể kềm chế. Khi nghĩ lại những thất bại của mình, các ngài có lẽ bị giày vò bởi cảm thức tội lỗi. Đã bao lần Phêrô có thể trăn trở về hành động chối Chúa của mình! Biết bao lần Phaolô thao thức vì đã làm tổn thương bao nhiêu người vô tội! Về mặt con người mà nói, các ngài đã thất bại. Tuy nhiên, các ngài đã gặp thấy một tình yêu lớn hơn những thất bại của mình, một sự tha thứ đủ mạnh để chữa lành ngay cả cảm thức tội lỗi của các ngài. Chỉ khi chúng ta trải nghiệm sự tha thứ của Chúa, chúng ta mới thực sự trải nghiệm sự tái sinh. Từ đó, chúng ta bắt đầu lại, từ sự tha thứ chúng ta tái khám phá chúng ta thực sự là ai khi chúng ta thú nhận tội lỗi của mình.

Chứng nhân cho sự sống và chứng nhân cho sự tha thứ, Phêrô và Phaolô cuối cùng là nhân chứng cho Chúa Giêsu . Trong Tin mừng hôm nay, Chúa hỏi: “Người ta nói Con Người là ai?” Những câu trả lời gợi lên những nhân vật của quá khứ: “Gioan Tẩy giả, Elijah, Jeremiah hay một trong các tiên tri”. Đó là những người rất đáng chú ý, nhưng tất cả các vị đều đã chết. Thay vào đó, Phêrô trả lời: “Thầy là Chúa Kitô” ( Mt 16: 13-14.16). Chúa Kitô, nghĩa làĐấng Messiah. Đó là một từ không chỉ về quá khứ, nhưng hướng đến là tương lai: Đấng Thiên Sai là người được chờ đợi, Người là sự mới mẻ, là người mang dầu của Chúa đến xức cho thế giới. Chúa Giêsu không phải là quá khứ, mà là hiện tại và tương lai. Ngài không phải là một nhân vật xa xôi để tưởng nhớ đến, nhưng là người mà Phêrô có thể nói chuyện một cách thân mật: “Thầy là Chúa Kitô”. Đối với những người là chứng nhân cho Ngài, Chúa Giêsu không chỉ là một nhân vật lịch sử; Ngài là một người đang sống: Ngài là sự mới mẻ, chứ không phải là những gì chúng ta đã từng thấy, Ngài là sự mới mẻ của tương lai chứ không phải một hoài niệm của quá khứ. Như thế, chứng nhân không phải là người biết câu chuyện về Chúa Giêsu, nhưng là người đã trải nghiệm một câu chuyện tình yêu với Chúa Giêsu. Chứng nhân ấy, cuối cùng, công bố chỉ một điều này: đó là Chúa Giêsu là Đấng hằng sống và Ngài là bí quyết của sự sống. Thật vậy, Phêrô, sau khi nói: “Thầy là Chúa Kitô”, liền nói: “Con Thiên Chúa hằng sống” (câu 16). Chứng tá được phát sinh từ một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu hằng sống. Ở trung tâm của cuộc đời của Phaolô cũng vậy, chúng ta cũng tìm thấy cùng một từ phát sinh từ trái tim của Phêrô: Chúa Kitô. Thánh Phaolô lặp lại danh thánh này liên tục, gần bốn trăm lần trong các lá thư của mình! Đối với thánh nhân, Chúa Kitô không chỉ là một điển hình, một tấm gương, một điểm tham chiếu: Ngài là chính cuộc sống. Phaolô viết: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Phil 1:21). Chúa Giêsu là hiện tại và tương lai của Phaolô, đến nỗi thánh nhân coi quá khứ là một sự thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Chúa Kitô (x. Phil 3: 7-8).

Anh chị em thân mến, trước các chứng nhân này, chúng ta hãy hỏi: “Tôi có làm mới hàng ngày cuộc gặp gỡ của chính mình với Chúa Giêsu không?” Chúng ta có thể tò mò về Chúa Giêsu, hoặc quan tâm đến các vấn đề của Giáo hội hoặc tin tức tôn giáo. Chúng ta có thể mở các trang web trên máy tính và các bài báo, và nói về những điều thánh thiêng. Nhưng điều này chỉ dừng lại ở mức độ “Người ta đang nói gì?” Chúa Giêsu không quan tâm đến các cuộc thăm dò, quá khứ lịch sử hoặc các con số thống kê. Ngài không tìm kiếm các chủ biên tôn giáo, càng không chú ý đến các “trang chủ” hay các Kitô hữu “chỉ có danh xưng trong các con số thống kê”. Ngài đang tìm kiếm những chứng nhân nói với Ngài mỗi ngày rằng: “Lạy Chúa, Chúa là cuộc sống của con”.

Khi đã gặp được Chúa Giêsu và trải nghiệm sự tha thứ của Người, các Tông đồ đã làm chứng cho Chúa bằng cách sống một cuộc sống mới: các ngài không còn giữ lại cho mình, nhưng đã tự hiến hoàn toàn. Các ngài không còn bằng lòng với các biện pháp nửa vời nữa, nhưng chấp nhận biện pháp khả thi duy nhất cho những người theo Chúa Giêsu: đó là tình yêu vô biên. Các ngài đã “đổ máu ra làm lễ tế” (xem 2 Tim 4: 6). Chúng ta hãy xin ân sủng để đừng trở thành những Kitô hữu thờ ơ sống nửa vời, và để cho tình yêu của chúng ta trở nên nguội lạnh. Trái lại, chúng ta hãy tái khám phá chúng ta thực sự là ai qua mối quan hệ hàng ngày với Chúa Giêsu và qua quyền năng tha thứ của Người. Như Chúa đã hỏi Phêrô, giờ đây Chúa Giêsu cũng đang hỏi chúng ta: “Các con nói Thầy là ai?”, “Con có yêu mến Thầy không?” Chúng ta hãy để những lời này thâm nhập vào trái tim của chúng ta và truyền cảm hứng cho chúng ta để chúng ta không hài lòng với mức tối thiểu, nhưng nhắm đến những đỉnh cao, để rồi chúng ta cũng có thể trở thành nhân chứng sống động cho Chúa Giêsu.

Hôm nay, tôi làm phép các dây Pallium cho các vị Tổng Giám mục Chính Tòa được bổ nhiệm trong năm qua. Dây Pallium nhắc nhớ con chiên mà người mục tử được mời gọi để vác trên vai. Đó là một dấu chỉ cho thấy để giành được sự sống, chúng ta phải chịu mất nó, phải chịu cho đi. Theo một truyền thống tốt đẹp, hôm nay niềm vui của chúng ta được chia sẻ bởi một phái đoàn từ Tòa Thượng Phụ Đại kết, tôi chào đón các thành viên của phái đoàn với tình cảm thắm thiết. Sự hiện diện của anh em, các anh em thân mến, nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không thể bỏ qua bất kỳ nỗ lực nào trong hành trình hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các tín hữu, trong tình hiệp thông ở mọi cấp độ. Để cùng nhau, khi được hòa giải với Thiên Chúa và đã tha thứ cho nhau, chúng ta được mời gọi làm chứng cho Chúa Giêsu bằng cuộc sống của chúng ta.


Source: Libreria Editrice Vaticana
 
Thượng Hội Đồng cho Vùng Amazon: Tóm Lược Tài Liệu Làm Việc
Vũ Văn An
20:36 29/06/2019

'Instrumentum Laboris’ (Tài liệu Làm việc) của Phiên đặc biệt sắp tới của Thượng hội đồng giám mục cho khu vực Toàn -Amazon (Pan-Amazonia) được công bố tại Vatican. Thượng hội đồng diễn ra từ ngày 6 đến 27 tháng 10 năm 2019 với chủ đề “Vùng Amazon: những nẻo đường mới cho Giáo hội và một hệ sinh thái toàn diện".

Trọng tâm Tài liệu Làm việc của Thượng Hội Đồng là tiếng kêu của Amazon xin Giáo hội trở thành đồng minh của nó để vươn tay ra với mọi người, nhất là với người nghèo, khi họ tìm kiếm sự thành toàn chân thực và nhân phẩm trong cuộc sống của họ.

Tài liệu làm việc đã được trình bày trước báo giới hôm Thứ Hai, ngày 17 tháng 6, bởi Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục. Nó là kết quả của một diễn trình lắng nghe bắt đầu từ chuyến Đức Giáo Hoàng Phanxicô thăm Puerto Maldonado ở Peru, vào tháng 1 năm 2018, và tiếp tục với các cuộc tham khảo khắp Vùng Amazon và Cuộc họp lần thứ hai của Hội đồng tiền Thượng hội đồng vào tháng 5 năm ngoái.

Hãy lắng nghe Chúa, để cùng với Người, chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu của người ta; cho đến khi hít thở được khao khát mà Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta

Vùng Amazon, ở trung tâm Nam Mỹ, bao gồm một khu vực rộng 7.8 triệu kilô mét vuông. Nó bao gồm lãnh thổ thuộc 9 quốc gia khác nhau: Brazil, Bolivia, Peru, Ecuador, Colombia, Venezuela, Guyana, Suriname và French Guyana. Khu rừng nhiệt đới rộng 5.3 triệu kilô mét vuông của nó là khu rừng lớn nhất thế giới và là nguồn nước ngọt, oxy và đa dạng sinh học không thể thay thế cho hành tinh này.

Hãy nghe báo cáo của chúng tôi

“Tiếng nói Amazon” là tiêu đề của phần đầu tiên của tài liệu và nó trình bày thực tại của lãnh thổ và các dân tộc của nó. Phần này tập chú vào mối liên hệ giữa sự sống và nước, bằng cách làm nổi bật việc các dòng sông lớn chảy qua khu vực này chủ yếu ra sao không những đối với hệ thực vật và động vật của lãnh thổ và của trái đất, mà còn đối với sinh kế, văn hóa và linh đạo của hàng ngàn cộng đồng bản địa, các nhóm thiểu số khác và các nông dân sống ở khu vực Amazon.

Sự sống bị đe dọa

Sự sống ở Amazon bị đe dọa bởi sự hủy hoại và khai thác môi trường, bởi sự vi phạm có hệ thống các nhân quyền căn bản của người dân Amazon: đặc biệt là vi phạm các quyền của người bản địa, như quyền đất đai, quyền tự quyết, quyền phân định đất đai, tham khảo ý kiến và sự đồng ý trước.

Theo các cộng đồng tham gia vào diễn trình lắng nghe của Thượng Hội Đồng, sự sống của họ bị đe dọa bởi lợi ích kinh tế và chính trị của các nhóm thống trị trong xã hội ngày nay, đặc biệt là các công ty khai thác mỏ. Ngoài ra, việc biến đổi khí hậu và sự gia tăng can thiệp của con người (phá rừng, hỏa hoạn và thay đổi việc sử dụng đất) đã khiến Amazon rơi vào tình trạng không thể quay trở lại, với tỷ lệ phá rừng cao, buộc người dân phải di dời và ô nhiễm khiến hệ sinh thái của nó gặp nguy hiểm và gây áp lực lên các nền văn hóa địa phương.

Tiếng kêu của trái đất và của người nghèo

Trong phần thứ hai, việc phân tích tài liệu đã phát sinh và cung cấp các đề nghị liên quan đến nền sinh thái toàn diện. Theo các báo cáo của các Giáo hội địa phương mà Văn phòng Tổng thư ký của Thượng hội đồng đã nhận được, Vùng Amazon ngày nay là “một nhan sắc bị thương và biến dạng, một nơi đau đớn và bạo lực”.

Bạo lực, hỗn loạn và tham nhũng tràn lan. Lãnh thổ đã trở thành một nơi xung đột và hủy diệt các dân tộc, văn hóa và các thế hệ

Có những người bị buộc rời khỏi đất đai của họ; họ thường rơi vào tay các mạng lưới tội phạm, buôn bán ma túy và buôn bán người (đặc biệt là phụ nữ), lao động trẻ em và mãi dâm. Đó là một thực tại bi thảm và phức tạp, vượt ra ngoài các ranh giới của luật pháp và quyền lợi.

Lãnh thổ của hy vọng và "sống tốt"

Các dân tộc gốc Amazon có nhiều điều để dạy chúng ta. Trong hàng ngàn năm, họ đã chăm sóc đất đai, nước và rừng của họ và đã cố gắng bảo tồn chúng cho đến ngày nay để nhân loại có thể hưởng lợi từ các hồng phúc nhưng không do Thiên Chúa sáng tạo. Những nẻo đường truyền giảng Tin Mừng mới phải được xây dựng trong đối thoại với sự khôn ngoan của tổ tiên, trong đó những hạt giống của Lời Chúa được biểu lộ.

Thượng Hội Đồng Amazon là một dấu hiệu hy vọng cho người dân Amazon và cho nhân loại

Các dân tộc tại các vùng ngoại vi

Tài liệu Làm việc cũng phân tích tình hình của các Dân tộc Bản địa trong Vùng Cô lập Tự nguyện. Theo dữ liệu từ các định chế giáo hội chuyên ngành, có từ 110 đến 130 dân tộc bản địa tự nguyện cô lập khác nhau, sống bên lề xã hội hoặc chỉ tiếp xúc lẻ tẻ với xã hội. Họ dễ bị thương tổn trước các đe dọa của những kẻ buôn bán ma túy, các siêu dự án cơ sở hạ tầng và các hoạt động bất hợp pháp liên kết với kỹ nghệ khai khoáng.

Người dân Amazon ra đi

Amazon là một trong những khu vực có tính di động nội bộ và quốc tế cao nhất ở Mỹ Latinh. Theo thống kê, dân số đô thị của Amazon đã tăng theo cấp số nhân; hiện có khoảng từ 70 đến 80% dân số sống ở các thành phố, nơi thường xuyên nhận được một số lượng lớn người di cư đến và không thể cung cấp các dịch vụ thiết yếu mà người di cư cần. Mặc dù Giáo hội đã đồng hành với lượng di cư này, nhưng nó đã để lại những khoảng phân cách mục vụ cần được lấp đầy.

Một Giáo hội có tính Tiên tri ở Amazon: Các Thách thức và Hy vọng

Cuối cùng, phần cuối của Tài liệu Làm việc mời các Nghị phụ Thượng hội đồng Amazon thảo luận về điểm thứ hai của chủ đề do Đức Giáo Hoàng đề nghị: những nẻo đường mới cho Giáo hội trong khu vực.

Các cộng đồng địa phương cần một Giáo hội biết tham gia, có mặt trong đời sống xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa và sinh thái của cư dân; một Giáo hội biết chào đón sự đa dạng về văn hóa, xã hội và sinh thái để có thể phục vụ các cá nhân hoặc các nhóm không có bất cứ sự kỳ thị nào; một Giáo hội có óc sáng tạo có khả năng đồng hành cùng người dân của mình trong việc thực thi các đáp ứng mới cho các nhu cầu cấp thiết; một Giáo hội hòa hợp nhằm cổ vũ các giá trị hòa bình, thương xót và hiệp thông.

Các Bí tích và Lòng Đạo đức Bình dân

Các cộng đồng thường gặp khó khăn khi cử hành Bí tích Thánh Thể vì thiếu linh mục. “Giáo hội rút tỉa sự sống của mình từ Bí tích Thánh Thể” và Bí tích Thánh Thể xây dựng Giáo hội. Vì lý do này, thay vì để các cộng đồng không có Bí tích Thánh Thể, các tiêu chuẩn lựa chọn và chuẩn bị các thừa tác viên được ủy quyền cử hành nó nên được thay đổi. Các cộng đồng yêu cầu được đánh giá cao hơn, được đồng hành và và được cổ vũ lòng đạo đức bình dân nhờ đó nhiều người phát biểu đức tin của họ qua các hình ảnh, biểu tượng, truyền thống, nghi lễ và các bí tích khác. Đó là sự biểu lộ túi khôn và linh đạo vốn tạo nên một môi trường thần học đích thực với tiềm năng truyền giáo lớn lao.

Điều thích hợp là xem xét lại ý niệm này: việc thi hành quyền tài phán (quyền cai quản) phải được liên kết với mọi lĩnh vực (bí tích, pháp chế, hành chính) và một cách thường hằng, với Bí tích Truyền chức thánh.

Các Thừa tác vụ mới

Ngoài tính đa nguyên văn hóa của vùng Amazon, các khoảng cách còn tạo ra một vấn đề mục vụ nghiêm trọng không thể giải quyết bằng các phương tiện cơ học và kỹ thuật mà thôi. Điều cần là cổ vũ các ơn gọi bản xứ để nam giới và phụ nữ đáp ứng các nhu cầu chăm sóc mục vụ bí tích; sự đóng góp có tính quyết định của họ hệ ở việc thúc đẩy truyền giảng Tin Mừng đích thực theo quan điểm bản địa, phù hợp với phong tục và tập quán của họ. Họ là những người bản địa rao giảng cho những người bản địa khác với một kiến thức sâu sắc về văn hóa và ngôn ngữ của họ, có khả năng truyền đạt sứ điệp Tin Mừng một cách mạnh mẽ và hữu hiệu của những người có nền tảng văn hóa của chính họ.

Điều cần là chuyển dịch từ một “Giáo hội đi thăm viếng” sang một “Giáo hội ở lại nhà”, đồng hành và hiện diện qua các thừa tác viên địa phương.

Trong khi khẳng định rằng độc thân là một hồng ân cho Giáo hội, Tài liệu quả quyết rằng, đối với những vùng xa xôi nhất trong khu vực, khả thể phong chức linh mục sẽ được nghiên cứu đối với những người đàn ông đã kết hôn có gia đình. Nhằm bảo đảm các Bí tích để đồng hành và hỗ trợ đời sống Kitô hữu, điều khoản này định rõ rằng những người đàn ông này ưu tiên phải là những người lớn tuổi bản địa được cộng đồng của họ tôn trọng và chấp nhận.

Vai trò phụ nữ

Loại thừa tác vụ chính thức có thể được trao cho phụ nữ vẫn còn phải được nhận diện, lưu ý đến vai trò chính mà ngày nay phụ nữ đang đóng trong Giáo hội ở Amazon.

Có người yêu cầu rằng vai trò của phụ nữ phải được công nhận, khởi đi từ các đặc sủng và tài năng của họ. Họ yêu cầu được tái chiếm hữu không gian mà Chúa Giêsu từng dành cho phụ nữ, “nơi mọi người chúng ta đều có thể tìm thấy chính mình”. Cũng có đề nghị phải bảo đảm để họ có quyền lãnh đạo, cũng như các không gian rộng lớn và có liên quan nhiều hơn trong lãnh vực đào tạo: thần học, giáo lý, phụng vụ và trường phái đức tin và chính trị.

Đời sống thánh hiến

Do đó, có đề nghị phải cổ vũ một mô hình thay thế và có tính tiên tri cho đời sống thánh hiến, có tính liên hội dòng và liên định chế. Trên hết, phải có một cảm thức sẵn sàng “để hiện diện ở nơi không ai muốn hiện diện và với người không ai muốn hiện diện với”. Có đề nghị cho rằng việc đào tạo đối với đời sống tu trì nên bao gồm các diễn trình tập chú vào tính liên văn hóa, hội nhập văn hóa và đối thoại.

Đại kết

Tài liệu này cũng nhấn mạnh một hiện tượng quan trọng cần được lưu ý, đó là sự phát triển nhanh chóng của các giáo hội Tin Lành gần đây có nguồn gốc Ngũ Tuần, đặc biệt ở các vùng ngoại vi: “Họ chỉ cho chúng ta một cách khác để làm Giáo Hội, nơi mọi người cảm thấy họ là những người chủ đạo và là nơi tín hữu có thể tự phát biểu một cách tự do không bị kiểm duyệt, không duy giáo điều hay kỷ luật nghi lễ”.

Giáo hội và quyền lực: nẻo đường thập giá và tử đạo

Trở thành Giáo hội ở vùng Amazon có nghĩa là tra vấn quyền lực một cách tiên tri, vì trong khu vực này, người dân không có cơ hội để khẳng định các quyền của họ trước các doanh nghiệp kinh tế lớn lao và các định chế chính trị. Ngày nay, tra vấn quyền lực trong việc bảo vệ đất đai và nhân quyền, có nghĩa là đặt sự sống của người ta vào thế nguy hiểm, tự mở cho mình “một nẻo đường thập giá và tử đạo”. Con số các tử đạo ở Amazon rất đáng báo động (ví dụ, chỉ riêng ở Brazil, từ năm 2003 đến năm 2017, đã có 1,119 người bản địa bị giết vì bảo vệ đất đai của họ). Giáo hội không thể thờ ơ đối với điều này; ngược lại, nó phải hỗ trợ việc bảo vệ những người bảo vệ nhân quyền và tưởng nhớ các vị tử đạo của nó, bao gồm cả các nhà lãnh đạo phụ nữ, như Nữ tu Dorothy Stang.

Trong thời gian cần thiết để soạn thảo Tài liệu Làm việc, tiếng nói Amazon đã được lắng nghe dưới ánh sáng đức tin; một nỗ lực đã được thực hiện để đáp lại tiếng kêu của người dân và của Amazon muốn có những nẻo đường mới cho Giáo hội và cho một hệ sinh thái toàn diện nhằm phát huy khả năng nói tiên tri ở vùng Amazon. Những tiếng nói Amazon này kêu gọi Thượng hội đồng giám mục đưa ra một đáp ứng mới cho các tình huống khác nhau và tìm những nẻo đường mới nhằm tạo nên một hoàng kim thời đại (kairos) cho Giáo hội và thế giới.

Kỳ tới: Hai đề nghị quan trọng của Tài liệu Làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục về Amazon
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gieo Rắc Tin Mừng Cho Đồng Bào Dao Đỏ Trên Dãy Hoàng Liên Sơn
Trương Trí
09:51 29/06/2019
Giáo phận Hưng Hóa được biết đến nhiều qua những đợt lũ quét trong nhiều năm qua, và Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu Long, Giám mục Giáo phận Vinh, lúc bấy giờ là Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Hưng Hóa, Ngài luôn luôn hiện diện để sẻ chia những đau thương mất mát với bà con người dân tộc. Hình ảnh vị mục tử nhân lành trong mắt đồng bào thiểu số vùng Tây Bắc như là một người cha hiền hậu và đầy lòng nhân ái rất được quý mến. Đó là những gì mà chúng tôi được nghe kể lại trong chuyến công tác lên vùng Tây Bắc này.

Xem Hình

Trong những ngày qua, chúng tôi theo Đoàn Từ thiện của bà con giáo xứ Suối Nho thuộc Giáo phận Xuân Lộc do bà Anna Nguyễn thị Mến làm Trưởng đoàn đi thăm và tặng quà cho đồng bào dân tộc sinh sống trên dãy Hoàng Liên sơn thuộc tỉnh Lào Cai, vùng Tây Bắc. Trãi qua hai ngày đêm vượt qua gần 2 ngàn cây số mới đến được Thị trấn Phố Lu thuộc tỉnh Lào Cai. Đến Nhà thờ Phố Lu, được linh mục Quản xứ Giuse Hoàng Quốc Oai đón tiếp rất chân tình, ngài giới thiệu sơ qua về giáo xứ: hiện có chừng 1 ngàn rưỡi giáo dân trãi trên địa bàn 3 huyện: Bảo Thắng, Bắc Hà và Simacai. Là một giáo xứ thuộc miền núi với hầu hết là người dân tộc với nhiều sắc tộc khác nhau. Mỗi ngày Chúa Nhật, ngài phải vượt qua gần 200 km đi và về để dâng Thánh lễ. Ngôi nhà thờ Phố Lu đã trên 10 năm nhưng hết sức đơn sơ mộc mạc như chính ngài: hiền lành, khiêm tốn và hòa đồng với bà con.

Sáng hôm sau, chúng tôi được ngài dẫn đến thăm một bản làng của người dân tộc Dao Đỏ thuộc bản Nậm Trà, xã Bảo Thắng, huyện Bảo Thắng. Tại đây, đoàn đã trao tặng cho bà con 124 phần quà gồm: 2 tấn gạo, 200 thùng mì gói, 200kg muối, 200 gói bột ngọt và 15 bao quần áo. Chia sẻ với bà con là những người chưa hề biết đến Chúa, linh mục Giuse Hoàng Quốc Oai nói: Chia sẻ một tình yêu thương của những người Công Giáo đối với người không Công Giáo, chúng tôi không phân biệt giữa người có đạo và không có đạo mà là tình đoàn kết lương giáo, chia sẻ những khó khăn mà người Công Giáo chúng tôi luôn luôn mong muốn và hy vọng kết nối tình đoàn kết, không phân biệt dân tộc hay tôn giáo.

Đồng bào dân tộc Dao Đỏ sống trên những triền núi cao, họ chuyên canh tác những thửa ruộng bậc thang quanh triền núi, những nguồn nước được dẫn từ những khe suối trên cao xuống từng thửa ruộng hết sức đẹp mắt. Ngoài canh tác lúa bắp, họ không còn gì khác nên đời sống gặp nhiều khó khăn.

Trở về lại nhà thờ Phố Lu, Đoàn đã trao tặng cho linh mục quản xứ số tiền gần 100 triệu để góp phần xây dựng nhà thờ. Ông Đặng Văn Thanh, Phó Tổng Giám đốc Công ty Việt Phú An, người bạn thân thiết luôn đồng hành với Hiệp sĩ Đại Thánh giá G.B. Lê Đức Thịnh mặc dù không tham gia cùng Đoàn nhưng cũng đã chuyển một số tiền đến linh mục Quản xứ để giúp đỡ người nghèo.

Nhờ vào những tấm lòng yêu thương của bà con Suối Nho, cũng như những tấm lòng bác ái của mọi người, cộng tác với các linh mục đang ngày đêm vất vả trên mọi nẻo đường vùng Tây Bắc. Hy vọng rằng công cuộc Loan báo Tin mừng sẽ ngày càng được mở rộng cho những người chưa nhận biết Chúa trên những miền núi xa xôi.

Trương Trí
 
Thánh lễ bế mạc Tượng Đức Mẹ La Vang Thánh Du Năm 2019 tại Melbourne
Trần Văn Minh
22:09 29/06/2019
Melbourne, sau hai tháng Tượng Đức Mẹ La Vang Thánh Du, do Cộng đồng Công Giáo Việt Nam trong Tổng Giáo phận Melbourne tổ chức, với chương trình rước Tượng Mẹ La Vang đi tới thăm mười bốn cộng đoàn thuộc cộng đồng. Vào lúc 6 giờ 30 tối 29/6/2019, tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm. Thánh lễ đồng tế bế mạc cuộc thánh du của Đức Mẹ đã được tổ chức thật trọng thể.
Tượng Đức Mẹ ngày bế mạc tại Trung tâm Thánh Vinh Sơn Liêm

Xem hình

Sau cả một tuần lễ, nhờ ơn Chúa và Mẹ Maria Thánh Mẫu La Vang đã ban cho Melbourne và cách riêng cho Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm những ngày khô ráo trong tiết trời mùa Đông lạnh lẽo. Còn một ngày cuối, trời không những mưa mà còn có những cơn gió rất mạnh, như một sự luyến lưu của Đức Mẹ với đoàn con thảo kính, vì trong suốt một tuần lễ qua, mỗi ngày cộng đoàn đều có giờ đền tạ và dâng thánh lễ đồng tế để chào mừng Mẹ đến với cộng đoàn. Giờ phút cuối, chương trình dâng lễ bế mạc chương trình Tượng Đức Mẹ La Vang thánh du tại lễ đài ngoài trời không thể thực hiện được trong sự tiếc nuối của Cha quản nhiệm và cộng đoàn sau bao công trình sửa soạn rất công phu để dâng lên Mẹ.

Thánh lễ đồng tế do Linh mục Trần Ngọc Tân Quản nhiệm Cộng đoàn Trung Tâm Thánh Vinh Sơn Liêm chủ tế, cùng quý Cha Phạm Minh Ước, Trần Minh Hiếu và Thầy phó tế Đinh Văn Bổn đồng tế, có quý vị đại diện Ban Mục vụ Cộng đồng Công Giáo Việt Nam TGP. Melbourne đồng hành về dự. Ca đoàn Vô nhiễm phụ trách thánh ca cùng với rất đông giáo dân trong và ngoài cộng đoàn bất chấp mưa gió, lạnh lẽo đã về hiệp dâng thánh lễ và lưu luyến chia tay Mẹ.

Trước giờ lễ, Giáo khu Phanxico Xavier đại diện cộng đoàn đã làm giờ đền tạ với các kinh nguyện thật sốt sắng. Trong suốt tuần lễ Đức Mẹ ghé thăm, tại cộng đoàn đều có các giáo khu và hội đoàn như: các Giáo khu An Tôn, Hội Cao Niên và GK Têrêsa, GK Martino, GK Gioan Bosco, Hội Mân Côi đã thay mặt cộng đoàn để đọc kinh đền tạ và dâng hoa cộng đoàn trong suốt sáu ngày qua.

Tiếp theo thánh lễ, hai đội dâng hoa Thiếu Nhi Thánh Thể Xứ Đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm và Ngành Nữ Tông đồ Liên Minh Thánh Tâm kết hợp dâng hoa tiễn Mẹ. Những em nhỏ như những thiên thần trong sáng nhịp nhàng với đôi mắt trong veo, tay dâng nến, tay cầm bông, bên cạnh quý bà mẹ trong những tà áo dài truyền thống Việt Nam với đủ năm màu xanh, đỏ, trắng, tím, vàng cũng nhịp nhàng theo bài hát tiến dâng hoa lên Ngai tòa Đức Mẹ.

Và vẫn theo chương trình dâng hoa cộng đoàn của ngày bế mạc, kiệu Đức Mẹ được rước xuống khu vực lễ đài để cho cộng đoàn dâng hoa, mỗi người được nhận một bông hồng tươi thắm với đủ mọi mầu sắc, để từng người tự tay theo đoàn đồng tế dâng lên Mẹ với những lời nguyện xin cho bản thân, gia đình, với sự hướng hẫn của Linh mục Quản nhiệm để cầu cho Giáo Hội, Quê hương Việt Nam sớm được hưởng tự do đích thực, như Mẹ đã hiện ra tại La Vang năm xưa để cứu và chữa lành cho nhiều người.

Sau đó, một bữa tiệc được tổ chức tại hội trường trung tâm để mọi người con cái Mẹ cùng đứng bên nhau, thưởng thức những món ăn và hàn huyên tâm sự, sưởi ấm tâm hồn nhau trong một buổi tối rét mướt với cả tấm lòng yêu thương vì cùng là con cái của Mẹ.

Tưởng cũng cần nhắc lại. Tượng Đức Mẹ La Vang Thánh Du đến thăm để khai mạc chương trình Đức Mẹ Thánh du Ngày 4/5/2019 tại Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang, Cộng đoàn Tôma Thiện. Sau một tuần ở cùng cộng đoàn, Tượng Đức Mẹ La Vang đã được rước đi khắp các cộng đoàn thuộc Cộng đồng Công Giáo Việt Nam trong Tổng Giáo phận Melbourne và bế mạc tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm chiều 29/6/2019.

Tượng đã được Đức Thánh Cha ban phép và trao cho Cộng đồng Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo phận Melbourne. Và mỗi hai năm, Tượng Đức Mẹ La Vang được tổ chức đến thăm các Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam trong tổng giáo phận.
 
Thông Báo
VietCatholic thành kính phân ưu cùng Cha Phêrô Nguyễn Minh Thúy
Vietcatholic Network
18:38 29/06/2019
CÁO PHÓ

Trong niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh,

VietCatholic trân trọng thông báo cùng quý Đức Cha, quý cha, quý tu sĩ và anh chị em

Bà Cố Martha Nguyễn Thị Tươi

Thân Mẫu Cha Phêrô Nguyễn Minh Thúy
Sinh ngày 19/12/1928 –
đã hoàn tất hành trình đức tin Công Giáo nơi dương thế
vào lúc 02:15 sáng ngày 27/06/2019 tại Perth, Australia
Thánh lễ Phát Tang: Thứ Ba 02/07/2019 lúc 6:30 tối tại Trung Tâm của Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam Tổng Giáo Phận Perth
Thánh lễ An Táng: Thứ Tư 03/07/2019 lúc 10:30 sáng tại Trung Tâm của Cộng đoàn
Sau đó là Nghi thức Hoả Táng lúc 12:30pm tại nghĩa trang Pinnaroo.

VietCatholic xin thành kính phân ưu cùng Cha Phêrô Nguyễn Minh Thúy và Tang Quyến.
Nguyện xin Thiên Chúa qua sự bầu cử của Hiền Mẫu La Vang sớm đưa linh hồn
Bà Cố Martha Nguyễn Thị Tươi
về hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên Đàng


Kỹ sư J.B. Đặng Minh An
Phó Giám Đốc
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Thánh Đường Mẹ Mân Côi Lộ Đức
Dominic Đức Nguyễn
08:50 29/06/2019
THÁNH ĐƯỜNG MẸ MÂN CÔI LỘ ĐỨC
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn

Đến nơi đây cung kính chân thành
Tri ân Mẹ đã hiển linh vì nhân thế
Đến với Mẹ, đuôi mù, què quặt
Biết bao bệnh tật cả xác, hồn…
Mẹ thương che chở được lành trơn
(Trích thơ của Trần Đình Phan Tiến)
 
VietCatholic TV
ĐTGM Vũ Văn Thiên và 30 vị TGM khác của 25 quốc gia được Đức Thánh Cha trao dây Pallium
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
11:19 29/06/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Từ thời xa xưa Giáo Hội Roma đã có truyền thống cử hành lễ trọng kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô trong cùng một ngày. Tiếp tục truyền thống đó, lúc 9:30 sáng thứ Bẩy 29 tháng Sáu, Đức Thánh Cha đã chủ sự thánh lễ bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô. Dịp này, ngài cũng làm phép dây Pallium cho các vị Tổng Giám Mục chính tòa được bổ nhiệm trong 12 tháng qua.

Trong số 31 vị Tổng Giám Mục Chính Tòa được Đức Thánh Cha trao dây Pallium lần này, đặc biệt có Đức Cha Vũ Văn Thiên của tổng giáo phận Hà Nội. Ngài đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám mục Hải Phòng vào ngày 26/11/2002.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám mục Tổng giáo phận Hà Nội vào ngày 17/11/2018.

Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:


Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô đứng trước chúng ta như những chứng nhân. Các ngài không khi nào mệt mỏi với việc rao giảng và rong ruổi trên đường như những nhà truyền giáo từ vùng đất của Chúa Giêsu đến ngay tại Rôma này. Tại đây, các ngài đã đưa ra các chứng tá tột cùng, hiến dâng cuộc đời mình như những vị tử vì đạo. Nếu chúng ta đi vào trung tâm của chứng tá này, chúng ta có thể thấy các ngài là các chứng nhân cho sự sống, cho sự tha thứ và cho Chúa Giêsu.

Chứng nhân cho cuộc sống. Cuộc sống của các ngài, mặc dù, không gọn gàng và thẳng tắp. Cả hai vị đều có một lòng đạo sâu sắc: Phêrô là một trong những môn đệ đầu tiên (x. Ga 1, 41) và Phaolô rất nhiệt tình đối với truyền thống của tổ tiên mình ( Gal 1:14). Tuy nhiên, các ngài cũng đã phạm phải những sai lầm lớn: Phêrô chối Chúa, trong khi Phaolô bắt bớ Giáo hội của Chúa. Cả hai đều bị rúng động trước những câu hỏi của Chúa Giêsu: “Simon con ông Gioan, con có yêu mến thầy không? ( Ga 21:15); và “Saolô, Saolô, sao ngươi lại bắt bớ Ta?” (Công vụ Tông đồ 9: 4). Phêrô cảm thấy đau buồn trước những câu hỏi của Chúa Giêsu, trong khi Phaolô bị mù lòa trước những lời trách móc của Chúa. Chúa Giêsu gọi đích danh các ngài và thay đổi cuộc sống của các ngài. Sau tất cả những gì đã xảy ra, Ngài đặt niềm tin vào họ, nghĩa là vào kẻ đã chối Ngài và vào kẻ đã từng ra tay bắt bớ những môn đệ Ngài. Chúa đã đặt sự tin tưởng của Ngài vào những người tội lỗi có lòng ăn năn. Chúng ta có thể tự hỏi tại sao Chúa đã quyết định không ban cho chúng ta hai chứng nhân hoàn toàn liêm chính, với hồ sơ trong sạch và cuộc sống không chút tì vết? Tại sao lại là Phêrô, sao không là Gioan? Tại sao lại là Phaolô, mà không phải là Barnaba?

Có một giáo huấn quan trọng ở đây: điểm khởi đầu của đời sống Kitô không phải là sự xứng đáng của chúng ta; thật ra, Chúa chẳng làm được bao nhiêu với những người cho rằng họ tốt lành và cao trọng. Bất cứ khi nào chúng ta coi mình thông minh hơn hoặc tốt lành hơn những người khác, đó là khởi đầu của một sự kết thúc. Chúa không làm phép lạ với những người tự coi mình là công chính, nhưng với những người biết mình cần đến Ngài. Ngài không bị thu hút bởi sự tốt lành của chúng ta; đó không phải là lý do tại sao Ngài yêu mến chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta ngay trong tình trạng hiện nay của chúng ta; Ngài tìm kiếm những người không tự mãn, nhưng sẵn sàng mở lòng ra với Người, những người minh bạch trước mặt Chúa như Phêrô và Phaolô. Phêrô thưa ngay với Chúa Giêsu rằng: “Con là một kẻ tội lỗi” (Lc 5: 8). Còn Phaolô thì viết rằng ngài là “người rốt cùng trong số các Tông đồ, không đáng được gọi là một Tông đồ (1 Cr 15: 9)”. Trong suốt cuộc đời, các ngài giữ gìn sự khiêm nhường này đến tận cùng. Thánh Phêrô chết đóng đinh lộn ngược, vì thánh nhân cho rằng mình không xứng đáng được bắt chước Chúa của mình. Thánh Phaolô luôn thích cái tên của ngài, có nghĩa là “bé nhỏ”, và bỏ lại sau lưng tên khai sinh của mình, là Saolô, tên của vị vua đầu tiên của dân tộc Do Thái. Cả hai đều hiểu rằng sự thánh thiện không hệ tại nơi việc tôn mình lên nhưng trái lại là tự hạ mình xuống. Sự thánh thiện không phải là một cuộc thi đua, nhưng là vấn đề phó dâng sự nghèo khó của chính chúng ta mỗi ngày cho Chúa, Đấng làm những điều tuyệt vời cho những người thấp hèn. Bí quyết khiến họ bền đỗ giữa lúc yếu đuối là gì? Đó là sự tha thứ của Chúa.

Chúng ta cũng hãy nghĩ về các ngài như các chứng nhân cho sự tha thứ. Trong những thất bại của mình, các ngài đã gặp được lòng thương xót vô biên của Chúa, Đấng đã tái sinh các vị. Nơi sự tha thứ của Chúa, các ngài gặp được sự bình yên và niềm vui không thể kềm chế. Khi nghĩ lại những thất bại của mình, các ngài có lẽ bị giày vò bởi cảm thức tội lỗi. Đã bao lần Phêrô có thể trăn trở về hành động chối Chúa của mình! Biết bao lần Phaolô thao thức vì đã làm tổn thương bao nhiêu người vô tội! Về mặt con người mà nói, các ngài đã thất bại. Tuy nhiên, các ngài đã gặp thấy một tình yêu lớn hơn những thất bại của mình, một sự tha thứ đủ mạnh để chữa lành ngay cả cảm thức tội lỗi của các ngài. Chỉ khi chúng ta trải nghiệm sự tha thứ của Chúa, chúng ta mới thực sự trải nghiệm sự tái sinh. Từ đó, chúng ta bắt đầu lại, từ sự tha thứ chúng ta tái khám phá chúng ta thực sự là ai khi chúng ta thú nhận tội lỗi của mình.

Chứng nhân cho sự sống và chứng nhân cho sự tha thứ, Phêrô và Phaolô cuối cùng là nhân chứng cho Chúa Giêsu. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa hỏi: “Người ta nói Con Người là ai?” Những câu trả lời gợi lên những nhân vật của quá khứ: “Gioan Tẩy giả, Elijah, Jeremiah hay một trong các tiên tri”. Đó là những người rất đáng chú ý, nhưng tất cả các vị đều đã chết. Thay vào đó, Phêrô trả lời: “Thầy là Chúa Kitô” ( Mt 16: 13-14.16). Chúa Kitô, nghĩa làĐấng Messiah. Đó là một từ không chỉ về quá khứ, nhưng hướng đến là tương lai: Đấng Thiên Sai là người được chờ đợi, Người là sự mới mẻ, là người mang dầu của Chúa đến xức cho thế giới. Chúa Giêsu không phải là quá khứ, mà là hiện tại và tương lai. Ngài không phải là một nhân vật xa xôi để tưởng nhớ đến, nhưng là người mà Phêrô có thể nói chuyện một cách thân mật: “Thầy là Chúa Kitô”. Đối với những người là chứng nhân cho Ngài, Chúa Giêsu không chỉ là một nhân vật lịch sử; Ngài là một người đang sống: Ngài là sự mới mẻ, chứ không phải là những gì chúng ta đã từng thấy, Ngài là sự mới mẻ của tương lai chứ không phải một hoài niệm của quá khứ. Như thế, chứng nhân không phải là người biết câu chuyện về Chúa Giêsu, nhưng là người đã trải nghiệm một câu chuyện tình yêu với Chúa Giêsu. Chứng nhân ấy, cuối cùng, công bố chỉ một điều này: đó là Chúa Giêsu là Đấng hằng sống và Ngài là bí quyết của sự sống. Thật vậy, Phêrô, sau khi nói: “Thầy là Chúa Kitô”, liền nói: “Con Thiên Chúa hằng sống” (câu 16). Chứng tá được phát sinh từ một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu hằng sống. Ở trung tâm của cuộc đời của Phaolô cũng vậy, chúng ta cũng tìm thấy cùng một từ phát sinh từ trái tim của Phêrô: Chúa Kitô. Thánh Phaolô lặp lại danh thánh này liên tục, gần bốn trăm lần trong các lá thư của mình! Đối với thánh nhân, Chúa Kitô không chỉ là một điển hình, một tấm gương, một điểm tham chiếu: Ngài là chính cuộc sống. Phaolô viết: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Phil 1:21). Chúa Giêsu là hiện tại và tương lai của Phaolô, đến nỗi thánh nhân coi quá khứ là một sự thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Chúa Kitô (x. Phil 3: 7-8).

Anh chị em thân mến, trước các chứng nhân này, chúng ta hãy hỏi: “Tôi có làm mới hàng ngày cuộc gặp gỡ của chính mình với Chúa Giêsu không?” Chúng ta có thể tò mò về Chúa Giêsu, hoặc quan tâm đến các vấn đề của Giáo hội hoặc tin tức tôn giáo. Chúng ta có thể mở các trang web trên máy tính và các bài báo, và nói về những điều thánh thiêng. Nhưng điều này chỉ dừng lại ở mức độ “Người ta đang nói gì?” Chúa Giêsu không quan tâm đến các cuộc thăm dò, quá khứ lịch sử hoặc các con số thống kê. Ngài không tìm kiếm các chủ biên tôn giáo, càng không chú ý đến các “trang chủ” hay các Kitô hữu “chỉ có danh xưng trong các con số thống kê”. Ngài đang tìm kiếm những chứng nhân nói với Ngài mỗi ngày rằng: “Lạy Chúa, Chúa là cuộc sống của con”.

Khi đã gặp được Chúa Giêsu và trải nghiệm sự tha thứ của Người, các Tông đồ đã làm chứng cho Chúa bằng cách sống một cuộc sống mới: các ngài không còn giữ lại cho mình, nhưng đã tự hiến hoàn toàn. Các ngài không còn bằng lòng với các biện pháp nửa vời nữa, nhưng chấp nhận biện pháp khả thi duy nhất cho những người theo Chúa Giêsu: đó là tình yêu vô biên. Các ngài đã “đổ máu ra làm lễ tế” (xem 2 Tim 4: 6). Chúng ta hãy xin ân sủng để đừng trở thành những Kitô hữu thờ ơ sống nửa vời, và để cho tình yêu của chúng ta trở nên nguội lạnh. Trái lại, chúng ta hãy tái khám phá chúng ta thực sự là ai qua mối quan hệ hàng ngày với Chúa Giêsu và qua quyền năng tha thứ của Người. Như Chúa đã hỏi Phêrô, giờ đây Chúa Giêsu cũng đang hỏi chúng ta: “Các con nói Thầy là ai?”, “Con có yêu mến Thầy không?” Chúng ta hãy để những lời này thâm nhập vào trái tim của chúng ta và truyền cảm hứng cho chúng ta để chúng ta không hài lòng với mức tối thiểu, nhưng nhắm đến những đỉnh cao, để rồi chúng ta cũng có thể trở thành nhân chứng sống động cho Chúa Giêsu.

Hôm nay, tôi làm phép các dây Pallium cho các vị Tổng Giám mục Chính Tòa được bổ nhiệm trong năm qua. Dây Pallium nhắc nhớ con chiên mà người mục tử được mời gọi để vác trên vai. Đó là một dấu chỉ cho thấy để giành được sự sống, chúng ta phải chịu mất nó, phải chịu cho đi. Theo một truyền thống tốt đẹp, hôm nay niềm vui của chúng ta được chia sẻ bởi một phái đoàn từ Tòa Thượng Phụ Đại kết, tôi chào đón các thành viên của phái đoàn với tình cảm thắm thiết. Sự hiện diện của anh em, các anh em thân mến, nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không thể bỏ qua bất kỳ nỗ lực nào trong hành trình hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các tín hữu, trong tình hiệp thông ở mọi cấp độ. Để cùng nhau, khi được hòa giải với Thiên Chúa và đã tha thứ cho nhau, chúng ta được mời gọi làm chứng cho Chúa Giêsu bằng cuộc sống của chúng ta.


Source: Libreria Editrice Vaticana