Ngày 23-06-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả 24/6/2019 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
01:39 23/06/2019
Bài đọc I: Is 49, 1-6

“Đây Ta làm cho con nên ánh sáng các dân tộc”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây; hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy chú ý: Chúa đã kêu gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, đã nhớ đến tôi khi tôi còn ở trong bụng mẹ. Người đã làm cho miệng tôi nên như lưỡi gươm sắc bén, đã bảo vệ tôi dưới cánh tay Người, đã làm cho tôi nên như mũi tên nhọn, và đã ẩn giấu tôi trong ống đựng tên. Và Người đã phán cùng tôi: “Hỡi Israel, ngươi là tôi tớ Ta, vì Ta sẽ được vinh hiển nơi ngươi”. Và tôi thưa: “Tôi đã vất vả mất công vô cớ, tôi đã phí sức vô ích; nhưng công lý của tôi ở nơi Chúa, và phần thưởng của tôi ở nơi Thiên Chúa”.

Và bây giờ Chúa là Đấng đã tác tạo tôi thành tôi tớ Người, khi tôi còn trong lòng mẹ, để đem Giacóp về cho Người và quy tụ Israel chung quanh Người, tôi được vinh hiển trước mặt Chúa và Thiên Chúa là sức mạnh tôi, Người đã phán: “Con là tôi tớ Ta, để tái lập các chi họ Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; này đây Ta làm cho con nên ánh sáng các dân tộc, để con trở thành ơn cứu độ Ta đã ban cho đến tận bờ cõi trái đất”. Đó là lời Chúa.

Đáp ca: Tv 138, 1-3. 13-14ab. 14c-15

Đáp: Con ca ngợi Chúa, vì con được tạo thành cách lạ lùng

Xướng: Lạy Chúa, Chúa đã thử con và đã nhận biết con: Chúa nhận biết con khi con ngồi và khi con chỗi dậy. Từ lâu, Chúa đã hiểu biết các tư tưởng của con: Chúa thấu suốt đường lối của con rồi.

Xướng: Tâm can con thuộc quyền sở hữu của Chúa; Chúa đã nhận lãnh con từ khi con còn trong lòng mẹ. Con ca ngợi Chúa vì con được tạo thành cách lạ lùng; các việc Chúa làm thật là kỳ diệu.

Xướng: Chúa đã am tường linh hồn con; các xương con không giấu kín trước mặt Chúa, lúc con được tạo thành cách âm thầm, khi con được dệt trong lòng đất. – Đáp.

Bài đọc II: Cv 13, 22-26

“Gioan rao giảng việc Chúa Kitô sắp đến”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, Phaolô nói: “Chúa đã đặt Đavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: Ta đã gặp được Đavít con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta”. Bởi dòng dõi Đavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Đức Giêsu làm Đấng Cứu Độ, Đấng mà Gioan đã báo trước, khi người đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình, ngài tuyên bố: “Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người”.

Đó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 1, 76

Alleluia, alleluia! – Hỡi con trẻ, con sẽ được gọi là tiên tri của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước mặt Chúa để dọn đường cho Người. – Alleluia.

Phúc âm: Lc 1, 57-66. 80

“Nó sẽ gọi tên là Gioan”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan”. Họ bảo bà rằng: “Không ai trong họ hàng bà có tên đó”. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan”. Và mọi người đều bỡ ngỡ.

Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó”. Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel. Đó là lời Chúa.

Đó là lời Chúa.
 
Công lý phải được thực thi
Lm JB Nguyễn Minh Hùng
07:34 23/06/2019
Lễ Sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả

Thánh Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, nhưng cũng là tiên tri vĩ đại của Thiên Chúa. Thánh Gioan dọn đường cho Chúa Kitô ngự đến tâm hồn người thế bằng cách kêu gọi họ ăn năn tội để đón chờ Chúa trong hy vọng, trong sự sẵn sàng và tỉnh thức.

Sau cùng thánh Gioan dùng chính cái chết của mình để đấu tranh cho công lý. Qua cái chết của thánh Gioan, cho thấy quyền lực bất chính, những tính toán và những tham vọng bất lương của thế gian đã biến nhiều người, không chỉ vô tội mà còn thánh thiện, thành nạn nhân của nó. Thánh Gioan chỉ là đại diện trong số những nạn nhân ấy.

Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, cướp vợ của anh ruột là bà Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy thánh Gioan lên tiếng tố cáo sự cấu kết bất chính giữa Hêrôđê với Hêrôđiađê. Vì lên tiếng bênh vực công lý, thánh Gioan đã bị vua Hêrôđê chẳng những không lắng nghe, không nhận ra tội lỗi, mà còn bị bắt giam.

Không biết vua có ý định xét xử thế nào đối với thánh Gioan, chỉ biết trong một lần vua tổ chức tiệc mừng sinh nhật của mình, thánh Gioan đã bị thảm sát. Nhà vua đã cấu kết với Hêrôđiađê, kẻ đang cùng nhà vua sống loạn luân, ra lệnh chém đầu thánh Gioan. Vì thế, Bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê, chẳng mấy chốc đã biến thành bữa tiệc của sự thảm sát người công chính. Bàn tay cầm thức ăn, ngay sau đó biến thành bàn tay vấy máu một vị thánh.

Trước mặt người đời, xem ra thánh Gioan thất bại. Sứ mạng của mà thánh nhân đảm nhận xem như không hoàn thành. Ngài bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại. Thế nhưng Chúa Giêsu đã nói về người dọn đường của mình: “Trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả” (Lc 7,28).

Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống. Thái độ sống của thánh Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.

Kẻ tội lỗi vẫn nhởn nhơ sống. Kẻ tội lại nắm quyền hành và lên án chết cho những ai lành thánh. Cứ như thế mà hết thời đại này đến thời đại khác, nhân loại đầy dẫy bất công. Nhân loại mà càng hiện diện lâu nơi trần thế này, số người công chính bị tước bỏ quyền sống, quyền làm người, quyền hưởng thụ chân lý... càng chồng chất, càng gia tăng.

Thời đại hôm nay, cảnh những con người bị thống trị hà khắc, bị chà đạp quyền sống, bị bức tử, bị thảm sát... do những kẻ cầm quyền, những kẻ có đủ mọi điều kiện, mọi phương tiện thống trị diễn ra hầu như thường xuyên, và nhiều nơi, mặc dù những kẻ thống trị ấy tội lỗi ngập tràn.

Những Gioan Tẩy Giả của thời hiện đại là biết bao nhiêu anh chị em đang dấn thân đi tìm công lý và hòa bình, nhằm mang lại một cuộc sống xứng với nhân phẩm cho nhiều người, nhất là những người thấp cổ bé miệng, nghèo hèn, bị bỏ rơi.

Họ dấn thân vì nhân quyền. Họ đấu tranh cho tự do, cho lẽ công bằng. Họ lên tiếng đòi phải trả lại quyền làm người, quyền tự do tôn giáo, quyền tư hữu, quyền được thông tin sự thật, quyền được pháp luật bảo vệ… cho mọi người, mọi tầng lớp xã hội.

Những Gioan Tẩy Giả của thời hiện đại, đã phải đối đầu cùng bao nhiêu cảnh khổ đau, bị bức bách, bị đàn áp, bị thù ghét, bị trả thù, bị tù tội, bị giết hại, bị những bản án nặng nề oan ức...

Những Gioan Tẩy Giả của thời hiện đại còn là những người dân chân chất quanh năm chỉ biết bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để kiếm từng hạt cơm, manh áo trên mảnh đất của cha ông mình, hay của chính mình sau bao nhiêu mồ hôi nước mắt mới có được. Nó là phương tiện duy nhất để cả gia đình có thể sống. Bỗng dưng một ngày, họ mất tất cả, bị cướp trắng ngay trên tay mình, sau khi họ nhận được lệnh cưỡng chế tàn bạo.

Những Gioan Tẩy Giả thời hiện đại còn là những nạn nhân của chiến tranh, khủng bố, bóc lột… đang diễn ra khắp nơi trên đất nước này, trên thế giới này.

Với tư cách ngôn sứ, từng người Công Giáo chúng ta có thể làm chứng cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu, trước hết bằng sự cầu nguyện. Xin cho mọi người, mọi nhà đều được tôn trọng quyền sống, quyền làm người.

Chúng ta cầu nguyện cho lương tâm kẻ cầm quyền đừng vì tư lợi, nhưng vì tương lai của quốc gia, dân tộc mà lo cho vận mệnh của quốc gia mình, của dân tộc mình. Xin cho tất cả những ai nắm giữ quyền lực hãy có tình yêu, hãy có lương tâm, hãy để sự công bằng thống trị.

Ngoài ra, chúng ta lên tiếng bênh vực những nạn nhân của bạo lực, của bất công… Cần phải sát cánh cùng mọi người đau khổ. Cần phải đồng hành với những ai thiếu thốn mọi quyền được sống, được làm người đúng nghĩa, vừa để cảm thông, chia sớt hoàn cảnh của họ, vừa là hình thức tố cáo bạo quyền, tố cáo cái ác...

Lạy Chúa, xin cho thế giới ngày càng bớt đi sự đối đầu. Xin cho mọi người lành được bảo vệ. Xin cho khắp nơi không còn cảnh người vô tội bị xử án bất công, độc ác bởi những kẻ có quyền. Xin cho những ai dù có quyền hay không, nếu đã phạm tội thì phải bị trừng trị thích đáng. Amen.


 
Sống Cao Đẹp, Chết Hào Hùng
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
07:42 23/06/2019
Sinh Nhật Gioan Tẩy Giả

Giáo Hội thường mừng lễ các Thánh vào ngày các ngài qua đời. Đó là ngày các ngài được về với Thiên Chúa Tình Yêu, ngày Sinh nhật trên thiên quốc.

Đối với thánh Gioan Tẩy Giả, Giáo hội mừng kính cả ngày ngài sinh ra và cả ngày ngài tử đạo. Ngày qua đời mừng ở bậc lễ nhớ. Ngày Sinh nhật với bậc lễ trọng.

Trong năm Phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng Sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu (25.12); Sinh nhật của Đức Maria (8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6). Như vậy trong hàng ngũ các thánh, chỉ có thánh Gioan được vinh dự lớn nhất là được mừng ngày chào đời của mình. Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt lễ mừng Sinh nhật Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.

Gioan được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Gioan ra đời là niềm hạnh phúc cho cha mẹ, người thân và láng giềng. Một niềm vui quá lớn vì ông bà son sẻ. Mọi người đến chúc mừng người mẹ sinh con lúc tuổi già mà được “mẹ tròn con vuông”. Ai cũng trầm trồ khen bé trai thật dễ thương thật đáng yêu. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em”.

Ông Bà Giacaria mong chờ con trai nối dõi tông đường và sẽ như cha, con làm tư tế. Gioan có đủ điều kiện để tiến thân, giàu có, vinh dự thuộc giai cấp thượng lưu. Nhưng Gioan lại nghe tiếng gọi từ trời cao đi làm Ngôn sứ. Gioan vào hoang địa sống một mình. Cuộc sống khắc khổ, đơn sơ, nghèo nàn.

Từ đó, Gioan trở thành Ngôn sứ với đời sống cao đẹp và đã chết hào hùng.

1. Cuộc sống cao đẹp

Gioan sống đẹp trong cương vị sứ giả: “Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Êlia, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (Lc 1,17), và là người tiên phong: “Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,76).

Sống đẹp vì Gioan đã từ bỏ đời sống giàu sang uy thế của gia đình, đi vào trong sa mạc hoang vắng sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện thánh ý Ngài.

Sống đẹp vì Gioan có một số môn đệ, nhưng khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã giới thiệu cho họ (Ga 1, 36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu.

Sống đẹp vì Gioan đã thu phục được đám đông, được dân chúng ngưỡng mộ, nhưng Gioan chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà Gioan không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài (Ga 1,27).
Gioan sống đẹp vì đã luôn tâm niệm rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3, 30).

2. Cái chết hào hùng

Cái chết của Gioan đau thương mà rất hào hùng.

Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than,Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân.
Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua,kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế Gioan đã bị vua chém đầu.

Người theo Đạo Hồi giáo Islam rất sùng kính Thánh Gioan ở giáo đường bên Syria. Theo tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden có phần mộ chôn đầu của Gioan. Người Hồi giáo Syria gọi ngài bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với những người Hồi giáo tại đó.

Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù.Thế nhưng Chúa Giêsu đã nói về ông: “Trong các con cái người nữ sinh ra,chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”(Lc 7,28). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.

Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế.Chúa Giêsu, vị ngôn sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi,cũng gánh lấy tù tội và cái chết, bởi lẽ: “Nếu thế gian đã ghét Thầy,thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” (Ga 15,18-19).

3. Hồng ân ngày sinh nhật

Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa, Gioan đã sống vai trò Ngôn sứ, dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.

Mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, mỗi người nhớ đến ngày sinh nhật của mình. Ngày đó, cha mẹ, ông bà, thân bằng quyến thuộc mừng vui. Ai cũng cười tươi nhìn trẻ thơ, ai cũng muốn bồng ẵm chúc lành và đặt nhiều hy vọng nơi con trẻ. Rồi mỗi người được cha mẹ đặt tên, được đưa đến Nhà thờ để nhận phép thanh tẩy với một tên Thánh và trở nên con của Thiên Chúa.Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, mỗi người nhớ đến bao nhiêu là hồng ân Thiên Chúa ban tặng để tạ ơn và sống xứng đáng hơn.

Ngày nay, nhiều gia đình có truyền thống kỷ niệm và mừng ngày sinh nhật của các thành viên trong gia đình. Đó là một việc làm thật ý nghĩa và nhiều niềm vui. Bởi vì, đã sinh ra trong đời, dù ở cảnh ngộ nào, ai cũng được Đấng Tạo Hóa ban tặng chức phận quý giá, đó là làm người. Qua mạc khải Kinh thánh và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta biết rằng, con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu. Như vậy, mỗi người trong nhân loại đều được mời gọi theo một hướng đi nhất định để hoàn tất một định mệnh tươi đẹp và một cuộc sống cao cả.

Là Kitô hữu, chúng ta vui mừng tạ ơn và hy vọng về ơn gọi, định mệnh, hướng đi của mình.Thánh Gioan là một mẫu gương tuyệt vời, sống cao đẹp và chết hào hùng.


 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:34 23/06/2019

14. Kiêu ngạo là thần bị mù mắt, càng không cảm thấy mình kiêu ngạo thì kiêu ngạo càng lớn.

(Thánh Bonaventura)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


---------------

http://www.vietcatholicnews.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

https://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:41 23/06/2019
52. ĐÙA THÔI MÀ

Con dâu nọ rất sợ mẹ chồng.

Về sau thì bà ta chết, con dâu nhìn thấy bức ảnh của mẹ chồng treo trước quan tài, bèn muốn cởi bỏ những chuyện hận thù trong lòng nên nắm tay muốn lấy bức ảnh bỏ xuống.

Vừa mới đưa taylên thì đột nhiên có ngọn gió lớn thổi lay động tấm ảnh, cô dâu kinh hoảng vội vàng rút tay lại nói:

- “Con chỉ đùa thôi mà, chứ đâu muốn làm như thế !”

(Quảng Tiếu phủ)

Suy tư 52:

Có tật giật mình, nhưng có những người có tật mà không hề giật mình, đó là những người coi thường tội lỗi và sa đà sống trong tội, khi không còn giật mình nữa là triệu chứng của một tâm hồn đã chết và cuộc sống của họ chỉ là cái mả tô vôi mà thôi.

- Có người giật mình khi nghe cha giảng đúng tim đen của mình, họ có phúc vì biết giật mình để hối cải.

- Có người giật mình khi đọc một đoạn Phúc Aâm đúng với hoàn cảnh sống rất tội lỗi của mình, họ có phúc vì biết giật mình để xin Chúa thứ tha.

- Có người giật mình khi tình cờ nghe bạn bè kể về một tai nạn xảy ra lạnh ớn người, họ có phúc vì biết giật mình để hồi tâm và kiểm thảo đời sống thiêng liêng của mình...

Còn giật mình là còn có lương tâm và có thể nói đó là cái giật mình đáng giá ngàn vàng vậy, nhưng biết giật mình mà không chịu cẩn thận xem xét lương tâm và cuộc sống của mình thì án phạt nặng gấp trăm ngàn lần vậy.

Hạnh phúc và khốn nạn là ở đó vậy.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


-------------------

http://www.vietcatholicnews.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

https://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
James Carroll: “Hãy hủy bỏ chức linh mục”
Vũ Văn An
20:18 23/06/2019


Tờ bìa số tháng Sáu, 2019 của tập san The Atlantic có cho chạy tít lớn bài báo của James Carroll: “Hãy Hủy Bỏ Chức Linh Mục”. Theo tác giả này chỉ có thế, Giáo Hội Công Giáo mới có thể tự cứu được mình.

The Atlantic là một tập san Hoa Kỳ, đặt trụ sở ở Boston, được thành lập từ năm 1857. Hiện nay, tập san này xuất bản 10 số mỗi năm bàn về đủ thể tài từ văn chương qua chính trị tới ngoại giao. Số lượng phát hành sấp sỉ nửa triệu (478,534).

Song song với bài báo, The Atlantic còn phát hành một công bố báo chí cổ động cho việc đọc và phê phán nó.

James Carroll vốn là con trai vị tướng không quân Hoa Kỳ Joseph F. Carroll, từng gia nhập Dòng Thánh Phaolô (Paulist Fathers), thụ phong linh mục năm 1969, nhưng đã hồi tục sau đó không lâu, và hiện không còn thực hành đạo. Nhưng ông lại “tha thiết” với tương lai đạo bằng cách “chỉ đường” nói không với những tín điều căn bản của Đạo trong đó có việc hủy bỏ chức linh mục.

Trong công bố báo chí ngày 17 tháng 5, 2019, tờ The Atlantic cho hay động lực khiến Carroll viết bài báo là tai tiếng giáo sĩ lạm dụng tình dục các vị thành niên và ông cùng quan điểm với Đức Phanxicô rằng nguyên nhân cội rễ là chủ nghĩa giáo sĩ trị.

Nhưng khác với Đức Giáo Hoàng, ông cho chủ nghĩa ấy gần như đồng hóa với chức linh mục Công Giáo, nên không thể làm gì loại bỏ nó cho bằng loại bỏ hẳn giai cấp giáo sĩ, trả Giáo Hội về cho “dân Chúa”. Nghĩa là người Công Giáo nên bác bỏ phẩm trật, lấy lại đức tin của họ bằng cách tổ chức các buổi phụng vụ riêng. “Như bao giờ hết, biến cố tổ chức chính của Giáo Hội sẽ là trải nghiệm cộng đoàn của Thánh Lễ, mà cấu trúc của nó – đọc Lời Chúa, bẻ bánh – vẫn sẽ có tính phổ quát; nó sẽ không cần phải cử hành bởi 1 thành viên của một thứ đẳng cấp linh mục nào”. Nhờ rút lui khỏi hàng ghế nhà thờ, người Công Giáo có thể tự nhắc nhở mình rằng Giáo Hội không phải là cơ cấu quyền lực của nó. Thay vào đó, “Giáo Hội là dân Chúa”.

Dĩ nhiên, báo chí Công Giáo có rất nhiều phản ứng tiêu cực đối với bài báo. Tuy nhiên, để công bằng, chúng tôi xin trình bầy trọn bài báo của James Carroll trước, sau đó, một số phản ứng của báo chí Công Giáo.

A. "Hãy bãi bỏ chức linh mục" (James Carroll)

Muốn cứu Giáo Hội, người Công Giáo phải tách xa phẩm trật giáo sĩ và nắm lại đức tin trong tay mình.

I.“Kẻ sát hại linh hồn”

Cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy mẹ tôi sắp sửa qua đời là điều trước đây không ai có thể nghĩ tưởng, nhưng rồi có tin phát xuất từ Ái Nhĩ Lan. Điều này có thể hạ gục bà. Là con gái một di dân, mẹ tôi sống mà mắt luôn hướng về quê hương xưa, mảnh đất bà dùng đo lường mọi nhân đức. Ái Nhĩ Lan là thiên đàng đối với bà, và Giáo Hội Công Giáo là ca đoàn thiên quốc. Rồi Tường Trình Ryan được công bố.

Không lâu trước khi tờ Boston Globe bắt đầu đăng tải loạt bài của họ về các linh mục săn mồi, năm 2002 – loạt bài “Spotlight” sau trở thành một cuốn phim cùng tên – chính phủ Ái Nhĩ Lan thiết lập một Ủy Ban, cuối cùng được Chánh án Sean Ryan chủ tọa để điều tra các tường thuật và tin đồn về việc lạm dụng tình dục trẻ em trong các viện nuôi trẻ em tại Ái Nhĩ Lan, gần như tất cả đều do Giáo Hội Công Giáo điều hành.

Ủy ban Ryan đã công bố báo cáo 2,600 trang vào năm 2009. Mặc dù có sự thanh tra và giám sát của chính phủ, các giáo sĩ Công Giáo, trong nhiều thập niên, đã hành hạ dữ dội hàng ngàn trẻ em. Báo cáo cho thấy trẻ em bị giam giữ trong các viện mồ côi và trường cải tạo bị đối xử không khác gì nô lệ, trong một số trường hợp, còn là nô lệ tình dục. Hiếp dâm và quấy rối trẻ em trai là “chuyện cố hữu”. Các báo cáo khác được đưa ra về các định chế khác, bao gồm nhà thờ và trường học của giáo xứ, và các nhà dành cho những người mẹ không có chồng – “các nhà giặt ủi Thánh Mađalêna” đầy tai tiếng, nơi các cô gái và đàn bà buộc phải sống nô bộc cưỡng bức. Sự ghê tởm của các định chế này đã được đặt thành các vở kịch và phim tài liệu, và trong cuốn Philomena, cuốn phim do Judi Dench đóng, dựa trên một câu chuyện có thật. Vụ tai tiếng tại các nhà dành cho phụ nữ lên đến đỉnh cao vào năm 2017, khi một báo cáo của chính phủ tiết lộ rằng từ năm 1925 đến 1961, tại Nhà Mẹ và Bé Thơ Bon Secours, ở Tuam, Quận Galway, những bé thơ đã chết, gần 800 em, đã bị vứt trong các ngôi mộ tập thể hoặc hố nước thải. Không chỉ các linh mục đã cư xử đáng trách. Các nữ tu cũng vậy.

Vào tháng 8 năm 2018, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã có một chuyến thăm công khai tới Ái Nhĩ Lan. Việc định ngày giờ đến đó của ngài thật quá tệ. Vì ngay lúc đó, một làn sóng thứ hai các vụ tai tiếng lạm dụng tình dục Công Giáo đã diễn ra. Tại Đức, một cuộc điều tra của các giám mục bị rò rỉ đã tiết lộ rằng từ năm 1946 đến 2014, 1,670 giáo sĩ đã tấn công 3,677 trẻ em. Chính quyền dân sự ở các quốc gia khác đã phát động các cuộc điều tra, tiến hành mạnh mẽ để đánh phủ đầu Giáo hội. Tại Hoa Kỳ, cũng vào năm 2018, một đại bồi thẩm đoàn Pennsylvania đã cáo buộc rằng trong suốt 70 năm, hơn 1,000 trẻ em đã bị hơn 300 linh mục trên toàn tiểu bang lạm dụng. Các thẩm quyền Giáo Hội đã bịt miệng thành công các nạn nhân, làm chệch hướng các cơ quan chấp pháp và che chở những kẻ săn mồi. Báo cáo Pennsylvania được coi là một xét xử có tính thuyết phục, nhưng kết quả của đại bồi thẩm đoàn không phải là bản án. Tuy nhiên, hồ sơ về lời khai và điều tra này quả gây choáng váng. Những lời buộc tội kể về một nhóm linh mục ấu dâm: những người này đã cho nhiều mục tiêu trẻ của họ món quà là một thánh giá bằng vàng để đeo, để các linh mục săn mồi khác có thể nhận ra một đứa trẻ được kết nạp và do đó không chống lại lời gạ gẫm. Đây là “một việc sát hại linh hồn”, một nạn nhân đã khai trước đại bồi thẩm đoàn như thế.

Các bộ trưởng tư pháp tại ít nhất 15 tiểu bang khác tuyên bố việc mở các cuộc điều tra về tội ác của Giáo hội, và Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã làm theo. Chẳng mấy chốc, ở một số tiểu bang, các nhóm nhân viên chấp pháp được trang bị lệnh khám xét sẽ xông vào văn phòng các giáo phận và hồ sơ bảo mật. Các Thanh Tra Texas đã đột kích các văn phòng của Tổng giáo phận Galveston-Houston, do Đức Hồng Y Daniel DiNardo, chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ chủ trì. DiNardo đã được Giáo hội trình bày như một gương mặt mới về trách nhiệm giải trình và minh bạch khi ngài đến Galveston-Houston năm 2004. Các thanh tra đã thu giữ một văn khố lạm dụng - các hộp đựng hồ sơ tố cáo lạm dụng cùng với máy tính, bao gồm cả máy tính của Đức Hồng Y DiNardo. Đức Hồng Y bị buộc tội bảo vệ một linh mục săn mồi đặc biệt nghiêm trọng.

Những cuộc điều tra này và các cuộc điều tra khác sẽ tạo ra một cơn lốc tai tiếng trong nhiều năm tới. Khi tất cả những điều này đang diễn ra, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đáp lại bằng một việc triệu tập một cuộc họp nhẹ ký bốn ngày gồm các giám mục cấp cao, được tổ chức tại Rôma dưới tựa đề “Che Chở Các Vị Thành Niên trong Giáo hội”. Điều này giống như đặt các tay anh chị của Mafia đứng đầu một ủy ban tội phạm.

Trước, trong và sau chuyến đi Ái Nhĩ Lan, Đức Phanxicô đã bày tỏ, như chính ngài nói, “rất xấu hổ và đau khổ”. Nhưng ngài không tỏ dấu hiệu nào cho thấy ngài hiểu sự cần thiết Giáo hội phải tự cải tổ đáng kể hoặc thực hành các hành vi đền tội thực sự.

Một trong những điều ngạc nhiên về cuộc hành hương Ái Nhĩ Lan của Đức Giáo Hoàng Phanxicô là lời tuyên bố, với các phóng viên trong chuyến trở về Rôma, rằng cho đến lúc đó ngài không biết gì về Các Nhà Giặt Ủi Thánh Mađalêna hay những vụ tai tiếng của chúng: “tôi chưa bao giờ nghe nói về các bà mẹ này – họ gọi là tiệm giặt ủi của phụ nữ, nơi một phụ nữ không chồng đang mang thai và nhập các bệnh viện này”. Chưa bao giờ nghe nói về các bà mẹ này. Khi tôi đọc điều đó, tôi tự nhủ: Một lời nói dối. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang nói dối. Ngài có thể không nói dối, mà ngài có thể chỉ không biết gì thôi. Nhưng không được thông tri về vụ tai tiếng Mađalêna ầm ĩ đã lâu cũng tồi tệ không kém. Khi tôi đọc những lời của vị Giáo hoàng, một sợi dây căng trong tôi bị gãy cái đốp.

Sợi dây đã bắt đầu kéo căng ra ở một phần tư thế kỷ trước đây, khi tôi bắt đầu viết chuyên mục cho tờ Boston Globe. Hai mươi năm trước, tôi đã từng là một linh mục Công Giáo, bận tâm với chiến tranh, công bằng xã hội và cải tổ tôn giáo, các vấn đề được trao cho tôi phụ trách cho tờ Boston Globe. Một trong những cột đầu tiên của tôi, được ấn hành vào tháng 9 năm 1992, là một suy tư về tội ác lạm dụng tình dục trẻ em của một linh mục ở Massachusetts tên là James Porter. Tôi lập luận rằng việc săn mồi của Porter đã được nền văn hóa rộng lớn hơn của Giáo hội về sự im lặng bảo vệ linh mục làm cho khả hữu. Phản ứng trước các câu chuyện thoạt đầu của tờ Globe về Porter, Đức Hồng Y Bernard Law, Tổng Giám Mục Boston, đầy tức giận đã phát ra lời kết án dường như phát xuất từ thời Trung cổ: “Chúng tôi xin Thiên Chúa giáng sức mạnh xuống các phương tiện truyền thông, đặc biệt là tờ Globe”. Phải mất một thập niên, nhưng cuối cùng, sức mạnh của Thiên Chúa đã giáng xuống Đức Hồng Y Law.

Song hành với loạt bài “Spotlight” và sau đó, hơn một chục chuyên mục của tôi về việc giáo sĩ lạm dụng tình dục đã xuất hiện trên trang đối diện với trang xã luận (“op-ed”), với các tiêu đề như “Các nạn nhân của các linh mục bị thành Nạn nhân Hai lần” và “Tan chẩy trong Giáo Hội Công Giáo”. Tôi đã trở thành một kỷ lục bị phá vỡ về chủ đề này.

Tôi đưa ra tất cả những điều này để nhấn mạnh rằng, đến mùa hè năm 2018, vẫn còn là một người Công Giáo hành đạo, tôi không nuôi dưỡng ảo tưởng nào về sự phản bội kỳ cục của Giáo Hội. Vì vậy, cần phải có một số hành động mới đem tôi đến điểm nguy kịch, và Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người mà theo nhiều cách tôi ngưỡng mộ, và nơi ngài tôi từng đặt niềm hy vọng gần như tuyệt vọng, vẫn không hẳn là người đưa tôi đến đó.

Lần đầu tiên trong đời, và không hẳn là một quyết định có ý thức, tôi đơn giản ngưng việc tham dự Thánh lễ. Tôi bắt đầu một phiên bản không hẳn do tự ý của truyền thống Công Giáo về “việc ăn chay và kiêng thịt”, trong trường hợp này, là nhịn ăn Thánh Thể và kiêng thực hành đức tin của tôi cách công khai. Tôi không ảo tưởng cho rằng phản ứng này của tôi có ý nghĩa đối với bất cứ ai khác. Bất cần? Đây chỉ là vấn đề thời gian! Nhưng với tôi thời điểm này là một dấu ấn cuộc sống. Tôi đã không dự Thánh lễ trong nhiều tháng. Tôi mang trong mình một đại dương đau buồn.

II. Những mũ mãng cân đai của đế quốc

Các nhân đức của đức tin Công Giáo từng hiển nhiên đối với tôi suốt cả đời. Thế giới tốt hơn nhờ các nhân đức đó, và tôi trân trọng vô số đàn ông và đàn bà mang niềm tin sống động. Giáo Hội Công Giáo là một cộng đồng hoàn cầu với hơn 1 tỷ người. Bắc và Nam, giàu và nghèo, trí thức và mù chữ - nó là một định chế duy nhất vượt qua mọi biên giới như vậy trên bất cứ điều gì giống như cán cân này. Như James Joyce đã viết trong Finnegans Wake, Công Giáo có nghĩa là “mọi người đến đây”. Trên toàn thế giới có hơn 200,000 trường Công Giáo và gần 40,000 bệnh viện Công Giáo và các cơ sở chăm sóc sức khỏe, phần lớn ở các nước đang phát triển. Giáo hội là định chế phi chính phủ lớn nhất trên hành tinh, qua đó các phụ nữ và đàn ông vị tha chăm sóc người nghèo, dạy dỗ những người mù chữ, chữa lành bệnh tật và làm việc để bảo tồn các tiêu chuẩn tối thiểu của lợi ích chung. Thế giới cần Giáo hội của các quân đoàn hợp lý, có đầu óc lịch sử, đa nguyên, cam kết với hòa bình này, một quán quân về quyền bình đẳng của phụ nữ và một diễn đàn công lý.

Đó là Giáo hội mà nhiều người chúng ta hy vọng sẽ xuất hiện từ Công đồng Vatican II, được triệu tập trong gian chính của Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô từ năm 1962 đến năm 1965. Sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời vào năm 1958 - và sau 11 lần bỏ phiếu bế tắc – một người không có bản sắc xuất thân từ Venice tên là Angelo Roncalli đã được bầu làm giáo hoàng, để giữ cho ngai tòa Phêrô đủ ấm trong ít năm, để vị này hoặc vị khác trong số các ứng cử viên giáo hoàng xứng đáng có thể củng cố được số phiếu ủng hộ. Thay vào đó, Roncalli - Giáo hoàng Gioan XXIII, đã phát động một cuộc lên khuôn lại trí tưởng tượng Công Giáo về phương diện thần học. Vatican II đã thúc đẩy nhiều cải tổ phụng vụ và thần học, từ việc bỏ Thánh lễ Latinh đến việc khẳng định hậu Diệt Chủng về sự chính trực của Do Thái giáo. Một cách dứt khoát, công đồng định nghĩa Giáo hội như “Dân Thiên Chúa”, và định vị phẩm trật giáo sĩ trong cộng đồng này như các đầy tớ, chứ không phải đứng trên cộng đồng này như những người cai trị. Tuyên bố này, mặc dù kết quả ít có tác dụng thực tế đối với hàng giáo sĩ, được biểu tượng bằng cải cách phụng vụ đưa bàn thờ từ trên cao xuống, vào giữa cộng đoàn.

Lúc đó tôi là một thiếu niên, sống với gia đình tại một căn cứ quân sự ở Đức, nhưng tôi rất chú ý đến ấn tượng mà Đức Giáo Hoàng Gioan đang tạo ra ở Rôma. Ngài dừng xe khi đi qua hội đường chính của thành phố vào một ngày thứ bảy và xuề xòa chào thăm các tín hữu Do Thái giáo, lúc đó đang còn nán ở lại sau buổi phụng vụ. Ngài ra lệnh cho tĩnh từ bất tín (perfidious) bài Do Thái bị xóa khỏi phụng vụ Công Giáo. Là sứ thần tòa thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp trong Thế chiến II, ngài đã cung cấp giấy rửa tội giả cho hàng trăm hoặc có lẽ hàng ngàn người Do Thái, giúp họ trốn thoát; giờ đây, trong tư cách giáo hoàng, ngài đã gặp một nhà sử học người Do Thái nổi tiếng, người vốn buộc tội Giáo hội, một cách rất đúng, tội đồng lõa trong chủ nghĩa bài Do Thái của Đức Quốc xã, và tán thành công trình của nhà sử học. Khi triệu tập công đồng, Đức Giáo Hoàng Gioan đã chỉ thị cho các nhà tổ chức đặt mối liên hệ của Giáo hội với người Do Thái lên cao trong chương trình nghị sự - kết quả của trải nghiệm cận kề của ngài với sự thất bại của Giáo hội trong việc thẳng thắn bảo vệ người Do Thái trong thời kỳ Diệt Chủng. Khi tiếp một phái đoàn Do Thái tại Vatican, ngài bước xuống khỏi bục cao của mình để chào hỏi các thành viên của nó, nói rằng, “Tôi là Giuse, em trai của các anh đây” – có ý nói đến ông Giuse trong Kinh thánh chào đón gia đình đã thất lạc từ lâu của ông.

Hết lần này đến lần khác, công đồng nêu lên những câu hỏi căn bản về triết lý sống (ethos), sự trung thực và công lý, khởi động một cuộc kiểm tra lương tâm định chế sâu sắc. Tôi rất thuộc về thế hệ Vatican II. Đến lúc thuận lợi, tôi cũng đã trở thành một linh mục, một thành viên của một hội dòng cấp tiến Hoa Kỳ, được gọi là Dòng Các Cha Thánh Phaolô (Paulist Fathers). Các cha dòng này tự xác định lại mình xung quanh viễn kiến của Đức Giáo Hoàng Gioan, và làm tôi trở thành người cổ vũ viễn kiến đó.

Điều Vatican II đã không làm, hoặc không thể làm được, ngoại trừ một cách tượng trưng, là bàn đến vấn đề giáo sĩ trị - việc trao quyền lực vào tay một hàng giáo sĩ toàn nam và độc thân. Năm năm của tôi trong chức linh mục, dù trong phe tự do nhất của nó, đã cho tôi một hương vị không thơm tho gì đối với của hệ thống đẳng cấp này. Chủ nghĩa giáo sĩ trị, với vệc tôn sùng bí mật, ghét phụ nữ về phương diện thần học, ẩn ức về tình dục, và quyền lực có tính phẩm trật của nó dựa trên các đe doạ sẽ trầm luân ở đời sau, là căn nguyên cội rễ của việc Công Giáo Rôma rối loạn chức năng. Sự ám ảnh của hệ thống giáo sĩ về vị thế đã phá ngang cả công đức của các linh mục tốt lành và làm sai lệch thông điệp Tin Mừng về tình yêu vị tha, mà Giáo hội được thành lập vốn là để công bố nó. Giáo sĩ trị là cả nguyên nhân căn bản lẫn là kẻ liên tiếp làm cho thảm họa Công Giáo hiện nay thành khả hữu. Tôi rời chức linh mục đã 45 năm rồi, trước khi biết đầy đủ điều làm cho tôi ra chua chát, nhưng chủ nghĩa giáo sĩ trị quả là lý do.

Nguồn gốc chủ nghĩa giáo sĩ trị không nằm trong Tin mừng mà nằm trong thái độ và sơ đồ tổ chức của cuối thời đế quốc Rôma. Lúc ban đầu, Kitô Giáo rất khác. Việc đầu tiên nhắc đến phong trào Giêsu trong các nguồn không phải Kinh Thánh phát xuất từ nhà sử học Rôma gốc Do Thái, Flavius Josephus; ông này viết vào khoảng cùng thời gian với việc hình thành các sách Tin mừng. Josephus mô tả những người theo Chúa Giêsu chỉ đơn giản như “những người yêu mến Người lúc đầu và không để mất tình yêu của họ đối với Người”. Lúc ấy, không có chức linh mục gì cả, và phong trào này hoàn toàn bình đẳng. Các Kitô hữu thờ phượng và bẻ bánh trong các ngôi nhà của nhau. Nhưng dưới thời Hoàng đế Constantinô, vào thế kỷ thứ IV, Kitô giáo thực sự trở thành tôn giáo của đế quốc và tiếp nhận các mũ mãng cân đai của đế quốc. Một giáo phận khởi nguyên là một đơn vị hành chính Rôma. Một vương cung thánh đường, tức một hội trường hoành tráng nơi hoàng đế ngự cách uy nghi, trở thành nơi thờ phượng. Một nhóm các Giáo Hội đa dạng và phân quyền đã được biến đổi thành một định chế gần như đế chế - tập trung quyền hành và có phẩm trật, với giám mục Rôma trị vì như một vị vua. Các công đồng Giáo Hội định nghĩa một tập hợp tín điều là chính thống, và mọi thứ khác là dị giáo.

Đặc điểm trên được củng cố gần cùng một lúc nhờ nền thần học về tình dục của Thánh Augustinô, vốn dẫn khởi từ việc ngài đọc truyện Ađam và Eva trong sách Sáng thế. Thánh Augustinô đã mô tả hành động bất tuân đầu tiên ấy là một tội về tình dục, dẫn đến việc đổ cho người đàn bà tội quyến rũ chết người và vì thế, mọi con người phải chịu đựng qua các thế hệ. Điều này dẫn tới chỗ duyệt lại phần lớn các giả định và thực hành bình đẳng của phong trào Kitô giáo sơ khai. Nó cũng đặt tình dục, và bất cứ điều gì liên quan đến nó, dưới một đám mây, và cuối cùng dưới một chế độ kiểm soát chặt chẽ. Sự đè nén ham muốn đã đẩy sự thôi thúc dục tính bình thường vào một thế giới cấm kỵ có tính xã hội và tâm lý.

Sự độc thân của các linh mục, phát triển từ thực hành các đan sĩ và ẩn sĩ khổ hạnh, có thể, từ lúc đầu, được đưa ra như một cách thế sống thân mật với Thiên Chúa, rất thích hợp với một số ít người. Nhưng với thời gian, việc sùng bái sống độc thân và trinh khiết đã khai triển ra một khía cạnh phi nhân bản - một sự hạ giá và nghi ngờ bao quát hơn đối với cảm nghiệm cơ thể. Nó cũng có một lý lẽ thực dụng. Vào thời trung cổ, khi việc sở hữu những lãnh thổ và kho báu khổng lồ vào tay kiểm soát của Giáo hội, việc độc thân linh mục đã trở thành bắt buộc để ngăn chặn các yêu sách thừa kế của con cháu các giáo phẩm. Nhìn cách này, độc thân không phải là vấn đề linh đạo cho bằng là vấn đề quyền lực.

Đặc điểm phò nam giới và ghét nữ giới của Giáo Hội trở nên không thể tách rời khỏi cấu trúc của nó. Nền tảng khái niệm giáo sĩ trị có thể được trình bầy một cách đơn giản: Phụ nữ là người phụ thuộc vào đàn ông. Giáo dân là những người phụ thuộc các linh mục, những người được định nghĩa như đã được bí tích truyền chức thánh làm cho có giá trị cao hơn “về hữu thể học”. Được việc độc thân loại ra ngoài các ràng buộc và nghĩa vụ có tính cạnh tranh của gia đình, các linh mục được nhét vào một phẩm trật giáo sĩ mô phỏng theo trật tự phong kiến thời trung cổ. Khi tôi trở thành linh mục, tôi đặt hai bàn tay của tôi vào đôi bàn tay của giám mục phong chức cho tôi - một cử chỉ phong kiến bắt nguồn từ sự tôn kính của một chư hầu đối với lãnh chúa của mình. Trong trường hợp của tôi, vị giám mục là Terence Cooke, tổng giám mục của New York. Theo lễ qui của bí tích này, tôi đã hứa trung thành với ngài, chứ không phải với một bộ nguyên tắc hay lý tưởng, hay thậm chí với Giáo hội. Chúng ta có nên ngạc nhiên khi những người đàn ông được mời nghĩ về bản thân họ trên cán cân quyền lực như vậy - ngay cả như một alter Christus, “một Kitô khác” - có thể rối trí trong một vùng hoang địa tự lấy mình làm trung tâm không? Hoặc là họ có thể thấy khó thoát khỏi trật tự phong kiến vốn cung cấp cộng đoàn và việc đề bạt thăng cấp, chưa kể một địa vị cao qúy mà người không được thụ phong sẽ không bao giờ được hưởng? Hoặc luật của Giáo hội dự liệu việc tuyệt thông cho bất cứ người phụ nữ nào muốn cử hành Thánh lễ, nhưng lại không qui định một hình phạt nào như vậy đối với một linh mục ấu dâm? Giáo sĩ trị tự hoàn thành và tự duy trì lấy mình. Nó phát triển mạnh nhờ tính bí mật, và nó tự chăm sóc lấy nó.

Những người kế vị Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII nằm dưới sự kìm kẹp của chủ nghĩa giáo sĩ trị, đó là lý do tại sao các cải cách từ công đồng của ngài đã bị chết yểu. Chẳng hạn, Đức Gioan khởi xướng việc xem xét lại việc Giáo hội lên án biện pháp ngừa thai nhân tạo - một ủy ban do ngài thiết lập đã bỏ phiếu áp đảo để bãi bỏ lệnh cấm - nhưng khả năng thay đổi đó đã bị ngăn chặn bởi người kế nhiệm, là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, chủ yếu như một cách bảo vệ thẩm quyền giáo hoàng. Ngày nay, với trẻ em vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng, sự thối nát của ách linh mục thống trị đã được phô bầy vì sự xấu xa mà chính nó là. Giáo sĩ trị giải thích cả cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục có thể xảy ra như thế nào lẫn việc làm thế nào nó có thể đã được che đậy quá lâu. Nếu cơ cấu giáo sĩ trị không bị phá bỏ, Giáo Hội Công Giáo Rôma sẽ không sống còn, và sẽ không đáng để sống còn.

Tôi biết vấn đề này từ bên trong. Chức linh mục của tôi đã bị cuốn vào cơn bão của những năm 1960 và 70. Trớ trêu thay, Giáo hội, nơi vốn tài trợ cho công trình dân quyền của tôi và thúc đẩy tôi tham gia phong trào phản chiến, đã khiến tôi trở thành một người cấp tiến. Tôi là tuyên úy Công Giáo tại Đại học Boston, làm việc với những người chống đối và biểu tình chống việc đăng ký quân dịch, và chẳng mấy chốc sau đó, tôi thấy mình mâu thuẫn với phẩm trật Công Giáo bảo thủ. Chỉ dần dần, tôi mới vỡ lẽ nhận nhận ra rằng có một sai lầm bi thảm khá sâu bên trong định chế mà tôi đã hiến mình cho, và điều này có liên quan với chính chức linh mục. Vâng, chức linh mục của tôi. Tôi đã nghe các lời xưng tội của những người trẻ tuổi bị tan nát vì mặc cảm tội lỗi không phải vì tội lỗi đích thực mà vì chủ trương đè nén tình dục do Giáo hội áp đặt mà tôi có bổn phận phải củng cố. Chỉ bằng việc cử hành Thánh lễ, tôi đã giúp chấp pháp việc loại bỏ phụ nữ một cách bất công khỏi tư cách thành viên bình đẳng trong Giáo hội. Tôi coi trọng cuộc sống cộng đồng mà tôi đã chia sẻ với các linh mục đồng bạn, nhưng tôi cũng cảm nhận sự cô đơn què quặt có thể phát sinh từ một cuộc sống thiếu sự thân mật bản thân sâu sắc mà con người nhân bản khác vốn được hưởng. Mối liên hệ của tôi với Thiên Chúa bị cột chặt vào việc làm linh mục đến nỗi tôi sợ mất hết đức tin nếu tôi rời bỏ. Chính nỗi sợ hãi đó đã biểu lộ một sự hạ giá hàng giáo dân và minh họa vấn đề thiết yếu. Nay tôi thấy nếu tôi cứ ở lại làm một linh mục, đức tin của tôi, như nó là lúc đó, sẽ bị hủy hoại.

Kỳ tới: III. “Một khai mở nhỏ nhoi”
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thiếu Nhi Thánh Thể TGP Sydney Mừng Kính Bổn Mạng
Diệp Hải Dung
11:00 23/06/2019
Sáng Chúa Nhật 23/06/2019 các em Thiếu Nhi Thánh Thể thuộc các Xứ Đoàn Cabramatta. Georges Hall, Granville, Lakemba, Marrickville, Miller, Mt. Pritchard và Plumpton đã đến Trung Tâm Tĩnh Huấn Thánh Giuse Bringelly Sydney tham dự Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô, Bổn Mạng của Liên Đoàn Thiếu nhi Thánh Thể Nữ Vương Hòa Bình Sydney.

Xem hình

Đúng 9 giờ các em tập trung trước sân Trung Tâm với nghi thức chào cờ Liên Đoàn, Cha FX. Nguyễn Văn Tuyết Tuyên úy Đặc trách Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nữ Vương Hòa Bình TGP Sydney ngỏ lời chào mừng các em Thiếu Nhi và tuyên bố khai mạc trại vui mừng Bổn Mạng đồng thời Cha cùng các em Thiếu Nhi và quý phụ huynh dâng lên Chúa kinh Lạy Cha cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng và cũng nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho ngày Bổn Mạng. Sau đó Các em chia ra từng Ngành sinh hoạt với những trò chơi thể thao lành mạnh.

Sau buổi cơm trưa tại Trung tâm và sinh hoạt, các em tham dự Thánh lễ tạ ơn. Đặc biệt trong Thánh lễ có nghi thức thăng cấp 6 Dự Trưởng, 7 Huynh Trưởng cấp 1 và 3 Huynh Trưởng cấp 2. Tất cả đều lên trước bàn thờ tuyên thệ.

Trước khi kết thúc Thánh lễ, chị Hà Thị Trí Trí Ban Thường Vụ CĐCGVN TGP Sydney thay mặt Cộng Đồng chúc mừng Bổn Mạng Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nữ Vương Hoà Bình Sydney, sau đó Trưởng Phùng Hải Sơn Liên Đoàn Trưởng ngỏ lời cám ơn Cha FX. Nguyễn Văn Tuyết Tuyên úy Đặc trách Phong Trào, quý Sơ Trợ Úy, quý Phụ huynh, quý ân nhân và các Huynh Trưởng đã giúp cho Liên Đoàn tổ chức ngày mừng kính Quan Thầy hôm nay được mọi sự tốt đẹp. Nguyện xin Anh Cả Giêsu của Phong Trào chúc lành cho tất cả mọi người.

Cha Nguyễn Văn Tuyết cũng ngỏ lời cám ơn quý phụ huynh đã đem con em đến sinh hoạt và tham sự Lễ mừng kính Bổn Mạng của Liên Đoàn.

Thánh lễ kết thúc, Cha Tuyên úy Đặc Trách, quý Sơ Trợ úy, quý Huynh Trưởng phát qùa cho các em mừng kính ngày Bổn Mạng Phong Trào và hạ cờ kết thúc bế mạc.

Diệp Hải Dung
 
Lễ Bổn mạng Ca đoàn Belem & Thiếu Nhi Thánh Thể Xứ đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm Melbourne
Trần Văn Minh
23:04 23/06/2019

Vinh Sơn Liêm, Thánh lễ 8 giờ 45 sáng Chúa Nhật 23/6/2019 tại nguyện đường Trung tâm Thánh Vinh Sơn Liêm, lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, là bổn mạng của Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể và cũng là bổn mạng của Ca đoàn Belem thuộc Xứ đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm.
Tân huynh trưởng chào cộng đoàn sau khi tuyên thệ

Xem hình

Thánh lễ đồng tế do Linh mục Trần Ngọc Tân quản nhiệm cộng đoàn và là Giám đốc Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể thuộc Xứ đoàn Vinh Sơn Liêm chủ tế, cùng Linh mục Trần Minh Hiếu và Thầy Phó tế Đinh Văn Bổn đồng tế. Ca đoàn Belem phụ trách phụng vụ thánh ca giúp cho buổi lễ thêm long trọng và sốt sắng.

Trong ngày lễ bổn mạng. Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể đã xin Linh mục Giám đốc tấn phong cho hai dự trưởng là:
Maria Đặng Tuệ Khanh Angela và
Mary Đinh Hương Nam

Sau Thánh lễ, các em đã có buổi sinh hoạt đặc biệt và tiệc mừng bổn mạng.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Chiếc Xương Sườn Không Bị Bỏ Rơi : Cảm Nhận Và Suy Tư Về Ơn Gọi Và Vai Trò Của Người Phụ Nữ
Nữ tu Lucia Hồ Thị Kim Thoa
08:49 23/06/2019
Chiếc Xương Sườn Không Bị Bỏ Rơi: Cảm Nhận Và Suy Tư Về Ơn Gọi Và Vai Trò Của Người Phụ Nữ

Con người được tạo dựng bởi tình yêu và trong tình yêu của Thiên Chúa, nên con người cũng được Thiên Chúa ban tặng trái tim biết yêu thương. Tình yêu: một “nhiệm mầu” mà ngôn ngữ loài người khó có thể cắt nghĩa tường tận (Xuân Diệu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”), nhưng điểm đến của tình yêu đích thực mãi mãi sẽ là hạnh phúc và bình an.

Trong lịch sử cứu độ, Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn và cao cả nhất qua huyền nhiệm Nhập Thể và Cứu chuộc của Ngôi Hai Thiên Chúa; và đồng thời, cũng được biểu lộ nơi những con người sống đáp trả lời gọi mời yêu thương của Thiên Chúa và cọng tác với Ngài trong kế hoạch thực hiện tình thương cứu độ.

Vào thời Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng, các sách Phúc Âm đã cho chúng ta thấy rằng: bên cạnh sự mạnh mẽ, dứt khoát bước theo Thầy Giêsu của những người đàn ông, còn có những người phụ nữ “tay yếu chân mềm” cũng lên đường dấn thân phục vụ Chúa:

“Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.” (Lc 8,1-3)

Đặc biệt, chúng ta không quên vai trò và vị trí cao cả của Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ Đấng Cứu Thế, chỗ đứng của bà Isave mẹ của Thánh Gioan Tiền Hô trong “thời khắc quan trọng” của lịch sử cứu độ; chúng ta cũng sẽ không bao giờ quên hình ảnh “người phụ nữ Samari bên bờ giếng Gia-cóp” (Ga 4,7-30), hai chị em Macta và Maria trong “câu chuyện phen bì” (Lc 10,38-42) và biến cố “phục sinh người em trai Lazarô” (Ga 11,1-44) hay “xức dầu ở Bêtania” (Ga 12,1-8), người thiếu phụ vô danh bệnh hoạn tin tưởng sờ vào gấu áo Chúa (Lc 8,43-48)…. và còn nhiều người phụ nữ khác nữa.

Là “chiếc xương sườn của người đàn ông”, vai trò của phụ nữ có thể nói được, đó là làm tròn trách nhiệm chăm sóc, đồng hành với người mình yêu trên muôn dặm nẻo đường đời; và ho đã chu toàn sứ mệnh thiêng liêng đó nhờ tình yêu và sự hy sinh tuyệt vời mà không phải lúc nào chúng ta cũng nhận ra.

Để nói lên “vai trò và phẫm giá đặc biệt” của người phụ nữ, sách khôn ngoan cổ Do Thái đã nói: “Thiên Chúa đã không tạo dựng người đàn bà từ khúc xương đầu của của người đàn ông, bởi vì như thế bà ta sẽ cai trị chồng; Thiên Chúa cũng không tạo dựng người đàn bà bởi khúc xương ngón chân của người đàn ông, vì như thế bà sẽ trở nên nô lệ của chồng; nhưng Thiên Chúa đã tạo dựng nên bà từ khúc xương sườn, điều đó có nghĩa là hai người cùng có một phẩm giá ngang nhau.” ([1])

Tuy nhiên, có một điều chúng ta không thể phủ nhận: đã có một thời, cả ngoài xã hội dân sự cũng như trong môi trường Hội Thánh, thân phận người phụ nữ đã không được trân trọng đủ, như những thú nhận sau:

“Sự bình đẳng nam nữ chỉ còn giới hạn về khía cạnh thiêng liêng; còn trong đời sống Giáo hội, các bà hoàn toàn bị lép vế.

- Về ngôn ngữ, người ta cho các bà ra rìa: các lời khuyên của thánh tông đồ được gửi tới "anh em" thay vì "anh chị em"; các bà chỉ xuất hiện như là người giúp việc cho các thánh tông đồ, thí dụ như bà Phebe (Rm 16,2-3).

- Về sự lựa chọn các đoạn văn tường thuật cũng vậy. Lúc đầu các bà (thí dụ Maria Mađalêna) cũng như các ông (các tông đồ) đều mang trọng trách như nhau vì được Chúa Phục sinh hiện ra và sai đi loan Tin mừng. Nhưng dần dần, các bà bị gạt ra rìa; Phêrô và các tông đồ dành độc quyền vai trò làm chứng nhân.

- Sau cùng, phe trọng nam đã biện minh thái độ khinh nữ bằng cách bôi nhọ là các bà "lạc đạo", với trường hợp điển hình là bà ngôn sứ Giezabel trong sách Khải huyền 2,20. Vì thấy có một bà lạc đạo cho nên hết các bà bị nghi ngờ và gạt ra khỏi các cơ cấu quản trị của Hội thánh.

Thêm vào đó, khung cảnh xã hội của Hy lạp, Rôma muốn giữ các bà ở trong bếp; còn chuyện làng nước thì dành cho đàn ông. Vì thế không lạ gì, các bà không tham dự vào công việc của cộng đoàn Giáo hội, nhưng họ được khuyên hãy lo lắng chuyện gia đình là đủ.” ([2])

Chính Đức Thánh Giáo Hoàng G.P. II đã tóm tắt cái “mảng tối” của người nữ trải qua suốt chiều dài lịch sử bằng những lời nhận xét sau:

“Vô phúc thay chúng ta đã thừa hưởng một lịch sử có quá nhiều qui định mà, trong mọi thời gian và không gian, đã gây khó khăn cho đường đi của người nữ, phủ nhận phẩm giá người nữ, biến chất những đặc quyền người nữ, thường loại người nữ ra bên lề và còn bắt người nữ sống cảnh nô lệ.” ([3])

Trong khi đó, lịch sử thế giới đã chứng minh rằng: cho dù không phải là thường xuyên, nhưng cũng đã có nhiều nơi, nhiều lúc, chính những người phụ nữ cũng phải lao ra chiến trường, đối diện với những cuộc chiến đầy thương đau chết chóc; trong khi đó, những người phụ nữ ở hậu phương, rất nhiều người trong số họ đã anh dũng và can đảm chấp nhận nỗi thương đau to lớn khi mất chồng, mất con...

Nhưng dù sao, khi nhắc đến phụ nữ, người ta thường chú trọng đến vai trò đặc biệt gắn liền với ơn gọi đặc thù của họ đó chính là trách nhiệm vun vén, đắp xây và giữ gìn hạnh phúc gia đình. Hình ảnh người vợ làm cây nến xanh trong bài hát “Ba ngọn nến” của nhạc sĩ Ngọc Lễ giữ vai trò hết sức quan trọng. Bởi họ luôn luôn ý thức về trách nhiệm của mình đối với gia đình, như ông bà ta ngày xưa vẫn thường hay nói: “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”. Có thể nói con người là hoa của đất, còn người phụ nữ là hương hoa của cuộc đời. Xưa kia khi tạo dựng nên con người, Đấng Tạo Hóa đã rút một chiếc xương sườn của người nam để tạo nên người nữ, cũng đồng nghĩa với việc họ sẽ gắn bó với nhau cả đời, hỗ trợ nhau trong việc sinh sản và giáo dục con cái mà Đấng Tạo Hóa ban cho, đồng thời cùng nhau xây dựng cho mái ấm của mình được hạnh phúc, vì “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly” (Mt 19, 6b).

Nói đến trách nhiệm của người vợ, ngoài vai trò làm vợ và làm mẹ trong gia đình, người vợ còn có những vai trò khác như: sắp xếp tổ chức cuộc sống gia đình, chăm lo đời sống tinh thần của gia đình, gìn giữ, tái tạo và sáng tạo các giá trị văn hóa của gia đình. Không phải nói như vậy để rồi tôn vinh người phụ nữ, hạ giá đàn ông, nhưng để nói lên rằng phía sau sự thành công của người đàn ông luôn có bóng dáng của người phụ nữ, họ có đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp của chồng. Như vậy, trách nhiệm của người vợ trong gia đình cũng thật cao cả, họ phải lo cho chồng con từng miếng ăn, giấc ngủ, sự thoải mái khi về với mái ấm của mình. Bên cạnh đó người vợ cũng phải ra ngoài làm mướn kiếm tiền, về nhà thì lo công việc nhà. Người phụ nữ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc và sự ổn định của gia đình. Một gia đình hạnh phúc, luôn tràn đầy sự ấm áp, yêu thương là gia đình trong đó có người vợ luôn hiểu rõ chồng mình, đồng cảm với chồng trong tư tưởng và trong cuộc sống, sẵn sàng chia sẻ với chồng trong mọi công việc cũng như trong cuộc sống hàng ngày, luôn luôn tin tưởng ở chồng và tin vào bản thân.

Cách riêng đối với giáo huấn của Hội Thánh, kể từ Công Đồng Vatican II, vai trò và sự đóng góp của phụ nữ chẳng những được Giáo Hội trân trọng đề cao cách minh nhiên qua các văn kiện Huấn Quyền mà còn được triển khai áp dụng đầy tích cực và hiệu quả trong mọi chiều kích mục vụ. Chúng ta có thể tóm lược đôi nét như sau:

“Công đồng cũng quan tâm đến vai trò tích cực của người phụ nữ trong việc dạy dỗ con cái, tuy nhiên “vẫn không được coi thường sự thăng tiến hợp lý của người phụ nữ trên bình diện xã hội” (GS 52). Vì thế, Công đồng khuyến khích người phụ nữ tham gia vào đời sống văn hóa: “bổn phận của tất cả mọi người là thừa nhận và cổ võ sự tham gia đặc biệt và cần thiết của nữ giới trong sinh hoạt văn hóa” (GS 60). Trong phạm vi thuộc về đời sống Giáo hội, Công đồng cũng khuyến khích nên để phụ nữ tham gia nhiều hơn vào trong những lãnh vực tông đồ của Giáo hội (AA 9). Công đồng cũng chỉ ra rằng, người phụ nữ không chỉ đóng vai trò thiết yếu trong phạm vi gia đình, nhưng trong các hoạt động xã hội họ cũng đóng một vai trò quan trọng, và ủng hộ việc công nhận cũng như hiện thực yêu cầu chính đáng của phụ nữ về quyền thụ hưởng văn hóa (GS 60).

Trong thông điệp gởi cho phụ nữ vào ngày 8.12.1965, các nghị phụ Công đồng đã bày tỏ rõ ràng về chính kiến của mình đối với phụ nữ: “Đã đến giờ, và trong giờ đó, ơn gọi của phụ nữ được thực hiện cách trọn vẹn, giờ mà người phụ nữ tạo được ảnh hưởng, sự phát triển và sức mạnh trong xã hội, điều mà cho đến bây giờ họ chưa có được. Vì thế nhờ bởi tinh thần Phúc âm người phụ nữ có thể cộng tác cộng tác vào nhiều lãnh vực với ý thức về một sự thay đổi sâu rộng, hầu giúp nhân lọai đạt tới cùng đích của mình”.[4]

Quả thật tuyệt vời khi Thiên Chúa ban cho người chồng có một trợ tá tương xứng như vậy. Dù biết là công việc của mình nhiều, nhưng người vợ vẫn lo lắng cẩn thận và chu đáo cho chồng cho con mà quên cả bản thân mình, họ còn chia sẻ trong niềm hạnh phúc rằng: “Mình chịu khổ một chút mà chồng con vui là được rồi”. Ngày nay, ở một số gia đình vẫn còn truyền thống, vợ chờ chồng về ăn cơm khi chồng ra ngoài, hoặc vợ đợi để nghe ý kiến của chồng trước, trong khi một số phụ nữ khác thì đòi hỏi nam nữ bình quyền.

Nếu ngày xưa, trong môi trường văn hoá phong kiến, xã hội thường trọng nam khinh nữ, người phụ nữ, cho dầu không có địa vị trong xã hội, có khi bị đẩy ra ngoài lề…, vậy mà họ vẫn chung thủy, tôn trọng chồng, lo lắng cho gia đình hết mực. Trong khi đó, địa vị người phụ nữ hôm nay trong gia đình cũng như ngoài xã hội đã được thăng tiến, thì việc vun vén hạnh phúc cho mái ấm của mình phải là chuyện dễ dàng và đương nhiên. Không ai có thể thay thế vị trí của người vợ trong gia đình, bởi họ không chỉ là vợ, là mẹ, là bạn mà còn là quản lý cho cả nhà, đặc biệt là hạnh phúc gia đình hoàn toàn nằm trong tay của họ.

Bằng tình yêu và sự nhạy cảm của người phụ nữ, với cách cư xử vừa nhẹ nhàng, mềm mỏng, vừa cương quyết, cứng rắn, nhiều người vợ đã giúp chồng chiến thắng bệnh tật, chiến thắng chính bản thân mình trước những cám dỗ của các tệ nạn xã hội, từ bỏ lối sống phong lưu để an cư, lạc nghiệp và thành đạt trong cuộc sống. Chính sự bao dung, độ lượng và tình yêu chân thành của người vợ đã giúp cho người chồng nhận thức được đâu là điều thực sự quan trọng trong cuộc đời của họ. Có thể nói, người vợ vừa là bạn đồng hành của người chồng trên con đường đời, vừa là hậu phương vững chắc giúp người chồng thành đạt.Thực sự, người vợ có một trách nhiệm rất cao cả đối với tổ ấm của mình, bởi họ phải luôn dung hòa bầu khí gia đình cho dù chính bản thân có gặp khó khăn trong công việc hay sự áp lực riêng thì họ phải cất đi tất cả, để làm chi chồng vui và dỗ dành con biết nghe lời. Với gia đình họ luôn chứng tỏ mình là người hạnh phúc, vì khi chính mình hạnh phúc thì mới đem lại hạnh phúc cho người khác được.

Chúng ta có thể dễ dàng đọc thấy những ý nghĩa phong phú và giá trị độc đáo của người phụ nữ cùng với vai trò “bất khả thay thế” của họ, khi liên tưởng tới hình ảnh của Đức Maria của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong tông thư “Mulieris Dignitatem” (Phẩm giá phụ nữ, ngày 15/8/1988) ngài gởi cho phụ nữ thế giới:

“Quí bà và chị em đang đứng thẳng dưới chân Thánh Giá như Đức Maria, biết bao lần trong lịch sử, quí bà và chị em đã mang lại cho người đàn ông sức mạnh để chiến đấu tới cùng, đã giúp họ làm chứng nhân ngay cả tử vì đạo. Một lần nữa xin hãy giúp họ can đảm làm những công việc lớn, đồng thời biết kiên nhẫn và biết bắt đầu bằng những công việc nhỏ” ([5])

Chính Vị Thánh Giáo Hoàng nầy, nhân cuộc Đại hội hội phụ nữ tại Bắc Kinh năm 1995, trong dịp cử hành ngày quốc tế phụ nữ, lại viết một bức thư gởi cho Đại hội nầy để đề cao các đóng góp tích cực của phụ nữ đối với xã hội:

“Về vấn đề ấy, tôi muốn tỏ lòng cảm ơn cách riêng đối với những người nữ dấn thân trong các lãnh vực rất khác biệt của việc giáo dục bên ngoài gia đình: vườn trẻ, trường học, đại học, những phục vụ xã hội, những giáo xứ, những hội họp và những phong trào. Bất cứ nơi nào cần có một công trình đào tạo, người ta có thể chứng nhận sự sẵn sàng vô tận của những người nữ nỗ lực trong những quan hệ nhân bản, cách riêng vì những kẻ yếu kém nhất và những kẻ không được bảo vệ. Trong hành động này, những người nữ hoàn thành một hình thức mẫu tính yêu đương, văn hoá và thiêng liêng, có một giá trị thật vô giá do những hiệu quả trên sự phát triễn con người và tương lai xã hội. và làm sao không nhắc tới ở đây chứng từ của nhiều người nữ Công Giáo và của nhiều Hội Dòng nữ tu mà, trong nhiều vùng khác biệt, đã lấy việc giáo dục, nhất là giáo dục những thanh niên và thiếu nữ trẻ, làm sinh hoạt chính của mình. ([6])

Như thế đó ! Cho dẫu chỉ là “một chiếc xương sườn”, người vợ, người mẹ, người phụ nữ nói chung…mãi mãi sẽ không bị bỏ rơi !

Cảm tạ Chúa đã dựng nên người phụ nữ để làm cho cuộc sống này thêm phong phú và hài hòa. Phần con, xin vô cùng đội ơn Chúa đã ban cho con có “Mẹ”, để con được yên tâm thực hiện sứ mạng của mình cách bình an và hạnh phúc hơn. Xin Chúa ban ơn giúp con chu toàn vai trò của người con trong tình thảo hiếu để đền đáp cho xứng ơn Chúa và tình mẹ đã dành cho con.

Nữ tu Lucia Hồ Thị Kim Thoa (Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Tình thương)

[1] Lm Hà văn Minh (Gp. Phú Cường): VAI TRÒ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI VÀ GIA ĐÌNH, trang www.ubmvgiadinh.org.

[2] NỮ THẦN HỌC/Feminist Theology (Thời sự Thần học – Số 17 – Tháng 9/1999, tr. 40-49)

[3] THƯ CỦA Đức Thánh Cha GIOAN PHAOLO II GỞI PHỤ NỮ TOÀN THẾ GIỚI Ngày 29/06/1995 nhân dịp Năm Quốc Tế Người Nữ, số 3

[4] Lm. Giuse Trương Đình Hiền, chủ đề Thường huấn linh mục giáo phận Qui Nhơn 2013: HỘI CÁC BÀ MẸ Công Giáo TRONG CHƯƠNG TRÌNH MỤC VỤ NỮ GIỚI.

[5] ĐGH G.P. II, Tông thư “Mulieris Dgnitatem” số 21

[6] THƯ CỦA Đức Thánh Cha GIOAN PHAOLO II GỞI PHỤ NỮ TOÀN THẾ GIỚI Ngày 29/06/1995 nhân dịp Năm Quốc Tế Người Nữ
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hoa Nắng Đầu Ngày
Thérésa Nguyễn
22:00 23/06/2019
HOA NẮNG ĐẦU NGÀY
Ảnh của Thérésa Nguyễn

Cảm ơn nắng mới bên thềm
Cho hoa sắc thắm êm đềm đẹp tươi.
(tn)
 
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu 24/06/2019: Khí phách lừng lẫy của một Giám Mục Trung Quốc. Tỉ phú bỏ mọi sự đi tu.
Giáo Hội Năm Châu
16:03 23/06/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Khí phách lừng lẫy của một Giám Mục Trung Quốc: thà chịu bách hại, không chịu gia nhập Hội Công Giáo Yêu Nước

Trong cái gọi là “dự án thí điểm” (试点项目), sau thỏa thuận giữa Tòa Thánh và Trung Quốc về việc bổ nhiệm Giám Mục, Hội Công Giáo Yêu Nước đã gia tăng các áp lực mạnh mẽ để buộc Đức Cha Vinh Sơn Quách Hy Cẩm (Guo Xijin - 郭希錦) phải gia nhập Hội này.

Tuy nhiên, trong tuyên bố “bằng văn bản” được tường thuật trên Asia News hôm thứ Ba 18 tháng Sáu, Đức Cha khẳng định thà chịu bách hại, nhất quyết không chịu gia nhập Hội Công Giáo Yêu Nước.

Trước Tuần Thánh vừa qua, Ủy ban Tôn Giáo Vụ của tỉnh Phúc Kiến (Fujian - 福建), đã liên tục triệu tập ngài “làm việc” nhiều ngày và đặt điều kiện là phải gia nhập Hội Công Giáo Yêu Nước nếu không ngài không được tham dự lễ Truyền Dầu trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh với các linh mục thuộc giáo phận Phúc Ninh (Funin - 福寧) của ngài vì văn phòng tôn giáo và Mặt trận Thống nhất không công nhận ngài là một giám mục.

Cho đến cách đây vài tháng, Đức Cha Vinh Sơn Quách Hy Cẩm vẫn còn là Giám Mục chính tòa giáo phận Phúc Ninh, được Tòa Thánh công nhận, nhưng không được bọn cầm quyền Trung Quốc nhìn nhận.

Giáo phận Phúc Ninh được thành lập vào ngày 11 tháng Tư năm 1946 từ miền Giám Quản Tông Tòa Phúc Ninh Phủ (Funingfu - 福寧府) được thành lập trước đó vào năm 1923. Sau khi chiếm được Hoa Lục, năm 1957, bọn cầm quyền Trung Quốc lập ra Hội Công Giáo Yêu Nước (中国天主教爱国会), bọn này đẻ ra nhiều giáo phận ma không được Tòa Thánh công nhận. Trong địa hạt tỉnh Phúc Kiến, họ lập ra cái gọi là giáo phận Mân Đông (Mindong - 闽东话) song song với giáo phận Phúc Ninh.

Theo thỏa thuận tạm thời giữa Tòa Thánh và Bắc Kinh, giám mục trái phép Vinh Sơn Chiêm Tư Lộc (Zhan Si-lu - 詹思祿) của giáo phận Mân Đông trở thành Giám Mục chính tòa Phúc Ninh vào ngày 12 tháng 12, năm ngoái 2018, và Đức Cha Vinh Sơn Quách Hy Cẩm bị buộc nhường chức cho Chiêm Tư Lộc xuống làm Giám Mục Phụ Tá.

Chiêm Tư Lộc bị Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ra vạ tuyệt thông ngày 6 tháng Giêng năm 2000 vì chịu để cho Hội Công Giáo Yêu Nước tấn phong Giám Mục trái phép. Vạ tuyệt thông của Chiêm Tư Lộc được giải vào ngày 22 tháng 9, 2018, tức là 8 ngày sau khi hai bên ký kết thỏa thuận.

Tuy nhiên, “được đằng chân lân đằng đầu”, giờ đây bọn cầm quyền Trung Quốc chính thức yêu cầu Đức Cha Vinh Sơn Quách Hy Cẩm phải gia nhập Hội Công Giáo Yêu Nước nếu không chúng không công nhận ngài là một giám mục và chức vụ Giám Mục Phụ Tá của ngài là “bất hợp pháp”.

Sau những giằng co, vào ngày thứ Hai Tuần Thánh, Đức Cha Vinh Sơn Quách Hy Cẩm đã ký vào một văn kiện hứa tuân phục Giám Mục bản quyền vừa được Tòa Thánh công nhận là Chiêm Tư Lộc, và tuân thủ luật pháp quốc gia. Sau khi ký vào văn kiện này, Đức Cha Vinh Sơn Quách Hy Cẩm đã được tham dự lễ Truyền Dầu trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh với các linh mục của ngài trong tư cách một linh mục.

Gần đây, một mặt bọn cầm quyền Trung Quốc gia tăng áp lực buộc ngài phải gia nhập Hội Công Giáo Yêu Nước; một mặt chúng phao tin đồn nhảm nói rằng ngài đã gia nhập Hội Công Giáo Yêu Nước rồi và cũng đã chấp nhận kế hoạch ba tự cường.

Chính vì thế, ngài đã nhờ thông tấn xã Công Giáo Asia News đăng một tuyên bố vào hôm thứ Ba 18 tháng Sáu rằng ngài thà bị bách hại với các linh mục thần lặng chứ nhất quyết không tham gia vào Hội Công Giáo Yêu Nước và cũng không chấp nhận ba tự cường.

Giáo Phận Phúc Ninh có hơn 90,000 người Công Giáo. Trong số này, ít nhất 80,000 tín hữu thuộc về Giáo hội thầm lặng, được phục vụ bởi 57 linh mục, 200 nữ tu, 300 giáo dân trong các tu hội đời và hàng trăm giáo lý viên giáo dân. Trong khi đó, chỉ có 12 linh mục thuộc cộng đồng chính thức được bọn cầm quyền Trung Quốc nhìn nhận.

2. Kế hoạch “Ba Tự Cường” của cộng sản Trung Quốc

Hiệp hội Công Giáo yêu nước Trung Quốc và cái gọi là Hội đồng Giám mục Trung Quốc đã phát động “Kế hoạch ngũ niên Trung Quốc hoá Giáo Hội Công Giáo tại Trung Hoa”. Kế hoạch đã được chấp thuận thông qua một cuộc biểu quyết giơ tay trong cuộc họp phối hợp lần thứ tư của hai tổ chức này, được tổ chức vào cuối tháng Năm năm ngoái 2018.

Trong bài phát biểu của mình, Hiếu Ba (于波, Yu Bo), vụ phó tôn giáo vụ nhà nước Trung Quốc, giải thích rằng “Cuộc họp chung lần thứ 4 này là nhằm thực hiện sâu xa hơn tinh thần của Đại hội Đảng Cộng sản Toàn quốc lần thứ 19 diễn ra hồi tháng 10/2017 và tinh thần của Hội nghị toàn quốc về công tác tôn giáo vào tháng 4 năm 2016, trong đó tập trung vào việc hình thành một kế hoạch ngũ niên nhằm Trung Quốc hoá Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa”.

Trung Quốc hoá các tôn giáo và đặc biệt là Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa là một chủ đề liên tục kể từ năm 2015, khi Đại đế Tập Cận Bình chủ trì một cuộc họp của Mặt trận Tổ quốc (tức là cơ quan giám sát tất cả các thực thể không trực tiếp mang danh cộng sản của Trung Quốc).

Các mục tiêu cụ thể trong kế hoạch Trung Quốc hoá các tôn giáo bao gồm ba điểm sau, gọi là ba tự cường:

a) Thứ nhất là tăng cường đồng hóa văn hóa Trung Quốc vào các biểu hiện tôn giáo, loại bỏ các “ảnh hưởng từ nước ngoài”.

b) Thứ hai là “sự độc lập khỏi ảnh hưởng của nước ngoài”. Đối với Công Giáo điều này có nghĩa là tiến đến việc tấn phong Giám Mục mà không cần sự chuẩn y của Tòa Thánh.

c) Thứ ba là trung thành và tuân theo các chỉ dẫn của Đảng bởi vì Đảng có chức trách “hướng dẫn” các tôn giáo và phải “giữ vững vai trò lãnh đạo trong tất cả các hoạt động tôn giáo”.

Trong một cuộc phỏng vấn với tờ South China Morning Post vào ngày 18 tháng Năm, năm ngoái 2018, Đức Tổng Giám Mục Gioan Hùng Sơn Xuyên (洪山川; Hung Shan-chuan), Tổng Giám mục Đài Bắc, nói rằng trong một cuộc gặp gỡ với ngài, Đức Thánh Cha Phanxicô cả quyết với ngài rằng Tòa Thánh sẽ không thỏa hiệp đối với các nguyên tắc Công Giáo trong các cuộc đàm phán và rằng quyền bổ nhiệm các giám mục chắc chắn vẫn phải còn trong tay của Đức Giáo Hoàng.

Kế hoạch “Trung Quốc hóa” cũng liên quan đến các hệ phái Tin Lành và đã được thông qua vào tháng Tư năm ngoái. Nhiều tin đồn lan truyền rằng Đảng Cộng sản đang muốn “viết lại Kinh Thánh”.

Theo các học giả Tin Lành, ý tưởng này là tào lao, nhưng các Kitô hữu nên chú ý đến những nỗ lực của Trung Quốc nhằm diễn dịch lại Kinh Thánh, như đã từng xảy ra trong quá khứ khi cán bộ cộng sản, và cả các chức sắc tôn giáo bị cộng sản mua chuộc cố gắng diễn dịch lại thông điệp Tin Mừng qua lăng kính của các tư tưởng cộng sản.

3. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Hy vọng vào Chúa sẽ không làm ta thất vọng”

Sáng 16 tháng Sáu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm Tổng Giáo Phận Camerino ở Ý, nơi đã xảy ra động đất vào những năm 2016 và 2017. Trong thánh lễ ngoài trời tại một quảng trường bên ngoài nhà thờ, đang trong thời gian tái thiết vì những hư hại do động đất, Đức Giáo Hoàng đã nói rằng hy vọng, không chỉ coi là tâm lý lạc quan, nhưng nó cho chúng ta một niềm tin ăn rễ sâu trong tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, dù bất cứ việc gì xảy ra.

Chính vì hy vọng mà ta có sự bình yên và niềm vui nội tâm, bất kể việc gì xảy ra bên ngoài. Vì hy vọng có rễ sâu chắc mà không bão tố phong bao cuộc đời nào có thể làm bật rễ. Chính vì hy vọng mà Thánh Phaolo nói rằng “đừng thất vọng”. Hy vọng mang lại sức mạnh để vượt thắng mọi khó khăn.

Trong bài giảng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với những người bị đau khổ, thương tích hay mất mát vì động đất rằng

“Chúa Thánh Thần nuôi dưỡng chúng ta bằng niềm hy vọng sống động. Chúng ta hãy mời Ngài đến và Ngài sẽ đến gần.’

Đức Thánh Cha cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi, xin Ngài hãy đến! Xin ban cho chúng con chút ánh sáng, cho chúng con cảm nhận về thảm kịch này, cho chúng con hy vọng không thất vọng. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến.”

Trước khi về lại Roma vào buổi chiều, Đức Giáo Hoàng đã gặp khoảng 200 trẻ em vừa mới được rước lễ lần đầu cùng với phụ huynh và các thày cô dạy giáo lý của các em.

4. Bỏ lại sau lưng công danh, tài sản để vào tu viện cổ trên núi.

Đã bốn năm qua, không có ai vào tu với các thày dòng Biển Đức trên núi Montserrat, ở Tây Ban Nha, thế mà mới đây lại có một ứng sinh bất thường: David Valls 57 tuổi, đã từng là giám đốc điều hành cao cấp rất thành công nhiều năm làm việc cho một công ty dầu khí quốc tế.

Ông Valls trả lời một cuộc phỏng vấn của tờ El Mundo rằng “Tôi giàu có và sống đời sống xa hoa nhung lụa, nhưng tôi không cảm thấy hạnh phúc.” Ông đã quyết định bỏ lại tất cả công danh và sự sang giàu sau lưng để đi vào đời sống tu trì, hiến mình cho một đời sống cầu nguyện, độc thân, vâng lời và khó nghèo theo Luật Dòng Thánh Biển Đức. Ông nói rằng “Bây giờ tôi rất hạnh phúc” sau khi đã nhận ra rằng “tiền bạc và quyền lực làm cho tôi càng thất vọng hơn, cho đến khi tôi bị rơi một cuộc khủng hoảng. Nhưng đó không phải là một cuộc khủng hoảng giữa các giai đoạn của cuộc đời; mà là một cuộc khủng hoảng về các giá trị của cuộc sống.”

Trong thời gian khủng hoảng nghiêm trọng như thế “những người thân đề nghị với tôi rằng đây là lúc cần nghỉ ngơi, và thế là tôi quyết định đến nhà nghỉ của một tu viện và tham dự một buổi tĩnh tâm.” Montserrat là một dãy núi ở phía đông bắc của Tân Ban Nha, gần thành phố biển Barcelona. Trên đó có tu viện Biển Đức và Đền Thánh Mẫu Maria và là điểm hành hương đã có lịch sử cả hàng ngàn năm. Chính tại trung tâm linh thánh lâu đời này mà Thiên Chúa đã chỉ cho Valls con đường phải theo. Ông giải thích rằng “Đây không phải là một sự tình cờ xảy ra trong chỉ một ngày, nhưng quả là một quá trình.”

Trong một thế giới mà tiền bạc, danh vọng, du lịch, tình dục và sự giàu sang được tôn vinh hơn bao giờ hết, thì việc quyết định rời bỏ tất cả để sống một đời ẩn dật trong một tu viện quả là ngược đời. Những hạt giống mang tính chọn về nguồn này đã được gieo trồng trong thời thơ ấu của David Valls.

David được sinh ra trong một gia đình Công Giáo ở thành phố Barcelona, dưới bóng che của dãy núi Montserrat, và được nuôi dạy trong đức tin, nhưng đã bị cuốn trôi khỏi niềm tin tôn giáo. Ông tâm sự rằng “Tôi đã sống bừa bãi với một vài phụ nữ và tệ hơn là tôi đã cưới một bà trong số họ không theo luật của Giáo Hội trong thời gian năm năm, và tôi là kẻ rất kiêu ngạo, tôi là trung tâm, là tất cả. Dấu hiệu cực đoan nhất của chứng ích kỷ, tự cao này là tôi cho rằng tôi sẽ nói với những tình của tôi rằng tôi không muốn có con là dấu hiệu của sự thành thật.” Ông nói thêm “Tôi là một giám đốc nhiều tham vong, và tôi thích tiền. Tôi đã sống một đời sống xa hoa.”

Hôm nay David không còn kiêu hãnh về cuộc sống mà ông đã sống. Một lối sống chỉ chú tâm thỏa mãnh những đòi hỏi ích kỷ của mình mà không bao giờ thỏa mãn được, nó độc hại cho những ai sống như thế và cho cả những ai dính bén vào nó. “Khi bạn nhìn thấy những người chung quanh không được hạnh phúc và bạn đã làm họ đau đớn, thì không có chọn lựa nào khác là dừng lại, đừng sống xa hoa nữa.”

Quá trình cải hóa tâm linh và khám phá ơn gọi của mình đã thúc đẩy Valls từ bỏ công việc của ông ở Madrid và đến tu viện trên núi Montserrat để vào học và rồi trở thành tập sinh. Phải mất mười năm để thanh luyện, cầu nguyện và phân biện ơn gọi cho những ngày sắp tới và Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống vừa qua, ông đã tuyên khấn và nhận một tên mới trong đời sống tận hiến là Phaolo. Ông đã cam kết sống đời sống của một tu sĩ cho đến hết đời và “đó là điều tôi muốn, nó làm cho tôi rất hạnh phúc.”

5. Người mù đầu tiên ở Bồ Ðào Nha trở thành linh mục.

Khiếm thị thể lý không ảnh hưởng đến thị giác của tâm hồn: Thầy Tiago “đã thấy rằng” Chúa Giêsu gọi thầy. Ngày 14 tháng 07 năm 2019, thầy sẽ được lãnh nhận thiên chức linh mục.

Thầy Tiago Varandas sinh năm 1984 tại Lamego, Bồ Ðào Nha, bị tăng nhãn áp bẩm sinh. Thầy dần dần bị mất thị lực và đến năm 16 tuổi, phải cần có chó dẫn đường.

Tuy thế, khiếm thị thể lý không ảnh hưởng đến thị giác của tâm hồn và thầy Tiago đã thấy cách rõ ràng rằng Chúa đã gọi thầy. Thầy giải thích rằng mù thể lý đã làm cho các giác quan khác tinh nhậy hơn, như biết cách lắng nghe cách bình thản hơn.

Thầy Tiago chia sẻ: “Tôi tin rằng khả năng lắng nghe là một trong những công cụ tốt nhất tôi mang đến cho đời sống linh mục của mình; đó là một trong những điều đẹp nhất tôi mang theo bên mình. Một linh mục phải là một người lắng nghe! Khát khao mà mọi người dành cho Chúa được phản ánh trong nhu cầu tâm sự, giải bày, có người lắng nghe họ. Mọi người đang khao khát Chúa, và nếu chúng ta không lắng nghe họ, họ sẽ tìm kiếm nơi khác”.

Thầy Tiago không phải là linh mục mù đầu tiên ở Bồ Ðào Nha nhưng là người mù đầu tiên trở thành linh mục ở nước này. Thầy giải thích: “Có những linh mục bị mù vì cao niên hay vì căn bệnh nào đó, nhưng khi chịu chức linh mục, các ngài vẫn là người sáng mắt. Trường hợp của tôi thì khác. Tôi bị mù vào năm 16 tuổi và tôi đã mù khi theo đuổi con đường học vấn và tu trì”.

Ngày 14 tháng 07 năm 2019, Ðức cha José Ortiga, Giám mục của Braga sẽ truyền chức linh mục cho thầy Tiago.