Ngày 10-05-2008
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Một Ngôn Ngữ
Lm Vũđình Tường
02:26 10/05/2008
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đánh dấu ngày chung kết của mùa Phục Sinh.

Mừng Chúa Kitô về trời ngự bên hữu Chúa Cha đồng thời cũng là ngày mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ và trên chúng ta. Chúa Kitô về trời Ngài làm một việc cả thể để luôn hiện diện, kề bên các Kitô hữu bằng cách hiện diện qua Chúa Thánh Thần. Món quà Thánh Thần Chúa ở cùng nhân loại mọi ngày cho đến tận thế.

KITÔ HỮU

Kitô hữu là một dân tộc mới, dân tộc được thánh hiến qua bí tích Thanh Tẩy để trở thành dân riêng Chúa.

Một dân mà Đức Kitô đổ máu mình ra và chết trên thập tự diễn tả tình yêu vô bờ, ban ơn cứu độ và cuộc sống trường sinh. Từ nay không còn hiến tế máu chiên dê nữa.

Một dân hưởng trọn vẹn tự do, vượt khỏi lề luật, phong tục tập quán địa phương để sống bằng một luật chung cho hoàn vũ đó là luật yêu thương (Gn13,34). Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như yêu mình.

Ngôn ngữ yêu thương thay thế ngôn ngữ cũ do ngạo mạn, tự mãn thời Cựu Ước. Kết quả là dân này không hiểu dân kia, chiến tranh xảy ra vì bất đồng. Hiểu lầm và thù hận với những ngày dài tăm tối. Ai tin và chấp nhận thờ phượng Con Thiên Chúa sẽ sống điều răn mới, ngôn ngữ của tình yêu. Chối bỏ Con Thiên Chúa là tự chọn trung thành thời tháp Babel, mỗi bộ lạc nói một thứ tiếng riêng, không hiểu nhau (Sáng Thế 11,1-9).

Một dân mà sau khi sống lại từ cõi chết Đức Kitô ước mong sống gần kề, bên cạnh và hứa cùng đồng hành với dân Chúa chọn qua lời hứa Thầy không để chúng con mồ côi (Gn 14,18).

Một dân mà Chúa yêu thương ấp ủ như chủ chiên chăm sóc từng con. Đêm thức canh chiên ngủ an giấc. Ngày ngồi sườn đồi ngắm chiên gặm cỏ, vui vẻ chăm sóc từng con. Khi chiên con bị thương chủ vỗ về, băng bó.

Khi chiên lạc đàng chủ đôn đáo tìm kiếm khắp nơi, khi tìm được âu yếm vác trên vai đưa về đàn. Sói rừng bén bảng chủ sẵn sàng chiến đấu để chiên khỏi bị thương. Chiên nghe biết tiếng chủ và đáp lại. Chủ sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để bảo vệ an toàn mạng sống của chiên. (Gn 10).

THÁNH HIẾN

Trước khi ra đi chủ thổ lộ tâm tình, chan chứa lòng yêu mến. Tín thác đàn chiên trong tay Chúa Cha coi sóc, bảo vệ. Đặt trọn vẹn niềm tin trong tay Cha và coi đó là gia tài của chính Chúa Cha. Xin Chúa Cha bảo vệ chiên khỏi ác thần, khỏi tai ương do thế gian mang đến.

Con cầu nguyện cho họ.

Con không cầu nguyện cho thế gian,

nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con

bởi vì họ thuộc về Cha
(Gn17,9)

Bây giờ Con nói những điều này cùng Cha… để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của Con. Con đã truyền lại cho họ lời của Cha và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuôc về thế gian, cũng như Con đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần…. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. (Gn 17,14-17)

Với đàn chiên Ngài hứa không để chiên mồ côi, nhưng sai Thánh Thần xuống chăm sóc, hướng dẫn và bảo vệ chiên để chiên tránh khỏi ác thần vì chiên được thánh hiến qua bí tích Thanh Tẩy, trở thành dân riêng, kẻ thừa tự của Thiên Chúa. Dân riêng sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, chính vì thế mà thế gian ghét, chủ trương hãm hại. Dân riêng sống trong thế gian để làm chứng cho sự thật. Sự thật là nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa duy nhất.

Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật. Đấng mà thế gian không thể đón nhận (Gn 14,16-17).

Như thế chối bỏ Thánh Thần là tự chọn sống theo sự thật thói thế gian. Sự thật đến từ thế gian khác sự thật đến từ Thánh Thần vì thế gian mỗi địa phương hiểu theo suy tư riêng. Hơn nữa sự thật ở thời điểm này chưa chắc đã thật ở thời điểm khác. Nhiều người vẫn nhìn thấy hình ảnh quê cũ trong đầu nhưng khi về quê, lạc đường, mất lối vì mọi sự đã đổi thay. Sự thật thế gian mang tính tạm bợ, nhất thời. Sự thật Thánh Thần mang lại không thay đổi, không ảnh hưởng bởi điều kiện vật lí hay địa lí. Đức Kitô định nghĩa sự thật là nhận biết Thiên Chúa và tôn thờ Thiên Chúa duy nhất.

Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta (Gn 10,4). Nơi khác Ngài trả lời Philatô: Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi (Gn 18,37); Thầy là đường, là sự thật và là sự sống (Gn 14,6)

THÁNH THẦN

Vì yêu thương đàn chiên Đức Kitô không những cầu xin Chúa Cha chăm sóc, bảo vệ đàn chiên mà còn sai Thánh Thần Chúa đến sống với đàn chiên, cùng đồng hành với chiên. Món quà ưu việt thế gian không có và cũng không biết để đón nhận. Món quà dành riêng cho dân Chúa.

Chúa Thánh Thần hiện diện trong cộng đoàn dân Chúa. Đây là dân riêng có chung một Cha, chung một Thánh Thần và chung một ngôn ngữ, ngôn ngữ của tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu và ai tái sinh trong Chúa dùng ngôn ngữ tình yêu. Trái với luận điệu kêu ngạo, ngạo mạn của kẻ không tin và cũng chẳng nhận biết Thiên Chúa.

Ai thuộc về Thiên Chúa thì nghe lời Thiên Chúa nói (Gn 8,47).

TÌM BÀI CŨ:

Suy Niệm: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html

Truyện ngắn: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html

Hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
 
Chúa Thánh Linh: Chân dung và Nhiệm vụ
Nguyễn Trung Tây, SVD
03:27 10/05/2008

Chúa Thánh Linh: Chân dung và Nhiệm vụ

Chân dung Thánh Linh, Ảnh Nguyễn Trung Tây
Vào những giây phút chúng ta khám phá ra khuôn mặt và làn da của linh hồn đang trở nên lốm đốm tàn nhang, chúng ta cần đến sự can thiệp của một vị bác sĩ thẫm mỹ lừng danh khét tiếng: Bác Sĩ Thẩm Mỹ Chúa Thánh Linh, bởi Ngài chính là Đấng đã và đang đổi mới bộ mặt của quả địa cầu và của trần gian...

Có lẽ bởi chữ “thần” xuất hiện trong cả hai danh từ, hồi còn nhỏ tôi hay bị Sơ dạy Giáo Lý phạt quỳ vì tội không phân biệt được sự khác nhau giữa Chúa Thánh Thần và Thiên Thần. Đối với cái đầu óc bé tí ti của tuổi lên tám, ăn chưa no lo chưa tới, Chúa Thánh Thần chỉ là những Thiên Thần tóc bạch kim, môi đỏ hồng, đẹp như tây, có cánh bay bay chung quanh hang đá vào mùa Giáng Sinh.

Lớn lên một chút, vào cái thời kỳ tham gia sinh hoạt trong Ban Giáo Lý của xứ đạo, lúc đó tôi mới “đủ sức đủ trí khôn” để mà phân biệt được sự khác nhau giữa Ngôi Ba Thiên Chúa Chúa Thánh Thần và Thiên Thần. Dạy Giáo Lý cho những học sinh trung học, cho những tân tòng RCIA, và ngay cả trong những lần sơ đàm với một số người quen biết, lúc đó tôi mới nhận ra trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Thánh Linh là Đấng bị lãng quên nhiều nhất trong đời sống đức tin của người tín hữu. Bởi Ngài hay bị lãng quên trong dòng đời ngược xuôi, chân dung và nhiệm vụ của Ngôi Ba Thiên Chúa thông thường là hai khái niệm khá sương mờ đối với một số người tín hữu Công Giáo Việt Nam. Trong tinh thần học hỏi về niềm tin Công Giáo, qua bài tham luận ngắn ngủi này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về Ngôi Ba Thiên Chúa dưới hai lăng kiếng: Chân dung và Nhiệm vụ.

Chân dung

Luận bàn về chân dung của Chúa Thánh Linh, trong khi Thiên Chúa Ngôi Cha thường được minh họa qua nhân dạng của một cụ già Tây Phương, với râu dài, tóc bạc trắng như cước—Sách Sấm Truyền Cũ là một thí dụ điển hình, Thiên Chúa Ngôi Con thì khác. Bởi Đức Kitô là một nhân vật lịch sử, nhân dạng của Ngài, do đó, là diện mạo của một người đàn ông Do Thái vào thế kỷ thứ Nhất Tây Lịch. Nhưng Thiên Chúa Ngôi Ba, Chúa Thánh Linh thì hoàn toàn khác. Ngài không được nhân họa bởi họa sĩ như Thiên Chúa Cha, hoặc xuất hiện trong nhân dạng như Thiên Chúa Con, nhưng Chúa Thánh Linh xuất hiện qua hai hình ảnh: Chim Bồ Câu và Lưỡi Lửa.

Thật ra, cả hai hình ảnh tượng trưng cho Chúa Thánh Linh đều không bắt nguồn tự sự tưởng tượng của bất cứ một người họa sĩ nào, nhưng bắt nguồn từ trong Kinh Thánh. Theo như thánh sử Máccô, sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giôđan, trời xanh tự nhiên mở ra, và Thần Khí tương tự như hình bồ câu ngự xuống trên Ngài (Máccô 1:9). Hình ảnh của Lưỡi Lửa bắt nguồn sách Tông Đồ Công Vụ. Theo như Tông Đồ Công Vụ 2:1-4, vào ngày Lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, trong khi các môn đệ của Đức Giêsu đang quây quần hội họp trong căn phòng kín, bỗng nhiên từ trời phát ra một tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào căn nhà. Và Chúa Thánh Linh xuất hiện trong hình dạng của những lưỡi lửa ngự xuống trên người của các người môn đệ.

Bên cạnh chim bồ câu và lưỡi lửa, Chúa Thánh Linh cũng được ví như cơn gió, Ngài thổi từ hướng nào và thổi về đâu, không ai hay, chẳng ai biết. Tương tự như lưỡi lửa, hình ảnh gió cũng bắt nguồn từ Tông Đồ Công Vụ 2:1-4.

Dòng lịch sử ơn cứu độ được phân chia ra làm ba giai đoạn khác nhau với ba diện mạo của một Thiên Chúa:

(1). Giai đoạn thứ nhất thuộc về dòng lịch sử Cựu Ước với dung mạo của Thiên Chúa, Chúa Cha, một vị Thiên Chúa của công bằng, từ bi, và vị tha.

(2). Giai đoạn thứ hai thuộc về dòng lịch sử Tân Ước với dung mạo của Thiên Chúa, Chúa Con, một vị Thiên Chúa của yêu thương, nhân hậu, và tha thứ.

(3). Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ ngày Lễ Hiện Xuống cho tới ngày cánh chung, với dung mạo của Thiên Chúa, Chúa Thánh Linh, một vị Thiên Chúa của hướng dẫn, an ủi, và đổi mới.

Nhiệm vụ

Luận bàn về nhiệm vụ của Chúa Thánh Linh, Giáo Hội tin rằng con thuyền Hội Thánh đang được chính bàn tay của thuyền trưởng Chúa Thánh Linh lèo lái và hướng dẫn. Bởi thế, Giáo Hội tin rằng Chúa Thánh Linh chính là tác giả bốn bản Phúc Âm được viết bởi bốn thánh sử: Máccô, Mátthêu, Luca, và Gioan. Bởi thế, khi Hồng Y Đoàn vô phòng kín cầu nguyện, hội họp để bầu cử ra một vị Giáo Hoàng mới, Giáo Hội tin rằng các vị Hồng Y đã được chính Chúa Thánh Linh soi sáng và hướng dẫn để bầu ra vị tân giáo hoàng.

Ngoài công việc hướng dẫn, Chúa Thánh Linh còn là Đấng An Ủi những người tín hữu trên hành trình đức tin. Bởi Ngài là Đấng Ủi An, Chúa Thánh Linh ủi an anh hùng tử đạo khi các ngài gông cùm xiềng xích nặng nề mang vác trên vai như thánh Dũng Lạc, hoặc khi các ngài bị giam cầm bỏ đói lãng quên trong ngục tù lạnh lẽo như nữ thánh Đê. Một cách tương tự, những khi đang lao đao với đời sống chứng nhân tin mừng (tử đạo) của chính mình, chúng ta tin rằng mình không cô độc một mình một bóng với gian nan thử thách. Vào những giây phút của tứ bề thọ địch hoặc ba đào sóng dữ, chúng ta tin rằng Đấng An Ủi sẽ xuất hiện, để ủi an vỗ về và ân cần nâng đỡ chúng ta can trường tiếp tục bước qua những đoạn đường nhọc nhằn và gian truân.

Ngoài hướng dẫn và an ủi, Chúa Thánh Linh cũng còn chính là Đấng “vẩy đũa thần” làm mới bộ mặt của quả địa cầu và tâm hồn của người tín hữu. Ngày hôm nay, với trình độ tiến bộ vượt bực của khoa học, người ta có những cây đũa thần có khả năng thay đổi bộ mặt thua kém biến sang mặn mà, bình thường hóa thành sắc sảo. Đối với những người có lớp da bị thời gian tàn phá, ngành thẩm mỹ có thể lột bỏ, thay thế làn da cằn cỗi bằng những tế bào hồng hào, mịn màng, và tươi sáng. Nhưng, bên cạnh làn da thể xác, người tín hữu cũng còn có một làn da khác, đó là làn da linh hồn. Theo dòng thời gian trôi nổi bập bềnh, làn da của cả thể xác và của linh hồn đều sẽ trở nên cằn cỗi hoặc đôi khi biến dạng khiến nhiều người không còn khả năng nhận ra nhân dạng của chính mình.

Khi thể xác mệt mỏi hoặc muốn giữ gìn sức khỏe, nhiều người đi tập thể dục, người trẻ ghi tên tham gia vào những trung tâm thể dục thẩm mỹ, người lớn tuổi sáng sáng gặp gỡ nhau nơi công cộng tập Tài Chi. Những khi khám phá ra làn da thể xác không còn hồng hào, căng mịn, người ta tới gặp bác sĩ thẩm mỹ để được giúp đỡ. Một cách tương tự, những khi tâm hồn mệt mỏi, tinh thần kiệt quệ khiến làn da của linh hồn không được nghỉ ngơi, từ từ trở nên cằn cỗi, người tín hữu sẽ làm chi để khuôn mặt linh hồn của chúng ta thôi không còn cằn cỗi?

Suy Niệm

Vào những giây phút chúng ta khám phá ra khuôn mặt và làn da của linh hồn đang trở nên lốm đốm tàn nhang, chúng ta cần đến sự can thiệp của một vị bác sĩ thẫm mỹ lừng danh khét tiếng: Bác Sĩ Thẩm Mỹ Chúa Thánh Linh, bởi Ngài chính là Đấng đã và đang đổi mới bộ mặt của quả địa cầu và của trần gian.

Ngày xưa, trước khi có Chúa Thánh Linh ngự xuống trên người qua hình dạng lưỡi lửa, Phêrô cũng như tất cả những người môn đệ của Đức Giêsu, đêm cũng như ngày, chỉ dám thập thò đi ra đi vào trong căn phòng đóng kín cửa. Nhưng khi Gió của Chúa Thánh Linh thổi ngập tràn căn phòng và Lửa của Ngài ngự xuống trên người, làn da linh hồn của những người môn đệ của Đức Giêsu đã được đổi mới. Khi Chúa Thánh Linh xuất hiện, làn da cằn cỗi lấm chấm đồi mồi của nhát sợ, bối rối, và phiền muộn của Phêrô và của những người môn đệ đã được thay đổi, biến sang làn da linh hồn của hai mươi tuổi căng tràn nhựa sống. Khi làn da linh hồn được đổi mới, Phêrô thôi, không còn nhát sợ nữa, nhưng hiên ngang đứng dậy, mở tung cánh cửa căn phòng, hùng hồn cất lời rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh giữa ban ngày, khiến nhiều người Do Thái tưởng rằng người cựu ngư phủ Biển Hồ đang say rượu. Thực sự ra, Phêrô không say, nhưng bởi Chúa Thánh Linh đã đụng “đũa thần” vào khuôn mặt và tâm hồn của Phêrô, cho nên nhiều người ngỡ ngàng không còn nhận ra được đó chính là Phêrô của một thời già lão, nhát sợ, chối bỏ Thầy ba lần trên sân Tòa Án Công Nghị của người Do Thái.

Một cách tương tự, vào những lúc khám phá ra làn da linh hồn đang dần dần trở nên cằn cỗi, hoặc linh hồn đang mệt mỏi, xao xuyến, trằn trọc, và băn khoăn với những muộn phiền do trần thế mang lại, mời bạn, chúng ta cùng nhau hướng về Ngôi Ba Thiên Chúa, mở miệng cầu xin với Ngài,

Lời Nguyện

Lạy Chúa Thánh Linh, xin hãy đốt cháy ngọn lửa của Ngài, để lòng chúng con không còn nguội lạnh, nhưng bừng lên ngọn lửa nhiệt thành của niềm tin. Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa, xin hãy đến nâng đỡ, ủi an những khi chúng con cô độc, muộn phiền, và thất vọng với đời sống niềm tin. Xin hãy đến vỗ về, băng bó chữa lành những vết thương đang mưng mủ, đang tấy sưng trong tâm hồn của chúng con. Lạy Chúa Thánh Linh, xin Ngài hãy đến, ngự xuống, đổi mới làn da nhân loại và bộ mặt địa cầu.

www.nguyentrungtay.com
 
Hoa trái Thánh Thần
LM Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
09:22 10/05/2008
(Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 2008)

HOA TRÁI THÁNH THẦN

Mùa Phục Sinh kết thúc với Lễ Kính Thờ Thiên Chúa Ngôi Ba, Chúa Thánh Thần, đặc biệt với việc kính nhớ mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Thánh Tông Đồ ngày Lễ Ngũ Tuần, chính thức khai sinh nên Hội Thánh. Thiên Chúa Ngôi Hai đã nhập thể, nhập thế. Chân dung của Người đã được lịch sử ghi nhận, cách riêng bốn Tin Mừng đã góp phần trình bày hình ảnh Chúa Ngôi Hai làm người cách rõ nét. Người ta cũng có thể dùng loại suy để hướng về Thiên Chúa Cha. Vì ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha ( x.Ga 14,9 ). Còn Chúa Thánh Thần là Đấng mà chúng ta chỉ có thể nhận ra qua, hoa trái của Người theo dòng lịch sử và đặc biệt theo dòng lịch sử cứu độ. Chúa Kitô đã từng ví Người như là gió (x.Ga 3,8 ). Điều này không chỉ nói lên sự tự do của Thánh Thần mà còn giúp ta nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần qua các kết quả hành động của Người. Qua một vài hoa trái đặc trưng của Thánh Thần, chúng ta cũng có thể biết được cách thế hữu hiệu để trãi lòng mình ra đón nhận tác động của Người.

1. ƠN NGÔN NGỮ:

Ngôn ngữ được biểu hiện dưới nhiều hình thái như chữ viết, ký hiệu...nhưng ở đây chỉ muốn đề cập đến tiếng nói. Tiếng nói là một trong những ưu phẩm của loài người trỗi vượt trên các loài thụ tạo hữu hình. Nhờ có tiếng nói mà con người có thể truyền thông cho nhau tâm tư tình cảm và những nghĩ suy của mình. Nhờ có tiếng nói con người có thể hiệp thông với nhau cách đầy đủ và hiệu quả hơn, rộng rãi và sâu đậm hơn.

Đọc Thánh Kinh, nhất là đọc Tân Ước, chúng ta có thể chân nhận một trong những hoa trái của Thánh Thần là ơn ngôn ngữ. Khi Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống trên các Tông đồ ngày Lễ Ngũ Tuần, Người đã ban cho các ngài ơn được nói các thứ tiếng khác nhau (x.Cvtđ 2,1-13 ). Sách Công vụ tông đồ cũng tường thuật nhiểu trường hợp những người lãnh nhận ơn Thánh Thần thì được ơn nói tiếng lạ, nói tiên tri ( x. Cvtđ 10,45-46; 19,6-7). Chúa Giêsu an ủi động viên các tông đồ khi chịu bắt bớ thì Thánh Thần sẽ nói thay cho các ngài ( x.Mt 10,20 ). Được Chúa Thánh Thần tác động chúng ta sẽ biết nói điều phải đạo, nói điều phải nói, nói lời tình yêu.

Các nhà y học cho ta hay một sự thật về những người vừa câm vừa điếc từ thưở mới sinh. Dân gian truyền tụng rằng vì người ta không nói được ( bị câm bẩm sinh ) nên trời cho luôn bệnh điếc để khỏi phải chịu nghe những lời chướng tai, phật ý. Vì nếu nghe được những lời phật ý, chướng tai mà không có thể nói lại được thì không ai có thể chịu nổi. Trái lại, theo y học thì chính vì bị tật bệnh điếc bẩm sinh nên người ta mới bị câm. Khả năng nói là một khả năng mà người ta học được nhờ bắt chước tha nhân. Không nghe được tiếng nói của tha nhân thì trẻ thơ không thể tập nói được và vì thế mất luôn kỷ năng nói. Như thế một trong những điều kiện tối cần để có thể nói là có khả năng nghe.

Từ dữ kiện ở bình diện thể lý tự nhiên trên đây chúng ta có thể diễn suy lên bình diện siêu nhiên. Để có thể nói lời phải đạo, lời đáng nói, cần nói và nên nói, để có thể nói lời chân lý, lời tình yêu, nghĩa là nói dưới tác động của Chúa Thánh Thần thì tiên vàn chúng ta cần biết nghe. Dĩ nhiên là phải biết nghe Chúa Thánh Thần thúc đẩy, biết nghe Người phán dạy.

Trong phạm vi gia đình, ta thường nghe nhiều người bố mẹ than thở rằng con cái càng lớn khôn càng khó bảo, nghĩa là càng không biết nghe. Mở rộng ra ngoài xã hội, có chăng tình trạng khi chức càng cao, quyền càng lớn thì ta càng ít biết nghe. Cũng có thể vì điều kiện hoàn cảnh bên ngoài của các tổ chức xã hội, của trách vụ nắm giữ, làm ta xa rời quần chúng, nhưng cũng có thể vì tâm lý chủ quan cho mình luôn luôn đúng, không thể sai lầm, nên chẳng cần nghe, hoặc giả như cần nghe thì chỉ nghe một đôi người thân cận, những người hợp ý mình ? Hy vọng rằng tình cảnh này sẽ không có trong đời sống Hội Thánh và giả như có thì mong sao đó chỉ là cá biệt hay đặc thù.

Biết nghe là một trong những cách thế tốt đẹp để đón nhận ơn Chúa Thánh Thần. Xin hãy biết nghe bằng đời sống cầu nguyện chuyên chăm, bằng sự chiêm niệm sâu lắng. Xin hãy biết nghe lời chỉ dạy của mẹ Hội Thánh, nhất là trong lãnh vực đức tin và luân lý. Xin hãy biết nghe những nhà lãnh đạo các quốc gia, đặc biệt trong lãnh vực công bình và ích chung. Xin hãy biết nghe, bằng việc tiếp xúc tha nhân, nhất là những người nghèo, những người thấp cổ, kém phận. Xin hãy biết nghe những người không đồng thuận với chính kiến của ta, biết nghe cả những người trái ý ta...trong sự trân trọng và khiêm nhu chân thành.

Một khi ta biết sẵn sàng lắng nghe, lắng nghe để thuận theo những gì phải đạo, để ngăn ngừa và phòng tránh những gì sai lạc...là lúc ta đang sẵn sàng đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần. Và khi ấy chắc chắn chúng ta sẽ biết cách nói theo hướng dẫn của Đức Chúa Trời Ngôi Ba.

2. ƠN XÂY DỰNG SỰ HIỆP NHẤT:

Ngày lễ Ngũ Tuần, khi hiện xuống trên các Tông đồ, Chúa Thánh Thần một cách nào đó thông ban ơn xây dựng sự hiệp nhất. Nhiều người thuộc nhiều quốc gia, dân tộc và tiếng nói có mặt lúc bấy giờ đã hiểu những lời rao giảng của các Tông đồ ( x.Cvtđ 2,13 ). Chúa Thánh Thần chính là nguyên lý của sự hiệp nhất. Người làm cho muôn dân nên một trong Đức Kitô.

Nói đến sự hiệp nhất là giả thiết phải nhìn nhận sự khác biệt. Có những sự khác biệt chính đáng vốn là tất yếu khách quan. Đó là sự khác nhau về màu da, chủng tộc hay ngôn ngữ. Đó là sự khác nhau về phận vị, nghề nghiệp do sự phân công, phân nhiệm của xã hội. Đó là sự khác nhau về tư tưởng, chính kiến hay quan niệm sống do bởi hoàn cảnh lịch sử hay nên văn hóa chi phối hoặc do ý thức tự chọn của mỗi người xét như một chủ thể có lý trí và ý chí tự do... Nếu không nhìn nhận và tôn trọng những khác biệt chính đáng này thì chỉ có sự đơn nhất và đồng nhất trong bạo lực của độc tài, độc đoán, độc quyền. Và sự chia rẽ sẽ xuất hiện vì nhu cầu đấu tranh sinh tồn.

Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi ơn...nhưng tất cả là để phục vụ ích chung ( x. 1Cor 12,4-6 ). Sự hiệp nhất ở đây được thể hiện nơi việc cùng huớng đến một mục đích: ích chung. Văn hào St Exupéry hình như cảm nhận chân lý này khi nói: “yêu nhau không phải là ngồi nhìn nhau mà cùng nhau nhìn về một hướng”. Cùng với Đức Bênêđictô XVI qua bài diễn văn đọc tại Hội Đồng Lỉên Hiệp Quốc tháng 7/2008 vừa qua, chúng ta có thể nói rằng ích chung của nhân loại xét như là con người đó là nhân quyền. Những quyền lợi căn bản của con người ( quyền sống, lao động, học tập, cư trú, đi lại, ngôn luận... ) mà Liên Hiệp Quốc tuyên bố cách đây đúng 60 năm chính là một trong những mục đích chính yếu giúp ta hiệp nhất với nhau khi ta nỗ lực dệt xây.

Với những người tin vào Đức Kitô thì một trong những mục đích chính đó là “nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành” ( x.Mt 5,48 ). Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được thông phần sự sống thần linh của Thiên Chúa và với Người anh cả Giêsu, chúng ta là anh chị em với nhau cùng một Cha trên trời. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Nên hoàn thiện như Cha trên trời không chỉ dừng lại ở thái độ tiêu cực là đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình mà phải tiến đến chỗ tích cực là hãy làm cho tha nhân những gì mình muốn họ làm cho mình, vì đó là tất cả những gì được dạy trong lề luật và lời các ngôn sứ ( x.Mt 7,12 ). Để cụ thể hóa thái độ sống này Chúa Giêsu truyền bảo chúng ta là “hãy yêu thương nhau như Người yêu thương chúng ta” ( x. Ga 13,34 ).

Cúi xuống phục vụ người mạnh khỏe cũng như người đau yếu, cúi xuống phục vụ người sang giàu cũng như người nghèo hèn, cúi xuống phục vụ người dễ thương cũng như người đáng ghét... là thái độ sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần cách rất tốt đẹp. Vũng đất càng sâu thì nước các nơi sẽ tuôn đổ về càng nhiều. Càng khiêm nhu, bỏ mình để yêu thương phục vụ vô vị lợi thì càng xây dựng tình đoàn kết hiệp nhất, vì khi ấy Thánh Thần, nguyên lý của sự hiệp nhất đang tràn đầy trong chúng ta.

Mong sao người ta đừng đánh lận con đen giữa ích chung và ích riêng, ích riêng của cá nhân hay phe phái của mình. Mong sao hai từ phục vụ được thể hiện cách đích thực là việc làm của người tôi tớ. Cũng mong sao ngày càng hiếm dần và mất hẳn cái cảnh các “quan đầy tớ đạo đời” vinh thân phì da, miệng lưỡi gang thép, chỉ tay năm ngón...để cho đoàn đoàn lớp lớp ông chủ phải khom lưng chầu chực và cật lực hầu hạ.

Chúa Thánh Thần đã được ban cho nhân loại từ Trái Tim Cực Thánh của Chúa Kitô chịu đâm thâu trên thập giá (x.Ga 19,31-37 ). Chúa Thánh Thần đã được ban cho Hội Thánh cách đặc biệt ngày Lễ Ngũ Tuần. Mong sao khi “lửa cháy” và “gió lên” thì phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp, nhờ chúng ta biết sẵn sàng đón nhận, nếu không thì hậu quả sẽ là “tro và bụi” thật nguy hiểm và khó lường.
 
Chú Giải Tin Mừng Lễ Hiện Xuống của Cha Raniero Cantalamessa
Phaolô Phạm Xuân Khôi
09:24 10/05/2008
Chú Giải Tin Mừng Lễ Hiện Xuống của Cha Raniero Cantalamessa

RÔMA, Ngày 9 tháng 5, 2008 (Zenith.org). Ai cũng có thể có dịp thấy người ta đẩy một chiếc xe bị chết máy và cố đẩy đủ nhanh để cho máy nổ. Có một hay hai người đẩy cái xe và một người khác cầm tay lái. Nếu thử lần đầu mà nó không chạy thì họ ngưng lại, lau mồ hôi, và thở một hơi dài rồi thử nữa….

Bất thình lình có tiếng động, máy bắt đầu chuyển vận, chiếc xe tự động chạy và những người đẩy xe đứng thẳng lên thở một hơi nhẹ nhõm.

Đây cũng là một hình ảnh của những gì xảy ra trong đời sống Kitô hữu. Một người cố gắng đi lên mà chẳng tiến bộ được bao nhiêu. Nhưng chúng ta cũng có một cái máy rất mạnh (“sức mạnh từ trên cao!”), chỉ cần để cho máy này bắt đầu làm việc. Ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống giúp chúng ta tìm thấy máy này và biết làm thế nào để cho máy chạy.

Câu truyện trong sách Tông Đồ Công Vụ bắt đầu thế này: “Khi đến ngày Lễ Ngũ Tuần, tất cả các ngài đều tụ tập một nơi.”

Từ những lời này, chúng ta có thể thấy rằng Lễ Ngũ Tuần có trước Lễ Hiện Xuống. Nói cách khác là trong đạo Do Thái đã có một lễ Ngũ Tuần và chính trong Lễ này, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống. Chúng ta không thể hiểu được Lễ Hiện Xuống của Kitô giáo nếu không biết về Lễ Ngũ Tuần của người Do Thái để sửa soạn cho lễ này.

Trong Cựu Ước có hai cách cắt nghĩa về Lễ Ngũ Tuần. Đầu tiên có Lễ Thất Tuần, là lễ mùa, khi mà các lúa đầu mùa được dâng cho Thiên Chúa, nhưng sau đó, và chắc chắn rằng vào thời Chúa Giêsu, Lễ này được phong phú hóa bằng một ý nghĩa mới: Đó là Lễ mừng việc ban hành Lề Luật và Giao Ước trên núi Sinai.

Nếu Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trên Hội Thánh vào chính ngày mà dân Israel mừng Lễ ban hành Lề Luật và Giao Ước, thì điều này ám chỉ rằng Chúa Thánh Thần là Lề Luật Mới, Lề Luật tinh thần đóng ấn tín trên Giao Ước Mới và Vĩnh Cửu. Một Lề Luật không còn khắc trên bia đá khắc nhưng trên bia thịt, trên trái tim con người.

Những suy nghĩ này lập tức đưa đến một câu hỏi: Chúng ta sống dưới Lề Luật Cũ hay Lề Luật Mới? Chúng ta chu toàn bổn phận tôn giáo của chúng ta vì bó buộc, vì sợ và thói quen, hay vì xác tín tận đáy lòng hoặc hầu như vì một thu hút? Chúng ta cảm thấy Thiên Chúa là một người Cha hay la một người Chủ?

Tôi xin kết thúc bằng một câu truyện. Đầu thế kỷ trước có một gia đình từ miền nam nước Ý di dân sang Hoa Kỳ. Vì không có tiền để trả cho các bữa ăn trong nhà hàng, nên họ đem theo với họ bánh mì và phó mát trong cuộc hành trình. Sau nhiều ngày và nhiều tuần lễ, bánh bị cũ và phó mát bị mốc; đến khi đứa con của họ không chịu nổi nữa, nó chỉ biết khóc chứ không biết làm gì.

Cha mẹ lấy những đồng tiền cuối cùng mà họ có đưa cho con để nó có thể có một bữa ăn ngon ở nhà hàng. Đứa bé ra đi, ăn rồi trở lại với cha mẹ mắt đẫm lệ. Cha mẹ em hỏi: “Cha mẹ đã dùng hết số tiền cha mẹ có để mua cho con một bữa ăn ngon lành mà sao con còn khóc?”

Đứa bé thưa: “Con khóc vì con khám phá ra rằng giá đó là để trả cho mỗi ngày một bữa ăn, thế mà từ trước đến giờ con chỉ ăn bánh mì và phố mát!”.

Nhiều Kitô hữu sống trên đời chỉ bằng “bánh mì và phố mát”, không có niềm vui, không có nhiệt tình, trong khi đó, nói theo cách tinh thần, thì họ có thể được thưởng thức đủ mọi sự tốt lành của Thiên Chúa mỗi ngày, chúng đã được tính cả vào giá làm Kitô hữu.

Bí mật để cảm nghiệm điều mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII gọi là “Một Lễ Hiện Xuống Mới” là cầu nguyện. Ở đó chúng ta tìm thấy “tia lửa” làm nổ máy.

Chúa Giêsu hứa rằng Cha Trên Trời sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống cho những ai xin Ngài (Lc 11:13). Vậy hãy xin Ngài! Phụng Vụ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cho chúng ta những lời tuyệt diệu:

“Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, …
Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến;
Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!
Lạy Đấng an ủi tuyệt vời,
là khách trọ hiền lương của tâm hồn,
là Đấng uỷ lạo dịu dàng.
Chúa là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than,
là niềm an ủi trong lúc lệ rơi.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến!”
 
Chúa Thánh Thần đang hiện diện
Pm. Cao Huy Hoàng
09:40 10/05/2008
CHÚA THÁNH THẦN ĐANG HIỆN DIỆN

Mỗi năm chỉ có một lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, nhưng lại nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng Chúa Thánh Thần “ đã hiện xuống” và “đang hiện diện” mọi lúc (thời gian), mọi nơi (không gian hữu hình), và trong mọi người (không gian vô hình). Chúa Thánh Thần Hiện Xuống với công trình sáng thế, với quá trình hướng dẫn nhân loại tìm về ánh sáng, với mầu nhiệm cứu rỗi chung cho cả nhân loại và riêng cho từng người… vẫn được ta tuyên tín trong kinh tin kính mỗi tuần. Và Ngài vẫn hiện diện. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần là sự hiện diện của Thiên Chúa, cũng vô hình như Thiên Chúa, trừu tượng như Tình Yêu, mà cũng rất hữu hình trong các công trình của Thiên Chúa, rất cụ thể trong lòng nhân, trong trái tim của con người- và cụ thể nhất trong Tin Mừng Cháu Giêsu Kitô. Nếu nói Đức Giêsu là quà tặng tình yêu của Thiên Chúa Cha cho nhân loại, thì trong Đức Giêsu có Tình yêu của Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Như vậy, thật vô lý khi tiếp nhận quà tặng Tin Mừng Đức Giêsu, mà không nhận ra sự hiện diện của Ngôi Cha và Ngôi Thánh Thần, vì Ba ngôi duy nhất, không thể tách rời.

Như đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ: “ Ðức Giê-su đã thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy đươc tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."(Ga 20,22-23); chính Chúa Giêsu cũng ban Thánh Thần cho mỗi tín hữu qua Bí tích Rửa tội và đặc biệt là Bí tích Thêm sức với 7 ơn cao trọng của Ngài: Ơn khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, suy biết, đạo đức và kính sợ Chúa, như tiên tri Isaia loan báo: "Trên ngài Thần Khí Ya-vê sẽ đậu xuống, Thần khí khôn ngoan và trí tuệ, Thần khí mưu lược và anh dũng, Thần khí hiểu biết và hứng thú trong sự kính sợ Gia-vê" ( Is 11, 2 - 3 ). Nói cách khác, Chúa Thánh Thần đang thực sự hiện diện trong mỗi tín hữu, vì mỗi tín hữu đã "được rửa trong một Thần Khí duy nhất; được uống một Thần Khí duy nhất" ( 1 Cr 12, 13 ); được trở nên Ki-tô hữu – có Chúa Kitô là "Ðấng được xức dầu bởi Thánh Thần" ( GL 695 ). Như vậy, mỗi Kitô hữu đều đã nhận được một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, là Thánh Thần, qua việc tháp nhập với Đức Giêsu Kitô tử nạn và phục sinh; và bổn phận đáp trả là biết dùng quà tặng ấy để sinh hoa kết trái cho đời mình, cho mọi người. Hoa trái ấy, theo thánh Phao lô, là các nhân đức: Bác ái, vui vẻ, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, hòa nhã, nết na, trung thành, kiên trì, tiết độ và trong sạch ( Gl 5, 23 - 23 ). Những nhân đức nầy không còn là một lý thuyết, nhưng phải là bằng chứng hùng hồn về sự tác động của Chúa Thánh Thần và sự đồng thuận của đương sự với lòng yêu mến để cho Chúa Thánh Thần thánh hóa.

Chúa Thánh Thần, Đấng Phù Trợ mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho các Tông Đồ, làm cho Lời Chúa Kitô tồn tại nơi các Ngài và Giáo Hội, đồng nghĩa với việc chính Chúa Thánh Thần làm cho tinh thần của Tin Mừng thấm nhuần trong tâm trí nhân loại, trong tâm hồn chúng ta. Như vậy, chấp nhận để Chúa Thánh Thần thánh hóa là chấp nhận cho Ngài đổi mới con người cũ trở nên con người mới đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, chấp nhận đớn đau khi phải gọt dũa những gì là không phù hợp với Tin Mừng, chấp nhận khiêm tốn tự hạ như Đức Giêsu mới có thể làm cho ơn Thánh Thần sinh hoa kết trái.

Chúa Thánh Thần đang hiện diện và lời mời gọi của Ngài chính là Lời mời gọi của Tin Mừng. Ngài đang dùng Tin Mừng của Đức Kitô để canh tân cõi lòng con người, canh tân bộ mặt thế giới. Khắp nơi trên thế giới, và ngay cả chính mỗi người chúng ta, đều có thể đã biết Tin Mừng, nghe Tin Mừng, học hỏi Tin Mừng, nhưng sở dĩ chúng ta không nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần, vì việc nghe biết học của chúng ta mới chỉ dừng lại ở mục đích nghe cho biết, học cho biết- Tin Mừng như một môn học- không lắng nghe Chúa Thánh Thần đang kêu gào đổi mới cuộc sống theo tinh thần Tin Mừng, vì không có ước ao nên thánh. Ở Việt Nam, tôi thấy có nhiều người không công giáo cũng học Thánh Kinh, cũng đọc Tin Mừng. Có nhiều người còn thuộc lòng những câu Lời Chúa quan trọng. Nhưng, họ đọc cho biết chứ không phải đọc để sống Tin mừng. Mỗi tín hữu chúng ta cũng chỉ giống như họ thôi sao? Thế thì làm gì trổ sinh được hoa trái của Thánh Thần được. Lại cũng có những người đọc Tin Mừng, không phải để canh tân, đổi mới theo tinh thần của Tin Mừng, nhưng là để tạo mọi điều kiện xã hội cho người ta xa dần với tinh thần của Tin Mừng. Và xa tinh thần của tin mừng, là làm cho tác động của Chúa Thánh Thần tiêu tan, và sự hiện diện của Ngài cũng mờ dần trong tâm trí con người. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và tinh thần Tin Mừng chắc chắn không hấp dẫn bằng sự hiện diện của những trào lưu ăn chơi hưởng thụ thoải mái, được cập nhật từng ngày và ngang nhiên sinh hoạt trong xã hội ngày nay!

Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống nhắc nhớ cho mỗi tín hữu Việt Nam hôm nay khẩn trương canh tân theo tinh thần của Tin Mừng và cương quyết nói không với lối sống vô thần: không Thiên Chúa, không linh hồn, không đời sau - đang dẫn con người vào chỗ vô luân thường, vô đạo lý. Hơn nữa, mỗi người cần tái lập ngay một tương quan thiết thực với tinh thần khó nghèo khiết tịnh của Chúa Kitô, noi gương Cha ông anh dũng làm chứng cho Tin mừng, và nêu gương sống Tin Mừng cho thế hệ con cháu Lạc Hồng mai sau. Để được như vậy, chúng ta luôn tha thiết cầu xin cho biết lắng nghe Chúa Thánh Thần đang nói những điều Chân Thiện Mỹ, can đảm bằng lòng để cho Ngài gọt dũa những thói hư hèn trong mỗi chúng ta theo tinh thần Tin Mừng, với ước nguyện nên thánh ngay trong một xã hội đang liều mình bội ước với bao ơn lành của Chúa.

Tôi xin mượn lời thơ của một người bạn ẩn danh, để kết mấy dòng suy tư:

Trước Đấng Vô Hình,
con người thời nay bỗng dưng trơ trơ như gỗ, đá.
Lòng người lạnh căm ngước nhìn lên kiêu hãnh như những núi tuyết mùa đông.
Tình yêu hôm nay
là một hàng thịt nhầy nhụa, một đống tiền không hồn, một biệt thự vút lên trời cao quá…
Mà rồi ra, nhìn lại, cả trần gian chỉ còn cái bóng ma hư không…

Thánh Thần của tình yêu, sự sống, quang minh, chân lý… Ngài ở nơi đâu?
Ngài có thể nào thua cuộc, mà thua cuộc rồi sao?
Nước, Lửa và Gió ngày nao như hồng thủy, như hỏa hào, như cuồng phong mãnh liệt,
mà tự nhiên sao lặng yên, sao tắt lịm, sao nhẹ dịu tự bao giờ?

Thánh Thần, con tin, Ngài ở đâu vẫn còn Ngài đâu đó.
Ngài không thua, nhưng im lặng như không khí người ta vẫn thở mà lại quên.
Thánh Khí Ngài vẫn sưỡi ấm những mùa đông buốt giá.
Chỉ tại lòng người liều thân chết cóng trong vũng tham lam hạ giới hư hèn…

Xin hãy cho con, cho nhân loại lòng tham lam chính Ngài là Nguồn Sống Thật.
Cho Sự Sống Công Lý Hòa Bình của Thánh Thần kết trái đơm hoa,
trong mỗi trái tim cánh phù dung sáng nở chiều tàn úa,
trên giãi đất hoang um tùm gai, um tùm cỏ, um tùm rác rưỡi vô cảm, vô nhân, vô tín ngưỡng, vô thần ….

Xin Thánh Thần cháy lên trong con, trong nhân loại,
cháy tiêu tan lâu đài tự tôn chính mình là Thiên Chúa,
cháy cho trí lòng con hoang tàn đi, để nhận ra cái hư không của mình,
và để cho Thiên Chúa, Đấng Vô Hình chiếm trọn cõi lòng con.
 
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Sẽ tuôn chảy một nguồn nước sống
LM. Giuse Trương Đình Hiền
14:09 10/05/2008
LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

Sẽ tuôn chảy một nguồn nước sống



Dẫn nhập đầu lễ: Kính thưa ông bà anh chị em,

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã long trọng căn dặn các môn sinh: “Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trên cao ban xuống”. Và 10 ngày sau biến cố Thăng Thiên, lời hứa đó đã trở thành hiện thực và hiện thực “cách hoành tráng” với biến cố Thánh Thần Hiện Xuống trên các Tông đồ trong chính ngày lễ Ngũ Tuần, một ngày đại lễ của người Do Thái được cử hành sau lễ Vượt Qua 50 ngày để kỷ niệm sự kiện ký kết Giao Ước Si-Nai và cũng là ngày lễ Tạ ơn sau mùa bội thu hoa màu phong đăng kết quả.

Như vậy, Phụng vụ lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống hôm nay chính là tái diễn “Sự kiện Ngũ Tuần” năm xưa; và vì thế, cũng mang những ý nghĩa cơ bản mà lễ Ngũ Tuần đã báo trước:

-Thánh Thần hiện xuống để hoàn tất Giao Ước Mới của Đức Kitô để chính thức hình thành Dân Mới của Thiên Chúa là Giáo Hội thay thế “dân cũ của giao ước Si-Nai là Ít-ra-en”.

-Thánh Thần hiện xuống để mang lại cho nhân loại niềm hân hoan, sức sống phong phú là kết quả của hồng ân cứu độ từ cuộc Vượt Qua của Đức Kitô.

Chúng ta dâng Thánh lễ hôm nay với tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân Thánh Thần chúng ta đã nhận được; đồng thời cầu xin Chúa Thánh Thần “lại đến để canh tân bộ mặt trái đất”, “tưới gội nơi khô cạn, chữa lành mọi vết thương, lạnh lùng xin sưởi ấm, cứng cỏi uốn cho mềm…”

Giờ đây, để xứng đáng cử hành Thánh lễ và nhận lãnh dồi dào ân sủng Thánh linh, chúng ta hãy đón nhận Nước Thánh, như dấu chỉ quyền năng thanh tẩy và sức sống dâng trào của Chúa Thánh Thần

Giảng Lời Chúa:

Trong ý nghĩa nhiệm mầu của tiến trình lịch sử cứu độ hay trong chuổi thăng trầm của lịch sử thế giới, nếu chọn một thời điểm tương đối chính xác để xác định ngày khai sinh chính thức của Giáo Hội Chúa Kitô, chắc chắn phải chọn ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống dịp lễ Ngũ Tuần mà Phụng vụ hôm nay đang long trọng cử hành.

Gọi Lễ Chúa Thánh Thần là ngày khai sinh hay “Quốc khánh” của Giáo Hội, không ngoài những lý do nầy:

Bởi vì trong chính ngày nầy, những “ngọn lưởi lửa tình yêu và ân sủng tuôn đổ dạt dào trên nhóm mười hai” để từ đó một thế giới mới chính thức được khai sinh, thế giới của ân sủng và tình yêu, thế giới của yêu thương và hiệp nhất, thế giới hồng ân cứu độ.

Bởi vì cũng trong chính ngày nầy, Giáo Hội tiếp tục được Đức Kitô phục sinh “thổi hơi ấm Thần Linh của Ngài trên thân thể của mình”, để biến những con người khiếp nhược, chết nhác, ngồi im trong phòng đóng chặt mọi cánh cửa vì sợ dân Do Thái đã trở nên mạnh mẽ phi thường, khôn ngoan xuất chúng lao đi khắp bốn phương trời để loan báo Tin mừng cứu độ.

Và bởi vì hôm nay “mùa bội thu của công trình cứu độ đã bắt đầu hiện thực” với chỉ một bài giảng của anh dân chài Phêrô đã có khoảng 3.000 người được thanh tẩy để khởi đi từ đó “muôn tiếng nói và ngôn ngữ, muôn quốc tịch và màu da cùng sum họp một nhà để ca tụng Thiên Chúa”…

Tất cả đó chính là công cuộc của Ngôi Ba Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa mang nhiều tên gọi gần gũi với cuộc sống đời thường: Đấng Bảo Trợ, Thần Khí sự thật, Chim Câu dịu hiền, Dòng sông dạt dào sức sống, Hơi thở tác sinh, Ngọn lửa nồng nàn thanh tẩy và sưởi ấm.

Và cũng từ những tên gọi đó, chúng ta có thể dừng lại để chiêm ngưỡng gần hơn dung mạo của Chúa Thánh Thần.

1. Chúa Thánh Thần Đấng ban Sự sống (Khí, Nước)

Sự sống đó là kỳ công của chương trình Sáng Tạo và cũng là cùng đích của chương trình cứu độ. Ngay từ thở ban sơ khi mọi sự còn trong cảnh hổn mang, thì “Thần Khí Chúa đã bay là là trên mặt nước” và sự sống đã phát sinh từ độ ấy. Và còn hơn thế nữa, sự hiện hữu của con người đã khởi sự với bùn đất tầm thường, nhưng một khi nhận “Hơi thở thần linh” của Thiên Chúa đã trở nên “con người mang ảnh hình Thiên Chúa”, một Ađam bằng xương bằng thịt tuyệt vời (St 2,7). Sự sống tốt lành thánh thiện ấy tưởng đâu đã tiêu tan đi với cơn Đại Hồng Thủy thanh tẩy địa cầu vì tội lỗi ngập tràn thế gian; thế nhưng “dòng sông ân sủng lại tuôn tràn” khi Nước sông Giođan đã dội lên Vị Cứu Thế từ trời cao nhập thể (Mc 1,9-11). Vâng, kể từ phép rửa khai mạc sứ vụ cứu thế nơi dòng sông Giođan ấy, kẻ nào “đến với Ngài và tin vào Ngài thì từ nơi họ sẽ tuôn chảy một nguồn nước sống”( Ga 7,37-38).Chẳng hạn

- Tiệc cưới Cana hôm nào suýt nữa bẻ mặt vì thiếu rượu, đã nhận được một lúc hàng ngàn lít “nước đã biến thành rượu ngon” để “nhân loại hôm ấy” ngập tràn hân hoan và hạnh phúc.

- Người phụ nữ Samaria đã nhận được “dòng nước ấy” bên bờ giếng Giacóp khi đối thoại chân tình với Ngài để từ hôm ấy bổng đổi đời.

- Và rồi hàng hàng lớp lớp những con người khác như Giakê, Lêvi, Maria mađalêna, Nicôđêmô, Người phụ nữ ngoại tình, người trộm bị đóng đinh một khi đến và tin vào Ngài lập tức một nguồn nước sống đã tuôn chảy dạt dào nơi trái tim họ, nơi cuộc sống họ, để từ đó quả thật như sứ ngôn Êgiêkien: họ đã được tái tạo để có “một trái tim mới một tâm hồn mới”.

Thế nhưng, tất cả đó cũng mới chỉ là “dấu chỉ”. Nguồn sống đích thực chỉ được chính thức trao ban cho nhân loại kể từ khi có những dòng “máu và nước tuôn ra từ trái tim của Đấng Bị Đóng Đinh” (Ga 19,34). Nhờ dòng nước vượt qua nầy mà một dòng tộc mới, một dân mới được khai sinh cùng với dòng nước tái sinh của nhiệm tích thánh tẩy.

Phụng vụ lễ Chúa Thánh Thần hôm nay cũng đang trình bày với chúng ta gương mặt của một Giáo Hội sống động vẹn toàn, trong đó Chúa Thánh Thần - Thần Khí của Thiên Chúa là nguồn mạch trao sự sống, trao ban tự do vui tươi, phẩm giá, thăng tiến và hy vọng. Thảo nào, Chúa Thánh Thần đã chọn chính dịp lễ Ngũ Tuần để ngự xuống trên Hội Thánh buổi ban đầu, dịp lễ của Mùa gặt mới, dịp lễ của tạ ơn vì những hoa trái đầu mùa hái về để dâng tặng Thượng Đế.

Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay đó là chúng ta cử hành mối liên hệ sâu thẳm thân tình giữa Thiên Chúa và con người trong giao ước mới. Qua đó, Thiên Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn con người để trao ban “một trái tim mới, một thần khí mới”.

Mừng lễ Chúa Thánh Thần chính là dịp thuận tiện nhất để chúng ta sống và phát triển hồng ân của bí tích Thanh tẩy, mạnh dạn và trung thành đến với Bí tích Giải tội để qua đó, chúng ta nhận được ơn tha tội và tái sinh một cuộc sống mới hầu trở thành một thụ tạo mới.

Mừng lễ Chúa Thánh Thần còn là dịp để chúng tiếp tục sinh những hoa quả phúc đức của bác ái đối với anh chị em xung quanh, hoa quả của cuộc sống công bình chính trực, của lương tâm ngay thẳng thật thà, của trái tim từ bi nhân hậu, của cõi lòng vị tha, quảng đại và hiệp nhất…

Tuyên xưng “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống” cũng có nghĩa là cuộc sống phải không ngừng chết đi cho tội lỗi để tái sinh một đời sống mới trong ân nghĩa Chúa, là không ngừng vươn lên bức phá khỏi cái tôi tầm thường nô lệ để “hướng theo Thánh Thần để tiến bước”, để kết trái đơm hoa công chính thánh thiện.

2. Chúa Thánh Thần Đấng thanh tẩy và đổi mới (Lửa):

Hình ảnh “những lưỡi bằng lửa” đổ xuống trên các Tông Đồ dịp Lễ Ngũ Tuần như muốn liên tưởng đến cảnh tượng uy hùng khói bốc lửa dậy trên đỉnh Sinai khi Thiên Chúa ký Giao Uớc với Dân Người (Bđ 1 của Lễ Vọng). Thật vậy, cuộc thần hiển uy hùng của cựu ước ngày xưa là nhằm để Giavê Thiên Chúa thanh tẩy ký ức và con tim của Dân được chọn hầu làm nên một Dân ưu tuyển, Dân của Giao Uớc mà “pháp luật chính thức chính là Thập Giới”…Thì hôm nay, cuộc thanh tẩy của Thánh Thần trên Giáo Hội sơ khai để Hội Thánh mãi mãi trở nên một Dân Giao Uớc mới, Dân Thánh, Dân Vương Đế, Tư Tế của Thiên Chúa mà luật pháp căn bản chính là “Giới răn yêu thương”, là con đường “Bát phúc”.

Nếu ngày nào Đức kitô đã tuyên bố rằng: “Thầy mang lửa xuống trần gian và thầy muốn lửa ấy cháy lên…”. Điều ấy phải chăng đã ứng nghiệm vào dịp lễ Ngũ Tuần cách đây 2000 năm, khi mấy ngàn người hành hương bất ngờ được lãnh nhận Phép Rửa sau khi đón nghe bài tuyên chứng của Tông Đồ Phêrô. Một cuộc “đại Thanh Tẩy” nhiệm mầu để từ đó có bao nhiêu cuộc thanh tẩy khác đã được Thánh Thần tác động không ngừng nghỉ trong lịch sử loài người.

Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay phải chăng là một lần nữa để Chúa Thánh Thần thanh tẩy cuộc sống vốn đã bị hoen rĩ vì bao nhiêu tính hư tật xấu bám riết vào cuộc sống. Lời ca Tiếp Liên hôm nay là một lời nguyện cầu đầy ý nghĩa cho cuộc thanh tẩy nội tâm nầy:

Hỡi hào quang linh diệu

Xin chiếu giải ánh hồng

Vào tâm hồn tín hữu

Cho rực sáng tinh trong

Hết những gì nhơ bẩn...


3. Chúa Thánh Thần Đấng qui tụ, hiệp nhất

Ai cũng biết, nhân loại đã có một thời thất bại khi cùng nhau xây tháp Babel. Lý do đơn giản vì “ngôn ngữ bất đồng”. Cũng dễ hiểu thôi, vì một khi tội lỗi đã nhập vào trần gian thì tất cả mọi ngôn ngữ trong thế giới của Thiên Chúa phải “cuốn gói ra đi” để nhường chỗ cho một thứ ngôn ngữ mới: ngôn ngữ của hận thù, xâu xé, ích kỷ, tham lam, nhỏ nhen, bạo lực. Làm sao có thể xây được một tháp Babel của tình huynh đệ hiệp nhất, của hữu nghị khoan dung, của yêu thương hòa giải khi con người chỉ biết nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ chết tiệt đó. Thế nhưng, may cho con người chúng ta, Con Thiên Chúa đã đến để dạy cho con người học biết ngôn ngữ của chính Ngài, ngôn ngữ của hiệp nhất, yêu thương, hòa giải: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu chúng con…Người ta cứ dấu nầy….Không có tình yêu nào lớn…”. Trước cửa nhà các Thánh Tông Đồ hôm nay, sách CVTĐ đã mô tả thật chính xác và sinh động về cuộc “khai trương một công trình Babel mới” mà tất cả các công nhân trên công trường nầy sẽ nói và hiểu chung một ngôn ngữ: Ngôn ngữ Tình Yêu, Ngôn Ngữ do chính Chúa Thánh Thần trao ban và dạy dỗ, ngôn ngữ của tình thương cứu độ, ngôn ngữ Giêsu.

Thảm cảnh của một nhân loại bị phân tách và chia rẽ của tháp Babel ngày xưa giờ đây được Chúa Thánh Thần qui tụ về một mối, nói và hiểu cùng một thứ ngôn ngữ, ngôn ngữ tình yêu của con cái Thiên Chúa. Nói cách khác, Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự hợp nhất trong Giáo Hội, bởi vì mọi đặc sủng và ơn thánh đều bắt đầu từ một Thần Khí, một Chúa là Thiên Chúa duy nhất như lời khẳng định của Thánh Phaolô trong BĐ 2 hôm nay:

“Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người...

“Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất”


Khẳng định trên đây của thánh Phaolô đặc biệt thời sự trong bối cảnh của cộng đoàn Kitô hữu Côrintô ngày xưa đang gặp sự chia rẽ và cũng rất thời sự đối với mọi cộng đoàn tín hữu chúng ta hôm nay. Qua ơn thánh của Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, mọi tín hữu phải ý thức trở lại sự hiệp nhất này, sự hiệp nhất trong Chúa Giêsu Kitô, Con Người mới, Ađam mới, ông tổ của một nhân loại mới.

Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay là mừng những nỗ lực Đại Kết không mệt mõi của Giáo Hội, là mừng cuộc tông du vừa qua tại Hoa Kỳ của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, đang là yếu tố củng cố và nối kết mọi thành phần Giáo Hội địa phương để thế giới càng ngày càng huynh đệ hơn, công bằng hơn hòa bình và và hiệp nhất hơn.

Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay còn là sự can đảm đẩy lùi mọi biểu hiện của hận thù và ghen ghét, của chia rẽ và cách ngăn, của đố kỵ và bất khoan dung nơi chính cuộc sống nầy, môi trường nầy, gia đạo nầy…

Như vậy, lễ Chúa Thánh Thần được cử hành hôm nay phải chăng là nối tiếp Lễ Chúa Thánh Thần cách đây 2000 năm nơi Nhà Tiệc Ly của các tông đồ. Và chính vì thế, chúng ta lại tiếp tục “mở tung các cánh cửa” của con tim để ra đi làm chứng cho tình thương cứu độ của Thiên Chúa, làm chứng sự hiện diện đầy quyền năng và yêu thương của Đức Kitô Phục Sinh, làm chứng về những hồng ân và sức mạnh tác sinh của Chúa Thánh Thần như lời chứng của Đức thượng Phụ Metropolite Ignatios Lahaquié Syrie khi nói về mầu nhiệm Chúa Thánh Thần đã có những lời thâm thúy sau:

“Nếu cuộc sống vắng bóng Thánh Linh

Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách

Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ

Phúc âm chỉ là mớ giấy không hồn

Và Giáo Hội khác nào một cơ cấu phàm nhân…”


Giờ đây, để nhận lãnh dồi dào hồng ân Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy ngoan ngùy khiêm tốn liên kết với Đức Trinh nữ Maria và tha thiết cầu nguyện đợi chờ Đấng Bảo Trợ ngự đến với đầy lòng xác tín như lời kinh Ca Tiếp Liên:

Những ai hằng tin tưởng, Trông cậy Chúa vững vàng

Dám xin Ngài rộng lượng, Bảy ơn thánh tặng ban
 
Vị anh hùng người Đức cứu sống hằng ngàn người Do thái
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
16:38 10/05/2008
VỊ ANH HÙNG ĐỨC CỨU SỐNG HÀNG NGÀN NGƯỜI DO THÁI

Thứ tư 22-3-1995, sau buổi tiếp kiến chung hàng tuần các tín hữu Công Giáo hành hương, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II (1978-2005) đã tiếp riêng bà Emilie Schindler (1907-2001), góa phụ kỹ nghệ gia người Đức Oskar Schindler (1908-1974).

Năm ấy bà Emilie 87 tuổi và sống tại Buenos Aires, thủ đô nước Argentina. Tên tuổi bà gắn liền với tên tuổi hiền phu - ông Oskar Schindler - vì hành động bác ái phi thường ông bà thực hiện trong thời thế chiến thứ hai 1939-1945.

50 năm sau khi thế chiến thứ hai kết thúc, người ta mới bắt đầu nói nhiều và biết đến ông Oskar Schindler, nhờ cuốn sách ”La Liste de Schindler” của ông Thomas Michael Keneally. Trong sách, ông Keneally đã kể lại những hành động bác ái của nhà anh hùng. Cuốn sách là đề tài gợi hứng cho cuốn phim mang cùng tên ”La Liste de Schindler” của nhà đạo diễn Steven Allan Spielberg.

Tháng Giêng năm 1995, chính quyền Argentina quyết định trao tặng huân chương danh dự “Orden de Mayo” cho bà quả phụ Schindler, vì đã hợp tác với chồng trong việc cứu 1.200 người Do-Thái thoát khỏi nanh vuốt của quân đức-quốc-xã tại Ba Lan, trong thời thế chiến thứ hai.

Trong nghi lễ nhận huân chương, bà Emilie cảm động nói:

- Nhờ cuốn phim nổi tiếng ”La Liste de Schindler” mà thế giới được biết những gì chồng tôi và tôi, chúng tôi đã làm cho người Do-Thái tránh khỏi cuộc diệt chủng. Tôi không tự xem là kẻ anh hùng. Tôi cũng không nghĩ mình xứng đáng được ca ngợi. Ngày đó, khi thi hành công tác bác ái, tôi không hề nghĩ đến giải thưởng hoặc được trả công bội hậu. Chúng tôi làm vì đó là vấn đề SINH-TỬ, thế thôi! Thật đau thương, nhưng cũng thật giản dị!

Ngược dòng thời gian, tháng 9 năm 1939, quân Đức chiếm đóng Ba Lan. Họ lần lượt tịch thu các hãng xưởng kỹ nghệ trong nước. Mấy tháng sau, gia đình Oskar Schindler - người Đức - từ Brinnlitz bên Tiệp-Khắc di dân đến sinh sống tại Cracovia (Ba Lan), với hy vọng làm giàu. Năm ấy, ông Oskar Schindler là kỹ nghệ gia trẻ, với số tuổi 30.

Ông Oskar Schindler tìm mua ngay một xưởng kỹ nghệ không lớn lắm. Nhưng với tài năng trẻ trung khôn khéo, ông bắt đầu xây dựng từ con số không. Và cũng chính từ giây phút đó, ông bắt tay vào việc cứu người Do-Thái sống trong vùng. Lúc đó, quân đức-quốc-xã đã truy lùng và tiêu diệt người Do-Thái. Một số lớn đã bị đưa vào trại tập trung Auschwitz và Plaszow.

Xưởng kỹ nghệ mỗi ngày một hoạt động mạnh. Năm 1941 xưởng của ông Schindler thuê 300 thợ, phân nửa là người Do-Thái. Năm sau, con số tăng lên 800, trong đó có 370 thợ Do-Thái. Họ đến từ các khu vực dành riêng cho người Do-Thái mà bọn đức-quốc-xã thành lập tại Cracovia. Ông Schindler cư xử rất lịch sự và khoan hậu với nhân viên thợ thuyền. Chưa hết, ông tìm mọi cách giúp đỡ người Do-Thái đã bị đưa vào các trại tập trung. Ông khéo léo mua chuộc các viên chỉ huy đức-quốc-xã để họ đưa các tù nhân Do-Thái đến sống tại một trại tập trung gần nơi xưởng kỹ nghệ của ông. Nhờ đó, ông có thể lén lút tiếp tế lương thực và thuốc men cho các tù nhân.

Mùa xuân năm 1944, trước cơ nguy thất trận, quân đức-quốc-xã định thủ tiêu trại tập trung Plaszow và các trại lân cận. Ông Oskar Schindler liền chơi con cờ cuối cùng. Ông đút lót tiền bạc cho bọn đức-quốc-xã để xin di chuyển xưởng kỹ nghệ của ông về Brinnlitz (Tiệp Khắc) và mang theo 1000 tù nhân Do-Thái, gồm 700 người đàn ông và 300 người đàn bà.

Tình thương và lòng quảng đại của ông Oskar thật vô bờ. Ông bán hết gia sản cùng nữ trang của vợ để có tiền, vừa đút lót bọn đức-quốc-xã, vừa mua sắm áo quần, thuốc men và lương thực cho những gia đình Do-Thái mà ông bảo bọc chở che. Vợ ông, bà Emilie, vừa lo việc ăn uống vừa chăm sóc người đau ốm.

Ngày 9-5-1945, quân đội Nga đổ bộ lên Brinnlitz. Sau khi biết rõ những người thợ Do-Thái của mình được bảo vệ an toàn, ông Oskar Schindler cùng với cả gia đình kín đáo rời Brinnlitz. Ban đầu gia đình ông đến sống tại Áo, sau đó thì trở về Đức.

Trong thời gian này, ông sống nhờ lòng hảo tâm của những người Do-Thái mà ông đã cứu sống. Đến năm 1949, một hiệp hội Do-Thái người Mỹ đã xin chiếu khán nhập cảnh cho ông đi Argentina. Gia đình ông đến sống tại thủ đô Buenos Aires. Năm 1957, ông Oskar ly dị vợ và về Đức sinh sống. Tại đây, ông trút hơi thở cuối cùng vào năm 1974, hưởng thọ 66 tuổi.

Ngày ông Oskar Schindler qua đời, thế giới không một ai biết câu chuyện cuộc đời ông, ngoại trừ Israel. Chính quyền Israel mang thi hài ông về chôn cất tại Giêrusalem và một cây được trồng trong “Lối Đi Những Người Công Chính” để ghi nhớ tên tuổi và công nghiệp của ông. Trước đó, ngày 18-7-1967 Viện Yad Vashem ở Giêrusalem đã ghi tên ông Oskar Schindler vào sổ những người công chính. Hơn 25 năm sau, ngày 24-6-1993 Viện Yad Vashem lại ghi tên bà Emilie Schindler vào danh sách những người công chính,

Cuộc đời bác ái anh hùng của ông bà Oskar-Emilie Schindler được tóm tắt trong câu:

- Liên đới và cứu giúp tất cả những anh chị em đồng loại gặp cảnh khốn cùng.

... ”Ai đón tiếp anh chị em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ. Ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một ly nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh chị em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Matthêô 10,40-42).

(Radio (Vatican) Giornale 24-3-1995 + Reader's Digest Sélection, Novembre/1994, trang 15-20)
 
Mỗi ngày một câu chuyện (dành cho trẻ em)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:59 10/05/2008
HOA TIÊN TỬ

N2T


Ngày xửa ngày xưa, vạn vật đột nhiên bị một đại họa tuyết rơi mà từ xưa đến nay chưa hề có, khắp nơi đều phủ đầy một màu trắng xóa, gió lạnh buốt xương thổi tuyết bay đầy trời. Một hôm, một trận cuồng phong dữ dội lại còn đem Hoa Tiên tử ở trên trời thổi bay xuống nhân gian.

Trước đây rất lâu, hoa tiên tử đã nghe phụ thân nói, nhân gian thì rất đẹp, ở đó có nước trong xanh biếc, có những đóa hoa đẹp rực rỡ, nhưng bây giờ sao lại như thế này chứ ? Hoa Tiên tử đang nghĩ như thế, thì đột nhiên nghe một âm thanh yếu ớt: “Cứu tôi với ! Ai đến cứu tôi với ! Tôi đang bị tuyết phủ ngập sắp chết đây nè.”

Hoa Tiên tử nghe theo âm thanh ấy và đi tìm, thì ra là một cây già, nó bị tuyết rơi ngập tựa hồ thở không được, Hoa Tiên tử vội vàng lây ra đôi cánh thiên nga, biến thành cái quạt dùng sức quạt những cụm tuyết dính trên thân cây. Không bao lâu thì cái lưng của cây già đều có thể thẳng đứng lên,lắc lắc cành cây cám ơn hoa tiên tử.

Hoa Tiên tử chùi những giọt mồ hôi trên đầu, lại nghe dưới chân có một âm thanh nói: “Hoa Tiên tử, cô cũng đến cứu con của tôi nhé, chúng nó đều bị tuyết rơi đông lạnh sắp chết rồi.” Hoa Tiên tử cúi đầu nhìn xuống, té ra là hoa núi mẹ, những cánh hoa đẹp của nó bị tuyết làm đông cứng sắp khô héo rồi.

Hoa Tiên tử vội vàng lấy vương miện đội trên đầu, lấy những cánh hoa trên vương miện rải trên đất. Những cánh hoa bị tuyết làm cho tàn héo lập tức hồi phục lại dáng vẻ tốt tươi đẹp đẽ, chúng nó kéo tay nhau lớn tiếng nói: “Cám ơn cô HoaTiên tử.”

Hoa Tiên tử đi đến bên con sông nhỏ, nhìn thấy trên mặt nước tuyết đã đóng thành băng rất dày, dưới tảng băng cá bị lạnh run lẩy bẩy. “Quá tội nghiệp mấy chú cá”, thế là Hoa Tiên từ nằm trên băng tuyết, dùng hơi ấm từ trong mình từ từ làm cho tuyết tan ra, các chú cá vì thế mà được cứu, nhưng Hoa Tiên tử cũng vì đó mà bị đông cứng.

Mọi người đều lấy làm buồn, chúng nó đem Hoa Tiên tử đặt trên đám cỏ mềm mại. Hoa núi mẹ mớm cho nó nước sương ngọt lịm; trên không trung lũ chim ca những bái hát hay cho nó nghe; những chú cá ở trong nước thì nhảy những vũ điệu mê ly.

Cuối cùng thì Hoa Tiên tử cũng tĩnh lại, nó đứng lên hướng về mọi người cúi mình thật sâu và nói: “Cám ơn mọi người, những bạn tốt của tôi. Tôi cần phải đi, nhưng mỗi năm vào giờ này tôi sẽ trở lại thăm các bạn, tạm biệt.” Nói xong, nó ngồi trên đôi cánh thiên nga biến thành ciếc thuyền bay lên trời.

Cứ như thế, mỗi năm mùa xuân về, khi Hoa Tiên tử đến nhân gian thì băng tan rã, cỏ mọc xanh tươi, hoa nở rất đẹp, mọi người đều lấy khí thế mới để đón tiếp Hoa Tiên tử đến, sau đó mọi người gọi Hoa Tiên tử là “nàng Xuân”.

(Trích: Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn)

Gợi ý:

Các em thân mến,

Mỗi đóa hoa, mỗi ngọn cỏ, mỗi gốc cây của thiên nhiên đều phải nhờ sự yêu quý bảo vệ của mỗi người chúng ta, thì mới có thể gìn giữ được sự lâu bền của cái đẹp và lành mạnh, bởi vì đó là công trình sáng tạo của Thiên Chúa, và nhờ đó mà hoàn cảnh phẩm chất của chúng ta cũng mới có thể vì đó mà được thăng tiến.

Thế giới là một đại gia đình rất lớn, mà mỗi quốc gia dân tộc đều phải có bổn phận gìn giữ thế giới này có hòa bình, những quốc gia giàu có là những Hoa Tiên tử luôn biết quên mình để cứu giúp các nước nhỏ.

Trong gia đình, các em cũng có bổn phận trân trọng và quý mến những gì mà cha me đã làm cho gia đình: tưới nước cho một chậu bông, quét sạch nhà bếp, giữ gìn góc học tập cho thoáng đẹp.v.v...

Mỗi một người đều phải là một Hoa Tiên tử biết quý trọng những gì mà người khác đã có công gầy dựng nên, mà Hoa Tiên tử tượng trưng cái gì các em biết không ?

Hoa Tiên tử tượng trưng cho lòng bác ái, nhân hậu của chúng ta đó.

Các em thực hành:

- Luôn cầu nguyện để xin Chúa ban cho mình tấm lòng bác ái đối với mọi người.

- Tôn trọng và gìn giữ của chung.

- Mỗi ngày tập làm một việc thiện.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:01 10/05/2008
N2T


19. Thánh sủng có thể làm cho người có tinh thần nghèo khó được giàu có đức hạnh, lại có thể làm cho người giàu có đức hạnh được khiêm tốn trong lòng.

(sách Gương Chúa Giê-su)
 
Giải thích Tin Mừng Chúa Nhật: Quyền phép từ trên
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
18:06 10/05/2008
ROME (Zenit.org).- Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchin, là vị giảng Phủ Giáo Hoàng, đã giải thích những bài đọc Thánh Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Mọi người đã thấy trong vài dịp những kẻ đẩy một chiếc xe chết máy, cố gắng cho nó lăn bánh đủ để nổ máy. Có một hay hai người đẩy từ phía sau và một người khác đẩy trên bánh. Nếu chiếc xe không rục rịch đi sau lần thử đầu, họ ngưng đẩy, lau chùi mồ hôi, lấy hơi và thử lại lần nữa….

Rồi thình lình có một tiếng động, máy bắt dầu làm việc, chiếc xe di chuyển tự nó và những người đẩy nó đứng thẳng lên và thở một cái thở dài lấy sức.

Đó là một hình ảnh về điều xảy ra trong sự sống Kitô hữu. Người ta cố gắng nhiều để đi tới, mà không tiến triển nhiều. Nhưng chúng ta có một cái máy rất mạnh (“máy từ trên cáo!”) chỉ cần đưa ra làm việc. Ngày Lễ Hiện Xuống sẽ giúp chúng ta tìm ra cái máy đó và biết cách cho máy đó chạy.

Bài tường thuật từ Sách Công Vụ Tông Đồ bắt đầu như thế này: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi.”

Từ những lời này, chúng ta thấy ngày lễ Ngũ Tuần đi trước ngày lễ Hiện Xuống. Nói cách khác, đã có một lễ Ngũ Tuần trong Do Thái Giáo và chính trong lễ này mà Chúa Thánh Thần hiện xuống. Người ta không thể hiểu lễ Hiện Xuống Kitô giáo mà không biết lễ Ngũ Tuần Do Thái Giáo đã chuẩn bị cho lễ Hiện Xuống.

Trong Cựu Ước có hai giải thích cho lễ Ngũ Tuần. Từ đầu có ngày lễ bảy tuần, lễ mùa thu hoạch, khi hoa quả đầu tiên được hiến dâng cho Chúa, nhưng về sau, và chắc trong thời gian Chúa Giêsu, lễ được phong phú hoá với một ý nghĩa mới: đó là lễ trao ban lề luật và giáo ước trên núi Sinai.

Nếu Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Giáo Hội chính xác trong ngày dân Israel cử hành lễ ban luật và giao ước, thì điều này chỉ Chúa Thánh Thần là luật mới, luật thiêng liêng đóng ấn giáo ước mới đời đời. Một luật không còn viết trên những bia đá nhưng trên những bia bằng thịt, trong tâm hồn con ngừoi.

Những sự suy xét này liền khơi lên một câu hỏi: Chúng ta sống dưới luật cũ hay luật mới? Chúng ta hoàn thành những nghĩa vụ tôn giáo chúng ta do cưỡng chế, do sợ hay thói quen, hay đúng hơn do một niềm xác tín nội tại và gần như do sự hấp dẫn? Chúng ta cảm nghiệm Thiên Chúa như một người cha hay người chủ?

Tôi kết thúc bằng một câu truyện. Vào đầu thế kỷ qua, một gia đình từ miền nam nước Italy di dân sang Hoa Kỳ. Vì không đủ tiền trả cho các món ăn tại các nhà hàng, họ mang theo bánh và pho mát để đi đường. Với những ngày và những tuần qua bánh trở nên ôi và pho mát thành mốc; tới một lúc nào đó đứa con của họ không thể ăn được nữa và nó chỉ biết khóc.

Cha mẹ lấy chút tiền còn lại của họ và cho đứa bé, để nó có thể có một bữa ăn ngon tại một nhà hàng. Đứa con đi, ăn và trở lại với cha mẹ nó trong nước mắt. Cha mẹ hỏi: ‘Cha mẹ đã tiêu tất cả số tiền cha mẹ giữ để mua cho con một bữa ăn ngon mà con còn khóc ?”

“Con khóc vì con khám phá ra một bữa ăn một ngày tổn phí bằng trọn thời gian mà chúng ta đã ăn bánh và phó mát!”

Nhiều người Kitô hữu sống chỉ với “bánh và phó mát,” không niềm vui, không nhiệt tình, đang khi có thể nói cách thiêng liêng, mỗi ngày họ hưởng tất cả sự tốt lành của Thiên Chúa, vì tất cả đều bao gồm trong cái giá làm người Kitô hữu.

Bí quyết cảm nghiệm điều Đức Gioan Phaolô II gọi là “một Lễ Hiện Xuống mới” được gọi là sự cầu nguyện. Đó là nơi chúng ta tìm được “tia lửa” làm cho máy nổ!

Chúa Giêsu đã hứa rằng Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người (Lk 11: 13). Vậy hãy xin! Phụng Vụ lễ Hiện Xuống cống hiến chúng ta những lời lộng lẩy để làm điều này:

“Lạy Chúa thánh Thần, xin hãy đến…………………………
 
Việc làm cản trở Ơn Thánh Thần
Lm Trần Bình Trọng
19:48 10/05/2008
Lễ Chúa Hiện Xuống, Cv 2:1-11; 1Cr12:3b-7,12- 13; Ga 20:19-23

VIỆC LÀM CẢN TRỞ ƠN THÁNH THẦN

Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có thể nói được là ngày sinh nhật của Giáo hội và cũng là ngày các tông đồ chính thức lãnh sứ vụ rao giảng tin mừng cứu độ. Trước ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, người ta thấy cảnh một tông đồ bán Thầy. Còn mười một ông kia thì nhát như cáy. Khi Chúa Giêsu bị bắt, một tông đồ đã chối Thày ba lần, số còn lại tìm chỗ lẩn trốn. Khi được tiếp nhận Thánh Thần: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20:22), các tông đồ đổi mới tận gốc. Các ông không còn sợ hãi nữa, như Sách Công Vụ Tông Ðồ ghi lại: Ai nấy được đầy tràn ơn Thánh Thần (Cv 2:4). Họ bắt đầu rao giảng lời Chúa cách tự tin (Cv 4:31) và với quyền năng Chúa trao ban, họ làm chứng cho việc Chúa sống lại (Cv 4:33) và làm nhiều phép lạ cho người ta tin tưởng (Cv 5:12).

Không những Chúa Thánh Thần biến đổi đời sống các tông đồ, mà còn biến đổi đời sống của những người tin theo lời họ giảng dạy. Sách Công Vụ Tông Ðồ còn ghi: Tất cả mọi kẻ tin đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ bán tài sản gia nghiệp rồi phân phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu từng người (Cv 2:44-45). Mỗi ngày Chúa cho gia tăng số những người được cứu rỗi (Cv 2:47). Có ngày thêm chừng năm ngàn người gia nhập đạo Chúa (Cv 4:4). Hằng ngày họ hiệp nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền thờ (Cv 4:33).

So sánh những hoạt động của Chúa Thánh Thần thời Giáo Hội sơ khai với thời nay, có những người tự hỏi: Tại sao Chúa Thánh Thần không làm những việc đại thể trong thời đại ta đang sống? Rồi họ kết luận: Thời đại ta đang sống không phải là thời đại Chúa Thánh Thần. Thiết tưởng hôm nay mỗi người phải loại trừ ra khỏi đầu óc quan niệm cho rằng thời đại họ đang sống không phải là thời đại Chúa Thánh Thần. Trước hết không có chuyện bảo rằng thời đại nào đó, không phải là thời đại Chúa Thánh Thần. Thời đại mà người ta cho rằng không phải là thời đại Chúa Thánh Thần là tại lỗi người ta chứ không phải tại Chúa Thánh Thần vắng mặt. Chúa Thánh thần luôn ở với Giáo hội và tiềm ẩn trong lòng người tín hữu.

Nếu ơn Chúa Thánh Thần không hoạt động và tăng trưởng trong đời sống ta được là vì ta đã đóng cửa nhà tâm hồn lại, hoặc ta làm tắc nghẽn hoạt động của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn. Ta làm cho hoạt động của Chúa Thánh Thần bị tắc nghẽn bằng những chướng ngại vật trong đời sống như khi ta làm việc thờ phượng, đạo đức một cách máy móc cho qua lần chiếu lệ. Ta làm ứ đọng hoạt động của Chúa Thánh Thần khi ta chỉ giữ những điều kiện tối thiểu của người công giáo, khi ta bủn xỉn và tiếc rẻ thời giờ thờ phượng và làm việc tông đồ. Ta làm cho ơn Chúa Thánh Thần bị tắc nghẽn, khi ta mặc cả với Chúa để được hưởng giá rẻ cho việc làm môn đệ, như khi ta nói với Chúa: Nếu con làm việc này cho Chúa, con sẽ được thưởng công gì? Nói như vậy thì giống như là nói với cha mẹ: Thưa ba má, nếu con làm việc nọ chuyện kia cho ba má, con sẽ được thưởng công gì? Nếu cha mẹ không thích lối mặc cả đó của con cái, thì theo kinh nghiệm của những nhà dẫn đàng thiêng liêng, Chúa cũng không ưa thích lối mặc cả ti tiện đó của loài người. Ta cứ sống và làm việc cho Chúa cách quảng đại, Chúa sẽ bù đắp lại cho ta cách tràn đầy và sung mãn.

Ta làm cản trở hoạt động của Chúa Thánh Thần khi ta phân chia trái tim thành những ngăn ô khác nhau như một ngăn dành cho công việc làm, một ngăn dành cho việc giải trí, một ngăn dành cho việc ăn uống, một ngăn dành cho việc ngủ nghỉ.. Và những ngăn đó thì ta không cho Chúa vào. Còn cái ngăn nhỏ nhất cuối cùng, ta mới dành cho Chúa, cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Một chướng ngại vật nữa làm cản trở hoạt động của Chúa Thánh Thần là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu như lười biếng, bê tha, tham lam, ích kỷ, ghen tuông, giận hờn, nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian, bịa đặt, vu khống, khoe khoang, tự phụ... Một tâm hồn đầy chướng ngại vật như vậy là tâm hồn thiếu sự bình an, làm cản trở cho hoạt động của Chúa Thánh Thần. Ðể có thể uống được chất bổ béo dưới đáy ly cà phê sữa ông thọ chẳng hạn, ta phải khuấy động chất sữa đọng duới đáy ly. Ðể làm tăng trưởng hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống, ta phải loại bỏ chướng ngại vật trong tâm hồn để ơn Chúa có thể thấm nhập vào mọi lãnh vực của cuộc sống.

Ơn Chúa Thánh Thần có thể tác động tâm hồn bất cứ ai miễn là họ biết mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa và cộng tác với ơn Người. Và đó là chính lúc mà ta cảm nghiệm được thời đại Chúa Thánh Thần trong tâm hồn và đời sống cá nhân. Và nếu các phần tử trong Giáo Hội cũng làm như vậy thì sẽ có được thời đại Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội.

Lời cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến:

Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng Phù trợ các tín hữu
Xin hãy đến, đốt lửa yêu mến trong lòng chúng con.
Xin giúp con biết loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn
là tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu,
để ơn Chúa có thể thấm nhập vào nhà linh hồn con,
cho đời sống con được phản ảnh
bởi tình yêu và sức mạnh Chúa ban
hầu con được trở thành dụng cụ của Chúa. Amen.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đồng Công Cứu Chuộc (4)
Vũ Văn An
02:19 10/05/2008
Đồng Công Cứu Chuộc (4)

Chỉ Là Lòng Sùng Kính

Phản chứng thứ năm cho rằng ý niệm coi Đức Maria là đấng đồng công cứu chuộc chỉ là niềm tin đạo đức do một số người Công Giáo sùng đạo chủ trương. Tuy có được một số vị giáo hoàng nhắc đến, nhưng chỉ trong những văn bản không quan trọng, và không được trình bầy như một học lý tại Công Đồng Vatican II.

Giáo Sư Miravalle cho rằng đối với một tín hữu Công Giáo, vấn đề liệu một chủ trương thần học nào đó có cấu thành giáo huấn học lý chính hiệu của Giáo Hội hay không chủ yếu được minh chứng qua sự hiện diện của nó (hay vắng bóng của nó) trong các giáo huấn được thẩm quyền của Giáo Hội nhìn nhận. Thẩm quyền giáo huấn chính thức của Giáo Hội Công Giáo, gọi tắt là Huấn Quyền, bao gồm giáo huấn chính thức của đức giáo hoàng và các giám mục hiệp thông với đức giáo hoàng dưới sự hướng dẫn tổng quát của Chúa Thánh Thần (48).

Dù có một phẩm trật giữa các phát biểu của thẩm quyền giáo huấn chính thức Công Giáo, đi từ các tín điều được một công đồng chung hay một công bố vô ngộ “ex cathedra” của một vị giáo hoàng xác định, qua giáo huấn học lý tổng quát của công đồng chung, tới các thông điệp, các bài diễn văn của đức giáo hoàng, thì đồng thời vẫn có chỉ thị tổng quát, do chính Công Đồng Vatican II đưa ra, đòi các tín hữu Công Giáo nhất tâm nhất trí với tâm trí của đức giáo hoàng, ngay cả khi ngài không tuyên bố vô ngộ (4). Dù sao, thì mọi giáo huấn học lý của các công đồng chung, thông điệp của các đức giáo hoàng, hay những lời dạy được lặp đi lặp lại một cách nhất quán của các ngài đều cấu thành giáo huấn học lý chính hiệu của Giáo Hội Công Giáo.

Ta hãy thử áp dụng tiêu chuẩn trên vào vấn đề vị thứ học lý của tước hiệu đồng công cứu chuộc nơi Đức Maria xem sao.

Dựa trên các giáo huấn học lý của Công Đồng Vatican II, ta thấy vị thứ học lý của tư cách đồng công cứu chuộc nơi Đức Mẹ là điều không cần phải đặt ra. Xin xem lại các tuyên bố của Công Đồng đã trích dẫn trên đây.

Nhà thần học của Vatican là Cha Jean Galot, S.J., đã xác nhận vị thứ học lý chính thức của tước hiệu đồng công cứu chuộc nơi Đức Maria, dưới ánh sáng giáo huấn của Vatican II như sau:

Dù không dùng thuật ngữ “đồng công cứu chuộc”, rõ ràng Công Đồng đã xác nhận học lý này: một hợp tác thuộc loại độc đáo, một hiệp tác của người mẹ vào cuộc sống và công việc của Đấng Cứu Thế, một hợp tác lên cao điểm ở việc tham dự vào hy lễ trên đồi Calvary, và điều ấy được quy về sự sống siêu nhiên các linh hồn…(53)

Trên tờ L’Osservatore Romano, Cha Galot còn viết thêm: “Công Đồng Vatican II tuy tránh không dùng tước hiệu gây tranh luận này (đồng công cứu chuộc) nhưng đã mạnh mẽ khẳng định học lý bao hàm trong tước hiệu ấy…” (54)

Ngoài sự hiện diện học lý chắc chắn tại Công Đồng Vatican II ra, việc Đức Maria đồng công cứu chuộc với tước hiệu minh nhiên “đấng nữ đồng công cứu chuộc” đã được giáo huấn các vị giáo hoàng lặp đi lặp lại nhất quán suốt từ thế kỷ 19 đến thế kỷ 21, đủ để bảo đảm vị thứ học lý chính hiệu của nó trong lòng Giáo Hội (55).

Lời Đức Lêô XIII: “Khi Đức Maria dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa cùng với Con mình trong đền thờ, Người đã chia sẻ với Con mình sự đền tội đầy đau đớn cho toàn thể nhân loại. Cho nên, chắc chắn một điều Người đã chịu trong thẩm sâu linh hồn Người nỗi thống khổ cay đắng nhất và nỗi dằn vặt khủng khiếp nhất của Con mình. Cuối cùng, chính ngay trước mắt Đức Maria, hy lễ Thần Thánh mà chính Người đã hạ sinh và nuôi dưỡng, đã được hoàn tất…, ta thấy bên Thánh Giá Chúa Giêsu, là Mẹ Chúa, Đấng, trong một hành động yêu thương lạ lùng, để Chúa vui lòng tiếp nhận chúng ta như con cái Mẹ, đã sẵn sàng dâng Con mình cho đức công bình thần thánh, chết lịm trong tâm hồn cùng Con, tâm hồn bị lưỡi gươm sầu thảm đâm thấu” (56).

Đức Thánh Giáo Hoàng Piô X viết: “Nhờ kết hiệp đau đớn và mục tiêu giữa Chúa Kitô và Người, Đức Maria xứng đáng trở nên Đấng Đền Tạ (Reparatrix) cho thế giới sa đọa, và vì lẽ ấy, đấng ban phát mọi ơn mà Chúa Giêsu đã thủ đắc cho ta nhờ cái chết và máu thánh Người…, và vì Chúa Kitô đã chọn Đức Maria làm người cùng hành động với Chúa trong công trình cứu rỗi, nên Đức Mẹ đã lập công trạng theo tình nghĩa (de congruo) cho chúng ta như người ta thường nói, trong khi Chúa Kitô lập công trạng tự mình Người (de condigno) cho ta…” (57).

Đức Bênêđíctô XV: “Sự kiện Người ở cùng Con mình, đang chịu đóng đinh và hấp hối, là điều phù hợp với kế hoạch Thiên Chúa. Căn cứ vào mức độ Người từ bỏ quyền làm mẹ đối với Con mình vì phần rỗi nhân loại, và hiến tế người Con ấy để làm dịu đức công bằng của Thiên Chúa, ta có thể nói cách đúng đắn rằng Người đã cùng với Chúa Kitô cứu chuộc nhân loại vậy” (58).

Đức Piô XI: “Ôi Mẹ yêu thương và nhân từ, Đấng đã đứng bên cạnh khi người Con dịu ngọt nhất của Mẹ đang hoàn tất việc Cứu Chuộc nhân loại trên bàn thờ thánh giá, cùng chịu đau đớn với Con như đấng đồng công cứu chuộc… chúng con khẩn cầu Mẹ gìn giữ chúng con và ngày qua ngày gia tăng hoa trái qúy giá công trình Cứu Chuộc của Người và lòng sót thương của Mẹ thánh Người” (59).

Đức Piô XII: “Chính Người, Đấng luôn luôn mật thiết kết hiệp với Con mình, như Evà Mới, đã dâng Con trên đồi Calvary lên Cha Hằng Hữu, cùng với lễ hy sinh quyền làm mẹ và tình yêu thương của mình, nhân danh mọi con cháu Ađam, từng bị sự sa ngã của tổ phụ ấy làm cho nhơ nhuốc” (60).

Đức Gioan Phaolô II: “Trong Người, rất nhiều đau đớn cùng cực đã được tích tụ một cách liên thuộc đến độ chúng không những chỉ chứng tỏ đức tin không lay chuyển của Người, mà còn là một đóng góp vào công trình cứu chuộc mọi người… Chính trên đồi Calvary, mà cuộc thống khổ của Đức Maria, bên cạnh sự thống khổ của Chúa Giêsu, đã đạt đến cường độ không thể nào tưởng tượng nổi nếu đứng trên quan điềm nhân loại, nhưng lại, một cách mầu nhiệm và siêu nhiên, mang nhiều hoa trái Cứu Chuộc cho thế gian. Sự đồng tâm nhất trí của Người trên đồi Calvary và việc Người đứng dưới chân thánh giá cùng với người môn đệ được Chúa yêu thương quả là một hình thức chia sẻ hết sức đặc biệt vào cái chết cứu chuộc của Con mình” (61).

Đức Gioan Phaolô II viết tiếp: “Cùng chịu đóng đinh thiêng liêng với người Con chịu đóng đinh của mình (xem Gl 2:20), Người đã chiêm ngắm, với một tấm tình yêu thương anh hùng, cái chết của Đấng Thiên Chúa của mình, Người đã ‘nhất trí một cách đầy yêu thương với sự hiến tế hiến sinh này, một hiến sinh chính Người đem vào đời’ (Lumen Gentium, số 58)… Thực vậy, trên đồi Calvary, Người đã kết hiệp nên một với lễ hy sinh của Con mình, lễ hy sinh đã dẫn đến việc lập ra Giáo Hội…Quả thực, vai trò của Đức Maria như là đấng đồng công cứu chuộc không chấm dứt với việc con Mình được tôn vinh” (62).

Như thế, ta thấy rõ ràng cả hai tiêu chuẩn về giáo huấn công đồng chung và các giáo huấn được lặp đi lặp lại cách nhất quán của các vị Giáo Hoàng, qua các thông điệp và lời dạy tổng quát, đủ để hỗ trợ thích đáng cho vị thứ giáo huấn học lý chính hiệu của tước hiệu đồng công cứu chuộc của Đức Mẹ.

Nhưng phe phản chứng cho rằng, các tuyên bố trên đây của các vị giáo hoàng ít có giá trị, vì chúng chỉ được phát biểu bằng những văn kiện không đáng giá. Và do đó, không đại biểu cho giáo huấn học lý chính thức của Giáo Hội. Phản ứng như thế là giả tạo tách tước hiệu đấng nữ đồng công cứu chuộc ra khỏi học lý thần học về việc đồng công cứu chuộc, mà tước hiệu kia vốn liên kết một cách yếu tính và từ đó mà có. Tước hiệu này có ý nói tới chức năng thiêng liêng được Đức Mẹ thủ diễn trong việc cộng tác cách độc đáo vào công trình Cứu Chuộc, và do đó, tách tước hiệu này ra khỏi học lý là phá vỡ một cách không thích đáng và đầy nguy hiểm mối liên kết của nó với nền tảng học lý đã được mạc khải và được giảng dạy một cách có thẩm quyền. Tóm lại, sự chắc chắn học lý về sự đồng công cứu chuộc của Đức Maria bảo đảm sự chắc chắn học lý của tước hiệu Maria Đồng Công Cứu Chuộc.

Đàng khác, việc Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II liên tục, một cách nhất quán, dùng tước hiệu đồng công cứu chuộc (ít nhất 5 lần, xem phần trên), tự nó cũng cất bỏ khỏi tâm trí tín hữu Công Giáo bất cứ vấn nạn nào về tính chính đáng học lý của tước hiệu đồng công cứu chuộc. Có người cho rất có thể Đức Gioan Phaolô lầm lẫn trong phạm vi này. Tuy nhiên, ý nghĩ này xem ra không có cơ sở khi người ta thấy sự đồng thuận lớn lao đối với tâm và trí vị Giáo Hoàng này ngay trong các vấn đề không có tính vô ngộ (64).

Tóm lại, dưới ánh sáng các giáo huấn của cả công đồng chung lẫn của các vị giáo hoàng, việc Đức Maria đồng công cứu chuộc và tước hiệu nữ đồng công cứu chuộc của Người cấu thành giáo huấn học lý chính thức của Giáo Hội Công Giáo.

Đức Maria cũng cần cứu chuộc

Phản chứng thứ sáu cho rằng Đức Maria cũng cần được cứu chuộc, thì làm sao Người đồng cứu chuộc theo nghĩa khách quan được. Nếu Người quả có hợp tác trong việc cứu chuộc khách quan, chả hóa ra không có sự hợp tác của Người, thì việc cứu chuộc khách quan không hoàn tất? Mà nếu thế, thì chính Người cũng không được cứu chuộc. Có cái gì mâu thuẫn ở đây!

Theo giáo sư Miravalle, mâu thuẫn biểu kiến trên sẽ được loại bỏ nếu ta hiểu thế nào là sự “cứu chuộc gìn giữ” (preservative redemption) dưới ánh sáng các công phúc thấy trước của Chúa Giêsu trên thánh giá.

Quả thực Đức Maria cũng cần được “cứu chuộc” để có thể tham dự tích cực vào diễn trình Cứu Chuộc trong tư cách một cộng tác viên vô tội, tức Evà Mới, với Chúa Giêsu Kitô, tức Ađam Mới, và dưới quyền Chúa Kitô. Nếu mắc tội nguyên tổ hay hiệu quả của tội ấy, Đức Maria không thể nào hoàn toàn kết hiệp với Đấng Cứu Chuộc và ở thế “thù nghịch” hay hoàn toàn chống đối Satan và giống dòng tội lỗi và các hiệu quả của nó được (xem St 3:15), trong diễn trình “mua lại” gia đình nhân loại khỏi Satan và tái lập gia đình này trong ơn thánh. Bất cứ tội lỗi nào trong Đức Maria cũng biến Người thành một thứ “nhị trùng” (double agency) kết hiệp cả với Đấng Cứu Chuộc lẫn Satan. Thành thử, trong tư cách con cái Ađam và Evà theo huyết thống nhân loại, Đức Maria cần được cứu chuộc dưới hình thức được gìn giữ khỏi tội và các hiệu quả của tội để có thể thủ diễn nhiệm vụ làm đấng đồng công cứu chuộc với Đấng Cứu Chuộc trong diễn trình cứu chuộc khách quan phổ quát.

Khi xác định tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Thai năm 1854, Chân Phúc Giáo Hoàng Piô IX công bố rằng từ giây phút tượng thai đầu tiên, Đức Maria đã không mắc tội tổ tông và các hiệu quả của tội này “nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô” (65). Điều ấy cho thấy cung cách cao hơn hay tuyệt diệu hơn trong đó Đức Maria được cứu chuộc, hơn hẳn mọi con cháu Ađam và Evà. Trong ơn cứu chuộc của Đức Maria, Người không phải kinh qua tội nguyên tổ và các hiệu quả của nó, trái lại nhờ các công phúc thấy trước của Chúa Giêsu Kitô trên đồi Calvary, Người đã được gìn giữ khỏi bất cứ cảm nghiệm tội nguyên tổ nào hay bất cứ hiệu quả nào của nó, và do đó được cứu chuộc một cách cao siêu hơn nhiều.

Cách cao siêu hơn nhiều này vốn được hiểu như sau: theo kế hoạch quan phòng của Chúa Cha, ý định đầu tiên của Chúa Kitô là dành công phúc của hy lễ cứu chuộc trên đồi Calvary cho chính người Mẹ của mình (66). Cái ơn phúc do ý định đầu tiên của Đấng Cứu Chuộc ấy đã được áp dụng cho Đức Maria ngay lúc Người được tượng thai, giúp Người trở thành Đấng Đồng Công Cứu Chuộc không tì vết, Evà Mới của lịch sử, tham dự vào diễn trình cứu chuộc lịch sử khách quan của Chúa Giêsu Kitô trên đồi Calvary.

Thành ra, vai trò lịch sử của Đấng Đồng Công Cứu Chuộc không gây mâu thuẫn chi giữa công trình cứu chuộc khách quan trên đồi Calvary và nhu cầu bản thân của Đức Maria cần đến ơn cứu chuộc. Nhờ việc Vô Nhiễm Thai (ơn cứu chuộc được ban cho Người lúc được tượng thai nhờ công phúc tương lai của Chúa Giêsu Kitô trên đồi Calvary), Đức Maria mới có khả năng tham dự cách độc đáo vào công trình cứu chuộc có tính lịch sử mọi con người khác trong nhân loại cùng với Con Cứu Chuộc của Người. Như lời Cha Galot đã tóm tắt rất hay: “Theo kế hoạch Thiên Chúa, ý định đầu tiên của hy lễ cứu chuộc liên quan đến việc chuộc Đức Maria, với viễn tượng để chuộc tất cả chúng ta… Như thế, khi kết hiệp với hy lễ Calvary, Đức Maria đã được hưởng trước hoa trái của hy lễ này và đã hành động trong tư cách một tạo vật đã được chuộc lại. Nhưng quả thực Người có hợp tác vào việc cứu chuộc khách quan, tức vào việc thủ đắc ơn cứu rỗi cho toàn thể nhân loại. Ơn cứu chuộc của Người đã được mua trước ơn cứu chuộc của các hữu thể nhân bản khác. Đức Maria được Chúa Kitô chuộc chỉ là để nhân loại được chuộc lại với sự cộng tác của Mẹ Người…

Bởi thế, không mâu thuẫn chi hết: việc Đức Maria đồng công cứu chuộc bao hàm việc cứu chuộc thấy trước của Đức Maria… Nó cho thấy vị trí độc đáo của bà mẹ sau khi nhận được ơn thánh đặc biệt của Con mình, đã cộng tác với Người để đạt được ơn cứu rỗi cho mọi người (67).

Nhiều trường phái thần học khác thích phân biệt ý niệm tổng quát về cứu chuộc thành hai loại “gìn giữ” và “chuộc lại” (preservation & ransoming). Vì Đức Maria, xét theo khía cạnh kỹ thuật, không bao giờ ở dưới ách nô lệ của Satan, vì Người không bao giờ cảm nghiệm tội lỗi, nên hạn từ “chuộc” ít chính xác đối với Người, vì hạn từ này chỉ việc lấy lại một ai đó khỏi ách nô lệ trước đó. Do đó, hạn từ “gìn giữ” hay “cứu chuộc gìn giữ” chính xác hơn, vì nó phân biệt được tính độc đáo trong nhu cầu Đức Maria cần được Chúa Kitô cứu chuộc đầu tiên trong tư cách con cháu Ađam và Evà, nhưng lại không có nghĩa là Người từng chịu ách nô lệ tội lỗi của Satan, cho thấy rõ hình thức cứu chuộc cao siêu hơn dành cho Người và việc Người tham dự sau đó vào việc “chuộc lại” mọi người khác trong gia đình nhân loại (68).

Liệu ý định đầu hết của Chúa Giêsu Kitô muốn cứu chuộc mẹ mình để rồi, với ý định kế tiếp, muốn cứu chuộc mọi người khác trong nhân loại có ngược với “lễ hy sinh duy nhất” của Chúa Giêsu Kitô dâng lên cho hết thẩy như đã được đề cập trong Thư Do Thái (Dt 10:10) không? Không hẳn thế, vì sự cứu chuộc vẫn chỉ là một mặc dù ý định và áp dụng có hiệu quả của nó là hai. Lễ hy sinh cứu chuộc duy nhất của Chúa Giêsu Kitô tại Calvary không cấu thành “hai việc cứu chuộc” mà chỉ là một việc cứu chuộc với hai áp dụng cứu rỗi: áp dụng đầu tiên đem lại hiệu quả là ơn Vô Nhiễm Thai cho Đức Maria và nhờ đó chuẩn bị Người trở thành đấng đồng công cứu chuộc qua việc hợp tác của Người vào công trình cứu chuộc khách quan; áp dụng thứ hai đem lại hiệu quả là ơn cứu chuộc cho gia đình nhân loại được thực hiện với đấng đồng công cứu chuộc (69).

Trong bài giảng ngày Lễ Vô Nhiễm Thai tại nhà thờ chánh toà Krakow, Đức Hồng Y Karol Wojtyla (Đức Gioan Phaolô II sau này) đã tóm tắt chân lý về Đức Maria này như sau: “Để trở thành đấng đồng công cứu chuộc, trước hết Người là Đấng Vô Nhiễm Thai” (70).
 
Ma Quỷ - Làm Cách Nào Để Chống Lại Chúng?
Anthony Lê
10:40 10/05/2008
Ma Quỷ - Làm Cách Nào Để Chống Lại Chúng?

Ma Quỷ luôn rình mó con người...
"Những thiên thần đã không giữ địa vị của mình, nhưng rời bỏ nơi mình ở, thì Người dùng xiềng xích mà giam giữ họ đời đời trong nơi tối tăm, để chờ phán xét trong Ngày lớn lao" Thư Giuđa 1:6

Liên quan đến ma quỷ, trong Thánh Kinh chúng ta tìm gặp được những lời nhắn nhủ sau: "Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé" (Thư 1 Phêrô 5:8).

Thánh Tông Đồ Phaolô đã nói về ma quỷ như thế này: "Tôi không muốn anh em hiệp thông với ma quỷ. Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỷ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỷ được" ( 1 Thư Côrintô 10:20-21).

Ai chính là Satan quỷ dữ và các loài ma quỷ? Làm thế nào và khi nào thì chúng bắt đầu có mặt? Có phải Thiên Chúa đã tạo ra chúng không? Ảnh hưởng của chúng mạnh mẽ đến cở nào nơi con người nhân loại chúng ta? Cách bảo vệ nào, nếu có, mà chúng ta cần dùng đến để chống lại chúng?

A. Làm Sao mà Satan và Các Loại Ma Quỷ Được Thành Hình?

Từ khởi đầu trong lịch sử của nhân loại, khi con người - được Chúa tạo dựng - bắt đầu có mặt tại Vườn Địa Đàng, thì có một thiên thần của Thiên Chúa đã trở nên nổi loạn. Vì sao vậy? Thưa là vì không thỏa mãn được với vai trò của mình trong mọi kế hoạch sắp đặt của Thiên Chúa. Với việc Thiên Chúa tạo dựng nên Ông Adong và Bà Evà, vị thiên thần này đã cố tìm mọi cơ hội để hướng sự qui phục và thờ phượng của cặp vợ-chồng tiên khởi này khỏi Thiên Chúa, để chỉ có biết và thờ phượng mỗi một mình mình thôi.

Bằng việc nổi loạn chống lại Thiên Chúa và bằng cách dụ dỗ con người đầu tiên vào vòng vây của tội lỗi, vị thiên thần này đã tự biến mình trở thành Satan tội lỗi (Satan the Devil). Cùng lúc đó, cũng có những vị thiên thần khác cũng tham gia vào việc nổi loạn của vị thiên thần đã bị biến thành Satan quỷ dữ đó. Bằng cách nào?

Trong sách Sáng Thế Ký 3:1-6, chúng ta biết được rằng:

"Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: 'Có thật Thiên Chúa bảo: 'Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không? Người đàn bà nói với con rắn: 'Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: 'Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.' Rắn nói với người đàn bà: 'Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.' Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn."

Trong Thư Rôma 5:12, chúng ta biết được vì sao tội lỗi và ma quỷ đã ngập tràn:

"Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội."

Còn trong Khải Huyền 12:9, chúng ta lại biết được về hậu quả của Satan:

"Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xatan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó."

Theo Thánh Kinh, trước khi xảy ra nạn hồng thủy vì sự sa đọa của con người, một số thiên thần đã bất ngờ hướng sự thích thú của họ vào những người phụ nữ trên trần gian. Vì một lý do lầm lạc nào đó, "các con trai Thiên Chúa thấy con gái loài người xinh đẹp; những cô họ ưng ý thì họ lấy làm vợ" (Sáng Thế Ký 6:2-4). Sự kết hợp này là bất thường, và "các cô này sinh cho họ những người con." Rồi lại chính những thụ tạo này lại bất tuân Thiên Chúa, để gia nhập vào cuộc nổi loạn của Satan hòng chống lại Thiên Chúa.

Khi Thiên Chúa mang cơn đại hồng thủy đến cho con người, thì tất cả những đứa con và mẹ của chúng đều bị hủy diệt hết cả thảy. Lúc đó thì những vị thiên thần nổi loạn này bị buộc phải rủ bỏ đi tính xác phàm con người để quay trở lại với bản chất cũ trước đây của mình. Tuy nhiên, họ không thể hồi phục lại "địa vị" cũ của họ với Thiên Chúa.

Lũ Ma Tinh Quái dưới dạng các tiên nữ... ......
Mà trái lại, đã bị Thiên Chúa tống khứ vào "ngục sâu trong tăm tối" như đoạn Thánh Kinh mở đầu bài viết có mô tả, cũng như qua Thư 2 của Thánh Phêrô 2:4, chúng ta biết thêm rằng: "Thật vậy, Thiên Chúa không dung thứ cho các thiên thần có tội, nhưng đã đẩy họ vào hố Địa Ngục tối tăm, giữ họ để chờ cuộc phán xét."

Kể từ đó trở đi, những thiên thần xấu xa độc ác này đã bị mất đi "địa vị nguyên thủy," để trở thành những người bạn quỷ đồng hành của Satan, và đã phải chịu sự trừng phạt của Thiên Chúa nơi ngục tối. Cũng chính từ đây mà các loài quỷ này đã không còn sức mạnh để vật chất hóa các thân xác con người nữa. Tuy nhiên, chúng lại có thể dụ dỗ con người vào những hình thức trụy lạc khác của thể xác. Ma quỷ cũng tích cực dối lừa con người bằng chính thứ thuyết thông linh (spiritism) của chúng, vốn có thể bao gồm những thứ như: dùng tà thuật, phù phép, hay bùa mê; hoặc nói ra những câu thần chú, vân vân... như Thánh Kinh đã cảnh cáo chúng ta:

"Giữa anh (em), không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với Đức Chúa, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh (em). Anh (em) phải sống trọn hảo với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em)" (Đệ Nhị Luật 18:10-13).

Số phận của những thiên thần độc ác này cũng tương tự như số phận của ma quỷ, nghĩa là bị hủy diệt đời đời.

"Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Máthêu 25:41)

"Ma quỷ, tên mê hoặc chúng, bị quăng vào hồ lửa và diêm sinh, ở đó đã có Con Thú và tên ngôn sứ giả; và chúng sẽ bị làm khổ ngày đêm đời đời kiếp kiếp" (Khải Huyền 20:10).

Vào lúc này thì chúng ta lúc nào cũng cần phải đứng vững để có thể chống đối lại chúng. Chúng ta thừa có đủ trí thông minh để biết được sức mạnh của Satan và làm thế nào để chúng ta có thể thành công chống lại Satan và các bạn ma quỷ đồng hành của Satan.

B. Satan Mạnh Mẽ Đến Cỡ Nào?

Qua dòng lịch sử, Thánh Kinh cho chúng ta biết được Satan đã thâm hiểm vu khống và nói xấu Thiên Chúa: "Này con, hãy khôn ngoan cho thầy được thoả dạ và có thể đối đáp với ai sỉ nhục thầy" (Châm Ngôn 27:11).

Và Satan có ảnh hưởng rất lớn nơi con người: "Chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa, còn tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần."

Đó là lý do tại sao mà ma quỷ có thể cám dỗ Chúa Giêsu bằng cách đề nghị đưa cho Ngài quyền lực và vinh quang: "Sau đó, quỷ đem Đức Giêsu lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: 'Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông'" (Luca 4:5-7).

Thánh Phaolô đã nói về sức mạnh của Satan như sau: "Tin Mừng chúng tôi rao giảng có bị che khuất, thì chỉ bị che khuất đối với những người hư mất, đối với những kẻ không tin. Họ không tin, vì tên ác thần của đời này đã làm cho tâm trí họ ra mù quáng, khiến họ không thấy bừng sáng lên Tin Mừng nói về vinh quang của Đức Kitô, là hình ảnh Thiên Chúa" (Thư 2 Côrintô 4:3-4).

Satan chính là "một kẻ nói láo và cha đẻ của nói láo," thế nhưng nó lại tự bộc lộ ra mình như là "một vị thiên thần của ánh sáng."

"Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối" (Gioan 8:44).

"Lạ gì đâu! Vì chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!" (Thư 2 Côrintô 11:14).

Satan có đủ sức mạnh và biết cách dùng sức mạnh của nó để che mắt và làm lu mờ đi tâm trí của các nhà lãnh đạo ở thế giới tục trần và những đối tượng của họ. Với việc tuyên truyền sai sự thật và đầy tính gian dối, Satan luôn tìm cách lừa gạt con người như sách Daniel đã tường thuật.

Sức mạnh và sự ảnh hưởng của Satan là quá hiển nhiên trong thời của tiên tri Daniel. Khi Thiên Chúa gởi thiên thần đến trao một thông điệp khích lệ cho Daniel, thì thiên thần đã gặp phải sự phản kháng "Thiên sứ lãnh đạo vương quốc Ba-tư đứng chống lại ta hai mươi mốt ngày. Và này Michael, một trong các thiên sứ lãnh đạo cao cấp, đã đến trợ lực Daniel" (Daniel 10:12-23).

Và cũng trong sự kiện đó, Thánh Kinh còn cho chúng ta biết thêm được rằng: "Ngươi có biết tại sao ta đến cùng ngươi không? Bây giờ ta phải quay lại nghênh chiến với thiên sứ lãnh đạo Ba-tư. Ta vừa đi ra thì thiên sứ lãnh đạo Gia-van đến. Nhưng ta sắp báo cho ngươi biết điều đã ghi chép trong sách sự thật. Không một ai hiệp lực với ta chống lại các vị đó, ngoại trừ thiên sứ Michael, tướng lãnh của các ngươi" (Daniel 10:20).

Còn trong Sách Khải Huyền 13:1-2, thì Satan lại hiện hình như là "con mãng xà" để "tự ban cho nó quyền năng và ngai báu của nó cũng như một quyền hành lớn lao!"

Do đó, chẳng có gì là ngạc nhiên khi Thánh Phaolô đã viết ra rằng: "Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. " (Êphêsô 6:12).

Và thậm chí ngay cả thời nay, những thế lực tội lỗi dưới quyền kiểm soát của Satan - thứ ma quỷ gian ác - đang ngấm ngầm tạo ra những ảnh hưởng lớn mạnh nơi các nhà lãnh tụ trần tục nói riêng, và nơi nhân loại chúng ta nói chung, từ đó khiến cho họ tạo ra những hành động tội ác không thể nào tưởng tượng được như tội diệt chủng, sự khủng bố, sự sát hại, vân vân....

C. Cách Phòng Thủ Nào Mà Chúng Ta Có?

Áo Giáp cùng Tổng Lãnh Thiên Thần Micae
Chúng ta không thể nào kháng cự lại Satan và những tên ác thần của nó, cho dẫu là về thể xác hay tinh thần. Thế nhưng, Thánh Phaolô khuyên bảo chúng ta rằng: "Anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người" (Êphêsô 6:10).

Chúng ta cần phải hướng đến Thiên Chúa để được Ngài bảo vệ, khi Thánh Phaolô nói thêm rằng: "Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ... anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối" (Êphêsô 6:11-13).

Bằng việc nhắn nhủ tới hai lần trong toàn bộ Chương 6 của Thư Êphêsô, Thánh Phaolô kêu gọi tất cả mọi người Kitô Giáo chúng ta hãy "mặc vào toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa." Từ "toàn bộ" nhằm ám chỉ rằng nếu việc che chống chỉ có nữa vời, thì chúng ta vẫn không thể nào có thể kháng cự lại được với ma quỷ. Thế đâu là những bộ phận thiết yếu của bộ binh giáp vũ khí tinh thần mà những người Kitô Giáo ngày nay rất cần đến để có thể kháng cự lại với ma quỷ?

D. Hãy Đứng Vững - Nhưng Bằng Cách Nào?

Thánh Phaolô giải thích: "Hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa. Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh" (Êphêsô 6: 14-18).

Thế chúng ta có thường cùng nhau đọc kinh tối trong gia đình của chúng ta trước khi chúng ta đi ngủ không? Chúng ta có biết làm việc thiện ích cho đồng loại khổ đau của chúng ta không? Chúng ta có biết quy hướng và trói trọn cuộc đời chúng ta vào trong Phép Thánh Thể, vào Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu, vào Trái Tim Vẹn Sạch của Đức Mẹ, không những qua lời nói trên môi miệng mà còn qua cả hành động không?

Có như thế thì khi chúng ta biết "ghét điều dữ và chuộng điều lành," (Amốt 5:15) thì chúng ta sẽ biết cách kiềm chế "mọi nẻo đường tà" (Thánh Vịnh 119:101) mà chúng ta sẽ bước.

Chân của những người lính La Mã xưa kia thường hay bị lún sâu trong các giày da vì những cuộc diễu hành dài vạn dặm trên các xa lộ của đế quốc, thế nhưng đối với những người Kitô hữu như chúng ta thì "chân đi giày là lòng hăng say để loan báo tin mừng bình an" (Êphêsô 6:15) đến cho tất cả mọi người. Chúng ta đi giày là để chuẩn bị cho việc hành động, cho việc rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa đến muôn nơi vì biết rằng: "đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng!" (Rôma 10:15).

Thế đâu là "những tên lửa của ác thần" trong thời đại ngày nay?

Thưa, chúng có thể là: những sự xúc phạm lún sâu trong tâm trí của chúng ta, những lời nói dối, những sự thật nửa vời, vân vân... do chính kẻ thù và các vị "ngôn sứ giả" mang đến hòng cố làm lung lạc và suy yếu đi đức tin của chúng ta. Những thứ "tên lửa" này cũng có thể là những cám dỗ về mặt vật chất, khiến cho chúng ta cứ mãi bận rộn mua sắm để làm thỏa mãn cho lối sống phô trương của chúng ta với người khác, để có nhà to, xe đẹp, trang sức mỹ miều, quần áo đẹp lồng lộng, vân vân...

"Ước chi vẻ duyên dáng của chị em không hệ tại cái mã bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng, hay ăn mặc xa hoa; nhưng là con người nội tâm thầm kín, với đồ trang sức không bao giờ hư hỏng là tính thuỳ mị, hiền hoà: đó chính là điều quý giá trước mặt Thiên Chúa" (Thư 1 Phêrô 3:3-5).

"Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi" (Thư 1 Gioan 2:15-17).

Năng tìm hiểu và học hỏi Lời của Thiên Chúa, sẽ giúp cho đức tin chúng ta kiên vững qua dòng thời gian vì:

"Người công chính của Ta nhờ lòng tin sẽ được sống; nhưng nếu người ấy bỏ cuộc, thì Ta không hài lòng về người ấy. Phần chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống... Mà không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho những ai tìm kiếm Người" (Do Thái 10:38-39; 11:6).

Thánh Phaolô kết thúc việc mô tả của Ngài về bộ áo giáp tinh thần với lời khuyên rằng: "Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa" (Êphêsô 6:17).

Mũ chiến bảo vệ cho cái đầu và bộ não - vốn cũng là trung tâm của việc đưa ra quyết định - của người chiến sĩ.

Cũng tương tự như thế, niềm hy vọng Kitô Giáo bảo vệ cho sức mạnh tinh thần của chúng ta, như đã nói trong Thư 1 Thêxalônica rằng: "nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ."

Thay vì phải làm tràn ngập tâm trí của chúng ta với những mục đích tục trần và những ước vọng hảo huyền về mặt vật chất, thì chúng ta nên hướng mọi suy nghĩ của chúng ta vào niềm hy vọng đã được hứa ban của Thiên Chúa, như chính Chúa Giêsu vì "chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa" (Do Thái 12:2).

E. Cầu Nguyện Liên Lũy Vào Bất Cứ Lúc Nào

Việc dẹp bỏ Satan, cùng bè lủ ma quỷ ác độc của nó nơi thế giới tội lỗi này cũng đã gần kề.

Satan thừa biết được "khoảng thời gian vắn số đó không còn lâu nữa" vì "khốn cho đất và biển, vì ma quỷ đã xuống với các ngươi, nó giận điên lên vì biết rằng nó chỉ còn một ít thời gian... Con Mãng Xà nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chứng của Đức Giêsu" (Khải Huyền 12:12-17).

Do đó, điều quan trọng nhất cho chúng ta là phải biết cách kháng cự lại với Satan luôn vì nó rất sợ chúng ta cầu nguyện như lời khuyên của Thánh Phaolô: "Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi" (Êphêsô 6:18) vì cầu nguyện là tạo mối dây mật thiết với Thiên Chúa, nên ma quỷ chúng không muốn chúng ta có mối liên hệ gần gũi đó với Thiên Chúa.

Cầu nguyện có thể cũng cố chúng ta lên về mặt tinh thần và giúp chúng ta luôn ở trạng thái tỉnh thức. Vậy chúng ta hãy luôn ghi nhớ lời dặn của Thánh Phaolô là hãy luôn cầu nguyện, và đó cũng là cách giúp chúng ta chống lại ma quỷ và các đồng bọn tội lỗi của chúng.

Củng cầu nguyện và hướng về Đức Nữ Trinh Maria, để nhờ Mẹ đỡ nâng và chuyển cầu, chắc hẳn chúng ta sẽ không còn lẽ loi và yếu suy nữa trên con đường lữ thứ đức tin ở gian trần này!
 
Đức Thánh Cha tiếp kiến HĐGM Hungari
LM Trần Đức Anh, OP
16:35 10/05/2008
VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 khích lệ HĐGM Hungari phát triển việc mục vụ gia đình và ơn gọi đứng trước hoàn cảnh tục hóa và nhiều khó khăn tại nước này.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 10-5-2008 dành cho các GM thuộc 16 giáo phận Hungari nhân dịp các vị kết thúc tuần lễ hành hương tại mộ hai Thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Trong bài huấn dụ, ĐTC ghi nhận rằng thời gian dài dẵng hơn 40 năm dưới chế độ cộng sản đã ghi đậm nét tiêu cực trên nhân dân Hungari và ngày nay người ta còn thấy những hậu quả: đặc biệt là sự kiện nhiều người cảm thấy khó tín nhiệm người khác, một thái độ tiêu biểu của những người phải sống lâu dài trong bầu không khí nghi kỵ... Ngoài ra, gia đình tại Hungari đang trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng với những triệu chứng rõ rệt là sự giảm sút con số hôn nhân và sự tăng vọt các vụ ly dị, cũng như sự gia tăng con số các cặp nam nữ sống chung mà không kết hôn. Nạn phá thai cũng lan tràn.

Đứng trước tình trạng đó, ĐTC ca ngợi nhiều sáng kiến do HĐGM Hungari đề ra nhắm linh hoạt giới trẻ, huấn luyện và kích thích tinh thần trách nhiệm của họ.

Đề cập tới tình trạng thiếu linh mục tại Hungari khiến cho công việc của nhiều linh mục trở nên quá nặng nề, ĐTC nhắn nhủ các GM rằng: ”Cần phải làm sao để các linh mục nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của mình một cách thích hợp, để mặc dù có nhiều khó khăn và công việc nặng nề, các LM khỏi xa lìa trung tâm cuộc sống và sứ vụ của mình, biết phân biệt điều thiết yếu với điều phụ thuộc, xác định rõ những ưu tiên đúng đắn trong hoạt động hằng ngày. Cần tái khẳng định rằng sự gắn bó với Chúa Kitô trong vui tươi, mà các LM bày tỏ nơi các tín hữu của mình, chính là một điều kích thích hữu hiệu nhất để khơi dậy nơi giới trẻ sự nhạy cảm đối với ơn gọi của Chúa. Đặc biệt điều quan trọng cơ bản là chính các linh mục phải hết sức siêng năng thực hành bí tích Thánh Thể và Thống Hối và quảng đại trao ban cho các tín hữu. Cũng vậy, điều không thể bỏ qua là thực thi tình huynh đệ linh mục để tránh mọi nguy cơ bị cô lập”.

Sau cùng ĐTC nói rằng mặc dù tình trạng tục hóa, nhưng Giáo Hội Công Giáo vẫn là tôn giáo của rất nhiều người Hungari. Vì thế một điều rất đáng mong ước là quan hệ giữa Giáo Hội và Nhà Nước là một sự cộng tác trong niềm tôn trọng lẫn nhau nhờ những hiệp định song phương, và có một ủy ban của hai bên giám sát việc chu toàn đúng đắn các hiệp định ấy.

Trong số 10 triệu 200 ngàn người tại Hungari, có 65% là tín hữu Công Giáo, 25% theo Tin Lành, đa số là Tin Lành Cải Cách và Luther; người Do thái chiếm 0,2% dân số và 10% dân còn lại thuộc các tôn giáo khác. (SD 10-5-2008)
 
Đức Thánh Cha ban ơn Toàn Xá nhân dịp Năm Thánh Phaolô
LM Trần Đức Anh, OP
16:36 10/05/2008
VATICAN - ĐTC Biển Đức XVI ban ơn toàn xá cho các tín hữu trong Năm Thánh Phaolô Tông Đồ từ ngày 28-6-2008 đến 29-6-2009.

Trong sắc lệnh công bố hôm 10-5-2008, Tòa Ân Giải tối cao thông báo quyết định trên đây của ĐTC đồng thời xác định chi tiết các điều kiện để hưởng ơn toàn xá. Việc ban Ơn này nhắm mục đích giúp các tín hữu canh tân và củng cố những quyết tâm đạt ơn cứu độ siêu nhiên và thanh tẩy nội tâm, nâng cao đời sống siêu nhiên và thúc đẩy họ mang lại nhiều hoa trái việc lành phúc đức.

1. Trước tiên ĐTC ban ơn toàn xá cho mỗi tín hữu thành tâm thống hối, xưng tội, rước lễ và hành hương kính viếng Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma, và cầu nguyện theo ý ĐTC. Ơn này có thể lãnh nhận mỗi ngày một lần và có thể dành cho bản thân, hoặc nhường lại cho những người quá cố. Khi viếng Đền thờ này, các tín hữu phải cầu nguyện trước bàn thờ Mình Thánh Chúa, rồi đến trước bàn thờ chính của Đền thờ, sốt sắng đọc kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, và dâng những cầu khẩn tôn kính Mẹ Maria và Thánh Phaolô. Việc sùng mộ này luôn được liên kết với sự kính nhờ thánh Phêrô là thủ lãnh các tông đồ.

2. Tiếp đến, các tín hữu ở các giáo hội địa phương, cũng được hưởng ơn toàn xá nếu họ xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý ĐTC, từ bỏ lòng quyến luyến tội lỗi, sốt sắng tham dự một buổi lễ công khai mừng kính Thánh Phaolô Tông Đồ dân ngoại, vào những ngày lễ long trọng khai mạc và kết thúc Năm Thánh Phaolô, tại các nhà thờ; và trong những ngày khác do Đấng Bản Quyền địa phương ấn định thì tại những nơi nơi dâng kính Thánh Phaolô, và tại những nơi khác cho Đấng Bản quyền chỉ định, vì lợi ích của các tín hữu.

3. Sau cùng, các tín hữu bị ngăn trở vì bệnh tật hoặc lý do chính đáng, cũng có thể được hưởng ơn toàn xá với điều kiện thường lệ trên đây, đồng thời kết hiệp thiêng liêng với một buổi cử hành kính Thánh Phaolô, dâng lên Thiên Chúa những lời khẩn nguyện và đau khổ của mình để cầu cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Sau cùng, sắc lệnh kêu gọi các LM có năng quyền hãy sẵn sàng và quảng đại giải tội cho các tín hữu, để họ có thể lãnh nhận thiên ân nói trên đây.

Năm Thánh kỷ niệm 2000 năm sinh nhật của Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại sẽ được ĐTC Biển Đức 16 khai mạc trong buổi lễ tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma ngày 28-6-2008 tới đây (SD 10-5-2008)
 
Toàn văn sứ điệp Đức Giáo Hoàng gởi giới trẻ hành hương đi Lộ Đức
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
18:28 10/05/2008
“Hạnh phúc hơn hết là một ân huệ của Thiên Chúa”

VATICAN .-Bản dịch Vatican bức thư Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI gởi cho Hồng Y Vingt-Trois, tổng giám mục Paris và là chủ tịch hội đồng giám mục Pháp, nhân dịp kỷ niệm 100 năm cuộc hành hương “Frat” do các giáo phận thuộc Ile-de-France tổ chức.

* * *

Giới trẻ thân mến,

Bằng cách tới thành phố Đức Maria tại Lộ Đức trong Năm Thánh này đánh dấu kỷ niệm thứ 150 năm những lần Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với em nhỏ Bernadette, các bạn tham gia trong sự biết ơn của toàn thể Giáo Hội đối với sứ điệp Đức Trinh Nữ đã ban cho Bernadette. Với những từ đơn sơ, Mẹ Chúa kitô đã chỉ rõ con đường đổi mới thiêng liêng qua tiếng gọi tới sự cải thiện và yêu mến Giáo Hội.

Chính tại chỗ này Đức Trinh Nữ đã đến viếng Bernadette. Trong cuộc hành hương của các bạn tại Lộ Đức, các bạn hãy nhận lấy sự thăm viếng này của Đức Maria, Đấng phó thác cho các bạn hôm nay những lời Thiên Thần đã nói với Mẹ thay mặt Chúa:” Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà!” (Lc 1:30).

Trên thực tế, qua ân sủng của Người, Chúa Kitô làm các bạn nên xứng đáng sự tín nhiệm của Người và ước muốn các bạn có khả năng biến những ước mơ tuyệt vời nhất và cao thượng nhất về hạnh phúc thật trở nên thật. Hạnh phúc trước hết là một ân huệ của Thiên Cúa được nhận lãnh bởi theo những con đường bất ngờ của ý muốn Người. Những con đường này có tính đòi hỏi nhưng cũng là nguồn mạch niềm vui sâu sắc. Hãy nhìn xem Đức Maria: được mời theo một đường gây ngạc nhiên và gây bối rối, sự sẵn sàng của Mẹ làm cho mẹ đi vào trong một niềm vui mà mọi thế hệ sẽ ca hát.

Đâý là bí quyết Mẹ đã mạc khải cho người chị họ Elizabeth của Mẹ khi mẹ đến viếng và giúp đở bà: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hơn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi, phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1:47-48). Ước chi tới phiên mình các bạn để chính mình được hướng dẫn ngõ hầu Chúa có thể làm điều cao cả trong đời sống khiêm nhượng của các bạn.

Chính tiếng “vâng” của các bạn dâng lên Chúa làm nguồn mạch hạnh phúc thật chảy ra: tiếng “vâng” này giải thoát bản thân của mọi người đang đóng kín trên chính mình. Nó làm cho cảnh nghèo của những sự sống chúng ta trở thành những tài sản và quyền năng của chương trình Thiên Chúa mà không đe dọa quyền tự do và trách nhiệm của chúng ta. Người mở những tấm lòng hạn hẹp chúng ta tới những chiều kích của đức ái thần linh phổ quát. Người đồng hình đồng dạng những sự sống chúng ta với chính sự sống của Chúa Kitô, đánh dấu chúng ta trong lúc chúng ta lãnh bí Tích Rửa Tội.

Hỡi giới trẻ thân yêu, tôi khích lệ các bạn trong những ngày này cử hành cách say mê niềm vui của sự tin, yêu và hy vọng trong Chúa Kitô, và của sự đi cách vững tin trên con đường khởi xướng được đề nghị cho các bạn. Tôi xin các bạn cách riêng chăm chú ghi nhận chứng từ của những anh trưởng các bạn trong đức tin và học đón nhận Lời Chúa trong thinh lặng và suy gẫm ngõ hầu Lời Chúa có thể tạo mô hình cho những tấm lòng các bạn và và sinh nhiều hoa trái trong các bạn.

Trên thực tế, Chúa đã ban cho mỗi người các bạn một cái gì đặc biệt để nói. Đứng sợ nghe Người. Trong tinh thần này “Frat” cũng là một thời gian đặc biệt để cho mình được Chúa Kitô hỏi: “Các bạn muốn làm gì với sự sống các bạn?”. Ước chi những kẻ trong các bạn mà nghe tiếng gọi theo Người trong chức linh mục hay đời sống thánh hiến, theo gót nhiều người trẻ đã tham gia trong “Frat”, chấp nhận lời mời của Chúa đặt mình hoàn toàn để phục vụ Giáo Hôi trong một đời sống hoàn toàn hiến cho Nước Trời. Họ sẽ không bị thất vọng.

Sau cùng, Tôi muốn tạ ơn Chúa cho tất cả mọi người, các linh mục, tu sĩ và giáo dân, những kẻ, hình thành một dây chuyền hết sức vĩ đại, đã góp phần qua một thế kỷ biến cuộc hành hương này thành một thời điểm quan trọng trong sự sống của một số đông các Kitô hữu trẻ.

Hỡi các bạn trẻ thân yêu, tôi phó thác mỗi một người trong các bạn cho sự cầu bàu mẫu tử của Đức Mẹ Lộ Đức và của Thánh Bernadette. Cho các bạn, cho các giám Mục Mục Tử các Giáo Phận thuộc Ile-de-France, cho các tuyên úy các bạn, cho giáo dân đồng hành các bạn và làm chứng giữa các bạn cho đức tin của họ với niềm hy vọng và sự đơn sơ, tôi sẵn lòng ban Phép Lành Tông Toà chân thành của tôi.

từ Vatican, 12 tháng 4 2008

BENEDICTUS XVI
 
Đức Giáo Hoàng ca ngợi những tương quan giữa Melkite và Hồi Giáo
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
18:39 10/05/2008
“Tiếp kiến cuộc viếng thăm Đức Thượng Phụ và những người hành hương”.

VATICAN (Zenit.org).- Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI ca ngợi Giáo Hội Công Giáo Melkite vì công trình của họ trong việc thiết lập những tương quan tốt với Hồi Giáo.

Đức Giáo Hoàng đã bày tỏ quan niệm nầy khi tiếp đón lối 300 thành phần thuộc Toà Thượng Phụ Công Giáo Hy Lạp Melkite, dẫn đầu bởi Thượng Phụ Gregorios III Laham. Nhóm này đang hành hương tại Roma.

Đức Thánh Cha ca ngợi “sức sống của Giáo Hội Melkite, mặc dầu những khó khăn của tình huống xã hội và chính trị vùng [Trung Đông].” Ngài nói rằng “khi tới gần khởi điểm năm dâng hiến cho Thánh Phaolô, tôi không thể quên tòa Thượng Phụ của ngài được thiết lập trong thành Damascus, trên con đường Tông Đồ đã sống biến cố biến đổi sự sống của ngài và mở cửa Kitô Giáo cho mọi quốc gia.”

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã công bố một năm thánh đánh dấu kỷ niệm thứ hai ngàn ngày sinh của Phaolô từ 28/6/ 2008 tới 29/6/2009.

Đức Thượng Tế đã sử dụng dịp năm thánh, mời thượng phụ thực thi “một sự bành trướng mục vụ mãnh liệt” hầu thức tỉnh trong các tín hữu “một sự thúc đẩy mới để biết rõ hơn con người Chúa Kitô, nhờ đọc lại những tác phẩm của Phaolo.”

Ngài nhấn mạnh, trọng tâm này “cũng sẽ bảo đảm một tương lai phồn thịnh cho Giáo Hội Melkite.”

Đức Thánh Cha cũng cổ võ vai trò thượng hội đồng giám mục “ hầu bảo đảm tính động lực tin mừng và sự hiệp nhất các cộng đồng, cũng như sự điều hành thích đáng công trình giáo hội trong những Giáo Hội thuộc tòa thượng phụ.”

Ngài khuyến khích ban cho thượng hội đồng giám mục—và không hẳn thượng hội đồng trường kỳ—địa vị xứng đáng,” hơn hết “khi thượng hội đồng phải xử lý những vấn đề liên quan với cũng những giám mục này.”

Ánh sáng Tin Mừng

Khi qui chiếu vấn đề đại kết, Đức Giáo Hoàng đã nhắc rằng “việc dấn thân tìm kiếm sự hiệp nhất của tất cả môn đệ Chúa Giêsu là một sự buộc khẩn cấp” và do đó “ phải làm mọi sự có thể hầu triệt hạ những bức tường chia rẽ và nghi ngờ ngăn cản chúng ta làm việc này.”

“Nhưng mà chúng ta không thể quên việc tìm kiếm sự hiệp nhất là một nhiệm vụ liên quan không những Giáo Hội địa phương mà toàn thể Giáo Hội, trong sự tôn trọng bản tính của Giáo Hội.”

“Tôi cũng đánh giá những tương quan tốt của ngài với những người Hồi Giáo,” Đức Thánh Cha nói tiếp,” cũng như những cố gắng của ngài giải quyết, với một tinh thần đối thoại huyinh đệ chân tình và khách quan, những vấn đề có thể xảy ra.”

“Phù hợp với Công Đồng Vatican II, Giáo Hội Melkite đã thành thật tìm kiếm sự hiểu biết nhau và sự thăng tiến và một sự bênh vực chia sẻ đức công bình xã, những giá trị luân lý, hoà bình và tự do với những người Hồi Giáo có lợi cho tất cả.”

Đức Biển Đức XVI đã công nhận rằng muốn hoàn thành sứ vụ mình “ trong bối cảnh rối ren và đồng thời đầy thảm kịch của vùng Trung Đông” Giáo Hội Melkite “phải đối mặt những tình huống mà đời sống chính trị đóng một vai tró không xa lạ cho sự sống của Giáo Hội.”

Đó là lý do tại sao điều quan trọng là duy trì những cuộc tiếp xúc với các thẩm quyền chính trị và những thể chế và những đảng chính trị khác nhau. “Tuy nhiên, hàng giáo sĩ không có nhiệm vụ hiến mình cho đời sống chính trị. Đó là nhiệm vụ của giáo dân.”

“Mặc dầu vậy, Giáo Hội phải đề nghị ánh sáng Tin Mừng cho tất cả hầu tất cả có thể hiến mình phục vụ công ích và đức công bình luôn có thể trổi vượt, ngõ hầu con đường tới hoà bình cho mọi dân tộc trong vùng rất thân yêu này có thể được mở ra.”
 
Khuyến khích Giáo Hội Cuba trong việc cổ võ Bí Tích Hôn Nhân.
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
18:47 10/05/2008
VATICAN (Zenit. Org ).- Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI khuyến khích các giám mục Cuba giúp giới trẻ thấy vẻ đẹp của hôn nhân.

Đó là một trong những lời khuyên Đức Giáo Hoàng nói với các giám mục khi tiếp kiến các ngài hôm nay trong lúc các ngài thăm viếng Vatican theo giáo luật 5 năm một lần.

Đức Thánh Cha đã bắt đầu bài phát biểu của ngài với các giám mục bằng cách nhấn mạnh “sức sống của Giáo Hội tại Cuba, cũng như sự hiệp nhất và sự dấn thân của xứ sở cho Chúa Giêsu Kitô.” Ngài cũng nhận xét về “sự thay đổi sâu xa” trong đời sống giáo hội tại Cuba “ cách riêng từ khi cử hành cuộc Họp Giáo Hội Quốc Gia tại Cuba, nay đã hơn 20 năm, và hơn hết sau cuộc thăm viếng lịch sử Cuba trong năm 1998 do đức tiền nhiệm đáng kính của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thực hiện”

“Trong thời điểm lịch sử này, Giáo Hội tại Cuba được kêu gọi cống hiến tất cả xã hội Cuban hy vọng thật sự duy nhất: Đức Giêsu Chúa chúng ta,” ngài nói. “Điều này có nghĩa là sự nuôi dưỡng đời sống giáo hội phải được xem như vai trò trung tâm trong những mong ước và những dự án mục vụ của anh em.”

Những ơn gọi

Sau khi cám ơn các linh mục vì “sự trung thành và việc phục vụ không mỏi mệt cho Giáo Hội và các tín hữu,” Đức Thánh Cha đã bày tỏ sự hy vọng rằng “sự gia tăng trong những ơn gọi và sự chấp nhận đồng thời những biện pháp thích ứng trong lãnh vực này, sớm có thể cho phép Giáo Hội tại Cuba có một số đủ linh mục, cũng như những nhà thờ và những nơi thờ phượng cần thiết hầu hoàn thành sứ vụ thiêng liêng và hoàn toàn mục vụ.”

Ngài nói tiếp, “cần thiết phải tiếp tục cổ võ một hình thức riêng biệt chăm sóc mục vụ ơn gọi, một sự chăm sóc không sợ khuyến khích giới trẻ theo những bước chân Chúa Kitô, Đấng duy nhất có khả năng thoả mãn lòng mong ước của họ được yêu và hạnh phúc.” Đồng thời ngài đã khuyến khích các giám chức bảo đảm các chủng sinh có được “sự đào tào hết sức tốt về mặt thiêng liêng nhân bản và trí thức” hầu, “đồng hóa mình với con tim Chúa Kitô, “ họ có thể gánh vác “sự dấn thân tới thừa tác vụ linh mục.”

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đề cao “những cố gắng gương mẫu của rất nhiều tu sĩ nam và nữ.” Ngài khuyến khích họ tiềp tục làm giàu toàn thể sự sống giáo hội với sự phong phú các đoàn sủng của họ và sự dấn thân quảng đại của họ.” Ngài cũng cám ơn “nhiều vị thừa sai cống hiến ân huệ sự hiến thánh của các vị cho tất cả Giáo Hội tại Cuba.”

Việc đào tạo giáo dân

Sau đó Đức Giáo Hoàng quay tập trung trên “một trong những mục tiêu chính của chương trình mục vụ,” sự cổ võ “một hàng giáo dân dấn thân,” và ngài đã mời các giám chức khích lệ “một tiến trình đích thực gáo dục trong đức tin tại mọi mức độ khác nhau, với sự trợ giúp của những giáo lý viên được huấn luyện tốt.” Ngài cũng xin các giám chức làm dễ dàng “sự đọc và cầu nguyện trên lời Chúa,” đối với các tín hữu, “cũng như sự tham dự thường xuyên của họ trong các Bí Tích Sám Hối và Thánh Thể.”

Đức Giáo Hoàng cũng nhấn mạnh làm sao mà, với một sự sống thiêng liêng mãnh liệt và sự nâng đở của một nền giáo dục tôn giáo vững chắc,” giáo dân “sẽ có khả năng cống hiến một bằng chứng xác tín về đức tin của họ trong mọi lãnh vực xã hội, bằng cách soi sáng họ với ánh sáng Tin Mừng. Trong bối cảnh này, tôi hy vọng rằng Giáo Hội tại Cuba, phù hợp với những ước mong chính đáng của họ, có thể tận hưởng sự tiếp xúc bình thường với các phương tiện truyền thông xã hội.”

Về chủ đề chăm lo mục vụ cho hôn nhân và gia đình, Đức Thánh Cha đã khuyến khích các giám chức “nhân đôi những cố gắng của các ngài hầu bảo đảm cho mọi người, và đặc biệt giới trẻ hiểu rõ về –và cảm giác được hấp dẫn càng nhiều hơn bởi—vẻ đẹp của những giá trị thật hôn nhân và gia đình. Đồng thời, cần khuyến khích và cung cấp những phương tiện thích hợp hầu các gia đình có thể thực thi những trách nhiệm của họ và quyền cơ bản của họ về sự giáo dục tôn giáo và luân lý đối với con cái họ.”

Đức Thánh Cha nói về niềm vui của ngài nhận thấy “lòng quảng đại mà Giáo Hội trong quốc gia thương yêu của anh em chứng tỏ khi dấn thân thân phục vụ những kẻ nghèo nhất và những kẻ bị thiệt thòi nhất, vì đó Giáo Hội nhận lãnh sự đánh gía và sự công nhận của tất cả dân Cuba. Tôi chân thành khuyến khích anh em tiếp tục mang đến một dấu rõ ràng về tình yêu của Chúa cho những kẻ túng thiếu, những kẻ bịnh tật, những kẻ già và những kẻ ngồi tù.”

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã kết thúc bằng cách diễn tả niềm hy vọng sự phong Chân Phước sắp tới của Cha José Olallo Valdés “có thể đưa ra một sự thúc đẩy cho việc phục vụ của anh em đối với Giáo Hội và dân chúng Cuba, vì luôn luôn nên chất men cho sự hòa giải, công lý và hoà bình.”

Quốc Vụ Khanh của Đức Giáo Hoàng, Hồng Y Tarcisio Bertone, đã thăm viếng Cuba vào tháng 2 vừa qua. Chuyến du hành của ngài tới đảo quốc này đánh dấu kỷ niệm lần thứ 10 cuộc tông du lịch sử của Đức Gioan Phaolô II tại đây.
 
Top Stories
Latin added to Vatican's website
Đồng Nhân
11:11 10/05/2008
VATICAN -- The Vatican has added to its website a section in Latin, which was for many centuries the official language of the Roman Catholic Church.

Basic church documents, such as the Bible and papal speeches, are now available in Latin in a new section entitled Sancta Sedes - Latin for The Holy See.

Pope Benedict wants the Catholic church to keep its ancient traditions.

Last year a papal decree was put out only in Latin by mistake by the Vatican's press office.

It had caused panic until the official translation finally emerged.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Nhân dịp Lễ Vesak của Phật Giáo, Tòa Thánh gửi Sứ Điệp chúc mừng: ''Cùng nhau chăm sóc địa cầu''
+ ĐHY Jean-Louis Tauran
12:13 10/05/2008
VATICAN - Nhân dịp Lễ Vesak của Phật Giáo, Tòa Thánh gửi Sứ Điệp chúc mừng: "Cùng nhau chăm sóc địa cầu" như sau:

HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN

SỨ ĐIỆP KÍNH GỬI QUÝ TÍN ĐỒ PHẬT GIÁO
NHÂN ĐẠI LỄ VESAK 2008


“Kitô hữu và Phật Tử: cùng nhau chăm sóc Địa Cầu”

Quí Bạn Phật Tử thân mến,

1. Nhân dịp Lễ Vesak, tôi xin gửi đến quí bạn và cộng đồng của quí bạn trên khắp thế giới những lời chúc tốt đẹp nhất của tôi cũng như của Hội Đồng Giáo Hoàng về Đối Thoại Liên Tôn.

2. Tôi rất tâm đắc khi nhắc đến những mối quan hệ tốt đẹp mà các Kitô hữu và các Phật tử duy trì từ bao nhiêu năm qua. Tôi tin chắc những mối quan hệ như thế sẽ là nền tảng giúp chúng ta củng cố và đào sâu sự hiểu biết lẫn nhau, đồng thời tiếp tục cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, không những cho chính chúng ta, mà còn cho tất cả gia đình nhân loại. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng, đối thoại khiến mỗi người và mỗi cộng đồng biết chia sẻ thiện tâm và sự hài hòa sẵn có nhiều hơn, và hơn nữa, khiến ta xích lại gần với tha nhân mỗi lúc một quảng đại hơn, sẵn sàng đương đầu với những khó khăn, thách đố có thể xảy đến.

3. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, trong sứ điệp nhân ngày Thế Giới Hòa Bình 2008, đã nhận định: “Đối với gia đình nhân loại, ngôi nhà là chính Trái Đất này, là môi trường mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành đã ban cho chúng ta, để chúng ta cư ngụ cách sáng tạo và trách nhiệm. Chúng ta có bổn phận phải chăm sóc đến môi trường: môi trường được ủy thác cho con người gìn giữ và bảo vệ trong tự do có trách nhiệm, đồng thời luôn lấy thiện ích chung làm tiêu chuẩn để đánh giá” (số 7). Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã tuyên bố năm 2008 là “Năm Quốc Tế về Địa Cầu”. Vì là cư dân của địa cầu và là tín hữu, Kitô hữu cũng như Phật tử tôn trọng cùng một công trình sáng tạo và cùng chung mối quan tâm thúc đẩy việc chăm sóc môi trường mà tất cả chúng ta cùng chia sẻ.

4. Các vấn đề như bảo vệ môi trường, cổ võ một sự phát triển bền vững và việc chú ý đặc biệt đến những biến đổi về khí hậu, đang là điều mà mọi người hết sức quan tâm. Rất nhiều chính phủ, các tổ chức phi chính phủ (ONG), các công ty đa quốc gia và các viện nghiên cứu cao cấp, vì nhận ra những hệ lụy về đạo đức của sự phát triển kinh tế và xã hội, đã đầu tư rất nhiều tài lực cũng như chia sẻ chuyên môn của họ trong các lãnh vực về tính đa dạng sinh thái, về sự biến đổi khí hậu, về việc bảo vệ và bảo tồn môi trường. Cả các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng góp phần vào cuộc bàn luận chung. Việc góp phần như thế tất nhiên không chỉ đơn thuần là một phản ứng trước những hiểm họa cấp bách, mới nẩy sinh do hiện tượng khí hậu ấm nóng toàn cầu. Bởi lẽ Kitô giáo và Phật giáo vẫn luôn chủ trương thái độ hết sức tôn trọng đối với thiên nhiên và dạy chúng ta phải trở nên những nhà quản lý trái đất với lòng biết ơn. Quả vậy, những nỗ lực giải đáp cho các quan tâm về môi trường đòi hỏi một suy tư sâu xa về mối tương quan giữa Đấng Tác Tạo, công trình sáng tạo và các thụ tạo thì mới tránh khỏi những thiệt hại gây ra bởi lòng tham của một số người hoặc không bị quyền lợi của một vài nhóm riêng biệt cản trở.

5. Vậy trên thực tế, chẳng lẽ chúng ta, Kitô hữu và Phật tử, lại không thể làm gì hơn để cộng tác vào các dự án qua đó khẳng định trách nhiệm mà mỗi người và mọi người chúng ta đều tham phần hay sao ? Vấn đề tái chế, vấn đề bảo tồn năng lượng, biện pháp phòng ngừa sự hủy hoại thảo mộc và động vật cách bừa bãi, việc bảo vệ các nguồn nước, đó là những vấn đề đang mời gọi chúng ta phải hướng tới một sự quản lý cách thận trọng hơn, và đàng khác, động viên thiện chí của chúng ta cũng như khuyến khích các mối quan hệ thân ái giữa các dân tộc. Làm như thế, cả Kitô hữu và Phật tử có thể trở thành những kẻ mang niềm hy vọng về một thế giới trong lành, an toàn và hài hoà.

6. Các bạn thân mến, tôi tin chắc là chúng ta có thể cổ võ sứ điệp này trong các cộng đồng liên hệ của chúng ta, nhờ vào việc giáo dục công dân, và nhờ vào gương tốt của chúng ta, trong việc tôn trọng thiên nhiên và trong cách hành xử với tinh thần trách nhiệm đối với trái đất, hành tinh chung của chúng ta. Một lần nữa, tôi hết lòng cầu chúc quí bạn một lễ Vesak tốt đẹp.

+ Hồng Y Jean-Louis Tauran, Chủ tịch
+ Tổng Giám Mục Pier Luigi Celata, Thư ký
 
Đại diện Hội đồng Giám mục Việt nam thăm Chùa Quán Sứ và chúc mừng đại lễ Vesak
+ TGM Ngô Quang Kiệt
12:15 10/05/2008
HÀ NỘI -- Nhân dịp Đại lễ Vesak, Đức cha Giuse Nguyễn chí Linh, Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt nam và Đức Tổng Giám Giuse Ngô quang Kiệt, Tổng thư ký đã đại diện cho Hội đồng Giám mục Việt nam thăm đã đến chùa Quán Sứ thăm và chúc mừng các vị chức sắc và đồng bào Phật tử. Hai đức cha cũng trao thư chúc mừng của Hội đồng Giám mục Việt nam gửi các vị chức sắc và tín đồ Phật giáo tại Việt nam, cùng với sứ điệp của Hội đồng Đối thoại Liên tôn của Tòa Thánh gửi các Phật tử trên thế giới nhân dịp đại lễ này. Sau đây là nguyên văn thư chúc mừng của Hội đồng Giám mục Việt nam và Sứ điệp của Hội đồng Đối thoại Liên tôn của Tòa Thánh như sau:

 
Hợp tác làm việc chung về giáo lý giữa hai giáo phận Nha Trang và Quy Nhơn
LM. Võ Tá Khánh
14:24 10/05/2008
HỢP TÁC LÀM VIỆC CHUNG VỀ GIÁO LÝ GIỮA HAI GIÁO PHẬN NHA TRANG VÀ QUI NHƠN

Ngày 08 và 09-5-2008, dưới sự bảo trợ của Á Thánh Anrê Phú Yên, Ban Giáo Lý Giáo Phận Nha Trang và Ban Giáo Lý Giáo Phận Qui Nhơn đã làm việc chung tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Hợp Anrê Phú Yên thuộc giáo xứ Tuy Hòa.

Được biết, Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn đã chấp thuận cho áp dụng Chương Trình Giáo Lý Phổ Thông trên toàn giáo phận Qui Nhơn kể từ niên khóa 2008-2009. Việc triển khai áp dụng đòi phải cập nhật các giáo trình. Thời gian qua, Ban Giáo Lý Giáo Phận Qui Nhơn đã cập nhật xong giáo trình khối Giáo Lý Căn Bản, dựa trên bộ mới ba năm của Ban Giáo Lý Nha Trang. Riêng giáo trình khối Sơ Cấp, sau hơn 10 năm áp dụng, Ban Giáo Lý Nha Trang cũng thấy cần đổi mới nhưng chưa có điều kiện thực hiện, nay cả hai Ban Giáo Lý cùng hợp tác để làm cho kịp việc triển khai áp dụng tại giáo phận Qui Nhơn.

Trong dịp làm việc chung này, Ban Giáo Lý Nha Trang cũng đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm quý báu cho việc áp dụng Chương Trình Giáo Lý Phổ Thông theo tuổi. Trước đây khi giáo phận Vinh, giáo phận Nha Trang và giáo phận Đà Lạt chuyển từ hệ thống giáo lý theo bí tích (Rước lễ lần đầu và Thêm sức) sang hệ thống theo tuổi của Chương Trình Giáo Lý Phổ Thông, đều đã xảy ra một khó khăn bất ngờ, là số học sinh giáo lý tăng vọt hẳn lên, có khi gấp đôi niên khóa trước đó, khiến nhiều nơi lúng túng vì không đủ phòng ốc và giáo lý viên. Tình trạng này có thể khiến nhiều học sinh 13-18 tuổi nản lòng bỏ cuộc. Để tránh tình trạng ấy, niên khóa 2008-2009, giáo phận Qui Nhơn chỉ triển khai đồng bộ hai khối Sơ Cấp và Căn Bản, nơi nào muốn cũng có thể thêm khối Đồng Cỏ Non. Còn hai khối Kinh Thánh và Vào Đời thì chỉ triển khai vào niên khóa 2009-2010, sau khi Ban Giáo Lý Giáo Phận đã kịp giúp các giáo xứ chuẩn bị giáo lý viên.

Ban Giáo Lý Nha Trang cũng chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý báu khác: Trước hết cần giúp mỗi giáo xứ có một ban tổ chức giáo lý, các trưởng và phó ban cần được tập huấn và họp rút kinh nghiệm mỗi năm hai lần. Tiếp đến, Ban Giáo Lý Giáo Phận cần được sự tiếp tay của những Ban Giáo Lý Hạt thật vững. Việc đào tạo giáo lý viên được thực hiện ở hai quy mô giáo phận và giáo hạt. Ngoài ra, cần sớm thành lập Hội Cha Mẹ Học Sinh Giáo Lý để chính các cha mẹ sẽ thực sự là những giáo lý viên đầu tiên cho con cái mình.

Hai Ban Giáo Lý của hai giáo phận cũng dự kiến sẽ còn có thêm những trao đổi, hợp tác và hỗ trợ trong tương lai, cả về kinh nghiệm, tài liệu và nhân sự đào tạo.
 
Thông Báo
Đức Viện phụ Stêphanô Trần Ngọc Hoàng đã qua đời
Viện phụ Ephrem Trịnh Văn Đức
11:54 10/05/2008

CÁO PHÓ


Trong niền tín thác vào Chúa Kitô Phục sinh

Đan Viện Thánh Mẫu Châu Sơn - Đơn Dương - Lâm Đồng
cùng toàn gia đình thương tiếc báo tin:


ĐỨC VIỆN PHỤ STEPHANÔ TRẦN NGỌC HOÀNG
vừa được Chúa gọi về lúc 16giờ ngày 10.5.2008

Đức viện phụ Stefan sinh năm 1928
Thụ phong linh mục năm 1957
Đan Viện trưởng Châu Sơn ngày 12.10.1962
Tấn phong Viện phụ tiên khởi Châu Sơn Đơn Dương ngày 19.3.1964
Khẩu hiệu: “Amator Regulae et Fratrum” (Yêu Thánh luật và Yêu anh em)

Xin quý Đức Hồng Y, quý Đức Cha và quý Cha
cùng toàn thể anh chị em hợp ý cầu nguyện cho
linh hồn Đức Viện Phụ Stêphanô.

Thánh lễ an táng sẽ được cử hành tại
nguyện đường Đan viện Thánh Mẫu Châu Sơn,
lúc 09 giờ 00 thứ tư ngày 14 tháng 5 năm 2008,
do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám Mục Giáo Phận Đàlạt chủ sự.
sau đó mai táng tại nghĩa trang Đan viện.

Thay mặt Đan Viện
 
Văn Hóa
Lời bâng quơ
lykhách
09:34 10/05/2008

Lời bâng quơ



Đã thấy mùa Xuân ngày xưa mất,
Trong riêng thầm góp nhặt những ngày xưa
Đã nghe tình Xuân đêm trở giấc
Bên cành Đông có một nụ hoa vừa.

Anh trở lại sau bao ngày phiêu bạt
Đời mãi trôi nên chẳng đếm làm gì
Một thoáng hương những ngày xưa ngan ngát
Chợt trở về không biết để làm chi?

Ừ, thì đâu đấy nơi bâng quơ kỷ niệm
Những năm trôi từ độ tuổi xa nhà
Có nhiều khi một vùng trời trở lại,
Chợt nhớ rằng cũng có lúc đời qua

Trong lòng anh có nắng có mưa,
Có gió, có lá... của cả ngày xưa
Mà như nếu tâm tư thành hiện thực
Thì lòng anh gọi tên đủ bốn mùa

Hình như thế, anh vẫn còn có đủ,
Muộn phiền, hạnh phúc... thuở ưu tư
Mộng không chết nhưng chỉ là đang ngủ
Những vui buồn rõ nét tựa thiên thư

Hôm nay lại về đó em
Tiếng trẻ thơ cười nói bên thềm...
phía trước, thềm sau mẹ giặt áo
Quá đỗi hiền lành, nên mẹ cả buồng tim

Anh yêu quá và thiết tha yêu quá
Một bâng quơ cũng ý tứ ngập hồn
Anh còn nhớ chuyện nhỏ như chiếc lá
Ép vụng về giữa tập vở mới thơm

Anh nói làm sao hết,
Anh viết làm sao hết
Anh nhớ cho đến chết
Và sẽ mang lên tặng Chúa hiền hòa
Ngài sẽ trách những lỡ lầm mê mệt
Chắc nhẹ nhàng rồi Ngài sẽ thứ tha

Anh sẽ bảo “Chúa ơi, con khổ lắm
Sống bao năm, đời vẫn cứ vụng về
Những niềm thương, niềm đau đầy ắp
Dù biết rằng đau khổ những đam mê...”

Nhưng chuyện đó còn xa em nhỉ
Hay ngày mai thì cũng là xa
Cái hôm nay còn chưa cười khóc hết
Giữa bây giờ trời kỷ niệm vừa qua.

Hôm nay gió mùa Đông thổi mạnh,
Chiếc lá Thu còn sót cũng lìa cành
Gió níu áo kéo ngày xưa mây tạnh,
Một trời thương làm ngập cả hồn anh.
 
Bà Mẹ quê
Đặng Xuân Hường
09:52 10/05/2008

Bà Mẹ quê



Có một bài hát được phổ biến từ lâu lắm rồi, nhưng có lẽ trong chúng ta chẳng mấy ai không biết đến:

“Vườn rau, vườn rau xanh ngắt một màu,
“Có đàn, có đàn gà con nương náu,
“Mẹ quê, mẹ quê vất vả sớm chiều,
“Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu…”


Bài hát diễn tả bà Mẹ nơi những vùng thôn quê trên khắp mọi miền đất nước. Việt Nam là một nước nông nghiệp, bàn tay của những bà Mẹ vừa lo toan nội trợ cho gia đình, vừa cày cấy ngoài đồng ruộng. Hình ảnh bà Mẹ quê trong nhạc phẩm “Bà Mẹ Quê” của Phạm Duy cũng chính là hình ảnh những bà Mẹ nơi quê hương thân yêu Bình Giã, một miền quê đồng ruộng bao la!

Từ ngoài Bắc di cư vào Nam, hay sinh ra và lớn lên nơi mảnh đất Bình Giã, những bà Mẹ đã góp bàn tay cùng chồng con xây dựng lên một thị trấn trù phú đầy sức sống sinh động. Từ nhà tranh vách lá, đường đất lầy lội, nay mọc lên những ngôi nhà gạch khang trang, đường trải nhựa bằng phẳng, phong cảnh xanh tươi…

Để có được cảnh sung túc ngày nay, bà Mẹ Bình Giã đã cật lực cùng chồng con khai khẩn đất hoang cày cấy gieo trồng, đã xông xáo chen chân buôn bán kiếm tiền nuôi con ăn học nên người.

“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
“Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”
(ca dao)
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
“Nuôi đủ đàn con với một chồng”…
(Trần Tế Xương)

Bình Giã trong những năm 1953-54 khởi đầu lập nghiệp, nhà cửa với mái tranh vách lá, phên tre, cuộc sống mặc dù không đói khổ, nhưng cũng rất khó khăn, thiếu thốn nhiều thứ, nhất là về mặt y tế. Bà Mẹ là người chăm sóc cho con cái khi trái gió trở trời, khi cảm sốt nóng lạnh, và cũng không ít bà đành phải chiụ thua số mệnh, ôm con nức nở chia lìa trong nước mắt!

Rồi những người Cha lên đã đường tòng quân giữ làng xóm yên bình, còn lại bà Mẹ phải tất tả ngược xuôi, lớp ruộng đồng, lớp lo cho con cái, nghĩ đến chồng nơi tiền tuyến đêm ngày trăn trở thở dài!

Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn, đong đưa võng buồn…
“Mẹ ngồi ru con mây qua đầu ghềnh lạy trời mưa tuôn.
“Lạy trời mưa tuôn cho đất sỏi mềm hạt mầm vươn lên,
“Mẹ ngồi ru con nước mắt nhọc nhằn xót xa đời mình…”

(Ca Dao Mẹ, Trịnh Công Sơn)

Đau thương nhất là có những bà Mẹ, một ngày nào đó, sau chiến trận nơi quận Đức Thạnh, đồn Bình Ba, hay xã Suối Nghệ, hoặc ở một miền xa hơn như Bình Long, Tây Ninh, Quảng Trị, có khi còn xa hơn nữa tận Hạ Lào, vùng biên giới…Bà nhận được tin báo chồng đã tử trận!

“…Ngày mai đi nhận xác chồng,
“Hay đi để thấy mình không là mình
“Ngày mai đi nhận xác anh…!”

(Thơ Trần Thị Ý, nhạc Phạm Duy)

Còn đau đớn nào hơn! Gãy gánh giữa đường! Goá bụa sớm phải một mình nuôi con với đôi bàn tay yếu đuối! Rất nhiều bà Mẹ có con trai phục vụ trong quân đội, ngày đêm ăn ngủ không yên, luôn cầu nguyện khấn xin ơn trên phù hộ cho đất nước mau được thanh bình, đứa con trai thân yêu được an lành sớm trở về với cuộc sống làng quê, rồi cưới vợ để bà có cháu bồng bế. Nhưng giấc mơ nhỏ bé đó đã tan tành, cõi lòng bà Mẹ như bị xé nát bởi bom đạn khi được tin con đã hy sinh cho quê hương! Đã gục ngã trên lằn đạn đau thương giữa hai miền đất cùng máu đỏ da vàng!

Cũng không ít bà Mẹ, qua những tháng ngày chờ đợi mòn mỏi ngày trở về của người thân yêu, thì lại phải chấp nhận cảnh tàn phế của chồng hay con, sau chiến trận đã để lại một phần thân thể nơi chiến trường. Mặc dù không mất mạng sống là một điều may mắn, nhưng cuộc sống phức tạp, khó khăn, cộng thêm tinh thần bất ổn của người tàn phế, bà Mẹ phải chịu đựng rất nhiều ức chế tâm lý do hoàn cảnh tạo nên.

“Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại?
“Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về!
“Anh trở về có thể bằng chiến thắng Pleime, hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giã!…
“Anh trở về trên chiếc băng ca, trên trực thăng sơn màu tang trắng…
“Anh trở về trên đôi nạng gỗ,
“Anh trở về dang dở đời em!…”

(Kỷ Vật Cho Em, Phạm Duy)

Vừa lo lắng chịu đựng về tinh thần như thế, vừa giúp chồng con cày cấy. Cuộc sống tất nhiên chẳng mấy được thoải mái. Việc đồng ruộng chẳng nhẹ nhàng! Tất cả những gì phải vận chuyển thì hầu như được đặt trên đôi vai gầy của bà Mẹ, từ việc gánh mạ ra đồng cấy lúa, gánh đậu gánh bắp thu hoạch về, đến việc gánh nông sản ra chợ bán, gánh lúa đi xay…

Nơi thôn quê, bà Mẹ ngoài công việc đồng ruộng, có khi còn chịu khó kiếm thêm thu nhập bằng buôn gánh bán bưng. Có bà chiều chiều gióng gánh trên vai đi dạo từ đầu làng đến cuối xóm, để mua lại buồng chuối, dăm trái mãng cầu, vài trái mít… sáng mai ra chợ bán kiếm ít đồng lời. Có bà cũng gióng gánh đi mua lúa, mua gạo để bán lại làm “hàng xáo”!

Trên ruộng đồng, có lúc rau trái dư thừa như ngọn bầu, rau lang, cà pháo, cà dừa, ớt cay…bà Mẹ cũng chịu khó thu gom đem ra chợ bán, mặc dù biết chẳng được bao nhiêu.

Rất nhiều bà Mẹ đã phải làm những công việc cực nhọc như cày ruộng, đắp bờ, bửa củi…Những năm đầu mới định cư, công việc gánh nước từ cái giếng chung trong làng về nhà để rửa, tắm giặt…hầu hết do các bà, các cô đảm nhận.

Đã khó nhọc thế, vậy mà có những bà Mẹ phải chịu cái cảnh:

“Chồng em nó chẳng ra gì,
“Tổ tôm, xóc đĩa nó thì chơi hoang.
“Nói ra xấu thiếp hổ chàng,
“Nó giận, nó phá tan hoang cửa nhà.
“Nói đây có chị em nhà,
“Còn năm ba thúng thóc với một vài cân bông.
“Em bán đi trả nợ cho chồng,
“Còn ăn hết nhịn cho thoả lòng chồng con!”
(ca dao.).

Tệ nạn cờ bạc của mấy ông, ngoài chuyện thiếu trước hụt sau lại còn làm hạnh phúc gia đình chao đảo, chẳng mấy khi cơm lành canh ngọt! Mà bà Mẹ là người hứng chịu nhiều nhất hậu quả này!

Được một điều, thôn xã Bình Giã hầu như hoàn toàn Công giáo, sống chung trong một làng xã, mọi người đều biết rõ nhau, giữ đạo tương đối nền nếp nên các ông chẳng bao giờ “dại dột” theo “lời khuyến khích” của Tiền nhân:

“Trai năm thê bảy thiếp…!”

Các bà thì ít khi có cơ hội trách khéo chồng:

“Gió đưa bụi chuối sau hè,
“Anh theo vợ bé bỏ bè con thơ
…!”(ca dao)

Hoặc phải sống trong cảnh:

“Anh bì anh có tiền bồ,
“Anh đi anh cưới sáu cô một lần.
“Cô Hai buôn tảo bán tần,
“Cô Ba đòi nợ chỗ gần chỗ xa.
“Cô Tư dọn dẹp trong nhà,
“Cô Năm sắc thuốc Mẹ già cô trông.
“Cô Sáu trải chiếu giăng mùng,
“Một mình cô Bảy nằm chung với chồng”!
(ca dao)

Và con cái cũng không phải tủi thân ru em bằng câu ca dao:

“Trời mưa bong bóng phập phồng,
“Mẹ đi lấy chồng con ở với ai!…”(
ca dao)

Sở dĩ có được như vậy, phần lớn các bà Mẹ Bình Giã là những người đàn bà đảm đang, chung thuỷ, lấy chồng rồi thì coi như chấp nhận tất cả, chẳng kể giàu nghèo, vui buồn, lam lũ.... Các ông có đi ra ngoài giao tiếp thì làm sao gặp được những người mẫu mực như vậy. Dù chân lấm tay bùn, nhưng các cô gái Bình Giã có một quả tim nồng ấm đầy tình cảm. Nhan sắc không chim sa cá lặn, nhưng cũng đầy nét duyên dáng tự nhiên của gái miền quê hiền lành dễ thương!

“Hương đồng quê, hương dễ thương,
“Như cô gái nhỏ trên đường quê hương…”


Lấy chồng, rồi làm Mẹ, các bà lại càng thể hiện cái tình cảm người Mẹ một cách ý nghĩa hơn. Thức khuya dậy sớm, lo toan đủ thứ. Có những bà Mẹ rất xót xa phải để con nhỏ ở nhà cho anh chị lớn trông nom, rồi cùng chồng ra đồng ruộng, mà anh chị lớn thì cũng chỉ mới tám chín tuổi đầu, chiều về thấy con lem luốc đòi sữa Mẹ mà rưng rưng nước mắt cho con bú.

Có những bà Mẹ, ngày ngày với chiếc xe đạp, rong ruổi khắp làng trên xóm dưới, ra đến Ngãi Giao, vào tận Xuân Sơn… để mua từng yến đậu, từng ký tiêu, hạt điều…về bán lại cho chủ vựa để kiếm ít tiền lời công đi lại. Từ sáng đến chiều tối mới đẩy chiếc xe đạp về tới nhà, vậy mà nhiều lúc vừa kịp đặt hàng xuống thì đã phải lăn xả vào bếp nấu nướng cho đám con nheo nhóc đòi cơm ăn!

Chẳng bao giờ đi chợ về mà Bà Mẹ lại quên cho các con một một ít quà vặt, dù chỉ là cái bánh tráng, cái bánh nếp, hay mấy cái kẹo, ly chè, chén đậu hũ…Lắm khi chẳng đủ tiền đi chợ, phải mua thiếu, phải vay mượn tạm chị em, hàng xóm để có mà chi dùng cho qua ngày, chờ đến lúc thu hoạch hoa màu trả sau.

Dịp Tết, có khi phải chạy vạy cách này cách khác để mua sắm cho gia đình ăn Tết, mua cho mấy đứa con bộ đồ mới mặc Tết…Những lúc đó, có khi những người khác thì vui sướng đón Xuân, áo quần bảnh bao, rượu trà thoải mái…còn những bà Mẹ, có người mừng Tết mà lo lắng trong lòng, nén tiếng thở dài nghĩ đến món nợ mừng Xuân phải trả trong những ngày sắp tới!

“Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,
“Tình Mẹ tha thiết như đồng lúa chiều rì rào,
“Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ…!


Nhạc sĩ Y Vân đã sáng tác nhạc phẩm bất hủ “Lòng Mẹ”, rất khó có một bài hát nào khác nói đến lòng Mẹ một cách tha thiết tình cảm như vậy, thế nhưng lại dễ dàng nhìn thấy tình cảm đó ở các bà Mẹ nói chung, và nhất là lại càng thấy rõ ở các bà Mẹ Bình Giã, những bà Mẹ thực sự vất vả sớm chiều nơi đồng ruộng, dầm sương giãi gió, buôn thúng bán bưng…một đời hy sinh cho chồng con, chịu đựng tất cả vì chồng con!

Các bà Mẹ được nhớ, được vinh danh chung trong các dịp Lễ Quốc tế Người Phụ Nữ ngày 8-3, Lễ Mother’s Day ở Mỹ vào trung tuần tháng Năm, ngày Tết Âm lịch truyền thống của Dân tộc Việt Nam, ngày Tết Đoan Ngọ (tháng Năm, Âl)… những dịp đó chắc chắn các bà Mẹ cũng nhận được những tình cảm đầy yêu thương, tri ân của chồng, con, của cháu chắt…

Có một nhà văn đã viết: “Vì không thể hiện diện khắp nơi trên địa cầu nên Thượng Đế đã tạo dựng nên Bà Mẹ!”. Lời ca tụng đó thật xứng đáng cho tất cả các bà Mẹ, đặc biệt cho những bà Mẹ nơi miền đất Quê hương yêu dấu Bình Giã, đầy đất đỏ bùn lầy của miền đồng ruộng!

Kính Tặng Các Bà Mẹ nhân ngày Mother’s Day.
 
Thế giới hồi sinh (thơ)
Lê Dân Việt
09:59 10/05/2008
THẾ GIỚI HỒI SINH

Trời đã giông bão nhiều rồi Chúa ạ!
Bao nhà cửa, tung bay thấy tơi bời
Bao xác người, lũ lụt đã cuốn trôi
Bày em nhỏ, đang tìm mẹ dáo dác

Đang oằn mình, dưới dòng nước ào ạt
Gió hung hăng, giận dữ trút cuồng phong
Sấm vang rền, gió xoáy tới từng không
Bao vật thể, tung lên rơi lai láng

Trận cuồng phong, xô cả cột điện sáng
Hất mọi vật, từ dưới đất lên cao
Chúng đụng nhau, nghe tiếng chạm lao xao
Tung lên cao, rớt xuống nghe tiếng dội

Làm nát bấy, cả đám cỏ đồng nội
Ôi đau thương! Tai họa đến một ngày
Bao nhà cửa, phút chốc bỗng lăn quay
Đời chới với, tìm đâu ra ổn thỏa

Ôi đời sống, bỗng nhiên ra tơi tả
Nhân loại này, xin Chúa tưới hồng ân
Giang tay cầu, lạy xin Chúa từ nhân
Giúp nhân loại, vững bước vác thập giá

Chúa đoái thương, Loài người xin cúi tạ
Cả thế giới, sẽ bừng sống hồi sinh.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Sữa Mẹ
Josephhoa Phạm
00:10 10/05/2008

SỮA MẸ



Ảnh của Josephhoa Phạm.

Mẹ cho con hình hài

Trái tim lòng ngực ấm

Thuở đất trời thơ dại

Giòng sữa ngọt từ tâm.

(Trích thơ của Trang Thanh)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền