Phụng Vụ - Mục Vụ
Thừa nhiều đến thế ?
Lm. Minh Anh
00:19 16/04/2021
THỪA NHIỀU ĐẾN THẾ?
“Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư”.
Sau cơn nguy kịch, một bệnh nhân biết mình phải trả 1,3 triệu tiền Oxy; anh ta thốt lên, “Vậy tôi phải trả bao nhiêu cho khí trời đã cho tôi hít thở trong suốt 53 năm qua? Trời cho tôi nhiều quá!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Những gì Trời ban tặng thường dư tràn như thế. Tin Mừng hôm nay kể lại phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh cá hoá nhiều để thết hơn năm ngàn người. “Mười hai thúng đầy bánh vụn” là những gì thu được từ năm chiếc bánh và hai con cá khi mọi người đã no. Tại sao mà ‘thừa nhiều đến thế?’.
Với trình thuật này, thánh Augustinô giải thích, Chúa Giêsu đã cung cấp nhiều hơn những gì người ta có thể hưởng dùng; đây là một cách thức mô tả đầy biểu tượng những chân lý tâm linh vốn vượt quá những gì mà một đám rất đông quần chúng có thể hiểu được. Bằng cách này, những lời dạy của Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng đám đông đến mức họ hoàn toàn thoả lòng; nhưng cả khi đám đông cách chung đã thoả mãn với những gì Chúa Giêsu dạy, thì vẫn còn rất nhiều điều họ phải học hỏi từ Ngài. Theo thánh Augustinô, “mười hai thúng còn dư”, và ‘thừa nhiều đến thế’ là biểu tượng cho những chân lý siêu việt sâu sắc hơn ấy.
Bên cạnh đó, “mười hai thúng còn dư” lại tượng trưng cho nhóm ‘mười hai môn đệ’. Họ là những người được Chúa Giêsu đặc biệt chọn gọi để nhận được nhiều hơn. Hãy nhớ lại những lần Ngài dạy dỗ đám đông bằng dụ ngôn; sau đó, về nhà, Ngài giải thích riêng cho họ; tiết lộ cho họ một số chân lý mà hầu hết mọi người không thể hiểu, cũng như không thể chấp nhận.
Sẽ rất hữu ích nếu chúng ta xem xét ba nhóm người khác nhau trong phép lạ này, đồng thời, so sánh họ với những con người hôm nay trong xã hội. Nhóm đầu tiên là những người thậm chí không có mặt khi phép lạ xảy ra; đây là những người không cùng một hành trình với Chúa Giêsu để có thể ở với Ngài trong đồng vắng. Nhóm người này lớn nhất trong xã hội, họ sống cuộc sống hàng ngày của họ mà không hề biết phải tìm kiếm nguồn lương thực thiêng liêng tối thiểu cho mình từ Thiên Chúa, Đấng sẵn sàng nuôi sống họ.
Nhóm thứ hai là “đám đông dân chúng” đã theo Chúa Giêsu đến tận vùng xa xôi của biển Galilê để ở với Ngài. Nhóm này đại diện cho những người siêng năng tìm kiếm Chúa mỗi ngày; đây là những người trung thành với việc tham dự Thánh Lễ, đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa. Với nhóm người này, Chúa Giêsu dạy họ nhiều điều, họ được nuôi dưỡng bằng Lời Ngài và các Bí tích. Nhiều người ước ao được như họ bởi họ no đủ về đời sống thiêng liêng. Nhìn họ được bình an, thư thái, không ít người cũng sẽ tự hỏi, sao họ được ‘thừa nhiều đến thế?’.
Nhóm thứ ba, ‘mười hai môn đệ’, là những người được biểu tượng hoá bằng hình ảnh “mười hai thúng bánh còn dư”, là những người đặc biệt trung thành với Chúa Giêsu, tiếp tục được Ngài nuôi dưỡng một cách không thể phủ phê hơn đến nỗi nhiều lúc, chính họ lại tự hỏi, sao mình lại được ‘thừa nhiều đến thế?’. Đây là những người tìm cách đào sâu và nắm lấy những chân lý tâm linh sâu sắc nhất để chính họ được nuôi dưỡng cũng như được biến đổi ở tầng sâu thẳm nhất; sau đó, họ ra đi, đem chia sẻ những gì mình có để nuôi dưỡng kẻ khác. Sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay kể ra những con người đầu tiên đã được nuôi dưỡng và biến đổi đến mức nào; để từ đó, họ ra đi xây dựng Hội Thánh Chúa Kitô. Bài đọc thứ nhất ghi nhận trải nghiệm của các tông đồ, “Các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Đức Giêsu. Hằng ngày, tại đền thờ hay tại tư gia, các ngài cứ tiếp tục giảng dạy, và loan truyền Tin Mừng Đức Giêsu Kitô”.
Anh Chị em,
Con người luôn đói khát một cuộc sống tràn đầy và không cùng và Thiên Chúa là Cha nhân lành, quảng đại vô song, giàu có khôn lường. Hồng ân của Ngài lúc nào cũng vô hạn như chính thiên tính của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó, “Tôi đến cho chiên Tôi được sống vào sống dồi dào”. Trên thế gian này chỉ có Thiên Chúa mới đáp lại những ước vọng sâu xa nhất nơi tâm hồn con người; chỉ Thiên Chúa mới có thể làm no thoả ước vọng đến vô biên của lòng người. Nơi Bí tích Thánh Thể chúng ta đón nhận sự sống của Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác ngay từ bây giờ và cho đến muôn đời. Hãy đặc biệt nhắc nhở bản thân để tìm ra “mười hai thúng” chân lý thiêng liêng còn lại. Nếu làm được điều đó, chúng ta sẽ khám phá ra rằng, sẽ không có hồi kết đối với chiều sâu biến đổi của những ân sủng mà Thiên Chúa đang rất muốn ban cho chúng ta.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, mỗi ngày con đọc kinh Lạy Cha, con không chỉ xin của ăn phần xác nhưng cả của ăn phần hồn; xin giúp con luôn biết tạ ơn khi hưởng dùng ân lộc hồn xác của Chúa. Đừng bao giờ để con ngạc nhiên và tự hỏi, sao ‘thừa nhiều đến thế?’, Amen.
(Tgp. Huế)
“Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư”.
Sau cơn nguy kịch, một bệnh nhân biết mình phải trả 1,3 triệu tiền Oxy; anh ta thốt lên, “Vậy tôi phải trả bao nhiêu cho khí trời đã cho tôi hít thở trong suốt 53 năm qua? Trời cho tôi nhiều quá!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Với trình thuật này, thánh Augustinô giải thích, Chúa Giêsu đã cung cấp nhiều hơn những gì người ta có thể hưởng dùng; đây là một cách thức mô tả đầy biểu tượng những chân lý tâm linh vốn vượt quá những gì mà một đám rất đông quần chúng có thể hiểu được. Bằng cách này, những lời dạy của Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng đám đông đến mức họ hoàn toàn thoả lòng; nhưng cả khi đám đông cách chung đã thoả mãn với những gì Chúa Giêsu dạy, thì vẫn còn rất nhiều điều họ phải học hỏi từ Ngài. Theo thánh Augustinô, “mười hai thúng còn dư”, và ‘thừa nhiều đến thế’ là biểu tượng cho những chân lý siêu việt sâu sắc hơn ấy.
Bên cạnh đó, “mười hai thúng còn dư” lại tượng trưng cho nhóm ‘mười hai môn đệ’. Họ là những người được Chúa Giêsu đặc biệt chọn gọi để nhận được nhiều hơn. Hãy nhớ lại những lần Ngài dạy dỗ đám đông bằng dụ ngôn; sau đó, về nhà, Ngài giải thích riêng cho họ; tiết lộ cho họ một số chân lý mà hầu hết mọi người không thể hiểu, cũng như không thể chấp nhận.
Sẽ rất hữu ích nếu chúng ta xem xét ba nhóm người khác nhau trong phép lạ này, đồng thời, so sánh họ với những con người hôm nay trong xã hội. Nhóm đầu tiên là những người thậm chí không có mặt khi phép lạ xảy ra; đây là những người không cùng một hành trình với Chúa Giêsu để có thể ở với Ngài trong đồng vắng. Nhóm người này lớn nhất trong xã hội, họ sống cuộc sống hàng ngày của họ mà không hề biết phải tìm kiếm nguồn lương thực thiêng liêng tối thiểu cho mình từ Thiên Chúa, Đấng sẵn sàng nuôi sống họ.
Nhóm thứ hai là “đám đông dân chúng” đã theo Chúa Giêsu đến tận vùng xa xôi của biển Galilê để ở với Ngài. Nhóm này đại diện cho những người siêng năng tìm kiếm Chúa mỗi ngày; đây là những người trung thành với việc tham dự Thánh Lễ, đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa. Với nhóm người này, Chúa Giêsu dạy họ nhiều điều, họ được nuôi dưỡng bằng Lời Ngài và các Bí tích. Nhiều người ước ao được như họ bởi họ no đủ về đời sống thiêng liêng. Nhìn họ được bình an, thư thái, không ít người cũng sẽ tự hỏi, sao họ được ‘thừa nhiều đến thế?’.
Nhóm thứ ba, ‘mười hai môn đệ’, là những người được biểu tượng hoá bằng hình ảnh “mười hai thúng bánh còn dư”, là những người đặc biệt trung thành với Chúa Giêsu, tiếp tục được Ngài nuôi dưỡng một cách không thể phủ phê hơn đến nỗi nhiều lúc, chính họ lại tự hỏi, sao mình lại được ‘thừa nhiều đến thế?’. Đây là những người tìm cách đào sâu và nắm lấy những chân lý tâm linh sâu sắc nhất để chính họ được nuôi dưỡng cũng như được biến đổi ở tầng sâu thẳm nhất; sau đó, họ ra đi, đem chia sẻ những gì mình có để nuôi dưỡng kẻ khác. Sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay kể ra những con người đầu tiên đã được nuôi dưỡng và biến đổi đến mức nào; để từ đó, họ ra đi xây dựng Hội Thánh Chúa Kitô. Bài đọc thứ nhất ghi nhận trải nghiệm của các tông đồ, “Các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Đức Giêsu. Hằng ngày, tại đền thờ hay tại tư gia, các ngài cứ tiếp tục giảng dạy, và loan truyền Tin Mừng Đức Giêsu Kitô”.
Anh Chị em,
Con người luôn đói khát một cuộc sống tràn đầy và không cùng và Thiên Chúa là Cha nhân lành, quảng đại vô song, giàu có khôn lường. Hồng ân của Ngài lúc nào cũng vô hạn như chính thiên tính của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó, “Tôi đến cho chiên Tôi được sống vào sống dồi dào”. Trên thế gian này chỉ có Thiên Chúa mới đáp lại những ước vọng sâu xa nhất nơi tâm hồn con người; chỉ Thiên Chúa mới có thể làm no thoả ước vọng đến vô biên của lòng người. Nơi Bí tích Thánh Thể chúng ta đón nhận sự sống của Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác ngay từ bây giờ và cho đến muôn đời. Hãy đặc biệt nhắc nhở bản thân để tìm ra “mười hai thúng” chân lý thiêng liêng còn lại. Nếu làm được điều đó, chúng ta sẽ khám phá ra rằng, sẽ không có hồi kết đối với chiều sâu biến đổi của những ân sủng mà Thiên Chúa đang rất muốn ban cho chúng ta.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, mỗi ngày con đọc kinh Lạy Cha, con không chỉ xin của ăn phần xác nhưng cả của ăn phần hồn; xin giúp con luôn biết tạ ơn khi hưởng dùng ân lộc hồn xác của Chúa. Đừng bao giờ để con ngạc nhiên và tự hỏi, sao ‘thừa nhiều đến thế?’, Amen.
(Tgp. Huế)
Thứ Bẩy 17/4: Họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển. Lm. Phêrô Nguyễn Văn Cao, SJ
Giáo Hội Năm Châu
04:13 16/04/2021
Video sẽ bắt đầu từ 7g tối ngày 16-April-2021 theo giờ Việt Nam
PHÚC ÂM: Ga 6, 16-21
“Họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ. Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh. Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: “Chính Thầy đây, đừng sợ”. Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới.
Đó là lời Chúa.
Thân Mình Chúa Phục Sinh
Lm. Nguyễn Xuân Trường
14:20 16/04/2021
THÂN MÌNH CHÚA PHỤC SINH
Thánh Phaolô nói: Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì lời rao giảng của tôi là vô ích và niềm tin của anh chị em là hão huyền. Như thế có nghĩa là tất cả đời sống đạo của chúng ta đặt nền tảng vào Chúa Giêsu phục sinh. Chúa phục sinh làm cho đạo Chúa khác các tôn giáo khác. Người ta chết là cánh cửa cuộc đời khép lại kết thúc, còn riêng Chúa Giêsu, chết lại là cánh cửa mở ra một sự sống mới tuyệt vời hơn.
Sau khi phục sinh, Chúa đã nhiều lần hiện ra với nhiều người ở các nơi khác nhau để khẳng định Chúa đã sống lại thật sự. Chúa hiện ra với bà Maria Mađalêna nơi cửa mộ, Chúa hiện ra với 2 môn đệ trên đường đi Emmau, Chúa hiện ra với các môn đệ trên bãi biển, Chúa hiện ra với các môn đệ ở trong nhà. Phúc Âm tuần này kể chuyện Chúa hiện ra không chỉ nói, mà Chúa còn cho các môn đệ sờ xem tay chân Ngài. Thêm vào đó, Chúa còn ăn cá nướng với các môn đệ. Chúa làm tất cả những điều đó để khẳng định chính Chúa đã sống lại thật, chứ không phải là ma như các môn đệ tưởng.
Thân xác Chúa đã chết và đã thực sự sống lại. Tuy nhiên, thân xác đó có những biến đổi nên các môn đệ không nhận ra Chúa, hoặc nhà đóng kín cửa mà Chúa vẫn vào được. Thân xác Chúa Giêsu phục sinh biến đổi vinh hiển. Và khi chúng ta tin vào Chúa Giêsu phục sinh, tức là tin rằng: thân xác của chúng ta cũng được tham dự vào sự phục sinh của Chúa, chúng ta cũng phải sử dụng thân xác ta như Chúa Giêsu đã sử dụng. Chúa đã sử dụng thân xác như thế nào? Môi miệng Chúa đã nói những lời yêu thương; bàn tay Chúa đã chữa lành bệnh tật và mang thương tích để cứu độ, đôi chân Chúa đã hăng hái đi loan báo Tin Mừng.
Xin Chúa cho mỗi chúng ta biết dùng thân xác là dụng cụ diễn tả tình yêu và sự sống theo gương Chúa Giêsu. Amen.
Thánh Phaolô nói: Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì lời rao giảng của tôi là vô ích và niềm tin của anh chị em là hão huyền. Như thế có nghĩa là tất cả đời sống đạo của chúng ta đặt nền tảng vào Chúa Giêsu phục sinh. Chúa phục sinh làm cho đạo Chúa khác các tôn giáo khác. Người ta chết là cánh cửa cuộc đời khép lại kết thúc, còn riêng Chúa Giêsu, chết lại là cánh cửa mở ra một sự sống mới tuyệt vời hơn.
Sau khi phục sinh, Chúa đã nhiều lần hiện ra với nhiều người ở các nơi khác nhau để khẳng định Chúa đã sống lại thật sự. Chúa hiện ra với bà Maria Mađalêna nơi cửa mộ, Chúa hiện ra với 2 môn đệ trên đường đi Emmau, Chúa hiện ra với các môn đệ trên bãi biển, Chúa hiện ra với các môn đệ ở trong nhà. Phúc Âm tuần này kể chuyện Chúa hiện ra không chỉ nói, mà Chúa còn cho các môn đệ sờ xem tay chân Ngài. Thêm vào đó, Chúa còn ăn cá nướng với các môn đệ. Chúa làm tất cả những điều đó để khẳng định chính Chúa đã sống lại thật, chứ không phải là ma như các môn đệ tưởng.
Thân xác Chúa đã chết và đã thực sự sống lại. Tuy nhiên, thân xác đó có những biến đổi nên các môn đệ không nhận ra Chúa, hoặc nhà đóng kín cửa mà Chúa vẫn vào được. Thân xác Chúa Giêsu phục sinh biến đổi vinh hiển. Và khi chúng ta tin vào Chúa Giêsu phục sinh, tức là tin rằng: thân xác của chúng ta cũng được tham dự vào sự phục sinh của Chúa, chúng ta cũng phải sử dụng thân xác ta như Chúa Giêsu đã sử dụng. Chúa đã sử dụng thân xác như thế nào? Môi miệng Chúa đã nói những lời yêu thương; bàn tay Chúa đã chữa lành bệnh tật và mang thương tích để cứu độ, đôi chân Chúa đã hăng hái đi loan báo Tin Mừng.
Xin Chúa cho mỗi chúng ta biết dùng thân xác là dụng cụ diễn tả tình yêu và sự sống theo gương Chúa Giêsu. Amen.
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:15 16/04/2021
3. Con người ta khi nghĩ đến ranh giới chưa đạt được thì tất không dám dừng lại trên đường, mà cần phải tiếp tục gắng sức tiến về phía trước.
(Thánh Bernard)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:20 16/04/2021
17. TỪ TRƯỚC ĐẾN NAY KHÔNG ĂN CHAY
Hòa thượng được người ta mời làm khách, chủ nhân thấy ông là người xuất gia (tu hành) bèn hỏi:
- “Sư phụ, ngài uống rượu chứ?”
Hòa thượng cười trả lời:
- “Rượu thì rót uống chút chút, vì từ trước đến nay không ăn chay”.
(Tiếu Đắc Hảo)
Suy tư 17:
Làm hòa thượng nhứt định là phải ăn chay trường, kiêng thịt chó và không được uống rượu đế, đó là chuyện đương nhiên của người tu hành mặc áo cà sa, và nếu có ngoại lệ chăng nữa thì cũng bị các thiện nam tín nữ…tẩy chay.
Giáo dân luôn nhìn các linh mục bằng con mắt kinh trọng và thán phục: kính trọng bởi vì các ngài là những người đã được thánh hóa bởi thiên chức linh mục qua bí tích truyền chức thánh; thán phục bởi vì các ngài dám hy sinh tất cả mọi sự thế gian để theo làm môn đệ của Đức Chúa Giê-su, cho nên làm linh mục thì nhứt định là phải có lòng kính mến Thiên Chúa, yêu thương tha nhân và có đời sống đạo đức gương mẫu, và không có ngoại lệ…
Hòa thượng cũng ăn thịt cũng uống rượu như các thực khách khác, vì hòa thượng không ăn chay nên gây cớ thắc mắc cho mọi người; các linh mục của Đức Chúa Giê-su không ăn chay như hòa thượng, nhưng các ngài biết chia sẻ những niềm vui nỗi buồn với mọi người, bằng tấm lòng yêu thương và bao dung của một mục tử hiền lành như Đức Chúa Giê-su vậy.
(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Hòa thượng được người ta mời làm khách, chủ nhân thấy ông là người xuất gia (tu hành) bèn hỏi:
- “Sư phụ, ngài uống rượu chứ?”
Hòa thượng cười trả lời:
- “Rượu thì rót uống chút chút, vì từ trước đến nay không ăn chay”.
(Tiếu Đắc Hảo)
Suy tư 17:
Làm hòa thượng nhứt định là phải ăn chay trường, kiêng thịt chó và không được uống rượu đế, đó là chuyện đương nhiên của người tu hành mặc áo cà sa, và nếu có ngoại lệ chăng nữa thì cũng bị các thiện nam tín nữ…tẩy chay.
Giáo dân luôn nhìn các linh mục bằng con mắt kinh trọng và thán phục: kính trọng bởi vì các ngài là những người đã được thánh hóa bởi thiên chức linh mục qua bí tích truyền chức thánh; thán phục bởi vì các ngài dám hy sinh tất cả mọi sự thế gian để theo làm môn đệ của Đức Chúa Giê-su, cho nên làm linh mục thì nhứt định là phải có lòng kính mến Thiên Chúa, yêu thương tha nhân và có đời sống đạo đức gương mẫu, và không có ngoại lệ…
Hòa thượng cũng ăn thịt cũng uống rượu như các thực khách khác, vì hòa thượng không ăn chay nên gây cớ thắc mắc cho mọi người; các linh mục của Đức Chúa Giê-su không ăn chay như hòa thượng, nhưng các ngài biết chia sẻ những niềm vui nỗi buồn với mọi người, bằng tấm lòng yêu thương và bao dung của một mục tử hiền lành như Đức Chúa Giê-su vậy.
(dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN 3 PS)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:25 16/04/2021
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH
Tin Mừng: Lc 24, 35-48
“Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.”
Bạn thân mến,
Lời đầu tiên hôm nay của Đức Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng cũng chính là “bình an cho các con”, như thế để cho chúng ta hiểu ra rằng: bình an chính là hạnh phúc mà con người mãi mê tìm kiếm, nhưng tìm mãi tìm hoài mà cũng không tìm thấy bình an đích thực, chỉ là những bình an giả tạo mà thôi. Hôm nay tôi xin chia sẻ với anh chị em một thực tại sống động mà chúng ta -những người Ki-tô hữu- đang thực hiện, đó chính là mỗi người trở nên chứng nhân về việc Chúa đã chết và đã sống lại qua ngôn hành của chúng ta trong cuộc sống.
1. Anh em có gì ăn không?
Ma quỷ thì không có thân xác nên không thể ăn được, chỉ những ai còn sống mới biết đói biết khát, chỉ những ai đói mới đòi ăn và khát mới đòi uống, nhưng Đức Chúa Giê-su thì không phải vì đói vì khát mà xin ăn, nhưng chính là để chứng minh cho các môn đệ của Ngài biết rằng Ngài đã sống lại thật rồi.
Có rất nhiều người chung quanh chúng ta đang ngửa tay hỏi chúng ta: các anh các chị có gì ăn không? Họ xin ăn không phải để nói rằng họ đã từ cõi chết sống lại, nhưng là để cho chúng ta nhận ra Đức Chúa Ki-tô phục sinh đang ở trong người của họ, để chúng ta nhận ra chính Chúa đang hiện diện giữa chúng ta, chung quanh chúng ta, nơi những người đói khát, nghèo khó...
Các tông đồ đã mau mắn đem bánh lại cho Chúa ăn, các ngài vui mừng quá đổi vì Chúa đã sống lại.
Khi chúng ta mau mắn đưa cơm bánh cho người nghèo là chúng ta vui mừng vì được phục vụ Chúa Phục Sinh nơi người anh em chị em nghèo khó, đó chính là niềm vui phục sinh, là cách làm chứng cho mọi người biết rằng Đức Chúa Giê-su vẫn ngày ngày đang sống lại nơi mỗi một người Kitô hữu.
Ai có đói mới thấy quý từng mảnh vụn cơm bánh, ai có khát mới thấy từng giọt nước là quý, ai có ngửa tay nói anh có gì ăn không, mới thấy giá trị của sự sống là cao quý vô cùng, mới thấy rõ thật giá trị của cơm thừa canh cặn, mới thấy rõ sự nhục nhã của kiếp ăn xin nghèo đói. Do đó, chỉ cần một ánh mắt khinh bỉ, chỉ cần một lời nói bóng gió, chỉ cần một thái độ khinh khi là làm cho tâm hồn của họ thêm đau đớn...
Ai có cầm bánh đưa ra cho người nghèo đói ăn thì mới cảm nghiệm được niềm vui của tâm hồn, nó thanh thoát, nó toả lan đến những người chung quanh, bởi vì chính họ đã nếm được sự hạnh phúc của việc cho kẻ đói ăn tức là cho Đức Chúa Giê-su Phục Sinh ăn...
2. Anh em có gì ăn không?
Đây không còn là một lời xin, đây cũng không còn là một lời đòi hỏi của người nghèo đói, nhưng là môt câu hỏi thân thiết quan tâm lẫn nhau giữa người với người, giữa anh em chị em với bè bạn.
Nếu mỗi ngày chúng ta gặp nhau mà hỏi: anh có gì ăn không, con cái anh có gì ăn không, để quan tâm và giúp đỡ, thì quả thật bình an của Thiên Chúa đang ở trong chúng ta. Một câu hỏi năm xưa của Đức Chúa Giê-su Phục Sinh đã làm cho các tông đồ vui sướng như thế nào, thì hôm nay, một câu hỏi như thế của chúng ta đối với người anh em chị em, thì cũng khiến cho họ rất sung sướng và hạnh phúc, vì họ được biết có người luôn quan tâm đến họ và gia đình họ.
Nếu chúng ta ai cũng biết bỏ đi cái ích kỷ nhỏ nhen trong tâm hồn để nói với người hàng xóm đang chật vật vì miếng cơm: anh chị hôm nay có gì ăn không? thì chính họ đã nhận ra được Tin Mừng phục sinh nơi con người của chúng ta, bởi vì chỉ có những ai có một tâm hồn bình an, yêu thương, khiêm tốn mới có thể thật lòng quan tâm đến người khác cách vô vị lợi.
Đức Chúa Giê-su không khách sáo khi nhận bánh nơi các môn đệ của mình, Ngài ăn ngay trước mặt các ông, cũng vậy, có những lúc chúng ta không cần hỏi anh em có gì ăn không, nhưng chúng ta vẫn có thể chủ động quan tâm giúp đỡ người anh em, đó chính là thái độ tích cực mà–có thể nói- chỉ có những Ki-tô hữu mới có thói quen tốt đẹp này...
Anh chị em thân mến,
Có lúc nào chúng ta hỏi người anh chị em nghèo đói bên cạnh nhà mình: anh chị em có cần gì không, tôi giúp đỡ?
Có lúc nào chúng ta chủ động coi những người lân cận của mình hôm nay ai bị bệnh phải đi bệnh viện, ai già cả neo đơn, ai có con cái đông lo không xuể...?
Đó chính là chúng ta thay mặt Đức Chúa Giê-su Phục Sinh quan tâm đến anh chị em, đem bình an và hạnh phúc của Ngài đến cho mọi người vậy.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin Mừng: Lc 24, 35-48
“Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.”
Bạn thân mến,
Lời đầu tiên hôm nay của Đức Chúa Giê-su trong bài Tin Mừng cũng chính là “bình an cho các con”, như thế để cho chúng ta hiểu ra rằng: bình an chính là hạnh phúc mà con người mãi mê tìm kiếm, nhưng tìm mãi tìm hoài mà cũng không tìm thấy bình an đích thực, chỉ là những bình an giả tạo mà thôi. Hôm nay tôi xin chia sẻ với anh chị em một thực tại sống động mà chúng ta -những người Ki-tô hữu- đang thực hiện, đó chính là mỗi người trở nên chứng nhân về việc Chúa đã chết và đã sống lại qua ngôn hành của chúng ta trong cuộc sống.
1. Anh em có gì ăn không?
Ma quỷ thì không có thân xác nên không thể ăn được, chỉ những ai còn sống mới biết đói biết khát, chỉ những ai đói mới đòi ăn và khát mới đòi uống, nhưng Đức Chúa Giê-su thì không phải vì đói vì khát mà xin ăn, nhưng chính là để chứng minh cho các môn đệ của Ngài biết rằng Ngài đã sống lại thật rồi.
Có rất nhiều người chung quanh chúng ta đang ngửa tay hỏi chúng ta: các anh các chị có gì ăn không? Họ xin ăn không phải để nói rằng họ đã từ cõi chết sống lại, nhưng là để cho chúng ta nhận ra Đức Chúa Ki-tô phục sinh đang ở trong người của họ, để chúng ta nhận ra chính Chúa đang hiện diện giữa chúng ta, chung quanh chúng ta, nơi những người đói khát, nghèo khó...
Các tông đồ đã mau mắn đem bánh lại cho Chúa ăn, các ngài vui mừng quá đổi vì Chúa đã sống lại.
Khi chúng ta mau mắn đưa cơm bánh cho người nghèo là chúng ta vui mừng vì được phục vụ Chúa Phục Sinh nơi người anh em chị em nghèo khó, đó chính là niềm vui phục sinh, là cách làm chứng cho mọi người biết rằng Đức Chúa Giê-su vẫn ngày ngày đang sống lại nơi mỗi một người Kitô hữu.
Ai có đói mới thấy quý từng mảnh vụn cơm bánh, ai có khát mới thấy từng giọt nước là quý, ai có ngửa tay nói anh có gì ăn không, mới thấy giá trị của sự sống là cao quý vô cùng, mới thấy rõ thật giá trị của cơm thừa canh cặn, mới thấy rõ sự nhục nhã của kiếp ăn xin nghèo đói. Do đó, chỉ cần một ánh mắt khinh bỉ, chỉ cần một lời nói bóng gió, chỉ cần một thái độ khinh khi là làm cho tâm hồn của họ thêm đau đớn...
Ai có cầm bánh đưa ra cho người nghèo đói ăn thì mới cảm nghiệm được niềm vui của tâm hồn, nó thanh thoát, nó toả lan đến những người chung quanh, bởi vì chính họ đã nếm được sự hạnh phúc của việc cho kẻ đói ăn tức là cho Đức Chúa Giê-su Phục Sinh ăn...
2. Anh em có gì ăn không?
Đây không còn là một lời xin, đây cũng không còn là một lời đòi hỏi của người nghèo đói, nhưng là môt câu hỏi thân thiết quan tâm lẫn nhau giữa người với người, giữa anh em chị em với bè bạn.
Nếu mỗi ngày chúng ta gặp nhau mà hỏi: anh có gì ăn không, con cái anh có gì ăn không, để quan tâm và giúp đỡ, thì quả thật bình an của Thiên Chúa đang ở trong chúng ta. Một câu hỏi năm xưa của Đức Chúa Giê-su Phục Sinh đã làm cho các tông đồ vui sướng như thế nào, thì hôm nay, một câu hỏi như thế của chúng ta đối với người anh em chị em, thì cũng khiến cho họ rất sung sướng và hạnh phúc, vì họ được biết có người luôn quan tâm đến họ và gia đình họ.
Nếu chúng ta ai cũng biết bỏ đi cái ích kỷ nhỏ nhen trong tâm hồn để nói với người hàng xóm đang chật vật vì miếng cơm: anh chị hôm nay có gì ăn không? thì chính họ đã nhận ra được Tin Mừng phục sinh nơi con người của chúng ta, bởi vì chỉ có những ai có một tâm hồn bình an, yêu thương, khiêm tốn mới có thể thật lòng quan tâm đến người khác cách vô vị lợi.
Đức Chúa Giê-su không khách sáo khi nhận bánh nơi các môn đệ của mình, Ngài ăn ngay trước mặt các ông, cũng vậy, có những lúc chúng ta không cần hỏi anh em có gì ăn không, nhưng chúng ta vẫn có thể chủ động quan tâm giúp đỡ người anh em, đó chính là thái độ tích cực mà–có thể nói- chỉ có những Ki-tô hữu mới có thói quen tốt đẹp này...
Anh chị em thân mến,
Có lúc nào chúng ta hỏi người anh chị em nghèo đói bên cạnh nhà mình: anh chị em có cần gì không, tôi giúp đỡ?
Có lúc nào chúng ta chủ động coi những người lân cận của mình hôm nay ai bị bệnh phải đi bệnh viện, ai già cả neo đơn, ai có con cái đông lo không xuể...?
Đó chính là chúng ta thay mặt Đức Chúa Giê-su Phục Sinh quan tâm đến anh chị em, đem bình an và hạnh phúc của Ngài đến cho mọi người vậy.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Thánh Lễ Chúa Nhật thứ Ba Mùa Phục Sinh 18/4/2021 dành cho những người không thể đến nhà thờ
Giáo Hội Năm Châu
22:37 16/04/2021
BÀI ĐỌC I: Cv 3, 13-15. 17-19
“Đấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy, Phêrô nói với dân chúng rằng: “Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Đấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Đấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng.
“Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 4, 2. 7. 9
Đáp: Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con! (c. 7a)
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Khi con cầu, nguyện Chúa nghe, lạy Chúa công bình của con, Chúa đã giải thoát con trong cơn khốn khó, nguyện xót thương và nghe tiếng con cầu!
2) Nhiều người nói: “Ai chỉ cho ta thấy điều thiện hảo?” Lạy Chúa, xin chiếu sáng thiên nhan Chúa trên mình chúng con!
3) Được an bình, con vừa nằm xuống, thoắt ngủ ngon, vì lạy Chúa, duy có Chúa cho con yên hàn.
BÀI ĐỌC II: 1 Ga 2, 1-5a
“Chính Người là của lễ đền tội, không những cho chúng ta mà thôi, nhưng còn cho cả thế gian”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai đã phạm tội, thì chúng ta có Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian. Chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu chúng ta giữ các giới răn Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: x. Lc 24, 32
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh; xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 24, 35-48
“Họ nhận ra được Người khi họ nhận bánh do Người bẻ trao cho”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Mọi người còn đang bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: “Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ”. Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: “Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”. Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: “Ở đây các con có gì ăn không?” Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Đoạn Người phán: “Đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh”. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: “Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy”.
Đó là lời Chúa.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Hình ảnh hậu trường bên trong công trình xây dựng lại Nhà thờ Đức Bà
Đặng Tự Do
05:02 16/04/2021
Không có gì lạ khi những nhà thờ lớn như thế này phải mất hàng thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ để xây dựng.
Trần nhà hình vòm, cửa sổ kính màu và hàng cột phức tạp - rất nhiều điều khiến Nhà thờ Đức Bà Paris trở thành một trong những kỳ quan gothic tinh tế nhất thế giới, nổi bật một cách gần như kỳ diệu.
Công trình kiến trúc ngôi nhà thờ Pháp này bắt đầu vào năm 1163, mãi đến năm 1345 mới hoàn thành.
Việc xây dựng nhà thờ có thể đã mất 182 năm kể từ khi nó bắt đầu vào năm 1163, nhưng ngọn lửa vào năm 2019 chỉ mất vài giờ để ảnh hưởng đến sự ổn định của tòa nhà. Công việc trong hai năm qua là bảo đảm rằng nhà thờ luôn đứng thẳng.
Jean-Louis Georgelin, Giám đốc cơ quan phụ trách tái thiết Nhà thờ Đức Bà cho biết: “Chúng tôi phải an tâm hoàn toàn rằng cấu trúc đó vững chãi bằng cách thực hiện nhiều biện pháp gia cố. Chúng tôi không muốn tái thiết mà không được yên tâm”.
Ngọn Tháp phía Bắc mang tính biểu tượng, đã có lúc bị ngọn lửa đe dọa vào đêm hỏa hoạn. Cuối cùng, ngọn lửa đã bị dập tắt trước khi nó có thể khiến ngọn tháp sụp đổ. Nơi có ngọn tháp Notre Dame nổi tiếng từng đứng sừng sững trên nền trời Paris là nơi diễn ra phần tàn khốc nhất của đám cháy.
Khi cả thế giới quan sát, ngọn tháp, lúc bấy giờ đang được trùng tu, đã sụp đổ và xuyên thủng trần nhà thờ, trước khi ngã gục xuống gian giữa.
Giàn giáo bao quanh nó bao gồm 40,000 ống kim loại sụp đổ, nóng chảy, xoắn vào tòa nhà. Những mảnh kim loại này phải được cẩn thận nhặt lên và loại bỏ.
Jean-Louis nói: “Đây là nơi ngọn tháp sụp đổ, đây là trung tâm của thảm kịch”.
Bây giờ giàn giáo cho việc cải tạo đã sẵn sàng, Jean-Louis cho biết công việc xây dựng lại trần hình vòm của nhà thờ chính tòa Đức Bà và phần chóp của nó sẽ bắt đầu trước cuối năm nay.
Phần bên ngoài nhà thờ chính tòa cũng được chỉnh trang trước cuối năm nay. Mặt tiền gothic mang tính biểu tượng của nhà thờ đứng vững là minh chứng cho một công trình đã được chứng minh là vững chắc và tinh tế.
Source:Net TV
La Croix: Ba thách đố của Đức Cha Luc Crepy, tân giám mục của Versailles
J.B. Đặng Minh An dịch
05:02 16/04/2021
Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy đây là lễ nghi nhậm chức của Đức Cha Luc Crepy, tân Giám Mục Versailles, vào ngày Chúa Nhật 11 Tháng Tư tại Nhà thờ Saint-Louis của giáo phận.
Giáo phận Versailles có khoảng 1,5 triệu dân, trải rộng trên 75 giáo xứ, với khoảng 180 linh mục, 40 phó tế vĩnh viễn và hàng ngàn tình nguyện viên tham gia ở các cấp độ khác nhau trong việc phục vụ Giáo hội.
Chủng viện của giáo phận ở Yvelines có khoảng hai mươi chủng sinh đang được đào tạo. Ngoài ra, chín thanh niên hiện đang tham gia vào một năm tìm hiểu. Sự năng động này đã giúp giáo phận có thể mở lại một chủng viện cho đến bậc đại học vào năm 2006, sau khi đã bị đóng cửa vào năm 1972.
Trong giáo phận với nhiều nét trái ngược này, việc thực hành đạo của người Công Giáo dao động từ 30% ở một số quận nhất định của Versailles cho đến dưới 1% ở các khu vực khác.
Tờ La Croix trong số ra ngày 12 tháng Tư, có bài nhận định nhan đề “Les trois défis de Mgr Luc Crepy, nouvel évêque de Versailles”, nghĩa là “Ba thách đố của Đức Cha Luc Crepy, tân giám mục của Versailles”. Bài báo trình bày khá nhiều bài học hữu ích cho Giáo Hội tại Việt Nam. Vì thế, xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi toàn văn bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Anh Chi.
Với sự khởi đầu sứ vụ chủ chăn của Đức Cha Luc Crepy, 62 tuổi, lịch sử giáo phận Versailles đã bước sang một trang mới vào ngày Chúa Nhật 11 tháng 4, sau khi giáo phận này được Đức Cha Éric Aumonier chăn dắt trong hai thập kỷ.
Về mặt xã hội, văn hóa và tôn giáo, ít nơi nào ở Pháp có vẻ trái ngược như Le Chesnay và Trappes. Le Chesnay được kể là vùng ngoại ô thượng lưu của Versailles với nhiều nhóm hướng đạo sinh và là nơi một phần ba dân số đi lễ vào các ngày Chúa Nhật hàng tuần. Trappes, ngược lại, được kể là một vùng ngoại ô khét tiếng là có nhiều vấn nạn, và gần đây là tiêu điểm của các phương tiện truyền thông trước các vấn đề liên quan đến Hồi giáo ly khai.
Chưa hết, cả Trappes và Le Chesnay đều là hai thị trấn của Yvelines, và phụ thuộc vào cùng một giáo phận, là giáo phận Versailles. Đức Cha Bruno Valentin, Giám Mục Phụ Tá từ năm 2019 đến nay, nhận xét rằng: “Đó là một vùng của tất cả những tương phản”. Vị Giám mục Versailles phải thông thạo mọi địa hình, phải thích nghi được với phụng vụ truyền thống lẫn các thánh lễ với nhiều nét chấm phá qua các bài hát Phi Châu. Lời khuyên của Đức Cha Valentin dành cho vị tân giám mục là “Hãy nếm trải sự đa dạng này càng nhanh càng tốt, trước mùa hè”.
Vị tân Giám mục sẽ có thể khám phá ra ở đó những cộng đồng tràn đầy sức sống và năng động, đặc biệt là nơi các Kitô hữu thuộc các nhóm thiểu số, nhưng mong đợi rất nhiều từ nơi ngài, với các hỗ trợ và nhiệt tình mục vụ. “Yêu cầu đầu tiên của chúng tôi với Đức Cha là ngài hãy đến gặp chúng tôi!” Những cộng đoàn như thế ở mọi nơi trong vùng Yvelines, cả ở những khu vực giàu có và những khu dân cư của tầng lớp lao động.
Nữ tu Bernadette Diarra, thuộc dòng Filles du Cœur immaculé de Marie de Bamako, tức là dòng Nữ Tử Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria Bamako, bên Mali, được bổ nhiệm hoạt động mục vụ tại Yvelines từ tháng 9 năm ngoái. Sơ Diarra tuyên bố “không hề cảm thấy lạc lõng khi đến nơi”. Và vì lý do rất xác đáng: “trong các lễ lạc lớn, tôi thấy thực sự là một ngày đại lễ ở Phi Châu!” Đó là một thực tế khác xa với những khuôn sáo thông thường trong giáo phận Versailles. Versailles đã từng là trú sở của Vua Louis XIV, và ngày nay người ta cũng phải thừa nhận rằng đó cũng là nơi định cư của nhiều người với các quốc tịch khác nhau, thường gắn bó với Hồi giáo cực đoan hơn là với Công Giáo. Chẳng hạn như ở Trappes, nơi gần đây bị cáo buộc là trung tâm của các cộng đồng Hồi giáo. Đó chính xác là nơi nữ tu người Mali sống.
Cha Xavier Chavane, cha sở của Sartrouville, là một người quan sát tinh tường thực tế đa dạng của vùng này. Ngài mỉm cười nói: “Thành phố này là một bản tóm tắt của tất cả các thể loại Yvelines”. Ở đó, cách trung tâm Paris vài nhà ga đường sắt tốc hành, tiếng Pháp gọi là Réseau Express Régional, viết tắt RER, các khu trung lưu và các chung cư cao tầng nằm san sát cách nhau vài chục mét. Đối với Cha Chavane, khi đề cập đến giáo phận Versailles, người ta không nên quên thực tại Kitô giáo trong các khu dân cư của tầng lớp lao động – và đừng lý tưởng hóa thực tại ấy.
Cũng giống như Sơ Diarra, người rất vui mừng khi phát hiện ra ở Trappes “một Giáo hội luôn tìm kiếm những người khác”, Cha Chavane nhìn thấy những kho báu thực sự trong kinh nghiệm của các Kitô hữu tại các thành phố. Ngài nói: “Một trong những đặc điểm của các giáo xứ ở các khu bình dân, là cách họ tôn vinh Chúa Kitô khiến bạn muốn gặp Người. Một linh mục Việt Nam, Cha phó xứ Daniel Lê còn tỏ ra hài hước hơn: “Ở đây, tôi phát hiện ra rằng thánh lễ có thể truyền giáo!”
Điều này không có nghĩa là hoàn cảnh của các tín hữu Kitô là thanh bình ở những thành phố khó khăn này. Cha xứ Sartrouville cho biết, tình hình có khả quan hơn trước đây, nhưng vẫn có một áp lực nhất định tác động lên các Kitô hữu trẻ tuổi để buộc họ phải cải sang đạo Hồi. Điều này đặc biệt đúng khi những người trẻ tuổi không được đào tạo giáo lý vững chắc và cảm thấy mình bất lực khi bị các đồng nghiệp Hồi giáo chất vấn về niềm tin của mình. Cha Lê tóm tắt: “Tình cảnh này không dễ dàng và một trong những thách đố là chúng ta phải giúp trẻ em và người trẻ không xấu hổ về phúc âm và đức tin của họ”.
Để khuyến khích những người trẻ này, vị tân Giám mục Versailles có thể phải quan tâm đến việc phát triển các cầu nối giữa các cộng đồng giáo xứ, mang lại cho họ sự tự tin rằng họ không đơn độc trong niềm tin và trong việc thể hiện cho những cư dân khác trong giáo phận thấy lòng nhiệt thành đang làm sôi động các giáo xứ của thành phố. Đã có những cuộc trao đổi không thường xuyên giữa các giáo xứ, như khi anh chị em giáo dân từ một thành phố đặc biệt khó khăn đến để linh hoạt thánh lễ trong một vùng ngoại ô dân cư giàu có hơn.
Tuy nhiên, tương tác này không nên là một con đường một chiều. Đây là cách mà Đức Cha Valentin muốn thành công trong việc “chia sẻ của cải địa phương hóa” được đại diện bởi những giáo dân dấn thân. Nói cách khác, ngài muốn dựa vào sự dấn thân của các tín hữu – đặc biệt ở một số nơi như Versailles, Chatou hoặc Saint-Germain-en-Laye - để những khu vực khó khăn nhất của giáo phận có thể hình thành nên một cơ cấu giáo hội thực sự nhằm phục vụ người dân địa phương.
Cha Pierre Bothuan, chánh xứ Houdan, ở biên giới với Eure-et-Loir, cười nói: “Tôi năm nay 51 tuổi, có 80 linh mục trẻ hơn tôi trong giáo phận”. Đó là một tình huống có một không hai ở Pháp. Với độ tuổi trung bình là 52, các linh mục ở Versailles trẻ hơn đáng kể so với phần còn lại của nước Pháp, khoảng 1/4 thế kỷ.
Để giải thích đặc thù này, Cha Matthieu Dupont, giám đốc chủng viện Versailles, đặc biệt đề cao đức tin của các gia đình - “ân sủng của một ơn gọi đến từ ân sủng của một môi trường mà nó có thể phát triển” - và tầm quan trọng của việc khải đạo. Ngài không giấu giếm điều đó, hơn nữa, hầu hết tất cả các chủng sinh đều đến từ những vùng mà đạo Công Giáo “gia đình” vững vàng nhất. Sự giàu có này đã khiến Versailles, vào năm 2006, có thể mở được chủng viện của riêng mình - dù chỉ đến bậc đại học. Điều này không phải là không gây ra một số ngạc nhiên vào thời điểm đó ở các giáo phận lân cận.
Tuy nhiên, sự năng động về ơn gọi này không che lấp những khó khăn mà linh mục đoàn đã phải trải qua trong những năm gần đây. Một số linh mục đã kiệt sức, một số rời khỏi giáo phận, tự nguyện hoặc bị bắt buộc, và có cả những người tự nguyện rời khỏi chức linh mục, hay bị huyền chức. “Sau nhiều năm không có biến động, chúng tôi đột nhiên trải nghiệm sự mong manh,” Cha Bothuan nói một cách khiêm tốn. Và theo cha giám đốc chủng viện giáo phận, tuổi trẻ của hàng giáo sĩ Versailles có thể là một khuyết tật, các linh mục cao niên không đủ nhiều để mang lại sự trưởng thành cho hàng giáo sĩ.
Bên cạnh những lý do đa dạng khác, những cuộc ra đi này đặt ra câu hỏi về mối quan hệ giữa các linh mục và giám mục của họ. Đức Cha Bruno Valentin, được bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá vào năm 2019, đặc biệt để xoa dịu những căng thẳng, nhìn nhận: “Linh mục đoàn của chúng tôi đã trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng về lòng tin và quản trị, đặc biệt là liên quan đến các mối liên hệ với giám mục”. Một số linh mục cũng có thể có những lời lẽ đặc biệt gay gắt đối với giám mục cũ của các ngài, với lý do là không được quan tâm cá nhân và thiếu sự công nhận những thành tích của các ngài. Đối với Giám mục Valentin, “một sự thay đổi trong văn hóa quản lý” là cần thiết.
Nhưng đối với nhiều người, sự thay đổi cũng phải đến từ hàng giáo sĩ, những người được yêu cầu phải có “đức vâng phục”. Cha Dupont nhấn mạnh: “Đó là một phẩm chất, nhưng nó có thể trở thành một nhược điểm khi ngăn cản việc nói ra những bất đồng”. Theo Cha Dupont, “có lẽ chúng ta phải tạo ra một cơ chế cho các bất đồng chính đáng, cho phép mình nói ra những điều ấm ức mà không mất tinh thần phục vụ và cống hiến. Trong khi toàn tâm hướng về Đức Cha và cộng đoàn dân Chúa”.
Ngay cả trước khi Đức Thánh Cha Phanxicô được bầu làm Giáo Hoàng và những lời kêu gọi về một “sự chuyển đổi truyền giáo” trong Giáo hội, Giáo phận Versailles đã đặc biệt nhấn mạnh đến nghĩa vụ truyền giáo của các Kitô hữu. Sau Thượng hội đồng giáo phận năm 2010-2011, một trường học, École Pour Servir L’évangélisation, gọi tắt là ESE, đã được thành lập để phục vụ công cuộc tân Phúc Âm Hóa.
Giáo phận Versailles lúc này lúc khác được xem là một đỉnh cao của Công Giáo Pháp, nhưng điều này không có nghĩa là việc truyền giáo không có chỗ ở đó. Geneviève Guilhem-Ducléon, một trong hai người phụ trách ESE, mỉm cười nói: “Như ở khắp mọi nơi, Tin Mừng cần được công bố một cách táo bạo và với đức bác ái”. Để hỗ trợ cho nhận định này, một con số được đưa ra: số người Công Giáo thực hành đạo thường xuyên trong vùng này ước tính khoảng 5%. “Có chỗ để nâng cao!”, Frédéric Deren, người phụ trách khác của ESE, nói. Tất cả các dịp đều tốt cho việc rao truyền Chúa Kitô. Do đó, ESE đã có thể đào tạo một đội tang lễ. Hai tình nguyện viên giải thích: “Mục tiêu là tìm ra những từ ngữ phù hợp để rao giảng cho các gia đình bị tang tóc”.
Tinh thần truyền giáo của người dân Yvelines không chỉ giới hạn ở sự phục vụ tận tâm của họ. Tại Trappes, nơi có 3/4 dân số theo đạo Hồi, việc rao giảng Tin Mừng cũng được thực hiện tại trường Sainte-Marie. Cơ sở có 330 học sinh đại diện cho sự đa dạng của thành phố Đây không phải là một cơ sở chiêu dụ tín đồ, nhưng không có cách nào làm giảm bản sắc Công Giáo của nhà trường. Hiệu trưởng Magali Ménard nhấn mạnh: “Tất cả các bậc cha mẹ đều biết rằng có một thông báo rất rõ ràng về đức tin ở đây”.
Bí mật của sự hiện diện truyền giáo ôn hòa này trong một thành phố thường được coi là điểm nóng của Hồi giáo cực đoan là gì? Thưa: Đó là sự dấn thân của phụ huynh và đội ngũ giảng dạy vì sự thành công của trẻ. Điều này cho phép biến nhà trường thành “một nơi gặp gỡ, nơi đức tin được sống một cách vui tươi và không bị gò bó”.
Source:La Croix
Thống đốc Montana ký ban hành luật tự do phát biểu tôn giáo tại khuôn viên Đại Học
Vũ Văn An
15:45 16/04/2021
Có nhiều dấu hiệu cho thấy người Hoa Kỳ bắt đầu chán ngán nền độc tài duy tương đối. Gần đây, ít nhất có hai tiểu bang của họ đã hạn chế tối đa việc sát nhi trong bụng mẹ.
Và nay, theo Iris Samuels của CruxNow (https://cruxnow.com/church-in-the-usa/2021/04/governor-signs-bills-defending-campus-free-speech-in-montana/), Thống đốc Montana Greg Gianforte đã ký hai dự luật hôm thứ Năm mà những người ủng hộ cho rằng nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận và lập hội trong các khuôn viên trường đại học công lập trong tiểu bang.
Luật mới cấm các trường đại học từ chối cung cấp tài nguyên cho các tổ chức tôn giáo, chính trị hoặc hệ tư tưởng của sinh viên ngay cả khi họ có quan điểm mà các sinh viên khác thấy là xúc phạm. Các trường đại học vẫn có thể cấm việc kỳ thị nhắm vào các sinh viên đặc thù.
Dự luật đó đã thông qua Cơ quan lập pháp phần lớn theo đường lối của đảng, trong đó đảng Cộng hòa ủng hộ và đảng Dân chủ phản đối. Những người ủng hộ biện pháp này cho rằng cần phải tránh việc loại trừ các nhóm có quan điểm gây tranh cãi. Những người phản đối thì cho rằng biện pháp này sẽ cho phép các nhóm nhận được tài trợ từ trường đại học ngay cả khi họ giữ các quan điểm loại trừ hoặc nhắm vào một số sinh viên nào đó, chẳng hạn như các thành viên của cộng đồng LGBTQ.
Luật mới cũng sẽ cấm các trường đại học giới hạn bài phát biểu gây tranh cãi vào “khu vực tự do ngôn luận” - các khu vực được chỉ định trong khuôn viên trường mà sinh viên và những người khác bị giới hạn ở đó nếu họ muốn chia sẻ quan điểm mà không cần có sự chấp thuận của các viên chức đại học đối với các biến cố có thể mang bản chất chính trị.
Vào đầu năm nay, các viên chức của trường đại học Montana cho biết không có khu vực tự do ngôn luận trong khuôn viên của họ.
Theo luật, các thành viên của tổ chức nào cho rằng quyền tự do ngôn luận của họ đang bị trường đại học hạn chế có thể kiện đòi bồi thường thiệt hại từ 2,000 đến 75,000 đô la.
Dự luật đó, đã được Cơ quan Lập pháp thông qua với sự ủng hộ rộng rãi của lưỡng đảng, tương tự như một dự luật đã được thông qua vào năm 2019, chỉ rồi bị Thống đốc Steve Bullock, một đảng viên Dân chủ, phủ quyết; ông là người cho rằng tự do ngôn luận đã được Hiến pháp bảo vệ.
Gianforte, một đảng viên Cộng hòa, kế nhiệm Bullock vào đầu năm nay, đã nói trong một tuyên bố sau khi ký dự luật rằng một trường đại học “phải là nơi khuyến khích trao đổi ý tưởng tự do”.
Dân biểu Mike Hopkins, một đảng viên Đảng Cộng hòa, đã đệ trình cả hai dự luật sau khi ông và những người khác cáo buộc Đại học Montana đã không bảo vệ một cách hợp tình hợp lý quyền của nhà xã hội học gây tranh cãi Mike Adams xuất hiện trong khuôn viên trường vào năm 2018. Adams đã phát biểu một bài diễn văn được sự tham dự rộng rãi mang tên “Cái chết của Thiên kiến Tự do trong Nền Giáo dục Cao đẳng” nhưng khoa trưởng Báo chí của trường đã từ chối tài trợ.
Pho tượng Chúa Kitô Bảo Vệ, cao 43 mét sẽ được xây tại Brazil
Đặng Tự Do
16:43 16/04/2021
Sáng kiến xây dựng pho tượng mới do ông Gilson Conzatti, thị trưởng Encantado và con là Adroaldo. Mục đích họ nhắm tới là để biểu dương đức tin và đồng thời cũng để thu hút du khách. Thị trấn này có 22.000 dân và cách thủ phủ Porto Alegre của bang Rio Grande do Sul 145 cây số về hướng tây bắc.
Tượng được đặt tên là “Chúa Kitô Bảo Vệ”, cao 43 mét kể cả bệ, tức là cao hơn 5 mét so với Tượng Chúa Kitô Cứu Thế ở thành Rio de Janeiro, và hai cánh tay của tượng dài 36 mét, tức là dài hơn 10 mét so với tượng ở Rio. Bên trong tượng có thang máy để lên đỉnh, tại đây có một khu vực để du khách quan sát và ngắm cảnh.
Công trình lập tượng bắt đầu từ năm 2019 với phí tổn dự kiến là hai triệu đồng Real của Brazil, tương đương với 350.000 Mỹ kim, do những người hảo tâm đóng góp và hiệp hội Những người bạn của Chúa Kitộ phối hợp công trình kiến thiết và quản lý. Trong những ngày này, đầu và hai cánh tay giang rộng được gắn vào khung tượng, và phần còn lại của tượng sẽ được gắn vào trong vòng tám tháng tới đây.
Source:CNA
Đức Tổng Giám Mục Cordileone kêu gọi tiêm chủng chống phân biệt chủng tộc
Đặng Tự Do
16:44 16/04/2021
Đức Tổng Giám Mục Salvatore Cordileone của San Francisco tuần trước đã lên án bạo lực đối với người Á Châu tại Hoa Kỳ, và đưa ra sự so sánh giữa vắc-xin COVID-19 và quan điểm chống phân biệt chủng tộc.
“Việc tiêm chủng chống phân biệt chủng tộc có thể được tóm gọn trong một từ: đức hạnh”, Đức Tổng Giám Mục Cordileone nói hôm 10 tháng 4 tại Nhà thờ Đức Bà.
Phát biểu của Đức Tổng Giám Mục được đưa ra trong một buổi lễ cầu nguyện cho việc “chấm dứt bạo lực và phân biệt chủng tộc đặc biệt đối với người Á Châu, vì sự hàn gắn cho đất nước chúng ta, và vì sự hưng thịnh của hòa bình và công lý trên đất nước của chúng ta”.
Sự kiện này được tổ chức trong bối cảnh các báo cáo gần đây về tình trạng bạo lực gia tăng đối với cộng đồng Á Châu tại Hoa Kỳ.
Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ báo cáo rằng 36% người dân ở Quận San Francisco là người gốc Á. Đức Cha Cordileone lưu ý rằng nhập cư từ Trung Quốc đã không đổi trong thành phố ngay từ đầu, và nhập cư từ các quốc gia Á Châu khác cũng phổ biến trong khu vực. Theo Đức Tổng Giám Mục điều “rất đáng lo ngại” là “bạo lực chủng tộc sẽ manh nha ở đây”.
Đức Tổng Giám Mục đã trích dẫn Đức Giáo Hoàng Phanxicô, khi vị Giáo Hoàng Á Căn Đình mô tả phân biệt chủng tộc là “một loại vi rút nhanh chóng biến đổi và thay vì biến mất, lại ẩn náu và ẩn nấp chờ đợi”.
Đức Tổng Giám Mục Cordileone cho biết “vi rút phân biệt chủng tộc” rất giống COVID-19. “Nó không bao giờ biến mất, nhưng có nhiều cách để chúng ta tiêm chủng chống lại nó, và phải luôn cảnh giác để bảo vệ bản thân khỏi bị lây nhiễm”.
Source:Catholic News Agency
Tòa án tối cao Hoa Kỳ cho biết giới hạn của California đối với các cuộc tụ họp tôn giáo tại gia là quá nghiêm ngặt
Đặng Tự Do
16:45 16/04/2021
Tòa án tối cao Hoa Kỳ cho biết các hạn chế về coronavirus đối với các cuộc tụ họp tôn giáo tại gia như học Kinh thánh, thờ phượng và cầu nguyện là quá nghiêm ngặt so với khuôn khổ hiến pháp, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ cho biết trong một án lệnh cuối ngày thứ Sáu.
Trích dẫn quyết định của tòa phúc thẩm trong một trường hợp khác, phán quyết của tòa cho biết tiểu bang không thể “cho rằng điều tồi tệ nhất xảy ra khi mọi người thờ phượng và điều tốt nhất xảy ra khi họ đi làm. “
California đã nói rằng những hạn chế của họ đối với các cuộc tụ họp xã hội là “hoàn toàn trung lập”. Các quy tắc hạn chế coronavirus hiện tại của tiểu bang đã giới hạn các cuộc tụ họp xã hội trong nhà không quá ba hộ gia đình, và những người tham dự phải đeo khẩu trang y tế và giữ khoảng cách xã hội với nhau.
Các quy tắc này đã được thách thức bởi Mục Sư Jeremy Wong và Karen Busch, hai cư dân của Hạt Santa Clara, trong Khu vực Vịnh San Francisco. Thông tấn xã AP cho biết họ muốn tổ chức các buổi học Kinh Thánh trực tiếp, với một số ít người tại nhà của họ. Trong vụ kiện được gọi là Tandon kiện Newsom, họ phản đối các giới hạn đã cản trở việc thực hiện tự do tôn giáo của họ.
“Không có bằng chứng nào cho thấy việc học Kinh Thánh trong nhà rủi ro hơn một chuyến đi xem phim, ăn tối ở nhà hàng, tập luyện trong phòng tập thể dục hoặc tụ tập với hàng chục người bạn tại một nhà máy rượu, nhà máy bia, nhà máy chưng cất hoặc sân chơi bowling”, các nguyên đơn cho biết trong đơn kháng cáo của họ lên Tòa án Tối cao.
Source:Catholic News Agency
Đức Thánh Cha bày tỏ sự gần gũi với các nạn nhân của bạo lực ở miền nam Colombia
Đặng Tự Do
16:45 16/04/2021
Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên án “các đợt bạo lực và bày tỏ sự gần gũi của ngài với những người dân đang sống trong quá nhiều đau khổ” ở khu vực Tây Nam Thái Bình Dương của Colombia. Đức Hồng Y Pietro Parolin, đã viết như trên trong một bức điện gửi tới chủ tịch Hội đồng Giám mục Colombia, là Đức Tổng Giám Mục Oscar Urbina Ortega của Villavicencio. Bức điện cũng đề cao “dấn thân của các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân trong việc không ngừng tìm kiếm để xây dựng các mối quan hệ hòa bình trong toàn bộ khu vực”.
Colombia hiện đang trải qua tình trạng bạo lực tồi tệ nhất mà đất nước từng chứng kiến kể từ khi hiệp định hòa bình năm 2016 giữa Bogota và nhóm Lực lượng vũ trang cách mạng Colombia, nhằm chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài nửa thế kỷ. Theo báo cáo của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vào tháng 3, hơn 13,000 dân thường ở Colombia, trong đó có hơn 5,000 trẻ em, đã phải di dời hoặc hạn chế di chuyển do hoạt động của các nhóm vũ trang trên toàn quốc trong tháng Giêng và tháng 2.
Một số chiến binh du kích đã từ chối tham gia tiến trình hòa bình, và tiếp tục cuộc đấu tranh của họ, đồng thời tham gia cùng với những kẻ buôn bán ma túy tại các khu vực vô luật pháp của Colombia. Phiến quân cách mạng Colombia, các nhóm du kích cánh tả, các nhóm buôn bán ma túy đều đang chiến đấu để giành quyền kiểm soát ngành sản xuất cocaine béo bở và các thị trường khai thác bất hợp pháp.
Gần đây, khu vực phía nam của đất nước cũng bùng phát bạo lực. Ngày 26 tháng Ba, hàng chục người bị thương ở Corinto, thuộc tỉnh Cauca, Tây Nam Colombia, khi một quả bom đặt trên xe hơi phát nổ trước tòa thị chính, tại một trong những địa điểm biểu tượng của cộng đồng bản địa ở Colombia.
Trong những khu vực, nơi từng là thành trì của phiến quân cách mạng Colombia trong những thập kỷ gần đây, các nhóm vũ trang và băng đảng có liên quan đến việc buôn bán ma túy đang hoạt động rất ráo riết. Tại Toribío, nơi Cha Álvaro Ulque, linh mục bản xứ đầu tiên ở Colombia, bị giết vào năm 1984, các nhà truyền giáo dòng Consolata tiếp tục công việc của ngài để nâng đỡ cho người nghèo giữa chập chùng các khó khăn.
Source:Vatican News
Pakistan: Chính phủ một đất nước Hồi giáo trao giải thưởng Huân chương cao quí cho một nữ tu Công Giáo với biệt danh Người mẹ của những kẻ bần cùng
Thanh Quảng sdb
19:06 16/04/2021
Pakistan: Chính phủ một đất nước Hồi giáo trao giải thưởng Huân chương cao quí cho một nữ tu Công Giáo với biệt danh "Người mẹ của những kẻ bần cùng"
Karachi (TTX Fides) cho hay: "Chúng tôi hân hoan vui mừng loan tin chính phủ Pakistan đã trao tặng sơ Ruth Lewis, Dòng Thừa sai Phanxicô một Huân chương xuất sắc Sitara-e-Imtiaz, vì những công việc sơ đã cống hiến cho xã hội của đất nước này. Trong số những người lãnh giải thưởng này, có Hồng Y Joseph Coutts, Tổng Giám mục của miền Karachi, ĐHY nói với TTX Fides rằng chính phủ đã đánh giá cao và nhìn nhận những công việc của một nữ tu Công Giáo, qua đời vào năm 2020, sơ đã cống hiến 52 năm cuộc đời cho những trẻ em bị bỏ rơi và bị thiệt thòi nhất ở Pakistan.
Đức Hồng Y Joseph Coutts cho hay: "Chúng tôi cảm ơn Sơ Ruth Lewis và các Nữ Tu Dòng Phanxicô Thừa Sai Chúa Kitô Vua (FMCK) vì công việc tuyệt vời các sơ đã thể hiện cho giới trẻ". "Từ năm 1959, các sơ FMCK đã đáp lại nhu cầu ngày càng cấp thiết ở thành phố cảng Karachi, miền nam Pakistan này mà dấn thân đồng hành, chăm sóc cho những trẻ em bị khuyết tật về tinh thần lẫn thể chất. Sau khi sơ sáng lập Trung tâm là sơ Gertrude Lemmens qua đời, sơ Ruth Lewis lên thay thế điều hành Trung tâm này, hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng Chúa an bài qua các ân nhân. Nhờ sự kiên nhẫn và không ngừng làm việc của sơ, Trung tâm Dar-ul-Sukun, tức là 'Ngôi nhà của An bình và Tình Thương' đã trở thành một trung tâm lớn nhất của một thành phố với hơn 21 triệu dân này”.
Nói tới sự phục vụ trung thành của sơ trong buổi lễ vinh danh Sơ Ruth, Đức Hồng Y Joseph Coutts nhận xét: "Sơ Ruth Lewis là một người rất điềm tĩnh và khiêm tốn, sơ đã chứng tỏ một sức mạnh bền bỉ trong việc phục vụ những trẻ em kém may lành về tinh thần lẫn vật chất. Sơ được xã hội dân sự và các tổ chức phi chính phủ ở Karachi biết tới. Chính quyền tiểu bang Sindh, mà thủ phủ là Karachi, đã đánh giá cao về những việc tốt lành mà sơ đã thực hiện trong suốt 52 năm qua. Tại thành phố này, sơ được gọi là "mẹ của kẻ xấu số, bị lãng quên" và sơ đã sống hết mình, phục vụ cho đến hơi thở cuối cùng”.
Sơ Ruth Lewis bị nhiễm coronavirus vào ngày 20 tháng 7 năm 2020 (xem Fides, 22/7/20). Dù sơ được điều trị từ ngày 8 tháng 7 sau khi được biết sơ bị dương tính với Covid-19. Sơ bị nhiễm bệnh vì chăm sóc không mệt mỏi cho các em tại trung tâm, nơi có tới 21 em bị dương tính với Covid-19 vào tháng 6 năm 2020. Chính phủ Pakistan đã trao tặng Huân chương cao quí cho sơ ngày 23 tháng 3 năm 2021 nhân dịp "Ngày Quốc Khánh Pakistan". Giải thưởng đã được trao cho cô Cookie, một người đã sống tại Trung tâm và hiện là nhân viên của Trung tâm Dar-ul-Sukun. Cô Cookie nhớ đến sơ như "người mẹ của cô." Cô phát biểu: "Sơ Ruth là mẹ của tất cả trẻ em sinh sống tại Trung tâm Dar-ul-Sukun. Sơ chăm sóc cho chúng tôi như một người mẹ chăm sóc cho con của mình".
Vì sự quên mình và nhiệt tâm phục vụ "những trẻ em khốn khổ", sơ Ruth Lewis đã được trao giải thưởng "Huân chương Cao quí của Thành phố Karachi" vào ngày 18 tháng 1 năm 2014. Năm 2018, sơ được thống đốc của tiểu bang Sindh trao tặng giải thưởng "Hakim Mohammad Saeed" một Huân chương dành cho các công cuộc phục vụ nhân loại. Để tỏ lòng biết ơn đối với công việc xã hội sơ đã làm, chính phủ tiểu bang Sindh đã tài trợ xây cất một tòa nhà ba tầng nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Trung tâm Dar-ul-Sukun, hầu đáp ứng những nhu cầu ngày càng có nhiều trẻ em bất hạnh tìm đến Trung tâm. (AG-PA) (Agenzia Fides, 15/4/2021)
Karachi (TTX Fides) cho hay: "Chúng tôi hân hoan vui mừng loan tin chính phủ Pakistan đã trao tặng sơ Ruth Lewis, Dòng Thừa sai Phanxicô một Huân chương xuất sắc Sitara-e-Imtiaz, vì những công việc sơ đã cống hiến cho xã hội của đất nước này. Trong số những người lãnh giải thưởng này, có Hồng Y Joseph Coutts, Tổng Giám mục của miền Karachi, ĐHY nói với TTX Fides rằng chính phủ đã đánh giá cao và nhìn nhận những công việc của một nữ tu Công Giáo, qua đời vào năm 2020, sơ đã cống hiến 52 năm cuộc đời cho những trẻ em bị bỏ rơi và bị thiệt thòi nhất ở Pakistan.
Đức Hồng Y Joseph Coutts cho hay: "Chúng tôi cảm ơn Sơ Ruth Lewis và các Nữ Tu Dòng Phanxicô Thừa Sai Chúa Kitô Vua (FMCK) vì công việc tuyệt vời các sơ đã thể hiện cho giới trẻ". "Từ năm 1959, các sơ FMCK đã đáp lại nhu cầu ngày càng cấp thiết ở thành phố cảng Karachi, miền nam Pakistan này mà dấn thân đồng hành, chăm sóc cho những trẻ em bị khuyết tật về tinh thần lẫn thể chất. Sau khi sơ sáng lập Trung tâm là sơ Gertrude Lemmens qua đời, sơ Ruth Lewis lên thay thế điều hành Trung tâm này, hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng Chúa an bài qua các ân nhân. Nhờ sự kiên nhẫn và không ngừng làm việc của sơ, Trung tâm Dar-ul-Sukun, tức là 'Ngôi nhà của An bình và Tình Thương' đã trở thành một trung tâm lớn nhất của một thành phố với hơn 21 triệu dân này”.
Nói tới sự phục vụ trung thành của sơ trong buổi lễ vinh danh Sơ Ruth, Đức Hồng Y Joseph Coutts nhận xét: "Sơ Ruth Lewis là một người rất điềm tĩnh và khiêm tốn, sơ đã chứng tỏ một sức mạnh bền bỉ trong việc phục vụ những trẻ em kém may lành về tinh thần lẫn vật chất. Sơ được xã hội dân sự và các tổ chức phi chính phủ ở Karachi biết tới. Chính quyền tiểu bang Sindh, mà thủ phủ là Karachi, đã đánh giá cao về những việc tốt lành mà sơ đã thực hiện trong suốt 52 năm qua. Tại thành phố này, sơ được gọi là "mẹ của kẻ xấu số, bị lãng quên" và sơ đã sống hết mình, phục vụ cho đến hơi thở cuối cùng”.
Sơ Ruth Lewis bị nhiễm coronavirus vào ngày 20 tháng 7 năm 2020 (xem Fides, 22/7/20). Dù sơ được điều trị từ ngày 8 tháng 7 sau khi được biết sơ bị dương tính với Covid-19. Sơ bị nhiễm bệnh vì chăm sóc không mệt mỏi cho các em tại trung tâm, nơi có tới 21 em bị dương tính với Covid-19 vào tháng 6 năm 2020. Chính phủ Pakistan đã trao tặng Huân chương cao quí cho sơ ngày 23 tháng 3 năm 2021 nhân dịp "Ngày Quốc Khánh Pakistan". Giải thưởng đã được trao cho cô Cookie, một người đã sống tại Trung tâm và hiện là nhân viên của Trung tâm Dar-ul-Sukun. Cô Cookie nhớ đến sơ như "người mẹ của cô." Cô phát biểu: "Sơ Ruth là mẹ của tất cả trẻ em sinh sống tại Trung tâm Dar-ul-Sukun. Sơ chăm sóc cho chúng tôi như một người mẹ chăm sóc cho con của mình".
Vì sự quên mình và nhiệt tâm phục vụ "những trẻ em khốn khổ", sơ Ruth Lewis đã được trao giải thưởng "Huân chương Cao quí của Thành phố Karachi" vào ngày 18 tháng 1 năm 2014. Năm 2018, sơ được thống đốc của tiểu bang Sindh trao tặng giải thưởng "Hakim Mohammad Saeed" một Huân chương dành cho các công cuộc phục vụ nhân loại. Để tỏ lòng biết ơn đối với công việc xã hội sơ đã làm, chính phủ tiểu bang Sindh đã tài trợ xây cất một tòa nhà ba tầng nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Trung tâm Dar-ul-Sukun, hầu đáp ứng những nhu cầu ngày càng có nhiều trẻ em bất hạnh tìm đến Trung tâm. (AG-PA) (Agenzia Fides, 15/4/2021)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Biên bản Hội Nghị Thường Niên Kỳ I 2021 của Hội Đồng Giám Mục VN
+ GM Phêrô Nguyễn Văn Khảm
15:13 16/04/2021
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
Hội Nghị Thường Niên kỳ I/ 2021
(12/4/2021 – 16/4/2021)
BIÊN BẢN
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam họp Hội nghị thường niên kỳ I/ 2021, tại Tòa Giám mục Nha Trang, từ chiều thứ Hai ngày 12/4/2021 đến thứ Sáu ngày 16/4/2021, với sự tham dự của Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn và đông đủ tất cả các thành viên của Hội Đồng Giám Mục.
Trong dịp này, Đức Tổng Giám Mục Marek Zalewski, Đại diện Đức Thánh Cha tại Việt Nam đã gửi thư chúc mừng Hội nghị, đồng thời trình bày về ý nghĩa Thông điệp “Fratelli Tutti” và chuyến Tông du của Đức Thánh Cha tại Iraq. Trước tình trạng dịch bệnh Covid-19 tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới, Đức Tổng Giám Mục nhắc lại lời của Đức Thánh Cha, mời gọi Hội Đồng Giám Mục tìm ra những phương thế mục vụ thích hợp và hăng say làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa trong hoàn cảnh hiện nay.
Hội Đồng Giám Mục đã gửi thư chúc mừng Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli mới được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Tân Sứ thần Tòa thánh tại Ấn Độ. Hội Đồng Giám Mục cũng chúc mừng Đức cha Gioan Đỗ Văn Ngân được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa giáo phận Xuân Lộc; Đức cha Luy Nguyễn Anh Tuấn làm Giám quản Tông tòa giáo phận Hà Tĩnh; đồng thời tri ân quý Đức cha đã mãn nhiệm.
Trong Hội nghị lần này, Hội Đồng Giám Mục đã nghe tường trình từ các Ủy ban trực thuộc và đưa ra một số quyết định.
I. Tường trình của các Ủy ban
- Ủy ban Loan báo Tin Mừng đã và sẽ tổ chức những cuộc gặp gỡ theo miền (Bắc, Trung, Nam) để trao đổi và khích lệ công việc loan báo Tin Mừng, đặc biệt sẽ cùng giáo phận Long Xuyên tổ chức cuộc gặp gỡ toàn quốc để hội thảo về đề tài: “Loan báo Tin Mừng theo phương pháp kể chuyện Chúa Giêsu”.
- Ủy ban Phụng tự đang chờ Bộ Phụng tự chuẩn y Sách Lễ Rôma và Sách Các Bài Đọc.
- Ủy ban Công lý và Hòa bình đã và đang tổ chức nhiều cuộc họp để thống nhất đường hướng hoạt động trong 4 năm tới với các chủ đề trong Học thuyết xã hội của Giáo hội: môi trường, hòa bình - đối thoại, công lý – công bằng và nhân quyền. Ủy ban cũng tái phục hồi trang web để phục vụ độc giả xa gần (www.ubclhb.com).
- Ủy ban Bác ái Xã hội – Caritas vừa qua đã đón nhận rất nhiều sự trợ giúp của cộng đồng dân Chúa, trong nước cũng như hải ngoại, và đã kịp thời chuyển tới các vùng dịch bệnh Covid-19 và các địa phương bị lũ lụt. Việc làm này đã để lại nhiều ấn tượng rất tốt đẹp trong cộng đồng xã hội.
- Ủy ban Tu sĩ trình bày những khó khăn trong việc thực hiện các chỉ thị mới đây của Bộ Đời sống Thánh hiến, liên quan đến các dòng tu có chung một linh đạo. Hội Đồng Giám Mục sẽ trình bày việc này với Tòa Thánh để xin hướng dẫn.
- Ủy ban Giáo dân đã và sẽ tổ chức các cuộc hội thảo về Hội đồng Mục vụ giáo xứ, các Đoàn thể Công Giáo tiến hành.
- Hội Đồng Giám Mục trao toàn bộ thư viện của Giáo hoàng Học viện Piô X cho Học viện Công Giáo quản lý và sử dụng, nhằm bảo tồn và phục vụ việc nghiên cứu thần học.
II. Một số quyết định
- Trong Năm kính thánh Giuse (08/12/2020 – 08/12/2021), tất cả các giáo xứ trong các giáo phận dành ngày thứ Tư hằng tuần để dâng Thánh lễ và làm việc đạo đức kính thánh Giuse, xin Ngài gìn giữ Giáo hội hoàn vũ và Giáo hội tại Việt Nam
- Ủy thác cho Ban Thường vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam việc nghiên cứu đề án gửi nhân sự du học về các ngành chuyên môn.
- Trao cho Đức Tổng Giám Mục Giuse Vũ Văn Thiên việc tìm hiểu về khả thể thiết lập cơ sở chính của Học viện Công Giáo Việt Nam tại Tổng Giáo phận Hà Nội.
- Tiến hành thủ tục xin phong chân phước và hiển thánh cho Đức cha François Pallu và Đức cha Pierre Lambert de la Motte. Chấp thuận cho Đức cha Giáo phận Đà Lạt xúc tiến hồ sơ xin phong chân phước và hiển thánh cho Đức cha Jean Cassaigne.
- Trao cho Tiểu ban Giáo luật soạn thảo “Bản hướng dẫn việc phong chức linh mục cho tu sĩ thuộc dòng Giáo phận”.
- Xúc tiến việc xin phép thành lập “Trung tâm Tĩnh dưỡng giáo sĩ Việt Nam” tại Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
- Ấn định Hội nghị thường niên kỳ II/2021 sẽ được tổ chức tại Tòa Giám mục Thái Bình, từ ngày 11/10/2021 đến 15/10/2021.
Hội Nghị kết thúc trong niềm vui cùng với Giáo phận Nha Trang cử hành Thánh lễ Tạ ơn, nhân kỷ niệm 350 năm Đức cha Pierre Lambert de la Motte đặt chân tới vùng đất Nha Trang, và kỷ niệm 50 năm linh mục của Đức cha Giuse Võ Đức Minh, Giám mục giáo phận Nha Trang.
Tòa Giám mục Nha Trang, ngày 16/4/2021
Tổng thư ký
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
(đã ký)
+ Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Giám mục giáo phận Mỹ Tho
Hội Nghị Thường Niên kỳ I/ 2021
(12/4/2021 – 16/4/2021)
BIÊN BẢN
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam họp Hội nghị thường niên kỳ I/ 2021, tại Tòa Giám mục Nha Trang, từ chiều thứ Hai ngày 12/4/2021 đến thứ Sáu ngày 16/4/2021, với sự tham dự của Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn và đông đủ tất cả các thành viên của Hội Đồng Giám Mục.
Trong dịp này, Đức Tổng Giám Mục Marek Zalewski, Đại diện Đức Thánh Cha tại Việt Nam đã gửi thư chúc mừng Hội nghị, đồng thời trình bày về ý nghĩa Thông điệp “Fratelli Tutti” và chuyến Tông du của Đức Thánh Cha tại Iraq. Trước tình trạng dịch bệnh Covid-19 tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới, Đức Tổng Giám Mục nhắc lại lời của Đức Thánh Cha, mời gọi Hội Đồng Giám Mục tìm ra những phương thế mục vụ thích hợp và hăng say làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa trong hoàn cảnh hiện nay.
Hội Đồng Giám Mục đã gửi thư chúc mừng Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli mới được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Tân Sứ thần Tòa thánh tại Ấn Độ. Hội Đồng Giám Mục cũng chúc mừng Đức cha Gioan Đỗ Văn Ngân được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa giáo phận Xuân Lộc; Đức cha Luy Nguyễn Anh Tuấn làm Giám quản Tông tòa giáo phận Hà Tĩnh; đồng thời tri ân quý Đức cha đã mãn nhiệm.
Trong Hội nghị lần này, Hội Đồng Giám Mục đã nghe tường trình từ các Ủy ban trực thuộc và đưa ra một số quyết định.
I. Tường trình của các Ủy ban
- Ủy ban Loan báo Tin Mừng đã và sẽ tổ chức những cuộc gặp gỡ theo miền (Bắc, Trung, Nam) để trao đổi và khích lệ công việc loan báo Tin Mừng, đặc biệt sẽ cùng giáo phận Long Xuyên tổ chức cuộc gặp gỡ toàn quốc để hội thảo về đề tài: “Loan báo Tin Mừng theo phương pháp kể chuyện Chúa Giêsu”.
- Ủy ban Phụng tự đang chờ Bộ Phụng tự chuẩn y Sách Lễ Rôma và Sách Các Bài Đọc.
- Ủy ban Công lý và Hòa bình đã và đang tổ chức nhiều cuộc họp để thống nhất đường hướng hoạt động trong 4 năm tới với các chủ đề trong Học thuyết xã hội của Giáo hội: môi trường, hòa bình - đối thoại, công lý – công bằng và nhân quyền. Ủy ban cũng tái phục hồi trang web để phục vụ độc giả xa gần (www.ubclhb.com).
- Ủy ban Bác ái Xã hội – Caritas vừa qua đã đón nhận rất nhiều sự trợ giúp của cộng đồng dân Chúa, trong nước cũng như hải ngoại, và đã kịp thời chuyển tới các vùng dịch bệnh Covid-19 và các địa phương bị lũ lụt. Việc làm này đã để lại nhiều ấn tượng rất tốt đẹp trong cộng đồng xã hội.
- Ủy ban Tu sĩ trình bày những khó khăn trong việc thực hiện các chỉ thị mới đây của Bộ Đời sống Thánh hiến, liên quan đến các dòng tu có chung một linh đạo. Hội Đồng Giám Mục sẽ trình bày việc này với Tòa Thánh để xin hướng dẫn.
- Ủy ban Giáo dân đã và sẽ tổ chức các cuộc hội thảo về Hội đồng Mục vụ giáo xứ, các Đoàn thể Công Giáo tiến hành.
- Hội Đồng Giám Mục trao toàn bộ thư viện của Giáo hoàng Học viện Piô X cho Học viện Công Giáo quản lý và sử dụng, nhằm bảo tồn và phục vụ việc nghiên cứu thần học.
II. Một số quyết định
- Trong Năm kính thánh Giuse (08/12/2020 – 08/12/2021), tất cả các giáo xứ trong các giáo phận dành ngày thứ Tư hằng tuần để dâng Thánh lễ và làm việc đạo đức kính thánh Giuse, xin Ngài gìn giữ Giáo hội hoàn vũ và Giáo hội tại Việt Nam
- Ủy thác cho Ban Thường vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam việc nghiên cứu đề án gửi nhân sự du học về các ngành chuyên môn.
- Trao cho Đức Tổng Giám Mục Giuse Vũ Văn Thiên việc tìm hiểu về khả thể thiết lập cơ sở chính của Học viện Công Giáo Việt Nam tại Tổng Giáo phận Hà Nội.
- Tiến hành thủ tục xin phong chân phước và hiển thánh cho Đức cha François Pallu và Đức cha Pierre Lambert de la Motte. Chấp thuận cho Đức cha Giáo phận Đà Lạt xúc tiến hồ sơ xin phong chân phước và hiển thánh cho Đức cha Jean Cassaigne.
- Trao cho Tiểu ban Giáo luật soạn thảo “Bản hướng dẫn việc phong chức linh mục cho tu sĩ thuộc dòng Giáo phận”.
- Xúc tiến việc xin phép thành lập “Trung tâm Tĩnh dưỡng giáo sĩ Việt Nam” tại Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
- Ấn định Hội nghị thường niên kỳ II/2021 sẽ được tổ chức tại Tòa Giám mục Thái Bình, từ ngày 11/10/2021 đến 15/10/2021.
Hội Nghị kết thúc trong niềm vui cùng với Giáo phận Nha Trang cử hành Thánh lễ Tạ ơn, nhân kỷ niệm 350 năm Đức cha Pierre Lambert de la Motte đặt chân tới vùng đất Nha Trang, và kỷ niệm 50 năm linh mục của Đức cha Giuse Võ Đức Minh, Giám mục giáo phận Nha Trang.
Tòa Giám mục Nha Trang, ngày 16/4/2021
Tổng thư ký
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
(đã ký)
+ Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Giám mục giáo phận Mỹ Tho
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Đọc Bài Tụng Lỗ Tấn Của Phan Khôi Lại Nghĩ Đến Cái Xấu Và Tội Ác Ở Việt Nam Hiện Nay
Nguyễn Văn Nghệ
08:43 16/04/2021
Ông Phan Khôi(1887-1959) khi mới lớn lên đã theo đòi nghiệp bút nghiên, thuộc làu Tứ thư, Ngũ kinh cùng sách của Bách gia chư tử. Ông đã khăn gói lều chõng đi thi Hương và đỗ Tú tài Hán học năm 1906. Ông và một số nhà Nho nhận thấy: “Nào có ra gì cái chữ Nho/ Ông nghè, ông cống cũng nằm co/ Chi bằng đi học làm thầy phán/ Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” (Chữ Nho – Trần Tế Xương), do đó ông đã “Vứt bút lông đi, giắt bút chì!” và theo đuổi nền Tây học. Ông đã tham gia làng báo và sau năm 1945 tham gia phong trào Việt Minh.
Tháng 10/1956 trước khi báo Nhân văn do ông Phan Khôi làm Chủ nhiệm bị cộng sản cho đình bản ít lâu. Hội Văn nghệ Việt Nam cử ông Phan Khôi sang Bắc Kinh dự Đại hội Kỷ niệm 20 năm ngày Lỗ Tấn từ trần. Cùng đi có Tế Hanh. Tại lễ Kỷ niệm, ông Phan Khôi đã có bài phát biểu mang tên “Tụng Lỗ Tấn”: “Phản Khổng tử ‘bất vi dĩ thậm’[1]/ ‘Đả lạc thủy cẩu’[2], ‘bất khoan thứ thùy’[3]/ Phản Da tô ‘ái địch như hữu’[4]/ Nguy nguy hồ Lỗ Tấn ‘vô sản đích thánh nhân’[5]/ Ngã thâm tín thử ngôn bất mậu/ Ngã độc công thư tạp niên/Hận bất tương kiến công tử tiền/ Thiên hạnh năng cập ngã tử tiền/ Đắc kiến công tử hậu tân Trung Quốc đích thiên!”
Dịch nghĩa bài “Ca tụng Lỗ Tấn” : Bác lời Khổng tử “không nên làm điều thái quá!”/Ông chủ trương “đánh chó phải đánh cả khi nó đã rơi xuống nước”, “không dung tha kẻ thù nào”/Chống lại lời dạy của Chúa Da tô “phải yêu kẻ thù như bạn”/ Vòi vọi như núi cao, Lỗ Tấn là ông thánh của giai cấp vô sản/ Tôi tin lời xưng tụng ấy không hề sai lầm/ Đã ba mươi năm nay tôi đọc sách của ông/Giận mình chẳng được một lần gặp ông trước lúc ông mất/ may mà trước lúc tôi xuôi tay nhắm mắt/ Còn được thấy bầu trời nước Trung Hoa mới của ông.
Dịch thơ lục bát: “Bác lời Khổng tử khuyên can/ Làm chi thái quá để mang tiếng đời/ Đánh chó chớ đánh nửa vời/ Phải dìm cho chết dẫu rơi ao tù/ Không khoan dung lũ nghịch thù/ Đừng như Đức Chúa Giê su dạy đời/ Non cao chất ngất lưng trời/ Thánh nhân vô sản như lời tụng ca/ Tin người xưng tụng chẳng ngoa/ Ba mươi năm ấy tôi đà đọc ông/ Gặp ông mong được thành không/ Vãn niên may thấy cờ hồng Trung Hoa”[6]
Ông Phan Khôi từ một nhà Nho chân chính đã khước từ học thuyết nhân bản nhã nhặn của Khổng tử để quảng bá cho một học thuyết duy lý hung hăng của phương Tây: “Đả lạc thủy cẩu”, “bất khoan thứ thùy”.
Cụ Trần Trọng Kim cũng xuất thân từ gia đình Nho học nhưng cụ lại nhận ra bản chất của học thuyết duy lý hung hăng: “Về đường thực tế, cái đặc sắc của cộng sản là không nhận có luân thường đạo lý, không biết có nhân nghĩa đạo đức như người ta vẫn tin tưởng. Người Cộng sản cho cái điều đó là hủ tục của xã hội phong kiến thời xưa, đặt ra để lừa dối dân chúng, nên họ tìm cách xóa bỏ hết. Ai tin chỗ ấy là người sáng suốt, là người giác ngộ, ai không tin là người mờ tối, là người mê muội. Vì có tư tưởng như thế, cho nên cha, con, anh em bè bạn không có tình nghĩa gì cả, chỉ biết tôn trọng chủ nghĩa của Cộng sản và phục tòng những người cầm quyền của đảng, ngoại giả, giết hại lẫn nhau, lừa đảo nhau: hễ ai làm những việc mà lợi cho đảng là người giỏi, người tốt. Gia đình, xã hội, phong tục, chế độ cũ đều bỏ hết, bỏ đến tận cội rễ, để thành lập một xã hội mới theo chủ nghĩa cộng sản”[7].
Với chủ trương “cha, con, anh em bè bạn không có tình nghĩa gì cả” cho nên mới có chính sách “đấu tố”. Qua ký ức của nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã kể lại việc đấu tố : “Bố tôi bị quy lên địa chủ, bị nhốt chuồng trâu, chờ ngày đấu tố (…). Cùng với các ông đội, bà đội trên cử xuống, hai ông Chi và Bính (hai anh em ruột) trước kia làm nghề ăn trộm giờ là cốt cán trong cuộc đấu tố, đêm đêm đi vận động người tố điêu địa chủ: rằng vợ phải đấu tố chồng, con phải đấu tố cha mẹ, anh em phải đấu tố nhau, con dâu phải tố bố chồng hãm hiếp mình, Phật tử nữ phải đấu tố nhà sư, vu cho sư cưỡng hiếp mình thì mới dễ xử bắn sư…
“Bọn thiếu nhi, thiếu niên chúng tôi con địa chủ cũng được hai ông Chi, Bính quán triệt trước, rằng các cháu chịu khó đấu tố bố mình đi thì bố mới được thả về, bằng không đội bắn bỏ đừng khóc…Tin vào hai ông thần đấu tố ở làng và các ông bà đội, mấy đứa con địa chủ chúng tôi chấp nhận đấu tố bố mình trước đội thiếu nhi thiếu niên theo kịch bản tố điêu của cấp trên để hòng cứu bố khỏi bị bắn. Để việc đấu tố bố tôi sáng mai tốt đẹp theo ý của ông đội, họ tổ chức cho các con địa chủ đấu tố bố mình tối hôm trước…”[8].
Cái ác ở Việt Nam hiện nay tràn đầy, khiến ông Lê Kiên Thành( con của Lê Duẩn) trăn trở: “Có thể con người Việt Nam hôm nay dường như đang gặp phải một sai lầm nào đó trong tổ chức cuộc sống, khiến cho tình cảm, lòng thương người, sự vị tha đã biến dạng một cách ghê gớm. Đó là điều quá lạ lùng với xã hội này”
Ông Lê Kiên Thành phỏng đoán (vì không dám quả quyết) rằng: “Có lẽ chưa từng có một giai đoạn nào trong quá khứ mà người Việt Nam phải trải qua tình cảnh như ngày hôm nay. Người Việt từng sống dưới ách nô lệ cả nghìn năm của các triều đại phương Bắc, từng bị đế quốc, thực dân đô hộ, chịu đựng đủ sự tàn ác bóc lột từ ngoại bang. Nhưng chưa bao giờ tôi nghe được về chuyện người Việt tàn ác với chính đồng bào của mình. Chưa bao giờ người Việt đối xử với nhau hằn học đến thế, man rợ đến thế. Chúng ta không nghèo như ngày xưa, không đói như ngày xưa, tại sao chúng ta ác hơn ngày xưa?”[9].
Thời phong kiến con cháu mà “đấu tố” ông bà, cha mẹ là phạm vào tội bất hiếu. Bộ luật Hồng Đức quy định con cháu có nghĩa vụ không được kiện cáo ông bà cha mẹ (điều 511), có nghĩa vụ che giấu tội cho ông bà cha mẹ (điều 9 và 504) ngoại trừ trường hợp ông bà cha mẹ phạm các tội mưu phản, mưu đại nghịch…thì con cháu được phép tố cáo.
Trong Luận ngữ có mẩu đối thoại giữa Diệp công và Khổng tử: Diệp công ngữ Khổng tử viết: “Ngô đảng hữu trực cung giả: kỳ phụ nhương dương, nhi tử chứng chi”. Khổng tử viết: “Ngô đảng chi trực giả, dị ư thị: phụ vị tử ẩn, tử vị phụ ẩn, trực tại kỳ trung hỹ”(Ông Diệp công nói với Khổng tử rằng: “Ở xóm tôi, có người giữ phép thẳng rất mực, như cha ăn trộm dê, thì con đứng ra làm chứng khai thật”. Khổng tử nói rằng: “Ở xóm ta người ngay thẳng cư xử có khác: Cha che lỗi cho con, con che lỗi cho cha; tình ngay thẳng vẫn ngụ trong đó vậy”(Luận ngữ Tử Lộ XIII, 18).
Học thuyết Nho giáo đề cao chữ “Nhân”, bởi “Nhân” là đầu các điều thiện. Nếu Phan Khôi hoặc những người lãnh đạo thời ấy hết lòng quảng bá đức “Nhân” trong học thuyết Nho giáo, đừng chạy theo học thuyết duy lý hung hăng của phương Tây thì tôi tin chắc cái ác sẽ không xảy ra như hiện nay: “Giết nhau vì tiền, giết nhau vì tình, giết nhau vì đất đai, giết nhau vì chút quyền lợi nhỏ, và cả giết nhau chẳng do duyên cớ nào cả. Thậm chí, một cái nhìn bị cho là ‘nhìn đểu’ cũng dễ dàng rước lấy cái chết thảm cho người nhì đằng sau cái hả hê của ‘người bị nhìn’ đã ‘dứt điểm’ được ‘kẻ nhìn đểu’[10].
Tại sao hiện nay xã hội Việt Nam lại ác hơn ngày xưa? Từ ngàn xưa Kinh Dịch đã có câu giải đáp: “Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu, nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hỹ, do biện chi bất tảo biện dã” (Tôi giết vua, con giết cha, không ở trong một sớm một chiều, nguyên do dần dần mà đến, bởi những kẻ lo liệu phòng bị những việc ấy không biết lo liệu phòng bị sớm).
Trong tác phẩm “Lịch sử văn minh Trung Hoa” nhà nghiên cứu Will Durant đã nuối tiếc cho dân tộc Trung Hoa là đã từ bỏ một học thuyết nhân bản nhã nhặn của ông cha để chạy theo một học thuyết duy lý hung hăng của phương Tây.
Nguyễn Văn Nghệ
Diên Khánh – Khánh Hòa
Chú thích:
[1] – Bất dĩ vi thậm: Lời Khổng tử dạy môn sinh “chớ làm điều gì thái quá”.
[2] – Đả cẩu lạc thủy: Chủ trương rất nổi tiếng của Lỗ Tấn: “Đánh con chó đã rơi xuống nước rồi, còn phải theo mà đánh nữa”.
[3] – Bất khoan thứ thùy: Với kẻ thù, chẳng dung tha cho một kẻ nào.
[4] – Ái địch như hữu: Yêu kẻ thù như chính bản thân.
[5] – Lỗ Tấn “vô sản đích thánh nhân”:Lỗ Tấn là ông thánh của giai cấp vô sản. Đây là lời Mao Trạch Đông xưng tụng Lỗ Tấn.
[6] – Bài viết “Tìm được bài phát biểu của Phan Khôi tại Đại hội Kỷ niệm 20 năm ngày Lỗ Tấn từ trần” của tác giả Phan Nam Sinh đăng trên Kiến thức ngày nay số 1094 ra ngày 1/1/2021, trang 3-5& 109. Năm chú thích bên trên cũng của Phan Nam Sinh.
Tháng 10/1956 trước khi báo Nhân văn do ông Phan Khôi làm Chủ nhiệm bị cộng sản cho đình bản ít lâu. Hội Văn nghệ Việt Nam cử ông Phan Khôi sang Bắc Kinh dự Đại hội Kỷ niệm 20 năm ngày Lỗ Tấn từ trần. Cùng đi có Tế Hanh. Tại lễ Kỷ niệm, ông Phan Khôi đã có bài phát biểu mang tên “Tụng Lỗ Tấn”: “Phản Khổng tử ‘bất vi dĩ thậm’[1]/ ‘Đả lạc thủy cẩu’[2], ‘bất khoan thứ thùy’[3]/ Phản Da tô ‘ái địch như hữu’[4]/ Nguy nguy hồ Lỗ Tấn ‘vô sản đích thánh nhân’[5]/ Ngã thâm tín thử ngôn bất mậu/ Ngã độc công thư tạp niên/Hận bất tương kiến công tử tiền/ Thiên hạnh năng cập ngã tử tiền/ Đắc kiến công tử hậu tân Trung Quốc đích thiên!”
Dịch nghĩa bài “Ca tụng Lỗ Tấn” : Bác lời Khổng tử “không nên làm điều thái quá!”/Ông chủ trương “đánh chó phải đánh cả khi nó đã rơi xuống nước”, “không dung tha kẻ thù nào”/Chống lại lời dạy của Chúa Da tô “phải yêu kẻ thù như bạn”/ Vòi vọi như núi cao, Lỗ Tấn là ông thánh của giai cấp vô sản/ Tôi tin lời xưng tụng ấy không hề sai lầm/ Đã ba mươi năm nay tôi đọc sách của ông/Giận mình chẳng được một lần gặp ông trước lúc ông mất/ may mà trước lúc tôi xuôi tay nhắm mắt/ Còn được thấy bầu trời nước Trung Hoa mới của ông.
Dịch thơ lục bát: “Bác lời Khổng tử khuyên can/ Làm chi thái quá để mang tiếng đời/ Đánh chó chớ đánh nửa vời/ Phải dìm cho chết dẫu rơi ao tù/ Không khoan dung lũ nghịch thù/ Đừng như Đức Chúa Giê su dạy đời/ Non cao chất ngất lưng trời/ Thánh nhân vô sản như lời tụng ca/ Tin người xưng tụng chẳng ngoa/ Ba mươi năm ấy tôi đà đọc ông/ Gặp ông mong được thành không/ Vãn niên may thấy cờ hồng Trung Hoa”[6]
Ông Phan Khôi từ một nhà Nho chân chính đã khước từ học thuyết nhân bản nhã nhặn của Khổng tử để quảng bá cho một học thuyết duy lý hung hăng của phương Tây: “Đả lạc thủy cẩu”, “bất khoan thứ thùy”.
Cụ Trần Trọng Kim cũng xuất thân từ gia đình Nho học nhưng cụ lại nhận ra bản chất của học thuyết duy lý hung hăng: “Về đường thực tế, cái đặc sắc của cộng sản là không nhận có luân thường đạo lý, không biết có nhân nghĩa đạo đức như người ta vẫn tin tưởng. Người Cộng sản cho cái điều đó là hủ tục của xã hội phong kiến thời xưa, đặt ra để lừa dối dân chúng, nên họ tìm cách xóa bỏ hết. Ai tin chỗ ấy là người sáng suốt, là người giác ngộ, ai không tin là người mờ tối, là người mê muội. Vì có tư tưởng như thế, cho nên cha, con, anh em bè bạn không có tình nghĩa gì cả, chỉ biết tôn trọng chủ nghĩa của Cộng sản và phục tòng những người cầm quyền của đảng, ngoại giả, giết hại lẫn nhau, lừa đảo nhau: hễ ai làm những việc mà lợi cho đảng là người giỏi, người tốt. Gia đình, xã hội, phong tục, chế độ cũ đều bỏ hết, bỏ đến tận cội rễ, để thành lập một xã hội mới theo chủ nghĩa cộng sản”[7].
Với chủ trương “cha, con, anh em bè bạn không có tình nghĩa gì cả” cho nên mới có chính sách “đấu tố”. Qua ký ức của nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã kể lại việc đấu tố : “Bố tôi bị quy lên địa chủ, bị nhốt chuồng trâu, chờ ngày đấu tố (…). Cùng với các ông đội, bà đội trên cử xuống, hai ông Chi và Bính (hai anh em ruột) trước kia làm nghề ăn trộm giờ là cốt cán trong cuộc đấu tố, đêm đêm đi vận động người tố điêu địa chủ: rằng vợ phải đấu tố chồng, con phải đấu tố cha mẹ, anh em phải đấu tố nhau, con dâu phải tố bố chồng hãm hiếp mình, Phật tử nữ phải đấu tố nhà sư, vu cho sư cưỡng hiếp mình thì mới dễ xử bắn sư…
“Bọn thiếu nhi, thiếu niên chúng tôi con địa chủ cũng được hai ông Chi, Bính quán triệt trước, rằng các cháu chịu khó đấu tố bố mình đi thì bố mới được thả về, bằng không đội bắn bỏ đừng khóc…Tin vào hai ông thần đấu tố ở làng và các ông bà đội, mấy đứa con địa chủ chúng tôi chấp nhận đấu tố bố mình trước đội thiếu nhi thiếu niên theo kịch bản tố điêu của cấp trên để hòng cứu bố khỏi bị bắn. Để việc đấu tố bố tôi sáng mai tốt đẹp theo ý của ông đội, họ tổ chức cho các con địa chủ đấu tố bố mình tối hôm trước…”[8].
Cái ác ở Việt Nam hiện nay tràn đầy, khiến ông Lê Kiên Thành( con của Lê Duẩn) trăn trở: “Có thể con người Việt Nam hôm nay dường như đang gặp phải một sai lầm nào đó trong tổ chức cuộc sống, khiến cho tình cảm, lòng thương người, sự vị tha đã biến dạng một cách ghê gớm. Đó là điều quá lạ lùng với xã hội này”
Ông Lê Kiên Thành phỏng đoán (vì không dám quả quyết) rằng: “Có lẽ chưa từng có một giai đoạn nào trong quá khứ mà người Việt Nam phải trải qua tình cảnh như ngày hôm nay. Người Việt từng sống dưới ách nô lệ cả nghìn năm của các triều đại phương Bắc, từng bị đế quốc, thực dân đô hộ, chịu đựng đủ sự tàn ác bóc lột từ ngoại bang. Nhưng chưa bao giờ tôi nghe được về chuyện người Việt tàn ác với chính đồng bào của mình. Chưa bao giờ người Việt đối xử với nhau hằn học đến thế, man rợ đến thế. Chúng ta không nghèo như ngày xưa, không đói như ngày xưa, tại sao chúng ta ác hơn ngày xưa?”[9].
Thời phong kiến con cháu mà “đấu tố” ông bà, cha mẹ là phạm vào tội bất hiếu. Bộ luật Hồng Đức quy định con cháu có nghĩa vụ không được kiện cáo ông bà cha mẹ (điều 511), có nghĩa vụ che giấu tội cho ông bà cha mẹ (điều 9 và 504) ngoại trừ trường hợp ông bà cha mẹ phạm các tội mưu phản, mưu đại nghịch…thì con cháu được phép tố cáo.
Trong Luận ngữ có mẩu đối thoại giữa Diệp công và Khổng tử: Diệp công ngữ Khổng tử viết: “Ngô đảng hữu trực cung giả: kỳ phụ nhương dương, nhi tử chứng chi”. Khổng tử viết: “Ngô đảng chi trực giả, dị ư thị: phụ vị tử ẩn, tử vị phụ ẩn, trực tại kỳ trung hỹ”(Ông Diệp công nói với Khổng tử rằng: “Ở xóm tôi, có người giữ phép thẳng rất mực, như cha ăn trộm dê, thì con đứng ra làm chứng khai thật”. Khổng tử nói rằng: “Ở xóm ta người ngay thẳng cư xử có khác: Cha che lỗi cho con, con che lỗi cho cha; tình ngay thẳng vẫn ngụ trong đó vậy”(Luận ngữ Tử Lộ XIII, 18).
Học thuyết Nho giáo đề cao chữ “Nhân”, bởi “Nhân” là đầu các điều thiện. Nếu Phan Khôi hoặc những người lãnh đạo thời ấy hết lòng quảng bá đức “Nhân” trong học thuyết Nho giáo, đừng chạy theo học thuyết duy lý hung hăng của phương Tây thì tôi tin chắc cái ác sẽ không xảy ra như hiện nay: “Giết nhau vì tiền, giết nhau vì tình, giết nhau vì đất đai, giết nhau vì chút quyền lợi nhỏ, và cả giết nhau chẳng do duyên cớ nào cả. Thậm chí, một cái nhìn bị cho là ‘nhìn đểu’ cũng dễ dàng rước lấy cái chết thảm cho người nhì đằng sau cái hả hê của ‘người bị nhìn’ đã ‘dứt điểm’ được ‘kẻ nhìn đểu’[10].
Tại sao hiện nay xã hội Việt Nam lại ác hơn ngày xưa? Từ ngàn xưa Kinh Dịch đã có câu giải đáp: “Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu, nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hỹ, do biện chi bất tảo biện dã” (Tôi giết vua, con giết cha, không ở trong một sớm một chiều, nguyên do dần dần mà đến, bởi những kẻ lo liệu phòng bị những việc ấy không biết lo liệu phòng bị sớm).
Trong tác phẩm “Lịch sử văn minh Trung Hoa” nhà nghiên cứu Will Durant đã nuối tiếc cho dân tộc Trung Hoa là đã từ bỏ một học thuyết nhân bản nhã nhặn của ông cha để chạy theo một học thuyết duy lý hung hăng của phương Tây.
Nguyễn Văn Nghệ
Diên Khánh – Khánh Hòa
Chú thích:
[1] – Bất dĩ vi thậm: Lời Khổng tử dạy môn sinh “chớ làm điều gì thái quá”.
[2] – Đả cẩu lạc thủy: Chủ trương rất nổi tiếng của Lỗ Tấn: “Đánh con chó đã rơi xuống nước rồi, còn phải theo mà đánh nữa”.
[3] – Bất khoan thứ thùy: Với kẻ thù, chẳng dung tha cho một kẻ nào.
[4] – Ái địch như hữu: Yêu kẻ thù như chính bản thân.
[5] – Lỗ Tấn “vô sản đích thánh nhân”:Lỗ Tấn là ông thánh của giai cấp vô sản. Đây là lời Mao Trạch Đông xưng tụng Lỗ Tấn.
[6] – Bài viết “Tìm được bài phát biểu của Phan Khôi tại Đại hội Kỷ niệm 20 năm ngày Lỗ Tấn từ trần” của tác giả Phan Nam Sinh đăng trên Kiến thức ngày nay số 1094 ra ngày 1/1/2021, trang 3-5& 109. Năm chú thích bên trên cũng của Phan Nam Sinh.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hình ảnh mong đợi bình an
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
08:45 16/04/2021
Hình ảnh mong đợi bình an
Từ hơn một nay nhân loại trên thế giới sống trong lo âu khủng hoảng. Vì bệnh đại dịch vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ làm tê liệt ngưng trệ mọi sinh hoạt đời sống. Khoẻ mạnh- bệnh nạn, sống- chết, bình an - khủng hỏang lo sợ… là những hình ảnh thời sự hằng ngày sát gần kề đời sống con người trong lúc này.
Những biện pháp y tế phòng ngừa vi trùng bệnh đại dịch lây lan, như phải đeo khẩu trang bịt kín mũi miệng, đứng ngồi giãn cách xa nhau, siêng năng rửa tay giữ vệ sinh và tiêm chủng chích ngừa, là những việc cấp bách phải chú ý tôn trọng thực hiện.
Sống trong không khí ngột ngạt đời sống bị vi trùng bệnh đại dịch đe dọa trở nên mệt mỏi. Nên con người hơn lúc nào hết hằng mong đợi có được bình an mạnh khoẻ, mau có ngày thoát khỏi cơn khủng hoảng lo sợ này.
Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm, Đức Mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu, các học trò Tông đồ của Chúa Giêsu, các người tin theo Chúa Giêsu cũng đã sống trải qua cảnh lo âu khủng hỏang tương tự như vậy, sau khi Chúa Giêsu bị kết án chết trên thập gía, rồi được mai táng trong mồ mả dưới lòng đất.
Họ sống trong bơ vơ hoang mang lo sợ, một đàng mất Chúa Giêsu, người con, người Thầy, người mình tin yêu, và một đàng khác còn sống trong bất an lo sợ, có thể bị đe dọa theo dõi lúc đó nữa.
Họ sống trong thất vọng buồn đau, bất an. Nên hằng mong sao có được bình an cho đời sống thể xác và tinh thần.
Kinh thánh thuật lại, Chúa Giêsu chỗi dậy sống lại từ cõi người chết. Tin vui mừng cho họ, nhưng quá ngạc nhiên làm sao họ có thể tin nổi! Bất thình lình, trước hết Chúa Kitô phục sinh hiện ra với chị Magdalena, mà chị tưởng là người làm vườn, rồi hiện sau đó ra nhiều lần với các Tông đồ đang khi họ sống tụ tập trong căn nhà khóa kín các cửa. Đây là sự thể qúa ngạc nhiên mà họ không thể nào nghĩ tới được.
Thánh sử Luca thuật lại, Chúa Giêsu Kitô phục sinh hiện ra với các Tông đồ học trò và chúc bình an cho các Ông trong căn nhà đã khóa kín chặt các cửa. Ngài trấn an họ, chỉ cho các ông xem thân xác xương thịt cùng những những vết thương của ngài, còn ăn cá nướng với họ, và chiết giải cho hiểu: "Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh“ ( Phúc âm Thánh Luca 24, 35-48).
Như thế Chúa Giêsu muốn nói: nếu Thiên Chúa muốn, mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp!
Phúc âm thuật lại, vì lo sợ bất an, nên các Tông đồ học trò, các người tin theo của Chúa Giêsu họp nhau cố thủ trong nhà. Buồn sầu lo sợ hoang mng. Nhưng có thể họ đã cùng nhau đọc kinh cầu nguyện chung kêu cầu: Lạy Thiên Chúa nguồn tình yêu thương và sự bình an, chúng con đang sống trong lo sợ khủng hoảng bất an. Nhưng nếu Chúa muốn mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp!
Đang khi những người tin theo Chúa cảm thấy bơ vơ sống trong hoang mang lo sợ, bị bỏ rơi vì mất Thầy Giêsu, bị đe doạ, bất thình lình Chúa Giêsu Kitô phục sinh đi xuyên qua những bức tường ngăn che nhà, mở cửa đã khóa hiện ra giữa họ đang trong cơn lo buồn mệt mỏi. Chắc lúc đó họ hốt hoảng lắm thêm nỗi lo sợ nữa, vì tưởng động đất, hay có ma quái hiện về!!!
Chúa Giêsu Kitô hiểu được tâm trạng đổ nát của họ, nên Người cầu chúc ngay: Bình an cho anh em!
Bình an là điều họ đang mong ước có. Lời cầu chúc bình an của Chúa Giêsu Kitô như đốm lửa niềm hy vọng bừng phát lên chiếu sáng hơi nồng ấm tâm hồn các Tông đồ học trò, các người tin theo ngài. Đốm lửa đó nhỏ thôi. Nhưng có sức sáng soi chiếu giúp tâm trí họ nhìn thấy Thầy mình sống lại với cả thân xác cùng tinh thần tiếng nói, chứ không phải là bóng ma quái.
Lời cầu chúc bình an của Chúa Giêsu Kitô phục sinh củng cố tinh thần họ, xóa tan bóng ma lo âu bất an khủng hoảng đang đè nặng đời sống trái tim tâm hồn họ.
Lời cầu chúc bình an của Chúa Giêsu Kitô phục sinh là trung tâm sứ điệp Chúa phục sinh đã khôi phục lòng xác tin vào Chúa nơi các Tông đồ học trò của Chúa. Và chính họ nhận nhiệm vụ là nhân chứng loan báo tin mừng bình an của Chúa Giêsu Kitô phục sinh cho con người trong Hội Thánh Chúa ở trần gian.
Những người tin theo Chúa Giêsu Kitô từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội cũng đã tiếp nhận ánh sáng đức tin bình an vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Cây nến rửa tội của mọi người chúng ta đã được đốt thắp từ ngọn lửa cây nến Chúa Giêsu Kitô phục sinh.
Bình an cần thiết cho đời sống thể xác cũng như tinh thần. Bình an mang đến sự an toàn, sức khoẻ niềm vui cho hôm qua, hôm nay cùng củng cố phát triển hướng về cho ngày mai.
„ Bình an là hình ảnh dấu chỉ hành động của Thiên Chúa, thể hiện vừa nơi sự sáng tạo một vũ trụ có trật tự hài hòa, và vừa nơi sự cứu rỗi cho nhân loại cần đến, mà họ đã bị mất vì tội lỗi. Sự sáng tạo và sự cứu rỗi là chiếc chìa khóa mở cánh cửa sự thông hiểu về ý nghĩa bản thể đời sống con người chúng ta trong vũ trụ.“ ( Đức Giáo Hoàng Benedictô 16.).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ hơn một nay nhân loại trên thế giới sống trong lo âu khủng hoảng. Vì bệnh đại dịch vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ làm tê liệt ngưng trệ mọi sinh hoạt đời sống. Khoẻ mạnh- bệnh nạn, sống- chết, bình an - khủng hỏang lo sợ… là những hình ảnh thời sự hằng ngày sát gần kề đời sống con người trong lúc này.
Những biện pháp y tế phòng ngừa vi trùng bệnh đại dịch lây lan, như phải đeo khẩu trang bịt kín mũi miệng, đứng ngồi giãn cách xa nhau, siêng năng rửa tay giữ vệ sinh và tiêm chủng chích ngừa, là những việc cấp bách phải chú ý tôn trọng thực hiện.
Sống trong không khí ngột ngạt đời sống bị vi trùng bệnh đại dịch đe dọa trở nên mệt mỏi. Nên con người hơn lúc nào hết hằng mong đợi có được bình an mạnh khoẻ, mau có ngày thoát khỏi cơn khủng hoảng lo sợ này.
Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm, Đức Mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu, các học trò Tông đồ của Chúa Giêsu, các người tin theo Chúa Giêsu cũng đã sống trải qua cảnh lo âu khủng hỏang tương tự như vậy, sau khi Chúa Giêsu bị kết án chết trên thập gía, rồi được mai táng trong mồ mả dưới lòng đất.
Họ sống trong bơ vơ hoang mang lo sợ, một đàng mất Chúa Giêsu, người con, người Thầy, người mình tin yêu, và một đàng khác còn sống trong bất an lo sợ, có thể bị đe dọa theo dõi lúc đó nữa.
Họ sống trong thất vọng buồn đau, bất an. Nên hằng mong sao có được bình an cho đời sống thể xác và tinh thần.
Kinh thánh thuật lại, Chúa Giêsu chỗi dậy sống lại từ cõi người chết. Tin vui mừng cho họ, nhưng quá ngạc nhiên làm sao họ có thể tin nổi! Bất thình lình, trước hết Chúa Kitô phục sinh hiện ra với chị Magdalena, mà chị tưởng là người làm vườn, rồi hiện sau đó ra nhiều lần với các Tông đồ đang khi họ sống tụ tập trong căn nhà khóa kín các cửa. Đây là sự thể qúa ngạc nhiên mà họ không thể nào nghĩ tới được.
Thánh sử Luca thuật lại, Chúa Giêsu Kitô phục sinh hiện ra với các Tông đồ học trò và chúc bình an cho các Ông trong căn nhà đã khóa kín chặt các cửa. Ngài trấn an họ, chỉ cho các ông xem thân xác xương thịt cùng những những vết thương của ngài, còn ăn cá nướng với họ, và chiết giải cho hiểu: "Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh“ ( Phúc âm Thánh Luca 24, 35-48).
Như thế Chúa Giêsu muốn nói: nếu Thiên Chúa muốn, mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp!
Phúc âm thuật lại, vì lo sợ bất an, nên các Tông đồ học trò, các người tin theo của Chúa Giêsu họp nhau cố thủ trong nhà. Buồn sầu lo sợ hoang mng. Nhưng có thể họ đã cùng nhau đọc kinh cầu nguyện chung kêu cầu: Lạy Thiên Chúa nguồn tình yêu thương và sự bình an, chúng con đang sống trong lo sợ khủng hoảng bất an. Nhưng nếu Chúa muốn mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp!
Đang khi những người tin theo Chúa cảm thấy bơ vơ sống trong hoang mang lo sợ, bị bỏ rơi vì mất Thầy Giêsu, bị đe doạ, bất thình lình Chúa Giêsu Kitô phục sinh đi xuyên qua những bức tường ngăn che nhà, mở cửa đã khóa hiện ra giữa họ đang trong cơn lo buồn mệt mỏi. Chắc lúc đó họ hốt hoảng lắm thêm nỗi lo sợ nữa, vì tưởng động đất, hay có ma quái hiện về!!!
Chúa Giêsu Kitô hiểu được tâm trạng đổ nát của họ, nên Người cầu chúc ngay: Bình an cho anh em!
Bình an là điều họ đang mong ước có. Lời cầu chúc bình an của Chúa Giêsu Kitô như đốm lửa niềm hy vọng bừng phát lên chiếu sáng hơi nồng ấm tâm hồn các Tông đồ học trò, các người tin theo ngài. Đốm lửa đó nhỏ thôi. Nhưng có sức sáng soi chiếu giúp tâm trí họ nhìn thấy Thầy mình sống lại với cả thân xác cùng tinh thần tiếng nói, chứ không phải là bóng ma quái.
Lời cầu chúc bình an của Chúa Giêsu Kitô phục sinh củng cố tinh thần họ, xóa tan bóng ma lo âu bất an khủng hoảng đang đè nặng đời sống trái tim tâm hồn họ.
Lời cầu chúc bình an của Chúa Giêsu Kitô phục sinh là trung tâm sứ điệp Chúa phục sinh đã khôi phục lòng xác tin vào Chúa nơi các Tông đồ học trò của Chúa. Và chính họ nhận nhiệm vụ là nhân chứng loan báo tin mừng bình an của Chúa Giêsu Kitô phục sinh cho con người trong Hội Thánh Chúa ở trần gian.
Những người tin theo Chúa Giêsu Kitô từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội cũng đã tiếp nhận ánh sáng đức tin bình an vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Cây nến rửa tội của mọi người chúng ta đã được đốt thắp từ ngọn lửa cây nến Chúa Giêsu Kitô phục sinh.
Bình an cần thiết cho đời sống thể xác cũng như tinh thần. Bình an mang đến sự an toàn, sức khoẻ niềm vui cho hôm qua, hôm nay cùng củng cố phát triển hướng về cho ngày mai.
„ Bình an là hình ảnh dấu chỉ hành động của Thiên Chúa, thể hiện vừa nơi sự sáng tạo một vũ trụ có trật tự hài hòa, và vừa nơi sự cứu rỗi cho nhân loại cần đến, mà họ đã bị mất vì tội lỗi. Sự sáng tạo và sự cứu rỗi là chiếc chìa khóa mở cánh cửa sự thông hiểu về ý nghĩa bản thể đời sống con người chúng ta trong vũ trụ.“ ( Đức Giáo Hoàng Benedictô 16.).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Qui Nhơn[1] – Thị Nại Trong Chiến Lược Vệ Quốc Và Kiến Quốc
LM. Giuse Trương Đình Hiền
08:54 16/04/2021
QUI NHƠN[1] – THỊ NẠI TRONG CHIẾN LƯỢC VỆ QUỐC VÀ KIẾN QUỐC
Trương Đình Hiền
Vào chuyện:
Ngày nay, khi bàn đến các lãnh vực kinh tế chính trị trên thế giới, người ta thường sử dụng thuật ngữ “địa chính trị” (Geopolitics)[2] hay “địa kinh tế” (Geo-economics)[3] để chỉ những mối tương quan, những ảnh hưởng, giao thoa, những sức mạnh và điều kiện tương tác, áp lực… lên nhau và lẫn nhau của các quốc gia, các châu lục, các vùng lãnh thổ, các khối kinh tế-văn hoá-tôn giáo, các hệ thống chính trị…
Vì thế, chương trình “vệ quốc và kiến quốc” của bất cứ quốc gia dân tộc nào cũng đều liên quan mật thiết đến “địa chính trị”; nói cách khác, sự ổn định và phát triển, tồn tại hay biến mất của một quốc gia luôn kèm theo vấn đề “lãnh thổ” hay “không gian sống” và những vị trí chiến lược trên đó, như Klaus Dods phát biểu: “Một nhà nước mạnh mẽ và thành công sẽ không bao giờ thoả mãn với những giới hạn đang có, và sẽ tìm cách bành trướng về lãnh thổ và bảo đảm “không gian sống” (living space)…Tìm kiếm không gian sống là một quy luật Địa chính trị cơ bản và không thể thay đổi – theo đúng nghĩa đen, là một thực tế của cuộc sống trên trái đất”[4].
Nhờ được hội tụ các yếu tố chủ lực rất thuận lợi về phương diện “địa chính trị” cũng như “địa kinh tế” như: sở hữu nhiều vị trí chiến lược về giao thương (đường bộ, đường hàng không cũng như đường biển), cường quốc dân số, ổn định chính trị, ngôn ngữ và văn hoá mang tính hội nhập cao, truyền thống kiến quốc và vệ quốc thành công, trình độ dân trí phát triển…, trải qua nhiều thế kỷ, đặc biệt, kể từ thế kỷ 21 nầy, Việt Nam trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều thế lực trong bang giao quốc tế.
Thật vậy, không phải chỉ thời nay, giải đất hình chữ S với Biển Đông bao bọc nầy, mà suốt chặng đường 20 thế kỷ qua, đã là vùng “địa chính trị” từng diễn ra những cuộc tranh chấp, binh biến, xâm lăng, đô hộ; những cuộc chiến tranh sinh tử, một mất một còn, giữa các quốc gia Trung Quốc, Việt Nam, Champa, Chân Lạp Khmer, Xiêm….
Vào đầu thế kỷ 19, sau khi tiêu diệt Nhà Tây Sơn (1802), thu giang sơn về một mối, cơ bản Triều Nguyễn Gia Long đã kiến tạo nên một đất nước Việt Nam thống nhất như chúng ta đang thấy hôm nay. Tuy nhiên, để có được một giải đất hình chữ S duyên dáng bên bờ Biển Đông, một đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập, phồn thịnh hoà bình như hôm nay, muôn thế hệ người Việt chúng ta đã phải trả cái giá máu xương và mồ hôi nước mắt không nhỏ cho công cuộc “vệ quốc và kiến quốc” lẫy lừng trải qua “những ngàn năm lịch sử”.
Nếu đặt công cuộc “vệ quốc và kiến quốc” nầy trong lăng kính “địa chính trị” hôm nay, chúng ta sẽ thấy hiện lên những địa danh, vị trí chiến lược, có thể nói được, là yếu tố quyết định cho một triều đại, một hệ thống chính trị một thời của Việt Nam. Trong số đó phải kể đến THỊ NẠI - QUI NHƠN, một địa danh, một vị trí chiến lược, mà nếu đế quốc Champa giữ được trong trận nam tiến của vua Lê Thánh Tôn năm 1471 thì “Đồ Bàn sẽ không bị xoá tên” và sẽ không có BÌNH ĐỊNH-QUY NHƠN của Việt Nam như hôm nay. Cũng vậy, nếu nhà Tây Sơn không bị đại bại trong trận hải chiến kinh hoàng với hạm đội của Nguyễn Ánh trong đêm “Thị Nại đẫm máu năm 1801”, thì liệu Bắc, Trung, Nam đã về một mối hay chưa; hoặc giả, diện tích Việt nam có thể rộng gấp đôi bây giờ?
Chính trong cái nhìn đó, xin đóng góp vài gợi ý suy tư trong chủ đề “QUI NHƠN-THỊ NẠI TRONG CHIẾN LƯỢC VỆ QUỐC VÀ KIẾN QUỐC”.
I. ĐỒ BÀN - THỊ NẠI: YẾU HUYỆT VÀ CƠ ĐỒ
Trong vòng 200 năm, từ đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 15, dãi đất dọc theo bờ Biển Đông mang dáng hình chữ “S” mà hôm nay chính là vùng lãnh thổ của nước Việt Nam ta đã từng là vùng đất của ba quốc gia lúc thịnh lúc suy mà “tương quan chiến tranh” chiếm thời gian gần như nhiều hơn “tương quan hoà bình”:
- Phía bắc là Đại Việt với các vua triều Lê mà mạnh nhất là triều đại của vị minh quân Lê Thánh Tôn (1460-1497)[5].
- Phía trung là Champa, cực thịnh thời vua Chế Mân (Jaya Sinhavarman IV trị vì từ năm 1285 đến năm 1305), suy yếu dần thời Chế Bồng Nga (Po Binnosuor, khoảng từ năm 1328 đến năm 1373)[6], và bị suy vong thời Trà Toàn (? – 1741)[7].
- Phía nam là Chân Lạp (Khmer), một đế quốc hùng mạnh với một lãnh thổ bao la, rực rỡ vào các triều vua Jayavarman VIII (trị vì 1243-1295), Srindravarman (trị vì 1295-1309) )…, để rồi suy tàn sau khi người Thái (Ajutthaya) chiếm thánh địa Angkor và người Champa giành lại những vùng đất phía nam trù phú[8].
Tuy nhiên, “bản đồ của 3 vương quốc bên bờ Biển Đông” đó gần như đã được vẽ lại hoàn toàn sau biến cố lịch sử: chiến dịch “Bình Chiêm năm 1471” của quốc vương Đại Việt, Lê Thánh Tôn; và thời điểm đó cũng là cột mốc ghi nhận vương quốc Champa hùng mạnh một thời ở Đông Nam Á đã trở thành một “nhược quốc” khiêm tốn trấn thủ vùng Panduranga (Phan Rang, Bình Thuận) cho đến khi chính thức bị xoá tên trên bản đồ thế giới vào thế kỷ 17 dưới triều các vua nhà Nguyễn của Việt Nam[9].
1. Từ bài học chiến dịch “Bình Chiêm 1471”:
1.1. Một thoáng nguyên nhân:
Như đã nói trên, vương quốc Champa thời Trà Toàn tương ứng với Đại Việt thời vua Lê Thánh Tôn; và tương quan chính trị giữa vương triều Đại Việt phương bắc và Chiêm Thành phía nam, vốn đã xấu đi từ thời Chế Bồng Nga[10], đã trở thành hai thế lực đối đầu “một mất một còn” kể từ khi Trà Toàn thay thế bào huynh Trà Duyệt lên ngôi vương đế.
Ngoài yếu tố “con người” như cách nhận định của sử liệu “ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ” đã dẫn (Ghi chú 7), cuộc chiến sống còn của hai vương quốc kề nhau Việt – Chiêm, như cách nhận định của Graham Allison, “Đó là cuộc chiến được dẫn dắt và thúc đẩy bởi những yếu tố mang tính ‘định mệnh’, hầu như không thể tránh khỏi”[11]; và đây cũng là ý kiến mà tác giả trên đã căn cứ nơi tác phẩm của một văn hào thời Hy Lạp cổ: Cuốn “Lịch sử chiến tranh Peloponnese” của Thucydides, trong đó, có một câu phát biểu đã trở thành một biểu ngữ “bẫy Thucydides”: “Chính sự trỗi dậy của Athens và nỗi sợ hãi mà nó gây ra ở Sparta đã khiến chiến tranh trở thành điều cốt yếu”[12].
Và tất cả những điều trên gần như bàng bạc trong “Sắc chiếu bình Chiêm” của vua Lê Thánh Tôn mà chúng ta có thể đọc thấy qua vài trích dẫn: “Khi Nhân Miếu lên ngôi cả, thì giống loài chúng đã rất đông. Nương chốn Cổ Luỹ như hang cầy, cậy thành Chà Bàn như tổ kiến. Điên cuồng mất trí, nó xưng bừa là cha chú, gọi đức vua ta là cháu con; mất đức ra oai, lại nhận liều là trời phật, coi nước ta là tôi tớ. Tội ác chất chồng, giấu sao cho nổi? Những lời lăng nhục không thể nêu tường… Trẫm thể lòng thượng đế, nối chí vua cha. Giết kẻ thù chín đời theo nghĩa Xuân thu, định mưu kế vạn toàn cho yên đất nước. Cứu muôn dân thoát khỏi vòng điêu đứng, dẹp nước loạn đã trái đạo lâu năm. Đánh phản nghịch, cứu sinh dân, thánh triết phải tỏ bày uy vũ; trồng mầm nhân, nhổ cội ác, đất trời cũng lấy đó làm lòng…”[13].
Và cả hai đã rơi vào cái “bẫy Thucydides”[14] mà chiến trường quyết định lại là chính đế đô của vương quốc Champa lừng lẫy một thời !
1.2. Đồ Bàn: viễn tượng “địa chính trị”
1.2.1. Quốc đô của hai vương quốc:
Từ thế kỷ thứ 10 đến 15, có thể nói được vương quốc Champa đã trải qua những thăng trầm dâu bể mà dấu ấn lịch sử ghi đậm qua ba tên gọi cũng là ba “quốc danh” hay “quốc đô”: Indrapura (Đồng Dương) phía bắc (Quảng Nam tới Quảng Bình); Vijaya (Chà Bàn hay Đồ Bàn) miền trung (Bình Định tới Quảng Ngãi); và Panduranga (Phan Rang tới Bình Thuận). Riêng kinh đô Vijaya (Đồ Bàn) là trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị quan trọng nhất và tồn tại xuyên suốt năm thế kỷ, cho đến khi thất thủ và thuộc về Đại Việt trong trận đại chiến năm 1471[15]. (x. Đồ Bàn. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93_B%C3%A0n).
Chắc chắn, cũng vì chiếm vai trò quan yếu trong vị thế “địa chính trị” đó, nên hơn 300 năm sau, Nhà Tây Sơn đã quyết chọn chính vùng lãnh địa nầy để phát khởi cơ đồ và xây dựng quốc đô mang tên “Hoàng Đế Thành”, như nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Quang ghi nhận: “Trên cùng một địa điểm, lần lượt hiện diện hai toà thành của hai vương triều, hai tộc người cách nhau hơn 300 năm, với hai tên gọi: Đồ Bàn (Champa), Hoàng Đế (nhà Tây Sơn), cùng giữ vai trò kinh đô trong mỗi giai đoạn lịch sử…”[16].
Nhưng để có một khái niệm tổng quát nhưng cũng khá đầy đủ về “vị thế chiến lược” của “Đồ Bàn”, chúng ta có thể đọc lại cách mô tả của tác giả Nguyễn Thanh Quang, một nhà nghiên cứu chuyên sâu về “Qui Nhơn-Bình Định học”:
“Việc xây dựng kinh thành Đồ Bàn cho thấy rằng: người Chăm xưa rất giỏi trong việc sử dụng và kiến tạo địa hình. Một tài liệu viết thời vua Thành Thái “Thành Chà Bàn (Đồ Bàn), dựa vào núi Long Cốt để làm thế vững. Thành hình vuông rộng hơn 10 dặm, mở 4 cửa, xây bằng gạch, rào gỗ, tuy không có hào rãnh mà vẫn kiên cố…”.
H. Parmentier – một kiến trúc sư người Pháp, sau khi khảo sát nghiên cứu, viết về thành Đồ Bàn như sau: “Trên đường cái quan cách thành Bình Định mươi cây số, thấy vết tích một khu thành Chàm, mà kích thước được xếp hàng đầu trong số những công trình quân sự của dân tộc này… Một nhánh sông Bình Định bảo vệ phía Bắc… Tường bằng đất ốp đá ong… tòa thành được tạo bởi những gò đất có tính toán…”. Mặt khác, thành Đồ Bàn còn có tấm lá chắn vững chắc bảo vệ mặt biển, trấn giữ cảng Thị Nại (một thương cảng lớn lúc bấy giờ), cách thành Đồ Bàn khoảng 10km, đó là thành Thị Nại.
Địa thế kinh đô Đồ Bàn cũng chính là địa thế của thành Hoàng Đế được Nguyễn Văn Hiển nhận xét: “Thành Đồ Bàn được xây dựng vào trung tâm của nước, tựa vào thế vững của núi Long Cốt, non xanh bày hàng trước mặt, nước biếc uốn réo xung quanh… bên hữu lấy núi Phong làm lũy, bên tả lấy bể làm hào; núi Cù Mông như rồng cuộn khúc ở phía trước; bến Thạch Tân như cọp hùng cứ ở mặt sau, quả là nơi hiểm trở thiên nhiên vậy”.
Thành Hoàng Đế có quy mô lớn nhất trong hệ thống thành cổ Việt Nam còn đến nay (có chu vi 7.575m). Được coi là nơi “thắng địa”, vị trí cao thoáng, lấy núi Mò O làm tiền án phía Đông, núi Tam Sơn làm lá chắn phía Nam, phía Tây là những dải đồi thấp nối tiếp nhau trải dài tạo tấm lá chắn giăng trước lũy. Ba mặt thành, phía xa là các dòng sông uốn lượn như hào tự nhiên che chắn. Thành được xây dựng trên thế đất hội tụ núi sông liền kề, liên kết điệp trùng, vừa có thế công vừa có thế thủ…”[17].
1.2.2. Miền đất định hình:
Đồ Bàn, thực ra, không chỉ dừng lại ở tầm mức “giá trị chiến lược quân sự” mà, theo cách đánh giá chuyên môn về “địa lý”, còn là “miền đất định hình” toàn bộ cấu trúc xã hội: “Miền đất chúng ta sống vẫn luôn định hình chúng ta. Nó định hình những cuộc chiến tranh, quyền lực, những phát triển về chính trị và xã hội của những dân tộc hiện giờ đang cư trú trên mọi phần của địa cầu (…); không chỉ là cảnh quan tự nhiên – như những rào cản tự nhiên của núi non hoặc sự kết nối của mạng lưới sông ngòi – mà còn cả về khí hậu, nhân khẩu, các khu vực văn hoá và khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các nhân tố như vậy có thể tác động quan trọng đến nhiều khía cạnh khác nhau của nền văn minh, từ chiến lược chính trị và quân sự cho đến sự phát triển xã hội con người, bao gồm cả ngôn ngữ, thương mại và tôn giáo”[18].
Nhận xét trên quả thật không ngoa, khi 200 năm sau, chính vùng đất nầy, đúng hơn, vùng ngoại biên phía đông, đã được các vị tiên vương triều Nguyễn chọn cảng biển Nước Mặn là trung tâm giao thương chiến lược ở tuyến đầu biên giới phía nam; riêng các nhà truyền giáo Kitô giáo phương Tây, cũng đã chọn nơi đây là trung tâm truyền giáo chính thức và cũng là cư sở đầu tiên để kiến tạo chữ Quốc ngữ[19]. Và sau đó một thế kỷ nữa, những “anh hùng áo vải Tây Sơn” đã chọn miền “phế tích Đồ Bàn” để xây dựng “Thành Hoàng Đế”[20], trung tâm của một vương triều, cho dù chỉ tồn tại có mấy chục năm (1771-1802), nhưng đã làm nên một “đế chế oai hùng” của dân tộc Việt vào thế kỷ 18, với những cuộc chiến thắng lẫy lừng quân Thanh phía bắc và quân Xiêm phía nam[21].
1.3. Thị nại thành: Hệ thống phòng thủ đắc địa:
Nếu nhắc đến địa danh Đồ Bàn, quốc đô của vương quốc Champa và sau đó, trên phế tích của “Đồ Bàn” là “Hoàng Đế Thành” của vua Thái Đức nhà Tây Sơn, thì không thể không đề cập tới Thị Nại, một thương cảng[22] và quân cảng quan trọng bậc nhất của cả hai triều đại trên; đây cũng là “vị trí chiến lược”, một bức “phên dại thiên nhiên” cũng là yếu huyệt để che chắn cho thành Đồ Bàn thời Champa hay Hoàng Đế thành, Qui Nhơn thành thời Tây Sơn.
Chúng ta có thể đọc lại đôi dòng giới thiệu về vị trí chiến lược của Thị Nại trong một khảo luận khá chuyên sâu về của tác giả Đào Đức Chương: “Vào cuối thế kỷ thứ 10, vua Chăm là Hari Varman II (988- 998), dời đô đến miền Bắc Vijaya, lập kinh thành Đồ Bàn, nay là thôn Bắc Thuận và Nam Tân (tức thôn Nam An cũ thuộc phạm vi thành, hợp nhất với Tân Ninh) thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn. Kinh đô mới có địa thế phòng thủ tốt. Ba mặt Tây, Nam, Bắc đều được núi non che chở, phía Đông là đồng bằng có núi Long Cốt (cao 43 mét) làm tiền án ngó ra đầm Thị Nại. Vì vậy, muốn chiếm Đồ Bàn phải tiến quân vào Thị Nại, yết hầu của kinh đô. Nơi đây kín đáo, có thể chứa cả ngàn chiến thuyền, thuận tiện cho việc đổ bộ cùng lúc hàng vạn quân. Bởi ưu thế đó, Thị Nại đã gắn liền với lịch sử qua những trận đánh lớn, một mất một còn. Theo Việt Sử Tân Biên và các tài liệu sử khác, ngót 10 thế kỷ qua, đầm Thị Nại ít nhất cũng đã 12 lần có mặt trong quân sử”[23].
1.4. Tan yếu huyệt, mất cơ đồ.
Trong thời vương quốc Champa, cảng Thị Nại trải qua bốn cuộc đại thuỷ chiến; trong số đó có hai lần chiến thắng nghiêng về Champa[24] và hai lần Champa đại bại[25]. Riêng lần sau cùng khai diễn vào năm Canh Dần (1470) và kết thúc vào năm Tân mão (1471) trong chiến dịch “Bình Chiêm sách” của vua Lê Thánh Tôn, khi tiền đồn Thị Nại vỡ trận cũng là lúc Đồ Bàn thất thủ sau đó không lâu[26]. (x. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)[27].
Có thể nới được, vương quốc Champa một thời lừng lẫy với kinh đô Đồ Bàn và quân cảng Thị Nại bị xoá tên từ năm 1471. Vùng đất nầy chính thức trở thành Thừa Tuyên Quảng Nam thuộc Đại Việt. Vua Champa là Trà Toàn bị bắt mang về kinh; sau mấy tháng lâm bệnh chết và bị chém bêu đầu như một tên tội phạm. Một bộ tướng của Trà Toàn là Bô Trì Trì mang theo một nhóm tàn quân vào cát cứ tại Phan Rang tái lập quốc và xin triều cống nhà Lê như một tiểu quốc ngang tầm với Nam Bàn và Hoa Anh lúc bấy giờ[28].
Phải chăng vì biết vận dụng hiệu quả các “yếu điểm chiến lược” của Thị Nại mà người Champa đã hai lần chiến thắng cuộc xâm lược của nhà Minh (1284) và nhà Trần (1377), giữ vững kinh đô Đồ Bàn. Trong khi đó, với sự chủ quan và sơ hở nhiều mặt, triều đình Champa của Trà Toàn đã để mất Thị Nại, dẫn đến “Đồ Bàn thất thủ”; từ đó, coi như vương quốc hùng mạnh Champa điêu tàn. Đúng là: khi “yếu huyệt đã tan” thì “cơ đồ cũng diệt vong” !
2. Đến kinh nghiệm “Hải chiến 1801”:
Như đã nêu trên, triều đình Trà Toàn của vương quốc hùng mạnh Champa, khi để mất Thị Nại – Đồ Bàn, đã vĩnh viễn làm sụp đổ cơ đồ của một vương quốc mà theo dấu chứng của “Văn hoá Sa Huỳnh”, đã xuất hiện và tồn tại cả ngàn năm lịch sử[29]. Và lịch sử đã lặp lại sau đó 300 năm với triều đại Tây Sơn mà cuộc “hải chiến kinh hoàng đêm 16 tháng Giêng năm Tân Dậu” (28.02.1801)[30] tại quân cảng Thị Nại như là một “hồi chuông báo tử” cho một vương triều ngắn ngủi nhưng lẫy lừng và hùng mạnh vào hạng bậc nhất của các triều đại Phong kiến Việt Nam[31].
2.1. Một thoáng Tây Sơn:
Chuyên đề “lịch sử về Triều đại Tây Sơn” được biên soạn và nghiên cứu rất nhiều và phong phú, cả xưa và nay, cả nội địa lẫn hải ngoại, của tác giả người Việt lẫn người ngoại quốc, với nhiều thể loại: biên niên sử liệu, chuyên đề nghiên cứu, hồi ký, tường trình, tiểu thuyết, truyện ngắn…. Riêng tác giả George Dutton, Giáo sư Ngôn ngữ và Văn hoá châu Á thuộc trường Đại học California tại Los Angeles (UCLA), Hoa Kỳ, chỉ trong một tác phẩm “Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn” (The Tây sơn uprising) đã liệt kê tới 218 tác phẩm và tài liệu tham khảo liên quan; trong đó có 117 danh mục Việt ngữ và 101 danh mục ngoại ngữ[32].
Ở đây, trong bài nhận định mang tính “gợi ý suy tư” nầy, chỉ xin dừng lại một số sự kiện liên quan đến biến cố mang tính “bước ngoặc” dẫn tới sự sụp đổ của triều đại Tây Sơn: cuộc thảm bại trong trận hải chiến Thị Nại 1801 của hải quân Tây Sơn.
Tuy nhiên, để có một kết luận khách quan và tương đối chuẩn xác cho sự kiện trên, có lẽ chúng ta nên dừng lại để tìm thêm: lý do nào khiến cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đã có những thành công vang dội: chỉ trong một thời gian ngắn đã đánh đổ hai triều đại Trịnh, Nguyễn từng tồn tại mấy trăm năm để thống nhất toàn bộ đất nước Bắc, Trung, Nam, đại thắng hai cuộc xâm lược: quân Xiêm ở miền nam và quân Thanh ở miền bắc; và lý do nào khiến họ thất bại mau chóng trước một Nguyễn Ánh mà trước đó 20 năm, đã bị họ đánh cho không còn manh giáp, phải bỏ nước lưu vong !
2.2. “Nhà Tây Sơn”: bước đầu thành công trong viễn tượng “Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà”:
2.2.1. Thiên thời: Khi “mệnh trời” đã điểm:
Để hiểu được vị thế và sự xuất hiện khá đặc biệt của Nhà Tây Sơn trên vũ đài chính trị Việt Nam, các nhà nghiên cứu thường cho rằng phải đặt nó trong toàn bộ bối cảnh chính trị và xã hội Việt nam vào thế kỷ XVIII, một thế kỷ mà theo giáo sư George Dutton, là “một trong những thời kỳ quan trọng vào bậc nhất của dân tộc Việt Nam”. Xin trích:
“Cách tốt nhất để bắt đầu tìm hiểu về “đoàn quân ó” xuất phát từ ấp Tây Sơn là đặt chúng vào khuôn khổ thời gian và địa lý của thời kỳ được gọi là thế kỷ XVIII kéo dài ở xứ sở Đại Việt. Khuôn khổ thời gian xác định thời kỳ này kéo dài từ năm 1672, khi cuộc chiến kéo dài nửa thế kỷ giữa các chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã dừng lại trên thực tế, đến năm 1802, khi cuộc xung đột giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn đã kết thúc. Đây là một trong những thời kỳ quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam, biểu thị bằng sự mở rộng dân số về phía nam cùng những thay đổi về mô hình kinh tế, sự tham gia ngày càng nhiều của các thương nhân, lính đánh thuê và giáo sĩ châu Âu, sự bất mãn của dân chúng dâng cao, bùng nỗ và được làm cho tồi tệ hơn bởi các thế lực chính trị và tự nhiên”[33] (Hết trích).
Riêng tại Đàng Trong, vương triều chúa Nguyễn, sau cái chết của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát vào năm 1765, đã rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị tại nơi chóp bu quyền lực với sự chuyên quyền và cai trị thất đức của quyền thần Trương Phúc Loan, nguyên nhân chính dẫn tới cuộc nổi dậy của Tây Sơn: “Các nhà chép sử đương thời và về sau đều cho rằng chính những mưu đồ của Trương Phúc Loan và nhân cách đáng khinh của ông ta là nguyên nhân gây ra sự bất mãn của dân chúng và làm gia tăng các cuộc nổi dậy chống chính quyền. Sử biên niên thế kỷ XIX của nhà Nguyễn đưa tiểu sử chính thức của Loan vào phần “Nghịch thần, gian thần đối với triều đình”. Khi miêu tả về vị phụ chính này, sử đã nhấn mạnh đến những khiếm khuyết cá nhân và chính trị của ông ta: ‘… Dẫu được chúa thân yêu, nhưng chỉ say mê tửu sắc, không để ý đến việc nước. Loan thấy thế bèn không kiêng nễ gì, bán quan, buôn tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân đều lấy làm khổ. Trong khoảng 4,5 năm, tai dị hiện ra luôn, đất động, núi lở, sao sa, nước đỏ, trăm họ đói kém, trộm cướp tứ tung’…”[34].
Đó chính là “thời cơ thuận tiện” để anh em Nhà Tây Sơn “phất ngọn cờ đào”, thực thi thiên mệnh mà vị “quân sư” là thầy giáo Trương Văn Hiến đã cố tình hiện thực hoá lời tiên tri đang được kháo láo trong dân tại vùng đất Qui Nhơn “Tây khởi nghĩa, bắc thu công”[35]; và đây cũng là những tư tưởng chủ đạo của các “danh sĩ Bắc Kỳ” và là “cựu thần nhà Lê” về quy phục Tây Sơn như Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm[36]… dùng để biện minh cho sự hợp tác của chính mình và tính chính danh của vương triều Tây Sơn sau khi các vương triều Nguyễn, Trịnh thi nhau sụp đổ.
2.2.2. Địa lợi: Non bao thuỷ bọc:
Không cần phải lặp lại “vị trí mang tầm mức chiến lược” của Thị Nại và Đồ Bàn mà nhà Tây Sơn trong thuở đầu khởi nghĩa đã chọn làm căn cứ địa chính thức để từ đó “đánh nam dẹp bắc”, định đô (Hoàng Đế thành) và “thu giang sơn về một mối. Ở đây, xin nhấn mạnh vị trí đặc biệt của vùng đất mang tên “Tây Sơn ấp”, bao gồm cả “Tây Sơn thượng, trung và hạ” mà những bức tường thành thiên nhiên của dãy Trường sơn như luỹ hào che chắn và điểm tựa an toàn của một cứ điểm quân sự[37], và là vị trí chiến lược thích hợp cho một cuộc khởi nghĩa, xây dựng cơ đồ[38] của nhà Tây Sơn trong những năm tháng đầu tiên. (Xem thêm: tính chất đặc trưng của vùng đất cao dọc Trường Sơn gọi là Zomia trong tác phẩm “NHỮNG NGÀY CUỐI CỦA DÒNG MEKONG HÙNG VĨ” của Brian Eyler)[39].
2.2.3. Nhân hoà: Nghĩa quân và ghĩa sĩ:
Kể từ khi Nguyễn Hoàng mang kiếm vào trấn thủ Thuận Hoá (Mậu Ngọ 1558) cho đến khi Nguyễn Phúc Thuần (đời chúa Nguyễn thứ 9) tử trận tại Long Xuyên năm 1777 trong chiến dịch “bình Nam” của Tây Sơn, vương triều chúa Nguyễn đã kiến lập được một dãi đất dài rộng từ sông Gianh tới Miền Tây Nam Bộ, giáp giới Chân Lạp. Chính sự mở rộng biên giới về phương nam nầy đã khiến chính quyền trung ương của chúa Nguyễn tại Phú Xuân không thể kiểm soát và quản lý hiệu quả các vùng đất mới, trong đó có Qui Nhơn, nơi dung thân của đủ mọi thành phần: di dân, tù binh Đàng Ngoài, dân Chăm sống sót, sứ quân nổi loạn, băng nhóm giang hồ…. Đây là những nhóm người sẵn sàng quy tụ chung quanh những ai có gan và có chí “xưng hùng xưng bá”, để có cơ may “đổi đời”; hay theo tâm lý thông thường, để “thoả chí tang bồng hồ thỉ” như câu ca dao đã có tự ngàn xưa: “Làm trai cho đáng nên trai, xuống đông đông tĩnh lên đoài, đoài yên”. (x. Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn)[40].
Và anh em nhà Tây Sơn đã đáp ứng được khát vọng đó, như chứng từ của một giáo sĩ người Tây ban Nha là cha Diego de Jumilla mà tác giả George Dutton đã trích dẫn: “Không làm tổn hại người hay tài sản. Trái lại, có vẻ như họ muốn mọi người Đàng Trong đều được bình đẳng; họ vào nhà của người giàu, và nếu như họ được tặng một món quà biếu nào đó, họ không làm hại gì. Nhưng nếu họ bị kháng cự, họ tịch thu những món đồ xa xỉ nhất rồi mang chia cho người nghèo, chỉ giữ lại cho họ gạo và thức ăn… (vì thế, người dân) bắt đầu tôn xưng họ là những kẻ cướp nhân từ và bác ái, được nghèo khổ kính trọng”[41].
Nói cách khác, Nhà Tây Sơn đã vận dụng triết lý chính trị “chính danh, chính nghĩa” của Khổng Giáo để định hướng và biện minh cho cuộc khởi nghĩa và chấp chính của mình, nên “quân đội Tây Sơn gồm không chỉ đơn thuần là lính, mà là nghĩa quân, được chỉ huy bởi các nghĩa sĩ”[42].
Trong yếu tố “Nhân hoà” nầy, không thể không kể đến vai trò mang tính “chủ công” và kiệt xuất của Nguyễn Huệ, một trong hai người em của “thủ lĩnh Nguyễn Nhạc”, và sau nầy là Hoàng đế Quang Trung, nhân vật mà sử Việt gọi là “xuất quỷ nhập thần”[43], “giảo, kiệt, thiện chiến”[44]… và những người Âu Châu không ngần ngại gán cho danh xưng “Attila khác” hay “Alexandre Đại đế”[45]. Và cũng từ nhân vật kiệt xuất nầy, nhà Tây Sơn đã quy tụ được những viên tướng tài ba như “tứ kiệt”: Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở, Vũ Văn Dũng và các danh tướng khác như Nguyễn Văn Tuyết, Phan Văn Lân, Đô Đốc Bảo, Đô đốc Mưu, Đô Đốc Lộc…; cùng các võ tướng và văn thần khác đến từ hàng ngũ của chúa Trịnh, vua Lê như Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Hửu Chỉnh, Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm (Thời Nhiệm), Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Thiếp, …[46].
2.3. Thuỷ chiến Thị Nại 1801: Hồi chuông báo tử:
Trước khi dẫn đến cuộc “thảm bại Thị nại” năm 1801, chắc chắn nhà Tây Sơn đã phải đối diện với những “thách đố bất lợi” hay những nguyên nhân xa gần như sau:
2.3.1. Những “bất lợi chung” hay “nguyên nhân xa:
Nếu như vào buổi đầu khởi nghĩa, Tây Sơn đã tranh thủ được ba yếu tố quan trọng để “dựng nước”: thiên thời, địa lợi, nhân hoà, thì vào buổi “thoái trào”, gần như họ cũng đã đánh mất ba yếu tố then chốt đó:
- Thời đã hết: Suốt trong 24 năm kể từ ngày vua Thái Đức Nguyễn Nhạc Đăng quang (1778) cho đến khi vua Quang Toản bị Nguyễn Ánh xé xác năm 1802, triều đại Tây Sơn như chìm ngập trong những cuộc chiến liên tu bất tận: cuộc chiến từ Phú Xuân ra Thăng Long để thu phục Bắc Hà của Chúa Trịnh, vua Lê (1786); cuộc chiến từ Qui Nhơn tới Gia Định để đập tan ý đồ khôi phục của Nguyễn Ánh. Trong những cuộc chiến mang tính “nội chiến” đó, phải kể đến hai trận chiến lớn với quân Xiêm ở miền Nam (1785) và quân Thanh ở miền Bắc (1789). Khi chiến tranh kéo dài thì một đàng hao binh tổn tướng, máu chảy thây phơi; gia tăng cảnh vợ goá con côi, gắt gao truy tìm quân dịch; một đàng thì sưu cao thuế nặng, đói kém lan tràn…. Và hiệu quả tất yếu là lòng dân ly tán, ý chí quân binh mệt mỏi; cùng với nạn kiêu binh, nhũng lạm, chia rẽ, hiếp đáp…. Tất cả những yếu tố đó khiến, không chỉ triều đại Tây Sơn, mà bất của thể chế chính trị nào cũng lung lay, thoái trào mạt vận. Thời đã hết là vậy. (x. Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn)[47].
- Địa không thuận: Trong khi đó, một khi thống nhất sơn hà, việc quản lý một dãi non sông từ “Nam quan” tới “Cà Mau” đâu có dễ dàng như trông coi, canh phòng một vùng nhỏ hẹp Qui Nhơn. Đó là chưa kể, việc phân chia ba miền: Phú Xuân – Bắc Hà thuộc Bắc Bình vương Nguyễn Huệ; Quảng Nam – Qui Nhơn của Trung ương Hoàng Đế Thái Đức Nguyễn Nhạc; Nam Bộ thuộc Đông Định vương Nguyễn Lữ. Nếu đất “Bắc Hà”, “Phú Xuân” của Nguyễn Huệ lòng dân chưa quy thuận, sĩ phu còn xem thường phong cách “quân phiệt, mường mán” của đạo quân “sắt máu” Tây Sơn cọng với những tàn dư bất mãn, hoài cổ, phản động của Trịnh, Mạc, Lê nổi lên như nấm sau mưa…, thì đất Qui Nhơn, Gia Định của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ lại lõng lẽo, thiếu kế hoạch cai trị và phòng thủ hửu hiệu, để mất những vị trí chiến lược của toàn bộ miền Nam từ Phú Yên đến Gia Định (Cuộc hành quân năm 1793 của Nguyễn Ánh[48]), không làm chủ hải đạo từ Nam ra Bắc… Tất cả những yếu tố đó cho thấy rõ ràng “địa không còn thuận lợi cho nhà Tây Sơn” trước một Nguyễn Ánh kiên trì, có chiến lược hợp lý cùng sự hỗ trợ của người Âu Châu... !
- Nhân hết hoà: Chính việc phân chia quyền hành cùng với những sự kiện “nồi da xáo thịt”, tranh đất, tranh quyền giữa các anh em[49], đã khiến Tây Sơn lui về thế thủ, dè chừng lẫn nhau, thậm chí bỏ mặc nhau…, không có được một “quyền lực mạnh mẽ thống nhất từ trung ương”, một quân đội tập trung các tướng tài. Thêm vào đó là sự bất tài và nhu nhược của Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ, cùng với những cuộc thanh trừng và hiềm khích nội bộ khiến một số tướng lãnh cao cấp tài giỏi bị sát hại như Nguyễn Hữu Chỉnh, Võ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở, Lê Trung…; một số khác trở thành đối địch như Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng…; một số phản bội về đầu quân cho chúa Nguyễn Ánh: Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương…
Vâng, khi dân tình mỏi mệt vì chiến tranh liên miên, nạn kiêu binh, óc bè nhóm tranh công tranh quyền, nhân tài tổn hao…, tất cả đã góp phần đẩy nhanh tiến độ tan rã của nhà Tây Sơn.
2.3.2. Nguyên nhân gần:
Cùng với những nguyên nhân mang tính “tổng thể chiến lược” trên, sau đây là một chuỗi những sự kiện cũng là những lý do gần khiến triều đại Tây Sơn sụp đổ một cách nhanh chóng:
- Tây Sơn để mất cứ điểm Gia Định-Sài Gòn (1788), sau đó Diên Khánh-Bình Khang (1793), khiến cả một dãi đất miền Nam thuộc về Nguyễn Ánh[50].
- Cuộc thảm bại trong cuộc hải chiến Thị Nại (lần 1) năm 1792. Thuỷ quân Tây Sơn bắt đầu mất thế thượng phong[51].
- Cái chết đột ngột của Nguyễn Huệ (16.9.1792), khiến cuộc hành quân lớn vào Gia Định của Quang Trung Hoàng đế, vị tướng bách chiến bách thắng nầy phải dừng lại[52]; cùng với bao chương trình kiến quốc táo bạo và thông minh của một đấng minh quân.
- Cái chết của Nguyễn Nhạc năm 1793 và sự chấm dứt vương triều mang tính “trung ương” của hoàng đế Thái Đức, kéo theo những rạn nứt, chia rẽ nội bộ trầm trọng (Giữa Bắc Hà của Nguyễn Quang Thuỳ, Phú Xuân của Nguyễn Quang Toản và Qui Nhơn của con cháu Nguyễn Nhạc, nhất là cuộc thanh trừng Bùi Đắc Tuyên, Ngô Văn Sở và hục hặc giữa hai tướng Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu (1795)[53] cùng với cuộc nổi loạn của Nguyễn Bảo năm 1798[54]).
- Thành Qui Nhơn thất thủ (tháng 6 Âm lịch 1799) bị cải tên thành Bình Định. Toàn bộ quân chủ lực nơi được gọi là “nôi” của khởi nghĩa Tây Sơn tan rã[55].
2.3.3. Đêm Thị Nại đẩm máu (28.2.1801):
Trong chiến dịch năm 1799, có thể nói được Nguyễn Ánh đã “bước đầu” thu lại gần hết cõi giang sơn mà nhà Nguyễn đã có công gầy dựng; nhất là khi “thủ phủ Qui Nhơn”, cứ điểm đầu tiên nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa, đã đổi chủ và trở thành Bình Định, cũng đồng nghĩa “ngày tàn của triều đại Tây Sơn” đã điểm. Và sau đây là một vài diễn tiến dẫn đến trận chiến quyết định đêm 28.2.1801:
- Chiến dịch Bắc tiến: Vào giữa năm 1800, sau gần một năm ròng thành Bình Định (do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn giữ) bị quân Tây Sơn vây chặt (Trần Quang Diệu vây thành Qui Nhơn; Võ Văn Dũng án ngữ Thị Nại với đại thuỷ quân chủ lực)[56], quân chúa Nguyễn quyết định xuất quân thuỷ bộ, vừa để giải cứu Qui Nhơn, vừa quyết tâm thu Thuận Hoá, Phú Xuân và Bắc tiến, như lời khuyến dụ: “thành Qui Nhơn chỉ Bắc, đạp phá trùng vi; đô Thuận Hoá rụng cờ, dẹp yên đảng nguỵ”[57]. Đây là cuộc hành quân tổng lực, có cả sự tham gia của các sĩ quan Pháp, đặc biệt trong đội hình thuỷ quân mạnh mẽ, với các chiến thuyền được biên chế theo kỷ thuật và chiến thuật châu Âu lúc bấy giờ[58].
- Sau một loạt các chiến thắng trên bộ, tiêu diệt các cứ điểm bao quanh Thị Nại, Qui Nhơn, khống chế đường biển, triệt đường tiếp viện từ Phú Xuân (chiếm cảng Đề Di với 150 thuyền vận lương)[59] và nắm được “mật khẩu của hải quân Tây Sơn”, cuộc tấn công tổng lực bằng thuỷ quân vào cảng Thị nại bắt đầu vào đêm 28.2.1801 (16 tháng Giêng năm Tân Dậu)[60]. Bằng cuộc tấn công bất ngờ và táo bạo, toàn bộ thuỷ quân Tây Sơn do tướng Võ Văn Dũng chỉ huy gần như bị tiêu diệt: mất 50.000 lính, 1.800 chiến thuyền cùng với khoảng 6.000 khẩu đại bác[61].
- Võ Văn Dũng dẫn tàn quân tháo chạy lên bộ nhập với quân của tướng Trần Quang Diệu đang vây thành Qui Nhơn; để rồi sau đó, cho dù có bức bách được Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tự vận giao thành, Tây Sơn vẫn lần lượt mất Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh cùng triều đình tháo chạy ra Bắc Hà[62], để cuối cùng, Thăng Long bị thất thủ ngày 15.7.1802, Nguyễn Ánh đặt chân vào Thăng Long ngày 20.7.1802, khai mở “triều đại quân chủ phong kiến cuối cùng”[63] của Việt Nam; và đó cũng là thời điểm Triều đại Tây Sơn chính thức bị “khép lại” giữa những trang dài lịch sử “nội chiến” của dân tộc Việt Nam ![64].
Thay lời kết: Chiến bại Thị Nại: một tiếc nuối!
Như vậy, có thể nói được rằng: trận “hải chiến Thị Nại” đêm 28.2.1801 là trận đánh quyết định của cuộc đối đầu Tây Sơn – Nguyễn Ánh; và “chiến lược điều động thuỷ quân” chính là “nhân tố quyết định. Thật không may mắn cho phe Tây Sơn thiếu mất nhà cầm quân vĩ đại Quang Trung. Chắc chắn, nếu còn vị tướng tài ba kiệt xuất nầy, hải quân Nguyễn Ánh không dễ gì làm mưa làm gió dọc Biển Đông, từ Gia Định tới Sơn nam, Bắc Hà; và chiến thắng dễ dàng thuỷ quân Tây Sơn tại chiến trường Thị Nại, một vùng đất mà Nguyễn Huệ chắc chắn nắm vững địa thế địa hình, đường đi lối bước.
Thật vậy, so với cuộc đối đầu với thuỷ quân chúa Nguyễn và Xiêm trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút năm 1785, hải quân Tây Sơn của tướng Võ Văn Dũng tại Thị Nại năm 1801 có nhiều điểm thuận lợi hơn quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ lúc đó rất nhiều. Hồi đó (1785), dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, đạo quân Tây Sơn chỉ với 20 vạn, phải di chuyển từ miền Trung xa xôi, tại một vùng sông nước xa lạ đã bị quân Xiêm – Nguyễn chiếm trước. Tuy nhiên, với 10 ngày chuẩn bị đầy mưu trí và chuẩn xác, chỉ trong một ngày, ngày 19.01.1875, 5 vạn quân Xiêm – Nguyễn bị đánh tan tành, 300 chiến thuyền bị đánh đắm, hơn 4 vạn binh Xiêm – Nguyễn bị giết chết…[65].
Với một lực lượng gần như vượt trội về quân số cũng như khí tài, cùng với địa hình địa thế xung yếu của đầm Thị Nại và vùng biển Qui Nhơn với bán đảo Phương Mai và nhiều hải đảo và vị trí tiền tiêu thuận lợi…, nếu tướng Võ Văn Dũng có được tầm nhìn chiến lược, không chủ quan khinh suất, biết ém quân tạo thế, giăng bẫy, đón hờ… như Quang Trung trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút, chắc chắn Nguyễn Ánh “không có cơ” xuôi buồm Bắc tiến.
Vâng, tan Thị Nại thì mất cả Phú Xuân, Thăng Long, tiêu tan cả chiến lược, chiến thuật…; và nhất là “mất nước”, như nhận định của nhà sử học Tạ Chí Đại Trường: “Từ nay họ không còn chút uy thế nào trên mặt bể nữa, trước cả khoảng tháng Tư âm lịch khi Đông Hải vương Mạc Quần Phù cùng các tướng bị bắt lúc bị gió dạt ngoài khơi Thị Nại. Họ hoàn toàn không kiểm soát được mặt bể để tha hồ cho thuỷ quân Gia Định tung hoành ra lấy Phú Xuân mà không sợ một lực lượng lưu động nào theo kịp ngăn trở nữa. Trân Qang Diệu còn bức được Võ Tánh chết, nhưng sự thực đám quân tướng Tây Sơn ở đây mấy tháng sau phải tan rã trên rừng chính vì không thẻ nào di động theo các đồng bằng dọc biển mà không có yểm trợ của thuỷ quân, chính vì sự tan vỡ ở trận Thị Nại này vậy”[66].
(Còn tiếp một kỳ)
Trương Đình Hiền
[1] QUI NHƠN “I ngắn” dành cho khái niệm về một “QUI NHƠN LỊCH SỬ”, một địa danh xuất hiện trong lịch sử Việt Nam kể từ năm 1602, khi Chúa Nguyễn Hoàng đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Qui Nhơn. Đây là tên đơn vị hành chánh chính thức của “danh mục thành phố” theo Quyết định số 124/2004/QĐ-TTg ngày 8.7.2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bảng danh mục và mã số các đơn vị hành chính Việt Nam, tỉnh Bình Định có đơn vị hành chính là TP.Qui Nhơn. Đây cũng là danh xưng được sử dụng lâu đời trong hệ thống mục vụ của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam: Địa phận (hay Giáo phận) Qui Nhơn, nhà thờ Chính Toà Qui Nhơn…. Trong khi đó, Quy Nhơn “Y dài” dành để chỉ “Thành phố Quy Nhơn”, một trong những “đơn vị hành chánh” thuộc tỉnh Bình Định, mới chính thức được thành lập năm 1986.
[2] PGS TS PHAN VĂN RÂN-TS NGÔ CHÍ NGUYỆN: Mối quan hệ giữa địa chính trị và địa kinh tế: Lý luận và thực tiễn: “thuật ngữ “địa chính trị” (Geopolitics) mới lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà khoa học chính trị người Thụy Điển John Rudolf Kjellén vào năm 1899 trong tác phẩm “Nhà nước như một cơ thể sống” (The State as a Living Form). Trong đó, J. R. Kjellén cho rằng, các yếu tố địa lý và môi trường tự nhiên sẽ quy định các đặc điểm về chính trị, kinh tế và quân sự của mỗi quốc gia theo nghĩa chúng có thể tạo thuận lợi hoặc kìm hãm các quá trình phát triển chính trị, kinh tế - xã hội, đồng thời góp phần định hình văn hóa chính trị, bản sắc và lịch sử của mỗi quốc gia. Từ sau đó, thuật ngữ “địa chính trị” được bàn luận nhiều trong các lý thuyết về chính trị và quan hệ quốc tế cũng như được vận dụng phổ biến trong hoạch định và thực thi chiến lược, chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia, nhất là của các cường quốc”. Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2920-moi-quan-he-giua-dia-chinh-tri-va-dia-kinh-te-ly-luan-va-thuc-tien.html
[3] Ibid.: “…Theo quan điểm của Luttwak, địa kinh tế là hình thức mới của sự cạnh tranh sức mạnh giữa các quốc gia sau chiến tranh lạnh. Ông cho rằng, chính trị quốc tế thời kỳ hậu chiến tranh lạnh mặc dù vẫn bị chi phối bởi cạnh tranh sức mạnh giữa các nhà nước nhưng chiến trường chủ yếu là kinh tế thay vì quân sự, phương tiện ưa thích được các nhà nước sử dụng để theo đuổi các mục tiêu đối kháng nhau sẽ là kinh tế hơn là quân sự. Theo Luttwak, sức mạnh quốc gia trong kỷ nguyên địa kinh tế xuất phát từ vốn tư bản thay vì sức mạnh hỏa lực, đổi mới dân sự thay cho tiến bộ kỹ thuật quân sự và thâm nhập thị trường thay cho các đồn bốt và căn cứ…”
[4] KLAUS DODS, nguyên tác “Geopolitics”, bản dịch Việt ngữ: Địa chính trị. Dịch giả: Nguyễn Nguyên Hy, nxb. Tri Thức 2019, tr. 60.
[5] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ TRỌN BỘ, Cao Huy Du dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng. Nhà Xuất Bản Thời Đại 2013. Đại Việt sử ký Bản kỷ thực lục, Quyển XII, Kỷ Nhà Lê (Tiếp theo), tr. 610: (Vua huý là Tư Thành, lại huý là Hạo, con thứ tư của Thái Tôn, ở ngôi 38 năm, thọ 56 tuổi, chôn ở Chiêu Lăng. Vua sáng lập chế độ, văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dù Vũ đế nhà Hán, Tái Tôn nhà Đường cũng không hơn được…).
[6] NGUYỄN THỊ LINH, Champa từ cuối thế kỷ X đến cuối thế kỷ XV. Nguồn: http://thpt.daytot.vn/thuat-ngu/Lop-10/Champa-tu-cuoi-the-ki-X-den-cuoi-the-ki-XV-729.html
[7] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ- Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nhà Xuất Bản Văn Học 2017, tr. 466: “Trước đó, Người Chiêm Thành ở Thị Nại là Bàn La Trà Duyệt là con người vú nuôi, giết chúa hắn là Bí Điền, rồi cướp lấy nước mà truyền cho người em là Trà Toàn. Trà Toàn là đứa hung bạo làm càn, dối thần ngược dân, người Chiêm mưu phản, Toàn cũng không nghĩ chi đến, lại còn ngạo mạn kiêu căng, không sửa lễ tiến cống, lăng nhục sứ thần của triều đình, quấy nhiễu dân biên giới, lừa gạt người Minh để xin viện trợ mà sang ăn cướp…”
[8] Xem: Đế quốc Khmer. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%BF_qu%E1%BB%91c_Khmer
[9] Xem: Panduranga – Champa: Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Panduranga-Ch%C4%83m_Pa
[10] NGUYỄN THỊ LINH, Champa từ cuối thế kỷ X đến cuối thế kỷ XV. Nguồn: http://thpt.daytot.vn/thuat-ngu/Lop-10/Champa-tu-cuoi-the-ki-X-den-cuoi-the-ki-XV-729.html: “Chế Bồng Nga ra sức xây dựng quân đội, dồn tất cả nguồn lực cho hàng chục cuộc tiến công lên hướng Bắc. Trong 30 năm đã tiến hành trên 15 trận đánh lớn, và có khi chỉ trong 8 năm năm nào cũng đánh, có hai lần đến tận Thăng Long cướp phá, và trở về, lúc này ở Đại Việt đang là lúc mà nhà Trần suy yếu…”
[11] GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), Nguyễn Thế Phương dịch. NXB Hà Nội 2019. Lời Giới thiệu, tr. 8.
[12] Ibid. 02. Athens và Sparta, tr. 64.
[13] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ- Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nhà Xuất Bản Văn Học 2017, tr. 466-467.
[14] GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), Nguyễn Thế Phương dịch. NXB Hà Nội 2019. Dẫn Nhập, tr. 25: “Bẫy Thucydides nhắc tới một sự xáo trộn mang tính tự nhiên và không thể tránh khỏi xảy ra khi một thế lực đang trỗi dậy đe doạ thế chỗ thế lực đang thống trị. Điều nầy có thể xảy ra ở khắp mọi nơi. Thế nhưng, những tác động của nó trở nên đặc biệt nguy hiểm trong quan hệ quốc tế…”.
[15] “Sau khi kinh đô cũ Indrapura bị quân đội Lê Hoàn của Đại Cồ Việt tấn công và phá hủy năm 982. Triều đình Chăm Pa lánh nạn vào phương Nam. Lưu Kế Tông, một vị tướng của Lê Hoàn đã ở lại và cai trị khu vực bắc Chăm từ Quảng Bình vào Quảng Nam ngày nay. Ở phía Nam, người Chăm đã tôn một vị lãnh đạo của mình lên ngôi với tên hiệu là Harivarman II vào năm 988. Ông đã cho xây dựng Vijaya là quốc đô của mình. Sau cái chết của Lưu Kế Tông, người Việt rút lui khỏi vùng đất phía bắc, Harivarman II đã lấy lại và dời đô và kinh đô cũ Indrapura, tuy nhiên tới khoảng năm 999 vị vua kế tiếp là Sri Vijaya Yangkupu đã vĩnh viễn dời đô về Vijaya. Việc dời đô về Vijaya được Tống sử ghi lại khi đoàn sứ thần của Chăm Pa tới nhà Tống (Trung Quốc) vào năm 1005. Trong 5 năm thế kỷ là kinh đô, Vijaya phải chịu nhiều cuộc tấn công từ Đại Việt, Chân Lạp, Xiêm, Nguyên Mông. Người Khmer đã tấn công vào rất nhiều lần, có những thời gian Vijaya chịu sự cai trị của Chân Lạp từ 1145-1149 và 1190-1192. Xiêm La dưới thời vương triều Sukhothai cũng góp phần vào trận chiến năm 1313 nhưng sau đó đã rút lui bởi sự can thiệp của nhà Trần (Đại Việt), Nguyên Mông tấn công Vijaya và năm 1283. Nhưng nhiều nhất vẫn là các cuộc tấn công từ các vương triều Đại Việt, các thống kê cho thấy Vijaya bị tấn công từ Đại Việt vào các năm 1044, 1069, 1074 (nhà Lý), 1252, 1312, 1377 (nhà Trần), 1403 (nhà Hồ), 1446, 1471 (nhà Lê). Trận chiến tại thành Vijaya vào năm 1471 với quân đội nhà Lê (Đại Việt) cũng chấm dứt sự tồn tại sau 5 thế kỷ là quốc đô của Vijaya, Chăm Pa mất hoàn toàn miền bắc vào Đại Việt và lui về vùng phía nam đèo Cù Mông”. Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93_B%C3%A0n
[16] NGUYỄN THANH QUANG, Hoài Nhơn, Qui Nhơn, Qui Ninh, Bình Định, Đất và Người. NXB Văn Hoá – Văn Nghệ 2020. Bài 004: THÀNH HOÀNG ĐẾ MỘT ĐỊA ĐIỂM HAI LẦN KINH ĐÔ. Tr. 194.
[17] Ibid. Bài 005: KHÔNG GIAN “TỬ THÀNH” HOÀNG ĐẾ VẪN CÒN LÀ ẨN SỐ. Tr. 212-213.
[18] TIM MARSHALL, Những tù nhân của địa lý (Prisoners of Geography), PHAN LINH LAN dịch. NXB Hội Nhà Văn 2020, Lời Giới Thiệu, tr. 12-13.
[19] NGUYỄN THANH QUANG, LM. GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề về chữ Quốc Ngữ, nxb. Khoa Học Xã Hội 2020. Tr. 20: Chữ Quốc ngữ ở Nước Mặn. “Nước Mặn là một trong những trung tâm ra đời sớm nhất của chữ Quốc ngữ. Nước Mặn là một cảng thị phát triển nhất của phủ Qui Nhơn (Pulo Cambi, Bình Định) trong thế kỷ XVII – XVIII và là một trong những cảng thị hưng thịnh nhất của dinh Quảng Nam. Do vị trí giao thương thuận lợi, Nước Mặn là nơi quy tụ các sản phẩm của vùng đồng bằng và núi rừng Qui Nhơn, cả vùng Tây nguyên, qua sông Côn chuyển về, để giao thương trực tiếp với các thuyền buôn nước ngoài đến đây hoặc từ đây chuyển qua Hội An. Nước Mặn cũng là một trong những cơ sở quan trọng của các giáo sĩ phương Tây, nhất là Dòng Tên đến truyền giáo và học tiếng Việt, dùng chứ cái Latin ghi âm tiếng Việt. Từ năm 1618 tại Nước Mặn đã có mặt các giáo sĩ: Cristoforo Borri (1583-1632) người Ý (có người cho là người Bồ), Francisco de Pina (1585-1625) người Bồ, Francesco Buzomi (1576-1639) người Ý, trong đó Borri ở lại từ năm 1618 đến năm 1622, Pina từ năm 1618 đến năm 1620, Buzomi từ năm 1618-1623 (Theo Roland Jacques, sđd, tr.29, sau đó còn ở Đàng Trong). Tháng 7 năm 1618, Nước Mặn trở thành cư sở đầu tiên của các giáo sĩ Dòng Tên ở Đàng Trong”.
[20] NGUYỄN THANH QUANG, Hoài Nhơn, Qui Nhơn, Qui Ninh, Bình Định, Đất và Người. NXB Văn Hoá – Văn Nghệ 2020. Bài 002: Đàn Nam Giao đầu tiên của triều Tây Sơn, tr. 186: “…Niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 37, nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc bèn nhân nơi đó mà đóng đô, mở rộng cửa đông kéo dài tới 15 dặm, tường thành được đắp cao rồi xây bằng đá ong, bể cao tới 1 trượng 4 thước, bề dày 2 trượng, mở thêm một cửa thành ra 5 cửa, riêng phía trước có 2 cửa, bên tả là cửa Tân Khai, bên hữu là cửa Vệ Môn… Phía tây thành có đắp con đê Đỉnh Nhĩ để phòng nước lụt, phía tây nam có đàn Nam Giao để tế trời đất…”.
[21] Ibid., Phần III TÂY SƠN TAM KIỆT, tr. 179: “Năm 1771, anh em Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa phát triển thành một cuộc chiến tranh nông dân chiếm phủ thành Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Diên Khánh (Phú-Khánh), Bình Khang (Ninh Thuận), Bình Thuận, Quảng Nam… Năm 1785, từ Qui Nhơn, Nguyễn Huệ đem quân vào Nam, bằng chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút, quân đội Tây Sơn đánh tan 5 vạn quân Xiêm. Cuối năm 1788, Tôn sĩ Nghị đem 29 vạn quân Thanh xâm lược nước ta. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung, xuất quân ra Bắc… Trưa ngày mùng 5 Tết năm Kỷ Dậu – 1789, Quang Trung với chiếc áo bào nhuộm đen khói súng, trên mình voi chiến, dẫn đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long giữa sự hân hoan đón mừng của nhân dân 36 phố phường. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thanh là một trong những chiến công chống ngoại xâm vào loại hiển hách nhất của dân tộc ta”.
[22] Ibid. Phần IV. HOÀI NHƠN – BÌNH ĐỊNH ĐẤT VÀ NGƯỜI, Bài 043. Vị trí, vai trò, tiềm năng cảng Qui Nhơn xưa và nay, tr. 491: “Thương cảng Thị Nại của vương quốc Champa đã trở thành một điểm đến quen thuộc của các thương thuyền trên tuyến hải thương khu vực, là trung tâm liên khu vực, kết nối các trung tâm thương mại lớn của khu vực và quốc tế. Trong không gian duyên hải với điểm nhấn là cảng Thị Nại, đầm Thị Nại, còn có hệ thống thuỷ lộ, dòng sông Côn được coi như một sợi dây liên kết, một con đường chuyển vận văn hoá cũng như các mối giao thương về kinh tế giữa miền ngược và miền xuôi của vùng Vijaya (Bình Định)”.
[23] ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG, Đầm Thị Nại. Phần VI: Thị Nại trong lịch sử. Nguồn: trang web giáo phận Qui Nhơn: https://gpquinhon.org/q/van-hoa/dam-thi-nai-2032.html
[24] Ibid.:
Ngày 21 tháng chạp năm Giáp Thân (1284), 50 vạn quân Nguyên dưới quyền tổng chỉ huy của Thái tử Mông Cổ là Thoát Hoan (Tuo Huan), chia quân làm hai đạo: bộ binh do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy, tiến vào Lạng Sơn, giả tiếng mượn đường Đại Việt đi đánh Champa. Thủy quân do Toa Đô (Suo Du) dẫn đầu, gồm 1000 chiến thuyền và 10 vạn quân, từ Quảng Châu tiến thẳng vào đầm Thị Nại của Chăm quốc. Vị trí tiền tiêu bảo vệ kinh đô Đồ Bàn là thành Thị Nại nằm bên bờ sông Gò Tháp, thuộc Nam Phái [16] sông Côn, ở địa phận xã Phước Hoà, túc trực 1 vạn quân, có trang bị voi chiến, chặn các đường hiểm yếu không cho quân Nguyên tiến vào kinh đô. Toa Đô đánh mãi không được, đành phải bỏ Thị Nại, theo đường bộ vào Đại Việt, đến Nghệ An, rồi rút ra Bắc, định họp quân với Thoát Hoan, nhưng bị bao vây ở Tây Kết (một làng nhỏ ở bờ sông Hồng), trúng tên, bỏ thây ở chiến trường.
Năm Đinh Tỵ (1377), vua Trần Duệ Tông (1373-1377) đem 12 vạn quân đi đánh Champa. Ngày 23 tháng giêng, đại quân tiến vào cửa Thị Nại, lấy đồn Thạch Kiều, chiếm động Kỳ Man (động cát ở chân núi Xuân Quang, gần Gành Ráng và Qui Hoà). Quân ta đang đắc thắng thì vua Chăm là Chế Bồng Nga giả kế trá hàng. Đại tướng Đỗ Lễ biết mưu gian của địch, can vua Duệ Tông, nhưng vua không nghe, bảo rằng: “Dụng binh quý như thần tốc. Nay nếu dừng lại không tiến, thì thực là trời cho mà không lấy, để nó lại cơ mưu khác thì hối sao kịp. Ngươi chính là hạng đàn bà.” [17]. Rồi nhà vua cho tiến quân ào ạt đến Đồ Bàn. Quân Chăm phục kích sẵn ở chỗ hiểm yếu, bất thần bốn mặt giáp công, khép chặt vòng vây. Quân ta tuy đông nhưng không phòng bị nên thua to. Vua Trần Duệ Tông tử trận, quân sĩ chết hai phần còn một, phải mở đường máu mới thoát được.
[25] Ibid.:
Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông (1054-1072) thân chinh đi đánh Champa. Từ Thăng Long, đại quân ta đi ngót 26 ngày đường biển mới đến đầm Thị Nại. Viên Tổng tư lệnh Chăm là Bố-bì-đà-la dàn trận trên bờ sông Tu Mao (một nhánh của sông Côn). Lý Thường Kiệt đánh tan lực lượng tiền phương và giết được Bố-bì-đà-la, rồi vượt thêm hai sông nữa (cũng thuộc sông Côn) để tới Đồ Bàn. Vua Chăm là Chế Củ (Rudravarman IV) bỏ kinh đô chạy về miền Nam. Lý Thường Kiệt đem quân đuổi theo suốt một tháng trời, đến tận biên giới Chân Lạp. Vua Chăm và 5 vạn quân dân bị bắt. Tháng 7 năm ấy, Lý Thánh Tông về đến Thăng Long với ca khúc khải hoàn, giải theo vua Chăm và quyến thuộc. Sau Chế Củ dâng 3 châu: Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh [15] mới được tha cho về nước. Đây là lần đầu tiên đầm Thị Nại có tên trong quân sử Đại Việt.
[26] Ibid.:
Năm Canh Dần (1470), Hồng Đức nguyên niên (洪 德), vua Chiêm là Trà Toàn sai sứ sang cầu viện nhà Minh, rồi cho quân ra cướp phá đất Hoá Châu. Vua Lê Thánh Tông xuống chiếu huy động 26 vạn tinh binh và tự cầm quân chinh phạt Champa. Sau trận đại thắng ở Sa Kỳ (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi), hạ tuần tháng 2 năm Tân Mão (1471) thủy quân ta tiến vào đầm Thị Nại. Ngày 27 tháng 2, vua Lê Thánh Tông chỉ huy đánh chiếm thành Thị Nại. Ngày 28, kinh đô Đồ Bàn của vương quốc Champa bị vây hãm, đến mùng 1 tháng 3 thì hạ thành, bắt sống Trà Toàn và hoàng gia. Từ đấy, đầm Thị Nại và cả miền đất Vijaya đến đèo Cù Mông, vĩnh viễn thuộc về Đại Việt.
[27] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ- Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nhà Xuất Bản Văn Học 2017, tr. 469-472.
[28] Ibid. Tr. 471-472.
[29] “… Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt nam từ khoảng năm 200 công nguyên. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng…”.
Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Ch%C4%83m_Pa
[30] TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG, Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802, nxb. Tri Thức 2016, tr. 323-325.
[31] HÀ VĂN THƯ – TRẦN HỒNG ĐỨC, Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, nxb. Văn Hoá Dân tộc 2016, tr. 210 – 224: “… Như vậy, triều Tây Sơn kể từ vua Thái Đức đến hết Cảnh Thịnh (1778 – 1802) tồn tại được 24 năm”.
[32] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Mục “TÀI LIỆU THAM KHẢO”, tr. 421 – 439.
[33] Ibid. Chương I, Thời kỳ Tây Sơn và thế kỷ XVIII ở Đại Việt. Tr. 55.
[34] Ibid., tr. 91 (x. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, tr.173)
[35] Ibid., tr. 94-95: “Trong quá trình hành động nầy, ông ta nhận được sự khích lệ của một người thầy giáo cũ tên Trương văn Hiến, vốn là một người tị nạn khỏi chính quyền nhà Nguyễn do Trương Phúc Loan chế ngự. Hiến thúc dục Nhạc tự xem như mình được sinh ra để thực hiện lời tiên tri lâu năm tại địa phương: tây khởi nghĩa, bắc thu công. Ông thầy gợi ý rằng từ “tây” trong lời tiên tri có liên quan đến Tây Sơn là tên ngôi làng của ba anh em Nguyễn Nhạc.”
[36] Ibid., tr. 137: Danh sĩ nổi tiếng Nguyễn Thiếp vào thế kỷ XVIII khi ông nhận định rằng: “sự huỷ diệt đất nước và gia đình xảy ra do sự bại hoại của đạo đức làm người, do những nhà cai trị tầm thường, và do những quan lại chỉ biết xu nịnh họ…”; … Ngô Thì Nhậm thì nhận xét rằng: “Trời trông, trời nghe do ở dân. Lòng dân yên định thì ý trời cũng xoay chuyển”.
[37] NGUYỄN THANH QUANG, Hoài Nhơn, Qui Nhơn, Qui Ninh, Bình Định – Đất và Người, nxb. Văn Hoá – Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh 2020; Phần III TÂY SƠN TAM KIỆT, Bài 001: Tây Sơn – Vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, tr. 182-183: “… đoạn núi trường sơn nầy nằm chính hướng tây, cho nên mệnh danh là dãy Tây Sơn. Vì núi mệnh danh là Tây Sơn, nên những vùng sơn cước ở quanh núi và vùng bình nguyên ở dưới núi cũng mệnh danh Tây Sơn. Người xưa gọi là Tây Sơn ấp… Trong dãy có nhiều ngọn cao lớn, trông đồ sộ hiên ngang và liên hệ mật thiết với nhau chẳng những về phương diện địa lý vì cùng một sơn mạch mà còn liên hệ về lịch sử - lịch sử nhà Tây Sơn. Nhà Tây Sơn, trước khi khởi nghiệp đã dùng dãy núi Tây Sơn làm căn cứ quân sự. Và đạo quân tiên phong hầu hết người miền núi… Ba dãy núi ảnh hưởng với nhau, hỗ trợ lẫn nhau về mặt khí thế, hoà hợp với nhau, bổ khuyết cho nhau về màu sắc đường nét. Dãy này bổ trợ dãy kia, dãy kia bổ trợ dãy nọ, tương y tương ỷ, tạo Bình Định thành một nơi thiên hiểm về mặt quân sự, thành một bức tranh tú vĩ hùng kỳ của đất nước…”
[38] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Chương I, Thời kỳ Tây Sơn và thế kỷ XVIII ở Đại Việt, tr. 95 – 96: “Vùng An Khê mà ba anh em Tây Sơn lui về là một địa điểm lý tưởng cho những người cầm đầu một cuộc khởi loạn khi họ tìm cách giành lấy sức mạnh và người ủng hộ. Nó tương đối xa, chỉ có thể tiếp cận được bằng một con đường nhỏ hẹp và nguy hiểm, dễ dàng chống lại các cuộc tấn công của quân nhà Nguyễn. Vùng cao nguyên nầy nằm giữa những con đường thương mại quan trọng trải dài từ cảng biển Qui Nhơn ở phía tây đến lãnh thổ của Chân Lạp và vùng nam Lào, mở đường cho hàng hoá chuyên chở dọc theo chúng. An Khê cũng là một khu vực giàu tài nguyên có thể cung cấp cho anh em Tây Sơn các thứ gỗ, sắt, sulphur, ngựa và voi… Ưu thế của vị trí của họ giúp ba anh em đạt được vài thắng lợi ban đầu ở các vùng phụ cận, rút kinh nghiệm chiến đấu, tăng cường uy tín, trong khi ít nguy cơ hơn. Tuy nhiên, cuối cùng thì Nguyễn Nhạc quyết định là đạo quân của ông ta đã sẵn sàng đi xuống đồng bằng và thách thức trực tiếp quân nhà Nguyễn…”.
[39] BRIAN EYLER, Những ngày cuối của dòng Mekong hùng vĩ, Nguyễn Đình Huỳnh dịch, nxb. Phụ Nữ Việt Nam 2020, tr. 16-17: “Trong tác phẩm quan trọng năm 2009 The Art of Not Being Governed (Nghệ thuật để không bị trị), Scott đặt tên cho vùng cao nầy của Trung Quốc và Đông Nam Á là Zomia. Quân đội đồng bằng bạo ngược không thể đưa xe cộ và vũ khí lên đồi núi tấn công những người ẩn náu ở đó. Rừng có nhiều tài nguyên thiên nhiên có thể làm thức ăn và việc giao dịch mua bán giúp duy trì sinh kế và bản sắc của những người này. Điều này giúp cho các nhóm sắc tộc ở Zomia giao dịch độc lập và ình đẳng với các vương quốc đồng bằng theo điều kiện của họ và phần nào giữ được khoảng cách…”.
[40] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Chương I, Thời kỳ Tây Sơn và thế kỷ XVIII ở Đại Việt, tr. 77: “Thêm vào đó, sự mở rộng quyền lực chính trị về phía nam có nghĩa là các chúa Nguyễn ở một chừng mực nào đó đã bị cô lập về mặt vật chất với các phần lớn vương quốc của họ, một vùng đất rộng lớn nằm ở phía nam đèo Hải Vân, thuộc đất Quảng Nam. Những vùng đất mới do chúa Nguyễn Công bố chủ quyền là nơi cư trú của những nhóm người pha tạp, hay đổi đời, có mối quan hệ lỏng lẻo với kinh đô Phú Xuân. Như chúng ta đã biết, khu vực quanh Qui Nhơn được dành làm nơi cư trú của những tù nhân chính trị phía bắc cũng là quê hương của những người còn sót lại của vương quốc Chăm, trong khi có nhiều nhóm người vùng cao sống sát cạnh trung tâm của cuộc nổi dậy ở ấp Tây Sơn. Khi nhà Nguyễn tìm cách nới rộng ảnh hưởng trong khu vực, họ tác động đến quyền lợi chính trị của người Chăm và người vùng cao tại địa phương, song cả hai nhóm người nầy sẽ sớm thành những nhóm ủng hộ cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn”.
[41] Ibid., tr. 97 (x. P. Lorenzo Perez, “La Révolte et la guerre des Tayson d’après les franciscains Espagnols de Cochichine”, tr.74)
[42] Ibid., tr. 155.
[43] NGÔ THÌ CHÍ, Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Ngô Tất Tố dịch, Tự Do tái bản, 1958, tr. 252: “Nguyễn Huệ là bậc lão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam thật là xuất quỷ nhập thần. Không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn cả sấm sét…”. (x.
[44] Đại nam Chính Biên Liệt truyện sơ tập, quyển 30, tờ 17b: “Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, giảo, kiệt, thiện chiến, ai cũng phải sợ… Bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy dốc lòng vâng mệnh”.
[45] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Phần Dẫn Nhập, tr. 32.
[46] BAN CHỦ BIÊN TẬP SAN SỬ ĐỊA, Đặc khảo về Quang Trung Nguyễn Huệ. NXB. Hồng Đức – Tạp chí Xưa và Nay 2016. Bài: Những điểm đặc biệt về Nguyễn Huệ của Phạm Văn Sơn, tr. 440
[47] SĐD (GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Chương III: Giới nông dân - Đời sống dưới chính quyền Tây Sơn. tr. 226-311.
[48] TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG, Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802, nxb. Tri Thức 2016, tr. 256-263.
[49] Ibid., tr. 145-147.
[50] Ibid., tr. 190-191.
[51] Ibid., tr. 254-255.
[52] Ibid., tr. 255-256.
[53] Ibid., tr. 280-281.
[54] Ibid., tr. 305.
[55] Ibid., tr. 309-311.
[56] Ibid., tr. 321: “Đường nước bên trong đầm đã hẹp mà Vũ Văn Dũng đem hai chiếc Định quốc Đại hiệu thuyền chở từ 50 đến 60 khẩu đại bác chắn ngay cửa với dày đặc bên trong là 40 tàu lớn, 20 tàu nhỏ, 100 ghe chiến đậu san sát đến cửa sông đưa vào Nước Mặn. Ông còn đặt đại bác trên núi Tam Toà, tên đất liền, bãi Nhạn (phía thành phố Quy Nhơn bây giờ) dựa vào núi cao chĩa xuống bảo vệ đoàn thuyền trấn giữ. Trên bộ còn hơn 60 voi với quân lính”.
[57] Ibid., tr. 315-316.
[58] Ibid. (x. Việc xây dựng thuỷ quân của Nguyễn Ánh: (SĐD) tr. 230 – 232)
[59] Ibid., tr. 319.
[60] Ibid., tr. 323.
[61] Ibid., tr. 324 (Phần ghi chú).
[62] Ibid., tr. 328-338.
[63] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016, tr. 121
[64] Ibid., tr. 414. (x. Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802 của Tạ Chí Đại Trường, tr. 332-339).
[65] PHAN HUY LÊ, BÙI ĐĂNG DŨNG, PHAN ĐẠI DOÃN, PHẠM THỊ TÂM, TRẦN BÁCH, Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, nxb. Hồng Đức 2019. Chương V Chiến tháng Rạch Gầm – Xoài Mút, tr. 215-241.
[66] TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG, Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802, nxb. Tri Thức 2016, tr. 324-325.
Trương Đình Hiền
Vào chuyện:
Ngày nay, khi bàn đến các lãnh vực kinh tế chính trị trên thế giới, người ta thường sử dụng thuật ngữ “địa chính trị” (Geopolitics)[2] hay “địa kinh tế” (Geo-economics)[3] để chỉ những mối tương quan, những ảnh hưởng, giao thoa, những sức mạnh và điều kiện tương tác, áp lực… lên nhau và lẫn nhau của các quốc gia, các châu lục, các vùng lãnh thổ, các khối kinh tế-văn hoá-tôn giáo, các hệ thống chính trị…
Vì thế, chương trình “vệ quốc và kiến quốc” của bất cứ quốc gia dân tộc nào cũng đều liên quan mật thiết đến “địa chính trị”; nói cách khác, sự ổn định và phát triển, tồn tại hay biến mất của một quốc gia luôn kèm theo vấn đề “lãnh thổ” hay “không gian sống” và những vị trí chiến lược trên đó, như Klaus Dods phát biểu: “Một nhà nước mạnh mẽ và thành công sẽ không bao giờ thoả mãn với những giới hạn đang có, và sẽ tìm cách bành trướng về lãnh thổ và bảo đảm “không gian sống” (living space)…Tìm kiếm không gian sống là một quy luật Địa chính trị cơ bản và không thể thay đổi – theo đúng nghĩa đen, là một thực tế của cuộc sống trên trái đất”[4].
Nhờ được hội tụ các yếu tố chủ lực rất thuận lợi về phương diện “địa chính trị” cũng như “địa kinh tế” như: sở hữu nhiều vị trí chiến lược về giao thương (đường bộ, đường hàng không cũng như đường biển), cường quốc dân số, ổn định chính trị, ngôn ngữ và văn hoá mang tính hội nhập cao, truyền thống kiến quốc và vệ quốc thành công, trình độ dân trí phát triển…, trải qua nhiều thế kỷ, đặc biệt, kể từ thế kỷ 21 nầy, Việt Nam trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều thế lực trong bang giao quốc tế.
Thật vậy, không phải chỉ thời nay, giải đất hình chữ S với Biển Đông bao bọc nầy, mà suốt chặng đường 20 thế kỷ qua, đã là vùng “địa chính trị” từng diễn ra những cuộc tranh chấp, binh biến, xâm lăng, đô hộ; những cuộc chiến tranh sinh tử, một mất một còn, giữa các quốc gia Trung Quốc, Việt Nam, Champa, Chân Lạp Khmer, Xiêm….
Vào đầu thế kỷ 19, sau khi tiêu diệt Nhà Tây Sơn (1802), thu giang sơn về một mối, cơ bản Triều Nguyễn Gia Long đã kiến tạo nên một đất nước Việt Nam thống nhất như chúng ta đang thấy hôm nay. Tuy nhiên, để có được một giải đất hình chữ S duyên dáng bên bờ Biển Đông, một đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập, phồn thịnh hoà bình như hôm nay, muôn thế hệ người Việt chúng ta đã phải trả cái giá máu xương và mồ hôi nước mắt không nhỏ cho công cuộc “vệ quốc và kiến quốc” lẫy lừng trải qua “những ngàn năm lịch sử”.
Nếu đặt công cuộc “vệ quốc và kiến quốc” nầy trong lăng kính “địa chính trị” hôm nay, chúng ta sẽ thấy hiện lên những địa danh, vị trí chiến lược, có thể nói được, là yếu tố quyết định cho một triều đại, một hệ thống chính trị một thời của Việt Nam. Trong số đó phải kể đến THỊ NẠI - QUI NHƠN, một địa danh, một vị trí chiến lược, mà nếu đế quốc Champa giữ được trong trận nam tiến của vua Lê Thánh Tôn năm 1471 thì “Đồ Bàn sẽ không bị xoá tên” và sẽ không có BÌNH ĐỊNH-QUY NHƠN của Việt Nam như hôm nay. Cũng vậy, nếu nhà Tây Sơn không bị đại bại trong trận hải chiến kinh hoàng với hạm đội của Nguyễn Ánh trong đêm “Thị Nại đẫm máu năm 1801”, thì liệu Bắc, Trung, Nam đã về một mối hay chưa; hoặc giả, diện tích Việt nam có thể rộng gấp đôi bây giờ?
Chính trong cái nhìn đó, xin đóng góp vài gợi ý suy tư trong chủ đề “QUI NHƠN-THỊ NẠI TRONG CHIẾN LƯỢC VỆ QUỐC VÀ KIẾN QUỐC”.
I. ĐỒ BÀN - THỊ NẠI: YẾU HUYỆT VÀ CƠ ĐỒ
Trong vòng 200 năm, từ đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 15, dãi đất dọc theo bờ Biển Đông mang dáng hình chữ “S” mà hôm nay chính là vùng lãnh thổ của nước Việt Nam ta đã từng là vùng đất của ba quốc gia lúc thịnh lúc suy mà “tương quan chiến tranh” chiếm thời gian gần như nhiều hơn “tương quan hoà bình”:
- Phía bắc là Đại Việt với các vua triều Lê mà mạnh nhất là triều đại của vị minh quân Lê Thánh Tôn (1460-1497)[5].
- Phía trung là Champa, cực thịnh thời vua Chế Mân (Jaya Sinhavarman IV trị vì từ năm 1285 đến năm 1305), suy yếu dần thời Chế Bồng Nga (Po Binnosuor, khoảng từ năm 1328 đến năm 1373)[6], và bị suy vong thời Trà Toàn (? – 1741)[7].
- Phía nam là Chân Lạp (Khmer), một đế quốc hùng mạnh với một lãnh thổ bao la, rực rỡ vào các triều vua Jayavarman VIII (trị vì 1243-1295), Srindravarman (trị vì 1295-1309) )…, để rồi suy tàn sau khi người Thái (Ajutthaya) chiếm thánh địa Angkor và người Champa giành lại những vùng đất phía nam trù phú[8].
Tuy nhiên, “bản đồ của 3 vương quốc bên bờ Biển Đông” đó gần như đã được vẽ lại hoàn toàn sau biến cố lịch sử: chiến dịch “Bình Chiêm năm 1471” của quốc vương Đại Việt, Lê Thánh Tôn; và thời điểm đó cũng là cột mốc ghi nhận vương quốc Champa hùng mạnh một thời ở Đông Nam Á đã trở thành một “nhược quốc” khiêm tốn trấn thủ vùng Panduranga (Phan Rang, Bình Thuận) cho đến khi chính thức bị xoá tên trên bản đồ thế giới vào thế kỷ 17 dưới triều các vua nhà Nguyễn của Việt Nam[9].
1. Từ bài học chiến dịch “Bình Chiêm 1471”:
1.1. Một thoáng nguyên nhân:
Như đã nói trên, vương quốc Champa thời Trà Toàn tương ứng với Đại Việt thời vua Lê Thánh Tôn; và tương quan chính trị giữa vương triều Đại Việt phương bắc và Chiêm Thành phía nam, vốn đã xấu đi từ thời Chế Bồng Nga[10], đã trở thành hai thế lực đối đầu “một mất một còn” kể từ khi Trà Toàn thay thế bào huynh Trà Duyệt lên ngôi vương đế.
Ngoài yếu tố “con người” như cách nhận định của sử liệu “ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ” đã dẫn (Ghi chú 7), cuộc chiến sống còn của hai vương quốc kề nhau Việt – Chiêm, như cách nhận định của Graham Allison, “Đó là cuộc chiến được dẫn dắt và thúc đẩy bởi những yếu tố mang tính ‘định mệnh’, hầu như không thể tránh khỏi”[11]; và đây cũng là ý kiến mà tác giả trên đã căn cứ nơi tác phẩm của một văn hào thời Hy Lạp cổ: Cuốn “Lịch sử chiến tranh Peloponnese” của Thucydides, trong đó, có một câu phát biểu đã trở thành một biểu ngữ “bẫy Thucydides”: “Chính sự trỗi dậy của Athens và nỗi sợ hãi mà nó gây ra ở Sparta đã khiến chiến tranh trở thành điều cốt yếu”[12].
Và tất cả những điều trên gần như bàng bạc trong “Sắc chiếu bình Chiêm” của vua Lê Thánh Tôn mà chúng ta có thể đọc thấy qua vài trích dẫn: “Khi Nhân Miếu lên ngôi cả, thì giống loài chúng đã rất đông. Nương chốn Cổ Luỹ như hang cầy, cậy thành Chà Bàn như tổ kiến. Điên cuồng mất trí, nó xưng bừa là cha chú, gọi đức vua ta là cháu con; mất đức ra oai, lại nhận liều là trời phật, coi nước ta là tôi tớ. Tội ác chất chồng, giấu sao cho nổi? Những lời lăng nhục không thể nêu tường… Trẫm thể lòng thượng đế, nối chí vua cha. Giết kẻ thù chín đời theo nghĩa Xuân thu, định mưu kế vạn toàn cho yên đất nước. Cứu muôn dân thoát khỏi vòng điêu đứng, dẹp nước loạn đã trái đạo lâu năm. Đánh phản nghịch, cứu sinh dân, thánh triết phải tỏ bày uy vũ; trồng mầm nhân, nhổ cội ác, đất trời cũng lấy đó làm lòng…”[13].
Và cả hai đã rơi vào cái “bẫy Thucydides”[14] mà chiến trường quyết định lại là chính đế đô của vương quốc Champa lừng lẫy một thời !
1.2. Đồ Bàn: viễn tượng “địa chính trị”
1.2.1. Quốc đô của hai vương quốc:
Từ thế kỷ thứ 10 đến 15, có thể nói được vương quốc Champa đã trải qua những thăng trầm dâu bể mà dấu ấn lịch sử ghi đậm qua ba tên gọi cũng là ba “quốc danh” hay “quốc đô”: Indrapura (Đồng Dương) phía bắc (Quảng Nam tới Quảng Bình); Vijaya (Chà Bàn hay Đồ Bàn) miền trung (Bình Định tới Quảng Ngãi); và Panduranga (Phan Rang tới Bình Thuận). Riêng kinh đô Vijaya (Đồ Bàn) là trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị quan trọng nhất và tồn tại xuyên suốt năm thế kỷ, cho đến khi thất thủ và thuộc về Đại Việt trong trận đại chiến năm 1471[15]. (x. Đồ Bàn. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93_B%C3%A0n).
Chắc chắn, cũng vì chiếm vai trò quan yếu trong vị thế “địa chính trị” đó, nên hơn 300 năm sau, Nhà Tây Sơn đã quyết chọn chính vùng lãnh địa nầy để phát khởi cơ đồ và xây dựng quốc đô mang tên “Hoàng Đế Thành”, như nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Quang ghi nhận: “Trên cùng một địa điểm, lần lượt hiện diện hai toà thành của hai vương triều, hai tộc người cách nhau hơn 300 năm, với hai tên gọi: Đồ Bàn (Champa), Hoàng Đế (nhà Tây Sơn), cùng giữ vai trò kinh đô trong mỗi giai đoạn lịch sử…”[16].
Nhưng để có một khái niệm tổng quát nhưng cũng khá đầy đủ về “vị thế chiến lược” của “Đồ Bàn”, chúng ta có thể đọc lại cách mô tả của tác giả Nguyễn Thanh Quang, một nhà nghiên cứu chuyên sâu về “Qui Nhơn-Bình Định học”:
“Việc xây dựng kinh thành Đồ Bàn cho thấy rằng: người Chăm xưa rất giỏi trong việc sử dụng và kiến tạo địa hình. Một tài liệu viết thời vua Thành Thái “Thành Chà Bàn (Đồ Bàn), dựa vào núi Long Cốt để làm thế vững. Thành hình vuông rộng hơn 10 dặm, mở 4 cửa, xây bằng gạch, rào gỗ, tuy không có hào rãnh mà vẫn kiên cố…”.
H. Parmentier – một kiến trúc sư người Pháp, sau khi khảo sát nghiên cứu, viết về thành Đồ Bàn như sau: “Trên đường cái quan cách thành Bình Định mươi cây số, thấy vết tích một khu thành Chàm, mà kích thước được xếp hàng đầu trong số những công trình quân sự của dân tộc này… Một nhánh sông Bình Định bảo vệ phía Bắc… Tường bằng đất ốp đá ong… tòa thành được tạo bởi những gò đất có tính toán…”. Mặt khác, thành Đồ Bàn còn có tấm lá chắn vững chắc bảo vệ mặt biển, trấn giữ cảng Thị Nại (một thương cảng lớn lúc bấy giờ), cách thành Đồ Bàn khoảng 10km, đó là thành Thị Nại.
Địa thế kinh đô Đồ Bàn cũng chính là địa thế của thành Hoàng Đế được Nguyễn Văn Hiển nhận xét: “Thành Đồ Bàn được xây dựng vào trung tâm của nước, tựa vào thế vững của núi Long Cốt, non xanh bày hàng trước mặt, nước biếc uốn réo xung quanh… bên hữu lấy núi Phong làm lũy, bên tả lấy bể làm hào; núi Cù Mông như rồng cuộn khúc ở phía trước; bến Thạch Tân như cọp hùng cứ ở mặt sau, quả là nơi hiểm trở thiên nhiên vậy”.
Thành Hoàng Đế có quy mô lớn nhất trong hệ thống thành cổ Việt Nam còn đến nay (có chu vi 7.575m). Được coi là nơi “thắng địa”, vị trí cao thoáng, lấy núi Mò O làm tiền án phía Đông, núi Tam Sơn làm lá chắn phía Nam, phía Tây là những dải đồi thấp nối tiếp nhau trải dài tạo tấm lá chắn giăng trước lũy. Ba mặt thành, phía xa là các dòng sông uốn lượn như hào tự nhiên che chắn. Thành được xây dựng trên thế đất hội tụ núi sông liền kề, liên kết điệp trùng, vừa có thế công vừa có thế thủ…”[17].
1.2.2. Miền đất định hình:
Đồ Bàn, thực ra, không chỉ dừng lại ở tầm mức “giá trị chiến lược quân sự” mà, theo cách đánh giá chuyên môn về “địa lý”, còn là “miền đất định hình” toàn bộ cấu trúc xã hội: “Miền đất chúng ta sống vẫn luôn định hình chúng ta. Nó định hình những cuộc chiến tranh, quyền lực, những phát triển về chính trị và xã hội của những dân tộc hiện giờ đang cư trú trên mọi phần của địa cầu (…); không chỉ là cảnh quan tự nhiên – như những rào cản tự nhiên của núi non hoặc sự kết nối của mạng lưới sông ngòi – mà còn cả về khí hậu, nhân khẩu, các khu vực văn hoá và khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các nhân tố như vậy có thể tác động quan trọng đến nhiều khía cạnh khác nhau của nền văn minh, từ chiến lược chính trị và quân sự cho đến sự phát triển xã hội con người, bao gồm cả ngôn ngữ, thương mại và tôn giáo”[18].
Nhận xét trên quả thật không ngoa, khi 200 năm sau, chính vùng đất nầy, đúng hơn, vùng ngoại biên phía đông, đã được các vị tiên vương triều Nguyễn chọn cảng biển Nước Mặn là trung tâm giao thương chiến lược ở tuyến đầu biên giới phía nam; riêng các nhà truyền giáo Kitô giáo phương Tây, cũng đã chọn nơi đây là trung tâm truyền giáo chính thức và cũng là cư sở đầu tiên để kiến tạo chữ Quốc ngữ[19]. Và sau đó một thế kỷ nữa, những “anh hùng áo vải Tây Sơn” đã chọn miền “phế tích Đồ Bàn” để xây dựng “Thành Hoàng Đế”[20], trung tâm của một vương triều, cho dù chỉ tồn tại có mấy chục năm (1771-1802), nhưng đã làm nên một “đế chế oai hùng” của dân tộc Việt vào thế kỷ 18, với những cuộc chiến thắng lẫy lừng quân Thanh phía bắc và quân Xiêm phía nam[21].
1.3. Thị nại thành: Hệ thống phòng thủ đắc địa:
Nếu nhắc đến địa danh Đồ Bàn, quốc đô của vương quốc Champa và sau đó, trên phế tích của “Đồ Bàn” là “Hoàng Đế Thành” của vua Thái Đức nhà Tây Sơn, thì không thể không đề cập tới Thị Nại, một thương cảng[22] và quân cảng quan trọng bậc nhất của cả hai triều đại trên; đây cũng là “vị trí chiến lược”, một bức “phên dại thiên nhiên” cũng là yếu huyệt để che chắn cho thành Đồ Bàn thời Champa hay Hoàng Đế thành, Qui Nhơn thành thời Tây Sơn.
Chúng ta có thể đọc lại đôi dòng giới thiệu về vị trí chiến lược của Thị Nại trong một khảo luận khá chuyên sâu về của tác giả Đào Đức Chương: “Vào cuối thế kỷ thứ 10, vua Chăm là Hari Varman II (988- 998), dời đô đến miền Bắc Vijaya, lập kinh thành Đồ Bàn, nay là thôn Bắc Thuận và Nam Tân (tức thôn Nam An cũ thuộc phạm vi thành, hợp nhất với Tân Ninh) thuộc xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn. Kinh đô mới có địa thế phòng thủ tốt. Ba mặt Tây, Nam, Bắc đều được núi non che chở, phía Đông là đồng bằng có núi Long Cốt (cao 43 mét) làm tiền án ngó ra đầm Thị Nại. Vì vậy, muốn chiếm Đồ Bàn phải tiến quân vào Thị Nại, yết hầu của kinh đô. Nơi đây kín đáo, có thể chứa cả ngàn chiến thuyền, thuận tiện cho việc đổ bộ cùng lúc hàng vạn quân. Bởi ưu thế đó, Thị Nại đã gắn liền với lịch sử qua những trận đánh lớn, một mất một còn. Theo Việt Sử Tân Biên và các tài liệu sử khác, ngót 10 thế kỷ qua, đầm Thị Nại ít nhất cũng đã 12 lần có mặt trong quân sử”[23].
1.4. Tan yếu huyệt, mất cơ đồ.
Trong thời vương quốc Champa, cảng Thị Nại trải qua bốn cuộc đại thuỷ chiến; trong số đó có hai lần chiến thắng nghiêng về Champa[24] và hai lần Champa đại bại[25]. Riêng lần sau cùng khai diễn vào năm Canh Dần (1470) và kết thúc vào năm Tân mão (1471) trong chiến dịch “Bình Chiêm sách” của vua Lê Thánh Tôn, khi tiền đồn Thị Nại vỡ trận cũng là lúc Đồ Bàn thất thủ sau đó không lâu[26]. (x. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)[27].
Có thể nới được, vương quốc Champa một thời lừng lẫy với kinh đô Đồ Bàn và quân cảng Thị Nại bị xoá tên từ năm 1471. Vùng đất nầy chính thức trở thành Thừa Tuyên Quảng Nam thuộc Đại Việt. Vua Champa là Trà Toàn bị bắt mang về kinh; sau mấy tháng lâm bệnh chết và bị chém bêu đầu như một tên tội phạm. Một bộ tướng của Trà Toàn là Bô Trì Trì mang theo một nhóm tàn quân vào cát cứ tại Phan Rang tái lập quốc và xin triều cống nhà Lê như một tiểu quốc ngang tầm với Nam Bàn và Hoa Anh lúc bấy giờ[28].
Phải chăng vì biết vận dụng hiệu quả các “yếu điểm chiến lược” của Thị Nại mà người Champa đã hai lần chiến thắng cuộc xâm lược của nhà Minh (1284) và nhà Trần (1377), giữ vững kinh đô Đồ Bàn. Trong khi đó, với sự chủ quan và sơ hở nhiều mặt, triều đình Champa của Trà Toàn đã để mất Thị Nại, dẫn đến “Đồ Bàn thất thủ”; từ đó, coi như vương quốc hùng mạnh Champa điêu tàn. Đúng là: khi “yếu huyệt đã tan” thì “cơ đồ cũng diệt vong” !
2. Đến kinh nghiệm “Hải chiến 1801”:
Như đã nêu trên, triều đình Trà Toàn của vương quốc hùng mạnh Champa, khi để mất Thị Nại – Đồ Bàn, đã vĩnh viễn làm sụp đổ cơ đồ của một vương quốc mà theo dấu chứng của “Văn hoá Sa Huỳnh”, đã xuất hiện và tồn tại cả ngàn năm lịch sử[29]. Và lịch sử đã lặp lại sau đó 300 năm với triều đại Tây Sơn mà cuộc “hải chiến kinh hoàng đêm 16 tháng Giêng năm Tân Dậu” (28.02.1801)[30] tại quân cảng Thị Nại như là một “hồi chuông báo tử” cho một vương triều ngắn ngủi nhưng lẫy lừng và hùng mạnh vào hạng bậc nhất của các triều đại Phong kiến Việt Nam[31].
2.1. Một thoáng Tây Sơn:
Chuyên đề “lịch sử về Triều đại Tây Sơn” được biên soạn và nghiên cứu rất nhiều và phong phú, cả xưa và nay, cả nội địa lẫn hải ngoại, của tác giả người Việt lẫn người ngoại quốc, với nhiều thể loại: biên niên sử liệu, chuyên đề nghiên cứu, hồi ký, tường trình, tiểu thuyết, truyện ngắn…. Riêng tác giả George Dutton, Giáo sư Ngôn ngữ và Văn hoá châu Á thuộc trường Đại học California tại Los Angeles (UCLA), Hoa Kỳ, chỉ trong một tác phẩm “Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn” (The Tây sơn uprising) đã liệt kê tới 218 tác phẩm và tài liệu tham khảo liên quan; trong đó có 117 danh mục Việt ngữ và 101 danh mục ngoại ngữ[32].
Ở đây, trong bài nhận định mang tính “gợi ý suy tư” nầy, chỉ xin dừng lại một số sự kiện liên quan đến biến cố mang tính “bước ngoặc” dẫn tới sự sụp đổ của triều đại Tây Sơn: cuộc thảm bại trong trận hải chiến Thị Nại 1801 của hải quân Tây Sơn.
Tuy nhiên, để có một kết luận khách quan và tương đối chuẩn xác cho sự kiện trên, có lẽ chúng ta nên dừng lại để tìm thêm: lý do nào khiến cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đã có những thành công vang dội: chỉ trong một thời gian ngắn đã đánh đổ hai triều đại Trịnh, Nguyễn từng tồn tại mấy trăm năm để thống nhất toàn bộ đất nước Bắc, Trung, Nam, đại thắng hai cuộc xâm lược: quân Xiêm ở miền nam và quân Thanh ở miền bắc; và lý do nào khiến họ thất bại mau chóng trước một Nguyễn Ánh mà trước đó 20 năm, đã bị họ đánh cho không còn manh giáp, phải bỏ nước lưu vong !
2.2. “Nhà Tây Sơn”: bước đầu thành công trong viễn tượng “Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà”:
2.2.1. Thiên thời: Khi “mệnh trời” đã điểm:
Để hiểu được vị thế và sự xuất hiện khá đặc biệt của Nhà Tây Sơn trên vũ đài chính trị Việt Nam, các nhà nghiên cứu thường cho rằng phải đặt nó trong toàn bộ bối cảnh chính trị và xã hội Việt nam vào thế kỷ XVIII, một thế kỷ mà theo giáo sư George Dutton, là “một trong những thời kỳ quan trọng vào bậc nhất của dân tộc Việt Nam”. Xin trích:
“Cách tốt nhất để bắt đầu tìm hiểu về “đoàn quân ó” xuất phát từ ấp Tây Sơn là đặt chúng vào khuôn khổ thời gian và địa lý của thời kỳ được gọi là thế kỷ XVIII kéo dài ở xứ sở Đại Việt. Khuôn khổ thời gian xác định thời kỳ này kéo dài từ năm 1672, khi cuộc chiến kéo dài nửa thế kỷ giữa các chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã dừng lại trên thực tế, đến năm 1802, khi cuộc xung đột giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn đã kết thúc. Đây là một trong những thời kỳ quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam, biểu thị bằng sự mở rộng dân số về phía nam cùng những thay đổi về mô hình kinh tế, sự tham gia ngày càng nhiều của các thương nhân, lính đánh thuê và giáo sĩ châu Âu, sự bất mãn của dân chúng dâng cao, bùng nỗ và được làm cho tồi tệ hơn bởi các thế lực chính trị và tự nhiên”[33] (Hết trích).
Riêng tại Đàng Trong, vương triều chúa Nguyễn, sau cái chết của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát vào năm 1765, đã rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị tại nơi chóp bu quyền lực với sự chuyên quyền và cai trị thất đức của quyền thần Trương Phúc Loan, nguyên nhân chính dẫn tới cuộc nổi dậy của Tây Sơn: “Các nhà chép sử đương thời và về sau đều cho rằng chính những mưu đồ của Trương Phúc Loan và nhân cách đáng khinh của ông ta là nguyên nhân gây ra sự bất mãn của dân chúng và làm gia tăng các cuộc nổi dậy chống chính quyền. Sử biên niên thế kỷ XIX của nhà Nguyễn đưa tiểu sử chính thức của Loan vào phần “Nghịch thần, gian thần đối với triều đình”. Khi miêu tả về vị phụ chính này, sử đã nhấn mạnh đến những khiếm khuyết cá nhân và chính trị của ông ta: ‘… Dẫu được chúa thân yêu, nhưng chỉ say mê tửu sắc, không để ý đến việc nước. Loan thấy thế bèn không kiêng nễ gì, bán quan, buôn tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân đều lấy làm khổ. Trong khoảng 4,5 năm, tai dị hiện ra luôn, đất động, núi lở, sao sa, nước đỏ, trăm họ đói kém, trộm cướp tứ tung’…”[34].
Đó chính là “thời cơ thuận tiện” để anh em Nhà Tây Sơn “phất ngọn cờ đào”, thực thi thiên mệnh mà vị “quân sư” là thầy giáo Trương Văn Hiến đã cố tình hiện thực hoá lời tiên tri đang được kháo láo trong dân tại vùng đất Qui Nhơn “Tây khởi nghĩa, bắc thu công”[35]; và đây cũng là những tư tưởng chủ đạo của các “danh sĩ Bắc Kỳ” và là “cựu thần nhà Lê” về quy phục Tây Sơn như Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm[36]… dùng để biện minh cho sự hợp tác của chính mình và tính chính danh của vương triều Tây Sơn sau khi các vương triều Nguyễn, Trịnh thi nhau sụp đổ.
2.2.2. Địa lợi: Non bao thuỷ bọc:
Không cần phải lặp lại “vị trí mang tầm mức chiến lược” của Thị Nại và Đồ Bàn mà nhà Tây Sơn trong thuở đầu khởi nghĩa đã chọn làm căn cứ địa chính thức để từ đó “đánh nam dẹp bắc”, định đô (Hoàng Đế thành) và “thu giang sơn về một mối. Ở đây, xin nhấn mạnh vị trí đặc biệt của vùng đất mang tên “Tây Sơn ấp”, bao gồm cả “Tây Sơn thượng, trung và hạ” mà những bức tường thành thiên nhiên của dãy Trường sơn như luỹ hào che chắn và điểm tựa an toàn của một cứ điểm quân sự[37], và là vị trí chiến lược thích hợp cho một cuộc khởi nghĩa, xây dựng cơ đồ[38] của nhà Tây Sơn trong những năm tháng đầu tiên. (Xem thêm: tính chất đặc trưng của vùng đất cao dọc Trường Sơn gọi là Zomia trong tác phẩm “NHỮNG NGÀY CUỐI CỦA DÒNG MEKONG HÙNG VĨ” của Brian Eyler)[39].
2.2.3. Nhân hoà: Nghĩa quân và ghĩa sĩ:
Kể từ khi Nguyễn Hoàng mang kiếm vào trấn thủ Thuận Hoá (Mậu Ngọ 1558) cho đến khi Nguyễn Phúc Thuần (đời chúa Nguyễn thứ 9) tử trận tại Long Xuyên năm 1777 trong chiến dịch “bình Nam” của Tây Sơn, vương triều chúa Nguyễn đã kiến lập được một dãi đất dài rộng từ sông Gianh tới Miền Tây Nam Bộ, giáp giới Chân Lạp. Chính sự mở rộng biên giới về phương nam nầy đã khiến chính quyền trung ương của chúa Nguyễn tại Phú Xuân không thể kiểm soát và quản lý hiệu quả các vùng đất mới, trong đó có Qui Nhơn, nơi dung thân của đủ mọi thành phần: di dân, tù binh Đàng Ngoài, dân Chăm sống sót, sứ quân nổi loạn, băng nhóm giang hồ…. Đây là những nhóm người sẵn sàng quy tụ chung quanh những ai có gan và có chí “xưng hùng xưng bá”, để có cơ may “đổi đời”; hay theo tâm lý thông thường, để “thoả chí tang bồng hồ thỉ” như câu ca dao đã có tự ngàn xưa: “Làm trai cho đáng nên trai, xuống đông đông tĩnh lên đoài, đoài yên”. (x. Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn)[40].
Và anh em nhà Tây Sơn đã đáp ứng được khát vọng đó, như chứng từ của một giáo sĩ người Tây ban Nha là cha Diego de Jumilla mà tác giả George Dutton đã trích dẫn: “Không làm tổn hại người hay tài sản. Trái lại, có vẻ như họ muốn mọi người Đàng Trong đều được bình đẳng; họ vào nhà của người giàu, và nếu như họ được tặng một món quà biếu nào đó, họ không làm hại gì. Nhưng nếu họ bị kháng cự, họ tịch thu những món đồ xa xỉ nhất rồi mang chia cho người nghèo, chỉ giữ lại cho họ gạo và thức ăn… (vì thế, người dân) bắt đầu tôn xưng họ là những kẻ cướp nhân từ và bác ái, được nghèo khổ kính trọng”[41].
Nói cách khác, Nhà Tây Sơn đã vận dụng triết lý chính trị “chính danh, chính nghĩa” của Khổng Giáo để định hướng và biện minh cho cuộc khởi nghĩa và chấp chính của mình, nên “quân đội Tây Sơn gồm không chỉ đơn thuần là lính, mà là nghĩa quân, được chỉ huy bởi các nghĩa sĩ”[42].
Trong yếu tố “Nhân hoà” nầy, không thể không kể đến vai trò mang tính “chủ công” và kiệt xuất của Nguyễn Huệ, một trong hai người em của “thủ lĩnh Nguyễn Nhạc”, và sau nầy là Hoàng đế Quang Trung, nhân vật mà sử Việt gọi là “xuất quỷ nhập thần”[43], “giảo, kiệt, thiện chiến”[44]… và những người Âu Châu không ngần ngại gán cho danh xưng “Attila khác” hay “Alexandre Đại đế”[45]. Và cũng từ nhân vật kiệt xuất nầy, nhà Tây Sơn đã quy tụ được những viên tướng tài ba như “tứ kiệt”: Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở, Vũ Văn Dũng và các danh tướng khác như Nguyễn Văn Tuyết, Phan Văn Lân, Đô Đốc Bảo, Đô đốc Mưu, Đô Đốc Lộc…; cùng các võ tướng và văn thần khác đến từ hàng ngũ của chúa Trịnh, vua Lê như Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Hửu Chỉnh, Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm (Thời Nhiệm), Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Thiếp, …[46].
2.3. Thuỷ chiến Thị Nại 1801: Hồi chuông báo tử:
Trước khi dẫn đến cuộc “thảm bại Thị nại” năm 1801, chắc chắn nhà Tây Sơn đã phải đối diện với những “thách đố bất lợi” hay những nguyên nhân xa gần như sau:
2.3.1. Những “bất lợi chung” hay “nguyên nhân xa:
Nếu như vào buổi đầu khởi nghĩa, Tây Sơn đã tranh thủ được ba yếu tố quan trọng để “dựng nước”: thiên thời, địa lợi, nhân hoà, thì vào buổi “thoái trào”, gần như họ cũng đã đánh mất ba yếu tố then chốt đó:
- Thời đã hết: Suốt trong 24 năm kể từ ngày vua Thái Đức Nguyễn Nhạc Đăng quang (1778) cho đến khi vua Quang Toản bị Nguyễn Ánh xé xác năm 1802, triều đại Tây Sơn như chìm ngập trong những cuộc chiến liên tu bất tận: cuộc chiến từ Phú Xuân ra Thăng Long để thu phục Bắc Hà của Chúa Trịnh, vua Lê (1786); cuộc chiến từ Qui Nhơn tới Gia Định để đập tan ý đồ khôi phục của Nguyễn Ánh. Trong những cuộc chiến mang tính “nội chiến” đó, phải kể đến hai trận chiến lớn với quân Xiêm ở miền Nam (1785) và quân Thanh ở miền Bắc (1789). Khi chiến tranh kéo dài thì một đàng hao binh tổn tướng, máu chảy thây phơi; gia tăng cảnh vợ goá con côi, gắt gao truy tìm quân dịch; một đàng thì sưu cao thuế nặng, đói kém lan tràn…. Và hiệu quả tất yếu là lòng dân ly tán, ý chí quân binh mệt mỏi; cùng với nạn kiêu binh, nhũng lạm, chia rẽ, hiếp đáp…. Tất cả những yếu tố đó khiến, không chỉ triều đại Tây Sơn, mà bất của thể chế chính trị nào cũng lung lay, thoái trào mạt vận. Thời đã hết là vậy. (x. Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn)[47].
- Địa không thuận: Trong khi đó, một khi thống nhất sơn hà, việc quản lý một dãi non sông từ “Nam quan” tới “Cà Mau” đâu có dễ dàng như trông coi, canh phòng một vùng nhỏ hẹp Qui Nhơn. Đó là chưa kể, việc phân chia ba miền: Phú Xuân – Bắc Hà thuộc Bắc Bình vương Nguyễn Huệ; Quảng Nam – Qui Nhơn của Trung ương Hoàng Đế Thái Đức Nguyễn Nhạc; Nam Bộ thuộc Đông Định vương Nguyễn Lữ. Nếu đất “Bắc Hà”, “Phú Xuân” của Nguyễn Huệ lòng dân chưa quy thuận, sĩ phu còn xem thường phong cách “quân phiệt, mường mán” của đạo quân “sắt máu” Tây Sơn cọng với những tàn dư bất mãn, hoài cổ, phản động của Trịnh, Mạc, Lê nổi lên như nấm sau mưa…, thì đất Qui Nhơn, Gia Định của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ lại lõng lẽo, thiếu kế hoạch cai trị và phòng thủ hửu hiệu, để mất những vị trí chiến lược của toàn bộ miền Nam từ Phú Yên đến Gia Định (Cuộc hành quân năm 1793 của Nguyễn Ánh[48]), không làm chủ hải đạo từ Nam ra Bắc… Tất cả những yếu tố đó cho thấy rõ ràng “địa không còn thuận lợi cho nhà Tây Sơn” trước một Nguyễn Ánh kiên trì, có chiến lược hợp lý cùng sự hỗ trợ của người Âu Châu... !
- Nhân hết hoà: Chính việc phân chia quyền hành cùng với những sự kiện “nồi da xáo thịt”, tranh đất, tranh quyền giữa các anh em[49], đã khiến Tây Sơn lui về thế thủ, dè chừng lẫn nhau, thậm chí bỏ mặc nhau…, không có được một “quyền lực mạnh mẽ thống nhất từ trung ương”, một quân đội tập trung các tướng tài. Thêm vào đó là sự bất tài và nhu nhược của Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ, cùng với những cuộc thanh trừng và hiềm khích nội bộ khiến một số tướng lãnh cao cấp tài giỏi bị sát hại như Nguyễn Hữu Chỉnh, Võ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở, Lê Trung…; một số khác trở thành đối địch như Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng…; một số phản bội về đầu quân cho chúa Nguyễn Ánh: Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương…
Vâng, khi dân tình mỏi mệt vì chiến tranh liên miên, nạn kiêu binh, óc bè nhóm tranh công tranh quyền, nhân tài tổn hao…, tất cả đã góp phần đẩy nhanh tiến độ tan rã của nhà Tây Sơn.
2.3.2. Nguyên nhân gần:
Cùng với những nguyên nhân mang tính “tổng thể chiến lược” trên, sau đây là một chuỗi những sự kiện cũng là những lý do gần khiến triều đại Tây Sơn sụp đổ một cách nhanh chóng:
- Tây Sơn để mất cứ điểm Gia Định-Sài Gòn (1788), sau đó Diên Khánh-Bình Khang (1793), khiến cả một dãi đất miền Nam thuộc về Nguyễn Ánh[50].
- Cuộc thảm bại trong cuộc hải chiến Thị Nại (lần 1) năm 1792. Thuỷ quân Tây Sơn bắt đầu mất thế thượng phong[51].
- Cái chết đột ngột của Nguyễn Huệ (16.9.1792), khiến cuộc hành quân lớn vào Gia Định của Quang Trung Hoàng đế, vị tướng bách chiến bách thắng nầy phải dừng lại[52]; cùng với bao chương trình kiến quốc táo bạo và thông minh của một đấng minh quân.
- Cái chết của Nguyễn Nhạc năm 1793 và sự chấm dứt vương triều mang tính “trung ương” của hoàng đế Thái Đức, kéo theo những rạn nứt, chia rẽ nội bộ trầm trọng (Giữa Bắc Hà của Nguyễn Quang Thuỳ, Phú Xuân của Nguyễn Quang Toản và Qui Nhơn của con cháu Nguyễn Nhạc, nhất là cuộc thanh trừng Bùi Đắc Tuyên, Ngô Văn Sở và hục hặc giữa hai tướng Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu (1795)[53] cùng với cuộc nổi loạn của Nguyễn Bảo năm 1798[54]).
- Thành Qui Nhơn thất thủ (tháng 6 Âm lịch 1799) bị cải tên thành Bình Định. Toàn bộ quân chủ lực nơi được gọi là “nôi” của khởi nghĩa Tây Sơn tan rã[55].
2.3.3. Đêm Thị Nại đẩm máu (28.2.1801):
Trong chiến dịch năm 1799, có thể nói được Nguyễn Ánh đã “bước đầu” thu lại gần hết cõi giang sơn mà nhà Nguyễn đã có công gầy dựng; nhất là khi “thủ phủ Qui Nhơn”, cứ điểm đầu tiên nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa, đã đổi chủ và trở thành Bình Định, cũng đồng nghĩa “ngày tàn của triều đại Tây Sơn” đã điểm. Và sau đây là một vài diễn tiến dẫn đến trận chiến quyết định đêm 28.2.1801:
- Chiến dịch Bắc tiến: Vào giữa năm 1800, sau gần một năm ròng thành Bình Định (do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn giữ) bị quân Tây Sơn vây chặt (Trần Quang Diệu vây thành Qui Nhơn; Võ Văn Dũng án ngữ Thị Nại với đại thuỷ quân chủ lực)[56], quân chúa Nguyễn quyết định xuất quân thuỷ bộ, vừa để giải cứu Qui Nhơn, vừa quyết tâm thu Thuận Hoá, Phú Xuân và Bắc tiến, như lời khuyến dụ: “thành Qui Nhơn chỉ Bắc, đạp phá trùng vi; đô Thuận Hoá rụng cờ, dẹp yên đảng nguỵ”[57]. Đây là cuộc hành quân tổng lực, có cả sự tham gia của các sĩ quan Pháp, đặc biệt trong đội hình thuỷ quân mạnh mẽ, với các chiến thuyền được biên chế theo kỷ thuật và chiến thuật châu Âu lúc bấy giờ[58].
- Sau một loạt các chiến thắng trên bộ, tiêu diệt các cứ điểm bao quanh Thị Nại, Qui Nhơn, khống chế đường biển, triệt đường tiếp viện từ Phú Xuân (chiếm cảng Đề Di với 150 thuyền vận lương)[59] và nắm được “mật khẩu của hải quân Tây Sơn”, cuộc tấn công tổng lực bằng thuỷ quân vào cảng Thị nại bắt đầu vào đêm 28.2.1801 (16 tháng Giêng năm Tân Dậu)[60]. Bằng cuộc tấn công bất ngờ và táo bạo, toàn bộ thuỷ quân Tây Sơn do tướng Võ Văn Dũng chỉ huy gần như bị tiêu diệt: mất 50.000 lính, 1.800 chiến thuyền cùng với khoảng 6.000 khẩu đại bác[61].
- Võ Văn Dũng dẫn tàn quân tháo chạy lên bộ nhập với quân của tướng Trần Quang Diệu đang vây thành Qui Nhơn; để rồi sau đó, cho dù có bức bách được Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tự vận giao thành, Tây Sơn vẫn lần lượt mất Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh cùng triều đình tháo chạy ra Bắc Hà[62], để cuối cùng, Thăng Long bị thất thủ ngày 15.7.1802, Nguyễn Ánh đặt chân vào Thăng Long ngày 20.7.1802, khai mở “triều đại quân chủ phong kiến cuối cùng”[63] của Việt Nam; và đó cũng là thời điểm Triều đại Tây Sơn chính thức bị “khép lại” giữa những trang dài lịch sử “nội chiến” của dân tộc Việt Nam ![64].
Thay lời kết: Chiến bại Thị Nại: một tiếc nuối!
Như vậy, có thể nói được rằng: trận “hải chiến Thị Nại” đêm 28.2.1801 là trận đánh quyết định của cuộc đối đầu Tây Sơn – Nguyễn Ánh; và “chiến lược điều động thuỷ quân” chính là “nhân tố quyết định. Thật không may mắn cho phe Tây Sơn thiếu mất nhà cầm quân vĩ đại Quang Trung. Chắc chắn, nếu còn vị tướng tài ba kiệt xuất nầy, hải quân Nguyễn Ánh không dễ gì làm mưa làm gió dọc Biển Đông, từ Gia Định tới Sơn nam, Bắc Hà; và chiến thắng dễ dàng thuỷ quân Tây Sơn tại chiến trường Thị Nại, một vùng đất mà Nguyễn Huệ chắc chắn nắm vững địa thế địa hình, đường đi lối bước.
Thật vậy, so với cuộc đối đầu với thuỷ quân chúa Nguyễn và Xiêm trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút năm 1785, hải quân Tây Sơn của tướng Võ Văn Dũng tại Thị Nại năm 1801 có nhiều điểm thuận lợi hơn quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ lúc đó rất nhiều. Hồi đó (1785), dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, đạo quân Tây Sơn chỉ với 20 vạn, phải di chuyển từ miền Trung xa xôi, tại một vùng sông nước xa lạ đã bị quân Xiêm – Nguyễn chiếm trước. Tuy nhiên, với 10 ngày chuẩn bị đầy mưu trí và chuẩn xác, chỉ trong một ngày, ngày 19.01.1875, 5 vạn quân Xiêm – Nguyễn bị đánh tan tành, 300 chiến thuyền bị đánh đắm, hơn 4 vạn binh Xiêm – Nguyễn bị giết chết…[65].
Với một lực lượng gần như vượt trội về quân số cũng như khí tài, cùng với địa hình địa thế xung yếu của đầm Thị Nại và vùng biển Qui Nhơn với bán đảo Phương Mai và nhiều hải đảo và vị trí tiền tiêu thuận lợi…, nếu tướng Võ Văn Dũng có được tầm nhìn chiến lược, không chủ quan khinh suất, biết ém quân tạo thế, giăng bẫy, đón hờ… như Quang Trung trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút, chắc chắn Nguyễn Ánh “không có cơ” xuôi buồm Bắc tiến.
Vâng, tan Thị Nại thì mất cả Phú Xuân, Thăng Long, tiêu tan cả chiến lược, chiến thuật…; và nhất là “mất nước”, như nhận định của nhà sử học Tạ Chí Đại Trường: “Từ nay họ không còn chút uy thế nào trên mặt bể nữa, trước cả khoảng tháng Tư âm lịch khi Đông Hải vương Mạc Quần Phù cùng các tướng bị bắt lúc bị gió dạt ngoài khơi Thị Nại. Họ hoàn toàn không kiểm soát được mặt bể để tha hồ cho thuỷ quân Gia Định tung hoành ra lấy Phú Xuân mà không sợ một lực lượng lưu động nào theo kịp ngăn trở nữa. Trân Qang Diệu còn bức được Võ Tánh chết, nhưng sự thực đám quân tướng Tây Sơn ở đây mấy tháng sau phải tan rã trên rừng chính vì không thẻ nào di động theo các đồng bằng dọc biển mà không có yểm trợ của thuỷ quân, chính vì sự tan vỡ ở trận Thị Nại này vậy”[66].
(Còn tiếp một kỳ)
Trương Đình Hiền
[1] QUI NHƠN “I ngắn” dành cho khái niệm về một “QUI NHƠN LỊCH SỬ”, một địa danh xuất hiện trong lịch sử Việt Nam kể từ năm 1602, khi Chúa Nguyễn Hoàng đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Qui Nhơn. Đây là tên đơn vị hành chánh chính thức của “danh mục thành phố” theo Quyết định số 124/2004/QĐ-TTg ngày 8.7.2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bảng danh mục và mã số các đơn vị hành chính Việt Nam, tỉnh Bình Định có đơn vị hành chính là TP.Qui Nhơn. Đây cũng là danh xưng được sử dụng lâu đời trong hệ thống mục vụ của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam: Địa phận (hay Giáo phận) Qui Nhơn, nhà thờ Chính Toà Qui Nhơn…. Trong khi đó, Quy Nhơn “Y dài” dành để chỉ “Thành phố Quy Nhơn”, một trong những “đơn vị hành chánh” thuộc tỉnh Bình Định, mới chính thức được thành lập năm 1986.
[2] PGS TS PHAN VĂN RÂN-TS NGÔ CHÍ NGUYỆN: Mối quan hệ giữa địa chính trị và địa kinh tế: Lý luận và thực tiễn: “thuật ngữ “địa chính trị” (Geopolitics) mới lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà khoa học chính trị người Thụy Điển John Rudolf Kjellén vào năm 1899 trong tác phẩm “Nhà nước như một cơ thể sống” (The State as a Living Form). Trong đó, J. R. Kjellén cho rằng, các yếu tố địa lý và môi trường tự nhiên sẽ quy định các đặc điểm về chính trị, kinh tế và quân sự của mỗi quốc gia theo nghĩa chúng có thể tạo thuận lợi hoặc kìm hãm các quá trình phát triển chính trị, kinh tế - xã hội, đồng thời góp phần định hình văn hóa chính trị, bản sắc và lịch sử của mỗi quốc gia. Từ sau đó, thuật ngữ “địa chính trị” được bàn luận nhiều trong các lý thuyết về chính trị và quan hệ quốc tế cũng như được vận dụng phổ biến trong hoạch định và thực thi chiến lược, chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia, nhất là của các cường quốc”. Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2920-moi-quan-he-giua-dia-chinh-tri-va-dia-kinh-te-ly-luan-va-thuc-tien.html
[3] Ibid.: “…Theo quan điểm của Luttwak, địa kinh tế là hình thức mới của sự cạnh tranh sức mạnh giữa các quốc gia sau chiến tranh lạnh. Ông cho rằng, chính trị quốc tế thời kỳ hậu chiến tranh lạnh mặc dù vẫn bị chi phối bởi cạnh tranh sức mạnh giữa các nhà nước nhưng chiến trường chủ yếu là kinh tế thay vì quân sự, phương tiện ưa thích được các nhà nước sử dụng để theo đuổi các mục tiêu đối kháng nhau sẽ là kinh tế hơn là quân sự. Theo Luttwak, sức mạnh quốc gia trong kỷ nguyên địa kinh tế xuất phát từ vốn tư bản thay vì sức mạnh hỏa lực, đổi mới dân sự thay cho tiến bộ kỹ thuật quân sự và thâm nhập thị trường thay cho các đồn bốt và căn cứ…”
[4] KLAUS DODS, nguyên tác “Geopolitics”, bản dịch Việt ngữ: Địa chính trị. Dịch giả: Nguyễn Nguyên Hy, nxb. Tri Thức 2019, tr. 60.
[5] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ TRỌN BỘ, Cao Huy Du dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng. Nhà Xuất Bản Thời Đại 2013. Đại Việt sử ký Bản kỷ thực lục, Quyển XII, Kỷ Nhà Lê (Tiếp theo), tr. 610: (Vua huý là Tư Thành, lại huý là Hạo, con thứ tư của Thái Tôn, ở ngôi 38 năm, thọ 56 tuổi, chôn ở Chiêu Lăng. Vua sáng lập chế độ, văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dù Vũ đế nhà Hán, Tái Tôn nhà Đường cũng không hơn được…).
[6] NGUYỄN THỊ LINH, Champa từ cuối thế kỷ X đến cuối thế kỷ XV. Nguồn: http://thpt.daytot.vn/thuat-ngu/Lop-10/Champa-tu-cuoi-the-ki-X-den-cuoi-the-ki-XV-729.html
[7] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ- Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nhà Xuất Bản Văn Học 2017, tr. 466: “Trước đó, Người Chiêm Thành ở Thị Nại là Bàn La Trà Duyệt là con người vú nuôi, giết chúa hắn là Bí Điền, rồi cướp lấy nước mà truyền cho người em là Trà Toàn. Trà Toàn là đứa hung bạo làm càn, dối thần ngược dân, người Chiêm mưu phản, Toàn cũng không nghĩ chi đến, lại còn ngạo mạn kiêu căng, không sửa lễ tiến cống, lăng nhục sứ thần của triều đình, quấy nhiễu dân biên giới, lừa gạt người Minh để xin viện trợ mà sang ăn cướp…”
[8] Xem: Đế quốc Khmer. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%BF_qu%E1%BB%91c_Khmer
[9] Xem: Panduranga – Champa: Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Panduranga-Ch%C4%83m_Pa
[10] NGUYỄN THỊ LINH, Champa từ cuối thế kỷ X đến cuối thế kỷ XV. Nguồn: http://thpt.daytot.vn/thuat-ngu/Lop-10/Champa-tu-cuoi-the-ki-X-den-cuoi-the-ki-XV-729.html: “Chế Bồng Nga ra sức xây dựng quân đội, dồn tất cả nguồn lực cho hàng chục cuộc tiến công lên hướng Bắc. Trong 30 năm đã tiến hành trên 15 trận đánh lớn, và có khi chỉ trong 8 năm năm nào cũng đánh, có hai lần đến tận Thăng Long cướp phá, và trở về, lúc này ở Đại Việt đang là lúc mà nhà Trần suy yếu…”
[11] GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), Nguyễn Thế Phương dịch. NXB Hà Nội 2019. Lời Giới thiệu, tr. 8.
[12] Ibid. 02. Athens và Sparta, tr. 64.
[13] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ- Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nhà Xuất Bản Văn Học 2017, tr. 466-467.
[14] GRAHAM ALLISON, Destined for war (Định mệnh chiến tranh), Nguyễn Thế Phương dịch. NXB Hà Nội 2019. Dẫn Nhập, tr. 25: “Bẫy Thucydides nhắc tới một sự xáo trộn mang tính tự nhiên và không thể tránh khỏi xảy ra khi một thế lực đang trỗi dậy đe doạ thế chỗ thế lực đang thống trị. Điều nầy có thể xảy ra ở khắp mọi nơi. Thế nhưng, những tác động của nó trở nên đặc biệt nguy hiểm trong quan hệ quốc tế…”.
[15] “Sau khi kinh đô cũ Indrapura bị quân đội Lê Hoàn của Đại Cồ Việt tấn công và phá hủy năm 982. Triều đình Chăm Pa lánh nạn vào phương Nam. Lưu Kế Tông, một vị tướng của Lê Hoàn đã ở lại và cai trị khu vực bắc Chăm từ Quảng Bình vào Quảng Nam ngày nay. Ở phía Nam, người Chăm đã tôn một vị lãnh đạo của mình lên ngôi với tên hiệu là Harivarman II vào năm 988. Ông đã cho xây dựng Vijaya là quốc đô của mình. Sau cái chết của Lưu Kế Tông, người Việt rút lui khỏi vùng đất phía bắc, Harivarman II đã lấy lại và dời đô và kinh đô cũ Indrapura, tuy nhiên tới khoảng năm 999 vị vua kế tiếp là Sri Vijaya Yangkupu đã vĩnh viễn dời đô về Vijaya. Việc dời đô về Vijaya được Tống sử ghi lại khi đoàn sứ thần của Chăm Pa tới nhà Tống (Trung Quốc) vào năm 1005. Trong 5 năm thế kỷ là kinh đô, Vijaya phải chịu nhiều cuộc tấn công từ Đại Việt, Chân Lạp, Xiêm, Nguyên Mông. Người Khmer đã tấn công vào rất nhiều lần, có những thời gian Vijaya chịu sự cai trị của Chân Lạp từ 1145-1149 và 1190-1192. Xiêm La dưới thời vương triều Sukhothai cũng góp phần vào trận chiến năm 1313 nhưng sau đó đã rút lui bởi sự can thiệp của nhà Trần (Đại Việt), Nguyên Mông tấn công Vijaya và năm 1283. Nhưng nhiều nhất vẫn là các cuộc tấn công từ các vương triều Đại Việt, các thống kê cho thấy Vijaya bị tấn công từ Đại Việt vào các năm 1044, 1069, 1074 (nhà Lý), 1252, 1312, 1377 (nhà Trần), 1403 (nhà Hồ), 1446, 1471 (nhà Lê). Trận chiến tại thành Vijaya vào năm 1471 với quân đội nhà Lê (Đại Việt) cũng chấm dứt sự tồn tại sau 5 thế kỷ là quốc đô của Vijaya, Chăm Pa mất hoàn toàn miền bắc vào Đại Việt và lui về vùng phía nam đèo Cù Mông”. Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93_B%C3%A0n
[16] NGUYỄN THANH QUANG, Hoài Nhơn, Qui Nhơn, Qui Ninh, Bình Định, Đất và Người. NXB Văn Hoá – Văn Nghệ 2020. Bài 004: THÀNH HOÀNG ĐẾ MỘT ĐỊA ĐIỂM HAI LẦN KINH ĐÔ. Tr. 194.
[17] Ibid. Bài 005: KHÔNG GIAN “TỬ THÀNH” HOÀNG ĐẾ VẪN CÒN LÀ ẨN SỐ. Tr. 212-213.
[18] TIM MARSHALL, Những tù nhân của địa lý (Prisoners of Geography), PHAN LINH LAN dịch. NXB Hội Nhà Văn 2020, Lời Giới Thiệu, tr. 12-13.
[19] NGUYỄN THANH QUANG, LM. GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề về chữ Quốc Ngữ, nxb. Khoa Học Xã Hội 2020. Tr. 20: Chữ Quốc ngữ ở Nước Mặn. “Nước Mặn là một trong những trung tâm ra đời sớm nhất của chữ Quốc ngữ. Nước Mặn là một cảng thị phát triển nhất của phủ Qui Nhơn (Pulo Cambi, Bình Định) trong thế kỷ XVII – XVIII và là một trong những cảng thị hưng thịnh nhất của dinh Quảng Nam. Do vị trí giao thương thuận lợi, Nước Mặn là nơi quy tụ các sản phẩm của vùng đồng bằng và núi rừng Qui Nhơn, cả vùng Tây nguyên, qua sông Côn chuyển về, để giao thương trực tiếp với các thuyền buôn nước ngoài đến đây hoặc từ đây chuyển qua Hội An. Nước Mặn cũng là một trong những cơ sở quan trọng của các giáo sĩ phương Tây, nhất là Dòng Tên đến truyền giáo và học tiếng Việt, dùng chứ cái Latin ghi âm tiếng Việt. Từ năm 1618 tại Nước Mặn đã có mặt các giáo sĩ: Cristoforo Borri (1583-1632) người Ý (có người cho là người Bồ), Francisco de Pina (1585-1625) người Bồ, Francesco Buzomi (1576-1639) người Ý, trong đó Borri ở lại từ năm 1618 đến năm 1622, Pina từ năm 1618 đến năm 1620, Buzomi từ năm 1618-1623 (Theo Roland Jacques, sđd, tr.29, sau đó còn ở Đàng Trong). Tháng 7 năm 1618, Nước Mặn trở thành cư sở đầu tiên của các giáo sĩ Dòng Tên ở Đàng Trong”.
[20] NGUYỄN THANH QUANG, Hoài Nhơn, Qui Nhơn, Qui Ninh, Bình Định, Đất và Người. NXB Văn Hoá – Văn Nghệ 2020. Bài 002: Đàn Nam Giao đầu tiên của triều Tây Sơn, tr. 186: “…Niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 37, nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc bèn nhân nơi đó mà đóng đô, mở rộng cửa đông kéo dài tới 15 dặm, tường thành được đắp cao rồi xây bằng đá ong, bể cao tới 1 trượng 4 thước, bề dày 2 trượng, mở thêm một cửa thành ra 5 cửa, riêng phía trước có 2 cửa, bên tả là cửa Tân Khai, bên hữu là cửa Vệ Môn… Phía tây thành có đắp con đê Đỉnh Nhĩ để phòng nước lụt, phía tây nam có đàn Nam Giao để tế trời đất…”.
[21] Ibid., Phần III TÂY SƠN TAM KIỆT, tr. 179: “Năm 1771, anh em Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa phát triển thành một cuộc chiến tranh nông dân chiếm phủ thành Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Diên Khánh (Phú-Khánh), Bình Khang (Ninh Thuận), Bình Thuận, Quảng Nam… Năm 1785, từ Qui Nhơn, Nguyễn Huệ đem quân vào Nam, bằng chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút, quân đội Tây Sơn đánh tan 5 vạn quân Xiêm. Cuối năm 1788, Tôn sĩ Nghị đem 29 vạn quân Thanh xâm lược nước ta. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung, xuất quân ra Bắc… Trưa ngày mùng 5 Tết năm Kỷ Dậu – 1789, Quang Trung với chiếc áo bào nhuộm đen khói súng, trên mình voi chiến, dẫn đoàn quân chiến thắng tiến vào Thăng Long giữa sự hân hoan đón mừng của nhân dân 36 phố phường. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Thanh là một trong những chiến công chống ngoại xâm vào loại hiển hách nhất của dân tộc ta”.
[22] Ibid. Phần IV. HOÀI NHƠN – BÌNH ĐỊNH ĐẤT VÀ NGƯỜI, Bài 043. Vị trí, vai trò, tiềm năng cảng Qui Nhơn xưa và nay, tr. 491: “Thương cảng Thị Nại của vương quốc Champa đã trở thành một điểm đến quen thuộc của các thương thuyền trên tuyến hải thương khu vực, là trung tâm liên khu vực, kết nối các trung tâm thương mại lớn của khu vực và quốc tế. Trong không gian duyên hải với điểm nhấn là cảng Thị Nại, đầm Thị Nại, còn có hệ thống thuỷ lộ, dòng sông Côn được coi như một sợi dây liên kết, một con đường chuyển vận văn hoá cũng như các mối giao thương về kinh tế giữa miền ngược và miền xuôi của vùng Vijaya (Bình Định)”.
[23] ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG, Đầm Thị Nại. Phần VI: Thị Nại trong lịch sử. Nguồn: trang web giáo phận Qui Nhơn: https://gpquinhon.org/q/van-hoa/dam-thi-nai-2032.html
[24] Ibid.:
Ngày 21 tháng chạp năm Giáp Thân (1284), 50 vạn quân Nguyên dưới quyền tổng chỉ huy của Thái tử Mông Cổ là Thoát Hoan (Tuo Huan), chia quân làm hai đạo: bộ binh do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy, tiến vào Lạng Sơn, giả tiếng mượn đường Đại Việt đi đánh Champa. Thủy quân do Toa Đô (Suo Du) dẫn đầu, gồm 1000 chiến thuyền và 10 vạn quân, từ Quảng Châu tiến thẳng vào đầm Thị Nại của Chăm quốc. Vị trí tiền tiêu bảo vệ kinh đô Đồ Bàn là thành Thị Nại nằm bên bờ sông Gò Tháp, thuộc Nam Phái [16] sông Côn, ở địa phận xã Phước Hoà, túc trực 1 vạn quân, có trang bị voi chiến, chặn các đường hiểm yếu không cho quân Nguyên tiến vào kinh đô. Toa Đô đánh mãi không được, đành phải bỏ Thị Nại, theo đường bộ vào Đại Việt, đến Nghệ An, rồi rút ra Bắc, định họp quân với Thoát Hoan, nhưng bị bao vây ở Tây Kết (một làng nhỏ ở bờ sông Hồng), trúng tên, bỏ thây ở chiến trường.
Năm Đinh Tỵ (1377), vua Trần Duệ Tông (1373-1377) đem 12 vạn quân đi đánh Champa. Ngày 23 tháng giêng, đại quân tiến vào cửa Thị Nại, lấy đồn Thạch Kiều, chiếm động Kỳ Man (động cát ở chân núi Xuân Quang, gần Gành Ráng và Qui Hoà). Quân ta đang đắc thắng thì vua Chăm là Chế Bồng Nga giả kế trá hàng. Đại tướng Đỗ Lễ biết mưu gian của địch, can vua Duệ Tông, nhưng vua không nghe, bảo rằng: “Dụng binh quý như thần tốc. Nay nếu dừng lại không tiến, thì thực là trời cho mà không lấy, để nó lại cơ mưu khác thì hối sao kịp. Ngươi chính là hạng đàn bà.” [17]. Rồi nhà vua cho tiến quân ào ạt đến Đồ Bàn. Quân Chăm phục kích sẵn ở chỗ hiểm yếu, bất thần bốn mặt giáp công, khép chặt vòng vây. Quân ta tuy đông nhưng không phòng bị nên thua to. Vua Trần Duệ Tông tử trận, quân sĩ chết hai phần còn một, phải mở đường máu mới thoát được.
[25] Ibid.:
Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông (1054-1072) thân chinh đi đánh Champa. Từ Thăng Long, đại quân ta đi ngót 26 ngày đường biển mới đến đầm Thị Nại. Viên Tổng tư lệnh Chăm là Bố-bì-đà-la dàn trận trên bờ sông Tu Mao (một nhánh của sông Côn). Lý Thường Kiệt đánh tan lực lượng tiền phương và giết được Bố-bì-đà-la, rồi vượt thêm hai sông nữa (cũng thuộc sông Côn) để tới Đồ Bàn. Vua Chăm là Chế Củ (Rudravarman IV) bỏ kinh đô chạy về miền Nam. Lý Thường Kiệt đem quân đuổi theo suốt một tháng trời, đến tận biên giới Chân Lạp. Vua Chăm và 5 vạn quân dân bị bắt. Tháng 7 năm ấy, Lý Thánh Tông về đến Thăng Long với ca khúc khải hoàn, giải theo vua Chăm và quyến thuộc. Sau Chế Củ dâng 3 châu: Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh [15] mới được tha cho về nước. Đây là lần đầu tiên đầm Thị Nại có tên trong quân sử Đại Việt.
[26] Ibid.:
Năm Canh Dần (1470), Hồng Đức nguyên niên (洪 德), vua Chiêm là Trà Toàn sai sứ sang cầu viện nhà Minh, rồi cho quân ra cướp phá đất Hoá Châu. Vua Lê Thánh Tông xuống chiếu huy động 26 vạn tinh binh và tự cầm quân chinh phạt Champa. Sau trận đại thắng ở Sa Kỳ (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi), hạ tuần tháng 2 năm Tân Mão (1471) thủy quân ta tiến vào đầm Thị Nại. Ngày 27 tháng 2, vua Lê Thánh Tông chỉ huy đánh chiếm thành Thị Nại. Ngày 28, kinh đô Đồ Bàn của vương quốc Champa bị vây hãm, đến mùng 1 tháng 3 thì hạ thành, bắt sống Trà Toàn và hoàng gia. Từ đấy, đầm Thị Nại và cả miền đất Vijaya đến đèo Cù Mông, vĩnh viễn thuộc về Đại Việt.
[27] ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697), dịch và chú thích: Quyển thủ- Bản kỷ IV: Ngô Đức Thọ; Bản kỷ V-XIX: Hoàng Văn Lâu. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn, Nhà Xuất Bản Văn Học 2017, tr. 469-472.
[28] Ibid. Tr. 471-472.
[29] “… Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt nam từ khoảng năm 200 công nguyên. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng…”.
Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Ch%C4%83m_Pa
[30] TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG, Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802, nxb. Tri Thức 2016, tr. 323-325.
[31] HÀ VĂN THƯ – TRẦN HỒNG ĐỨC, Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, nxb. Văn Hoá Dân tộc 2016, tr. 210 – 224: “… Như vậy, triều Tây Sơn kể từ vua Thái Đức đến hết Cảnh Thịnh (1778 – 1802) tồn tại được 24 năm”.
[32] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Mục “TÀI LIỆU THAM KHẢO”, tr. 421 – 439.
[33] Ibid. Chương I, Thời kỳ Tây Sơn và thế kỷ XVIII ở Đại Việt. Tr. 55.
[34] Ibid., tr. 91 (x. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, tr.173)
[35] Ibid., tr. 94-95: “Trong quá trình hành động nầy, ông ta nhận được sự khích lệ của một người thầy giáo cũ tên Trương văn Hiến, vốn là một người tị nạn khỏi chính quyền nhà Nguyễn do Trương Phúc Loan chế ngự. Hiến thúc dục Nhạc tự xem như mình được sinh ra để thực hiện lời tiên tri lâu năm tại địa phương: tây khởi nghĩa, bắc thu công. Ông thầy gợi ý rằng từ “tây” trong lời tiên tri có liên quan đến Tây Sơn là tên ngôi làng của ba anh em Nguyễn Nhạc.”
[36] Ibid., tr. 137: Danh sĩ nổi tiếng Nguyễn Thiếp vào thế kỷ XVIII khi ông nhận định rằng: “sự huỷ diệt đất nước và gia đình xảy ra do sự bại hoại của đạo đức làm người, do những nhà cai trị tầm thường, và do những quan lại chỉ biết xu nịnh họ…”; … Ngô Thì Nhậm thì nhận xét rằng: “Trời trông, trời nghe do ở dân. Lòng dân yên định thì ý trời cũng xoay chuyển”.
[37] NGUYỄN THANH QUANG, Hoài Nhơn, Qui Nhơn, Qui Ninh, Bình Định – Đất và Người, nxb. Văn Hoá – Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh 2020; Phần III TÂY SƠN TAM KIỆT, Bài 001: Tây Sơn – Vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, tr. 182-183: “… đoạn núi trường sơn nầy nằm chính hướng tây, cho nên mệnh danh là dãy Tây Sơn. Vì núi mệnh danh là Tây Sơn, nên những vùng sơn cước ở quanh núi và vùng bình nguyên ở dưới núi cũng mệnh danh Tây Sơn. Người xưa gọi là Tây Sơn ấp… Trong dãy có nhiều ngọn cao lớn, trông đồ sộ hiên ngang và liên hệ mật thiết với nhau chẳng những về phương diện địa lý vì cùng một sơn mạch mà còn liên hệ về lịch sử - lịch sử nhà Tây Sơn. Nhà Tây Sơn, trước khi khởi nghiệp đã dùng dãy núi Tây Sơn làm căn cứ quân sự. Và đạo quân tiên phong hầu hết người miền núi… Ba dãy núi ảnh hưởng với nhau, hỗ trợ lẫn nhau về mặt khí thế, hoà hợp với nhau, bổ khuyết cho nhau về màu sắc đường nét. Dãy này bổ trợ dãy kia, dãy kia bổ trợ dãy nọ, tương y tương ỷ, tạo Bình Định thành một nơi thiên hiểm về mặt quân sự, thành một bức tranh tú vĩ hùng kỳ của đất nước…”
[38] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Chương I, Thời kỳ Tây Sơn và thế kỷ XVIII ở Đại Việt, tr. 95 – 96: “Vùng An Khê mà ba anh em Tây Sơn lui về là một địa điểm lý tưởng cho những người cầm đầu một cuộc khởi loạn khi họ tìm cách giành lấy sức mạnh và người ủng hộ. Nó tương đối xa, chỉ có thể tiếp cận được bằng một con đường nhỏ hẹp và nguy hiểm, dễ dàng chống lại các cuộc tấn công của quân nhà Nguyễn. Vùng cao nguyên nầy nằm giữa những con đường thương mại quan trọng trải dài từ cảng biển Qui Nhơn ở phía tây đến lãnh thổ của Chân Lạp và vùng nam Lào, mở đường cho hàng hoá chuyên chở dọc theo chúng. An Khê cũng là một khu vực giàu tài nguyên có thể cung cấp cho anh em Tây Sơn các thứ gỗ, sắt, sulphur, ngựa và voi… Ưu thế của vị trí của họ giúp ba anh em đạt được vài thắng lợi ban đầu ở các vùng phụ cận, rút kinh nghiệm chiến đấu, tăng cường uy tín, trong khi ít nguy cơ hơn. Tuy nhiên, cuối cùng thì Nguyễn Nhạc quyết định là đạo quân của ông ta đã sẵn sàng đi xuống đồng bằng và thách thức trực tiếp quân nhà Nguyễn…”.
[39] BRIAN EYLER, Những ngày cuối của dòng Mekong hùng vĩ, Nguyễn Đình Huỳnh dịch, nxb. Phụ Nữ Việt Nam 2020, tr. 16-17: “Trong tác phẩm quan trọng năm 2009 The Art of Not Being Governed (Nghệ thuật để không bị trị), Scott đặt tên cho vùng cao nầy của Trung Quốc và Đông Nam Á là Zomia. Quân đội đồng bằng bạo ngược không thể đưa xe cộ và vũ khí lên đồi núi tấn công những người ẩn náu ở đó. Rừng có nhiều tài nguyên thiên nhiên có thể làm thức ăn và việc giao dịch mua bán giúp duy trì sinh kế và bản sắc của những người này. Điều này giúp cho các nhóm sắc tộc ở Zomia giao dịch độc lập và ình đẳng với các vương quốc đồng bằng theo điều kiện của họ và phần nào giữ được khoảng cách…”.
[40] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Chương I, Thời kỳ Tây Sơn và thế kỷ XVIII ở Đại Việt, tr. 77: “Thêm vào đó, sự mở rộng quyền lực chính trị về phía nam có nghĩa là các chúa Nguyễn ở một chừng mực nào đó đã bị cô lập về mặt vật chất với các phần lớn vương quốc của họ, một vùng đất rộng lớn nằm ở phía nam đèo Hải Vân, thuộc đất Quảng Nam. Những vùng đất mới do chúa Nguyễn Công bố chủ quyền là nơi cư trú của những nhóm người pha tạp, hay đổi đời, có mối quan hệ lỏng lẻo với kinh đô Phú Xuân. Như chúng ta đã biết, khu vực quanh Qui Nhơn được dành làm nơi cư trú của những tù nhân chính trị phía bắc cũng là quê hương của những người còn sót lại của vương quốc Chăm, trong khi có nhiều nhóm người vùng cao sống sát cạnh trung tâm của cuộc nổi dậy ở ấp Tây Sơn. Khi nhà Nguyễn tìm cách nới rộng ảnh hưởng trong khu vực, họ tác động đến quyền lợi chính trị của người Chăm và người vùng cao tại địa phương, song cả hai nhóm người nầy sẽ sớm thành những nhóm ủng hộ cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn”.
[41] Ibid., tr. 97 (x. P. Lorenzo Perez, “La Révolte et la guerre des Tayson d’après les franciscains Espagnols de Cochichine”, tr.74)
[42] Ibid., tr. 155.
[43] NGÔ THÌ CHÍ, Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Ngô Tất Tố dịch, Tự Do tái bản, 1958, tr. 252: “Nguyễn Huệ là bậc lão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam thật là xuất quỷ nhập thần. Không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn cả sấm sét…”. (x.
[44] Đại nam Chính Biên Liệt truyện sơ tập, quyển 30, tờ 17b: “Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, giảo, kiệt, thiện chiến, ai cũng phải sợ… Bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy dốc lòng vâng mệnh”.
[45] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Phần Dẫn Nhập, tr. 32.
[46] BAN CHỦ BIÊN TẬP SAN SỬ ĐỊA, Đặc khảo về Quang Trung Nguyễn Huệ. NXB. Hồng Đức – Tạp chí Xưa và Nay 2016. Bài: Những điểm đặc biệt về Nguyễn Huệ của Phạm Văn Sơn, tr. 440
[47] SĐD (GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016. Chương III: Giới nông dân - Đời sống dưới chính quyền Tây Sơn. tr. 226-311.
[48] TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG, Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802, nxb. Tri Thức 2016, tr. 256-263.
[49] Ibid., tr. 145-147.
[50] Ibid., tr. 190-191.
[51] Ibid., tr. 254-255.
[52] Ibid., tr. 255-256.
[53] Ibid., tr. 280-281.
[54] Ibid., tr. 305.
[55] Ibid., tr. 309-311.
[56] Ibid., tr. 321: “Đường nước bên trong đầm đã hẹp mà Vũ Văn Dũng đem hai chiếc Định quốc Đại hiệu thuyền chở từ 50 đến 60 khẩu đại bác chắn ngay cửa với dày đặc bên trong là 40 tàu lớn, 20 tàu nhỏ, 100 ghe chiến đậu san sát đến cửa sông đưa vào Nước Mặn. Ông còn đặt đại bác trên núi Tam Toà, tên đất liền, bãi Nhạn (phía thành phố Quy Nhơn bây giờ) dựa vào núi cao chĩa xuống bảo vệ đoàn thuyền trấn giữ. Trên bộ còn hơn 60 voi với quân lính”.
[57] Ibid., tr. 315-316.
[58] Ibid. (x. Việc xây dựng thuỷ quân của Nguyễn Ánh: (SĐD) tr. 230 – 232)
[59] Ibid., tr. 319.
[60] Ibid., tr. 323.
[61] Ibid., tr. 324 (Phần ghi chú).
[62] Ibid., tr. 328-338.
[63] GEORGE DUTTON, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn uprising), Lê Nguyễn dịch và giới thiệu. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2016, tr. 121
[64] Ibid., tr. 414. (x. Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802 của Tạ Chí Đại Trường, tr. 332-339).
[65] PHAN HUY LÊ, BÙI ĐĂNG DŨNG, PHAN ĐẠI DOÃN, PHẠM THỊ TÂM, TRẦN BÁCH, Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, nxb. Hồng Đức 2019. Chương V Chiến tháng Rạch Gầm – Xoài Mút, tr. 215-241.
[66] TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG, Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771 đến 1802, nxb. Tri Thức 2016, tr. 324-325.
Thông Báo
Thông tin mới nhất, rất ích lợi về COVID-19 từ Minesota 14 April, 2021
Vietnamese Social Service in Minnesota
18:33 16/04/2021
Ngày 14 tháng Tư năm 2021
Kính thưa quý đồng hương,
Chúng tôi hy vọng tất cả quý vị luôn mạnh khoẻ trong thời gian này, khi chúng ta vẫn đang hỗ trợ lẫn nhau. Xin vui lòng đọc các thông báo quan trọng dưới đây về những gì đang diễn ra trong cộng đồng.
Cập nhật về Thuốc chủng ngừa COVID-19 hiệu Johnson & Johnson:
Hôm nay, CDC và FDA đã khuyến cáo tạm thời ngưng việc chích ngừa với thuốc hiệu Johnson và Johnson vì có nhiều điều cần phải hết sức thận trọng.
Mặc dù chưa có địa điểm chích ngừa nào của Minnesota đang sử dụng thuốc J&J trong tuần này, tiểu bang vẫn khuyến cáo các cơ sở cung cấp tuân theo khuyến nghị của CDC / FDA tạm ngưng việc chích thuốc J&J vào thời điểm này.
Khuyến cáo được đưa ra sau khi có 6 người trong số gần 7 triệu người đã được chích thuốc Johnson & Johnson bị chứng máu vón cục trầm trọng và hiếm gặp sau khi chích ngừa.
Tất cả sáu trường hợp trên đều xảy ra cho những phụ nữ trong độ tuổi từ 18 đến 48, và các triệu chứng đã xuất hiện từ 6 đến 13 ngày sau khi họ chích ngừa.
Ủy Ban Cố Vấn của CDC về Thực Hành Tiêm Chủng (ACIP) đã họp vào thứ Tư (14/4) để xem xét thêm các trường hợp này và thẩm định tầm quan trọng tiềm tàng của vấn đề.
FDA cũng sẽ xem xét phân tích đó và và chính họ sẽ điều tra các trường hợp.
Nếu đã được chích thuốc Johnson & Johnson hơn một tháng trước đây, rất có thể quý vị sẽ không mắc phải tình trạng liên quan này. Mặc dù những sự việc này cực hiếm, nhưng bất kỳ ai đã chích ngừa thuốc J&J mà bị các chứng nhức đầu dữ dội, đau bụng, đau chân hoặc khó thở trong vòng ba tuần sau khi chích ngừa nên liên lạc với nơi cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của mình hoặc nếu quý vị có thắc mắc.
Nếu quý vị có thắc mắc hoặc cần giúp tìm kiếm nguồn cung cấp thực phẩm, vui lòng gọi đường giây khẩn của chúng tôi tại 612-293-2913.
Chúng tôi có nhân viên nói tiếng Karen, Karenni, Miến điện, tiếng Việt, và tiếng Thái.
Source: https://www.youtube.com/channel/UC75a-0UmCRdYjDNZwByekPA
Kính thưa quý đồng hương,
Chúng tôi hy vọng tất cả quý vị luôn mạnh khoẻ trong thời gian này, khi chúng ta vẫn đang hỗ trợ lẫn nhau. Xin vui lòng đọc các thông báo quan trọng dưới đây về những gì đang diễn ra trong cộng đồng.
Cập nhật về Thuốc chủng ngừa COVID-19 hiệu Johnson & Johnson:
Hôm nay, CDC và FDA đã khuyến cáo tạm thời ngưng việc chích ngừa với thuốc hiệu Johnson và Johnson vì có nhiều điều cần phải hết sức thận trọng.
Mặc dù chưa có địa điểm chích ngừa nào của Minnesota đang sử dụng thuốc J&J trong tuần này, tiểu bang vẫn khuyến cáo các cơ sở cung cấp tuân theo khuyến nghị của CDC / FDA tạm ngưng việc chích thuốc J&J vào thời điểm này.
Khuyến cáo được đưa ra sau khi có 6 người trong số gần 7 triệu người đã được chích thuốc Johnson & Johnson bị chứng máu vón cục trầm trọng và hiếm gặp sau khi chích ngừa.
Tất cả sáu trường hợp trên đều xảy ra cho những phụ nữ trong độ tuổi từ 18 đến 48, và các triệu chứng đã xuất hiện từ 6 đến 13 ngày sau khi họ chích ngừa.
Ủy Ban Cố Vấn của CDC về Thực Hành Tiêm Chủng (ACIP) đã họp vào thứ Tư (14/4) để xem xét thêm các trường hợp này và thẩm định tầm quan trọng tiềm tàng của vấn đề.
FDA cũng sẽ xem xét phân tích đó và và chính họ sẽ điều tra các trường hợp.
Nếu đã được chích thuốc Johnson & Johnson hơn một tháng trước đây, rất có thể quý vị sẽ không mắc phải tình trạng liên quan này. Mặc dù những sự việc này cực hiếm, nhưng bất kỳ ai đã chích ngừa thuốc J&J mà bị các chứng nhức đầu dữ dội, đau bụng, đau chân hoặc khó thở trong vòng ba tuần sau khi chích ngừa nên liên lạc với nơi cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của mình hoặc nếu quý vị có thắc mắc.
Nếu quý vị có thắc mắc hoặc cần giúp tìm kiếm nguồn cung cấp thực phẩm, vui lòng gọi đường giây khẩn của chúng tôi tại 612-293-2913.
Chúng tôi có nhân viên nói tiếng Karen, Karenni, Miến điện, tiếng Việt, và tiếng Thái.
Source: https://www.youtube.com/channel/UC75a-0UmCRdYjDNZwByekPA
Văn Hóa
Lời Chúc Bình An
Lm Nguyễn Trung Tây
17:41 16/04/2021
Lm Nguyễn Trung Tây
Lời Chúc Bình An
Ngoài thất vọng, mùa Phục Sinh đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu rỗi cũng là mùa đong đầy những phiền muộn, bối rối, và lo lắng không lối thoát cho những người môn đệ của Đức Giêsu.
Bắt đầu từ những giây phút bỏ chạy trong Vườn Cây Dầu cho tới giây phút chứng kiến cảnh tảng đá đang lăn tròn che kín ngôi mộ, những người Kitô hữu đầu tiên đã trải qua hết thất vọng này sang thất vọng khác. Thoạt tiên là chuyện Giuđa bán đứng đại sư phụ với một cái hôn, nối tiếp là bản án tử của Đức Giêsu được đóng dấu bởi nhà nước bảo hộ La Mã, theo sau là nhọc nhằn con đường thập giá với đá và sỏi dẫn lên Núi Sọ, tiếp nối là kinh hoàng tiếng đinh xé rách thân xác và sắc nhọn tiếng búa lạc thần đôi mắt của Đức Giêsu. Trong thất vọng, cuối cùng mọi người dẫn nhau ra về sau khi tảng đá đóng lại che kín xác Đức Giêsu.
Nhưng rất tiếc, đúng như cụ Tiên Điền đã từng nói, “đùng đùng gió giục mây vần,” câu chuyện thất vọng không chịu dừng lại ở chỗ tảng đá được lăn tới chôn lấp một xác chết, nhưng được tiếp nối với một bản tin động trời do những người đàn bà hốt hoảng chạy về thông báo vào sáng sớm thứ Hai của ngày đầu tiên trong tuần lễ. Theo như những người nữ môn đệ, xác Đức Giêsu đã không còn nằm trong ngôi mộ đá nữa. Mà nếu xác Đức Giêsu đã biến mất, không còn trong ngôi mộ, không ai trên cõi đời vào đầu thiên niên kỷ lại dùng niềm tin Phục Sinh để giải thích cho hiện tượng ngôi mộ trống; nhưng, người người từ những em bé cho tới những cụ già, từ những nhà lãnh đạo tôn giáo cho tới chính quyền bảo hộ La Mã đều tin rằng có người đã lẻn vào ngôi mộ đánh cắp mang xác Đức Giêsu đi dấu cho một âm mưu đen tối (Gioan 20:2). Bởi thế, khi bản tin xác Đức Giêsu đã biến mất, nhà nước bảo hộ La Mã không chịu nhắm mắt bỏ qua, nhưng sẽ bắt đầu một cuộc tảo thanh, lùng kiếm xác của Ngài trên từng góc phố và trong từng căn nhà của kinh thành Giêrusalem. Khi cuộc săn lùng thi thể của Đức Giêsu bắt đầu, những người nam môn đệ sẽ là những nhân vật đầu tiên nằm trong danh sách bị truy nã, bị săn lùng, và bị tra khảo. Cho nên, không ai lạ chi nếu những cánh cửa của căn nhà nơi những người môn đệ đang ẩn sâu trốn kỹ bắt đầu từ đêm khuya của ngày thứ Năm tuần trước lại càng thêm cửa đóng then cài vào ngày thứ Hai đầu tuần của người Do Thái. Bởi thế, khi nhận được bản tin là xác Đức Giêsu đã biến mất, những người môn đệ của Đức Giêsu đã không đứng dậy hân hoan nhảy múa hét to, “Tạ ơn Chúa! Allelujah! Ngài đã sống lại!”, nhưng mà là ngược lại. Cho nên, vào ngày Phục Sinh đầu tiên, ngoài thất vọng, những người môn đệ lại có dịp nếm thêm mùi vị đắng cay của muộn phiền, bối rối, và hồi hộp chờ đợi giây phút cánh cửa căn nhà bật tung bởi xích xiềng, giáo mác và áo trận La Mã.
Cánh cửa rồi cũng mở ra, nhưng không phải bởi chính quyền La Mã, mà là hai người môn đệ nguyên gốc Emmau. Trong khi những người nam môn đệ của Đức Giêsu đang run sợ, tiếp tục giấu mình sâu hơn nữa vào trong bóng tối của căn phòng kín, hai người môn đệ vừa từ thị trấn Emmau quay về cung cấp một bản tin khác về thi hài của Đức Giêsu, lần này bản tin thật sự đã biến thành trái bom nổ tung và giựt đứt những sợi giây thần kinh căng cứng của những người môn đệ. Theo như hai người môn đệ của thị trấn Emmau, ngôi mộ đá đã trở thành ngôi mộ trống không phải bởi vì người ta cướp mất xác của Đức Giêsu cho những toan tính mờ ám, nhưng bởi vì Ngài đã phục sinh. Và chính Ngài đã hiện ra chuyện trò với họ trên suốt một quãng đường dài mười một cây số.
Trong căn phòng kín của gần hai ngàn năm về trước, bản tin về Đức Giêsu Phục Sinh đồng hành trên con đường Emmau không mang lại tiếng cười hân hoan tiếng hát tạ ơn Thiên Chúa, nhưng bản tin đã khiến cho những người môn đệ của Đức Giêsu lại thêm nặng trĩu đôi vai, hằn sâu vầng trán, thâm đen đôi mắt, bởi vì lo lắng và sợ hãi trước những tin đồn thiệt hư không biết đâu mà kiểm chứng. Vào giây phút hội ngộ giữa Emmau và Giêrusalem, ngoại trừ ông Cleopas và người môn đệ đồng hành, tâm hồn của người người trong căn phòng đóng kín cửa đều tiếp tục ngân vang khúc nhạc cung thứ nốt giáng (b) của những dòng nhạc chán nản, nghi ngờ, và hoang mang.
Không trách chi, khi Đức Giêsu với thể xác thần khí hiện ra, đứng giữa căn phòng đóng kín cửa, các người môn đệ của Đức Giêsu tin rằng họ đã thấy ma. Không biết có người nào té ra bất tỉnh hay không, nhưng nếu Đức Giêsu không chúc “Bình An cho các con” và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với những người môn đệ thân thương, có lẽ nhiều người đã bị máu cơ tim nhồi lên mà chết bởi biến cố Phục Sinh mà họ đang chứng kiến tận mắt trong căn phòng kín.
Suy Niệm
Trong ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, lời chúc bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn là một điều mà bạn và tôi đang cần đến. Thế giới đã tiến vào thiên niên kỷ thứ ba với bao nhiêu tiện nghi vật chất phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của con người. Nhưng những tiện nghi vật chất này cũng có khả năng biến thành một con dao hai lưỡi cắt đứt tay nhân loại khiến cho thế giới tiếp tục đói khát bình an.
Nhân loại ngày hôm nay đã chế được hỏa tiễn và phi thuyền bay cao lên không gian. Đồng hành với những bay cao và bay xa vào trong vũ trụ là những hỏa tiễn mang đầu đạn hạt nhân có khả năng sát hại không biết bao nhiêu mạng người chỉ trong chớp mắt.
Ngày hôm nay người ta đã xây dựng được bao nhiêu đường xa lộ siêu tốc dẫn nối từ thành phố này sang phố thị khác, từ quốc gia này sang vương quốc kia, nhưng con đường ngăn ngắn nho nhỏ dẫn sang nhà hàng xóm cỏ hoang mọc dày che kín lối đi.
Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Nhân loại ngày hôm nay bay vào trời xanh thường xuyên hơn, nhiều hơn, nhưng yêu thương ít hơn, bù lại cỏ dại của toan tính, hiềm khích, và chỉ trích tiếp tục lún phún mọc cao trong từng mảnh tâm hồn.
Ngày hôm nay nhân loại có nhiều tiền bạc mua sắm nhiều hơn, nhưng hạnh phúc và bình an, hai món hàng cần thiết như hơi thở trong không gian như lương thực cho cơ thể không mấy người mua sắm được. Thiếu vắng bình an, cây hạnh phúc trong tâm hồn rũ tàn chết khô, cây bối rối và cây phiền muộn xum xuê vươn cánh đơm bông nở nhụy.
Ngày hôm nay khi vi khuẩn SARS-CoV-2 đóng cửa mọi căn nhà trên thế giới, reo giắc kinh hoàng trên mặt quả địa cầu, mọi người trên thế giới đã biết rằng, không còn nơi nào trên quả địa cầu còn được gọi là vùng đất của bình an. Thật vậy, thế giới càng văn minh, nhân loại càng mất bình an chính vì đời sống tâm linh ngày càng trở nên khan hiếm hoặc héo úa trong từng mảnh tâm hồn của nhân loại. Tương tự như những người môn đệ của thuở xưa, bởi không có tâm thương yêu, tâm tha thứ, bởi không có niềm tin và Đức Giêsu hiện diện trong căn phòng kín của tâm hồn, bạn và tôi sẽ tiếp tục thất vọng, lo lắng, phiền muộn, và bối rối với cuộc sống và với chính mình. Vào những lúc bạn cảm thấy phiền muộn, bối rối, thất vọng với chính mình và với cuộc sống, mời bạn, chúng ta cùng hướng về căn phòng đóng kín cửa với Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện ở giữa căn phòng, và nói với Ngài,
Lời Nguyện
Lạy Chúa, trong Mùa Phục Sinh, xin chúc lành trên con lời chúc bình an năm xưa để con thôi không còn lo lắng, phiền muộn, và bối rối như những người môn đệ trong căn phòng đóng kín cửa của thời xưa.
□ Lm Nguyễn Trung Tây
Lời Chúc Bình An
Ngoài thất vọng, mùa Phục Sinh đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu rỗi cũng là mùa đong đầy những phiền muộn, bối rối, và lo lắng không lối thoát cho những người môn đệ của Đức Giêsu.
Bắt đầu từ những giây phút bỏ chạy trong Vườn Cây Dầu cho tới giây phút chứng kiến cảnh tảng đá đang lăn tròn che kín ngôi mộ, những người Kitô hữu đầu tiên đã trải qua hết thất vọng này sang thất vọng khác. Thoạt tiên là chuyện Giuđa bán đứng đại sư phụ với một cái hôn, nối tiếp là bản án tử của Đức Giêsu được đóng dấu bởi nhà nước bảo hộ La Mã, theo sau là nhọc nhằn con đường thập giá với đá và sỏi dẫn lên Núi Sọ, tiếp nối là kinh hoàng tiếng đinh xé rách thân xác và sắc nhọn tiếng búa lạc thần đôi mắt của Đức Giêsu. Trong thất vọng, cuối cùng mọi người dẫn nhau ra về sau khi tảng đá đóng lại che kín xác Đức Giêsu.
Nhưng rất tiếc, đúng như cụ Tiên Điền đã từng nói, “đùng đùng gió giục mây vần,” câu chuyện thất vọng không chịu dừng lại ở chỗ tảng đá được lăn tới chôn lấp một xác chết, nhưng được tiếp nối với một bản tin động trời do những người đàn bà hốt hoảng chạy về thông báo vào sáng sớm thứ Hai của ngày đầu tiên trong tuần lễ. Theo như những người nữ môn đệ, xác Đức Giêsu đã không còn nằm trong ngôi mộ đá nữa. Mà nếu xác Đức Giêsu đã biến mất, không còn trong ngôi mộ, không ai trên cõi đời vào đầu thiên niên kỷ lại dùng niềm tin Phục Sinh để giải thích cho hiện tượng ngôi mộ trống; nhưng, người người từ những em bé cho tới những cụ già, từ những nhà lãnh đạo tôn giáo cho tới chính quyền bảo hộ La Mã đều tin rằng có người đã lẻn vào ngôi mộ đánh cắp mang xác Đức Giêsu đi dấu cho một âm mưu đen tối (Gioan 20:2). Bởi thế, khi bản tin xác Đức Giêsu đã biến mất, nhà nước bảo hộ La Mã không chịu nhắm mắt bỏ qua, nhưng sẽ bắt đầu một cuộc tảo thanh, lùng kiếm xác của Ngài trên từng góc phố và trong từng căn nhà của kinh thành Giêrusalem. Khi cuộc săn lùng thi thể của Đức Giêsu bắt đầu, những người nam môn đệ sẽ là những nhân vật đầu tiên nằm trong danh sách bị truy nã, bị săn lùng, và bị tra khảo. Cho nên, không ai lạ chi nếu những cánh cửa của căn nhà nơi những người môn đệ đang ẩn sâu trốn kỹ bắt đầu từ đêm khuya của ngày thứ Năm tuần trước lại càng thêm cửa đóng then cài vào ngày thứ Hai đầu tuần của người Do Thái. Bởi thế, khi nhận được bản tin là xác Đức Giêsu đã biến mất, những người môn đệ của Đức Giêsu đã không đứng dậy hân hoan nhảy múa hét to, “Tạ ơn Chúa! Allelujah! Ngài đã sống lại!”, nhưng mà là ngược lại. Cho nên, vào ngày Phục Sinh đầu tiên, ngoài thất vọng, những người môn đệ lại có dịp nếm thêm mùi vị đắng cay của muộn phiền, bối rối, và hồi hộp chờ đợi giây phút cánh cửa căn nhà bật tung bởi xích xiềng, giáo mác và áo trận La Mã.
Cánh cửa rồi cũng mở ra, nhưng không phải bởi chính quyền La Mã, mà là hai người môn đệ nguyên gốc Emmau. Trong khi những người nam môn đệ của Đức Giêsu đang run sợ, tiếp tục giấu mình sâu hơn nữa vào trong bóng tối của căn phòng kín, hai người môn đệ vừa từ thị trấn Emmau quay về cung cấp một bản tin khác về thi hài của Đức Giêsu, lần này bản tin thật sự đã biến thành trái bom nổ tung và giựt đứt những sợi giây thần kinh căng cứng của những người môn đệ. Theo như hai người môn đệ của thị trấn Emmau, ngôi mộ đá đã trở thành ngôi mộ trống không phải bởi vì người ta cướp mất xác của Đức Giêsu cho những toan tính mờ ám, nhưng bởi vì Ngài đã phục sinh. Và chính Ngài đã hiện ra chuyện trò với họ trên suốt một quãng đường dài mười một cây số.
Trong căn phòng kín của gần hai ngàn năm về trước, bản tin về Đức Giêsu Phục Sinh đồng hành trên con đường Emmau không mang lại tiếng cười hân hoan tiếng hát tạ ơn Thiên Chúa, nhưng bản tin đã khiến cho những người môn đệ của Đức Giêsu lại thêm nặng trĩu đôi vai, hằn sâu vầng trán, thâm đen đôi mắt, bởi vì lo lắng và sợ hãi trước những tin đồn thiệt hư không biết đâu mà kiểm chứng. Vào giây phút hội ngộ giữa Emmau và Giêrusalem, ngoại trừ ông Cleopas và người môn đệ đồng hành, tâm hồn của người người trong căn phòng đóng kín cửa đều tiếp tục ngân vang khúc nhạc cung thứ nốt giáng (b) của những dòng nhạc chán nản, nghi ngờ, và hoang mang.
Không trách chi, khi Đức Giêsu với thể xác thần khí hiện ra, đứng giữa căn phòng đóng kín cửa, các người môn đệ của Đức Giêsu tin rằng họ đã thấy ma. Không biết có người nào té ra bất tỉnh hay không, nhưng nếu Đức Giêsu không chúc “Bình An cho các con” và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với những người môn đệ thân thương, có lẽ nhiều người đã bị máu cơ tim nhồi lên mà chết bởi biến cố Phục Sinh mà họ đang chứng kiến tận mắt trong căn phòng kín.
Suy Niệm
Trong ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, lời chúc bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn là một điều mà bạn và tôi đang cần đến. Thế giới đã tiến vào thiên niên kỷ thứ ba với bao nhiêu tiện nghi vật chất phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của con người. Nhưng những tiện nghi vật chất này cũng có khả năng biến thành một con dao hai lưỡi cắt đứt tay nhân loại khiến cho thế giới tiếp tục đói khát bình an.
Nhân loại ngày hôm nay đã chế được hỏa tiễn và phi thuyền bay cao lên không gian. Đồng hành với những bay cao và bay xa vào trong vũ trụ là những hỏa tiễn mang đầu đạn hạt nhân có khả năng sát hại không biết bao nhiêu mạng người chỉ trong chớp mắt.
Ngày hôm nay người ta đã xây dựng được bao nhiêu đường xa lộ siêu tốc dẫn nối từ thành phố này sang phố thị khác, từ quốc gia này sang vương quốc kia, nhưng con đường ngăn ngắn nho nhỏ dẫn sang nhà hàng xóm cỏ hoang mọc dày che kín lối đi.
Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Nhân loại ngày hôm nay bay vào trời xanh thường xuyên hơn, nhiều hơn, nhưng yêu thương ít hơn, bù lại cỏ dại của toan tính, hiềm khích, và chỉ trích tiếp tục lún phún mọc cao trong từng mảnh tâm hồn.
Ngày hôm nay nhân loại có nhiều tiền bạc mua sắm nhiều hơn, nhưng hạnh phúc và bình an, hai món hàng cần thiết như hơi thở trong không gian như lương thực cho cơ thể không mấy người mua sắm được. Thiếu vắng bình an, cây hạnh phúc trong tâm hồn rũ tàn chết khô, cây bối rối và cây phiền muộn xum xuê vươn cánh đơm bông nở nhụy.
Ngày hôm nay khi vi khuẩn SARS-CoV-2 đóng cửa mọi căn nhà trên thế giới, reo giắc kinh hoàng trên mặt quả địa cầu, mọi người trên thế giới đã biết rằng, không còn nơi nào trên quả địa cầu còn được gọi là vùng đất của bình an. Thật vậy, thế giới càng văn minh, nhân loại càng mất bình an chính vì đời sống tâm linh ngày càng trở nên khan hiếm hoặc héo úa trong từng mảnh tâm hồn của nhân loại. Tương tự như những người môn đệ của thuở xưa, bởi không có tâm thương yêu, tâm tha thứ, bởi không có niềm tin và Đức Giêsu hiện diện trong căn phòng kín của tâm hồn, bạn và tôi sẽ tiếp tục thất vọng, lo lắng, phiền muộn, và bối rối với cuộc sống và với chính mình. Vào những lúc bạn cảm thấy phiền muộn, bối rối, thất vọng với chính mình và với cuộc sống, mời bạn, chúng ta cùng hướng về căn phòng đóng kín cửa với Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện ở giữa căn phòng, và nói với Ngài,
Lời Nguyện
Lạy Chúa, trong Mùa Phục Sinh, xin chúc lành trên con lời chúc bình an năm xưa để con thôi không còn lo lắng, phiền muộn, và bối rối như những người môn đệ trong căn phòng đóng kín cửa của thời xưa.
□ Lm Nguyễn Trung Tây
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Biển Chiều Êm/Peaceful Sunset
Robert Helfman
12:02 16/04/2021
BIỂN CHIỀU ÊM/PEACEFUL SUNSET
Ảnh của Robert Helfman
Tạ ơn Chúa Cả thương ban
Một ngày đã hết thật là bình yên
(bt)
Ảnh của Robert Helfman
Tạ ơn Chúa Cả thương ban
Một ngày đã hết thật là bình yên
(bt)
VietCatholic TV
Tin vui: Hai tin rất mừng cho Giáo Hội Pháp liên quan đến Notre Dame de Paris, Giáo phận Versailles
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
04:58 16/04/2021
1. Hình ảnh hậu trường bên trong công trình xây dựng lại Nhà thờ Đức Bà
Không có gì lạ khi những nhà thờ lớn như thế này phải mất hàng thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ để xây dựng.
Trần nhà hình vòm, cửa sổ kính màu và hàng cột phức tạp - rất nhiều điều khiến Nhà thờ Đức Bà Paris trở thành một trong những kỳ quan gothic tinh tế nhất thế giới, nổi bật một cách gần như kỳ diệu.
Công trình kiến trúc ngôi nhà thờ Pháp này bắt đầu vào năm 1163, mãi đến năm 1345 mới hoàn thành.
Việc xây dựng nhà thờ có thể đã mất 182 năm kể từ khi nó bắt đầu vào năm 1163, nhưng ngọn lửa vào năm 2019 chỉ mất vài giờ để ảnh hưởng đến sự ổn định của tòa nhà. Công việc trong hai năm qua là bảo đảm rằng nhà thờ luôn đứng thẳng.
Jean-Louis Georgelin, Giám đốc cơ quan phụ trách tái thiết Nhà thờ Đức Bà cho biết: “Chúng tôi phải an tâm hoàn toàn rằng cấu trúc đó vững chãi bằng cách thực hiện nhiều biện pháp gia cố. Chúng tôi không muốn tái thiết mà không được yên tâm”.
Ngọn Tháp phía Bắc mang tính biểu tượng, đã có lúc bị ngọn lửa đe dọa vào đêm hỏa hoạn. Cuối cùng, ngọn lửa đã bị dập tắt trước khi nó có thể khiến ngọn tháp sụp đổ. Nơi có ngọn tháp Notre Dame nổi tiếng từng đứng sừng sững trên nền trời Paris là nơi diễn ra phần tàn khốc nhất của đám cháy.
Khi cả thế giới quan sát, ngọn tháp, lúc bấy giờ đang được trùng tu, đã sụp đổ và xuyên thủng trần nhà thờ, trước khi ngã gục xuống gian giữa.
Giàn giáo bao quanh nó bao gồm 40,000 ống kim loại sụp đổ, nóng chảy, xoắn vào tòa nhà. Những mảnh kim loại này phải được cẩn thận nhặt lên và loại bỏ.
Jean-Louis nói: “Đây là nơi ngọn tháp sụp đổ, đây là trung tâm của thảm kịch”.
Bây giờ giàn giáo cho việc cải tạo đã sẵn sàng, Jean-Louis cho biết công việc xây dựng lại trần hình vòm của nhà thờ chính tòa Đức Bà và phần chóp của nó sẽ bắt đầu trước cuối năm nay.
Phần bên ngoài nhà thờ chính tòa cũng được chỉnh trang trước cuối năm nay. Mặt tiền gothic mang tính biểu tượng của nhà thờ đứng vững là minh chứng cho một công trình đã được chứng minh là vững chắc và tinh tế.
Source:Net TV
2. Ba thách đố của Đức Cha Luc Crepy, tân giám mục của Versailles
Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy đây là lễ nghi nhậm chức của Đức Cha Luc Crepy, tân Giám Mục Versailles, vào ngày Chúa Nhật 11 Tháng Tư tại Nhà thờ Saint-Louis của giáo phận.
Giáo phận Versailles có khoảng 1,5 triệu dân, trải rộng trên 75 giáo xứ, với khoảng 180 linh mục, 40 phó tế vĩnh viễn và hàng ngàn tình nguyện viên tham gia ở các cấp độ khác nhau trong việc phục vụ Giáo hội.
Chủng viện của giáo phận ở Yvelines có khoảng hai mươi chủng sinh đang được đào tạo. Ngoài ra, chín thanh niên hiện đang tham gia vào một năm tìm hiểu. Sự năng động này đã giúp giáo phận có thể mở lại một chủng viện cho đến bậc đại học vào năm 2006, sau khi đã bị đóng cửa vào năm 1972.
Trong giáo phận với nhiều nét trái ngược này, việc thực hành đạo của người Công Giáo dao động từ 30% ở một số quận nhất định của Versailles cho đến dưới 1% ở các khu vực khác.
Tờ La Croix trong số ra ngày 12 tháng Tư, có bài nhận định nhan đề “Les trois défis de Mgr Luc Crepy, nouvel évêque de Versailles”, nghĩa là “Ba thách đố của Đức Cha Luc Crepy, tân giám mục của Versailles”. Bài báo trình bày khá nhiều bài học hữu ích cho Giáo Hội tại Việt Nam. Vì thế, xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi toàn văn bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Anh Chi.
Với sự khởi đầu sứ vụ chủ chăn của Đức Cha Luc Crepy, 62 tuổi, lịch sử giáo phận Versailles đã bước sang một trang mới vào ngày Chúa Nhật 11 tháng 4, sau khi giáo phận này được Đức Cha Éric Aumonier chăn dắt trong hai thập kỷ.
Về mặt xã hội, văn hóa và tôn giáo, ít nơi nào ở Pháp có vẻ trái ngược như Le Chesnay và Trappes. Le Chesnay được kể là vùng ngoại ô thượng lưu của Versailles với nhiều nhóm hướng đạo sinh và là nơi một phần ba dân số đi lễ vào các ngày Chúa Nhật hàng tuần. Trappes, ngược lại, được kể là một vùng ngoại ô khét tiếng là có nhiều vấn nạn, và gần đây là tiêu điểm của các phương tiện truyền thông trước các vấn đề liên quan đến Hồi giáo ly khai.
Chưa hết, cả Trappes và Le Chesnay đều là hai thị trấn của Yvelines, và phụ thuộc vào cùng một giáo phận, là giáo phận Versailles. Đức Cha Bruno Valentin, Giám Mục Phụ Tá từ năm 2019 đến nay, nhận xét rằng: “Đó là một vùng của tất cả những tương phản”. Vị Giám mục Versailles phải thông thạo mọi địa hình, phải thích nghi được với phụng vụ truyền thống lẫn các thánh lễ với nhiều nét chấm phá qua các bài hát Phi Châu. Lời khuyên của Đức Cha Valentin dành cho vị tân giám mục là “Hãy nếm trải sự đa dạng này càng nhanh càng tốt, trước mùa hè”.
Vị tân Giám mục sẽ có thể khám phá ra ở đó những cộng đồng tràn đầy sức sống và năng động, đặc biệt là nơi các Kitô hữu thuộc các nhóm thiểu số, nhưng mong đợi rất nhiều từ nơi ngài, với các hỗ trợ và nhiệt tình mục vụ. “Yêu cầu đầu tiên của chúng tôi với Đức Cha là ngài hãy đến gặp chúng tôi!” Những cộng đoàn như thế ở mọi nơi trong vùng Yvelines, cả ở những khu vực giàu có và những khu dân cư của tầng lớp lao động.
Nữ tu Bernadette Diarra, thuộc dòng Filles du Cœur immaculé de Marie de Bamako, tức là dòng Nữ Tử Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria Bamako, bên Mali, được bổ nhiệm hoạt động mục vụ tại Yvelines từ tháng 9 năm ngoái. Sơ Diarra tuyên bố “không hề cảm thấy lạc lõng khi đến nơi”. Và vì lý do rất xác đáng: “trong các lễ lạc lớn, tôi thấy thực sự là một ngày đại lễ ở Phi Châu!” Đó là một thực tế khác xa với những khuôn sáo thông thường trong giáo phận Versailles. Versailles đã từng là trú sở của Vua Louis XIV, và ngày nay người ta cũng phải thừa nhận rằng đó cũng là nơi định cư của nhiều người với các quốc tịch khác nhau, thường gắn bó với Hồi giáo cực đoan hơn là với Công Giáo. Chẳng hạn như ở Trappes, nơi gần đây bị cáo buộc là trung tâm của các cộng đồng Hồi giáo. Đó chính xác là nơi nữ tu người Mali sống.
Cha Xavier Chavane, cha sở của Sartrouville, là một người quan sát tinh tường thực tế đa dạng của vùng này. Ngài mỉm cười nói: “Thành phố này là một bản tóm tắt của tất cả các thể loại Yvelines”. Ở đó, cách trung tâm Paris vài nhà ga đường sắt tốc hành, tiếng Pháp gọi là Réseau Express Régional, viết tắt RER, các khu trung lưu và các chung cư cao tầng nằm san sát cách nhau vài chục mét. Đối với Cha Chavane, khi đề cập đến giáo phận Versailles, người ta không nên quên thực tại Kitô giáo trong các khu dân cư của tầng lớp lao động – và đừng lý tưởng hóa thực tại ấy.
Cũng giống như Sơ Diarra, người rất vui mừng khi phát hiện ra ở Trappes “một Giáo hội luôn tìm kiếm những người khác”, Cha Chavane nhìn thấy những kho báu thực sự trong kinh nghiệm của các Kitô hữu tại các thành phố. Ngài nói: “Một trong những đặc điểm của các giáo xứ ở các khu bình dân, là cách họ tôn vinh Chúa Kitô khiến bạn muốn gặp Người. Một linh mục Việt Nam, Cha phó xứ Daniel Lê còn tỏ ra hài hước hơn: “Ở đây, tôi phát hiện ra rằng thánh lễ có thể truyền giáo!”
Điều này không có nghĩa là hoàn cảnh của các tín hữu Kitô là thanh bình ở những thành phố khó khăn này. Cha xứ Sartrouville cho biết, tình hình có khả quan hơn trước đây, nhưng vẫn có một áp lực nhất định tác động lên các Kitô hữu trẻ tuổi để buộc họ phải cải sang đạo Hồi. Điều này đặc biệt đúng khi những người trẻ tuổi không được đào tạo giáo lý vững chắc và cảm thấy mình bất lực khi bị các đồng nghiệp Hồi giáo chất vấn về niềm tin của mình. Cha Lê tóm tắt: “Tình cảnh này không dễ dàng và một trong những thách đố là chúng ta phải giúp trẻ em và người trẻ không xấu hổ về phúc âm và đức tin của họ”.
Để khuyến khích những người trẻ này, vị tân Giám mục Versailles có thể phải quan tâm đến việc phát triển các cầu nối giữa các cộng đồng giáo xứ, mang lại cho họ sự tự tin rằng họ không đơn độc trong niềm tin và trong việc thể hiện cho những cư dân khác trong giáo phận thấy lòng nhiệt thành đang làm sôi động các giáo xứ của thành phố. Đã có những cuộc trao đổi không thường xuyên giữa các giáo xứ, như khi anh chị em giáo dân từ một thành phố đặc biệt khó khăn đến để linh hoạt thánh lễ trong một vùng ngoại ô dân cư giàu có hơn.
Tuy nhiên, tương tác này không nên là một con đường một chiều. Đây là cách mà Đức Cha Valentin muốn thành công trong việc “chia sẻ của cải địa phương hóa” được đại diện bởi những giáo dân dấn thân. Nói cách khác, ngài muốn dựa vào sự dấn thân của các tín hữu – đặc biệt ở một số nơi như Versailles, Chatou hoặc Saint-Germain-en-Laye - để những khu vực khó khăn nhất của giáo phận có thể hình thành nên một cơ cấu giáo hội thực sự nhằm phục vụ người dân địa phương.
Cha Pierre Bothuan, chánh xứ Houdan, ở biên giới với Eure-et-Loir, cười nói: “Tôi năm nay 51 tuổi, có 80 linh mục trẻ hơn tôi trong giáo phận”. Đó là một tình huống có một không hai ở Pháp. Với độ tuổi trung bình là 52, các linh mục ở Versailles trẻ hơn đáng kể so với phần còn lại của nước Pháp, khoảng 1/4 thế kỷ.
Để giải thích đặc thù này, Cha Matthieu Dupont, giám đốc chủng viện Versailles, đặc biệt đề cao đức tin của các gia đình - “ân sủng của một ơn gọi đến từ ân sủng của một môi trường mà nó có thể phát triển” - và tầm quan trọng của việc khải đạo. Ngài không giấu giếm điều đó, hơn nữa, hầu hết tất cả các chủng sinh đều đến từ những vùng mà đạo Công Giáo “gia đình” vững vàng nhất. Sự giàu có này đã khiến Versailles, vào năm 2006, có thể mở được chủng viện của riêng mình - dù chỉ đến bậc đại học. Điều này không phải là không gây ra một số ngạc nhiên vào thời điểm đó ở các giáo phận lân cận.
Tuy nhiên, sự năng động về ơn gọi này không che lấp những khó khăn mà linh mục đoàn đã phải trải qua trong những năm gần đây. Một số linh mục đã kiệt sức, một số rời khỏi giáo phận, tự nguyện hoặc bị bắt buộc, và có cả những người tự nguyện rời khỏi chức linh mục, hay bị huyền chức. “Sau nhiều năm không có biến động, chúng tôi đột nhiên trải nghiệm sự mong manh,” Cha Bothuan nói một cách khiêm tốn. Và theo cha giám đốc chủng viện giáo phận, tuổi trẻ của hàng giáo sĩ Versailles có thể là một khuyết tật, các linh mục cao niên không đủ nhiều để mang lại sự trưởng thành cho hàng giáo sĩ.
Bên cạnh những lý do đa dạng khác, những cuộc ra đi này đặt ra câu hỏi về mối quan hệ giữa các linh mục và giám mục của họ. Đức Cha Bruno Valentin, được bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá vào năm 2019, đặc biệt để xoa dịu những căng thẳng, nhìn nhận: “Linh mục đoàn của chúng tôi đã trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng về lòng tin và quản trị, đặc biệt là liên quan đến các mối liên hệ với giám mục”. Một số linh mục cũng có thể có những lời lẽ đặc biệt gay gắt đối với giám mục cũ của các ngài, với lý do là không được quan tâm cá nhân và thiếu sự công nhận những thành tích của các ngài. Đối với Giám mục Valentin, “một sự thay đổi trong văn hóa quản lý” là cần thiết.
Nhưng đối với nhiều người, sự thay đổi cũng phải đến từ hàng giáo sĩ, những người được yêu cầu phải có “đức vâng phục”. Cha Dupont nhấn mạnh: “Đó là một phẩm chất, nhưng nó có thể trở thành một nhược điểm khi ngăn cản việc nói ra những bất đồng”. Theo Cha Dupont, “có lẽ chúng ta phải tạo ra một cơ chế cho các bất đồng chính đáng, cho phép mình nói ra những điều ấm ức mà không mất tinh thần phục vụ và cống hiến. Trong khi toàn tâm hướng về Đức Cha và cộng đoàn dân Chúa”.
Ngay cả trước khi Đức Thánh Cha Phanxicô được bầu làm Giáo Hoàng và những lời kêu gọi về một “sự chuyển đổi truyền giáo” trong Giáo hội, Giáo phận Versailles đã đặc biệt nhấn mạnh đến nghĩa vụ truyền giáo của các Kitô hữu. Sau Thượng hội đồng giáo phận năm 2010-2011, một trường học, École Pour Servir L’évangélisation, gọi tắt là ESE, đã được thành lập để phục vụ công cuộc tân Phúc Âm Hóa.
Giáo phận Versailles lúc này lúc khác được xem là một đỉnh cao của Công Giáo Pháp, nhưng điều này không có nghĩa là việc truyền giáo không có chỗ ở đó. Geneviève Guilhem-Ducléon, một trong hai người phụ trách ESE, mỉm cười nói: “Như ở khắp mọi nơi, Tin Mừng cần được công bố một cách táo bạo và với đức bác ái”. Để hỗ trợ cho nhận định này, một con số được đưa ra: số người Công Giáo thực hành đạo thường xuyên trong vùng này ước tính khoảng 5%. “Có chỗ để nâng cao!”, Frédéric Deren, người phụ trách khác của ESE, nói. Tất cả các dịp đều tốt cho việc rao truyền Chúa Kitô. Do đó, ESE đã có thể đào tạo một đội tang lễ. Hai tình nguyện viên giải thích: “Mục tiêu là tìm ra những từ ngữ phù hợp để rao giảng cho các gia đình bị tang tóc”.
Tinh thần truyền giáo của người dân Yvelines không chỉ giới hạn ở sự phục vụ tận tâm của họ. Tại Trappes, nơi có 3/4 dân số theo đạo Hồi, việc rao giảng Tin Mừng cũng được thực hiện tại trường Sainte-Marie. Cơ sở có 330 học sinh đại diện cho sự đa dạng của thành phố Đây không phải là một cơ sở chiêu dụ tín đồ, nhưng không có cách nào làm giảm bản sắc Công Giáo của nhà trường. Hiệu trưởng Magali Ménard nhấn mạnh: “Tất cả các bậc cha mẹ đều biết rằng có một thông báo rất rõ ràng về đức tin ở đây”.
Bí mật của sự hiện diện truyền giáo ôn hòa này trong một thành phố thường được coi là điểm nóng của Hồi giáo cực đoan là gì? Thưa: Đó là sự dấn thân của phụ huynh và đội ngũ giảng dạy vì sự thành công của trẻ. Điều này cho phép biến nhà trường thành “một nơi gặp gỡ, nơi đức tin được sống một cách vui tươi và không bị gò bó”.
Source:La Croix
Tượng Chúa Kitô lớn nhất thế giới, hơn cả tượng tại Rio de Janeiro đang được ráo riết xây dựng
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:38 16/04/2021
1. Pho tượng “Chúa Kitô Bảo Vệ”, cao 43 mét sẽ được xây tại Brazil
Sáng kiến xây dựng pho tượng mới do ông Gilson Conzatti, thị trưởng Encantado và con là Adroaldo. Mục đích họ nhắm tới là để biểu dương đức tin và đồng thời cũng để thu hút du khách. Thị trấn này có 22.000 dân và cách thủ phủ Porto Alegre của bang Rio Grande do Sul 145 cây số về hướng tây bắc.
Tượng được đặt tên là “Chúa Kitô Bảo Vệ”, cao 43 mét kể cả bệ, tức là cao hơn 5 mét so với Tượng Chúa Kitô Cứu Thế ở thành Rio de Janeiro, và hai cánh tay của tượng dài 36 mét, tức là dài hơn 10 mét so với tượng ở Rio. Bên trong tượng có thang máy để lên đỉnh, tại đây có một khu vực để du khách quan sát và ngắm cảnh.
Công trình lập tượng bắt đầu từ năm 2019 với phí tổn dự kiến là hai triệu đồng Real của Brazil, tương đương với 350.000 Mỹ kim, do những người hảo tâm đóng góp và hiệp hội Những người bạn của Chúa Kitộ phối hợp công trình kiến thiết và quản lý. Trong những ngày này, đầu và hai cánh tay giang rộng được gắn vào khung tượng, và phần còn lại của tượng sẽ được gắn vào trong vòng tám tháng tới đây.
Source:CNA
2. Đức Tổng Giám Mục Cordileone kêu gọi 'tiêm chủng chống phân biệt chủng tộc'
Đức Tổng Giám Mục Salvatore Cordileone của San Francisco tuần trước đã lên án bạo lực đối với người Á Châu tại Hoa Kỳ, và đưa ra sự so sánh giữa vắc-xin COVID-19 và quan điểm chống phân biệt chủng tộc.
“Việc tiêm chủng chống phân biệt chủng tộc có thể được tóm gọn trong một từ: đức hạnh”, Đức Tổng Giám Mục Cordileone nói hôm 10 tháng 4 tại Nhà thờ Đức Bà.
Phát biểu của Đức Tổng Giám Mục được đưa ra trong một buổi lễ cầu nguyện cho việc “chấm dứt bạo lực và phân biệt chủng tộc đặc biệt đối với người Á Châu, vì sự hàn gắn cho đất nước chúng ta, và vì sự hưng thịnh của hòa bình và công lý trên đất nước của chúng ta”.
Sự kiện này được tổ chức trong bối cảnh các báo cáo gần đây về tình trạng bạo lực gia tăng đối với cộng đồng Á Châu tại Hoa Kỳ.
Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ báo cáo rằng 36% người dân ở Quận San Francisco là người gốc Á. Đức Cha Cordileone lưu ý rằng nhập cư từ Trung Quốc đã không đổi trong thành phố ngay từ đầu, và nhập cư từ các quốc gia Á Châu khác cũng phổ biến trong khu vực. Theo Đức Tổng Giám Mục điều “rất đáng lo ngại” là “bạo lực chủng tộc sẽ manh nha ở đây”.
Đức Tổng Giám Mục đã trích dẫn Đức Giáo Hoàng Phanxicô, khi vị Giáo Hoàng Á Căn Đình mô tả phân biệt chủng tộc là “một loại vi rút nhanh chóng biến đổi và thay vì biến mất, lại ẩn náu và ẩn nấp chờ đợi”.
Đức Tổng Giám Mục Cordileone cho biết “vi rút phân biệt chủng tộc” rất giống COVID-19. “Nó không bao giờ biến mất, nhưng có nhiều cách để chúng ta tiêm chủng chống lại nó, và phải luôn cảnh giác để bảo vệ bản thân khỏi bị lây nhiễm”.
Source:Catholic News Agency
3. Tòa án tối cao Hoa Kỳ cho biết giới hạn của California đối với các cuộc tụ họp tôn giáo tại gia là quá nghiêm ngặt
Tòa án tối cao Hoa Kỳ cho biết các hạn chế về coronavirus đối với các cuộc tụ họp tôn giáo tại gia như học Kinh thánh, thờ phượng và cầu nguyện là quá nghiêm ngặt so với khuôn khổ hiến pháp, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ cho biết trong một án lệnh cuối ngày thứ Sáu.
Trích dẫn quyết định của tòa phúc thẩm trong một trường hợp khác, phán quyết của tòa cho biết tiểu bang không thể “cho rằng điều tồi tệ nhất xảy ra khi mọi người thờ phượng và điều tốt nhất xảy ra khi họ đi làm. “
California đã nói rằng những hạn chế của họ đối với các cuộc tụ họp xã hội là “hoàn toàn trung lập”. Các quy tắc hạn chế coronavirus hiện tại của tiểu bang đã giới hạn các cuộc tụ họp xã hội trong nhà không quá ba hộ gia đình, và những người tham dự phải đeo khẩu trang y tế và giữ khoảng cách xã hội với nhau.
Các quy tắc này đã được thách thức bởi Mục Sư Jeremy Wong và Karen Busch, hai cư dân của Hạt Santa Clara, trong Khu vực Vịnh San Francisco. Thông tấn xã AP cho biết họ muốn tổ chức các buổi học Kinh Thánh trực tiếp, với một số ít người tại nhà của họ. Trong vụ kiện được gọi là Tandon kiện Newsom, họ phản đối các giới hạn đã cản trở việc thực hiện tự do tôn giáo của họ.
“Không có bằng chứng nào cho thấy việc học Kinh Thánh trong nhà rủi ro hơn một chuyến đi xem phim, ăn tối ở nhà hàng, tập luyện trong phòng tập thể dục hoặc tụ tập với hàng chục người bạn tại một nhà máy rượu, nhà máy bia, nhà máy chưng cất hoặc sân chơi bowling”, các nguyên đơn cho biết trong đơn kháng cáo của họ lên Tòa án Tối cao.
Source:Catholic News Agency
4. Đức Thánh Cha bày tỏ sự gần gũi với các nạn nhân của bạo lực ở miền nam Colombia
Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên án “các đợt bạo lực và bày tỏ sự gần gũi của ngài với những người dân đang sống trong quá nhiều đau khổ” ở khu vực Tây Nam Thái Bình Dương của Colombia. Đức Hồng Y Pietro Parolin, đã viết như trên trong một bức điện gửi tới chủ tịch Hội đồng Giám mục Colombia, là Đức Tổng Giám Mục Oscar Urbina Ortega của Villavicencio. Bức điện cũng đề cao “dấn thân của các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân trong việc không ngừng tìm kiếm để xây dựng các mối quan hệ hòa bình trong toàn bộ khu vực”.
Colombia hiện đang trải qua tình trạng bạo lực tồi tệ nhất mà đất nước từng chứng kiến kể từ khi hiệp định hòa bình năm 2016 giữa Bogota và nhóm Lực lượng vũ trang cách mạng Colombia, nhằm chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài nửa thế kỷ. Theo báo cáo của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vào tháng 3, hơn 13,000 dân thường ở Colombia, trong đó có hơn 5,000 trẻ em, đã phải di dời hoặc hạn chế di chuyển do hoạt động của các nhóm vũ trang trên toàn quốc trong tháng Giêng và tháng 2.
Một số chiến binh du kích đã từ chối tham gia tiến trình hòa bình, và tiếp tục cuộc đấu tranh của họ, đồng thời tham gia cùng với những kẻ buôn bán ma túy tại các khu vực vô luật pháp của Colombia. Phiến quân cách mạng Colombia, các nhóm du kích cánh tả, các nhóm buôn bán ma túy đều đang chiến đấu để giành quyền kiểm soát ngành sản xuất cocaine béo bở và các thị trường khai thác bất hợp pháp.
Gần đây, khu vực phía nam của đất nước cũng bùng phát bạo lực. Ngày 26 tháng Ba, hàng chục người bị thương ở Corinto, thuộc tỉnh Cauca, Tây Nam Colombia, khi một quả bom đặt trên xe hơi phát nổ trước tòa thị chính, tại một trong những địa điểm biểu tượng của cộng đồng bản địa ở Colombia.
Trong những khu vực, nơi từng là thành trì của phiến quân cách mạng Colombia trong những thập kỷ gần đây, các nhóm vũ trang và băng đảng có liên quan đến việc buôn bán ma túy đang hoạt động rất ráo riết. Tại Toribío, nơi Cha Álvaro Ulque, linh mục bản xứ đầu tiên ở Colombia, bị giết vào năm 1984, các nhà truyền giáo dòng Consolata tiếp tục công việc của ngài để nâng đỡ cho người nghèo giữa chập chùng các khó khăn.
Source:Vatican News