Ngày 30-03-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:33 30/03/2009
NGHỆ THUẬT

N2T


Có người hỏi: “Cuối cùng thì sư phụ được dùng vào việc gì ?”

Có một đệ tử trả lời: “Sư phụ dạy ông một vài việc mà ông đã biết từ trước, chỉ giáo ông cái hiện tượng mà ông cả ngày nhìn mà không thấy.”

Người học đạo không hiểu nổi ý nghĩa ấy, vị đệ tử ấy lại nói:

“Một nghệ thuật gia dùng bức họa của ông ta để dạy ta biết thưởng thức quang cảnh mặt trời lặn. Sư phụ dùng khai thị của ông ta để dạy ta nhận thức chân tướng của cuộc sống trong mỗi một cái nháy mắt.”

(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)

Suy tư:

Người ta thường nói: nghệ thuật ăn uống, nghệ thuật cắm hoa, nghệ thuật yêu đương, nghệ thuật nói chuyện, nghệ thuật giao tiếp, nghệ thuật dạy và học.v.v...nghĩa là nghệ thuật đối với con người rất cần thiết, bởi vì con người sống là sống với, sống cùng và sống cho người khác, cho nên nghệ thuật trong cuộc sống rất đáng quan tâm...

Sẽ không có nghệ thuật nếu không có người (sư phụ) chĩ dẫn, bởi vì có những việc chúng ta mỗi ngày đều thực hiện mà không hiểu ý nghĩa, có những vật chúng ta nhìn hằng ngày mà không thấy, cho nên sư phụ là người dạy chúng ta hiểu và thây những điều ấy.

Ai cũng biết sư phụ là người dạy một môn nào đó cho học trò, nhưng vì ghenh ghét và kiêu ngạo nên mới hỏi: sư phụ thì làm những việc gì ?! ha ha ha đúng là “giả nai” vi kiêu ngạo.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:35 30/03/2009
N2T


124. Ngoại trừ anh nổ lực tìm kiếm các loại đức hạnh và thường thường thực hành nó, bằng không thì mức độ tu đức cao của anh sẽ thấp đi một phần.

(Thánh nữ Terese of Avila)
 
Mỗi ngày một câu Cách Ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:37 30/03/2009
N2T


69. Không nên để cho con rắn ghen ghét luồn vào trong tim, bởi vì con rắn này sẽ gặm mòn đầu óc anh, phá hủy linh hồn anh, khiên cho anh mãi trầm mê trong nó.

 
Chết vì yêu
LM. Anphong Trần Đức Phương
04:50 30/03/2009
Chết vì yêu

Chúa Nhật Lễ Lá và tuần thánh, năm B

Chúa Nhật Thương Khó, tức là Chúa Nhật Lễ Lá, mở đầu Tuần Thánh. Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay có phần mở đầu đặc biệt kỷ niệm việc Chúa Giêsu long trọng đi vào Thành Thánh Giêrusalem. Chủ tế mặc phẩm phục màu đỏ, làm phép lá và kiệu lá hoặc rước lá trọng thể hoặc đơn giản trước Thánh Lễ, sau đó đọc Bài Phúc Âm (Matcô 11,1-10) ghi lại việc Chúa Giêsu đi vào Thành Thánh Giêrusalem một cách long trọng; trên đường đi có nhiều ngừơi vui mừng hoan hô đón rước Chúa. Sau đó Chủ Tế đọc Lời Nguyện Đầu Lễ và tiếp theo là phần phụng vụ Lời Chúa: Bài Đọc I (Isaia 50,4-7) là “Bài Ca III về Người tôi tớ của Thiên Chúa” đã được giáo huấn để nhẫn nhục chịu đựng mọi hành hà nhục nhã. Trong Bài Đoc II (Philiphê 2,6-11), Thánh Phaolô trình bày việc Chúa Giêsu, dù là Thiên Chúa thật, nhưng đã vâng lời Đức Chúa Cha, hạ mình xuống để trở nên như một con ngừơi nghèo khó, chịu đựng mọi đau khổ và chết nhục nhã trên Thánh Gía để chuộc tội nhân loại. Vì thế Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người lên và mọi loài, mọi vật đều phải kính tôn thờ lạy. Bài Phúc Âm là Bài Thương Khó theo Thánh Matcô (chương14 &15) ghi lại đầy đủ các chi tiết về những đau khổ, nhục nhã Chúa Giêsu đã chịu cho đến chết, chết trên Thánh Giá để chuộc tội nhân loại, sau đó được tháo xác xuống và táng trong mộ đá.

Tuần Thánh là cao điểm của năm phụng vụ để chúng ta sống lại những kỷ niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu: Đặc biệt là Thứ Năm, Thứ Sáu, và Thứ Bảy.

Thứ Năm Tuần Thánh kỷ niệm Chúa Giêsu và mười hai Tông Đồ ăn bữa Tiệc Ly, Bữa Tiệc Tình Thương. Trong giờ phút linh thiêng đó, Chúa Giêsu ban những huấn dụ đặc biệt cho các Tông Đồ về tình đoàn kết và yêu thương nhau, rồi Chúa Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các Tông Đồ để dạy chúng ta bài học phục vụ trong khiêm tốn. Sau đó, Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể và chức Linh Mục (Xin đọc Phúc Âm theo Thánh Gioan từ chương 13 đến 17). Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy tha thiết cầu xin ơn thánh hóa cho các linh mục, và cầu nguyện cho mỗi người chúng ta thêm lòng sùng kính “Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Thánh Thể,” và xin cho chúng ta luôn noi gương Chúa, hạ mình xuống và yêu thương phục vụ lẫn nhau.

Buổi sáng ngày Thứ Năm Tuần Thánh, tại Nhà Thờ Chánh Tòa, Đức Giám Mục cử hành Thánh Lễ làm phép các Dầu Thánh để đưa về các Giáo Xứ dùng trong Phép Rửa tội, Thêm Sức và xức dầu bịnh nhân. Thánh Lễ làm Phép Dầu Thánh cũng là dịp để các Linh mục toàn Giáo phận trở về Nhà Thờ Chánh Tòa cùng đồng tế với Đức Giám Mục Giáo phận để bày tỏ sự hiệp nhất với Đức Giám Mục và các Linh Mục trong Giáo phận; đồng thời cùng nhắc lại lời tuyên hứa khi chịu chức Linh Mục, trước mặt Đức Giám Mục và toàn thể dân Chúa. Rồi Đức Giám Mục cũng mời gọi Giáo dân cầu nguyện cho chính Ngài và các Linh Mục được ơn Chúa thánh hóa, để dù vẫn mang thân phận yếu hèn của con người, các vị luôn cố gắng sống xứng đáng các chủ chăn trong Hội Thánh Chúa. Tại Hoa Kỳ, để các Linh Mục có thể về đồng tế đầy đủ với Đức Giám Mục, và để Giáo Dân có thể tham dự đông đảo, Thánh Lễ làm Phép Dầu Thánh thường được cử hành vào buổi chiều ngày Thứ Năm một tuần trước Thứ Năm Tuần Thánh.

Thứ Sáu Tuần Thánh kỷ niệm Chúa Giêsu chịu bao sự thương khó và chịu chết trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại. Hôm nay không có Thánh Lễ, nhưng có nghi thức đặc biệt, thường vào lúc 3 giờ chiều (giờ Chúa Giêsu sinh thì trên Thánh Gía --Xin xem Luca 23,44 và phần chú thích): gồm có việc cử hành Lời Chúa, những lời cầu nguyện, tôn vinh và hôn kính Thánh Giá, và rước Mình Thánh Chúa. Hôm nay, chúng ta ăn chay và kiêng thịt, và dâng nhiều hy sinh hãm mình để đền tội, để cầu nguyện cho những người đau khổ trên thế giới, và cho những người tội lỗi được ơn ăn năn trở về cùng Chúa.

Thứ Bảy Tuần Thánh chúng ta cố gắng giữ im lặng để tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu táng trong mồ và để chuẩn bị tâm hồn long trọng mừng Thánh Lễ Vọng Phục Sinh và Chúa Nhật Đại Lễ Phục Sinh.

Xin Chúa, nhờ lời Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh bầu cử, ban muôn ơn phúc lành cho chúng ta, cho gia đình chúng ta và cùng hiệp lời cầu nguyện chung để chúng ta cùng chuẩn bị tâm hồn xứng đáng mừng những ngày thánh sắp tới.
 
Đức Giêsu vào Giêrusalem
LM. Vũ Phan Long
17:41 30/03/2009
ĐỨC GIÊSU VÀO GIÊRUSALEM
(Máccô 11,1-10 – CN Lễ Lá - B)

1.- Ngữ cảnh

TM Máccô giới thiệu cho chúng ta thấy Đức Giêsu luôn đi đường. Người không có một nơi cố định cho hoạt động của Người, nhưng đi xuyên qua toàn xứ sở. Người đến sông Giođan gặp Gioan Tẩy Giả (1,9), rồi đi vào hoang địa (1,12), trở lại Galilê và đi dọc theo bờ hồ Ghennêxarét (1,16). Hành trình của Người đưa Người sang miền đất Dân ngoại (5,1), đến Tia và Xiđon, trong Miền Thập Tỉnh (7,24.31), cho đến tận nguồn sông Giođan, đến Xêdarê Philípphê (8,27). Cuộc đời của Đức Giêsu là một chuyến lữ hành không ngơi nghỉ. Ngoại trừ những lần đi thuyền, Người luôn đi bộ. Người cũng vẫn đi như thế trong chuyến đi từ Galilê về Giuđê (9,30; 10,32), ngang qua Giêrikhô (10,46) để đến tận các cửa thành Giêrusalem, đến làng Bếtphaghê và Bêtania. Người dừng chân bên triền núi Ôliu, và đứng nhìn Đền Thờ và thành thánh (11,1).

Tại đây, bất ngờ Người thay đổi thói quen trước đây: Người không muốn đi bộ nốt đoạn đường còn lại; Người bảo các môn đệ đưa về một con lừa con. Người không muốn đi bộ vào Giêrusalem, Người muốn vào thành thánh trên lưng lừa.


2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:

1) Địa điểm (11,1a);

2) Chuẩn bị con vật để cỡi (11,1b-7):

a- giao nhiệm vụ (cc. 1b-3),

b- thực hiện nhiệm vụ (cc. 4-7);

3) Vào thành thánh (11,8-10):

a- các cử chỉ chào đón (c. 8),

b- lời reo hò chào đón (cc. 9-10).


3.- Vài điểm chú giải

- Giêrusalem … Bếtphaghê … Bêtania (1): Vào thời Thượng Cổ, thành này được gọi bằng hai kiểu, Hierosolyma và Hierousalêm. Mc luôn luôn dùng tên thứ nhất. Trong khi tên thứ hai có tính trang trọng và linh thánh, tên thứ nhất (dạng hy-hóa) được những người không phải là Do-thái coi như một tên phàm tục để gọi thành này. Tên thứ nhất được chọn không phải là tình cờ, bởi vì chỉ ở 3,8, tên này mới được nêu ra với giọng trung lập, còn thì luôn được coi là căn cứ của các đối thủ của Đức Giêsu (3,22; 7,1), là nơi mà họ sẽ giết Người (10,32; 15,41).

Về Bếtphaghê (nguyên nghĩa là “nhà của trái vả”), chúng ta không biết được gì chắc chắn. Đây là một làng hay là một cơ sở? Dường như đây là một vùng đất ở bên ngoài Giêrusalem, bắt đầu với ranh giới Đền Thờ, nghĩa là đàng trước các tường phía đông của thành.

Còn Bêtania (nguyên nghĩa không rõ: “nhà của người nghèo”? hay là “nhà của ông Khanania”?) cách thành thánh khoảng hơn 2,5 cs, ở về phía đông núi Ôliu.

- con lừa con (2): Chi tiết này gợi tới Dcr 9,9-10, theo đó đức vua thiên sai hòa bình sẽ ngồi trên lưng một con lừa con vẫn còn theo mẹ mà đến, ngài sẽ quét sạch các chiến xa, chiến mã và cung nỏ, và sẽ mang lại hòa bình cho muôn dân. Con lừa con “bị cột” là một gợi nhớ đến St 49,11, lời chúc phúc của Giacóp trên Giuđa, từ ông này sẽ phát xuất người làm chủ gậy chỉ huy.

- cứ nói là Chúa cần đến nó (3): Từ ngữ “Chúa” (kyrios) này không có nghĩa là “ông chủ (của con lừa)”, nhưng là chính Đức Giêsu dùng để tự xác định về mình. Người dùng kiểu gọi này để cho thấy quyền Người có trên các sự vật. Nhưng từ này cũng làm nổi lên nghịch lý: vị Chúa này thật nghèo.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Địa điểm (1a)

Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu chuyến đi. Trong ba địa danh mở đầu cho bài tường thuật cuộc vào thành, Giêrusalem được nêu ra đầu tiên, kế đó là Bếtphaghê và Bêtania.

* Chuẩn bị con vật để cỡi (1b-7)

Tại một điểm ở ngoài ba địa danh vừa nêu, Đức Giêsu cử hai môn đệ đi tìm một con lừa con. Ta chỉ hiểu được nhiệm vụ huyền bí được giao cho các môn đệ khi dựa trên Dcr 9,9-10 và St 49,11. Quả thật, các bản văn Cựu Ước không được trích ra (như ở Mt 21,5), nhưng các bản văn ấy rõ ràng nằm ở tại nền của bài tường thuật. Với nhiệm đã vụ ký thác cho các môn đệ, Đức Giêsu bắt đầu hoàn tất những gì đã được nói về Đấng Mêsia trong Kinh Thánh, và bằng cách đó, Người loan báo rằng ngay khi vào thành thánh, Người cương quyết bước theo thánh ý Thiên Chúa hoàn toàn. Tác giả không thấy cần phải xác định nơi con lừa bị cột, nhưng cần phải cho thấy rằng những người được cử đi đã thi hành chính xác nhiệm vụ được giao.

Hai môn đệ đã tìm thấy con vật đúng như được báo trước. Họ đã dẫn nó về cho Đức Giêsu, lấy áo choàng trải lên lưng con vật để làm cái yên và trang sức cho nó, rồi Đức Giêsu cỡi lên. Quang cảnh này nhắc nhớ lại một cuộc đăng quang của nhà vua tại Israel (x. 1 V 1,38-40; 2 V 9,13).

Chúng ta ghi nhận là tác giả đã dành 7 câu trong 10 câu của đoạn này mà nói về cách thức đi tìm con lừa. Lý do: việc cỡi lừa đi vào thành có một giá trị chứng minh. Người muốn cho hiểu rằng Người đến Giêrusalem, trung tâm của dân tộc Israel, với danh nghĩa nào.

* Vào thành thánh (8-10)

Đoàn người đã cùng đi với Người từ Galilê đến, bây giờ reo hò vang dậy để chào đón Người. Người ta trải áo trên đường và rải các cành cây mà rải lên đường để Người bước qua. Người ta reo hò Hôsanna (hoan hô!) và chào đón Người bằng các lời của Tv 117,26a (LXX). Đức Giêsu không vào thành như một khách hành hương, cũng chẳng phải như một vị tôn sư hay một vị thầy chuyên làm phép lạ, mà là như Đức Vua đã được hứa cho thời cuối cùng. Tuy nhiên, Người không đến như một nhà chinh phục, hay như một vị vua hiếu chiến với binh lính và vũ khí, mà đến không vũ khí, trong tình trạng khiêm tốn và hoà bình. Khi vào thành thánh, Đức Giêsu thực hiện được các lời hứa thiên sai, nhưng không để thỏa mãn những niềm hy vọng chính trị. Tác giả không nói đến danh hiệu “vua” là vì ngài muốn để dành cho truyện Thương Khó, khi đó phẩm cách vương giả của Đức Giêsu sẽ được tỏ lộ. Cuộc tiến vào thành lại không có phản ứng từ phía dân chúng và kết thúc mà không hề bị ghi nhận (khác với Mt 21,10t). Đây là cách Mc chuẩn bị cho cuộc tranh luận thật sự trong vụ xử án liên hệ đến phẩm cách vương giả của Người.

+ Kết luận

“Con đường” vừa là lộ trình vừa là lối sống của Đức Giêsu hôm nay đã đưa Người đến Giêrusalem, thành định mệnh, nơi Người sẽ thực hiện trọn vẹn chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Người đi theo ý muốn của Thiên Chúa từng bước một. Hôm nay, đã đến sát cuộc Thương Khó, Người bố trí cuộc tiến vào Giêrusalem trong tư cách là một Đức Vua, nhưng Đức Vua khiêm tốn và hòa bình, là Đấng Mêsia, nhưng là một Đấng Mêsia của Thiên Chúa, chứ không phải một vị cứu tinh bằng sức mạnh quân sự như dân chúng vẫn mong đợi.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đức Giêsu không có gì phải dính dáng đến sự huy hoàng và quyền lực bên ngoài, với sức mạnh và bạo lực. Người không mang gì ngoài chính bản thân, uy tín và lời nói của Người. Người không muốn tạo ra bất cứ ảnh hưởng nào với những phương tiện quyền lực, nhưng chỉ với bản thân Người mà thôi. Người không muốn ép buộc và đè bẹp bất cứ ai, nhưng muốn chính phục mọi người về theo Người, theo tương quan của Người với Thiên Chúa, theo hành trình của Người, như Người đã cho thấy qua cách xử sự trước đó và như Người sẽ cho thấy sau này tại Giêrusalem.

2. Đức Giêsu chưa bao giờ loan báo Người sắp tái lập triều đại vua Đavít, nhưng đã công bố rằng Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Người không hề nhắm tới vẻ hào nhoáng và quyền lực, nhưng chỉ nhắm tới Thiên Chúa và lòng từ bi thương xót của Ngài; Người đã kêu gọi hoán cải về với Thiên Chúa và tin vào Người (Mc 1,15). Tại Giêrusalem, Người sẽ bảo vệ Đền Thờ như là nhà cầu nguyện (11,17), Người mời người ta trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa (12,17), mời gọi người ta tin vào quyền lực của Thiên Chúa có thể chiến thắng cái chết (12,27), mời gọi yêu mến Ngài hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực (12,30). Cách hành động của Đức Giêsu không hướng về một triều đại trần thế và một quyền lực của thế gian này. Người loan báo tình thương và lòng từ bi của Thiên Chúa và muốn dẫn đưa người ta đến chỗ tin vô điều kiện vào Thiên Chúa. Người nào chờ đợi nơi Người một điều gì khác, thì phải giải thích Người theo kiểu khác và cuối cùng sẽ thất vọng mà lìa bỏ Người.

3. Đức Giêsu vào Giêrusalem như vị Vua đã được Thiên Chúa hứa. Nhưng Triều Đại của Người chẳng có gì giống với các vương quyền trần thế. Con lừa con mà Người cỡi, Người đã mượn, và các môn đệ đã hứa là sẽ trả lại ngay khi vừa xong việc (11,3). Trên con lừa này, Người cũng chẳng có lấy một cái yên, và các môn đệ Người phải tạo ra một cái yên bằng cách lót áo choàng của họ lên cho Người ngồi (11,7). Tuy cỡi lừa, Người đến cách đơn giản và không phương tiện, cũng y như Người đã yêu cầu Nhóm Mười Hai khi cử họ đi truyền giáo (6,8t). Chỉ người nào biết nhận ra Người và trân trọng Người thì mới có thể tiếp đón Người ngự đến và hiện diện trong niềm hân hoan vui sướng.
 
Chúa Nhật Lễ Lá
LM. Ignatio Hồ Thông
17:44 30/03/2009
CHÚA NHẬT LỄ LÁ

Với Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bước vào cuộc tưởng niệm con đường Thương Khó của Đức Giê-su.

Is 50: 4-7

Bài đọc I được trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Vị ngôn sứ hé mở cho chúng ta Người Công Chính đau khổ, dưới dung mạo của Người Tôi Trung của Gia-vê, dù bị nhạo báng, bị lăng nhục, nhưng không đả kích và đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.

Pl 2: 6-11

Tiếp đó, chúng ta suy niệm mầu nhiệm của Đức Giê-su tự hạ mình và được tôn vinh mà thánh Phao-lô họa lại trong thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê dưới hình thức một bài thánh thi Ki tô học, bằng chứng đáng chú ý của Giáo Hội tiên khởi.

Mc 14: 1-12; 15: 1-47

Sau cùng, chúng ta sống lại cuộc thương khó của Đức Giê-su theo Tin Mừng Mác-cô, nhắc nhở chúng ta qua những con đường đau khổ và chết nào Đức Giê-su dẫn chúng ta đến sự sống.

BÀI ĐỌC I (Is 50: 4-7)

Với đoạn trích nầy chúng ta dự phần vào những xác tín của vị ngôn sứ. Chính nhờ thường hằng chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa hằng ngày, nên ông không tránh né sứ mạng của mình và "biết lựa lời mà nâng đỡ ai mệt mỏi chán chường". Vị ngôn sứ đã không nhận được bất cứ lòng biết ơn nào, nhưng trái lại những lời lăng mạ và khổ nhục. Ông bị đánh đòn, tra tấn (giật râu là một hình phạt rất đau đớn và sĩ nhục), chịu những lời mắng nhiếc, phỉ nhổ vào mặt, khinh bĩ đến tột cùng.

Nhưng "người tôi trung nầy" đặt niềm tin tưởng của mình ở nơi Đức Chúa; ông "trơ mặt ra", có nghĩa "kiên vững không hề nao núng". Thánh Lu-ca nói với chúng ta rằng "Đức Giê-su đã trơ mặt ra" khi Ngài lên Giê-ru-sa-lem để chịu cuộc Tử Nạn của Ngài, nghĩa là Ngài thu hết mọi can đảm và khẳng định ý muốn của Ngài.

Đoạn trích này thuộc bài ca thứ ba trong số bốn bài ca mà chúng ta gọi "các bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ", và được đưa vào trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời cuối cùng của cuộc lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên.

Chân dung của "Người Tôi Tớ" nầy lúc thì gợi lên dân Ít-ra-en (ngôn sứ I-sai-a đệ nhị thường gọi dân Ít-ra-en "người tôi tớ của Đức Chúa") lúc thì một cá nhân biệt phân và đón nhận một sư mạng riêng biệt. Vả lại, cách giải thích tập thể và cách giải thích cá nhân không loại trừ nhau; cả hai đều chồng chéo lên nhau trong nhiều đoạn văn.

Người tôi trung nầy xử sự với một cung cách dịu dàng và khiêm tốn (bài ca thứ nhất); ông được giao phó giải phóng dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai), ông phải chịu những bách hại và những lăng nhục (bài ca thứ ba), ông bằng lòng chịu chết một cách ô nhục, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư).

Ở đây chúng ta ở một khúc quanh rất quan trọng của Mặc Khải. Cho đến lúc đó những viễn cảnh Mê-si-a nhắm đến một dung mạo của một vị vua vinh quang, thuộc dòng dõi vua Đa-vít, Đấng sẽ thiết lập triều đại công lý và hòa bình. Ấy vậy, vào lúc nầy không còn vua; vương triều đa-vít đã bị nhận chìm vào trong phong ba bảo táp; Đền Thờ Sa-lô-mon bị thiêu hủy, dân thành Giê-ru-sa-lem phải chịu cảnh đời tôi mọi và một phần lớn dân cư bị lưu đày. Đây là thời điểm thuận tiện để loan báo một sứ điệp mới. Qua trực giác của vị ngôn sứ, khoa sư phạm của Thiên Chúa bước một bước vĩ đại. Những sấm ngôn thuở xưa không hề bị hủy bỏ (Đấng Mê-si-a vẫn sẽ thuộc vào dòng dõi Đa-vít), nhưng điều mà những viễn cảnh mới hé mở, chính là sự can thiệp của "một người Thiên Chúa tuyển chọn", "một người Đức Chúa xức dầu tấn phong", Đấng nầy sẽ âm thầm hành động, bên ngoài trông có vẻ thất bại, chịu nhiều đau khổ và bị giết chết trước khi được tôn vinh.

1. Vị ngôn sứ bị lăng nhục:

Tất cả sấm ngôn bao gồm một khía cạnh đầu tiên, có thể đạt được ngay tức khắc cho những ai mà sứ điệp gởi đến.

Ở nơi nhân vật nhục nhã ê chề nầy phải nhận ra chính vị ngôn sứ. Được Thiên Chúa trao phó sứ mạng an ủi những người lưu đày bất hạnh, mệt mỏi chán chường, ông không lẫn tránh công việc phụ bạc nầy; ông cố giúp cho họ hiểu ý nghĩa của sự thử thách của họ, kêu mời họ hoán cải, hứa với họ một cuộc cứu thoát; ông vấp phải sự vô tri, ngờ vực và nổi cáu của những người đã nếm mùi đắng cay của một cuộc lưu đày dài lâu.

3. Người Công Chính bị bách hại:

Bên kia dung mạo của một vị ngôn sứ hiện hình dung mạo của Người Công Chính thập toàn. Bản văn mang một cung giọng Mê-si-a. Cũng chính Đức Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng được giao phó cho Ngài trong một thái độ hoàn toàn vâng phục. Cũng chính Ngài sẽ mang Tin Mừng cho những người nghèo hèn khốn khổ. Như vị ngôn sứ vô tội, thay vì lòng biết ơn, Ngài sẽ bị đánh đập, nhục mạ, khổ hình mà "chẳng hổ ngươi và trơ mặt ra như đá vì biết mình sẽ không phải thẹn thùng".

Bài ca thứ ba nầy cho chúng ta cảm thấy trước bài ca thứ tư bi thương về Người Tôi Trung sẽ được đọc vào Thứ Sáu Tuần Thánh.

BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11)

Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê là một bài thơ sáu khổ, theo thể văn xuôi có vần có điệu. Ba khổ thơ đầu tiên họa lại việc Đức Giê-su tự nguyện hạ mình, và ba khổ thơ còn lại, theo một chiều hướng ngược lại, thuật lại ba giai đoạn Cha Ngài tôn vinh Ngài.

Trong bức thư với giọng nói nồng nàn, đúng hơn thân quen nầy, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi chúng ta gặp thấy những câu thơ khôn sánh như tuôn trào từ ngòi bút nầy. Người ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay chỉ là người trích dẫn bài thánh thi giàu hình tượng nầy. Dù sao chúng ta cũng vẫn có một chứng liệu đáng chú ý, một trong những bản văn cổ xưa nhất về thần học Đức Ki tô; nhất là bài thơ nầy mang đến một lời chứng quý báu đầu tiên (trước cả Tựa Ngôn của thánh Gio-an) về niềm tin nguyên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Đức Giê-su.

1. Ba giai đoạn tự hạ:

1- Đức Giê-su, tuy vẫn là Thiên Chúa, từ bỏ không chỉ Thiên Tính nhưng còn cả vinh quang vốn dĩ nội tại ở nơi Ngài.

2- Ngài tự hủy mình ra hư không, mặc lấy thân nô lệ thấp hèn, sống kiếp phàm nhân, để chia sẻ tận cùng những cảnh đời cơ cực yếu hèn của con người (ngoại trừ tội lỗi).

3- Ngài còn tự hạ hơn nữa khi vâng lời chấp nhận chết ô nhục trên thập giá.

2- Ba giai đoạn vinh quang:

1- Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban cho Ngài danh hiệu. Danh ở đây mang lấy một ý nghĩa tuyệt đối, nghĩa là chỉ dành riêng cho một mình Ngài. Đây là Danh của Đức Chúa, Danh mà trong truyền thống Do thái dành riêng để chỉ danh khôn tả của Thiên Chúa như phần tiếp theo chỉ cho thấy: "trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu", vì thế, "vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, vf trong cõi âm ty, muôn vật phải bái quỳ".

Diễn ngữ "cả trên trời dưới đất và trong cõi âm ty" chỉ toàn thể vũ trụ. Điều nầy muốn nói rằng không chỉ nhân loại, nhưng ngay cả toàn thể mọi tạo vật ddefu phải cung kính thờ lạy Ngài. Đó cũng là chủ đề được gặp thấy trong sách Khải Huyền: "Tôi lại nghe mọi tạo vật trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời" (Kh 5: 13).

3. Mẫu gương của Đức Giê-su:

Thánh Phao-lô rất mực yêu mến Giáo Đoàn Phi-líp-phê mà thánh nhân đã thiết lập vào năm 49-50 và là cộng đồng Ki tô hữu đầu tiên trên vùng đất Châu Âu. Phi-líp-phê là một thành phố quan trọng của miền Ma-xê-đoan; thành phố mang tên vua Phi-líp-phê, thân phụ của đại đế Alexandre, người đã xâm chiếm thành nầy vào năm 360 trước Công Nguyên.

Khi viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đang bị giam cầm có thể ở Ê-phê-sô. Thánh nhân mong ước các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài sống trong sự hiệp nhất và nhất là trong sự khiêm hạ sâu xa. Thánh nhân lấy Đức Ki tô làm mẫu gương cho họ noi theo.

TIN MỪNG (Mc 14: 1-15, 47)

Như các thánh ký khác, thánh Mác-cô dành một vị thế quan trọng cho bài tường thuật cuộc Tử Nạn của Đức Ki tô. Như vậy chúng ta có chứng từ làm chứng rằng Giáo Hội tiên khởi đã hiểu: biến cố đồi Can-vê không là một tình tiết xấu hổ và nhục nhã mà biến cố Phục Sinh đến để tẩy xóa đi, nhưng trái lại là tuyệt đỉnh công trình yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại, là nơi Đức Giê-su hoàn tất sứ mạng cứu độ. Các Ki tô hữu tiên khởi đảm nhận sự thách đố của Thập Giá, bất chấp Thập Giá gây nên sự kỳ chướng đối với lương dân.

Thánh Mác-cô đặc biệt dọi chiếu sự mâu thuẩn của những hoàn cảnh: dù bị nhạo báng, nhục mạ, bị kết án khổ hình ô nhục, nhưng Đức Giê-su vẫn khẳng định quyền năng và tính siêu việt của Ngài với một phẩm chất cao vời.

I. KHÚC DẠO ĐẦU (14: 1-11):

Trước khi bắt đầu bài tường thuật của mình, thánh Mác-cô gợi lên ba tình tiết dạo đầu: âm mưu của những thủ lãnh Do thái giáo, xức dầu tại Bê-ta-ni-a, cuộc phản bội của Giu-đa.

1. Âm mưu của các thủ lãnh Do thái giáo (14: 1-2):

Thánh ký định vị cuộc họp bàn của các thượng tế và các kinh sư hai ngày trước các ngày lễ. Thế nên, họ bàn tính với nhau phải dùng mưu bắt Đức Giê-su như thế nào để không làm dân chúng náo động. Điều nầy cho thấy Ngài rất được lòng dân chúng. Không phải đám đông tung hô Ngài khi Ngài vào Thành Thánh sao? Vì thế, tốt hơn nên đợi khi các ngày lễ chấm dứt, lúc đó không còn có dân chúng quy tụ đông đúc ở Giê-ru-sa-lem.

Ấy vậy, lễ Vượt Qua nói riêng kéo dài một ngày; lễ Bánh Không Men thêm bảy ngày nữa. Vì thế, các vị thủ lãnh đồng ý "hoãn lại thêm một tuần nữa trước khi ra tay hành động".

Nhưng những biến cố sắp xảy đến nhanh hơn người ta mong muốn; việc Giu-đa phản bội thúc bách mọi việc; đó là lý do tại sao họ ra sức xúi dục dân chúng chống lại Đức Giê-su vì họ lo sợ đám đông đổi ý.

Khi đặt vào đầu bài tường thuật của mình quyết định của giai cấp lãnh đạo Ít-ra-en: "Không nên làm vào chính ngày lễ" vì có nhiều trở ngại, thánh ký hàm ý nhấn mạnh rằng thực tế, chính Đức Giê-su dẫn dắt các biến cố bất chấp những sự kiện bên ngoài. Ngài sẽ chết, như Ngài đã loan báo, thậm chí vào chính lễ Vượt Qua; chính xác từ khung cảnh lễ Vượt Qua mà việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể và cuộc Tử Nạn nhận được ý nghĩa sâu xa của chúng: Đức Giê-su vừa con chiên chịu sát tế vừa tấm bánh hoàn toàn mới và tinh tuyền.

2. Xức dầu ở Bê-ta-ni-a (14: 3-9):

Bê-ta-ni-a là một ngôi làng được định vị ở phía đông Giê-ru-sa-lem, bên kia đồi Ô-liu. Chính ở nơi ngôi làng nầy mà ba chị em: La-da-rô, bà Ma-ri-a và bà Mát-ta, ở.

Chúng ta không biết ông Si-mon Cùi nầy là ai. Chắc chắn ông không còn bị bệnh cùi nữa, bởi vì ông đón tiếp khách vào nhà mình (thánh Giê-rôm đưa ra giả thuyết rằng ông đã được Đức Giê-su chữa lành).

Thánh Mác-cô không nêu tên người phụ nữ đổ dầu thơm đắt tiền trên đầu Đức Giê-su. Cử chỉ nầy giả sử rằng Đức Giê-su ngồi tựa vào gối dựa, trước một cái bàn thấp, theo cách đông phương. Trong số những nghi thức hiếu khách, xức dầu thơm trên đầu khách là một dấu hiệu tỏ bày lòng kính trọng và vinh dự. Những bình dầu thơm cổ dài cho phép chỉ đổ từng giọt dầu thơm quý giá nầy. Nhưng người phụ nữ nầy "đập vỡ bình ra, đổ dầu thơm trên đầu Ngài" để dầu thơm được chảy tràn đầu Ngài; cô muốn bày tỏ rằng cô nhận ra ở nơi Đức Giê-su một vị khách đặc biệt xứng với một hành vi quảng đại ngoại lệ.

Vài môn đệ (trong số đó có ông Giu-đa, theo Tin Mừng Gio-an) chỉ thấy quá phí của. Nhưng Đức Giê-su nhấn mạnh hai giá trị của cử chỉ người phụ nữ nầy: "giá trị hiện tại": một việc nghĩa ma cô ấy làm cho Ngài, bởi vì chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ không còn hiện diện ở giữa họ; "ý nghĩa ngôn sứ": thân thể nầy mà người phụ nữ xức dầu thơm chẳng bao lâu sẽ bị giết chết, đoạn được mai táng hấp tấp nên không đón nhận những vinh dự khâm liệm như tập tục dành cho những người qua đời. Người phụ nữ đã tham dự trước nghi thức mai táng. Đây là cách thức mới, Đức Giê-su loan báo cái chết sắp đến của Ngài.

Ngầm chứa ở nơi lời nói của Đức Ki tô, chúng ta nhận ra hai loại "việc thiện" mà người Do thái thường phân biệt: bố thí cho người nghèo và lòng thành kính đối với những người qua đời.

3. Tên Giu-đa phản bội (14: 10-11):

Ông Giu-đa, một trong Nhóm Mười Hai. Qua những từ ngữ giản dị nầy, thánh Mác-cô làm nổi bật sự ghê tởm của hành động phản bội. Đây là một trong những đau khổ thấm thía nhất của Đức Giê-su, vào đêm bi thảm nầy: một trong các môn đệ thân yêu của Ngài, một trong những người đồng hành mà Ngài đã chọn, đã nộp Ngài cho quân thù Ngài. Nhiều lần Ngài để lộ nỗi đau khổ của Ngài – vào lúc rửa chân và vào lúc thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể.

Ông Giu-đa sắp ra đi gặp các vị thượng tế. Ông tìm đúng người đúng chỗ. Chính ở nơi nhóm nầy mà sự cuồng tín làm sôi sục lòng căm ghét. Chính xác họ vừa mới quyết định thủ tiêu Đức Giê-su. Họ gặp thấy ở nơi Giu-đa một kẻ cộng tác bất ngờ và hứa cho ông tiền, tiền làm sáng mắt tên phản bội, kẻ hám lợi. Thánh Gio-an đã phác họa Giu-đa là "một tên ăn cắp": y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỷ chung (Ga 12: 6). Thiên Chúa dùng những ti tiện của con người để thực hiện ý muốn của Ngài.

II. LỄ VƯỢT QUA VÀ BÀN TIỆC THÁNH THỂ (14: 12-25):

1. Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16):

"Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua". Hai ngày đại lễ nầy từ lâu được cử hành cùng một cặp song đôi với nhau: vào lễ Vượt Qua, lễ của những người chăn nuôi, họ giết một con chiên tơ, và lễ Bánh Không Men, lễ của những người trồng trọt, họ dâng hiến những sản phẩm đầu mùa và làm bánh không men với những hạt lúa mạch đầu tiên. Việc hiệp nhất hai lễ nầy đã trở nên dể dàng hơn vì bữa ăn lễ Vượt Qua cũng bao gồm bánh không men.

Lễ Vượt Qua buộc phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; bữa ăn con chiên, bị sát tế trong khuôn viên Đền Thờ, "phải được ăn ở trong thành". Điều nầy khiến các môn đệ bận tâm. Đức Giê-su là một tôn sư lưu động không nơi cố định; thêm nữa, Ngài là người Ga-li-lê. Vì thế, họ hỏi Ngài: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?".

Hoạt cảnh theo sau giống đến kỳ lạ với hoạt cảnh trước đó khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a: Đức Giê-su sai hai môn đệ đi trước, họ sẽ gặp thấy mọi việc như Ngài đã mô tả cho họ. Trong trường hợp thứ nhất: một con lừa con đang cột sẳn ở đó; còn ở đây, một người mang vò nước đến gặp hai ông. Cả hai lần, những biến cố xảy ra đúng như Chúa Giê-su mong muốn: người ta để cho hai ông dắt con lừa đi; người mang vò nước dẫn hai môn đệ vào nhà và chỉ cho hai ông một phòng đã được chuẩn bị sẳn sàng cho Ngài với các môn đệ cử hành lễ Vượt Qua. Thánh ký muốn nói rằng Đức Giê-su đã dự liệu tất cả, chính Ngài tổ chức lễ Vượt Qua sau cùng nầy như trước đây Ngài đã tổ chức cuộc tiến vào thành Giê-ru-sa-lem.

2. Loan báo Giu-đa phản bội (14: 17-21):

Cả bốn Tin Mừng đều thuật lại lời tiên báo nầy của Đức Giê-su: "Có người trong anh em sẽ nộp Thầy". Cả bốn đều nhấn mạnh Giu-đa cùng ngồi đồng bàn với Đức Giê-su (thánh Gio-an xác định: "chia sẻ cùng một miếng bánh"). Theo quan niệm xưa, "ngồi đồng bàn" đồng nghĩa "cùng chung một hội một thuyền" sống chết có nhau. Như thế, sự phản bội nêu bật thái độ vô liêm sỉ.

Đức Giê-su tế nhị không chỉ rõ ai hết. Những lời: "Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là một người đang chấm chung một đĩa với Thầy" thật mơ hồ, vì theo tập quán, mọi người đều cùng chấm chung một đĩa.

Bầu khí trở nên ngột ngạt. Ấy vậy, trong những hoàn cảnh trang nghiêm, Đức Giê-su thích gợi lên tước hiệu "Con Người" để nói về sứ mạng của mình. Dưới tước hiệu nầy, Ngài ẩn dấu mầu nhiệm của mình: "Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người".

Còn về những lời: "Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!", không thể nào nghĩ là lời nguyền rủa từ miệng Đức Giê-su vào giờ Ngài sẽ đổ máu mình để xóa tội nhân loại; nhưng đúng hơn là một lời ghi nhận đượm nỗi buồn phiền. Giả như hắn đừng sinh ra, thì sẽ không phạm một tội ác tày trời như vậy. Đức Giê-su không bao giờ nguyền rủa. Quả thật, Ngài đã đe dọa khi loan báo những trừng phạt: "Khốn cho các ngươi…", nhưng đây không là những lời nguyền rủa.

3. Thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể (14: 22-25):

Lễ Vượt Qua Do thái, mà Đức Giê-su cử hành với các môn đệ thành bữa Tiệc Ly, được biến thành lễ Vượt Qua Ki tô giáo bởi việc thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể: vừa nối tiếp vừa đoạn tuyệt: song đối sâu xa và mới mẻ tận căn.

Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm cuộc giải phóng dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhờ vào máu con chiên được bôi trên cửa nhà của người Do-thái. Nhờ dấu hiệu nầy, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Ngài nên đã tha chết cho họ.

Đức Giê-su loan báo cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ tội lỗi nhờ máu Ngài "đổ ra vì muôn người". Về phương diện lịch sử, cuộc giải phóng khỏi Ai-cập đã hình thành nên dân Ít-ra-en như dân Chúa chọn và cuộc tuyển chọn nầy đã được hiến thánh trên núi thánh Xi-nai, bởi Giao Ước Cũ.

Nhờ ân ban thân thể của Ngài và máu của Ngài, được chia sẻ ở giữa mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Chúa chọn mới; Giao Ước Mới được đóng dấu trong máu của Ngài. Ở nơi bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước vừa cuộc Tử Nạn của Ngài vừa cuộc Phục Sinh của Ngài.

Nếu khung cảnh lễ Vượt Qua soi sáng sự biến đổi kỳ diệu của việc cử hành xưa như vậy, thì bữa ăn nầy cũng là bữa tiệc ly, mặc khải tất cả khía cạnh thống thiết của nó: Đức Giê-su sắp từ biệt các môn đệ của mình, những người mà Ngài yêu thương, những người mà Ngài trao phó truyền đạt sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; Ngài gặp thấy phương tiện để ở lại với họ, bằng cách thiết lập quà tặng kỳ diệu này, quà tặng của chính bản thân mình, nhờ đó các Tông Đồ cũng như những người kế nghiệp các ngài có thể lưu truyền mãi mãi. Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới có thể vừa ra đi vừa ở lại.

Thánh Mác-cô cũng nhấn mạnh "giá trị cánh chung" của "bàn tiệc Thánh Thể". Bàn tiệc này là một sự tiếp cận, một sự tham dự trước bàn tiệc Thiên Quốc: "Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa".

Cuộc sống tương lai thường thường được biểu thị như bàn tiệc; và rượu nho như một trong những dấu chỉ của "niềm vui thời Mê-si-a" và niềm vui muôn đời của thế giới sắp đến. Đây đã là một trong những ý nghĩa của phép lạ tiệc cưới Ca-na, tự nó là khúc dạo dầu của phép lạ bàn tiệc Thánh Thể. Nước biến thành rượu đáp ứng với rược biến thành máu.

4. Tiên báo mọi người sẽ vấp ngã và ông Phê-rô sẽ chối Thầy (14: 26-31):

Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: "Hát Thánh vịnh xong…" Đây chính là thánh thi tạ ơn được gọi "Hallel", mà người ta hát sau bữa ăn Vượt Qua. Bài thánh thi tạ ơn này được trích từ các thánh vịnh 113-118 (một trong những Thánh vịnh nầy đã được trích dẫn rồi trong bữa ăn); như vậy, bữa Tiệc Ly của Đức Giê-su đích thực là bữa ăn Vượt Qua, ít ra theo các Tin Mừng Nhất Lãm.

Đức Giê-su và các môn đệ của Ngài rời phòng tiệc; họ đi xuống thung lũng Xê-ron phân cách Giê-ru-sa-lem với núi Ô-liu. Trên đường, Đức Giê-su báo trước cho tất cả họ: "Tất cả anh em sẽ vấp ngã". Ngài nhắc lại cho họ sấm ngôn của ngôn sứ Da-ca-ri-a 13: 7-9: "Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác". Vị ngôn sứ nầy đã loan báo rằng thời cứu độ sẽ được đi trước bởi một cơn thử thách lớn lao giáng xuống trên một phần dân Thiên Chúa để thanh tẩy họ; "nhóm còn lại" nầy bất ngờ không có người chăn dắt; vào lúc đó họ sẳn sàng đón nhận Giao Ước Mới…

Để an ủi các ông, Ngài loan báo cho các ông rằng Ngài sẽ gặp lại các ông ở Ga-li-lê, sau khi Ngài sống lại. Về việc các ông sẽ vấp ngã vì Ngài, với một giọng trìu mến, Ngài cho hiểu rằng Ngài sẽ không tính sổ với họ; Ngài cho họ một cuộc hẹn gặp rồi.

Thánh Phê-rô hăm hở cam đoan: "Dầu tất cả có vấp ngã đi nứa, thì con cũng nhất định là không". Đức Giê-su trả lời với ông là nội trong đêm nay ông sẽ chối Ngài ba lần. Nhưng thánh Phê-rô lại càng quả quyết hơn và tất cả mọi người cũng đều quả quyết như vậy.

Chúng ta ghi nhận rằng thánh Mác-cô nhắc lại tính tự phụ của các môn đệ, đặc biệt là thánh Phê-rô; chắc chắn đây là âm vang của vị lãnh tụ các Tông Đồ và… về sự khiêm hạ của ông. Cuối cùng, thánh ký nhiều lần nêu bật Đức Giê-su quán triệt mọi người và mọi việc: Ngài biết rõ những gì sắp xảy đến.

III. CON ĐƯỜNG THƯƠNG KHÓ (14: 32-15: 47):

1. Cơn hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni (14: 32-42):

Trên triền đồi Ô-liu có một khu vườn được gọi Ghết-sê-m-ni. Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài rút vào trong khu vườn nầy. Khi cuộc khổ nạn của Ngài đến gần, Đức Giê-su cảm thấy hãi hùng và xao xuyến. Không thể nào chịu đựng nỗi một mình, Ngài dẫn theo với mình ba Tông đồ, họ đã là nhân chứng về cuộc Biến Hình của Ngài: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gio-an. Trước thân phận yếu nhược làm người của Ngài, sự hiện diện của họ là nguồn an ủi cho Ngài. Mác-cô là thánh ký duy nhất xác định rằng Đức Giê-su đi cách ba vị Tông Đồ "xa hơn một chút", vì thế, họ có thể nghe được những lời khẩn nguyện van xin của Ngài và thấy Ngài sấp mình xuống đất.

1.1- Đức Giê-su sấp mình xuống đất mà cầu nguyện:

Cử chỉ "sấp mình xuống đất" cho thấy thân xác yếu nhược của Đức Giê-su, nhưng cũng là thái độ cầu nguyện khiêm tốn và khẩn thiết. Không có nơi nào trong Tin Mừng mô tả Đức Giê-su cầu nguyện như thế cả.

Thánh Mác-cô nhấn mạnh sự mật thiết của Đức Giê-su như Người Con đối với Cha Mình khi Ngài cầu nguyện. Chính trong sự hiêp thông của Ngài với Cha Ngài mà Đức Giê-su lấy lại sức mạnh chế ngự nỗi sợ hãi và cõi lòng xao xuyến của Ngài, và hoàn toàn chấp nhận cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài.

"Áp-ba, Cha ơi, xin cất chén nầy xa con!". Chén là hình ảnh kinh thánh để nói lên một sự thử thách, một vận mệnh đau thương; đồng thời nó cũng gợi lên chén máu của hy lễ.

"Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều cha muốn". Đức Giê-su không giao phó cuộc chiến nội tâm mà đối tượng sẽ là vâng lời hay không vâng lời cho ý muốn của Cha Ngài; Ngài là "một" với Cha Ngài; chỉ có một ý muốn duy nhất của Thiên Chúa, một kế hoạch duy nhất của Thiên Chúa. Nỗi xao xuyến của Đức Giê-su bàn về "phương tiện" nhờ đó ý muốn duy nhất nầy phải được thực hiện. Nỗi xao xuyến của vườn Ghết-sê-ma-ni không phải không nhắc lại sự thử thách ở sa mạc ở đó cuộc tranh luận nội tâm bàn về phương cách theo đó Đức Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng của Ngài.

1.2- Các môn đệ:

Ba lần Đức Giê-su trở lại với ba người bạn của mình. Thật cảm động biết bao vị Thiên Chúa làm người toan tính dựa vào những anh em nhân loại của mình trong nỗi buồn phiền vô hạn của mình. Nhưng thất vọng biết bao! Những môn đệ rốt cuộc không thể cưỡng kháng được giấc ngủ. Qua bài tường thuật của thánh Mác-cô, chúng ta nhận thức những ân hận của Phê-rô. Những lời quở trách của Đức Giê-su vẫn hằn sâu trong tâm khảm của ông: "Si-mon, anh ngủ à ? Anh không thức nổi một giờ sao…!"

Lần thứ ba Đức Giê-su không còn mong chờ sự nâng đỡ nào từ họ: "Lúc nầy mà còn ngủ, còn nghỉ sao ? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm…". Đức Giê-su hoàn toàn cô độc trong cơn hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni.

2. Đức Giê-su bị bắt (14: 43-47):

Thánh Mác-cô nhắc lại thêm một lần nữa rằng Giu-đa là một trong Nhóm Mười Hai để nêu bật cách hành xử ô nhục của hắn.

Tên phản bội biết nơi chốn; hắn biết rằng Đức Giê-su thường đến đây; hắn không lầm khi dẫn đến đây đội cận vệ Thượng Hội Đồng được trang bị gươm giáo được "các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến", và chắc chắn kéo theo những thành phần vô lại nhặt những gậy gộc trên đường.

Những kẻ lãnh nhiệm vụ bắt Đức Giê-su lại không biết Ngài, dù sao trong đêm tối có nguy cơ nhầm lẫn. Giu-đa đã ước định một ám hiệu: một nụ hôn. Cử chỉ thật ghê tởm nhưng không khác thường; một môn đệ thường chào thầy mình theo cách nầy; nhưng Giu-đa đã cho nó một ý nghĩa khác: dấu hiệu nộp Thầy mình: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận !".

"Nhưng một trong những kẻ có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế làm nó đứt tai". Nhờ Tin Mừng Gio-an, chúng ta biết rằng tác giả của hành động nầy là Phê-rô, và nhờ Tin Mừng Lu-ca, tai bị chém đứt là tai phải (những chi thể được định vị ở bên phải được xem như quý hơn những chi thể ở bên trái). Dường như một vết thương ở bên phải là dấu hiệu sỉ nhục.

3. Các môn đệ bỏ Ngài mà chạy trốn (14: 48-52):

Đức Giê-su phản đối việc bắt Ngài một cách vụng trộm, vào lúc đêm tối. Chắc chắn đây không là đám đông đã nghe Ngài khi Ngài giảng dạy trong Đền Thờ và vẫy cành lá tung hô Ngài vài ngày trước đây.

"Nhưng thế nầy là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm". Đức Giê-su quy chiếu đến bài ca Người Tôi Tớ chịu đau khổ mà Ngài đã áp dụng nhiều lần vào vận mệnh của chính mình.

"Bấy giờ, các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết". Trước những người xét xử Ngài, Đức Giê-su sẽ không có bất kỳ người bào chữa nào, bất kỳ nhân chứng nào bênh vực Ngài; Ngài một mình bước đi trên con đường Thương Khó của mình.

Tuy nhiên, hai Tông Đồ quay trở lại mà theo Ngài xa xa, vào tận bên trong dinh thượng tế Cai-pha; nhưng một trong hai người sẽ chối Ngài. Chỉ một mình thánh Gioan sẽ hiện diện dưới chân thập giá.

Thánh Mác-cô là vị thánh ký duy nhất đã ghi nhận một sự cố lạ thường: "Trong khi đó, có một cậu thanh niên theo Người, mình khoắc vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải gòn lại, bỏ chạy trần truồng". Nhiều nhà chú giải nghĩ rằng chàng thanh niên nầy là thánh Mác-cô, thánh ký tương lai.

4. Đức Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (14: 53-65):

Đức Giê-su bị điệu đến dinh thượng tế. Thanh Mác-cô không nêu tên vị thượng tế nầy. Đây có lẽ là Cai-pha, vị thượng tế đương nhiệm (thánh Gioan là thánh ký duy nhất nêu lên việc Đức Giê-su bị điệu ra trước vị cựu thượng tế Kha-nan, bố vợ của Cai-pha). Dù thế nào, đây là dinh thượng tế nơi mà các thành viên của Thượng Hội Đồng nhóm họp, nghĩa là Công Nghị tối cao của người Do thái.

Như thánh Mác-cô cho biết, Thượng Hội Đồng bao gồm ba loại thành viên:

- Các lãnh tụ tư tế (thượng tế, các cựu thượng tế và các tư tế đảm trách chức vụ thường hằng ở Đên Thờ).

- Các Kỳ Mục là những bậc vị vọng, những chủ nhân giàu có, những nhà quý phái.

- Các kinh sư là những tiến sĩ Luật, đa số giáo dân, thuộc vào tầng lớp trung lưu hay thậm chí khiêm tốn. Phần lớn là những người Biệt Phái.

Thượng Hội Đồng gồm có bảy mươi thành viên không kể vị thượng tế đương nhiệm. Để có thể tiên hành phiên xử, cần phải có tối thiểu hai mươi ba thành viên. Chắc chắn có hơn nhiều vào đêm Đức Giê-su bị điệu đến.

Thượng Hội Đồng tiến hành sự thẩm cứu pháp lý cho qua chuyện, sự thẩm cứu được định hướng sẳn rồi, bởi vì thật ra bản án được quyết định rồi. Tuy nhiên, Đức Giê-su cần phải ra trước tòa án Do thái. Nếu Ngài bị nộp trức tiếp cho chính quyền Rô-ma, Ngài sẽ chung số phận với những người kháng khiến và hưởng được vinh quang tử vì đạo. Án tử cần phải trước hết đến từ giáo quyền Ít-ra-en, để làm mất uy tín Đức Giê-su.

Thánh Mác-cô nhấn mạnh những lời chứng lộn xộn và những chứng nhân không thể đưa ra chứng cớ buộc tội Ngài được. Đối mặt với họ, Đức Giê-su thật trầm tỉnh và uy nghi, khẳng định rõ ràng phẩm tính của Đấng Mê-si-a và Con Thiên Chúa của Ngài và nhận cho mình những đặc quyền của Con Người mà ngôn sứ Đa-ni-en thoáng thấy: "Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây tròi mà đến". Đức Giê-su quả quyết: "Rồi các ông sẽ thấy". Quả thật, trong ba ngày nữa Ngài sẽ sống lại và chẳng bao lâu sau Giáo Hội của Ngài sẽ chiến thắng và trong vài năm nữa kinh thành Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ sẽ bị phá hủy…

Như vậy cho đến lúc đó Đức Giê-su bao phủ chung quanh con người của Ngài một mầu nhiệm nào đó, dù hiện giờ bị xiềng xích và bị sỉ nhục, Ngài vẫn lớn tiếng công bố sự siêu việt của Ngài.

Lúc đó vị thượng tế kêu mời tất cả thành viên Thượng Hội Đồng làm chứng. Cần phải có tối thiểu hai nhân chứng có đủ chứng cớ buộc tội để có thể công bố bản án. Chẳng cần nhân chứng nào nữa: tất cả họ vừa mới nghe lời phạm thượng và có thể làm chứng điều nầy!

Vị thượng tế làm trò xé áo mình. Theo tập tục chung, xé áo mình là dấu chỉ tang chế. Người ta gặp thấy nghi thức nầy tại dân Ba-by-lon cũng như tại dân Do thái. Nhưng vị thượng tế không có quyền xé áo mình cho một tang chế riêng tư (Lv 21: 10); ông phải dành riêng cử chỉ nầy cho những hoàn cảnh nghiêm trọng, công cộng, nhất là khi thi hành chức vụ thẩm phán của mình, ông phải công bố sự phẩn nộ của mình.

Làm thế nào người ta có thể biết được những chi tiết và những diễn biến của phiên họp Thượng Hội Đồng nầy ? Câu trả lời thật đơn giản. Trong số các thành viên Thượng Hội Đồng có những cảm tình viên của Đức Giê-su, như ông Giô-xếp thành A-ri-ma-thê và có lẽ ông Ni-cô-đê-mô. Vả lại sau nầy, theo lời chứng của sách Công Vụ (6: 7), có rất đông tư tế đón nhận đức tin.

Ngay từ phiên xử đầu tiên, Đức Giê-su chịu những nhục nhã ê chề: khạc nhổ vào mặt, lăng mạ, đánh đập. Thánh Mác-cô không bỏ qua những chi tiết tàn bạo nào.

5. Phê-rô chối Thầy và hối hận ăn năn (14: 66-72):

Vào lúc Đức Giê-su bị bắt, ông Phê-rô trốn chạy, như tất cả các môn đệ khác. Đoạn ông trấn tĩnh, cũng như một "người môn đệ khác", có lẽ là thánh Gioan, và cả hai theo xa xa đội cảnh vệ đang áp tải Đức Giê-su đi.

Trong khi thánh Gioan quen biết vị thượng tế (Ga 18: 15) nên được đi vào bên trong dinh thượng tế, còn thánh Phê-rô đứng ở sân ngoài gần cổng ở đó những người túc trực đã nhóm một lò lửa để sưởi ấm.

Cả bốn Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh thánh Phê-rô chối Thầy. Đáng lưu ý là vị lãnh tụ Giáo Hội đã để lưu truyền cho thế hệ sau tình tiết nầy làm mất thể diện của ông và chỉ mình ông mới có thể cung cấp những chi tiết. Thánh Mác-cô là cộng tác viên thân cận của thánh nhân, chính xác là một trong các tác giả Tin Mừng nhấn mạnh nhất khuyết điểm nầy.

Sự khiêm hạ của vị lãnh tụ các Tông Đồ, những hối hận sâu xa của thánh nhân trước sự vấp ngã nầy được bày lộ ngay tức thời bởi những dòng nước mắt ăn ăn của ông, đã thắng thế. Mẫu gương của thánh nhân không phải là một bài học cho các Ki tô hữu trong cơn bách hại vào thời điểm thánh Mác-cô soạn thảo những dòng nầy sao? Thánh Phê-rô làm cho chúng ta xúc động vì ngài là một vị thánh rất người.

6. Thượng Hội Đồng họp bàn lần thứ hai (15: 1):

Cuộc họp bàn của Thượng Hội Đồng lần thứ hai đã xảy ra sau cuộc họp bàn trong đêm. Thánh Mác-cô nói: "Vừa tảng sáng". Theo Luật, cuộc họp bàn nầy cần thiết. Khi một hình phạt nghiêm trọng được công bố, các thành viên Thượng Hội Đồng cần một kỳ hạn để suy nghĩ. Đúng luật, kỳ hạn nầy phải là hai mươi bốn tiếng: một phiên họp thứ hai phải xác nhận hay hủy bỏ quyết định.

Thật ra, Thượng Hội Đồng đã công bố án tử: "Tất cả đều kết án Người phải chết". Kể từ thời Rô-ma chiếm đóng, người Do thái không còn quyền tiến hành cuộc xử tử nữa. Vì thế, họ trói Đức Giê-su lại và giải đi nộp cho quan tổng trấn Phi-la-tô. Nhưng kể từ lúc đó, phiên tòa được chuyển sang bình diện chính trị. Từ tội phạm thượng nghịch với Thiên Chúa Ít-ra-en đến tội phản nghịch với cuộc chiếm đóng Rô-ma.

7. Đức Giê-su ra trước tổng trấn Phi-la-tô (15: 2-5):

Quan tổng trấn Phi-la-tô, đại diện chính quyền Rô-ma, cai trị trực tiếp miền Giu-đê. Thật ra, từ khi vua Hê-rô-đê Archilaüs, con và người kế vị vua Hê-rô-đê Cả, băng hà, Rô-ma đã không còn cử người của mình đến chính quyền địa phương nữa, vì họ sợ những phong trào phản loạn nổi lên ở Giê-ru-sa-lem hay trong miền. Khác với trường hợp miền Ga-li-lê, một người con khác của vua Hê-rô-đê Cả là vua Hê-rô-đê An-ti-pát cai trị, vì thế, Đức Giê-su, người Ga-li-lê, bị điệu ra trước vua nầy (cf. Lc 3: 1).

Nơi cư ngụ quen thuộc của các vị tổng trấn Rô-ma là thành Xê-da-rê duyên hải, nhưng vào những ngày đại lễ, đặc biệt vào lễ Vượt Qua, dân chúng quy tụ lại rất đông ở Giê-ru-sa-lem, thế nên, quan tổng trấn lên Giê-ru-sa-lem. Đó là lý do tại sao tổng trấn Phi-la-tô lúc đó có mặt trong Thành Thánh.

Quan tổng trấn Phi-la-tô chất vấn Đức Giê-su trên bình diện chính trị: "Ông là vua dân Do thái sao?" Chính vì tội danh nầy mà sau nầy Phi-la-tô truyền ghi bản án xử tội Ngài trên thập giá: "Giê-su, vua người Do thái". Đức Giê-su trả lời: "Đúng như ngài nói đó", hay một cách tinh tế hơn, nếu đại danh từ được nhấn mạnh: "Chính ngài nói đó". Đức Giê-su lãng tránh trả lời trực tiếp, nhưng câu trả lời nầy không phải kém khẳng định. Đây cũng là câu trả lời của Đức Giê-su cho Giu-đa khi hắn hỏi Ngài: "Thưa Thầy, chẳng lẽ là con sao?" – "Chính anh nói đó" (Mt 26: 25).

"Các thượng tế tố cáo Ngài nhiều tội". Quả thật, qua các Tin Mừng khác, chúng ta biết rằng hoạt cảnh diễn ra bên ngoài. Các thành viên Thượng Hội Đồng, các cận vệ của họ, và đám đông dân chúng càng lúc càng đông, ở bên ngoài dinh quan tổng trấn.

Đức Giê-su im lặng. Phi-la-tô ngạc nhiên. Chung chung, không có luật sư biện hộ, những bị cáo tự biện hộ cho mình.

8. Ân xá vào dịp lễ Vượt Qua (15: 6-15):

Theo phong tục của người Do thái, vào mỗi lễ Vượt Qua một tù nhân được phóng thích, chắc chắn để kỷ niệm cuộc giải phóng khỏi Ai-cập mà người ta tưởng niệm vào ngày đại lễ nầy. Phi-la-tô biết tập tục nầy; ông đề nghị đám đông chọn một kẻ giết người khét tiếng và Đức Giê-su. Việc cho dân chúng có quyền chọn lựa làm ngạc nhiên; không phải là không có những ví dụ khác. Ở kinh thành Rô-ma, trong những cuộc đấu ở hý trường, dân chúng quyết định tha hay giết chết, vua phải tuân theo ý muốn của dân.

Theo truyền thống Do thái, việc dân chúng dự phần vào việc xét xử được kể ra nhiều lần như phiên xử bà Su-dan-na.

Việc yêu cầu phóng thích tên Ba-ra-ba nêu bật những trách nhiệm khác nhau:

- trách nhiệm của các thành viên Thượng Hội Đồng, họ sách động dân chúng chống lại Đức Giê-su.

- trách nhiệm của đám đông, họ để cho mình bị xỏ mũi dẫn đi và thích tên phản loạn hơn. Tội ác của hắn không phải là không có hậu ý chính trị, chống lại chính quyền chiếm đóng.

- sau cùng, trách nhiệm của Phi-la-tô, ông đã tính sai một nước cờ khi nghĩ rằng phong trào quần chúng ủng hộ Đức Giê-su. Ông thích thú muốn thấy cuộc vận động của các thượng tế thất bại, bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Đức Giê-su. Nhưng Phi-la-tô nhượng bộ đám đông; ông muốn vừa lòng dân chúng bản địa, và đồng thời cũng muốn tránh bị tố cáo ở Rô-ma và bị coi là nhu nhược trước một toan tính chính trị của kẻ mạo danh "vua dân Do thái nầy".

Như vậy, quyết định chung cuộc chính do bởi tổng trấn Rô-ma, và chính bởi thập giá, khổ hình Rô-ma, mà Đức Giê-su bị kết án. Khổ hình Do thái là ném đá.

9. Đức Giê-su chịu đánh đòn (15: 15):

Đánh đòn tự nó là một khổ hình. Án phạt nầy cũng là một biện pháp mở đầu cho khổ hình thập giá; nó làm cho tội nhân kiệt quệ vì mất nhiều máu và như vậy rút ngắn cơn hấp hối rất đau đớn của tội nhân trên thập giá. Có nhiều loại hình phạt bị đánh đòn: người ta dùng gậy nếu tội nhân là công dân Rô-ma; dây da phủ có gắn những hạt chì đối với tội nhân có địa vị thấp kém, huống gì hạng nô lệ. Chắc chắn loại hình phạt đánh đòn thứ hai mà Đức Giê-su chịu.

10. Đức Giê-su chịu đội mão gai (15: 16-20):

Phi-la-tô giao cho quân lính thi hành án. Ấy vậy, dân chúng bị trị chẳng ưa gì quân lính Rô-ma chiếm đóng, vì thế, những người lính nuôi dưỡng sự căm ghét đối với dân tộc nầy. Đây là dịp họ đổ hết sự căm ghét của mình trên đầu tên Do thái nầy được giao vào trong tay họ. Tất cả lính cận vệ dinh tổng trấn tụ tập lại để chế giễu Đức Giê-su. Hoạt cảnh thật thâm hiểm.

Họ kết một vòng gai làm vương niệm đội lên đầu Đức Giê-su và khoắc cho Ngài một tấm áo điều; chắc chắn là tấm áo khoắc của quân đội Rô-ma, nhưng áo khoắc màu đỏ là dấu chỉ của sự chiến thắng. Thế nên, khoắc cho Đức Giê-su một áo khoắc màu đỏ trở thành trò nhạo báng của họ.

11. Con đường khổ giá (15: 21-27):

Người Rô-ma không tạo ra khổ hình thập giá; họ mượn ở nơi những dân tộc Đông Phương, người ta không biết đích xác nguồn gốc của nó. Xi-xê-ron mô tả khổ hình thập giá như "một cái chết kinh khiếp nhất và tàn bạo nhất". Người Rô-ma có nhiều hình thức khổ hình tùy theo các tầng lớp xã hội, khổ hình thập giá dành cho tầng lớp thấp kém nhất: tầng lớp nô lệ.

Việc hành hình xảy ra chỉ ở bên ngoài thành. Lãnh địa của thành là vùng đất thánh vì thế không thể nào bị nhiễm uế bởi xác chết của tội nhân. Đồi Gôn-gô-tha sát với bức tường thành Giê-ru-sa-lem. Chữ Gôn-gô-tha theo tiếng A-ram có nghĩa "Sọ", vì ngọn núi trơ trọi không có bóng dáng của cây cối.

Chi dù đoạn đường mà Đức Giê-su phải vác thập giá đi ngang qua tương đối ngắn, nhưng vì đã phải chịu những hành xử tồi tệ nên Ngài kiệt sức bước đi không vững. Vì thế, quân lính bắt một người qua đường vác thập giá giúp Ngài. Đó là "ông Si-môn, gốc Ky-rê-nê, thân phụ của hai ông A-lê-xan đê và Ru-phô". Sở dĩ thánh Mác-cô nêu tên hai người nầy, vì họ không xa lạ gì với các Ki tô hữu.

Quân lính điệu Đức Giê-su đi đến đồi Gôn-gô-tha. Nhóm lính nầy gồm bốn người, bởi vì họ chia áo xống của Ngài thành bốn phần, mỗi người mỗi phần (Ga 19: 23), được một viên đại đội trưởng chi huy, ông chịu trách nhiệm thi hành bản án và sẽ túc trực bên cạnh thập giá.

"Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người uống". Đây không là tập quán của người Rô-ma, nhưng của người Do thái: rượu pha mộc dược giúp cho tội nhân giảm cơn đau. Nhưng Đức Giê-su từ chối ân huệ nầy; Ngài muốn đảm nhận cho đến cùng toàn bộ những đau đớn hàm chứa ở nơi cái chết tàn bạo mà Ngài phải chịu với một sự ý thức tròn đầy.

Sau khi đã đóng đinh Ngài vào thập giá, quân lính đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau. Khía cạnh nầy phù hợp với luật Rô-ma: áo của tội nhân thuộc về tên lý hình. Đồng thời, sấm ngôn của Thánh vịnh 22 được ứng nghiệm: "Áo mặc ngoài chúng đem chia nhau. Còn áo trong chúng cũng bắt thăm luôn" (Tv 22: 19).

"Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba", tức chín giở sáng. Thánh Gioan định vị việc đóng đinh vào giữa trưa. Đây là một trong những tiểu dị giữa các thánh ký. "Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp", đối với Đức Giê-su, điều nầy là một sỉ nhục thêm nữa.

12. Trên đồi Can-vê (15: 29-32):

Chỗ hành hình được định vị ở bên vệ đường dẫn đến Giê-ru-sa-lem. Đây là chỗ chính quyền muốn: cảnh tượng những tội nhân hấp hối trong đau đớn quằn quại phải có hiệu quả răn đe đối với những người qua đường. Chính đó là lý do tại sao thánh ký nêu lên việc "kẻ qua người lại đều nhục mạ Người".

Đức Giê-su trên thập giá chịu những lời nhục mạ của ba hạng người.

- Những người Do thái qua đường và nhận ra Ngài.

- Các thành viên Thượng Hội Đồng (các thượng tế và các kinh sư) đến tham dự vào cuộc hành hình và buông những lời chế giễu Ngài cho đến tận lúc đó.

- Sau cùng, hai tên cướp. Thánh Mác-cô không nói về "tên trộm lành" như Lu-ca.

Như vậy, Đức Giê-su thật sự bị bỏ rơi và thật sự bị nộp vào trong tay của những kẻ thù Ngài.

Chính ở nơi đây theo bài tường thuật của thánh Mác-cô mà phải đọc Thánh vịnh 22 mô tả những đau khổ của Người Công Chính và niềm hy vọng đầy tin tưởng của ông. Chính những câu đầu tiên của Thánh vịnh nầy mà Đức Giê-su sắp thốt lên: "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa con, sao Ngài bỏ rơi con !". Xin được trích dẫn những câu 7, 8, và 9:

"Thân sâu bọ chứ người đâu phải,

con bị đời mắng chửi dể duôi,

thấy con ai cũng chê cười,

lắc đầu bĩu mõ buông lời mĩa mai:

Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó !

Người có thương, giải gỡ đi nào !"

13. Đức Giê-su chết trên thập giá (15: 33-37).

"Vào giờ thứ sáu (tức giữa trưa), bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín (tức ba giờ chiều)". Chúng ta nhận thấy thánh Mác-cô phân phối những biến cố thành ba giai đoạn, mỗi giai đoạn gồm ba giờ: đóng đinh vào lúc chín giờ, bóng tối vào lúc giữa trưa và chết vào lúc ba giờ. "Bóng tối bao phủ khắp mặt đất", thánh ký đọc thấy ở đây một dấu chỉ: cái chết của Đức Giê-su trên thập giá có một tầm mức hoàn vũ.

Chúng ta không thể bỏ qua sấm ngôn của ngôn sứ A-mốt gợi lên Ngày của Chúa như ngày chịu tang đứa con một:

"Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa,

và khiến cho mặt đất tối sẩm giữa lúc ngày đang sáng.

….

Ta sẽ làm cho đất nầy chịu tang

như người ta chịu tang đứa con một"

Những sấm ngôn khác (Giô-en, Xô-phô-ni, vân vân) loan báo rằng ngày Xử Án được đi kèm theo những dấu chỉ vũ trụ (mặt trời tối sầm…). Tuy nhiên, những sấm ngôn nầy phác họa "Ngày của Chúa" như ngày thịnh nộ. Ngay cả nếu giờ Đức Giê-su chết, trong một mức độ nào đó rồi, là giờ xử án đi nữa, thì cũng không là giờ thịnh nộ, nhưng trái lại, giờ của lòng xót thương vô hạn của Thiên Chúa, giờ tha thứ, giờ của tình yêu Thiên Chúa cho đến tận cùng.

"Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa con, sao Ngài bỏ rơi con ?" Đây là tiếng kêu bi thương trong cảnh khốn quẫn mà Người Công Chính thốt lên trong Thánh vịnh 22. Đức Giê-su trích dẫn. Sau khi biết con người, bạn bè Ngài, những môn đệ thân thiết nhất của Ngài đã bỏ rơi Ngài, Đức Giê-su cảm nhận một sự chơ vơ cô quạnh tuyệt mức, ngay cả chính Chúa Cha dường như cũng bỏ mặc Ngài. Đức Giê-su chết trong nỗi cô đơn tuyệt mức. Đây thật sự là một sự dâng hiến trọn vẹn bản thân mình, một sự quên mình tuyệt đối cho đến mức nó mang dấu ấn của Thiên Chúa.

"Ê-lô-I, Ê-lô-i…" Những từ được trích dẫn bằng tiến A-ram, tiếng mẹ đẻ của Đức Giê-su. Những người tham dự xem ra nghe hình thức tiếng Hy bá (Mát-thêu phiên âm: Ê-li, Ê-li). Ấy vậy, chúng ta biết rằng, theo truyền thống Do thái, ngôn sứ Ê-li phải trở lại trên cõi đời nầy để giới thiệu cho các tín hữu Đấng Mê-si-a. Lời cười cợt thật độc địa: Hắn đang hấp hối, bị đóng đinh trên thập giá, mà vẫn còn tin mình là Đấng Mê-si-a khi cầu cứu ông Ê-li !

"Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm". Cử chỉ nầy được hiểu tốt hơn ở nơi bản văn của thánh Gioan ở đó Đức Giê-su vừa mới nói: "Ta khát". Thánh Mác-cô dường như nói bóng gió rằng một trong những người tham dự - hay một trong những người lính – thử làm Đức Giê-su tỉnh lại để xem Ê-li có đáp trả lời cầu cứu của Ngài hay không ! Nhưng Đức Giê-su không nếm; Ngài tắt thở.

Cả bốn Tin Mừng đều giữ lại sự cố nầy vì nhiều bản văn Kinh Thánh soi sáng cho nó. Chúng ta đọc ở Thánh vịnh 69 những tiếng rên rỉ của một người tôi trung, nạn nhân của lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa.

14. Tiên báo một thế giới mới (15: 38-39).

Đức Giê-su vừa tắt thở. Thánh Mác-cô dẫn chứng hai sự kiện, cả hai đều giàu có ý nghĩa và bổ túc cho nhau:

1- "Bức màn trướng trong Đền Thờ bổng xé ra làm hai từ trên xuống dưới". Hoặc là bức màn cửa được giăng trong tiền sảnh; hay bức màn phân cách nơi thánh với nơi cực thánh ở đó chỉ vị thượng tế mới có thể bước vào, một năm một lần, để thực hiện nghi thức Xá Tội. Dù bức màn nào bị xé ra làm hai, ý nghĩa vẫn như nhau: "con đường đến với Thiên Chúa từ đây được mở rộng cho tất cả mọi người", việc Thiên Chúa tuyển chọn không còn quyền ưu tiên của dân Ít-ra-en: cái chết của Đức Giê-su trương rộng ra cho hết mọi người. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, biểu tượng của sự hiện diện của Thiên Chúa, đã không còn đóng vai trò của mình nữa; đền thờ thực sự của Thiên Chúa sẽ là "Thân Thể Phục Sinh" của Đức Ki tô – như chính Ngài đã công bố.

2- Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Ngài tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, Người nầy là Con Thiên Chúa". Viên đội trưởng đã nghe nhiều lần những giọng nói ở giữa đám đông: "Người nầy tự xưng mình là Con Thiên Chúa". Ông lập lại diễn ngữ nầy, dù không hiểu hết mức độ của nó, nhưng bị thuyết phục, bởi những gì ông đã chứng kiến, rằng tội nhân nầy là một người Công Chính đặc biệt. Lời tuyên xưng nầy của viên đội trưởng là "dấu chỉ tiên báo cuộc hoán cải của thế giới lương dân"; đây là lời chứng đầu tiên về ơn cứu độ phổ quát mà việc bức màn của Đền Thờ bị xé ra làm hai loan báo.

15. Các người phụ nữ (15: 40-41).

Thánh ký trích dẫn đích danh ba người phụ nữ tín trung và đạo đức đứng xa xa, nhưng không xa lắm cảnh tượng Đức Giê-su đang hấp hối.

1- Trước tiên, "bà Ma-ri-a Mác-đa-la" (nghĩa là bà Ma-ri-a quê quán Mác-đa-la), người phụ nữ mà Đức Giê-su đã trừ bảy và từ đó bà luôn theo Đức Giê-su và phục vụ Ngài. Đừng lẫn lộn với người phụ nữ tội lỗi vô danh khóc sướt mướt về tội lỗi của mình (Lc 7: 36-50).

2- "Bà Ma-ri-a, mẹ các ông Gia-cô-bê thứ và Giô-sê". Chính hai ông nầy mà trước đây thánh Mác-cô gọi "anh em của Đức Giê-su" (Mc 6: 3). Quả thật, dường như bà Ma-ri-a, mẹ của hai ông, là bà con gần của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Sự hiện diện của hai người phụ nữ nầy rất gần với bản văn của thánh Gio-an: "Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la" (Ga 19: 25). Danh xưng "chị" có thể chỉ chị họ. Có một truyền thống luôn luôn muốn rằng Tông Đồ Gia-cô-bê thứ là anh họ của Đức Giê-su – truyền thống nầy đã gặp thấy những âm vang trong nghệ thuật thánh.

3- Người phụ nữ thứ ba mà thánh Mác-cô nêu tên là "bà Sa-lô-mê" chung chung được nhận dạng là vợ ông Dê-bê-đê, mẹ của hai Tông Đồ Gioan và Gia-cô-bê (Một Gia-cô-bê khác, được gọi Gia-cô-bê trưởng). Chúng ta biết rằng thánh Gioan là vị Tông Đồ duy nhát hiện diện dưới chân thập giá. Mẹ của ông cũng vậy.

Vả lại, thánh ký xác định rằng có nhiều phụ nữ khác đến từ Ga-li-lê. Điều nầy xác minh những lo lắng của các thượng tế, họ sợ rằng trong đám người hành hương có những cảm tình viên của Đức Giê-su. Có lẽ những người phụ nữ nầy không đến một mình, nhưng với gia đình của họ, chồng, con vân vân. Những người Ga-li-lê nầy không thể hay không dám tỏ mình ra.

16. Mai táng Đức Giê-su (15: 42-47).

Theo tập tập Rô-ma, để có hiệu quả răn đe, xác của tội nhân phải bị bêu rếu trong nhiều ngày; nhưng luật Do thái hoàn toàn khác: hoàng hôn không được phủ bóng trên xác chết của tội nhân; sách Đệ Nhị Luật xác định rằng thi hài tội nhân phải được mai táng trước khi đêm xuống (Đnl 21: 22).

Mặt khác, nếu không có ai can thiệp, thi hài của Đức Giê-su có nguy cơ bị ném vào trong một hố chung cùng với thi hài của hai tử tội khác, và chỉ có quan tòa mới có thể quyết định cho nhận thi hài lại.

Cuối cùng, theo cách tính của người Do thái, chiều bắt đầu ngày sa-bát, ngày người ta phải kiêng tất cả mọi việc làm. Vì thế, việc mai táng phải gấp rút. Ấy vậy, có một ngôi mộ trống ở gần bên cuộc hành hình: một giải pháp nhanh và tạm thời. Chính đây là điều mà chủ nhân của ngôi mộ nầy nghĩ đến, ông là một môn đệ bí mật; ông chưa bao giờ dám bày tỏ sự thiện cảm của mình khi Đức Giê-su còn sống, vì ông là một thành viên Thượng Hội Đồng; ông là một trong những người giàu có thế giá chủ trì công nghị tối cao với các Kỳ Mục. Lúc đó, thu hết can đảm, ông mạnh dạn đến gặp tổng trấn Phi-la-tô xin thi hài Đức Giê-su. Viên tổng trấn chấp nhận luật Do thái bởi vì ông nghĩ rằng việc bêu xấu như tập tục Rô-ma là vô ích. Theo luật, tổng trấn phải giao lại thi hài cho gia đình của nạn nhân, nhưng có lẽ cuộc vận động của ông Giô-xếp, uy tín của một thành viên Thượng Hội Đồng, đã gây ấn tượng trên quan tổng trấn; mặt khác, ông Giô-xếp không thể nào hành động mà không có sự đồng ý của Đức Nữ Trinh.

Những biến cố sau cùng nầy khiến chúng ta không thể không nghĩ đến những lời của Đức Ki tô: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12: 24). Ngay khi Đức Giê-su vừa trút hơi thở cuối cùng, nhiều dấu hiệu cho thấy lời loan báo nầy xác thực: một viên đội trưởng công bố sự siêu việt của người tử tội nầy, đám đông ra về vừa đấm ngực ăn năn (thánh Lu-ca nói với chúng ta), một môn đệ bí mật vượt thắng nỗi sợ hãi của mình, viên tổng trấn Rô-ma chấp nhận lời thỉnh cầu ngoại lệ.

Vì thế, Đức Giê-su, sứ giả nghèo khổ nầy, vài ngày trước đây đã chấp nhận cho một người phụ nữ tội lỗi có lòng hối cải xức dầu thơm đắt tiền cho thân thể mình, nay được nghỉ yên trong ngôi mộ của một nhân vật giàu có, ngôi mộ hoàn toàn mới (những sản phẩm đầu mùa nầy không phải thuộc vào Thiên Chúa ư ?), như thử những dấu chỉ danh dự mai táng nầy là những dấu chỉ báo trước việc Ngài bước vào trong vinh quang!

Ngôi mộ thực tế là một phòng tang ở giữa có một băng ghế dài để đặt thi thể; ở phía trước là tiền sảnh; lối vào thì hẹp và thấp. Để lấp cửa mộ, người ta lăn một phiến đá lớn.

Thi hài Đức Giê-su được đặt ở trên băng ghế dài. Thánh Mác-cô nói với chúng ta bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a, mẹ ông Giô-sê quan sát cẩn thận những chi tiết của việc mai táng. Thế nên, chính hai bà vào sáng tinh sương ngày hôm sau sẽ là hai người đầu tiên chứng nhận ngôi mộ trống. Lời chứng của họ chẳng có giá trị gì.

Như vậy ngày đau thương được hoàn tất giữa những dấu ấn của lòng trung thành và tình yêu mến.

KẾT LUẬN:

Bài tường thuật của Mác-cô – như bài tường thuật của các thánh ký khác – được diển tả một cách rất đơn giản. Không một chi tiết bi thương nào được thêm vào cho bài tường thuật đơn giản nầy; những sự kiện tự nó đủ để nẩy sinh tình cảm.

Ba tấn thảm kịch được chồng chéo nhau trong cuộc thương khó của Đức Giê-su:

- tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối;

- tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người;

- tấn thảm kịch của tội lỗi.

1. Tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối:

Đức Giê-su đã công bố sứ điệp khó khăn, tuy nhiên không nhượng bộ và thỏa hiệp; Ngài đã lật đổ những ý tưởng cố hữu, kết án câu nệ luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, rồi sự thù hận liên kết với nhau tấn công Ngài. Những vị lãnh đạo tôn giáo Ít-ra-en đã không chấp nhận nhận ra ở nơi Ngài Đấng Mê-si-a vì Ngài không đáp ứng đúng hình ảnh mà họ tự tạo nên. Việc họ quyết tâm ăn thua đủ với Ngài đã dẫn đến cái chết, nhưng không đến cái chết như họ nghĩ tưởng: Đức Giê-su đã chiến thắng cái chết, nhưng Ít-ra-en với tư cách dân thừa hưởng Lời Hứa, không còn hiện hữu nữa.

2. Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người:

Khi đón nhận kiếp người, Đức Giê-su chấp nhận thân phận "sinh ly tử biệt". Vì thế, Ngài muốn đảm nhận cái chết trong tất cả sự khiếp sợ cùng với những đau khổ của nó. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến cho Ngài phải chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài. Số phận nầy nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa: "Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi nhận được" (Ga 10: 17-18). Đây là cử chỉ bác ái tột cùng: Đức Giê-su đã muốn chia sẻ số phận của những kẻ bị tra tấn, bị khổ hình, những người chết vì đạo, để tất cả những ai phải chết trong những khốn khổ thậm tệ nhất, và tất cả những ai phải chịu đau đớn về thể xác cũng như luân lý, gặp thấy trong cuộc thương khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Chúng ta nên lưu ý rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có sự sung mãn: sự sung mãn của sự sống, sung mãn của những điều thiện hảo, sung mãn của ân sủng.

3. Tấm thảm kịch của tội lỗi:

"Nầy là Mình Thầy bị nộp vì anh em. Vì nầy là máu Thầy đổ ra để muôn người được tha tội". Đức Giê-su đã giải thích rõ cái chết của Ngài. Tuy nhiên, điều này chẳng là gì cả nếu chúng ta không để mình vào trong mầu nhiệm. Mầu nhiệm của "ơn Cứu Chuộc". Người cứu chuộc (gô-en), chính là người phục hồi nhân phẩm cho thành viên của gia đình bị hoạn nạn, và chuộc lại, nếu phải chịu cảnh đời nô lệ vì nợ nần. Chính đó là ý nghĩa đặc thù của từ ngữ Hy bá mà chúng ta dịch "Đấng cứu chuộc".

Bất chấp sự soi sáng thánh kinh nầy, biết bao câu hỏi nẩy sinh trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một sự xúc phạm đến Sự Thiện. Ấy vậy, Sự Thiện, chính là Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa chan chứa tình yêu, Đấng đã không muốn con người một mình gánh chịu những hậu quả của tội lỗi mình. Ngài đã sai Con Một Ngài để chia sẻ tận mức gánh nặng tội lỗi và xóa đi những vết nhơ của chúng ta. Đó là lý do tại sao Thập Giá là "vinh quang" của Thiên Chúa như thánh Gioan phát biểu.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Nạn nhân vụ bị đè chết cầu bầu cho Giáo Hội Phi Châu
Bùi Hữu Thư
03:56 30/03/2009

Nạn nhân vụ bị đè chết cầu bầu cho Giáo Hội Phi Châu



Phát Ngôn Viên Vatican suy tư về cái chết của hai thiếu nữ Angola

VATICAN, ngày 29 tháng 3, 2009
(Zenit.org).- Một phát ngôn viên Tòa Thánh nói, hai thiếu nữ bị đè chết trong vụ xô lấn trước buổi họp của giới trẻ tại Luanda, Angola, tuần qua là những người sẽ cầu bầu cho Giáo Hội Phi Châu.

Linh mục Dòng Tên Federico Lombardi, giám đốc văn phòng truyền thông Vatican, đã bình luận trong chương trình phát hình tuần này của Đài Truyền Hình Vatican "Octava Dies, và gọi hai cái chết này là "tàn bạo và bất ngờ."

Celine, 22, và Anna, 21, bị chết ngày 21 tháng 3 khi hàng ngàn người trẻ xô đây nhau kéo tới các cánh cổng để bước vào vận động trường Dos Coqueiros nhiều giờ trước khi Đức Thánh Cha Benedict XVI nói chuyện với giới trẻ. Ít nhất cũng có thêm 8 người khác bị thương.

Phát ngôn viên suy niệm, "Chúng tôi thích thú ngắm nhìn những gương mặt tươi cười của bao nhiêu thiếu nữ xếp hàng dài hai bên đường phố Luanda vào những ngày ấy! Chắc chắn họ cũng ở trong đám đông này.”

Cha Lombardi tiếp, "[Celine], là một giáo lý viên, [Anna], là thành viên cuả một nhóm Ơn Thiên Triệu, đã phải chấm dứt hành trình đức tin và dấn thân trên dương thế của họ một cách tàn bạo và bất ngờ, nhưng họ sẽ đồng hành với những người bạn của họ, những người trẻ Angola đang khao khát một niềm hy vọng mới.”

Cha giải thích: "Hàng trăm, hàng ngàn hướng đạo sinh, các thanh niên và thiếu nữ, đã hy sinh quảng đại cho sự thành công của chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha, các phụ nữ của các phong trào Công Giáo, đã ý thức được vai trò chính yếu của họ trong đời sống của Giáo Hội và xã hội Phi Châu mà Đức Thánh Cha đã đề cập đến nhiều lần tại Cameroon and Angola.

"Chúng ta có thể và phải trông cậy nơi các lực lượng này để khiến cho Giáo Hội Phi Châu có thể phục vụ cho sự hòa giải, công chính và hòa bình, không bằng lời nói nhưng bằng hành động. Để mở đường cho tương lai của một đại lục tử đạo, còn gì cần thiết hơn là một giới trẻ biết cách tin, yêu, và hy vọng? "

Linh mục Lombardi nói Giáo Hội sẽ không quên hai thiếu nữ này: “Họ tiếp tục đồng hành với chúng ta như hai thiên thần trên đường tiến về tương lai của Phi Châu!"
 
Top Stories
Vietnam: hoger beroep parochianen afgewezen
katholieknieuwsblad
21:44 30/03/2009
Vietnam: hoger beroep parochianen afgewezen

Een rechtbank in Hanoi heeft het hoger beroep afgewezen van acht katholieken die zeggen onterecht veroordeeld te zijn wegens verstoring van de openbare orde en vernieling van staatseigendom. De acht werden in december veroordeeld nadat zij in augustus vorig jaar waren opgepakt om een voorbeeld te stellen. Bij hun veroordeling lieten de acht weten net zo lang te zullen procederen tot zij van iedere blaam gezuiverd zijn.

Dat het oordeel van de rechtbank politiek gemotiveerd was bleek uit de woorden van de president, die het gedrag van de verdachten “een gevaar voor de samenleving” noemde. Dat zou “ernstige consequenties” hebben en “ondermijnt de grote nationale eenheid”.

“Vreedzaam gebed”, antwoordde Le Thi Hoi, een van de acht, “kan geen ordeverstoring worden genoemd”.

De spanning rond het gerechtsgebouw liep flink op doordat minstens vijfduizend katholieken zich in gebed verzamelden ondanks dreigementen en intimidaties door de overheid. Ook in Ho-Chi-Minhstad, het voormalige Saigon, vond een solidariteitsbijeenkomst plaats waaraan rond 5.000 mensen deelnamen.

Op de ochtend van het proces trokken vijfduizend gelovigen na de Heilige Mis in de opstandige parochie Thai Ha onder begeleiding van tientallen priesters al biddend en zingend op naar het gerechtsgebouw. Minstens 1.000 man oproerpolitie hielden de demonstranten met honden op afstand.

Het proces zelf was duidelijk gemanipuleerd. De advocaat van de parochianen, Le Tran Luat, is maandenlang bedreigd en vals beschuldigd. Vlak voor het proces werd zijn vergunning als advocaat ingetrokken. Een dag voor het proces maakte de staatstelevisie de redemptoristen verdacht die de parochie van Thai Ha leiden.

Hetzelfde televisiestation, VTV 1, had eerder tegen de feiten in beweerd dat de acht schuld hadden bekend. Nadat advocaat Luat namens de acht een aanklacht tegen de zender had ingediend begon de laster- en intimidatiecampagne tegen de jurist. (KN/AsiaNews)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hội Samaritanô Thanh Hóa đến với bệnh nhân nghèo họ Trung Vực Kẻ Láng
Nhật Vy
17:00 30/03/2009
HỘI SAMARITANÔ THANH HÓA ĐẾN VỚI BỆNH NHÂN NGHÈO HỌ TRUNG VỰC – KẺ LÁNG

Với mục tiêu được đặt ra từ khi thành lập là giúp dùng y đức chăm sóc bệnh nhân nghèo, không phân biệt lương giáo, Hội Thầy Thuốc Sa-ma-ri-ta-nô Thanh hoá đã thực hiện nhiều chuyến công tác phục vụ.

Ngày 28.03.2009, gần 30 Y Bác sĩ (có 5 người lương dân) một lần nữa đã rời Tòa Giám mục Thanh Hóa vào lúc 7g30, lên đường tiến về phía Tây, dừng lại tại họ đạo Trung Vực thuộc xứ Kẻ Láng, cách Thành phố Thanh hoá chừng 40 cây số về phía Tây. Đây là một giáo họ trên 1.200 nhân danh. Hầu hết sống kiếp thuyền chài lênh đênh trên dòng Sông Chu, con sông dài thứ hai của tỉnh Thanh hoá. Mỗi gia đình chỉ có một chiếc thuyền con thô sơ nhỏ bé nhưng lại là nơi sinh hoạt duy nhất cho 3,4 thế hệ, từ ông lão râu tóc bạc phơ cho đến cháu chắt miệng còn hôi sữa. “Gạo chợ nước sông” là tất cả cuộc đời họ. Mò cua bắt ốc quanh năm suốt tháng nhưng đôi khi thu nhập chỉ vỏn vẹn một ký “hải sản nước ngọt” mỗi ngày. Tắm rửa, giặt giũ ăn uống...mọi sự đều giải quyết bằng nước sông “trong nhờ, đục chịu”…

Đoàn Samaritanô đến Kẻ Láng lúc 9g sáng. Cha Quản xứ Giuse Trần Văn Phi đã bày tỏ niềm vinh dự được Hội chọn làm “điểm hẹn tình thương” trong chuyến đi này. Ngài mau mắn hướng dẫn đoàn đến nhà thờ họ tạm thời dùng làm tụ điểm khám chữa bệnh.

Sau kinh Chúa Thánh Thần và bài hát Kinh Hòa Bình cũng là ý lực sống của Hội, Cha phó xứ Phêrô Nguyễn Văn Tám đã giới thiệu từng thành phần trong đoàn và bày tỏ niềm vui thay cho người nghèo được quan tâm. Cha Chủ tịch Uỷ Ban Bác Ái Xã Hội của giáo phận, cha Antôn Trịnh đình Thiệu, cũng ngỏ lời cám ơn Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh đã có sáng kiến thành lập Hội, để nhờ đó hôm nay, những người thuyền chài nghèo khổ có được cơ hội quý báu này. Cha Tôma Lê Xuân Khấn – linh mục đồng hành và cũng là trưởng phái đoàn - đã thay mặt Đức Cha Giuse gởi lời hỏi thăm và động viên của ngài đến từng bệnh nhân, đồng thời cho biết họ chính là đối tượng ưu tiên trong cộng đồng xã hội.

Đoàn Samaritanô gồm một nhóm Dược sĩ phát thuốc, năm nhóm y bác sĩ trong đó bốn nhóm khám tại chỗ và một nhóm lưu động xuống tận các thuyền để khám và phát thuốc cho những người không thể lên bờ. Một bà trên 95 tuổi đã cho chúng tôi biết, đây là lần đầu tiên bà được “đặt ống nghe”. Khi cha Tôma Khấn hỏi Bà đâu là bí quyết giúp Bà sống thọ? Bà đã trả lời ngay: “con chỉ biết trông cậy vào Chúa, hằng ngày đọc kinh cầu nguyện xin Chúa giữ gìn con”. Bà được sinh trên thuyền và lớn lên giữa sóng nước….

Sau bữa ăn trưa đạm bạc vội vã, các Y Bác sĩ lại tiếp tục khám cho số bệnh nhân còn lại. Lúc đầu đoàn chỉ dự trù phục vụ 200 bệnh nhân, nhưng con số thực tế đã lên đến trên 300. Thuốc mang theo không đủ phát, đoàn phải gửi người đi mua thêm thuốc cách đó trên 15 cây số.

Mệt nhoài vì phục vụ mãi đến 16g30, nhưng ai nấy đều cảm thấy mãn nguyện vì đã đem yêu thương đến cho những người kém may mắn… Một nữ Bác sĩ khoa sản (lương dân) đã cho chúng tôi biết, đây là lần đầu tiên chị đi khám từ thiện, chị cảm thấy rất vui và mong ước được tham gia trong các chuyến hành trình tiếp nối, chị cảm nhận được sự thiếu thốn của những bệnh nhân nghèo. Cái vòng luẩn quẩn của cái nghèo và dân trí thấp làm cho cuộc đời của họ không thể tiếp cận được với nền văn minh nhân loại, mà trước tiên là một nền y tế đang trên đà phát triển với đủ dụng cụ y học tân tiến.

Trong niềm vui rạng rỡ, mọi người đã nắm tay nhau hẹn gặp lại trong chuyến xuất hành lần tới vào tháng tư, đến với anh em dân tộc thiểu số miền núi, lòng ấp ủ hoài bão chân cứng đá mềm, rong ruổi khắp mọi nẻo đường giáo phận Thanh hoá, để những bệnh nhân nghèo khổ xứ Thanh, nhận được hơi ấm và sức mạnh của “những thiên thần áo trắng”.

 
Nhóm Ve Chai Nhân Ái Hải Phòng giao lưu, trao quà cho bà mẹ và trẻ em nhiễm HIV
Kiến Văn
17:58 30/03/2009
Nhóm Ve Chai Nhân Ái Hải Phòng giao lưu - Trao quà cho bà mẹ và trẻ em nhiễm HIV trong Mùa Chay 2009

Thứ bảy ngày 28-3 vừa qua tại Giáo xứ an Hải – Giáo Phận Hải Phòng, Nhóm Ve Chai Nhân Ai Hải Phòng đã tổ chức một buổi giao lưu và trao quà cho tám mươi phần quà cho sáu mươi bà mẹ và hai mươi em nhỏ bị ảnh hưởng và nhiễm HIV.

Tại buổi giao lưu và chia sẻ này, các thành viên Nhóm Ve Chai và Ban Hành Giáo giáo xứ An Hải đã chuẩn bị đón tiếp các bà mẹ và trẻ em như những vị khách quý nhất. Cha đặc trách Nhóm Chai Ve Nhân Ai Hải Phòng Gioan Baotixita Vũ Văn Kiện đã gọi các chị và các em nhỏ như những người thân trong gia đình của Nhóm Ve Chai. Trong bài chia sẻ cha đã lắng nghe và cảm thông cùng với lời động viên ân cần và gần gũi. Nhiều bà mẹ và nhiều chị đã mạnh dạn chia sẻ tâm tình của mình mà không có một chút mặc cảm về số phận và bệnh tật. Các mẹ và các chị đã bộc lộ những ưu tư, khó khăn khi phải đối diện với cái chết đang gần kề với chính bản thân mình. Giữa những tâm tình chia sẻ là những bài hát của các bạn trong Nhóm Ve Chai góp vui làm cho không khí càng thêm ấm áp tình Chúa, tình anh chị em với nhau.

Cuối buổi giao lưu là giờ Chầu Mình Thánh Chúa, một bầu khí trang nghiêm vàThánh thiên. Cho dù mọi người không phải là người Công Giáo, nhưng họ đã cùng cộng đoàn quỳ gối thờ lạy và cảm ta Thiên Chúa, Thượng Đế qua lời mời gọi của Cha đặc trách. Cha đặc trách đã dâng lên Chúa nhưng ưu tư, lo lắng và bệnh tật của các bà, các mẹ và các em nhỏ cha đã cầu xin Chúa nâng đỡ an ủi ban sức mạnh và chúc lành cho mọi người tham dự và nhất là các chị và các em, những người đang trong mình căn bệnh thế kỷ HIV, xin cho chị em cố gắng vượt lên chính mặc cảm của bệnh tật, kỳ thị và bỏ rơi để họ tiếp tục lạc quan vui sống. Xin Chúa cho có nhiều người hảo tâm giúp đỡ và cầu nguyện cho chị em.

Sau giờ chầu Mình Thánh Chúa là bữa cơm thân mật, Cha đặc trách và các bạn trong Nhóm Ve Chai cùng ăn cơm chung với mọi người. Bữa ăn đơn sơ và đạm bạc cùng với những tiết mục văn nghệ cây nhà lá vườn của chính cácmẹ, các chị và các cháu nhỏ đã làm cho bữa ăn thật vui vẻ và ấm áp.

Mọi người ra về trong hân hoan như cảm nhận được một cuộc gặp gỡ- giao lưu - chia sẻ đầy tình Chúa tình người. Cha đặc trách và các bạn trong Nhóm ve chai đã bắt tay mọi người trước khi chia tay. Trên khuôn mặt của các chị và các em nhỏ đã lộ rõ niềm vui. Họ đã nở những nụ cười của ngày gặp ấm áp và được yêu thương.

Cầu chúc cho các bạn trong Nhóm Ve Chai Nhân Ai Hải Phòng và Giáo xứ An Hải là nơi đón tiếp những anh chị em nghèo khó và đau khổ. Xin cho những dự định của Nhóm Ve Chai nhân ái Hải Phòng ngày một thăng tiến hơn trên con đường phục vụ những người bất hạnh.

 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Kiến kiện khoai
Nắng Sài Gòn
01:35 30/03/2009
Công lý ơi! Đường quanh co gian khổ,
Sự thật ơi! Truân chuyên lắm gập ghềnh.
Dù ba đào, chìm nổi kiếp lênh đênh,
Luôn vững chí dù mưa giông, bão tố.

Kiến kiện khoai! Người ơi! Kiến kiện khoai,
Đất nước tôi! Bóng đêm bao năm dài.
Nỗi cay đắng, dân đen, niềm uất hận,
Tức nước vỡ bờ, đến ngày kiến kiện khoai.

Cùng bước đi trong niềm tin ngập tràn,
Tay trong tay vui nhịp bước bình an.
Cùng hát vang lời ca tìm Công lý,
Lòng đồng lòng một ý chí hiên ngang.

Công lý ơi! Niềm tin yêu cuộc đời,
Sự thật ơi! Dân oan đợi bao ngày.
Mong an bình, cuộc sống mới dựng xây,
Chân vững bước đồng lòng ta đi tới.

Kiến kiện khoai! Người ơi! Kiến kiện khoai,
Cùng hát vang lời kinh yêu hòa bình.
Mong ánh sáng chiếu soi tình thắm tình,
Dù chốn lao tù, môi thắm nụ cười xinh.

Cùng bước đi trong niềm tin yêu đời,
Vui hân hoan cùng tiến bước bạn ơi!
Dù khó khăn quyết đi tìm Công lý,
Sự thật về! Cho đất nước sáng tươi.

(Cảm nhận khi xem những tấm hình của tập thể giáo dân
Giáo phận Hà Nội trên đường đi tìm Công lý ngày 27/3/2009 vừa qua)
 
Tản mạn: Nói Dối
An Mai
02:51 30/03/2009
tản mạn: NÓI DỐI

Mỗi ngày đều có ý nghĩa lịch sử và ngày ấy để lại dấu ấn nào đó trong lòng người. Ngày Cá tháng Tư mặc dầu không có lịch sử rõ ràng nhưng ít nhiều gì con người cũng nghe đến ngày này và thi thoảng vẫn “nhắc nhau” ngày này bằng cách nói dối chuyện gì đó cho vui chứ không làm hại đến người khác. Mỗi nền văn hoá có lịch sử kỷ niệm ngày Nói Dối khác nhau nhưng thường vào ngày đầu tiên của mùa Xuân.

Người ta cho rằng, quê hương của cá tháng tư là ở nước Pháp. Ngày cá tháng tư được “khai sinh” từ thế kỷ 16. Theo cách giải thích này, vào thời kỳ đó, năm mới ở Pháp được tổ chức từ ngày 25/3 đến 1/4. Đến năm 1562, công lịch mới được giáo hoàng Gregory đưa ra với ngày đầu tiên của năm mới là 1/1 và 2 năm sau công lịch này được hoàng đế Henry IX thông qua. Tuy nhiên, có một số người không biết lịch mới mà vẫn tiếp tục tổ chức đón mừng tất niên vào ngày 1/4. Những người này bị bạn bè trêu đùa bằng cách gửi những món quà nghịch ngợm, nói dối họ và thuyết phục họ tin vào những chuyện đó. Những người bị lừa trở thành “April fool” (Kẻ ngốc tháng 4 – Cá tháng tư). Ở Việt Nam, khoảng hơn 10 năm trở lại đây, ngày cá tháng tư đã được chấp nhận và nhanh chóng trở thành cơ hội để mọi người cùng chia sẻ các bất ngờ thú vị.

Nói dối là hành vi cố tình cung cấp thông tin sai sự thật về vấn đề nào đó để người nói dối đạt được mục đích mà họ mong muốn – thường là không chính đáng. Người nói dối luôn tạo môi trường giống như thật, tạo mọi cử chỉ, hành động để đối tượng tin vào những gì họ đang nói. Còn với người bị nói dối thì họ thường để lộ những cảm xúc tiêu cực, không ít người nhận thấy mình bị đem ra làm trò đùa. Trong trường hợp họ bị nói dối mà không phát hiện ra thực tế phũ phàng, thì họ rất quan tâm đến hậu quả của sự nói dối sẽ xảy ra ra sao.

Vậy là khi người thông tin mong muốn người khác hiểu lệch lạc về một vấn đề, sự kiện, hoặc mong muốn đạt được điều gì đó (thường là quyền lợi vật chất, vị trí công tác, biện minh cho việc làm xấu cho của mình, cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh…) nhờ thông tin sai sự thật, bịa chuyện thì nói dối xuất hiện. Người nói dối nhiều lần, không quan tâm hoặc bất chấp hậu quả xấu có thể xảy ra cho nhiều người khác thì thường được gọi là trí trá. Xã hội, cộng đồng thường tỏ ý khinh ghét, xa lánh những người nói dối kiểu này.

Không ngờ, với phương Tây, người ta kỷ niệm cái ngày này và trêu nhau một chút cho vui còn với người Việt thì ngược lại. Chuyện đùa vui ở Tây Phương lại trở thành căn bệnh trầm kha của một số người Việt. Người Tây Phương họ thường rất thẳng thắn, đâu ra đó và họ không hề sợ mất lòng khi nói thẳng, nói thật. Người Việt thì bị cái vỏ bọc bên ngoài che chắn quá lớn để rồi khi ai nào đó nói thẳng, nói thật, góp ý với mình thì mình xừng cồ lên với sự góp ý đó. Từ cái chuyện không dám nói thẳng nói thật đâm sinh ra cái tật xấu nữa là nói xấu nhau.

Người ta vẫn thường đùa với nhau:

Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt,

Lọc lừa lương lẹo lại lên lương.

Đùa nhưng mà đúng đấy ! Thử hỏi trong xã hội hiện nay những người sống thẳng, sống thật xem hậu quả sẽ như thế nào ? Còn với những người lọc lừa lương lẹo ấy thì ngày lại ngày cứ thăng quan tiến chức !

Với lối sống ích kỷ và giả tạo để rồi người ta không còn ngần ngại hứa lèo, hứa lần, hứa hồi và nói dối trở thành thói quen trong cuộc sống.

Lớn nói dối theo lớn, nhỏ nói dối theo nhỏ. Không biết có quá đáng chăng bây giờ đi tìm người nói thật khó quá ! Vì lẽ nói thật, nói thẳng thường hay bị ganh ghét, đố kỵ. “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng” ! Vì sợ mất lòng nên nhiều người đã sợ làm mất lòng người khác nên đành né đi bằng cách nói dối để làm hài lòng đối phương. Mà cũng khổ, biết nói dối là điều xấu, là điều không ai thích nhưng dần dần chuyện nói dối xảy ra quá nhiều trong xã hội nên nói dối đâm ra là “chuyện thường ngày ở huyện”.

Cách đây không lâu, có việc xuống Cần Thơ. Dân “Hai Lúa” lâu lâu mới có dịp ngồi trên xe “tốc hành”, “Hai Lúa” vào bến xe Miền Tây, hỏi và mua được chiếc vé đi Cần Thơ của hãng xe KL. Nhân viên bán vé bảo 16 giờ 00 xe xuất bến nhưng chờ mãi đến 17 g 15 xe chưa xuất bến. Thế là đành mất 80.000 cho vé xe KL để chuyển qua xe ML vì có khách đi xe ML bỏ chỗ ! Lần sau có cho thêm tiền chẳng bao giờ tôi đi xe KL nữa.

Đi xe khách bị trễ thì còn thông cảm được, đàng này đi máy bay mà cứ bị trễ hoài. Báo chí vẫn nói lên tiếng nói của người dân về hãng X trễ hẹn. Mới đây thôi, chuyến bay từ Vinh vào Sài Gòn bị trễ mà đến phút chót hành khách mới được thông báo, hơn 20 đứa trẻ lây lất trong sân bay để chờ chuyến bay “đến hẹn lại trễ” của hãng hàng không X. Trễ hẹn hoài nên đâm ra chuyện hứa lèo, chuyện nói dối của hãng hàng không ấy cũng chẳng còn lạ gì với hành khách.

Nói chi xa, đơn giản nhất là việc thi công đường sá, đoạn đường từ Bình Khánh về Cần Giờ đã chậm với dự định thời gian không đến mức tưởng tượng nữa. Hết hẹn ngày này đến hẹn ngày khác, hết hẹn năm này đến hẹn năm khác. Mới nghe thông tin là nhà thầu phải thuê 7 công ty để đẩy nhanh tiến độ thi công đến cuối năm 2009 hoàn tất công trình. Nghe thì nghe vậy chứ khi nào nó hoàn thành mới biết được chứ cũng đã biết bao nhiêu năm nay người dân nghe con đường Rừng Sác ấy hoàn thành năm 2006, rồi đợi đến 2007. Nay đến 2009 mà cỏ ở bên mặt đường thi công cao hơn cả đầu người. Cỏ cao hơn cả đầu người thì thử hỏi đến bao giờ mới hoàn thành được vậy mà người ta lại hứa đến cuối 2009. Hãy đợi đấy !

Những đoạn đường đang vướng mắc lô-cốt được mấy con đường hoàn thành đúng tiến độ …

Còn biết bao nhiêu và biết bao nhiêu chuyện nói dối xảy ra trong cuộc đời, trong xã hội.

Lúc đầu, người ta con tin tưởng vào lời hứa nhưng dần dần người ta có một cái kinh nghiệm là chẳng bao giờ lời hứa ấy được thực hiện. Tất cả những lời hứa ấy đều chờ đợi một câu: Hãy đợi đấy ! Người dân đợi hoài, đợi mãi riết rồi cũng thành thói quen. Kêu chi cho mệt, gào chi cho khổ ! Thôi thì cứ nhắm mắt chờ. Ngày nào nó xong thì biết nó xong chứ chờ đợi chi vào “lời nói dối như cuội” ấy !

Nhiều và nhiều việc khác chắc không cần nói ra thì ai ai cũng biết cả. “Thượng bất chính - hạ tất loạn” là hậu qủa bình thường của những người có trách nhiệm mà hứa lèo, hứa cụi. Người cầm quyền, người có trách nhiệm mà nói dối thì ở dưới làm sao không nói dối được.

Thẳng thắn - thật thà thường vẫn thường thua thiệt so với người nói dối, người lương lẹo. Thật thà - dối trá vẫn là hai mặt của đồng tiền, hai mặt của vấn đề mãi mãi tồn tại trong xã hội. Thật thà - dối trá vẫn luôn là lựa chọn dành cho con người. Chớ gì thấy được hậu quả của lối sống dối trá, của những người nói dối đã gây biết bao nhiêu thiệt hại cho anh chị em đồng loại để ngày mỗi ngày con người sống thật với nhau hơn, sống chân thành với nhau hơn.
 
Kính gửi các bạn Công Giáo
Cao Thiện Nhân
05:01 30/03/2009
KÍNH GỞI CÁC BẠN CÔNG GIÁO

Các bạn Công Giáo thân mến,

Tôi thú thật với các bạn tôi là một người không cùng Tôn Giáo với các bạn, nhưng tôi đã tò mò đi xem Phiên Toà Phúc Thẩm đòi lại SỰ THẬT của các bạn, tôi tưởng đi chỉ để biết thôi nhưng tôi đâu có ngờ tôi đã học được bao bài học từ các bạn. Tôi thực sự kính phục các bạn, vì tinh thần đoàn kết của các bạn.

Tôi đã hòa cùng đoàn người Công Giáo từ lúc 5h40’ ngày 27 tháng 03 năm 2009. Tôi tới nhà thờ Hà Đông, tôi được nghe bà con tíu ta tíu tít kể cho nhau nghe về chuyến đi đến đây thật là vất vả. Có Cô kể chính quyền dàn thành hàng ngang ra đường không cho đi đến đây, bà con lại vòng đường ruộng để đi, tôi nhìn thấy bà con bẩn hết quần áo. Còn hai bạn trẻ đi bộ thì gặp cảnh sát giao thông, họ hỏi: Hai đứa mày đi đâu đấy? Hai bạn trẻ này trả lời là chúng cháu đi chơi, và còn rất nhiều chuyện khác nữa mà tôi không kể hết được. Qua đó tôi mới hiểu được Chính Quyền VN đang chia rẽ các bạn, đang cướp đi quyền con người của các bạn.

Các bạn ơi? Trong Thánh Lễ của các bạn, Lời Chúa dậy rất là hay, mà bầu khí rất trang nghiêm sốt sắng, bỗng dưng Đài Phát Thanh của Hà Đông mở to hết công suất hướng loa sang bên nhà thờ của các bạn để phá đi bầu khí cầu nguyện của các bạn. Không phải chỉ một Thánh Lễ mà cả ba Thánh Lễ tôi tham dự thì tôi thấy hai Thánh Lễ các bạn bị quấy nhiễu bằng đài phóng thanh, còn Thánh Lễ thứ ba thì các bạn bị cắt điện. Tôi mới hiểu ra một Thành Phố Thủ Đô văn minh của nước Việt Nam, những người làm Truyền Hình mà không được đào tạo về kiến thức cũng như về nhân bản, không biết tôn trọng Thựơng Đế của các bạn, đã cướp đi của các bạn những gì mà tôn nghiêm nhất, những gì mà linh thiêng nhất.

Các bạn ơi? Tôi còn nhìn thấy hình ảnh các bạn mời anh cảnh sát cơ động ăn bánh Mỳ, anh cảnh sát nói lại với các bạn: ném xuống đất. Tôi nghĩ rằng một người được nhà nước đào tạo khoác trên mình bộ quần áo CSCĐ “police” mà mở miệng ra nói với đồng bào ruột thịt của mình những lời lẽ vô lễ đó thì các bạn còn phục gì họ nữa đến như bản thân tôi thì tôi cũng không phục tí nào.

Các bạn ơi? Thánh Lễ của các bạn xong mỗi người đeo Đức Mẹ Hoà Bình trên cổ rồi cầm một cành lá xanh mơn mởn đi đón các Giáo Oan và các bạn Công Giáo ở Thái Hà.

Tôi nhìn thấy hai bên các bạn đi ngược chiều nhau mà khi nhìn thấy nhau đã giơ cao cành lá cho biểu tượng vẫy gọi chào nhau. Hình ảnh này đã làm tôi cảm động nhất, lúc đó lệ tôi không rơi nhưng cứ vòng quanh trên mắt. Vì tôi nhận ra tình huynh đệ của Công Giáo rất cao. Nhưng bên cạnh các bạn thì dày đặc cảnh sát giao thông, cảnh sát cơ động, cảnh sát khu vực và cảnh sát ngoài khu vực đang vây quanh các bạn mà khuôn mặt của các bạn vẫn vui tươi. Nhất là 8 Giáo Oan đại diện cho các bạn, họ ăn mặc đẹp như đi dự Đại Hội, họ ra trước vành móng ngựa mà họ vui như ngày Tết. Có một điều tôi nhìn thấy rất rõ là công an giao thông không thi hành đúng nhiệm vụ của họ là không dẹp đường cho các Giáo Oan của các bạn, khi họ sang đường thì công an giao thông thổi còi và vẫy tay cho xe cộ đi đi lại lại còn các Giáo Oan của các bạn thì họ mặc kệ mạnh ai người ấy sống. Nhưng tôi nhìn rất rõ tôi thấy các bác bên Tôn Giáo của các bạn cổ đeo hình Đức Mẹ Công Lý đã làm nhiệm vụ đứng chặn đầu xe con để các Giáo Oan đi qua. Các bạn đã để lại trong tôi hình ảnh thật anh hùng của các bạn.

Các bạn ơi? Trong khi chờ đợi phiên toà xét xử, tôi được nghe bà con nói: mấy người thường xuyên đem báo đến từng nhà bán cho bà con, mỗi ngày bà con lấy mấy tờ, mà sao giờ không thấy lấy nữa, các bác trả lời tin đưa lên báo không đúng sự thật nên không mua nữa, cũng không đọc nữa, cả tin tức thời sự cũng không xem nữa. Tôi lại nhận ra điều nữa là cái gì xấu xa ở trong cái bọc thì lâu ngày cũng bị lòi ra ngoài.

Các bạn ơi? Hình ảnh cảnh sát cầm tay Linh Mục của các bạn mà các bạn dám nói với cảnh sát bỏ ngay tay Cha ra, và công an gọi Linh Mục bằng anh, các bạn nói với công an là không được gọi bằng anh mà phải gọi là Cha.Các bạn đã bảo vệ Linh Mục của các bạn trong tầm tay của các bạn. Tôi nhìn thấy các bạn đang rất là bức xúc về Sự Thật mà nhà nước VN đang đối xử rất bất công với các bạn. Các bạn cũng là một công dân bình thường như bao công dân khác thì các bạn cũng phải được hưởng quyền lợi của một công dân chứ.

Các bạn thân mến, thời đại xã hội hôm nay tôi thấy mọi người chỉ biết lo cho bản thân mình mà không biết quan tâm lo lắng cho người khác. Nhưng bây giờ tôi mới hiểu các bạn, các bạn là một khối đại đoàn kết, các bạn là một đại gia đình, ở đâu có nhà thờ thì ở nơi đó là nhà của các bạn, ở đâu có đất nhà thờ thì ở đó là đất của các bạn, các bạn có quyền giữ nhà thờ, giữ đất nhà thờ mà không ai có quyền cấm các bạn, kể cả nhà nước VN không có lý do và quyền hành gì để cấm các bạn, vì các bạn đã làm một việc rất đúng. Tôi thấy bản án của các bạn là bản án bất công. Tôi nghĩ rằng những người lãnh đạo của VN họ cũng phải suy nghĩ lại nhũng việc làm sai trái của họ. Nếu họ làm đúng thì Bà Sư mặc bộ quần áo màu Nâu kia và những người khác nữa cũng như tôi đây không cùng Tôn Giáo với các bạn mà đã nhập vào đoàn với các bạn để cùng nhau lên đường tìm lại Sự Thật, cùng nhau lên đường để đòi lại Nhân Quyền mà Tiếng Anh gọi là “Human Right”. Các bạn đi như thế không được một đồng nào mà ngược lại các bạn còn bỏ rất nhiều tiền vào giỏ Nhà Thờ bằng chứng tôi đã nhìn thấy trong ba lần Lễ chẳng ai bảo ai mà thấy ai cũng bỏ tiền vào giỏ.

Tôi nhớ lại thời tôi đi học đại học các Giáo Sư của tôi không đồng quan điểm với Cộng Sản VN, nhưng các Giáo Sư không dám lên tiếng chỉ dám nói trên giảng đường và dặn sinh viên ra ngoài không được nói gì không có là bị bắt cả Thầy lẫn Trò. Tôi biết còn bao nhiêu người khác vẫn biết Cộng Sản làm sai nhưng không dám lên tiếng mà các bạn đã dám thay mặt bao nhiêu con người để lên tiếng, một xã hội bất công. Các bạn quả là những con người yêu nước, yêu đồng bào thực sự. Tôi nghĩ rằng các bạn mới chính là những người con ngoan của Nước VNDCCH, các bạn là những con chiên hiền lành của Chúa, các bạn rất có khả năng giữ Nước nhà.

Các bạn ơi? Cac bạn hãy cố gắng lên nhé! Vì các bạn có giữ được Nhà mình thì các bạn mới giữ được Nước mình.

Đó là những bài học mà tôi học được từ nơi các bạn, tôi xin chân thành cám ơn các bạn. Còn tôi cũng đang cố gắng sống đúng ý nghĩa với cái tên mà cha mẹ tôi đã đặt cho tôi.
 
Những cảnh tượng chưa bao giờ từng thấy
Jos. Thông
05:11 30/03/2009
NHỮNG CẢNH TƯỢNG CHƯA BAO GIỜ TỪNG THẤY

Sự thật- Công lý và hoà bình đó là niềm khao khát của toàn thể nhân loạị. Mặc dù, đó là niềm khao khát chính đáng nhưng dường như nó đã trở nên ngạt thở giữa một xã hội đầy dẫy sự gian dối và bất công. Nhưng không phải thế mà ngăn chặn đựợc những bước chân đi tìm SỰTHẬT- CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH. Xoay quanh chặng đưòng ấy là những cảnh tượng mà tôi thấy và cảm nhận được. Xin muợn lại lời của nhà văn Nguyễn Tuân trong truyện ngắn “ Chữ người Tử Tù” khi miêu tả về nhân vật của mình là Huấn Cao cho Chữ viên Quản ngục, một hành động thật thanh cao và đẹp mắt đến nỗi mà ông phải thốt lên:” Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Mặc dù, ngày 27/3 lich sử theo vật lý đã qua đi nhưng nó sẽ đọng mãi trong tôi và mọi người, khiến hôm nay tôi lại phải thốt lên một lời từ sâu thẳm tâm can: “Những cảnh tượng này chưa bao giờ từng thấy”

Cảm tạ Chúa đã dẫn con đến Thái Hà để con biết đựơc thế nào là ánh sáng và bóng tối, sự thật và gian dối…

Sáng ngày 27-3 theo sự thôi thúc của con tim tôi và những người anh em cũng có mặt tại Thái Hà lúc 4h45p. Không khí lúc này nhìn chung thật yên ắng, 8 anh chị em chuẩn bị ra phiên toà cùng những người yêu sự thật- công lý- hoà bình bước vào Thánh lễ đồng tế trong bầu khí thật linh thiêng, trong niềm tín thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Trong nhà thờ là một bầu khí BÌNH AN_ HIỆP NHẤT, mọi người cùng nhau dâng lên Thiên Chúa là Cha - Đấng tạo tác muôn loài những lời ca tụng và lời cầu nguyện làm ngây ngất cõi lòng. Nhưng dưòng như bên ngoài lại là một thể giới đầy sự hỗn tạp, tôi thấy lâu lâu có cái gì đen đen cứ thoi thóp, nhấp lên, rồi nhấp xuống qua mấy song sắt của bức tường nhà thờ. Tôi tò mò đặt mấy câu hỏi: “Quái lạ, cái gì nhi?….Một lúc sau, tôi mới nhận ra đó là mấy cái đầu người. Tôi phải nói là đầu người vì tôi không nhìn thấy gì thêm ngoài nó. Nhưng rồi tôi đặt câu hỏi tiếp: Đầu của ai vậy nhi? một lúc suy nghĩ tôi tự tìm cho mình câu trả lời: “ A! đó là đầu của mấy chú công an” Tự trả lời cho mình nhưng vẫn chưa thoả mãn rồi lại đặt câu hỏi: “Mấy chú Công an kia có đầu không nhi?” Chẳng cần suy nghĩ lâu tôi cũng trả lời cho mình, thực ra “Có đầu mà lại không có đầu” Bởi lẽ, Cảnh cửa nhà thờ thì vẫn mở mà cổng nhà thờ thì lại mở to hơn, rộng rãi đón chào tất cả mọi người không phân biệt ai. Mấy chú Công an kia biết rõ văn minh lịch sự là thế nào? tại sao lại làm thế? họ làm gì ngoài kia mà cứ rình mò như kẻ trộm vậy? họ đi lễ ư? trước đây họ có đi lễ sáng đâu? Sao hôm nay mấy chú đạo đức thế vậy nhỉ? Và đây là cảnh tượng đầu tiên làm tôi sững sờ, ngạc nhiên.

Đúng 6h Cộng đoàn cùng nhau xuất phát lên đuờng, không chỉ người trẻ, nhưng cả người già, không chỉ người tri thức nhưng cả người không biết chữ.. đủ mọi thành phần trong xã hội đã hiệp nhất với nhau trong cùng một Đức Tin và Đức mến sánh bước lên đường đi tìm Sự thật- công lý và hoà bình. Một cảnh tượng tuyệt đẹp trong mắt mọi người đó là những cành Vạn Tuế trên tay, ngực đeo ảnh Nữ vương- công lý và hoà bình của Cộng đoàn dân Chúa. Chân bước khoan thai, nhịp nhàng, miệng hân hoan những bài Thánh ca ngất ngây lòng người như đang lên đền Thánh Giêrusalem đón nhận ân phúc Chúa Trời. Nhưng họ cũng không quên cầu xin Đức Maria- Nữ vương Công lý và hoà bình đoái thương đến dân tộc Việt Nam: “ Mẹ ơi đoái thương xem nước Viêt Nam, trời u ám, bất công lan tràn; Mẹ hãy đưa tay ban phúc bình an, cho Việt Nam qua phút nguy nan”

Họ biết được mình đang đi theo con đường Chúa đã đi và đã nghe lời mời gọi của Thầy Chí Thánh GiêSu “ Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá mà theo Ta. Quả thực, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứư được mạng sống mình” Chính những người đi tìm công lý-sự thật và hoà bình đây có phải họ đã quên đi chính mình?. Họ đã đi theo con đường nào vậy? Có phải con đường mà Chính Thầy Giê su đã đi: "Con người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các thượng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại".

Thập giá và chén đắng xưa kia Chúa đã vác và uống là vậy. Hôm nay, các Linh mục, Giáo dân Thái Hà và những người khao khát chính nghĩa trên con đuờng đi tìm Sự thật- công lý và hoà bình, họ cũng đã chịu vác Thánh giá, đã phải uống những chén đắng như Chúa ngày xưa là bị lăng nhục, bị đe doạ…….nhưng họ đã trở nên những vị ngôn sứ của thời đại, vị chứng nhân cho sự thật- công lý và hoà bình. Thật sự trở nên một vị ngôn sứ hôm nay thì phải chấp nhận đau thương. Hôm đó, quảng đường từ Thái Hà đến toà án thành phố Hà Đông dài đến cả hàng chục cây số những người chân chính ấy đã nhận đuợc biết bao lời nói từ những người bên vệ đường: “Họ đi như thế chắc là đựợc nhiều tiền lắm nhỉ? Có người trả lời: Chắc là được một trăm” Có phải là vì một trăm ngàn chăng? Thật ra những người đi bộ trong quảng đưòng dài ấy ngoài 8 bị cáo, các Cha dòng Chúa Cứu Thế là cả hàng ngàn người cùng đi, hỏi nào có ai nhận đươc một khoản lợi lộc vật chất gì đâu. Để đáp lại những lời nói đầy miệt thị ấy thì những cành Vạn Tuế biểu tượng cho hoà binh, những tấm ảnh Đức Mẹ Nữ vương - công lý và hoà bình sáng ngời ngợi mà họ đeo trong lồng ngực, cùng những ánh mắt đầy hiền hoà và thật thân tình đáp lại, trái với những gì mà người đời thường làm. Thật là một cảnh tượng chưa bao giờ từng có

Đoàn người hôm đó có phải họ muốn biến mình thành MUỐi, thành MEN trên con đưòng đi tìm Sự thật- công lý và hoà bình hay chăng? Một quy luật thực tại đó là cần có những hạt giống thối đi thì mới đâm chồi nảy lộc được. Nhìn lại chặng đường phát triển của Giáo hội Việt nam đã có biết bao máu của các Thánh Tử đạo đã đổ xuống, nhờ vậy mà hôm nay chúng ta được thừa hưởng hoa trái của các Ngài. Gợi cho tôi nhớ lại câu Thánh vịnh thật ngân vang:

Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,

Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.

Họ ra đi, đi mà nức nở,

Mang hạt giống vãi gieo;

Lúc trở về, về reo hớn hở.

Đoàn người tiến bước đi tìm sự thật- công lý và hoà bình làm tôi cứ tưởng như ĐẠO BINH THIÊN QUỐC. Đúng 8h thì đoàn người cũng có mặt tại nơi mà 8 anh chị em sắp ra phiên toà của thế gian, nếu ai có mặt ở đó thì cũng đều cảm nhận được những dòng lệ chứa chan NƯỚC MẮT VÀ HẠNH PHÚC. Tôi thì không thể diễn tả đựơc cảm xúc tuôn trào lúc ấy vì cảm nhận được sự hiệp nhất của Giáo hội Chúa và dường như giờ này đây câu nói của Đức Giám Mục Giáo Phận Vinh đã trở nên châm ngôn sống cho mọi người Kitô hữu khắp muôn nơi và cho mọi thời đại:“Việc của Thái Hà cũng là việc của Vinh và việc của Vinh cũng là việc của Thái Hà” Bởi vì, khi đến trụ sở của phiên toà tôi không biết họ từ đâu đến nhưng những dòng người từ bên này vẫy tay chào dòng người bên kia bằng những cành vạn tuế tuyệt đẹp, và những câu khẩu hiệu SỰ THÂT_ CÔNG LÝ _ VÀ HOÀ BÌNH.. Thật là một cảnh tượng tuyệt vời như đang đóng phim vậy

Dòng người đã không hoà quyện được với nhau, những câu khẩu hiệu bên này SỰ THẬT bên kia cũng có SỰ THẬT, bên này có HOÀ BÌNH thì bên kia cũng có HOÀ BÌNH, bên này có CÔNG LÝ thì bên kia cũng có CÔNG LÝ. Nhưng những dòng chữ cùng với dòng người kia đã không nối lại được với nhau, đang bị chia cắt bởi một lực lưỡng cảnh sát cơ động dày đặc. Điều đó, cũng phán ánh một thực trạng về sự thật – công lý – hoà bình mà mọi người đang đi tìm, đang muốn đến với nhau nhưng đang có một thế lực trần gian ngăn cản. Thật là một cảnh tượng bất công chưa từng thấy.

Phiên toà ngày hôm đó rồi cũng đến hồi kết thúc. Kết quả là y án đó như một lời mời gọi hãy tiếp tục ra đi làm chứng cho SỰ THẬT_ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH. Nhưng trong niềm tin như Cha bề trên Dòng Chúa cứu Thế đã thốt lên trong buổi tối cầu nguyện cho 8 anh chị em trước ngày ra phiên toà một lời mà đến giờ này tôi vẫn còn nghe âm vang bên tai: “Hôm nay đây chúng ta tin rằng Thiên Chúa và Mẹ Người đã nhận lời chúng ta cầu nguyện, chúng ta sẽ chiến thắng không theo cách của người đời nhưng tin tưởng trong đường lối của Thiên Chúa”

Lạy Chúa! những cảnh tượng chưa bao giờ con thấy và cảm nghiệm được. Thì hôm nay, Chúa đã cho con đuợc thấy, xin cho con khi thấy rồi cũng biết cầm lấy ngọn đèn sáng trong tay đi tìm SỰ THẬT- CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH.

Thái Hà 29/3/2009

Jos_Thong
 
Người Hà Nội thâm thúy thật !
LM Giuse Nguyễn Hữu An
05:25 30/03/2009
Người Hà Nội thật thâm thuý!

Tác giả Ngọc Huỳnh kể câu chuyện “Công lý…ngược”.

Một cụ ông cầm trên tay tờ giấy in đậm hai chữ CÔNG LÝ. Nhưng cụ lại cầm ngược, cắm đầu chữ xuống đất. Mấy người tưởng cụ không để ý, bèn nhắc cụ.

Cụ bảo: Ở Việt Nam mình bây giờ, chỉ có công lý… ngược thôi!

Và suốt ngày, cụ cứ cầm ngược tờ giấy như vậy.

Và tác giả kết luận: Người Hà Nội thật thâm thuý.(x.Vài câu chuyện nhỏ bên ngoài tòa án,Vietcatholic.org;dcctvn.net;ykien.net).

Nếu các bạn đọc những câu chuyện, những bài viết trên các trang web “lề bên trái” trong những ngày vừa qua, các bạn đều như tôi phải thốt lên “thật thâm thuý”.

Lm Lê Quang Uy, từ Sài gòn viết bài “con kiến kiện củ khoai” hết sức thâm thuý.

Tôi đọc tất cả các bài viết liên quan đến “8 con kiến Thái Hà” và kể cho bà con giáo dân trong thánh lễ mỗi ngày. Lễ chiều thứ bảy và sáng Chúa nhật, tôi đọc bài “con kiến kiện củ khoai” rồi tóm tắt những tin tức “nóng hổi” vừa đọc được trên net cho giáo dân nghe. Tối Chúa nhật, các Nữ tu thưởng cho tôi một ly chè đậu xanh, mừng “con kiến” chiến thắng “củ khoai’. Xứ đạo tôi ở miền quê xa xôi, bà con giáo dân “đầu tắt mặt tối” lam lũ mới đủ sống qua ngày. Họ chẳng có máy vi tính. Xem tivi chỉ toàn “tin- tức cái mình”, sai sự thật. Vì thế họ thích nghe cha xứ kể chuyện thời sự, họ bảo rằng, tin của cha đưa thì chính xác và sự thật. Sau thánh lễ, có mấy cụ già thường xuyên nghe rađiô, Đài Chân Lý Á Châu, Á Châu Tự Do, Chân Trời Mới…cũng bình luận rất thâm thuý. Không chỉ ở Hài nội, Sài gòn mà tất cả mọi nơi xa xôi hẻo lánh đều hướng về anh chị em giáo dân Thái hà. Thời đại truyền thông hiện đại, tin tức đều đựơc loan truyền nhanh chóng đến khắp mọi nơi. Không gì ngăn cản nổi Sự Thật.

Tác giả Hoài Thu Nguyên viết bài “MANG CÔNG LÝ ĐI VÁ SỰ THẬT” cũng thật thâm thuý. Khi đọc trang tin “ Tin cập nhật lúc 9g50 ngày 27.3.2009 “ trên trang dcctvn.net, với dòng chữ “. . . Trên tay, giáo dân cầm những tờ khẩu hiệu hết sức ôn hoà: “Công Lý vá Sự Thật”. Cụm từ “ Công Lý vá Sự Thật “ không khỏi làm tôi ngạc nhiên, lúc đầu tôi cứ cho là lỗi chính tả do người viết quá vội vàng trong một tình thế thông tin cần cập nhật trong từng phút giây của ngày lịch sử hôm nay (27/3/2009), nhưng suy đi nghĩ lại cứ làm tôi băng khoăn mãi trong đầu, hay là người viết cố ý chơi chữ chăng ! Mà nếu nói là: “ Công Lý vá Sự Thật “ thì cũng có lý lắm chứ…Một ngày lịch sử, một ngày tuyệt vời, đó là một ngày “ Công Lý vá Sự Thật “.

Tác giả Mùa Thu viết “CHUYỆN BÊN NGOÀI TÒA ÁN”, kể về những câu chuyện đơn sơ mà nhẹ nhàng thâm thuý quá. (x. mehangcuugiup.info; dcctvn.net).

Quay trở vào trong vườn hoa Hà Đông, tôi thấy một tốp các chị đang ngồi trên mấy bậc lên xuống. Một chị đang cố dùng tay vuốt cho thẳng tấm biểu ngữ “SỰ THẬT” đang bị nhàu nát. Tôi ghé lại hỏi: “ Sao chị lại để biểu ngữ nhàu thế?”. Chị này vội vàng nói “Em có cố tình đâu, giờ nhìn lại mới thấy bị nhàu, chứng tỏ sự thật bị giày xéo chị ạ. Em đang cố vuốt cho “SỰ THẬT” thẳng ra đây”. Tôi chết lặng trước câu nói của chị, bản thân tôi lúc hỏi chị, tôi không thể nghĩ được chị sẽ trả lời như vậy, một câu trả lời đơn sơ nhưng phát đi từ một trái tim tha thiết gặp được sự thật. Thấy tôi có máy ảnh trong tay,một chị khác liền nói: “ Chị chụp cho chúng em một kiểu ảnh nhé!”. Chụp ảnh xong, tôi thấy chị kia lại vuốt vuốt giờ giấy, nhưng vuốt mãi mà nó vẫn không được thẳng, cho dù chỉ là tương đối.

……

Tôi đi sang phía bên kia vườn hoa,trước cửa toà nhà Trung tâm đào tạo lái xe để tìm bà nội, vì có người nói là nhìn thấy bà nội tôi ngồi bên này. Tôi thấy một tốp các cụ già vẫn đang ngồi lần hạt trong trật tự, khiêm nhường và thành kính, nhưng không thấy bà tôi đâu cả. Đoàn người diễu hành quanh phố lúc này đã đi đến vòng thứ 3 và đang quay về. Tôi đi ngược xuống để cố tình chụp ảnh, qua máy ảnh, tôi nhìn thấy một bà hao hao giống bà mình. Hoá ra đúng là bà nội tôi thật. Tôi kéo bà về vườn hoa ngồi nghỉ, mặt bà đỏ bừng bừng,nhưng niềm vui thì không sao giấu nổi.Bà kể liên tục: “ Bà vừa đi 3 vòng xong,vui cực. Đến cửa đồn công an kia kìa,mình chỉ đứng đấy hát thôi chứ có làm gì đâu, mà từ tầng 1 đến tầng 5, công an đổ ra chạy như vịt con ạ.”. Ai có mặt lúc đó nghe bà tôi kể đều ôm bụng cười mà lại thấy cảm phục bà quá. Một chị ngồi cạnh bèn hỏi: “ Bà có mỏi chân không?” Bà nói: “Đi trên đường Công Lý, tôi chẳng thấy mỏi chân gì cả,nó mà không kéo tôi vào đây, thì tôi còn đi nữa”. Tôi cười và thầm nghĩ: “Đúng vậy,bước chân đi trên con đường Công Lý không phải là những bước chân được bước đi bằng sức người nữa.Mà đó là những bước chân bước đi bằng đức tin,bằng sự khao khát,bằng sự hy sinh…Thế mới thấy đức tin đó đủ mạnh đến mức một bà lão 74 tuổi vẫn dấn bước đều đều, đồng hành và không thua gì sức trẻ”.



Một anh lính mới được đổi ca, vào ngồi cùng với chúng tôi. Người đàn ông bên cạnh hỏi: “Chú không làm nhiệm vụ à? Ngồi với chúng tôi bị đuổi thì sao?”. Anh này tỏ vẻ mệt mỏi và nói: “ Cháu được đổi ca rồi bác ạ, ngồi nghỉ một lúc cũng không sao đâu ạ”. Thấy vậy một bà liền hỏi thêm: “ Thế chú thấy việc này thế nào ?”. Anh hỏi lại: “ Việc gì cơ hả bác ?” bà tiếp: “ Thì cái việc chúng tôi đi tìm công lý đây này”. Anh này ậm ừ một lúc rồi phân trần: “ Cháu chẳng biết các bác có mệt không, chứ chúng cháu mệt lắm, chúng cháu phải đến đây từ 2h sáng”. Thấy anh nói vậy, người đàn ông lúc nãy nói: “ Anh đến sớm thế làm gì, 8h chúng tôi mới đến cơ mà, đến sớm thế các anh trấn áp ai?”. Thấy vậy anh bèn thanh minh: “Ấy ấy, bác đừng gọi là trấn áp, chúng cháu có dám đụng vào ai đâu, chỉ làm theo lệnh thôi mà, đây là công việc của bọn cháu”. Người đàn ông cầm trong tay một nắm lá thiên tuế. Ông đưa cho anh ta một cành và nói: “ Chú có dám cầm không ? Lá của sự thật đấy”. Anh này bèn nói: “ Cầm cành lá thì có gì đâu mà cháu không dám, nhưng cháu đang mặc thế này mà cầm, thì mai cháu bị đuổi ngay bác ạ”. Mọi người cùng nhau ồ lên một tiếng.Các bà quay sang nói với nhau: “Hoá ra là cảnh sát thì không được phép tiếp xúc với sự thật các bà ạ”.

Ước mong “người Hà nội” có thêm nhiều bài viết, nhiều câu chuyện “thâm thuý” chia sẽ với mọi người trên khắp thế giới.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An
 
Giới trẻ Hà Nội đứng dậy bênh vực sự thật
Thúy Dung
14:13 30/03/2009
 
Bắt chúng phải thực thi pháp luật mà chính chúng đặt ra.
Trần Minh
17:08 30/03/2009
Bắt chúng phải thực thi pháp luật mà chính chúng đặt ra.

“Vô phúc đáo tụng đình!” Ông cha ta đã dậy như vậy, nhưng Dân Thái Hà không sao tránh khỏi! Bởi vì họ đã “vô phúc” gặp phải chính quyền độc đảng trị là nhà cầm quyền cuả Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cướp tài sản và dùng bạo lực bắt Dân Thái Hà phải “vô phúc” đáo tụng đình.

Ở xã hội toàn trị như ở Việt Nam hiện nay, luật pháp đặt ra là chỉ để tô điểm cho bộ mặt chế độ, và dùng luật pháp ấy chỉ để bảo vệ bọn cầm quyền, chứ thực tế, nó chẳng bảo vệ cho sự thật hay công lý! Những vụ án nổi cộm tham nhũng diễu cợt gần đây, như vụ Bùi Tiến Dũng, Nguyễn Việt Tiến và đồng bọn đã nói lên rất rõ cái luật pháp giấy lộn mà ĐCS Việt Nam dùng làm bửu bối cai trị đó. Khi đệ tứ quyền tham gia phanh phui, chúng đã trơ trẽn lật ngược và truy bức răn đe các nhà báo Hải và Chiến cuả hai tờ TT và TN, và cả cán bộ điều tra. Nhờ thế mà chúng đã đè bẹp quyền cuả báo chí, mặc dù cái quyền này cũng hoàn toàn nằm trong tay chúng.

Khi vụ việc Thái Hà xẩy ra. Những người sống lâu năm trong chế độ hiểu rõ rằng, những người bị chúng bắt bớ trấn áp sẽ khốn khổ vì đòn thù. Chúng trấn áp để răn đe những người khác, những người còn đang sống trong nhà tù lớn, phải nhụt khí thế tranh đấu đòi hỏi công lý, sự thật. Chúng đã thành công trong nhiều vụ việc như vậy, và lần này, chúng cũng dương dương tự đắc để chứng tỏ đảng cuả chúng quang vinh muôn năm.

Khốn thay cho chúng, đã tính lầm, khi dùng bạo lực bắt người, chúng tưởng, chúng làm như vậy sẽ làm cho những buổi cầu nguyện cuả giáo dân đòi công lý sẽ xẹp xuống, và làm tan tác những con người yếu đuối tay không tấc sắt kia phải khuất phục trước bạo quyền. Nhưng không, không những họ đã không khuất phục, còn vùng lên tranh đấu đòi thả người vô tội và cùng nhau đoàn kết, sẵn sàng cùng đi tù. Trước hành động dũng cảm, đoàn kết đấu tranh cho công lý và sự thật cuả Giáo dân Thái Hà. Nhà cầm quyền đã phạm thêm một sai lầm tiếp theo, thay vì nhận lỗi, chúng lại vội vã đưa những người bị bắt ra toà, và ngu xuẩn nhất là nguỵ tạo chứng cớ để hòng buộc tội họ.

Với cả một bộ máy công an, tư pháp, toà án, truyền thông bịp bợm nằm trong tay, bọn tay sai này hùng hồn lên án, kết tội. Tưởng như rằng với những chứng cứ như vậy, nạn nhân cuả chúng sẽ rũ tù. Nhưng nhờ vào sự khoan hồng, chính sách nhân đạo cuả chúng, đã nới tay kết án nhẹ hều và cho hưởng án treo là phúc đức cho các nạn nhân lắm rồi, và nạn nhân sẽ hân hoan ra về cám ơn lòng bao dung khống cuả nhà cầm quyền, vụ án sẽ mau chóng kết thúc.

Giả như vụ việc rơi vào thời điểm trước đây thì đã đúng với kịch bản mà nhà cầm quyền độc tài đã quen dàn dựng, nhưng vào thời nay thì chúng quá thụt lùi, mất hướng. Những nạn nhân quyết đòi công lý và sự thật, họ khẳng định mình vô tội, bắt toà phải xử lại và bắt bọn tay sai, công cụ truyên truyền cuả đảng phải cải chính và xin lỗi khi đã loan tin thất thiệt. Vụ việc đã khiến thêm hai cơ quan truyền thông tay sai là Đài truyền hình Hà Nội và Báo Hà Nội Mới bị lúng túng trong cái luật một chiều cuả bọn chúng, khi bị các nạn nhân cuả chúng bắt phải tuân thủ theo đúng luật chơi.

Tưởng mình thắng thế, ai dè nhà cầm quyền lại rơi vào thế lúng túng. Chuyện nhỏ cuả Thái Hà mà Bộ chính trị Đcs đã mất ăn mất ngủ, Vì chỉ có bộ này mới có thể huy động và ra lệnh toàn thể bộ máy trấn áp từ trung ương đến các điạ phương phải nhập cuộc để chỉ giải quyết một vụ việc tưởng cỏn con như mấy cục gạch mục, nay tự nhiên dài và lớn như Dẫy Trường Sơn.

Phiên toà Ngày 27 Tháng 3 với sự yếu kém và bất lực thấy rõ cuả những người cầm cân công lý cuả xã hội đảng trị. Thay vì họ có quyền hành để xử theo đúng pháp luật, thì lại bị quyền lực bóng tối chỉ đạo, để vụ việc tìm công lý và sự thật cuả những nạn nhân thuộc Giáo xứ Thái Hà chưa thể kết thúc. Đơn giản là công lý và sự thật chưa về với họ, những người dân vô tội. Và chắc chắn họ sẽ dùng đúng luật pháp cuả nhà cầm quyền để bắt nhà cầm quyền phải tuân thủ luật pháp.
 
Ai đang đồng hành với dân tộc?
LM. Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, ofm
17:26 30/03/2009

AI ĐANG ĐỒNG HÀNH VỚI DÂN TỘC ?



Gần 30 năm về trước

Trong tư cách một người tín hữu Công Giáo Việt Nam, tôi không bao giờ quên niềm vui và niềm tự hào khi đón nhận Lá Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGM/VN) năm 1980 với tiêu chí Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc hay Đồng hành với dân tộc. Người Công Giáo thường bị kết án: Tây đến thì theo Tây, Mỹ đến thì theo Mỹ. Lời kết án tuy hàm hồ, nhưng không hoàn toàn sai, và vì thế, người Công Giáo dễ có mặc cảm đứng bên lề dân tộc. Sau biến cố 1975 đã có cả triệu người bỏ nước ra đi, trong đó số người Công Giáo chiếm tỷ lệ rất cao. Lá thư chung nói trên ra đời giữa cao trào vượt biên, cho thấy đâu là chọn lựa căn bản của hàng Giám Mục Việt Nam: quyết tâm ở lại, chấp nhận hoàn cảnh mới, chấp nhận chế độ mới với những thay đổi, những mất mát, những hạn chế, những khó khăn mình biết trước. Là vì cho dù số người bỏ nước ra đi là rất cao thì tuyệt đại đa số dù muốn dù không vẫn còn ở lại. Và điều không ai có thể phủ nhận: Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc, hay Đồng hành với dân tộc là một tiêu chí, một lựa chọn, một chủ trương đúng đắn. Không vui mừng, không hãnh diện làm sao được !

Với điều kiện: đừng đánh tráo

Nếu những người tín hữu thường còn vui mừng hãnh diện vì văn kiện nói trên, thì những người đã cưu mang, đã chấp nhận ký tên công bố, còn vui mừng hãnh diện biết bao. Chính vì vậy mà trong nhiều năm tiếp theo, lãnh đạo Công Giáo vẫn nhắc lại văn kiện này như một thứ kim chỉ nam cho cộng đoàn Dân Chúa. Nhưng xem ra cán bộ Nhà Nước cũng thích thú không kém (nếu không phải là thích thú hơn) khi nhắc đến văn kiện này. Là vì đối với họ, “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”, nên tha hồ dựa vào Thư Chung mà tán hươu tán vượn. Và điều đã xảy ra là tuy chỉ có một bản văn, nhưng ai muốn giải thích kiểu nào cũng được. Khi đảng cộng sản Việt Nam tự đồng hoá với Dân tộc Việt Nam thì Đồng hành với Dân tộc cũng là đồng hành với Đảng, với chế độ. Mà làm sao có thể không đồng hành ? Muốn sống còn thì phải chấp nhận thôi. Và từ chấp nhận đến thoả hiệp, con đường không xa lắm. Giáo Hội Công Giáo chấp nhận làm thinh trước bao nhiêu bất công, bạo tàn, gian dối, xảy ra trên khắp nước từ bắc chí nam, từ nông thôn đến thành thị, nổi bật nhất là khi những đám dân oan, hết đoàn này đến đoàn khác, lũ lượt kéo nhau đi đòi công lý, Giáo Hội Công Giáo đã nhắm mắt làm ngơ.

Hiện tượng Toà Khâm Sứ – Thái Hà

Dùng chữ “hiện tượng” chắc chắn không quá lời. Là vì đây quả là biến cố chưa từng thấy dưới thời cộng sản. Sự việc xảy ra liên tục trong một thời gian dài với số lượng người tham gia ngày một đông, với khí thế hào hùng chưa từng thấy, cho đến lúc tai hoạ ập xuống từ lá thư đức hồng y quốc vụ khánh Bertone. Ngọn lửa tạm thời bị dập tắt một cách tàn nhẫn.

Nhưng ngọn lửa đó đã âm thầm lan sang Thái Hà như mọi người đã biết, với kết thúc nhìn từ bên ngoài là một thất bại. Khi hai miếng đất nhà thờ thành hai công viên thì tưởng chừng không còn gì để hy vọng nữa. Nhưng không phải vậy, ngọn lửa công lý, ngọn lửa sự thật đã được Chúa Thánh Thần đốt lên, thì Xa-tan có mưu mô xảo quyệt tàn ác đến đâu cũng không sao dập tắt nổi.

Suy nghĩ từ hiện tượng trên

Ta dễ dàng nhận ra điều đó khi nhìn lại những gì xảy ra từ cuối năm 2007. Nhà Nước cộng sản Việt Nam chưa đến nỗi dùng xe tăng như Bắc Kinh ở Thiên An Môn, chẳng phải vì cộng sản Việt Nam hiền lành hơn cộng sản Trung Hoa, mà chỉ vì hơn 20 năm sau Thiên An Môn, với các phương tiện truyền thông hôm nay, sử dụng sức mạnh tới mức đó thì sẽ lãnh những hậu quả khôn lường của cả thế giới. Nhưng ngoài ra thì chính quyền Hà Nội đã không bỏ sót một loại phương tiện nào: Công an, cảnh sát, dân phòng, đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, bọn côn đồ lưu manh, chó nghiệp vụ, dùi cui, hơi cay, và dĩ nhiên truyền hình, truyền thanh và báo chí. Và đối diện với guồng máy khổng lồ gian dối và tàn ác đó, các mục tử và giáo dân Thái Hà không hề nao núng sợ hãi, nhưng đã tỏ ra kiên nhẫn, tự chế, có tinh thần kỷ luật rất cao, một lòng yêu thương đoàn kết với nhau, tha thứ cho kẻ thù noi gương Chúa Giê-su. Có lẽ từ thời bắt đạo, chưa bao giờ một cộng đoàn tín hữu Công Giáo tại Việt Nam đã chứng tỏ một lòng tin mãnh liệt như thế. Hẳn chính điều đó đã lôi kéo sự tham gia của rất nhiều người ở trong cũng như ngoài nước qua nhiều bài viết trên mạng Vietcatholic. Trong số các cây viết thường xuyên nhất và sắc bén nhất, phải kể đến anh J.B. Nguyễn Hữu Vinh ở Hà Nội và anh Alfonso Hoàng Gia Bảo ở Sài-gòn. Còn nói chi đến vị luật sự chính của Thái Hà là luật sư Lê Trần Luật, một luật sư trẻ đã chấp nhận bao khó khăn, bao thiệt thòi cho bản thân, cho gia đình, để can đảm bênh vực công lý, hiên ngang làm chứng cho sự thật. Anh không thể có mặt tại phiên toà phúc thẩm, nhưng đã trải lòng mình qua lá thư gửi 8 bị can của Thái Hà đăng tải trên Vietcatholic trước phiên toà phúc thẩm.

Thái Hà toả sáng từ hai phiên toà

Ngọn lửa đức tin của cộng đoàn Thái Hà đã bừng lên mãnh liệt đặc biệt qua phiên toà sơ thẩm ngày 08-12-2008, cũng như phiên toà phúc thẩm mới rồi ngày 27-03-2009. Chỉ cần nhìn cảnh 8 giáo dân ăn mặc bảnh bao, khuôn mặt rạng rỡ, ngực đeo tượng ảnh Đức Mẹ Công Lý, tay cầm cành thiên tuế giương cao, chung quanh họ là cả một rừng người đi ủng hộ, khi lần chuỗi, khi hát thánh ca. Nếu qua các cuộc biểu tình khắp nơi đặc biệt trong nhiều tháng suốt năm 2007 người dân oan chỉ đòi đất, thì mục tiêu tranh đấu của giáo dân Thái Hà là công lý, là sự thật. Toà án quận Đống Đa đã xử oan, nay họ đi đòi công lý. Truyền thông Nhà Nước đã nói sai, nay họ đi đòi sự thật. Vào những ngày cuối Mùa Chay, trong khi Hội Thánh đang tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, thì anh chị em Thái Hà với một niềm tin mãnh liệt, đang đồng hành với Chúa mình trên con đường thánh giá. Giữa lúc dân tộc Việt Nam đang gồng mình chịu bao bất công, áp bức, gian dối, thì anh chị em Thái Hà bất chấp muôn vàn khó khăn thử thách, đã can đảm và hiên ngang đi đòi công lý, đi đòi sự thật. Điều không thể chối cãi là hôm nay, chính anh chị em Thái Hà là những người đang ĐỒNG HÀNH VỚI DÂN TỘC.

Kết luận

Giáo Hội Việt Nam đang nô nức chuẩn bị mừng 50 năm thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam và cao điểm là năm tới, năm 2010. Đây cũng là năm kỷ niệm 30 năm (1980 – 2010) lá thư chung của HĐGM/VN năm 1980 với chủ trương Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc hay Đồng hành với dân tộc. Thiết tưởng đây cũng là cơ hội để Giáo Hội Việt Nam đánh giá những cố gắng thể hiện sự gắn bó của mình không phải với một chế độ chính trị sớm muộn gì cũng qua, nhưng là với cộng đồng dân tộc đã có từ thời Vua Hùng và sẽ còn trường tồn qua thời gian.

Một sự lượng giá như vậy, nếu có, sẽ dễ dàng cho thấy trong hoàn cảnh cụ thể hôm nay Giáo Hội Công Giáo Việt Nam còn phải làm gì để thể hiện cách cụ thể quyết tâm ĐỒNG HÀNH VỚI DÂN TỘC. Không có những việc làm cụ thể, thì đó chỉ là một khẩu hiệu trống rỗng, một chủ trương trên giấy chẳng thuyết phục được ai.

Sài-gòn, ngày 30 tháng 03 năm 2009

Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm

pascaltinh@gmail.com
 
Đói Công Lý thèm Sự Thật
Đường Công Lý
17:33 30/03/2009
Đói Công Lý thèm Sự Thật

Ở các phiên tòa khác, người ta thấy đám đông đến xem hoặc do hiếu kỳ hoặc do có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của mình. Còn các bị cáo đôi khi cúi mặt lầm lũi bước, hoặc kéo áo che mặt để tránh những cái nhìn soi mói hoặc những ống kính đổ dồn về phía họ.

Phiên tòa phúc thẩm xét xử 8 giáo dân anh hùng trong vụ án Thái Hà vừa qua thật đặc biệt. Các bị cáo ăn mặc đẹp và tươi cười như đi trẩy hội. Còn giáo dân, không ai bảo ai. Họ nối đuôi nhau để hòa vào dòng người đông đảo cùng với 8 giáo oan diễu hành trên đoạn đường dài tiến về tòa án. Không phải là một đám đông tụ tập ô hợp, đàng này họ có chung một con đường, một niềm tin và một khát vọng. Đoàn người bước đi miệng hát thánh ca, tay cầm cành vạn tuế, ngực đeo Thánh Giá hoặc ảnh Đức Mẹ Công Lý. Hơn bao giờ hết họ có một khát vọng cháy bỏng về Công Lý.

Khát vọng này còn cao quý hơn rất nhiều so với nhu cầu ấm no. Chẳng thế mà họ sẵn sàng hy sinh thời gian, bỏ công ăn việc làm, chấp nhận nguy hiểm có thể xảy đến bất cứ lúc nào, quên đi cái đói và cái nắng nóng để cùng nhau lên đường đi tìm công bằng, lẽ phải và sự thật.

Khát vọng Công Lý cũng cao thượng hơn nhiều khát khao chiến thắng của đội tuyển Việt Nam trong các trận túc cầu. Người ta nhìn thấy trong đoàn người đi tìm Công Lý đầy đủ các thành phần: lớn bé già trẻ, đàn ông phụ nữ, người giầu kẻ nghèo... Họ là những người lao động nhà quê lam lũ, là những bà cụ già đạo đức, là những bạn trẻ nam nữ đầy nhiệt huyết…Lại còn biết bao « dân cư mạng » ăn ngủ đứng ngồi không yên để dán mắt vào màn hình vi tính mà theo dõi kết quả Công Lý.

Trong khi đó, phần lớn chỉ có các bạn trẻ và những người hâm mộ môn thể thao vua mong đợi chiến thắng tưng bừng của đội tuyển. Đấy là chưa nói đến dân cá cược chờ đợi một chiến thắng không hoàn toàn với mục đích danh dự quốc gia hay vì màu cờ sắc áo. Không thiếu những chuyện đau buồn về tai nạn giao thông do những « anh hùng xa lộ » say men chiến thắng gây ra.

Cách thức diễu hành trên Đường Công Lý đẹp đẽ hơn nhiều so với các cuộc ăn mừng chiến thắng của đội tuyển Việt Nam và khác hẳn bầu khí dịp lễ hội hoa tại thủ đô Hà Nội. Ngoài những lời kinh tiếng hát du dương trầm bổng, mọi người cùng nhau sánh bước, tôn trọng luật giao thông, giữ gìn vệ sinh công cộng. Đấy là chưa kể những chuyện « bên lề » đầy hóm hỉnh và những lời ăn tiếng nói cũng như những cử chỉ chứa đựng đầy tình nhân loại dành cho những người đang thi hành nhiệm vụ.

Cùng chịu chung số phận với thế giới trong cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế, Việt nam đang phải đối diện với những cuộc khủng hoảng khác trầm trọng hơn rất nhiều. Đó là cuộc khủng hoảng niềm tin của người dân đối với giới lãnh đạo.

Cứ nhìn vào hố sâu ngăn cách như trời cao với vực thẳm giữa mức sống của giới lắm của nhiều tiền và giới « chủ nhân » của đất nước thì không ai tránh khỏi những bức xúc. Giầu có bằng con đường tài năng, cần mẫn và chính đáng thì chẳng có gì để nói. Đàng này, sự phân cấp giầu nghèo phần lớn do bất công xã hội gây ra. Trên đường đi tìm sự giầu có, phó thường dân nếu không bị gạt ra bên lề thì cũng bị bỏ rơi ở tốp cuối.

Không còn tin vào những lời nói dối ngọt ngào, người dân nắm tay nhau để đi đòi những quyền căn bản tối thiểu của con người. Với họ, trước những bất công và gian dối trong xã hội, Giáo Hội luôn là điểm tựa vững chắc về niềm tin và niềm hy vọng. Ngưỡng cửa của những khách sạn sang trọng, nhà hàng nổi tiếng, hay những tụ điểm dành cho những giới quý tộc không cho phép họ đặt chân đến. Trong khi đó, cánh cửa của các nhà thờ vẫn rộng mở để đón tiếp họ. Thật đơn giản, Giáo Hội là của những người nghèo. Chính vì thế, Giáo Hội luôn thi hành sứ mạng ngôn sứ trong việc lên tiếng chống lại những bất công xã hội và bảo vệ những kẻ cô thế cô thân.

Đoạn đường mà tám vị anh hùng của giáo xứ Thái Hà và tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà cùng với những anh chị em đồng đạo đã đi hôm 27 tháng 3 vừa qua đã mở ra cho dân tộc Việt Nam và người dân Việt yêu dấu một con đường tràn trề hy vọng. Công lý vẫn đang ở phía trước. Chúng ta hoàn toàn có quyền tin tưởng vào sự tươi sáng ngày mai. Ngày đó:

Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ
Hòa Bình, Công Lý đã giao duyên.
Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp.
Công Lý nhìn xuống tự trời cao. (Thánh Vịnh 85,11-12)

Vâng, để có được tương lai tươi đẹp như vậy thiết tưởng rất cần sự đóng góp tích cực của mỗi chúng ta. Công Lý, Sự Thật và Hòa Bình là quyền rất chính đáng của con người. Tuy nhiên đó cũng là bổn phận làm chứng của mỗi Kitô hữu.

Đường Công Lý
 
Như một tiếng vọng Công lý và Sự thật thay cho Giáo hội và Tổ Quốc Việt Nam*
Hồng Y F. Tomasek, TGM Praha
17:37 30/03/2009
Như một tiếng vọng Công lý và Sự thật thay cho Giáo hội và Tổ Quốc Việt Nam*

Thư của ĐHY Tomasek, Tổng Giám Mục thành Praha,

kiêm Giáo Chủ Công Giáo miền Bohêmia, Tiệp Khắc

(Công bố ngày 21-11-1989, trước 200.000 người biểu tình tại Praha và được đọc tại các nhà thờ Chúa nhật 26-11-1989.)


Đồng bào thân mến,

Tôi ngỏ lời với anh chị em vài giờ sau khi tôi trở về từ Rô-ma, nơi tôi đã tham dự lễ tôn phong hiển thánh cho Chân phước ANÊ miền Bohêmia. Thánh nữ là công chúa, mặc dầu tu trong đan viện vì lòng mến Chúa yêu người, nhưng ngài không ngừng ở cạnh dân mình trong những giờ phút vinh quang cũng như trong những lúc tủi nhục.

Về phần tôi, tôi cũng không thể nào tỏ ra xa lạ với định mệnh quốc gia của tôi và toàn thể đồng bào đất nước tôi. Tôi không thể im lặng trong lúc tất cả anh chị em đang hiệp lực với nhau để phản đối những bất công mà anh chị em phải chịu từ 40 năm nay.

Người ta không thể duy trì lòng tín nhiệm đối với giới lãnh đạo quốc gia không muốn nói sự thật và chối bỏ các quyền lợi và các quyền tự do của nhân dân. Với truyền thống có từ hàng ngàn năm nay, những quyền này vẫn được coi là những quyền bình thường trong những quốc gia trẻ trung hơn đất nước chúng ta.

Tôi muốn soi sáng tình trạng xã hội của chúng ta qua những kinh nghiệm của Giáo Hội Công Giáo của đất nước này: đã bao nhiêu lần Giáo Hội gửi đến Nhà Nước những lời khiếu nại và thỉnh cầu, nhưng Nhà Nước đều không thèm đếm xỉa gì đến. Mãi đến năm 1985, khi hàng trăm ngàn tín hữu lên tiếng tại Trung Tâm Hành Hương Vê-rê-rát, và sau khi thư thỉnh nguyện gồm mấy trăm ngàn chữ ký được gửi đến Nhà Nước Tiệp Khắc hồi năm ngoái, lúc đó mới có một vài bước tiến bộ.

Năm ngoái, tôi cũng đề nghị với Nhà Nước sẵn sàng làm trung gian đối thoại giữa Chính Phủ và Giáo Hội. Nhưng mãi đến cách đây nửa năm, ông Chủ Tịch mới trả lời, nhưng rồi cũng chẳng có tiến bộ gì đáng kể. Giáo Hội tiếp tục lệ thuộc Nhà Nước theo những điều hạn chế được áp đặt trên Giáo Hội từ thời Staline.

Trong việc cai quản giáo phận, các giám mục hoàn toàn lệ thuộc Nhà Nước và lời nói quyết định trong vấn đề này dường như vẫn là lời nói của các cơ quan mật vụ. Những cuộc hội họp của các giám mục và linh mục đều bị cản trở vì sự hiện diện của các đại diện Nhà Nước trong các buổi họp. Bầu không khí thiếu tự do, các tín hữu trưởng thành cũng như con cái họ và nhất là các bạn trẻ Công Giáo cảm thấy thật khó thở.

Người ta hứa hẹn với chúng tôi rằng: việc điều chỉnh lại tình trạng pháp lý của Giáo Hội sẽ được thực hiện phù hợp với các quy luật quốc tế về những tự do nhân quyền, nhưng người ta lại không nói gì đến việc Đảng cầm quyền phải từ bỏ chương trình dần dần tiêu diệt đức tin.

Đối với những hạng người như thế, chúng ta không thể tin tưởng được.

Tình trạng đau buồn tương tự như thế cũng xảy ra trong các lãnh vực khác của đời sống, trong lãnh vực khoa học, văn hoá, thông tin.

Từ Đông sang Tây, chúng ta đang ở giữa những quốc gia trong quá khứ cũng như hiện nay đang đập đổ những hàng rào của những chế độ độc đoán.

Về phần chúng ta, chúng ta không thể nào chờ đợi được nữa. Bây giờ cần phải ra tay hành động.

Chúng ta cần có một chính phủ dân chủ, nếu không thì chúng ta không thể nào thành công trong việc chận đứng những tai hoạ về môi sinh và những tai ương khác.

Tất cả những người có điều kiện muốn nói với chúng ta, họ phải được phát biểu tự do, để chúng ta chọn lựa từ nơi họ một chính phủ cùng tiến bước với chúng ta chứ không phải chống lại chúng ta.

Chính vì thế tất cả chúng ta bây giờ đều có trách nhiệm đối với thời điểm hiện tại và tương lai của chúng ta và con em chúng ta.

Các bạn thân mến,

Chúng tôi hợp sức với các bạn là những người đang kêu gào công bằng cho tất cả mọi người.

Với lòng biết ơn và kính trọng, tôi hướng lòng về các nạn nhân của bạo lực tàn ác. Lời Chúa Ki-tô được áp dụng cho các bạn: “Phúc cho những người đói khát sự công chính, vì họ sẽ được no thoả”.

Lời kêu gọi trừng trị những kẻ phạm tội ác là điều rất đúng. Tôi chỉ xin các bạn một điều này: đó là tiếp tục theo đuổi con đường bất bạo động. Chúng ta tranh đấu cho sự thiện bằng những phương thế tốt. Qua kinh nghiệm của những kẻ áp bức chúng ta, chúng ta thấy được rằng những chiến thắng trong giận dữ, thù oán, tham lam, ham hố quyền bính, hống hách đều là những chiến thắng ngắn ngủi.

Hỡi các tín hữu Công Giáo và các linh mục,

Tôi cũng muốn ngỏ lời với tất cả anh chị em trong giờ phút quyết liệt này của lịch sử chúng ta, không ai trong anh chị em được đứng ngoài lề. Hãy lại lên tiếng, hợp với tất cả công dân Tiệp Khắc, cả với những người thuộc sắc tộc khác, dầu họ là tín hữu hay không có tín ngưỡng. Quyền tự do tín ngưỡng không thể tách rời khỏi những quyền dân chủ khác. Tự do là điều không thể phân chia được.

Tôi xin chấm dứt nơi đây với những lời đã từng vang dội đã lâu trong lịch sử của chúng ta: “Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, số phận của chúng ta ở trong tay chúng ta”.

Praha 21-11-1989

+ HỒNG Y F. TOMASEK, Tổng Giám Mục Praha

Kiêm Giáo Chủ Công Giáo miền Bohêmia

*Đề tựa: Bảo Quốc Đặng Mục Tử
 
Đây đoàn dân Thiên Chúa
Gioan Lê Quang Vinh
21:40 30/03/2009
ĐÂY ĐOÀN DÂN THIÊN CHÚA

Tám anh chị em giáo oan Thái Hà đã reo vang cùng với đoàn dân Thiên Chúa, không cần quan tâm đến kết quả xử án. Họ biết chắc một điều là Quan Án chí công là Thiên Chúa của chúng ta đã ghi công họ vào trong sổ vàng của muôn đời. Tôi nghĩ có một câu hỏi của toà án thế gian làm họ bất ngờ. Đó là “ai đã xúi giục” họ. Họ trả lời là không có ai xúi giục. Câu trả lời rất chân thành và rất can đảm. Nhưng tôi lại nghĩ: trả lời như thế đúng nhưng chưa đủ. Họ không bị xúi giục, vì họ có làm gì sai đâu mà bảo là ai xúi giục, nhưng họ được chỉ đạo và hướng dẫn, chứ không phải tự chính họ có thể can đảm làm chứng cho Tin Mừng và Công Lý như nghĩa đen của câu trả lời. Vậy ai đã đứng đàng sau thúc đẩy họ và đi trước dẫn đường cho họ? Câu trả lời rất rõ ràng. Đó là chính Chúa Thánh Linh, ngọn lửa soi đường cho dân Thiên Chúa qua ngàn muôn thế hệ.

Một trong những hình ảnh đẹp nhất của nhân loại là hình ảnh đêm đêm Thiên Chúa làm ánh sáng soi đường cho dân trong sa mạc và ban ngày Ngài làm cột mây rợp bóng trên đoàn dân lữ hành. Ai đã từng lầm lũi bước đi trong đêm tối hay đã từng rong ruổi trên đường xa một mình lúc trời giông bão hẳn có kinh nghiệm về sự khát khao được che chở, dẫn dắt và vỗ về. Thiên Chúa qua muôn thế hệ vẫn là một Thiên Chúa trung tín với lời giao ước, và đoàn dân Thiên Chúa vẫn ngày ngày bước đi trong sự quan phòng kỳ diệu của Ngài. Và bây giờ đã đến lúc dân Chúa trưởng thành trong lòng tin và lòng mến, để Giáo Hội là Mẹ hiền có thể tin rằng giáo huấn của Thánh Công đồng về đời sống và vai trò dân Chúa đang được thực thi ngày càng hữu hiệu.

Trong một bữa tiệc có nhiều luật sư tham dự mới đây ở Sàigòn, có một anh luật sư lớn tiếng kết án: vụ Thái hà đã gây chia rẽ. Anh ta cho ví dụ là vợ anh ta dạy ở trường PTTH Tân Bình về nhà kể rằng giáo viên trong trường chia làm hai “phe” rõ rệt từ sau vụ Thái hà, một phe bênh vực và một phe chê trách. Nghe anh ta nói, tôi biết ngay phe chê trách là nhóm giáo viên loại nào. Tôi chợt nhớ Lời Chúa Giêsu xưa: “Ta đến để mang gươm giáo và chia rẽ”. Ánh sáng chiếu dọi vào trần gian lập tức chia rẽ trần gian thành hai phần sáng và tối. Đoàn chiên và dê đang bơ vơ lang thang trong sa mạc, chợt có vị mục tử bước đến. Lập tức có sự chia rẽ. Những con chiên hiền lành bước theo chủ chăn, và những con dê thì lại lánh xa, để đi xuống vực thẳm. Có một gia đình nọ, khi cô gái vừa tốt nghiệp, bỗng bỏ theo một kẻ tàn nhẫn, ác tâm. Gia đình lập tức chia đôi, một bên nhất quyết bênh vực công lý, một bên vì tiền mà làm theo ý kẻ ác, chia rẽ gia đình. Đoàn dân Thiên Chúa là những con người hiểu biết, suy tư chín chắn và can đảm bước theo Thầy Chí Thánh dưới bóng Thánh Giá.

Là dân được đặc tuyển giữa những con người vốn đã hư hỏng vì tội lỗi, dân thánh của Thiên Chúa được soi rọi để bước đi trong ánh sáng của Công Lý và Sự Thật. Con đường họ bước đi chính là Đức Giêsu, Chân Lý họ nắm trong tay là Đức Giêsu, và họ đang đi về Sự Sống cũng chính là Đức Giêsu. Tôi chưa đến Thái hà và chưa được cùng với các Cha DCCT và anh chị em mình ở Ha nội cầm cành thiên tuế bước đi trong hân hoan. Nhưng tôi đoan chắc bất cứ ai nhìn hình ảnh đoàn người đông đảo tay phất cành thiên tuế ấy, cũng đều nghĩ đến ngày Đức Giêsu khải hoàn vào thành thánh Giêrusalem và nghĩ đến hào quang tử đạo. Có nhiều người cho rằng Đạo Công giáo gây quá nhiều phiền toái nên đi đến đâu cũng bị bách hại và bị loại trừ. Mới nghe lời kết án ấy, người Công giáo muốn tranh cãi ngay. Nhưng quả đúng như vậy. Đức Giêsu đã gây phiền toái cho thế gian này khi Người bóc trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của nó và khi Người bắt thế gian phải thay hình đổi dạng như một cuộc tái sinh. Đoàn dân Thiên Chúa cũng gây phiền hà cho xã hội khi họ chiếu vào đó luồng ánh sáng của Công Lý và Sự Thật, để tất cả những giả trá và hèn hạ bị bóc trần và phơi ra giữa cuộc nhân sinh. Vậy thì có lạ gì khi những Caipha và những Hêrôđê của thế gian lôi kéo đám quần chúng để họ la to: “Đóng đinh nó vào thập giá”. Có một điều thế gian không biết: thập giá là huy hiệu của người môn đệ Chúa Kytô, và họ hãnh diện vì thập giá.

Trong bữa tiệc tôi vừa nói ở trên, cũng chính anh luật sư ấy bảo ai bênh vực Thái hà là cực đoan! Tôi cười và nói với anh ta rằng bóng tối hay bảo ánh sáng là cực đoan (vì làm chói mắt nó), sự giả dối cho sự trung thực là cực đoan (vì sự thật không thể lửng lơ như con cá vàng), và kẻ trộm thì bảo người bảo vệ là cực đoan (vì không cho hắn ta lối thoát). Thế gian cũng hay cho dân thánh Thiên Chúa là cực đoan. Thực ra điều này sai rồi. Phải nói rằng dân Thiên Chúa được mời gọi sống hết mình cho Công lý và không chấp nhận sự thoả hiệp nào. Đức Tổng Giám Mục Giuse đã từng bị kết án chỉ vì Ngài dám nói một sự thật mà dù có nghĩ cũng ít ai dám nói. Một kỹ sư tin học làm việc cho một công ty nhà nước được mời vô đảng và được yêu cầu ghi “không tôn giáo”, anh ấy không chịu, thế là bị bảo là cực đoan. Một bác sĩ có tiếng được mời làm phó giám đốc một bệnh viện lớn, cũng được yêu cầu ghi “không tôn giáo”. Anh phản đối vì anh giữ đạo đàng hoàng, thế là bị bảo là “hơi quá”. Thế gian muốn mọi thứ cứ lửng lơ và mờ mờ ảo ảo. Nhưng khi “luồng sáng chiếu giãi vào thế gian” thì lập tức mọi chuyện đều rõ ràng, đâu ra đó. Thế là thế gian bảo thế thì thôi, không cần ánh sáng. Và ánh sáng trở thành năng lượng dư thừa. Nhưng mà “đã đến lúc Con Người được tôn vinh”, nghĩa là đã đến lúc ơn cứu độ phủ bóng lên đoàn dân ưu tuyển, và quyền lực tối tăm bị đưa vào nơi ở ngàn đời mờ ảo của nó.

Đây đoàn dân Thiên Chúa, đoàn dân luôn reo ca với nhành thiên tuế của Công Lý và Sự Thật. Đây đoàn dân Thiên Chúa, đoàn người lữ hành giữa sa mạc cuộc đời mà như đi trẩy hội mùa xuân, bởi vì họ biết rõ họ đang đi đâu. Những ghi chép rời rạc này không thể mô tả hết các đặc tính của đoàn dân ưu tuyển, nhưng cũng xin phác hoạ những nét chính yếu để thế gian hiều rằng không thể dùng bóng tối mà xua trừ ánh sáng. Xin Đức Kytô là người lãnh đạo duy nhất và tuyệt đối của dân Thiên Chúa ban cho chúng con được trung tín, dám ngẩng cao đầu và không vì bất cứ nguồn lợi nào khác mà phủ nhận sứ vụ làm chứng nhân của mình.
 
Thông Báo
Cáo Phó: Cha Giuse Dương Ngọc Châu qua đời
TGM. Đà Lạt
17:52 30/03/2009
Tòa Giám Mục Đàlạt
9, Nguyễn Thái Học
Đàlạt – Lâm Đồng

CÁO PHÓ

Trong niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh,

Toà Giám Mục Đàlạt, Linh tông và huyết tộc vô cùng thương tiếc kính báo:

Cha GIUSE DƯƠNG NGỌC CHÂU



đã an nghỉ trong Chúa lúc 09 giờ 00, thứ hai, ngày 30 tháng 3 năm 2009 tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Tp. HCM,

hưởng thọ 67 tuổi, 39 năm linh mục.

Cha GIUSE sinh ngày 03 tháng 3 năm 1942, tại Kim Bình, Kim Bảng, Hà Nam.

Thụ phong linh mục ngày 28.11.1970 tại Manila, Philippines.

Phó xứ Thanh Bình 1971 – 1973,
Tuyên úy Trung Tâm Y Tế Đàlạt 1973 – 1975,
Phó xứ Tân Hà 03.5.1975 – 03.9.1975,
Quản xứ Tân Bùi 1975 – 1994,
Quản xứ Thanh Xuân 1994 đến nay.

Thánh lễ và nghi thức tẩm liệm lúc 08 giờ 00, thứ ba, ngày 31 tháng 3 năm 2009, tại Hội trường Giáo xứ Thanh Xuân, Lộc Thanh, Bảo Lộc.

Thánh lễ an táng tại Nhà thờ Thanh Xuân, Lộc Thanh, Bảo Lộc, lúc 08 giờ 30, thứ sáu, ngày 03 tháng 4 năm 2009, do Đức Giám Mục Giáo Phận chủ sự.

An táng tại Nghĩa trang Linh mục Giáo phận, Lộc Thanh, Bảo Lộc.

Xin hiệp ý cầu nguyện cho Cha cố GIUSE sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.

Tòa Giám Mục Đàlạt
Linh tông và huyết tộc
đồng kính báo.

Xin Quý Cha Giáo phận dâng 3 Thánh Lễ
cầu cho Cha Cố Giuse theo luật Giáo phận.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Cây Sáo Của Người
Diệp Hải Dung
06:10 30/03/2009

CÂY SÁO CỦA NGƯỜI



Ảnh của Diệp Hải Dung (Hình chụp tại Yenora Sydney)

Thân con cây trúc tầm thường

Được Người kén chọn yêu thương tràn trề

Kiên trì đục cắt đam mê

Cho lòng rỗng trống tìm về nẻo Tin

Lùa dao khoét lỗ luyện Kinh

Tác thành ống sáo cho tình dâng cao

Ghé môi Người thổi hơi vào

Hơi nồng tình ái xôn xao tuyệt vời..

(Trích thơ của LM. Trần Cao Tường)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền