Ngày 28-03-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Cho đi thì còn, giữ lại thì mất
LM Inhaxiô Trần Ngà
00:17 28/03/2009
Chúa Nhật 5 Mùa Chay (Gioan 12, 20-33)

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su nêu ra một nghịch lý gay gắt người đời khó hiểu được: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12,25)

Ai nâng niu sự sống mình thì sẽ đánh mất nó.

Người đời cho rằng muốn bảo tồn được mạng sống thì phải nâng niu cưng chiều nó tối đa, phải dành ưu tiên cho mình trong tất cả mọi sự. Còn Chúa Giê-su thì chủ trương ngược lại: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất!” (Ga 12, 25)

Làm sao hiểu được chân lý nầy?

Nếu tim chỉ sống cho riêng mình mà không bơm máu nuôi toàn thân thì tim sẽ bị ứ đầy máu và ngừng đập.

Nếu phổi chỉ phục vụ bản thân, không đưa dưỡng khí nuôi toàn cơ thể, thì phổi chết.

Nếu bao tử và ruột chỉ chăm lo cho mình, giữ lại tất cả dinh dưỡng cho mình mà không chuyển đi nuôi những bộ phận khác, bao tử và ruột tự kết án tử cho mình.

Ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được nó.

Người đời cho rằng: “mạng sống hơn đống vàng” nên người ta chăm sóc, bảo bọc, che chở nó bằng mọi giá. Trong khi đó, Chúa Giê-su dạy, muốn bảo tồn mạng sống thì hãy hy sinh nó đi: “ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” ( Mác-cô 8, 35)

Đây là chân lý hết sức hệ trọng nên được các tác giả Tin Mừng nhắc lại nhiều lần: Gioan 12, 25b / Matthêu 10,39/ Matthêu 16, 25/ Luca 9,24/ Luca 17,33.

Làm sao hiểu cho được những nghịch lý nầy?

Sở dĩ tim sống khoẻ vì tim rất quảng đại và hy sinh, luôn luôn bơm hết dòng máu quý báu của mình để cống hiến cho toàn thân được sống. Lẽ sống của tim là liên tục cho đi những gì đã lãnh nhận.

Sở dĩ hai buồng phổi sống trong tình trạng sức khoẻ sung mãn vì phổi vị tha, không tìm ích riêng cho mình, nhưng luôn luôn chuyển đi dưỡng khí trong lành cho những phần chi thể khác.

Sở dĩ bao tử và ruột hoạt động tốt là vì chúng luôn trao ban và dâng hiến: một khi tiếp nhận được thức ăn, bao tử và ruột chuyển hoá thành chất dinh dưỡng và chuyển hết cho những bộ phận chung quanh, không giữ lại gì cho riêng mình.

Nói chung, lẽ sống của từng cơ quan là hy sinh, là quên mình, là dâng hiến tất cả cho những cơ quan khác cũng như cho toàn thân.

Ở Israen có hai biển hồ: một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.

Biển hồ Galilê tiếp nhận nước từ sông Jordano rồi xả xuống phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó, nước hồ lúc nào cũng trong lành, trở nên môi trường thích hợp cho tôm cá sinh sôi nẩy nở, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại sung túc cho bao triệu người qua các thời đại. Vì thế, nó đáng được gọi là biển sống.

Xuôi về phía nam chừng 200 km dọc theo sông Jordano, người ta gặp thấy một biển hồ khác rộng lớn hơn biển hồ Galilê gần năm lần nhưng bị gọi tên là biển chết; vì tuy cùng nhận nước từ sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó giữ lại tất cả cho mình, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước ao tù, mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư …

Chúa Giê-su dạy: nếu hạt lúa được giữ nguyên trong kho, được bảo quản kỹ càng, thì nó chỉ là hạt lúa trơ trọi, một hạt lúa cô đơn, một hạt lúa chết dần mòn. Còn hạt lúa nào chịu huỷ mình đi trong ruộng sình sẽ vươn lên phơi phới và sinh được gấp trăm.

Cuộc đời của Đức Giê-su cũng là một minh chứng hùng hồn cho chân lý Người dạy. Chúa đã chịu gieo mình xuống cõi đời ô trọc, chịu hy sinh, chịu đủ thứ khổ nhục, cuối cùng chịu chết trên thập giá và mai táng trong mồ. Trước mắt người đời, Chúa Giê-su đánh mất tất cả và thất bại hoàn toàn!

Thế nhưng qua khổ nạn và sự chết, Người đã phục sinh, lên trời vinh hiển. Nhờ gieo mình xuống và tự hủy đi như một hạt lúa gieo vào bùn đất, Chúa Giê-su đã sống lại khải hoàn đem lại ơn cứu độ cho muôn người và cho họ được hưởng phúc trường sinh.

Quy luật sinh tồn là thế: chỉ khi cho đi, mới là lúc được nhận lại dồi dào; chính khi hiến mình là lúc nhận lại bản thân. Vì thế, khi sắp chịu huỷ mình trên thập giá và chịu mai táng trong mộ, Chúa Giê-su gọi đó là giờ Người được tôn vinh: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (Gioan 12, 23)

Thế là nghịch lý trên đây giờ đã được sáng tỏ và trở thành chân lý soi dẫn cho cuộc đời.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con sẵn sàng hiến thân để phụng sự Chúa và nhân loại, như hạt lúa bị chôn vùi cho nhiều hạt khác được phát sinh, để trở thành “biển sống Galilê” và không bao giờ là “biển chết”.
 
Bài học vâng phục
Anmai, CSsR
00:21 28/03/2009
Chúa nhật thứ 5 Mùa Chay (Gr 31, 31-34; Dt 5,7-9; Ga 12, 20-33)

Mỗi một con người, đều mang trong mình một suy nghĩ riêng, một cái nhìn riêng, một lập trường riêng để nói lên sự cá biệt hay nói đúng hơn là sự khác biệt của con người. Mỗi một con người có một nhân vị. Mỗi một con người là cả một thế giới riêng biệt. Và vì vậy, đó mới là điểm lý thú của con người. Nếu ai cũng như ai thì thế giới này thật là buồn tẻ, thật là nhàm chán vì khi ấy chẳng còn gì để mà bàn nữa. Thế nhưng, từ cái cá tính, cá vị của con người đã gây nên không biết bao nhiêu xáo trộn trong cuộc đời này.

Nhìn vào đời sống thường nhật chúng ta thấy rõ điều này. Hai vợ chồng trẻ mới cưới, vì còn nồng nàn cái thuở ban đầu, cái ngày đầu của đời sống hôn nhân nên tràn đầy hạnnh phúc. Khi ấy, anh nói em nghe, em nói anh nghe nhưng rồi một thời gian qua đi khi đời sống hôn nhân có thời gian, có bề dày một chút thì cái kiểu mà anh nói em nghe em nói anh nghe không còn nữa và rồi nó gây ra xáo trộn trong gia đình. Khi ấy chồng không phục tùng vợ nữa và vợ cũng chẳng còn phục tùng chồng nữa. Nếu nhường nhịn nhau thì gia đình sẽ ấm êm còn nếu không nhường nhịn nhau thì sẽ đổ vỡ, sẽ chia ly. Nếu ai nào sống trong cái bầu khí bất phục tùng sẽ cảm thấy cực kỳ nhàm chán vì lẽ nó bất an làm sao đó. Khi đó, muốn giải quyết mọi xung đột, muốn mang bình an lại trong gia đình thì vợ và chồng phải nghe nhau, phải nhường nhịn nhau, phải tuân phục nhau.

Khi có con cũng thế, nếu như đứa con trong gia đình dễ dạy, dễ nghe, dễ vâng phục thì gia đình rất bình an và hạnh phúc. Nếu gia đình nào có đứa con ngỗ nghịch hay cãi lại cha mẹ thì ắt hẳn gia đình đó bất an. Ông bà ta vẫn thường nói “Cá không ăn muối cá ươn – con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư !” để diễn tả lối hành xử giữa cha và con qua hình ảnh của con cá. Điều chắc chắn và ai ai cũng biết đó là con cá, nếu không ướp muối, để ngoài gió lát sau nó sẽ ươn, nó sẽ tanh và hôi vô cùng. Với con cái cũng vậy, khi chúng cưỡng lại lời dạy dỗ của cha mẹ thì chắc chắn nó sẽ dẫn đến con đường của hư vong thôi.

Rộng hơn một chút, trong một gia đình, trong một cộng đoàn chắc chắn phải có người trên, kẻ dưới. Kẻ dưới dĩ nhiên phải vâng phục người cầm đầu của gia đình, của cộng đoàn. Nhìn vào thực tế, chúng ta thấy rất rõ, gia đình, cộng đoàn nào mà bề dưới, con cái không vâng phục thì cha mẹ, bề trên của gia đình, của cộng đoàn ấy khổ sở vô cùng. Cha mẹ, bề trên lúc nào cũng muốn con cái mình tốt nên có những luật này lệ kia. Con cái và bế dưới thì khác, chúng muốn sống trong tự do để rồi không còn biết vâng phục cha mẹ, bề trên là gì cả.

Bài học vâng phục ngày hôm nay, chúng ta được xem lại một cách hết sức rõ ràng, thực tế trong đoạn sách ngắn ngủi mà Giêrêmia để lại cho chúng ta. Giêrêmia được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ, người phát ngôn của Chúa, người đại diện cho Chúa, người thay mặt Chúa nói với dân Chúa những lệnh truyền của Chúa. Thiên Chúa, Ngài vốn dĩ mang trong mình dòng máu của tình yêu thương bao dung và tha thứ. Con người bao nhiêu lần bất tuân lệnh truyền, lẽ ra huỷ bỏ giao ước đã thiết lập nhưng không. Thiên Chúa mãi yêu con người, tạo mọi cơ hội, mọi điều kiện để con người bỏ đường gian ác mà quay về đường ngay nẻo chính.

Dân Israel đã huỷ bỏ giao ước. Hôm nay, qua miệng của Giêrêmia, Thiên Chúa lập giao ước mới với dân: “Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: "Hãy học cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi (Gr 31, 31-35)

Với Giao Ước Mới, Thiên Chúa hứa là sẽ không nhớ đến lỗi lầm của Israel nữa và Ngài còn hứa Israel sẽ tồn tại mãi mãi.

Thế nhưng, tiếp tục nhìn vào lịch sử Israel, mối tình giữa Israel và Thiên Chúa nó làm sao ấy. Thiên Chúa mãi mãi yêu thương còn dân thì lại cứ bất tuân luật Chúa, không vâng phục lời của Ngài. Dân Chúa ương ngạnh, không vâng phục cho đến nỗi Ngài phải sai chính Con Một của mình đến để dạy do dân bài học vâng phục. Không đơn giản để học bài học vâng phục. Chúng ta thử đặt trường hợp của chúng ta vào Chúa Giêsu chúng ta sẽ cảm thấu được nỗi âu lo, sao xuyến, căng thẳng của một người sắp bước ra pháp trường.

Chúa Giêsu mang trong mình sự giằng co của một con người tự do và một con người vâng phục. Ngài hoàn toàn tự do để lựa chọn sự sống hay cái chết của Ngài. Suy nghĩ lắm chứ ! Đắn đo lắm chứ ! Buồn và đau đớn để rồi Ngài mới thỏ thẻ với Cha mình: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến (Ga 12, 27)

“Chính vì giờ này con đã đến” ! Phải ! Chính vì cái giờ đau thương, giờ quyết liệt này mà Chúa Giêsu phải đến.

Tác giả thư Do Thái đã nói với chúng ta điều ấy:

“Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người (Dt 5,7-9).

Để vâng phục không đơn giản, để vượt qua những trở ngại của vâng phục phải trải qua biết bao nhiêu đau khổ nhưng khi vượt qua đau khổ đấy sẽ được đến vinh quang. Thánh Phaolô, trong thư của Ngài gửi tín hữu Philip xác tín với chúng ta về thái độ, về hành động vâng phục của Chúa Giêsu:

Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngườivà tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
(Pl 2, 6-9)

Vì sao Thánh Phaolô nhắc tín hữu Philip gương của Chúa Giêsu. Chắc có lẽ trong cộng đoàn Philip lúc bấy giờ có sự đụng chạm, có sự cãi vả nhau nên Thánh Phaolô phải nêu gương vâng phục của Chúa: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su. (Pl 2, 1-5).

Thái độ, hành động vâng phục tuyệt vời của Chúa Giêsu ngày hôm nay quả là bài học quý giá cho mỗi người chúng ta. Hôm nay, chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình. Là linh mục, là tu sĩ, là ông, là bà, là cha, là mẹ, là con, là cháu trong gia đình, chúng ta nhìn lại xem chúng ta có vâng phục giám mục địa phận, bề trên giám tỉnh, bề trên cộng đoàn, ông, bà, cha mẹ của chúng ta hay không ? Nếu chúng ta thật sự vâng phục bề trên, ông bà cha mẹ thì gia đình chúng ta sẽ ấm êm, hạnh phúc.

Các đấng các bậc làm bề trên và làm cha làm mẹ ắt hẳn có kinh nghiệm thực tế về chuyện vâng lời vâng phục của bề dưới, của con cái. Đành biết con người có cá tính, có lý lẽ riêng của mình nhưng vì hạnh phúc chung, vì lợi ích chung của gia đình, của cộng đoàn ta phải cố gắng bỏ đi cái ý riêng, cái lẽ riêng của ta để gia đình, để cộng đoàn được hạnh phúc hơn.

Nhìn lại như vậy để rồi chúng ta cầu nguyện cho nhau để ngày mỗi ngày chúng ta cân chỉnh cuộc đời của chúng ta sống sao vâng phục người trên của chúng ta.

Nguyện xin Chúa Giêsu là thầy dạy vâng phục ban thêm ơn cho chúng ta để chúng ta sống bài học vâng phục như Chúa đã từng vâng phục Cha.
 
Hy sinh giúp đỡ tha nhân hoa trái dâng Chúa
Lm. Jude Siciliano, OP
03:13 28/03/2009
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY

Gr 31: 31-34; Tv 51; Dt: 5: 7-9; Gioan 12: 20-33

Anh chị em thân mến,

Tôi vừa giảng xong tuần tĩnh tâm ở một giáo xứ. Trong lúc trao đổi với giáo dân sở tại, tôi được nghe và thấy nhiều mẫu gương hy sinh đáng khâm phục: Một phụ nữ chăm sóc cho mẹ già tật nguyền đến khi mẹ mất, rồi bây giờ lại phải săn sóc người anh đang gần chết. Trong khi chăm sóc, người phụ nữ đó vẫn vui tươi. Chuyện một người sắp chết vì ung thư lại luôn an ủi những người đến thăm ông. Có người nói: "Ông ta không bao giờ than trách Chúa về nỗi bất hạnh của mình". Và ông luôn có vợ ở bên cạnh săn sóc. Môt bà cụ lớn tuổi nhờ người đưa bà đến viện dưỡng lão để bà có thể giúp đẩy xe lăn cho những người trong viện, trong số đó có người còn trẻ hơn bà. Một phụ nữ trong giáo xứ tình nguyện làm người bênh vực cho những bệnh nhân bị bệnh tâm thần. Bà nói, những bệnh nhân đó khi nhập viện bị người ta cho thuốc quá nhiều, rồi lại gởi trả về nhà nên: "tôi bênh vực quyền lợi cho những bệnh nhân đó, vì không ai làm việc này cả".

Cũng như anh chị em, tôi thấy khâm phục những hy sinh cao cả ấy, hy sinh thời giờ, sức lực và tiềm năng của họ. Ngay cả những người đau yếu, họ vẫn chọn được cách sống phục vụ như họ muốn. Họ đã quyết định là sẽ vượt qua sự đau yếu như thế nào, nhờ vậy họ trở nên gương sáng cho kẻ khác. Tất cả những người tôi gặp không nghĩ những việc họ làm là điều quan trọng. Một người bảo: "Tôi không nghĩ đó là sự hy sinh. Mà chỉ là cách sống của tôi". Tuy thế, cũng có lúc những người nầy cảm thấy chán nản, mệt mỏi, và tuyệt vọng.

Tôi và anh chị em hẳn đã có lúc chúng ta gặp những người này, việc làm của họ như một sợi chỉ vàng vắt qua đời sống. Và họ cảm thấy được vinh dự, vui sướng khi làm những việc đó. Không chỉ là nụ cười thoáng qua "ha,ha,ha..", nhưng là cả một nỗi vui sướng tràn đầy ý nghĩa. Và lời Chúa Giêsu trong Phúc âm rền vang trong tâm trí chúng ta: "hạt lúa gieo vào lòng đất, phải chết đi mới sinh được nhiều hoa trái" cho người khác và cho chính chúng ta nữa.

Có những tấm gương khác về gia đình: Như một người cha hay mẹ không muốn thăng tiến thêm trong việc làm ăn để cho gia đình khỏi phải di dời chổ ở. Có đôi vợ chồng kia điều là cán sự xã hội, quyết định dọn nhà từ ngoại ô vào sống gần xóm lao động nghèo mà họ đang phục vụ. Người khác đứng ra bênh vực quyền lợi của một đồng nghiệp bị áp bức, làm bản thân bị mất dịp được tăng lương. Một giáo chức nhận mức lương thấp hơn để dạy ở trường công giáo của một giáo xứ có nhiều người di cư nghèo, v.v..

Nhìn thoáng qua những câu chuyện trên, chúng ta thấy chỉ là những trường hợp ít gian nan thử thách và không là những hy sinh cao cả. Tuy nhiên, chính hy sinh ấy đem lại hiệu quả như Chúa Giêsu nói "nhiều hoa trái", và giúp cho những người đó có được "sự sống đời đời". Trong Phúc âm thánh Gioan, thành ngữ "sự sống đời đời" không có ý nghĩa là sự sống đời sau, nhưng là sự sống đời này. Sự hy sinh đó hàm ý là chúng ta múc lấy nước từ nguồn sâu thẳm của sự sống và nhờ đó chúng ta cảm thấy niềm vui sướng khôn tả mà tự sức chúng ta không hề có được. Hạt lúa giống chết đi và sinh nhiều hoa quả. Nếu chỉ nghe qua lời Chúa Giêsu, chúng ta không thể hiểu được. Nhưng, những ai thực hiện được lời dạy đó thì mới hiểu trọn được ý nghĩa của lời Chúa.

Chúng ta có cảm nhận được hoa quả những hy sinh của cha mẹ, ông bà, bạn hữu và láng giềng chúng ta không? Những người làm việc miệt mài để giúp chúng ta có nơi trú ngụ, những người đã hy sinh thời giờ để giúp khi chúng ta cần đến họ?

Khi những người Hy-lạp tìm đến xin gặp Chúa Giêsu, Ngài đáp "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga.12:23). "Giờ" trong Phúc âm thánh Gioan là giờ Chúa chịu khổ hình và được vinh quang. Để có thể hiểu được ý nghĩa từ "giờ" trong Phúc âm này, chúng ta hãy xét lại trong kinh nghiệm của mỗi chúng ta. Khi một người nói: "giờ" của ông đã đến chính là lúc ông ta bị mất việc khi ông báo cáo lên cấp trên việc lừa dối khách hàng của hãng bảo hiểm mà ông đã khám phá được. Một thiếu niên nói em không muốn bắt chước thói quen say sưa của các bạn. Kết quả: em đó mất bạn. Giờ ở đây không có nghĩa là sáu mươi phút. Giờ chúng ta đến, có nghĩa là khi việc chúng ta làm đến lúc được tiết lộ, khi chúng ta cần phải hy sinh, hay cần quyết định một việc gì khó khăn. "Giờ" thường chỉ lúc chúng ta không gặp may với người khác, và chúng ta phải quyết định đứng dậy hay chịu chết vì điều chúng ta tin tưởng.

Những người Hy-lạp tìm gặp Chúa Giêsu, có lẽ họ muốn biết về những điều họ nghe được. Phúc âm không nói rõ những người Hy-lạp đó là ai, họ là người Hy-lạp hay là người Do-Thái nói tiếng Hy-lạp? Họ có phải là những người đến tham quan, có thiện cảm với đạo Do-Thái, hay đến tham dự lễ hội của thành phố? Họ chính là chúng ta trong thế giới người ngoài, tìm đến Chúa Giêsu. Họ và chúng ta sẽ được gặp Chúa Giêsu trong "giờ" Ngài chịu khổ hình và vinh quang. Họ sẽ thấy Ngài không rút lui, nhưng Ngài tiến đến "giờ" của Ngài một cách tự do.

Ngay cả sự sợ hãi cũng không khuất phục được Ngài. Trong Phúc âm thánh Gioan, Chúa Giêsu kiên định mọi việc. Không có chuyện Ngài hấp hối trong vườn Giêt-sê-ma-ni. Nhưng tâm hồn Ngài có “xao xuyến" xúc động khi sự chết đến gần. Chúa Giêsu đang nhìn thẳng vào "giờ" vinh quang của Ngài, không phải là không biết sợ. Nhưng Ngài vẫn dấn bước theo đường Ngài đang đi, và "bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống.." xác nhận sự lựa chọn của Ngài. Chúng ta thừa hưởng việc vui lòng chọn "giờ" của Chúa Giêsu. Ngài sẽ đi vào và đi qua "giờ" hoàn toàn theo thánh ý Thiên Chúa và như người phục vụ cho chúng ta. Thế nên Ngài nói "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi".

Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không giảng dạy cho những người Hy-lạp tìm gặp Ngài. Họ tự tìm đến Ngài. Vậy việc gì đã lôi kéo họ đến với Ngài? Chúng ta cũng như những người đó được Chúa lôi kéo nên giờ này trở nên là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa. Một Đấng rất khoáng đạt, sẳn sàng ban tặng mọi sự cho chúng ta mà không giữ lại một tí gì cho mình. Ngài còn cho chúng ta thấy những phần thưởng ẩn sau những thất bại và ngay cả sự chết, khi chúng ta đến hồi sau hết và mất cả niềm tin. Ngài cho chúng ta hy vọng, ngay cả khi các cửa đều khép kín, khiến chúng ta muốn xuôi tay vì thất vọng và sẵn sàng theo vào cõi chết trong nấm mồ.

Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP
 
Hạt lúa mục nát
+TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
04:16 28/03/2009
HẠT LÚA MỤC NÁT

(Ga 12, 20-33)

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA

Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu". Ông Philipphê đi nói với ông Anrê. Ông Anrê cùng với ông Philipphê đến thưa với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu trả lời: "Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy. Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha". Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh Cha Ta sẽ còn tôn vinh nữa!"

Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: " Ðó là tiếng sấm!" Người khác lại bảo: "Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!" Chúa Giêsu đáp: "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi". Chúa Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.


II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên ! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến...Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.

Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm ! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn... Làm sao mình có thể cho búp non xoè lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non ? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên ! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ... Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều nay đúng đối với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ giữ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.

Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.

Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.

Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người, những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lai. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua,tasẽ có những“cái được vĩnh cửu.

Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để hoàn toàn làm theo ý Chúa. Từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha đã khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phao-lô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.

“Lạy Chúa Giê-su, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen” (Manna 85).

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả ?

2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây cỏ ?

3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng ?

4- Chúa Giê su đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào ?
 
Ðồng Hành với Chúa Giêsu trên Đường Thập Giá – Bài 4
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
13:17 28/03/2009
Nơi Thứ Ba: Chúa Giêsu Ngã Xuống Ðất Lần Thứ Nhất


Trừ khi các con trở nên giống như trẻ nhỏ, các con sẽ không vào được Nước Trời (Mt 18:3)


Chúa Giêsu ngã dưới cây thập giá của Người. Người tiếp tục ngã. Chúa Giêsu không phải là một anh hùng cái thế trải qua đau khổ với một quyết tâm mãnh liệt và một ý chí sắt đá. Không, Người là Ðấng đã sinh ra như con Thiên Chúa và con của Mẹ Maria, được các mục đồng và các đạo sĩ kính thờ, không bao giờ trở thành một lãnh tụ gan lỳ, kiêu hùng, muốn dẫn đưa nhân loại đến vinh thắng quyền lực tối tăm. Khi Người trưởng thành, Người tự hạ bằng cách cùng với các hối nhân lãnh nhận phép rửa ở sông Giođăng. Chính lúc đó Người nghe tiếng nói thấu suốt tai Người: “Này là Con Ta Yêu Dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”(Mt 3:17). Tiếng nói này dẫn đưa Người qua cuộc sống và che chở Người khỏi những đắng cay, ghen tương, phẫn uất, và hận thù. Người luôn luôn vẫn là một em bé và nói với những kẻ theo Người rằng: “Trừ khi các con trở nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không vào được Nước Trời” (Mt 18:3). Chúa Giêsu là một em bé vô tội gục ngã dưới gánh nặng thập giá của thống khổ, bất lực, yếu đuối, và rất dễ bị tổn thương của nhân loại. Nhưng nhờ đó chúng ta có thể chạm đến mầu nhiệm của Trái Tim Nhân Từ của Thiên Chúa đang ôm ấp tất cả con cái chung quanh chúng ta cũng như ở trong chúng ta.

Tôi biết là tôi là một em bé, một đứa bé mà, qua những thành quả và thắng lợi, vẫn tiếp tục kêu la để được an toàn và được yêu vô điều kiện. Tôi cũng biết rằng mất liên lạc với em bé của tôi là mất liên lạc với Chúa Giêsu và tất cả những ai thuộc về Người. Mỗi khi tôi chạm đến em bé của chính tôi, tôi chạm đến sự bất lực của tôi và nỗi lo sợ bị bơ vơ không ai cho tôi một nơi ẩn náu an toàn. Chúa Giêsu ngã dưới cây thập giá cho phép tôi lấy lại em bé của tôi, đặt tôi ở chỗ mà tôi không kiểm soát được và làm cho tôi khẩn thiết được nâng lên và được tái bảo đảm. Những em bé bị bỏ rơi trong thế gian đang ở trong tôi. Chúa Giêsu bảo tôi đừng sợ đối diện với chúng trong lòng tôi và cùng chịu đau khổ với chúng. Người muốn tôi khám phá ra rằng vượt trên mọi cảm giác bị khai trừ và bỏ rơi lại có tình yêu, tình yêu thật sự, tình yêu vĩnh cửu, tình yêu đến từ Thiên Chúa là Ðấng làm người và sẽ không bao giờ để cho con cái Người bị bơ vơ một mình.

Lm. Henri J.M. Nouwen
 
Ðồng Hành với Chúa Giêsu trên Đường Thập Giá – Bài 3
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
13:20 28/03/2009
Nơi Thứ Hai: Chúa Giêsu vác Thánh Giá


Tôi phải mang sự đau khổ đặc biệt dành cho tôi, nếu tôi muốn theo Chúa Giêsu (Mt 11:28).


Quan Philatô trao Chúa Giêsu cho lý hình đánh đòn. Quân lính lột áo Người ra rồi choàng một áo đỏ lên Người, và chúng bện vòng gai thành một triều thiên, đặt trên đầu Người, và trao vào tay phải Người một cây sậy. Ðể chế nhạo Người, chúng quỳ trước mặt Người và nói: “Tâu vua dân Do Thái”. Chúng khạc nhổ vào Người, lấy cây sậy đập lên đầu Người. Và sau khi chế nhạo Người xong, chúng cho Người mặc áo lại, và dẫn Người đi đóng đinh vào thập giá. (Mat 27:28-31).

Chúa Giêsu trải qua tất cả những điều đó. Thời gian hành động đã qua. Người không nói nữa, Người không kháng cự; Người không trách mắng hay khuyên răn. Người đã trở thành một nạn nhân. Người không còn làm gì cả, nhưng bị người ta giáng họa. Người đã bước vào cuộc Thương Khó của Người. Người biết rằng hầu hết đời sống con người là khổ đau. Người ta bị bỏ đói, bắt cóc, tra tấn, và thảm sát. Người ta bị bỏ tù, đuổi ra khỏi nhà, phân ly với gia đình, quẳng vào trại tập trung, và dùng làm nô lệ lao động. Họ không hiểu tại sao. Họ không hay biết gì cả về nguyên nhân của chúng. Không ai giải thích cho họ. Họ nghèo khổ. Khi Chúa Giêsu cảm thấy cây thập giá đặt lên vai Người, Người cảm thấy niềm đau của tất cả những thế hệ tương lai đang đè nặng trên Người.

Tôi cảm thấy rất bất lực. Tôi muốn làm một cái gì. Tôi phải làm một điều gì. Ít ra tôi phải lên tiếng chống lại bạo tàn và sự thiếu dinh dưỡng, sự đàn áp và bóc lột. Hơn nữa, tôi phải làm mọi cách để làm giảm sự đau khổ mà tôi chứng kiến.

Nhưng còn một công tác khó khăn hơn nữa là vác thập giá của chính tôi, thập giá của cô đơn và cô lập, thập giá của sự bị tẩy chay mà tôi kinh nghiệm, thập giá của sự buồn phiền và khó chịu trong lòng. Bao lâu tôi khắc khoải về sự đau đớn của tha nhân xa vời mà không thể gánh vác sự đau đớn đặc biệt dành cho tôi, tôi có thể trở thành một người hiếu động, hoặc thành người bảo vệ nhân loại, nhưng chưa phải là môn đồ của Chúa Giêsu. Sự liên kết của tôi với những người bị áp bức được thể hiện qua việc tôi sẵn sàng chịu đựng sự cô đơn của tôi. Nó là một gánh nặng mà đôi khi tôi cố tránh né bằng cách lo lắng cho tha nhân. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Hãy đến cùng Ta, tất cả những ai lao nhọc và gánh nặng, và Ta sẽ cho nghỉ ngơi” (Mat 11:28). Chúa Giêsu vác thập giá của Người cho tất cả những ai đang đau khổ. Chúng ta đồng cảnh ngộ. Mỗi người chúng ta phải vác thập giá mình và theo Người, và như thế chúng ta nhận ra rằng chúng ta thật sự là anh chị em, những người học cùng Người là Ðấng khiêm nhường và hiền lành trong lòng. Một nhân loại mới chỉ được nảy sinh nhờ phương thế này mà thôi.

Lm. Henri J.M. Nouwen
 
Trong hạt giống
LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
15:34 28/03/2009
Trong hạt giống

Hạt giống nào cũng nhỏ bé. Có những hạt giống nhỏ như một hạt cát. Nhưng trong nó ẩn chứa mầm sự sống mãnh liệt.

Một hạt giống có thể là một hình ảnh cho ta, hay cũng có thể là hình ảnh đời sống con người. Hạt giống có thể tâm sự hỏi ta:

„ Này Bạn, biết đâu có thể nơi Bạn ẩn chứa tiềm tàng nhiều khả năng mà chưa bung nở phát tỏa ra đấy thôi? Biết đâu có thể dưới lớp vỏ dầy cứng thân xác bạn một mầm sức sống qúy gía đang ẩn chứa trong đó? Biết đâu có thể Bạn lo âu sợ hãi khi nói đến phải hy sinh buông sự sống khỏi tay mình, vì Bạn sợ mất sự sống? Thật là điều khó cắt nghĩa để tin rằng qua sự chết đi sẽ tìm được sự sống thật?

Và tôi cũng biết qúa trình hy sinh từ bỏ rất đau đớn khó khăn cho mọi người. Nhưng điều mới, sự mới chỉ có thể phát sinh nẩy nở khi cái cũ, điều cũ tiêu tan chết đi. Sự chết đi xem ra là con đường duy nhất, để hạt giống như tôi chết mục nát để cây mới mọc lên mang lại hoa trái sung túc. Và Chúa Giêsu, Đấng đã hy sinh đời sống mình như hạt giống đã tâm sự: „nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.“ ( Ga 12,20-23 ).“

Ngày nay nói đến dấn thân hy sinh, nhất là nói đến sự chết, nào có ai muốn đề cập nói đến đâu. Vì ai cũng muốn sống, chẳng ai muốn chết cả. Sống để tận hưởng. Sống để tạo lập con đường công danh sự nghiệp. Sống để làm cho mình nổi tiếng, để đời. Sống bất chấp, miễn sao sống là được. Sự sống là điều cao trọng qúy gía hơn tất cả.

Nhưng Chúa Giêsu lại chỉ vạch ra một con đường khác về sự sống: hy sinh cho người khác là con đường duy nhất để có được sự sống thật. Đó là con đường yêu thương.

Chúa Giêsu là hạt giống cây lúa mì, mà Thiên Chúa gieo trồng trên thửa đất trong cuộc sống ở trần gian. Trong cách sống dấn thân hy sinh chết của Chúa Giêsu, trong cơn nguy biến đầy đen tối đó nẩy mầm sự sống mới. Đó là sống hy sinh cho người khác. Con đường của Chúa Giêsu không dừng lại nơi sự chết, nhưng xuyên thông qua sự chết để đạt đến sự sống mới ơn cứu chuộc cho con người khỏi hình phạt tội lỗi.

Hình ảnh sự h sinh dấn thân xưa nay tìm thấy nơi đời sống cha mẹ chúng ta. Các ngài yêu mến con cái mình, nên sống hy sinh, từ bỏ những gì riêng tư cho mình và cùng chia sẻ với con cái. Chính nhờ thế đời sống con cái mới được chăm sóc phát triển hứa hẹn một tương lai tốt đẹp.

Cha mẹ gieo trồng tình yêu của mình qua đời sống hy sinh dấn thân cho đời sống con cái nẩy nở phát triển vươn lên.

Hy sinh từ bỏ là những đức tính, phải là những nhân đức tốt đẹp cao qúy cùng thánh thiêng. Nhưng không chỉ khó làm, khó thực hiện mà còn nhiều khi bị cười chê coi thường. Những người sớng dấn thân hy sinh làm việc công ích bác ái giúp người khác, hay sống chân thành kỷ luật nghiêm minh thường bị nhìn dưới con mắt xa lạ coi thường. Nhưng chính nhờ sự dấn thân hy sinh đó của họ mà đời sống chung giữa con người với nhau từ trong gia đình ra ngoài xã hội vẫn luôn đậm mầu sắc nhân đạo tình người. Chính điều này đem lại cho đời sống niềm hy vọng vươn lên.

Đời sống con người chúng ta không tránh khỏi sự chết dưới nhiều hình thức. Nhưng trong sự chết có mầm sự sống mới, như Chúa Giêsu nói.

Ai hy sinh dấn thân đời sống mình cho người khác, cho hạnh phúc chúc lành của thế giới, người đó sẽ cảm nghiệm nhận ra rằng, đời sống họ như thế không uổng công, nhưng có đầy đủ ý nghĩa mang lại hoa trái sung túc cùng là chúc lành cho trần gian.
 
Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần (76)
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
15:40 28/03/2009

Mười tư tưởng đơn sơ về Nhân Bản và Đạo Đức mỗi tuần (76)



751. Hy sinh khác với tự tử

Hy sinh và tự tử đều nói đến sự từ bỏ, đều có liên quan đến cái chết, nhưng hy sinh khác với tự tử.

Hy sinh nói về cái chết bằng cách từ bỏ cái mà mình quý trọng nhất, là mạng sống. Tự tử là làm cho mình chết bằng cách hủy diệt mạng sống mà mình cho là buồn chán, không muốn sống nữa.

Vì thế, hy sinh thường có nghĩa cao đẹp. Và khi nói đến nhơn đức hy sinh, chúng ta biết rằng đây là nhơn đức làm cho chúng ta vui lòng chịu mọi sự đau khổ hồn xác vì lòng yêu mến Chúa.

752. Ba cách thế của nhơn đức Hy sinh

Một là, để tỏ lòng yêu mến Chúa, chúng ta vui lòng chịu những nỗi khổ mình phải chịu như khi bị la, bị phạt vì lỗi của mình; như khi bị ốm đau vì lỗi của mình thiếu khôn ngoan, thiếu tiết độ.

Hai là, để tỏ lòng yêu mến Chúa, chúng ta vui lòng chịu những nỗi khổ không đáng chịu như khi chúng ta vô tội mà bị người khác hiểu lầm, lên án; như khi người ta vì thù ghét mà bỏ vạ chúng ta, cáo gian chúng ta, phá hoại của cải, nhà cửa của chúng ta.

Ba là, để tỏ lòng yêu mến Chúa, chúng ta tự động đi tìm nhiều sự hy sinh để làm bó hoa thiêng liêng, dâng lên cho Chúa.

753. Năm phương thế dạy con cái sống tinh thần hy sinh

Một là, đừng làm cho con cái sống đời ủy mị: cần phải nghiêm khắc đúng lúc, đúng khi; đừng quan trọng hoá những cái khó, những cái đau của chúng;. ..

Hai là, tập con cái sống can trường: không kêu la khi thấy đau, tự động bớt ăn bớt uống khi không cần thiết, tự động tha thứ khi bị sĩ nhục đôi chút, chấp nhận lãnh một hình phạt khi có lỗi, thành thật thú lỗi mình đã phạm,. ..

Ba là, giúp con cái lợi dụng dịp để hy sinh: đem cất đồ lại chổ cũ dẫu không phải là đồ mình đã lấy ra,...

Bốn là, dạy con cái hy sinh một cách siêu nhiên, hy sinh vì Chúa: tập con cái dâng những sự đau khổ hồn xác của mình cho Chúa; đề nghị con cái làm những việc hy sinh để xin Chúa cho một người có tội được ơn trở lại, cho một người ngoại đạo được biết Chúa,. ..

Năm là, khi đêm về, tâm sự với con cái về những hy sinh con cái đã làm trong ngày (để hướng dẫn con cái và để tạ ơn Chúa với con cái).

754. Giúp kẻ khác vác thánh giá

Điều quan trọng không phải là những người khác giúp bạn vác thánh giá, mà chính bạn giúp họ vác thánh giá của họ (J.Breton).

755. Hãy sống tuổi trẻ của bạn một cách thanh cao, trong sạch

Đừng tin vào những ai nói với các bạn rằng tuổi trẻ cốt để vui chơi.

Tuổi trẻ không dành cho lạc thú, mà cho anh hùng.

Đừng cho rằng như thế, các bạn sẽ bị thu hẹp bớt. Trái lại, các bạn sẽ được triển nở cách kỳ diệu.

Đức trong sạch sẽ khiến bạn cường tráng, nhanh nhẹn, linh lợi, sâu sắc, trong sáng như nét nhạc, huy hoàng như tia nắng sớm.

Các bạn sẽ cảm thấy cuộc sống đầy hương vị và nghiêm túc, sẽ thấy thế giới đầy ý nghĩa và đẹp rực rỡ. (Claudel)

756. Muốn sống đẹp, phải hy sinh

Sống, không phải là chấp nhận tất cả, mà là chọn lựa, cắt xén, hy sinh.

Nhựa cây chỉ dâng lên cao khi đã chặt lìa bớt các cành, và cây chỉ sống nếu các dây leo ký sinh không làm tức nghẹt nó. (Ludovic Giraud)

757. Ai ca hát vác thánh giá thì được Chúa chúc lành.

Thiên Chúa chúc lành cho những ai ca hát vác thánh giá mình, linh hồn trong sáng, đôi mắt hướng lên trời, và con tim tràn trề hy vọng. (Đức Hồng Y Mercier)

758. Muốn thành công một việc lớn, trước tiên hãy làm tốt một việc nhỏ

Bạn hiểu rằng để đạt được một thành công, bạn có rất nhiều việc cần phải làm.

Đôi lúc bạn bối rối, không biết phải bắt đầu từ đâu.

Bạn hãy mạnh dạn thực hiện một việc cần làm trước, dù đó có thể là một việc rất nhỏ.

Bạn đừng ngại. Hãy bắt tay thực hiện và hoàn thành nó.

Điều bạn nhận được, sẽ là gì? Bạn sẽ có được kết quả nhỏ mà bạn vừa thực hiện xong ư? – Không! Không chỉ là vậy?

Điều bạn nhận được, còn lớn hơn rất nhiều: đó là một cảm hứng mới, một tinh thần mới để nhìn thấy được điều gì cần thực hiện tiếp theo. Và như vậy, bạn đã thắng được sức ì của mình rồi đấy.

Bạn sẽ tiếp tục tiến lên mà không cần ai động viên.

Không phải vô cớ mà trong tiếng Anh có một câu ngạn ngữ rất nổi tiếng: “Nothing succeeds like success” có nghĩa là “Thành công nầy thường dẫn đến những thành công khác”. (Johnson, Beebe, Mortimer và Snyder – Bí Quyết Của Thành Công – David Niven, Ph.D.)

759. Hãy sống thân thiện với người khác

Một người tỏ ra thân thiện với người khác khi anh ta biết làm cho người khác mỉm cười.

Nhưng còn hơn thế nữa, thân thiện là biết chia sẻ gánh nặng của người khác khi thấy người khác phải xách một hành lý nặng, hoặc cùng nhau chia sẻ những giai điệu đẹp của một bài hát mới.

Thân thiện cũng là biết cho đi, biết đem lại cho người khác những quà tặng giàu ý nghĩa, biết đưa ra những lời khuyên đúng lúc và hợp lý, biết dành sự quan tâm cho người khác.

Khi chúng ta biết chia sẻ, khi chúng ta biết quên một phần nhu cầu bản thân của mình đi để nghĩ đến người khác, điều đó có nghĩa là chúng ta cũng đồng thời biểu lộ tính độ lượng và thân thiện với người khác. (Những Quy Tắc Vàng Của Cuộc Sống - Lại Thế Luyện)

760. Đừng bao giờ đến trễ! Hãy để dư ra mười phút!

Khi bạn hỏi một người hay một gia đình bình thường nào đó, trong xã hội, điều gì gây căng thẳng nhất, hiếm có một ai đó không cho rằng là việc chạy vắt giò lên cổ vì “đã hơi trễ”.

Dù đi xem đá bóng, đi làm, ra sân bay, tham gia một buổi cắm trại gần nhà, đến trường, đi xem lễ ngoài trời ở vùng lân cận, một ngày tới trường bình thường, hay đi lễ nhà thờ, thì hình như đa số chúng ta cứ sàng qua sàng lại cho đến giờ chót, và thế nào cũng trễ nãi đôi ba phút.

Khuynh hướng nầy dẫn đến sự căng thẳng không cần thiết khi chúng ta luôn phập phồng nghĩ đến những người đang phải chờ đợi, chúng ta đi trễ có lâu không, với giờ giấc dây thun nầy.

Trăm lần như một, chúng ta sẽ nháo nhào dắt xe ra, thắt vội cà-vạt và sốt ruột vì đã đi trễ.

Sự trễ nãi làm chúng ta lo lắng, chia trí về những điều nhỏ nhặt!

Dễ dàng vô hiệu hoá căn bệnh trầm kha nầy bằng cách đơn giản để dư ra mười phút cho bản thân và gia đình trước giờ hẹn.

Bất kể là đi đến đâu, hãy tự nhắc mình là dẫu sao, bạn sẽ đến sớm mười phút, thay vì chờ đến sát nút, mới nháo nhào chạy ra khỏi cửa!...

Khi làm xong một công việc, hãy chuẩn bị một ít thời giờ trước khi bắt tay vào việc tiếp theo.

Nếu có thể, hãy cố lên lịch sớm hơn một chút, những công tác, việc làm, giờ giải trí và bất cứ điều gì khác.

Cuối cùng, đừng làm việc quá sức.

Hãy dành riêng cho mình một ít thời gian để nghỉ ngơi tuyệt đối.

Nếu thi hành phương pháp nầy, bạn sẽ ngạc nhiên trước sự biến đổi thuận tiện của cuộc sống. Sự căng thẳng, tất bật, lo âu thường trực, sẽ được thay thế bằng khoảng lặng yên bình. (100 Phương Pháp Bồi Dưỡng Tinh Thần – Richard Carlson, Ph.D.)
 
Giờ vinh hiển của Chúa
LM. Fx Nguyễn Hùng Oánh
16:38 28/03/2009
GIỜ VINH HIỂN CỦA CHÚA: CHỊU CHẾT ??

Đền thờ Giêrusalem có sân rất rộng dành cho người ngoại giáo. Điều nầy cho biết, mặc dầu dân Israen xem dân ngoại “là chó”, nhưng Cựu Ước đã dành cho dân ngoại một chỗ đứng trong việc tôn thờ Thiên Chúa. Rõ ràng bài Tin Mừng hôm nay ( Gioan 12, 20-33) nói có những người ngoại giáo tới Giêrusalem dự lễ.

Vâng, có mấy người Hy lạp ngoại giáo lên Giêrusalem dự lễ Vượt qua. Họ đã chứng kiến những việc Chúa Kitô đã làm, và bây giờ họ muốn nhờ thánh Philiphê chuyển yêu cầu của họ muốn tiếp xúc với Chúa. Nhân dịp nầy, Chúa tuyên bố: Giờ đã đến, Giờ Con Người được vinh hiển đã đến.

Giờ mà Chúa Kitô nói ở đây là giờ Ngài chịu treo lên Thập giá và sống lại vinh hiển. Bị treo lên Thập giá, Chúa tạo được một sức mạnh vô cùng, kéo mọi người lên với Ngài. Trước hết, Chúa kéo mọi người tin vào Ngài nghĩa là ban ơn cứu độ cho họ, biến họ thành chi thể của Ngài, thành con cái Thiên Chúa, tiếp đến, Chúa kéo cả vũ trụ do Chúa Cha đã trao phó cho. Kết quả của Giờ vinh hiển, giờ chịu chết và sống lại vinh hiển, ma quỷ, tội lỗi bị Thánh giá đánh bại, loài người được kéo lên, vũ trụ được kéo lên, được giải thoát khỏi satan, tội lỗi.

Đó là giờ huy hoàng. Giờ đó có chết chóc và vinh quang. Đứng trước đòi hỏi phải hy sinh, phải chịu chết để lên án tội lỗi, lên án satan, để đạt tới chiến thắng tội lỗi bằng phục sinh vinh hiển, Chúa Kitô vẫn cảm thấy buồn phiền, bùi ngùi. Ngài bị thử thách nghĩa là phải lựa chọn: vâng Thánh Ý Chúa Cha để chịu chết hay không. Ngài đã biết rõ kết quả thật tốt đẹp của sự hy sinh chịu chết: Hạt lúa phải mục nát đi mới trổ sinh hoa trái. Ai bám lấy mạng sống mình thì sẽ mất, ai không bám lấy mạng sống mình tức là biết hy sinh sẽ được sống đời đời.

Biết điều tốt phải thực hiện thì mới nên tốt được. Chúng ta biết điều nầy tốt, điều kia tốt, nhưng thông thường chúng ta không làm. Điều tốt nguy hiểm tới tính mạng, ta lại càng khó thực hiện. Đứng trước Giờ phải chết, mà Chúa Kitô đã nói nhiều về Giờ nầy, nhưng lúc chạm tới thực sự, Chúa vẫn cảm thấy bồi hồi, lo lắng. Ngài cầu xin Chúa Cha để biết chọn lựa cho đúng: một là xin Chúa Cha cứu Ngài khỏi Giờ nầy, hai là xin cho Danh Chúa Cha vinh hiển. Chọn lựa nầy được Chúa Cha chấp nhận công khai bằng tiếng phán từ trời cho các môn đệ hiểu: Ta đã làm vinh hiển Danh Ta và Ta sẽ còn làm vinh hiển Danh Ta nữa.

Như vậy, Chúa Kitô chấp nhận hoàn toàn Giờ của Ngài là chịu chết và sống lại vinh hiển. Giờ đó sẽ biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa, tình thương của Thiên Chúa, ban phát ơn cứu độ. Chúng ta đang hưởng các kết quả của Giờ Chúa Kitô, nhưng phải làm sao để kết quả đó trở thành kết quả của đời ta. Như hạt lúa, ta phải để cho mục nát đi, phải tiêu diệt khuynh hướng xấu xa, tội lỗi xấu xa, để được sống lại với Chúa Kitô, nhận ơn sống lại của Chúa Kitô.

Đời sống của chúng ta là làm vinh danh Thiên Chúa. Cách nào làm vinh danh Thiên Chúa ?? Xây nhà thờ thật lớn ? Tổ chức những đại lễ thật lớn ? Năm 1950, tôi được ông bố cho đi xa vì tôi đang học lớp năm, lên xứ Hạt Thuần Nghĩa huyện Quỳnh lưu, Nghệ an dự lễ rước Mình Thánh Chúa xung quanh làng, tới mấy rạp lớn làm nơi khu đất rộng để đặt Minh Thánh Chúa lên cao cho mọi ngươi quỳ gối tôn thờ, gọi là lễ Santi ( festum Sanctissimi Corporis Christi ). Rồi lễ hội Chầu lượt của từng Giáo xứ trong địa phận giống như Tết Nguyên đán thứ hai vì bà con gần xa tới chầu Mình Thánh Chúa trong ngày Chúa nhật và thăm bà con một thể. Rồi chúng ta đã chứng kiến trên đất nước ta có thời không có lễ hội nào của các tôn giáo khác, nhưng lễ hội Chầu lượt của ta vẫn tổ chức đều đều.

Năm 1991 và 1993 tôi về huyện Quỳnh lưu tỉnh Nghệ an thăm quê hương. Tới cái đình trung mà tôi học lớp năm với các bạn người lương không còn nữa, chỉ còn một vạt đất nhỏ vì người ta đã phá đi, xây dựng nhà cửa. Ngày nay, tính ra có 12440 đền và chùa và có 9996 lễ hội từ cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện và xã. Bên Công giao chắc không cần bắt chước phải thêm lễ hội. Như thánh Irênê nói “ vinh danh Thiên Chúa là làm cho con người được sống ( Gloire de Dieu c’est l’ homme vivant ). Thât vậy, Thiên Chúa tòan năng và vô cùng, mọi thứ lễ họi lớn hoặc nhỏ chẳng thêm gì cho Thiên Chúa, vậy, làm vinh danh Chúa chính là cứu độ con người.

Chúa Kytô đã dùng cái chết để diệt cái chết cho con người, đã sống lại để ban sự sống Thiên Chúa cho con người và đã lên trời đề đưa con người về trời. Đến lượt từng người chúng ta, làm vinh danh Thiên Chúa là cứu sống con người. Ca dao Việt nam nói: ” Dẫu xây chín bậc phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho một người. “.
 
Chúa Nhật V Mùa Chay: Viên đá đầu tiên dính đầy máu đỏ
LM. Giuse Trương Đình Hiền
19:08 28/03/2009
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY B (09)

Viên đá đầu tiên dính đầy máu đỏ

Phụng vụ Chúa Nhật Thứ V Mùa Chay gần như đưa chúng ta đến sát Mầu nhiệm Tử Nạn-Phục sinh sắp được cử hành long trọng trong Tuần Thánh sắp tới. Theo truyền thống xa xưa, phụng vụ đã bắt đầu gọi tên Chúa Nhật và Tuần lễ nầy là “Chịu Nạn” (Dominica Passionis); vì thế, các Bài đọc và ca kinh được chọn công bố hôm nay có thể nói được chính là “khúc nhạc dạo đầu” trong bản “trường ca Tử Nạn” mà Phụng vụ Tuần Thánh sắp một lần “tưởng-niệm-tái-diễn”.

Giờ đây, chúng ta hãy nhìn….

Giảng Lời chúa:

Vào năm 1896, khi một thừa sai vừa bước chân lên eo biển Cayenne, thuộc một đảo quốc ở Đại Tây Dương, thì bị một người dân bản xứ nghịch đạo lấy đá ném trúng ngay đầu của ngài. Không giận dữ, không trách móc, vị linh mục thừa sai đã cúi xuống nhặt viên đá dính đầy máu đỏ lên và nói: “Xin cám ơn ông, đây là viên đá đầu tiên của ngôi thánh đường tôi muốn xây lên ở đây trong một thời gian nữa”.

Thời gian trôi qua, vị linh mục vẫn bền chí hy sinh, tiếp xúc cầu nguyện, gặp gỡ, rao giảng…cho đến một hôm, viên đá dính đầy máu đỏ xưa kia trở thành viên đá đầu tiên của ngôi nhà thờ xây trên xứ ấy để dâng kính Đức Mẹ[*]…

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cũng muốn giới thiệu cho chúng ta không phải chỉ là một “viên đá dính đầy máu đỏ” đã trở nên viên đá đầu tiên xây thánh đường; mà chính là một “Con Người bị treo lên để làm nên một Đền thờ mới cho Thiên Chúa”, một “hạt lúa mì mục nát để trỗ sinh hoa trái cứu độ”, một “Giao ước mới bằng máu đổ ra” để giao ước giữa Thiên Chúa và con người được ký kết trên mảnh giấy tâm hồn của muôn muôn thế hệ chúng sinh.

Chúng ta cùng chia sẻ với nhau đôi điều gợi ý trên của sứ điệp Lời Chúa hôm nay.

1. Thiên Chúa Đấng trung thành trong “Giao Ước yêu thương”:

Toàn bộ lịch sử thánh, hay cụ thể hơn, toàn bộ cuốn sách Kinh Thánh, nếu nhìn trong “lăng kính tình yêu”, có thể được định nghĩa: đó chính là “bức thư tình của Thiên Chúa”. Một bức thư tình mà nội dung chủ yếu đó chính là những hứa hẹn và ước giao, những thề nguyền và tâm sự, những bức xúc khổ tâm khi bị phản bội chối từ hay những lúc nguôi ngoai khi mở lòng khoan dung tha thứ…Và điều mà Thiên Chúa muốn bộc bạch như một mặc khải tối hậu, như một luận đề chung kết đó chính là: “Thiên Chúa mãi mãi trung thành với Giao ước yêu thương mà Ngài đã ký với “người tình nhân loại”.

Thật vậy, Bài đọc 1 hôm nay cho thấy: trên cảnh hoang tàn của Giê-ru-sa-lem và trong kiếp lưu đày biền biệt của một đời nô lệ tối tăm, lời sứ ngôn Giê-rê-mi-a vang lên như tiếng kèn hy vọng, niềm hy vọng chứa chan vào lòng trung tín của Thiên Chúa vượt trên những bất trung phản bội của dân Người: “Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới…Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa”. Chính tình yêu cứu độ của Thiên Chúa mãi mãi là sức mạnh hồi sinh, là quyền uy giải thoát. Dân Chúa sở dĩ tồn tại và phát triển để đảm nhận vai trò và sứ mệnh của chính mình chính là nhờ không ngừng được nuôi dưỡng và bao bọc bởi chính nguồn năng lực siêu nhiên kỳ diệu nầy: Tình yêu thương của Thiên Chúa: “Cho dù có người mẹ không thương con, thì Ta, Ta không bao giờ quên ngươi”.

Hôm nay và nơi đây, chân lý nầy được lăp lại để nói với chúng ta rằng: chúng ta không được quyền thất vọng cho dù phải đối diện với bao thảm cảnh cuộc đời, với đắng cay và nước mắt, với ốm đau tật nguyền, với thất bại rủi ro và với cả cái chết. Bởi vì Thiên Chúa đang có mặt trên mọi nẽo đường và biến cố cuộc đời chúng ta để thổi vào Thần Khí tác sinh, để gieo vào hạt mầm của sự sống và hồng ân cứu độ. Như lời của Gilbert K. Chesterton: “Nếu những hạt giống trong lòng đất đen mà còn có thể biến thành những cánh hoa hồng xinh đẹp như thế, thì trái tim con người còn thể biến thành thế nào nữa trong cuộc hành trình hướng đến các vì sao”.

Không phải chỉ “chỉ hướng tới các vì sao” mà là cuộc “hành hương đi về vĩnh cửu” (Pèlerin de L’ absolu), cuộc hành hương đi tìm hạnh phúc bất diệt. Chính trong niềm tin đó cuộc sống của người Kitô hữu phải là một lời chứng sống động về niềm hy vọng, về niềm vui về sự thanh thoát và tự do trước các quyến rủ của đam mê xác thịt và sự giàu có thế gian. Tin vào tình yêu và sự trung thành của Thiên Chúa cũng có nghĩa biết làm cho mối giao ước đó mỗi ngày thêm bền chặt và thắm nồng bằng thái độ trung thành lắng nghe và thực thi lời Chúa.

2. Ơn cứu độ và qui luật ‘Hạt lúa mì mục nát”:

Dĩ nhiên, để thực hiện đến cùng “giao ước đã ký với loài người”, Thiên Chúa đành chấp nhận thua lỗ khi phải “trao ban Người Con Một”. Và oái ăm hơn nữa, Người Con Một đó lại trả giá cho “giao ước của Cha” bằng chính máu của mình. Bởi vì, chỉ có con đường “giao ước bằng máu” đó, “lề luật của Thiên Chúa mới được ghi khắc vào trái tim và lòng dạ của con người” (BĐ 1), và cũng chỉ với bằng phương thế đó Con Thiên Chúa mới có thể kéo tất cả nhân loại cùng đi lên: “Phần tôi, khi được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (TM). Xét cho cùng, đó lại là qui luật muôn đời của chương trình cứu độ: muốn vào “Đất hứa phải ngang qua sa mạc”, muốn tìm được sự sống phải đánh mất, muốn hoan ca phục sinh phải qua mùa Chay tử nạn, muốn có một mùa lúa tốt xinh phải trở nên “hạt lúa mì mục nát”…Và phải chăng, đó chính là “nhân sinh quan của Tin Mừng”, là con đường “biện chứng của niềm tin Kitô giáo”: Làm người đúng nghĩa, hiện hữu đích thực đó là “phải chết đi mới sống lại”, phải ngang qua đắng cay thập giá mới tiến vào vinh quang phục sinh.

Hai ngàn năm qua bài học nầy xem ra vẫn còn mới mãi với Giáo Hội và với mỗi người chúng ta. Vẫn còn mới và cần thiết cho một thế giới đã quá “già nua để thèm hưởng thụ mà không muốn chiến đấu”, đã quá mệt mõi để thà chọn dễ dãi mà yên thân hơn dấn thân nhọc mệt để chiến thắng anh hùng. Vẫn còn mới và cần thiết cho một Giáo Hội đã quá biếng lười và ích kỷ để thà ở lại trong vỏ bọc tự mãn kiêu căng, trong pháo đài hủ hóa, hơn là can đảm chấp nhận hy sinh, thua thiệt để làm chứng cho sự thật và công lý. Vẫn còn mới và cần thiết cho mỗi người chúng ta khi chỉ muốn dừng lại, thối lui để được mơn trớn vỗ về với cái tôi ươn hèn, mệt mõi, nhỏ nhen và hưởng thụ, thay vì phải tiến lên, đổi đời, lột xác trong chiến đấu cực nhọc để hiện thực hóa những lời dạy của Tin Mừng.

Ngay từ những tháng năm đầu khai sinh Hội Thánh, nếu roi vọt, đòn bọng, tù đầy, nhục hình và cái chết thương đau đã thành công trong việc bịt miệng các Tông Đồ, ngăn cản các bước chân loan truyền Tin Mừng, thì làm sao có được Hội Thánh hôm nay với cây Thánh Giá được cắm trên mọi nẻo đường thế giới ! Nếu những chàng thanh niên như Anrê Phú Yên, những bà mẹ như Anê lê Thị Thành, những thiếu nữ như Cecilia, Anê, Têrêxa, những linh mục như Gioan Hoan, Anrê Dũng lạc, Maximilien Kolbe…đều khiếp nhược đầu hàng trước đắng cay thập giá tử đạo, trước ngục tù máu đổ đầu rơi… thì làm gì thấy được những ngôi thánh đường uy nghi đỗ bóng và vang dội những tiếng chuông chiều trên khắp phố phường của thế giới hôm nay !

Từ “hạt lúa mì đầu tiên có tên Giêsu” đã được “gieo trên Đồi Sọ vào chiều Thứ Sáu Vượt Qua”, và được tiếp nối bởi muôn ức triệu chứng nhân ngã xuống trên khắp cánh đồng thế giới, quả thật, mùa xuân ơn cứu độ cứ mãi vươn lên, trăm hoa đua nở, trái chín vàng đồng. Phải chăng đó chính là “qui luật của Thiên Chúa”, một qui luật đã hóa thân nơi chính cuộc sống của “Con Người Giêsu” mà trích đoạn thư Do Thái nơi BĐ2 hôm nay đã trình bày: “Dẫu là Con Thiên Chúa, đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người”; qui luật của Hội Thánh, của từng thế hệ kitô hữu; và hôm nay, qui luật ấy đang mời gọi hiện thực hóa nơi chính mỗi người chúng ta trong giữa độ đường Mùa Chay thánh nầy.

Nếu không làm được những hy sinh anh hùng như cha thánh Maximilien Kolbe, như Á Thánh Anrê Phú Yên…, thì ít nhất chúng ta cũng tìm được những “viên đá dính đầy máu đỏ” là những hy sinh thầm lặng của cuộc sống đời thường mỗi ngày để góp phần xây dựng Ngôi Nhà Giáo Hội, góp phần vào công cuộc loan báo Tin Mừng để đem ơn cứu độ đến cho bao anh chị em vẫn còn ngồi trong bóng tối sự chết. Hãy trở thành “hạt lúa mục nát” ngay từ hôm nay, để niềm vui Phục sinh sẽ tưng bừng rạng rỡ trong trái tim ta và trái tim muôn người.

--------------------------------------------------------------------------------

[*] ĐHY F.X Nguyễn Văn Thuận, Những người lữ hành trên đường hy vọng. trang 58
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:39 28/03/2009
VÔ TÌNH

N2T


Các thầy trò của họ đi ăn cơm bên ngoài, sư phụ nói: “Các con muốn biết cuộc sống khai ngộ giống cái gì nào ? Nhìn mấy con chim kia đang bay qua mặt hồ.”

Mỗi người đều giương mắt mà nhìn, sư phụ bắt đầu nói: “Hình ảnh chúng nó phản chiếu trên mặt nước, nhưng là vô tình đến thế, mà nước trong hồ cũng không quyến luyến sự gặp gỡ này.”

(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)

Suy tư:

Cuộc sống cuộc người đã được khai ngộ thì khác với người chưa khai ngộ: người đã khai ngộ thì nhìn như không nhìn, thích như không thích, có tình mà như vô tình. Họ nhìn cô gái đẹp và khen ngợi nhưng không có lòng tà dâm, họ thích thú với những với những tiện ích của khoa học nhưng không sống hưởng thụ, họ sống rất có tình nghĩa nhưng không quyến luyến hệ lụy tình cảm.v.v... mà người chưa khai ngộ thì luôn để tâm đến mọi thứ và muốn chiếm đoạt hết mọi vật, bởi vì họ chưa dứt khoác với tà tâm và dục vọng.

Người Ki-tô hữu sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, bởi vì mục đích của họ không phải là hạnh phúc ở đời này nhưng là hạnh phúc thiên đàng mai sau với Thiên Chúa, đó mới là những môn đệ chân chính của Chúa Giê-su, đó mới là người có cuộc sống khai ngộ.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:41 28/03/2009
N2T


123. Tuân giữ mười điều răn Thiên Chúa thì có thể được Thiên Chúa ban cho sự bình an.

(Thánh Francis of Assisi)
 
Mỗi ngày một câu Cách Ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
23:43 28/03/2009
N2T


68. Một quyển sách hay là máu tươi của tâm linh đại sư, có thể đời nọ đến đời kia trân trọng giữ gìn.

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Phỏng vấn Đức Cha Murphy: hủy bỏ tiếng nói lương tâm xâm phạm đến nhân quyền.
Ngọc Loan
05:23 28/03/2009
Washington: Đức Giám Mục William F. Murphy tại Trung Tâm Rockville, N.Y, chủ tịch Ủy Ban Phát Triển Công Lý và Nhân Bản Quốc Nội, đã dành cuộc phỏng vấn cho ký giả Nancy Frazier O'Brien của Thông Tấn Xã Công Giáo Hoa Kỳ (CNS) vào ngày thứ Ba 24/3/2009 về những biến chuyển của chính quyền Tổng Thống Obama sẽ hủy bỏ quy định của Bộ Phục Vụ Y Tế và Nhân Bản theo đó không còn bảo vệ tiếng nói lương tâm của nhân viên và các cơ chế thuộc ngành, như thế sẽ xâm phạm đến nhân quyền. Sau đây là toàn văn cuộc phỏng vấn:

CNS: Thưa Đức Cha, tại sao người Công Giáo bình thường nên quan tâm đến quy luật được coi là có chút mờ ám của Bộ Phục Vụ Y Tế và Nhân Bản?

Giám Mục Murphy: Chị nói đúng. Những quy luật từ Bộ Phục Vụ Y Tế và Nhân Bản (gọi tắt là HHS – Health and Human Services) là những quy luật từ chính quyền Tổng Thống Bush trong nhiệm kỳ vừa qua do ông điều hành. Và đó là những đạo luật. Bây giờ đến thời chính quyền Obama thì nói rằng tất cả những gì chúng ta đang làm.. và để chú trọng hơn cho tất cả mọi người... là hủy bỏ đi những quy định. Tuy nhiên các chuyên gia luật pháp nói với chúng tôi rằng những quy định hoàn toàn đi đôi với các đạo luật. Cho nên cắt bỏ những quy luật, thực sự là một vấn đề, bởi vì các đạo luật nhằm bảo vệ nhân quyền-- quyền của lương tâm và quyền tự do tôn giáo. Cho nên tại sao mọi người nên quan tâm đến vấn đề này? Bởi vì nếu các quyền của một người có thể bị tổn thương, thì những quyền khác của con người cũng có thể bị tổn thương.

CNS: Nhưng quốc hội có thể bảo đảm sự bảo vệ lượng tâm qua những đạo luật nếu qui luật này bị đạp đổ phải không, thưa Đức Cha?

Giám Mục Murphy: Ồ, đó là một trong những “cái nếu thì” nó chẳng mang lại một ý nghĩa gì. Nếu bây giờ chúng ta đang bảo đảm đến (luật lương tâm) thì tại sao lại lấy nó đi và lại yêu cầu quốc hội mang trở lại? Thứ hai là nó có một sự ngụy biện trong đó. Chính quyền Hoa Kỳ hay Quốc Hội hay chính quyền Tổng Thống không mang lại cho chúng ta những quyền đúng đắn. Chúng ta có những quyền.. bởi vì chúng ta là con người và không một quốc gia nào có quyền làm tổn thương hay hay gây trở ngại đến nhân quyền.

Còn có một thực tại vấn đề trong loại tư tưởng này— một cách này hay cách khác chính quyền cho chúng ta điều gì đó và rồi chính quyền lại lấy nói đi. Nếu chính quyền không mang lại cho chúng ta những quyền và chính quyền lại hành động một cách sai lầm nếu mưu mô nhằm điều chỉnh lại các quyền, theo nghĩa là làm tổn thương đến quyền của bất cứ ai. Tất cả chính quyền có thể làm là nâng đỡ và bảo đảm đến các quyền. Nếu không thì đó là một chính quyền sai lầm.

Tôi có thể kể lại cho chị một câu chuyện tuyệt vời không? Khi tôi gặp Fidel Castro (chủ tịch nước) ở Cuba cách đây nhiều năm, tôi đã đưa ra một vấn đề với ông ta về nhân quyền và ông ta nói “tôi bảo đảm đến tất cả quyền của con người bao lâu mà không một ai xử dụng nhân quyền để chống lại nhà nước”. Một người thực tâm sẽ nhận ra là ông ta không có cho họ quyền con người. Nhà nước khống chế. Đó là lý do tại sao Quốc Hội không phải là nguồn mạch của nhân quyền.

CNS: Đức Cha có nghĩ một đe dọa kế tiếp sẽ từ đâu mà ra nếu quy luật này bị hủy bỏ không thưa Đức Cha?

Giám Mục Murphy: Tôi nghĩ rằng có thể bất cứ cái gì cũng sẽ mở ngõ. Bởi vì một khi mà chị làm tổn thương đến một lãnh vực, thì rồi chị cũng sẽ mở ngõ làm tổn thương trong mọi lãnh vực. Và tôi sẽ đưa ra một ví dụ rằng những gì sẽ xảy ra tại các bệnh viện Công Giáo? Nếu chính quyền nói rằng phá thai là một quyền theo hiến pháp, thì rồi một phụ nữ được nhận trợ cấp từ chính quyền tới Bệnh Viện Công Giáo (để xin phá thai)— Như tất cả các bệnh viện (Công Giáo) đều không làm và nếu bệnh viện nói không thi hành (ca phá thai), rồi người phụ nữ lại nói rằng “Nhưng đó là cái quyền của tôi” thế rồi chị sẽ phải làm gì? Cho nên rõ ràng đây là một giây phút nghiêm trọng nhất trong lịch sử hiến pháp và trong sự bảo vệ các quyền và quyền tự do của người công dân.

CNS: Đức Cha phản ứng ra sao đối với những ai lý luận rằng khi cho phép các nhân viên y tế quyết định có nên để thi hành ca phá thai hay các tiến trình khác mà nó xâm phạm đến nố lương tâm của họ thì sẽ đe dọa đến sức khoẻ của người phụ nữ phải không?

Giám Mục Murphy: Tôi đã gặp búc xúc đến câu hỏi đó và thực sự gặp trở ngại. Thế thì phá thai có là một đảm bảo cho sức khoẻ của bất kỳ người nào không? Thật sự (phá thai) đó là một sự tấn công trực tiếp không chỉ về mặt sức khoẻ nhưng ngay cả trên cuộc sống của một trẻ chưa được sinh ra. Thật tôi khó hiểu. Sự thật là trong xã hội chúng ta, tôi không biết là có một phần nào trên lãnh thổ Hoa Kỳ nếu một người muốn phá thai mà lại không kiếm được chỗ. Ngay cả nơi cho phép mà tôi không đồng ý là phá thai thì “OK” trong trường hợp bị hiếp dâm và loạn luân. Sự thật khách quan là tỉ lệ phá thai đó rất hiếm. Họ không thấy ngay cả một tia sáng trên màn hình, và họ vẫn còn đang đối đầu với sự thật, tức là phá thai trực tiếp cất đi mạng sống vô tội.

CNS: Đức Cha có nghĩ rằng nước cờ hủy bỏ qui luật này là một mưu toan thi hành một phần đến Sắc Luật Tự Do Lựa Chọn (Fredoom of Choice Act gọi tắt là FOCA) mà không cần phải đưa ra FOCA (Sắc Luật Tự Do Lựa Chọn), có đúng vậy không?

Giám Mục Murphy: Tôi sẽ nói cho chị biết mối lo sợ của tôi là gì. Họ không đưa ra FOCA (Sắc Luật Tự Do Lựa Chọn) và họ tin vào một phần của nó, và họ không biết đến điều này, sự chuẩn đóan của tôi là họ đã nhận rất nhiều bản yết thị trên toàn quốc với những nỗ lực nói rằng “Không được có FOCA”, cho nên họ đã quyết định là sẽ không có FOCA như một chiến lược ít nhất là trong thời điểm này để không có dự luật FOCA.

Tôi còn tin là họ đang cố gắng làm—và tôi hy vọng là tôi nghĩ sai, nhưng tôi còn nghi ngờ điều này mà tôi gọi là cái chết cả ngàn phần. Thành phố Mễ Tây Cơ (bị chính sách cấm xử dụng tiền thuế của dân để tài trợ cho các cơ quan cổ võ hay thi hành phá thai hay cưỡng ép thiến hoạn tại những quốc gia khác)đang chống án. Những qui luật của HHS (Phục Vụ Y Tế và Nhân Bản)đã trở lại. Và câu trả lời là, đúng, cả hai điều đều thuộc vào chính quyền Bush. Không, không phải như vậy. Họ (chính quyền Bush) phải làm vì quyền lương tâm và tự do tôn giáo.

Còn điều này Nghiên cứu Tế Bào Gốc từ Phôi Thai Người được cho là nghe có vẻ khoa học. Nó không có vẻ khoa học chút nào. Chưa có một người nào đã được chữa lành hay ngay cả được điều trị một cách thành công dựa theo kết quả gặt hái được của Tế Bào Gốc từ Phôi Thai Người—Chưa hề có một người nào. Nếu xét về Tế Bào Gốc từ Người Lớn, đã có. Tại sao họ lại làm điều này? Tôi có kết luận là vì tiền. Cho nên tôi thật sự tin rằng họ sẽ tiến bước. Chính quyền Tổng Thống, cấp chính quyền dự định làm điều này và chúng ta phải hết sức cẩn trọng.

CNS: Hậu quả ra sao nếu Đức Cha nghĩa rằng nỗ lực của chính quyền Tổng Thống đi ngược lại những bảo vệ lương tâm sẽ có trên những cuộc tranh luận sắp tới về sự cải cách y tế, xin Đức Cha cho ý kiến?

Giám Mục Murphy: Dĩ nhiên, tôi thật may mắn được có một cuộc bàn thảo tối đẹp với Melody Barnes là vị cố vấn về chính sách quốc nội tại Nhà Trắng cho Tổng Thống Obama. Chúng tôi đã nói về sự cải cách y tế và tôi biểu thị cho bà ta về việc ủng hộ sự cải cách y tế đặt biệt là bao hàm đến người nghèo. Tôi cho bà ta thấy rằng tại Hoa Kỳ mọi người phải có sự chăm sóc sức khoẻ khi họ cần tới. Cho nên có những lãnh vực thật sự mà chúng tôi không đồng ý nhưng chúng tôi mong rằng được ủng hộ vì sự cải cách y tế cho được đúng đắn.

Nhưng nếu cải cách y tế có nghĩa là những điều khoản mà mọi người lại bị khóa mình lại theo những chỉ dẫn y như cũ hay sự chăm sóc sức khoẻ bị hạn chế không có lý do hay những việc đi ngược lại quyền con người, lúc đó thì trong bất kỳ dự luật y tế nào, chúng tôi sẽ nói “không được”. Và chúng tôi sẽ làm điều đó.

CNS: Người dân bình thường có thể đưa ra những cảnh tỉnh gì về những đe dọa này không thưa Đức Cha?

Giám Mục Murphy: Tôi sẽ trả lời câu hỏi của chị qua một sự quan sát nhận thấy được. Các Giám Mục chúng tôi đang cố gắng hết sức để cho mọi người biết sự thật là gì. Tôi cho một ví dụ. Tôi đã viết một bài bình luận cách đây hai tuần trong việc nghiên cứu Tế Bào Gốc từ Phôi Thai Người. Nó được chuyển đến tất cả các Cha Chánh Xứ, và các Cha Chánh Xứ có thể xử dụng nó để giảng. Dân Chúa chúng tôi cần sự hướng dẫn. Và đó là một trong những điều tốt mà tôi chúc lành cho chị ở đây mà công việc của Thông Tấn Xã đang làm. Khi mang đến cho con người một tường trình đầy đủ trên những vấn đề này, thì Chị là một công cụ giáo dục tuyệt vời. Và đó là một hồng ân cao cả mà chúng ta phải xử dụng nó càng nhiều bao nhiêu khi có thể.

Tôi thiết nghĩ con người cần được thông tin và tôi tin là họ cần nhận thức ra được là họ phải gióng lên những tiếng nói để người khác được nghe thấy. Các giám mục tự các ngài không thể làm điều đó. Bởi vì chị luôn luôn có thể tìm thấy một số người mà họ cho là Công Giáo nhưng lại bất đồng quan điểm với các giám mục. Các giáo dân nam nữ trong giáo hội chúng ta, trong giáo xứ chúng ta và trong giáo phận trên khắp đất nước sẽ phải là những tiếng nói của Giáo Hội Công Giáo ngày nay. Tiếng nói của họ mạnh mẽ hơn tiếng nói của chúng tôi trong nhiều lãnh vực bởi vì họ là các nhà lập pháp, bởi vì họ có thể bầu và bởi vì các chính trị gia biết rằng họ cần số phiếu để tái tranh cử.

CNS: Thưa Đức Cha những điểm nào quan trọng nhất để con người có thể góp ý về quy luật cho HHS?

Giám Mục Murphy: Liệu những quy luật có tước đi sự chăm lo y tế của số người nào không? Liệu hủy bỏ những qui luật có gây nguy hại đến mạng sống con người không? Liệu hủy bỏ những quy luật có làm cho lương tâm của những nhân viên hoạt động trong ngành y tế bị xúc phạm không? Liệu hủy bỏ những qui luật có can dự vào những cơ chế y tế của Công Giáo Giáo hay của những tôn giáo khác nhằm phục vụ con người khi họ cần đến không?

Và đây là một trắc nghiệm đon giản và nó chỉ là một câu hỏi đơn giản: Nó có thật sự phục vụ y tế và nhân bản trong xã hội chúng ta hay chỉ là một đảm bảo cho một chưong trình nghị sự của một nhóm nào đó để rồiđược chính quyền đứng hậu thuẫn để chống lại ước vọng suy nghĩ đúng đắn của công dân không?

CNS: Chân thành cám ơn Đức Cha.
 
Một Trăm Mười Một Câu Hỏi Về Hồi Giáo
Vũ Văn An
05:55 28/03/2009
Một trăm mười một câu hỏi về Hồi Giáo

Tình trạng mù mờ về Hồi Giáo nơi các Kitô hữu lẫn người Hồi Giáo rất có thể đã lên tới tột đỉnh sau ngày 11 tháng Chín năm 2001, tuy nhiên rất nhiều câu hỏi hiện vẫn chưa được trả lời. Đó là lý do khiến linh mục Dòng Tên là Cha Samir Khalil cảm thấy có bổn phận phải lên tiếng. Cha vốn là một học giả về Hồi Giáo, về Xê-mít học (Semitologist), về Phương Đông học và là một thần học gia Công giáo sinh trưởng tại Ai Cập và hoạt động tại trung Đông suốt 20 năm qua. Hiện Cha đang dạy thần học Công Giáo và Hồi giáo học tại Đại Học Thánh Giuse tại Beirut, là sáng lập viên của viện nghiên cứu CEDRAC và là tác giả cuốn sách mới xuất bản gần đây tựa là “111 Câu Hỏi Về Hồi Giáo” do nhà Ignatius phát hành. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Zenit mới đây, Cha Samir cho biết một số khía cạnh liên quan đến công việc của mình.

Lý do

Cha Samir cho hay: sau ngày 11 tháng Chín, lúc ngài có dịp tranh luận với một số nhà báo, ngài mới hay tại Phương Tây, người ta biết rất ít về Hồi Giáo. Người ta đây bao gồm Kitô hữu, không Kitô hữu lẫn người không có đức tin. Sự kém hiểu biết này thúc đẩy một số người có thái độ gây hấn và tiêu cực đối với người Hồi Giáo. Nhiều người rất ngây ngô, sẵn sàng tin mọi điều họ nghe được. Lắm người còn dùng Hồi Giáo để gây hấn chống lại Kitô giáo. Tất cả đều do kém hiểu biết mà ra. Đó là lý do thứ nhất khiến ngài viết ra cuốn sách trên.

Lý do thứ hai: cha muốn giúp người Hồi Giáo suy nghĩ về chính tôn giáo và niềm tin của mình. Trong các tiếp xúc với tuổi trẻ Hồi giáo tại các khu ngoại ô của Paris, Cha nhận thấy họ gần như không biết chút gì về chính tôn giáo của họ. Ngài cũng từng nói truyện với nhiều người Hồi Giáo khác nhau tại Âu Châu, ở Đức nơi ngài tới nghỉ hè, ở Pháp, nơi ngài dạy học và ở Rôma, nơi ngài sống lúc đó, luôn luôn vẫn như thế. Ngài muốn đưa ra một số tín liệu tốt về Hồi Giáo, giúp người ta tránh được các hiểu biết sai lầm và các thiên kiến tai hại. Tuy thế, phần lớn nội dung của sách nhằm nói với thế giới Phương Tây để họ hiểu Hồi Giáo nhiều hơn.

Khách quan

Về cảm nghĩ của người Hồi Giáo đối với nội dung sách, Cha Samir cho hay: cha cố gắng hết sức để có cái nhìn khách quan. Nhưng có thực sự đạt được tính khách quan hoàn oàn hay không là vấn đề không dễ. Theo cha, không phải ai ai cũng hài lòng cả. Nhiều người cho rằng Hồi Giáo là một tôn giáo bạo hành, hay một tôn giáo chống phụ nữ; những người như thế chắc chắn không hài lòng vì họ nói cha không hiểu rõ bao nhiêu về bạo hành và bất bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà.

Có người lại cho rằng Hồi Giáo là một tôn giáo hòa bình và bình đẳng giữa đàn ông và đàn bà, và chính Mohammed đã nâng cao địa vị phụ nữ. Những người này tất nhiên cũng không hài lòng. Người nào cũng có lập trường riêng. Ít người hài lòng, nếu họ chống hay ủng hộ Hồi Giáo. Nhưng những ai muốn biết một điều gì đó có tính nghiêm chỉnh về Hồi Giáo, thì chắc chắn sẽ có khả năng đưa ra ý kiến riêng, vì họ sẽ tìm được nhiều sự kiện trong cuốn sách của Cha.

Tích cực hay tiêu cực

Trong phần mở đầu Sách, tác giả nói tới cố gắng trong việc cổ vũ sự hiểu biết lẫn nhau giữa Kitô hữu và người Hồi Giáo. Nhưng nhiều câu trả lời lại mô tả Hồi Giáo và nguyên khởi của nó dưới một ánh sáng khá tiêu cực. Làm thế nào một cuốn sách như thế lại có thể thay đổi được ý nghĩ của Kitô hữu đối với Hồi Giáo? Cha Samir cho hay: Cha không nghĩ sách của cha có tính tiêu cực. Vì ý hướng của cha là để người ta hiểu biết hơn, hiểu chứ không cảm, một điều cần phải sử dụng đến đầu trước nhất, sau mới tới trái tim. Bạn cần, trước nhất, phải cung cấp các tín liệu nghiêm chỉnh để cổ vũ đối thoại và hiểu biết lẫn nhau. Nếu Cha không nói hết sự thật, thì sự thật cũng sẽ xuất hiện thôi nhưng lúc ấy tình thế sẽ tồi tệ hơn.

Cha cũng cố gắng xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau, một sự hiểu biết không đặt căn bản trên thỏa hiệp và tín liệu sai lạc. Đối thoại bao giờ cũng khởi đầu với tín liệu nghiêm chỉnh, hợp khoa bảng, có tính trung thực về Kitô giáo và Hồi giáo. Các câu trả lời của Cha vì vậy cố gắng cung cấp tín liệu hữu ích; một số có tính tiêu cực vì vấn đề vốn có tính tiêu cực. Cha không rõ người Kitô hữu trung bình nghĩ gì. Nhưng ngày nay, hầu như đa số đều có cái nhìn tiêu cực đối với Hồi Giáo, trước khi đọc bất cứ cuốn sách nào…

Cha hy vọng rằng cuốn sách này sẽ giúp người đọc hiểu các vấn đề hiện đang làm họ quan tâm như khủng bố chẳng hạn; có giải thích nhưng không có biện minh nào cho việc ấy cả. Bạn không thể biện minh được nạn khủng bố, nhưng bạn có thể giải thích tại sao người ta bị dẫn tới hành động khủng bố ấy. Bạn cũng có thể thấy rằng nạn khủng bố ấy một phần đã được Kinh Kô-răng và Truyền Thống Hồi Giáo hỗ trợ. Đa số người Hồi Giáo chọn hòa bình và bất bạo động. Tuy nhiên 10% chọn bạo lực lại mạnh hơn 90% không chọn bạo lực. Đôi khi, cái phần xấu xa của nhân loại, dù nhỏ hơn, nhưng lại mạnh hơn.

Khảo sát có phê phán

Đối với câu hỏi liệu có thể khảo sát một cách có phê phán lịch sử Hồi Giáo và các bản văn thánh của họ được không, nghĩa là có thể dùng lý trí mà khảo sát niềm tin Hồi giáo được không, Cha Samir cho hay: “Nếu bạn bảo một người Hồi Giáo: kinh Kôrăng dạy điều gì đó, nhưng Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền dạy ngược lại, thì người Hồi giáo đó sẽ cho bạn hay: ‘chúng tôi theo lời nói và lề luật của Thiên Chúa, chứ không theo luật nhân quyền’ ”. Theo Cha, trong truyền thống Kitô giáo, chúng ta thấy nhiều nhà chú giải Sách Thánh hơn là người Hồi giáo giải thích Kinh Kôrăng. Trong thế giới Hồi giáo thuộc các thế kỷ thứ 9, 10 và 11, họ cũng có một phong trào chú giải, nhưng sau đó, họ đã đi thụt lùi.

Còn về mối tương quan giữa đức tin và lý trí, thì ngày nay, người Hồi Giáo đang ở trong giai đoạn tiêu cực của lịch sử họ. Chắc chắn họ có thể kết hợp đức tin và lý trí nhưng họ phải cật lực làm việc rất nhiều. Có nhiều lý do khiến xẩy ra bước thụt lùi trên, nhưng xét trong căn bản, chính là sự kém hiểu biết nơi các giáo sĩ Hồi Giáo.

Tiên kiến

Theo Cha Samir, tiên kiến thông thường nhất có tính khá tiêu cực: người Hồi giáo không hiện đại, không cởi mở đối với người khác, hay bạo động v.v… Bạn cũng thấy những tiên kiến tiêu cực như thế khi bạn nghe người Hồi Giáo nói về các Kitô hữu: họ không phải là tín hữu, là ngoại đạo, vô luân và hay gây hấn… Người Hồi giáo cũng thường nói một cách tiêu cực về Nước Mỹ: duy đế quốc, dùng bạo lực khuất phục người khác…

Thiển nghĩ điều đó cũng thông thường thôi. Mỗi người nhìn người khác từ một quan điểm riêng của mình và nhận ngay ra điểm dị biệt và điểm di biệt này thường lại có tính tiêu cực. Như Chúa Kitô từng nói trong Luca 6:41: “Tại sao các ông để ý tới hạt bụi trong mắt người anh em của mình, nhưng lại bỏ qua khúc gỗ nơi mắt các ông?”. Cho nên ta phải biết rằng có những dị biệt tiêu cực, nhưng cũng có những dị biệt tích cực. Ta có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với nhiều sự việc. Thí dụ, Chúa Ba Ngôi trong tín điều của ta là biểu thức sâu sắc nhất của việc hiệp thông với chính Thiên Chúa, vì Người là Đấng yêu thương và tự hiến. Nhưng đối với người Hồi Giáo, đó là điều khủng khiếp: hóa ra có ba thiên chúa à! Nó khiến cho họ nghĩ rằng Kitô hữu cũng giống như các dân ngoại ngày xưa, xem ra tin nhiều thần minh, chứ không phải chỉ một.

Bất khoan dung

Câu hỏi được nhiều người nêu lên là căn cứ trên lịch sử, ít có lãnh thổ Hồi giáo nào trở lại Kitô giáo hay bất cứ tôn giáo nào khác, và họ thường bất khoan dung đối với Kitô giáo. Ngày nay, ta thấy một sự bùng nổ về dân số Hồi giáo tại ngay các lãnh thổ xưa nay vẫn kể là của Kitô giáo như Âu Châu và Bắc Mỹ. Vậy người Kitô hữu có cần phải sợ sự phát triển của Hồi Giáo chăng? Đâu là thái độ đúng đắn của người Kitô hữu đối với sự bành trướng này?

Cha Samir cho rằng quả thực người Hồi giáo ít khi trở lại Kitô giáo hay bất cứ tôn giáo nào. Tuy thế, trong mười năm qua, ta thấy có sự thay đổi nhỏ. Đến nỗi, tại Algeria, người ta đang đưa ra các đạo luật chống lại việc trở lại này. Theo Cha Samir, việc ấy không thể chấm dứt phong trào trở lại hiện nay. Cùng một hiện tượng trở lại như thế đang xẩy ra tại Morocco, tuy kém cường độ hơn. Ở miền Nam Châu Phi, phong trào trở lại còn mạnh hơn nữa. Hẳn nhiều người còn nhớ: mới đây trên Youtube, một đoạn phim của hệ thống

Al Jazeera bằng tiếng Ả Rập đề cập tới việc người Hồi giáo trở lại Kitô giáo. Phản ứng của vị giáo sĩ người Lybia có trách nhiệm về truyền bá Hồi Giáo cho Phi Châu, là thắc mắc làm cách nào để chặn đứng việc trở lại Kitô giáo kia vì theo ông có đến 6 triệu người Hồi giáo trở lại Kitô giáo tại Phi Châu.

Nhưng tại sao, Hồi giáo lại đang lớn mạnh tại Âu Châu và Mỹ Châu? Theo Cha Samir, tại họ có nhiều con. Gần đây, Cha có gặp một người học trò cũ. Anh ta người Algeria theo Hồi giáo. Cha hỏi anh ta xem anh ta đã lập gia đình và có con chưa, anh ta cho hay vợ chồng anh ta đã có ba con, nhưng đó mới chỉ là bắt đầu mà thôi. Trong khi ấy, người Tây Phương mới có một, hai đứa con, đã cho là quá đủ.

Tuy nhiên, điều đáng lo ngại hơn cả là thái độ dửng dưng của nhiều Kitô hữu đối với đức tin của mình. Chúng ta hẳn thường nghe nhiều Kitô hữu nói rằng là Kitô hữu hay Hồi giáo hay Phật giáo đi chăng nữa cũng đâu có gì quan trọng, điều quan trọng là yêu thương nhau. Điều ấy có đúng một phần, nhưng bạn nên tự hỏi mình: “Làm thế nào để chúng ta biết yêu thương nhau nhiều hơn? Nếu tôi thực sự là Kitô hữu, và sống theo Phúc Âm, thì tôi sẽ yêu thương nhiều hơn”.

Cha Samir cho hay: “Tôi không sợ người Hồi Giáo. Phải biết cả niềm tin của họ lẫn Phúc Âm của tôi. Phúc Âm không thể sợ Kinh Kôrăng được”.

Diễn văn Regensburg

Đối với Cha Samir, diễn văn của Đức Bênêđíctô XVI tại Regensburg là một bước rất quan trọng trong thập niên qua. Phản ứng đầu tiên của người Hồi Giáo khá tiêu cực. Và chính nhiều người theo Kitô giáo và Công giáo cũng coi đó là một lầm lẫn. Tuy nhiên, không lâu sau, khi các ồn ào đã lắng xuống, chính người Hồi Giáo đã suy nghĩ lại bài diễn văn ấy. Kitô hữu cũng bắt đầu tự hỏi lý do tại sao Đức Giáo Hoàng lại trích dẫn một câu nói từ mãi thế kỷ thứ 14. Câu ấy chính là câu khiến nhiều người thắc mắc: không hiểu Đức Giáo Hoàng muốn nói gì. Nó khá khó giải thích vì muốn giải thích, người ta phải trở lại lịch sử. Tuy nhiên, bài diễn văn ấy dài tới 8 trang. Nên khi đọc kỹ người ta phải nhận đó là một bài diễn văn rất tích cực, đề cập tới một vấn đề quan trọng: đức tin đang dần biến đi tại Phương Tây; lý trí đang cạn đi ý nghĩa tâm linh theo Hy ngữ nguyên thủy; người ta nghĩ: nếu bạn không chứng minh được điều gì đó về phương diện vật lý, thì điều đó không có. Và giờ đây, họ đang bắt đầu suy nghĩ cách mới mẻ về đức tin. Trong thế giới Hồi giáo cũng thế, 138 nhân vật do hoàng tử Al-Ghazi của Gio-đăng lãnh đạo, đã đồng ký tên vào một bức thư hết sức tích cực đáp ứng lại bài diễn văn trên. Con số ấy sau đó đã tăng lên tới 300. Bức thư này cho hay Hồi giáo và Kitô giáo có chung một nguyên tắc kép: yêu Chúa và yêu người lân cận.

Sau đó hai năm, vào tháng Mười Một năm 2008, một cuộc gặp gỡ để thảo luận các vấn đề do diễn văn Regensburg nêu lên đã được tổ chức tại Rôma với sự tham dự đồng đều của 30 đại biểu Hồi Giáo và 30 đại biểu Công Giáo. Các cuộc thảo luận này được mô tả là tuyệt diệu; không luôn luôn dễ dàng, nhưng rất sâu sắc và cởi mở, mọi người đều ráng hết sức để lắng nghe người khác.

Ngày cuối cùng, có việc phải viết một tuyên bố chung và hai bên đụng một vấn đề tưởng chừng như không thể nào nhất trí với nhau được đó là vấn đề tự do lương tâm. Trước ngày kết thúc cuộc gặp gỡ, nghĩa là trước ngày các đại biểu đi gặp Đức Giáo Hoàng, Đức HY Tauran, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Đối Thoại Liên Tôn, phát biểu: “Bất hạnh thay, tôi phải tuyên bố một điều rất buồn: chúng ta không thể đạt được thỏa thuận chung”. Nhưng sau đó ít phút, đại giáo trưởng của Sarajevo là ngài Mustafa Ceric, đại diện cho nhóm Hồi giáo, xuất hiện và tuyên bố: “Tôi có tin vui cho quí vị: chúng tôi nhất trí về điểm năm là điểm nói tới tự do lương tâm”. Vị giáo sĩ này giải thích: tự do lương tâm ấy tìm thấy trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, một bản Tuyên Ngôn được hầu hết các quốc gia Hồi Giáo ký nhận, cho nên không có lý do gì khiến các đại biểu Hồi Giáo bác bỏ nó lúc này. Thế là hai bên nỗ lực làm việc chung với nhau, tiến từng bước nhỏ một, đến ngày thứ ba thì họ tìm được điểm chung để nhất trí và cùng thoả thuận hai năm gặp nhau một lần, hai bên thay phiên nhau đứng ra tổ chức. Cha Samir cho rằng kết quả ấy là do diễn văn Regensburg mà có.

Cổ vũ hoà bình và thiện chí

Cha Samir cho rằng người Hồi Giáo được Thiên Chúa yêu thương. Niềm tin này rất quan trọng. Trong tư cách tín hữu, họ không phải là kẻ thù, cũng không phải là người xa lạ, họ là thành viên trong gia đình nhân loại của chúng ta.

Người Hồi giáo là người sùng đạo chủ yếu vì họ biết đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự trong cuộc sống họ. Người Kitô hữu cũng thế. Nhưng theo Cha Samir, ở Phương Tây, người ta thường thấy nhiều Kitô hữu không hẳn đặt Thiên Chúa lên hàng đầu. Trong bất cứ cuộc gặp gỡ nào với người Hồi Giáo, Cha nhận thấy khi nại tới một điều gì đó có tính sùng đạo trong đời sống, họ đều nhất trí với Cha. Các giá trị tôn giáo bao giờ cũng nhận được nhất trí, vì tất cả đều từ Thiên Chúa mà có.

Người Kitô hữu và người Hồi giáo đều là anh em. Đó không hẳn chỉ là một xác quyết; mà là một thực tại. Chúng ta quả là anh em, vì hết thẩy chúng ta cùng là miêu duệ A-đam. Ý hướng của Hồi giáo là tôn thờ Thiên Chúa duy nhất và họ nghĩ họ đang chu toàn sứ mệnh từng được Áp-ra-ham khởi xướng, được truyền qua các tiên tri, qua Môsê và Chúa Kitô. Người Hồi giáo cho rằng họ hoàn thành sứ mệnh ấy.

Người Kitô hữu thì tin rằng Chúa Kitô đã hoàn thành sứ mệnh ấy rồi, vì Người là Lời Thiên Chúa. Sau khi Thiên Chúa đã sai Lời của Người đi, Người không thể sai lời nào khác, như Kinh Kôrăng chẳng hạn, để sửa lại hay để hoàn tất Lời trước là Chúa Kitô. Chúng ta không nhất trí với người Hồi Giáo khi họ cho rằng Kinh Kôrăng là lời sau cùng của Thiên Chúa, còn Mohammad là “niêm ấn các tiên tri”. Đối với Kitô hữu, niêm ấn ấy là Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. Chúng ta không nhất trí ở điểm đó, nhưng sự bất đồng này chỉ có nghĩa: người Hồi giáo và người Kitô giáo muốn tìm sự hoàn hảo cho Thiên Chúa. Điều ấy không hẳn xấu.

Không có chuyện loại trừ nhau, nhưng với một điều kiện. Người Kitô hữu xác tín rằng sự hoàn hảo và việc đạt được sự hoàn hảo ấy ở trong Phúc Âm. Tuy nhiên đối với họ, người Hồi Giáo cũng đang đi tìm cùng một mục tiêu và cùng một Thiên Chúa ấy. Trong tôn giáo, niềm tin sâu sắc luôn cổ vũ hoà bình giữa mọi người. Niềm tin ấy không cổ vũ tính độc hữu (exclusivity).

Cha Samir cho hay: đôi khi ngài tự hỏi: tại sao người Hồi giáo lại lan tràn mạnh như thế, tại sao họ lại phát triển tới tận các nước Phương Tây, tại sao ở Âu Châu lại có tới 15 triệu người Hồi giáo, tốt hơn họ đừng tới những nơi như thế! Tuy nhiên, sự kiện người Hồi giáo có mặt ở Bắc Mỹ và ở Âu Châu có nghĩa là giờ đây họ trở thành người lân cận của Kitô hữu. Nhờ giao tiếp với các Kitô hữu, họ có thể thấy Thánh Kinh, có thể mở Thánh Kinh ấy và tìm ra Chúa Giêsu Kitô. Họ có thể bước vào một thánh đường; họ có thể tham dự việc cầu nguyện với chúng ta.

Nhiều người cho đó chỉ là mơ mộng hão. Người Hồi giáo có bao giờ làm như vậy. Tuy nhiên, theo Cha Samir, thảm họa chính là họ không tìm thấy những người Kitô hữu chân thực biết ra tay giúp đỡ họ tại những nơi ấy. Trong quá khứ, ta từng phải vượt trùng dương để lôi cuốn người Hồi giáo trở lại. Giờ đây, người Hồi giáo tới ngay bên cạnh chúng ta, làm người hàng xóm của ta, nhưng ta lại không làm chi hết. Quả là nghịch lý. Trong nhiều thế kỷ, ta hết sức cố gắng nối vòng tay lớn với người Hồi Giáo, còn ngày nay, Thiên Chúa gửi người Hồi giáo đến tận nhà cho ta mà ta lại bỏ lỡ cơ hội chia sẻ với họ thực tại qúy giá nhất là Chúa Kitô và Phúc Âm của Người.

Sự hiện diện của người Hồi giáo ở Phương Tây là một ơn phúc vĩ đại nhất đối với chúng ta. Vấn đề chỉ còn là liệu ta có mở rộng trái tim để tiếp nhận họ như là anh em của mình hay không. Người Kitô hữu có một sứ mệnh đối với họ, và họ nghĩ họ cũng có một sứ mệnh đối với người Kitô hữu. Họ biết Chúa Giêsu của Kinh Kôrăng, còn tôi, tôi phải chỉ cho họ thấy Chúa Giêsu của Phúc Âm. Đó chính là sứ mệnh của chúng ta. Sứ mệnh ấy nên đem lại cho ta hy vọng, chứ không phải là điều gì khác. Mọi sự đều do Chúa quan phòng. Không phải chỉ vì lý do kinh tế mà khối người Hồi giáo lớn lao kia đã rời cư. Chính Thiên Chúa đã gửi họ tới. Có lẽ đó mới là cách tốt nhất để họ tìm ra hình ảnh chân thực về Thiên Chúa, một Thiên Chúa yêu thương. Sứ mệnh của ta là làm chứng rằng Thiên Chúa quả là tình yêu và là tình yêu duy nhất.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Cuộc lữ hành đức tin đầy gian nan của giáo dân nam Quảng Bình
PV Giáo Phận Vinh
15:56 28/03/2009
Cuộc lữ hành đức tin đầy gian nan của giáo dân nam Quảng Bình

Ngày đáng nhớ, 23/02/2009, hai giáo xứ Phúc Tín và Trung Quán thuộc về phía nam tỉnh Quảng Bình, vui mừng đón nhận Quyết định khôi phục giáo xứ. Hơn 60 năm qua là quãng thời gian mà giáo dân bốn giáo xứ Phúc Tín, Hoành Phổ, Bình Thôn và Trung Quán luôn sống trong hy vọng đợi chờ được trở lại với những ngày thịnh vượng của xứ sở mình như thuở ban đầu.

Âm thầm nguyện cầu, kiên trung giữ vững đức tin và bám trụ với bao sóng gió thử thách của những biến động lịch sử đất nước là tất cả những gì đẹp đẽ nhất nơi tâm hồn của anh chị em giáo dân trên "mảnh đất thơ mộng và hữu tình này" và đã làm nên diện mạo của 4 giáo xứ Phúc Tín, Trung Quán, Hoành Phổ và Bình Thôn. Một thời binh lửa đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam cũng là một thời ghi dấu bao đau thương tang tóc ly tán nơi mảnh đất phía Nam sông Gianh, Quảng Bình này.

Nhân sự kiện này, chúng ta cùng đi lại chặng đường lịch sử của giáo xứ Phúc Tín, qua đó cũng thấu hiểu phần nào cuộc sống của 3 giáo xứ khác "đồng cảnh ngộ".

Cuộc lữ hành đức tin đầy gian nan thử thách của giáo dân nam Quảng Bình

Giáo xứ Phúc Tín được thành lập từ năm 1872 thuộc giáo hạt Tam Tòa, tổng giáo phận Huế. Thời bấy giờ nhà thờ Phúc Tín tọa lạc trên vùng đất của xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình - là một vùng đất thơ mộng, sông núi hữu tình, cánh đống bát ngát, sóng lúa dập dờn. Chiều chiều những cánh diều bay cao vút trên nền trời xanh thẳm, dọc theo những con đường dẫn về thôn làng từng đàn trâu nối đuôi nhau về chuồng trong dáng vẻ đủng đỉnh của một ngày no thỏa với cánh đồng cỏ xanh tươi và dòng sông hiền hòa tắm mát. Phong cảnh tươi đẹp ấy gợi nhớ sâu xa cho những ai một lần đến với Vạn Ninh.

Từ vùng đất thân thương này hạt giống đức tin đã được nảy mầm sinh hoa kết trái và tồn tại cho đến ngày nay trước bao bão tố và thăng trầm của thời cuộc nhưng chất chứa biết bao tình Chúa, tình người.

Trước đây, Phúc Tín là một giáo xứ lớn, có đông giáo dân, được tổ chức quy củ. Ngôi thánh đường khang trang vươn mình lên sau lũy tre làng được xây vào năm 1916 dưới thời cha Phêrô Nguyễn Văn Đức. Tiếng chuông ngân vang xa trong buổi chiều tà, khi hoàng hôn xuống núi và những lúc bình minh thức dậy đón ngày mới. Một làng quê thanh bình êm ả, con người chân chất, hiền lành, mộ đạo, chăm chỉ làm ăn, luôn một lòng thờ kính Chúa Mẹ, thảo hiếu với ông bà và nồng nàn yêu quê hương dân tộc. Thời bấy giờ, bên cạnh nhà thờ còn có một ngôi trường dạy văn hóa và giáo lý do 3 Xơ dòng Mến Thánh Giá phụ trách. Phúc Tín là một giáo xứ đã được nhiều đời linh mục coi sóc. Năm 1932, cha Phêrô Huỳnh Văn Ấm quản nhiệm, tiếp đến là cha Giuse Huỳnh Văn Phượng, rồi cha Phaolô Nguyễn Thanh Chước, cha Gioan Huệ, cha Giuse Trần Văn Tường, cha Pet Mừng. Năm 1945, cha Phêrô Nguyễn Văn Hinh quản xứ Bình Thôn, phụ trách giáo xứ Phúc Tín.

Trong những năm chiến tranh chống Pháp, con số linh mục đã bị giảm xuống, các cha đồng thời phải coi nhiều giáo xứ. Thế rồi tai họa khủng khiếp đã ập xuống trên mảnh đất bình yên nơi thôn quê yêu dấu này vào mùa thu năm 1952, ngôi thánh đường Phúc Tín đã bị thiêu rụi sau loạt bom xối xả dày xéo. Bà con không còn nơi tụ họp để đọc kinh cầu nguyện và dâng lễ nữa. Mặc dù vậy, niềm tin của người giáo dân Phúc Tín vẫn bền vững trung kiên, họ đã bàn họp và quyết định mượn nhà dân làm nhà nguyện để sớm hôm có nơi làm việc phụng thờ Thiên Chúa. Truyền thống tốt đẹp đó được lưu giữ qua bao nhiêu năm trường mãi đến hôm nay. Tuy không còn nhà thờ nữa, nhưng bà con giáo dân Phúc Tín cùng với Bình Thôn, Hoành Phổ và Trung Quán vẫn đoàn kết bên vị cha chung JB Lương Văn Thể. Ngài nhận nhiệm vụ coi sóc 4 giáo xứ từ năm 1956, đến 1962 thì qua đời. Kể từ đó, giáo dân 4 giáo xứ này vắng bóng người cha chung. Một nỗi buồn vô hạn khó diễn tả bao trùm cả mấy xóm đạo, đặc biệt giáo xứ Phúc Tín bị lâm vào cảnh tang tóc biệt ly: đoàn chiên mất chủ chăn, con xa cha, chồng xa vợ, anh em ruột thịt lìa nhau, quê hương chìm trong khói lửa chiến tranh. Đây là vùng đất phải hứng chịu nhiều đau thương mất mát trong hai cuộc chiến, đặc biệt là cuộc chiến từ sau 1954 đến 1975. Sử chép rằng: "Đây là những điểm bắn phá ác liệt của Mỹ nhằm cắt đường tiếp tế của miền Bắc cho chiến trường miền Nam".

Những ngày đen tối qua đi, hòa bình lập lại, mọi người bắt tay hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục lại ruộng vườn, thế nhưng giáo xứ Phúc Tín vẫn phải duy trì lòng đạo của mình qua việc đọc kinh cầu nguyện nơi nhà giáo dân thay vì nhà nguyện. Trải qua dòng thời gian đầy gian nan thử thách, Phúc Tín hiện còn 237 giáo dân.

Cùng với Phúc Tín, Hoành Phổ là một giáo xứ cũng chịu chung một hoàn cảnh. Hoành Phổ nằm trên địa bàn xã An Ninh, huyện Quảng Ninh nay chỉ còn khoảng gần 200 giáo dân và đang mượn nhà ông JB Võ Phi Tân và bà Têrêxa Nguyễn Thị Tú để làm nơi cho bà con đọc kinh cầu nguyện sáng tối.

Bình Thôn thuộc thôn Hòa Bình, xã Tân Ninh, huyện Quảng Ninh, là một giáo xứ đã có bề dày lịch sử hơn 120 năm. Từ cuối năm 1949 khi cha Pet Nguyễn Văn Hinh qua đời, và nhất là sau biến cố 1954, rất đông bà con giáo dân đã vào miền Nam, để lại cảnh xơ xác tiêu điều, xóm đạo hoang tàn buồn thảm, tiếng cầu kinh, tiếng chuông nhà thờ đã im ắng chìm lỉm trong cảnh tượng khói lửa chiến tranh, chia ly. Đến nay giáo xứ chỉ còn 54 gia đình với hơn 200 nhân danh, hiện nay bà con đang mượn nhà anh chị Pet Cái Thanh Bình làm nơi đọc kinh sáng tối.

Giáo xứ Trung Quán thuộc xã Duy Ninh, huyện Quảng Ninh hiện giáo xứ có 70 gia đình với 310 nhân danh. Từ năm 1976, ngôi nhà thờ Trung Quán đã bị phá và cho UBND xã Duy Ninh mượn khu đất để xây dựng nhà trẻ. Đến nay vẫn còn giấy giao mượn của giáo xứ Trung Quán với chính quyền xã Duy Ninh.

Bao năm qua không có linh mục, không có nhà thờ, nhiều anh chị em bỏ quê hương di cư vào Nam, thế hệ con cái không được lãnh nhận các Bí tích. Đến năm 1983, nhờ sự giúp đỡ của Đức tổng Giám mục giáo phận Huế, Philipphê Nguyễn Kim Điền, giáo dân nơi đây đã tổ chức đem cả giáo xứ vào Huế lãnh nhận các Bí tích. Năm 1984, Đức tổng Điền đã cho rước Mình Thánh Chúa về đặt tại nhà nguyện chung tại Hoành Phổ cho cả 4 giáo xứ Phúc Tín, Hoành Phổ, Bình Thôn và Trung Quán. Con số giáo dân ngày được khôi phục và thêm đông, nên từng giáo xứ đã tách riêng ra và đọc kinh theo xứ họ của mình. Từ sau khi có sự thỏa thuận giữa hai giáo phận giao cho giáo phận Vinh quản lý về mặt đạo trên 4 giáo xứ này thì từ Cha Pet Nguyễn Bình Yên, Cha Pet Lê Thanh Hồng đều có thánh lễ mỗi tháng một lần tại nhà ông JB Võ Phi Tân.

Mặc dù đầy khó khăn nhưng ánh sáng đức tin luôn soi dẫn cho đoàn chiên lạc nơi đây, họ đã tìm mọi cách để đến với các linh mục ở những nơi có thể như nhà thờ chính tòa Phủ Cam, Huế, hoặc giáo xứ Đại Lộc, Quảng Trị do cha Phanxicô Lê Văn Cao quản nhiệm để lãnh nhận các Bí tích. Tình thương Chúa vẫn hằng dẫn dắt đoàn chiên nơi đây. Ngày 15/08/1997, Đức tổng Giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể, Tổng giáo phận Huế đã nhờ Đức cha Phêrô Trần Xuân Hạp, giám mục giáo phận Vinh giúp đỡ. Từ đó, Phúc Tín, Trung Quán, Bình Thôn và Hoành Phổ được cha Phêrô Nguyễn Bình Yên, lúc đó đang quản xứ Văn Phú ở xã Quảng Văn, huyện Quảng Trạch, kiêm nhiệm. Từ ngày 5/5/2005, 4 giáo xứ này được chuyển giao hoàn toàn cho giáo phận Vinh. Ngày 7/12/2006, Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên đã bổ nhiệm cha Pet Lê Thanh Hồng coi sóc 4 giáo xứ thuộc nam Quảng Bình này. Như vậy, cùng với 4 giáo xứ nói trên, hiện nay cha Pet Lê Thanh Hồng phải đảm nhận coi 6 giáo xứ. Ngài chính thức quản nhiệm giáo xứ Sen Bàng, hạt Đồng Troóc thuộc xã Hòa Trạch, huyện Bố Trạch, kiêm nhiệm giáo xứ Tam Tòa, Tp Đồng Hới. Thật là một gánh nặng mục vụ đối với cha Phêrô vì giữa các giáo xứ cách xa nhau hàng chục cây số, 5 giáo xứ chuyển từ giáo phận Huế chưa có cơ sở nơi chốn thờ phượng, giáo dân tản mác sau bao biến động thăng trầm của lịch sử đất nước, việc học hỏi kiến thức giáo lý đã bị mai một. Có những người nay hỏi tên thánh không còn biết nữa, hỏi vợ về tên thánh của chồng cũng không biết… Thiết nghĩ, chúng ta cần nỗ lực hơn nữa trong công tác truyền giáo, khôi phục giáo xứ về cơ sở vật chất, nhưng quan trọng hơn cần tái thiết lại đời sống đạo cho giáo dân những giáo xứ này, bắt đầu từ việc dạy giáo lý cho họ, dạy những lẽ cần trong đạo để biết mà giữ đạo và sống đạo.

Một chặng đường mới mở ra hơn 60 năm sau

Mừng đại lễ khôi phục các giáo xứ Nam Quảng Bình thuộc giáo phận Vinh sáng hôm nay là một sự kiện hy hữu trong công cuộc xây dựng và mở rộng cương giới - lãnh địa giáo phận. Có lẽ vì thế mà niềm vui hiện rõ trên từng nét mặt của bao người dân nơi đây. Cái nắng đầu mùa như báo hiệu sự chấm dứt của những ngày xuân để chuyển sang mùa hè rát nắng nơi mảnh đất gió lào và cát trắng này. Thánh lễ bắt đầu đúng 10 giờ sáng, nhưng đã có một số người đến từ chiều ngày hôm trước bằng xe ca, từ các giáo xứ Tân Mỹ (Quảng Phúc, Quảng Trạch), Sen Bàng và Tam Tòa và một số giáo xứ khác trong địa bàn tỉnh Quảng Bình. Thánh lễ hôm nay, có sự hiện diện hiệp dâng của Đức tổng Giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể, Tổng giáo phận Huế; Đức cha FX Nguyễn Văn Hồng, giám mục phụ tá giáo phận Huế; Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, Giám mục giáo phận Vinh, cùng 24 linh mục thuộc giáo phận Huế và các giáo hạt thuộc địa bàn tỉnh Quảng Bình giáo hận Vinh, cha Thư ký TGM Vinh, cha giáo sư Paul Bùi Đình Cao, ĐCV Vinh Thanh, cùng sự hiện diện tham dự của các Xơ dòng Mến Thánh Giá Hướng Phương, các Xơ đến từ các Hội dòng thuộc Tổng giáo phận Huế và đông đảo bà con cùng về với Phúc Tín, Trung Quán… hôm nay.

Mở đầu thánh lễ, cha Ant Phạm Đình Phùng, thư ký TGM Xã Đoài đã nhắc lại đôi dòng lịch sử thăng trầm của 4 giáo xứ nơi đây và nhấn mạnh đến thời điểm chuyển giao lịch sử giữa hai giáo phận Huế và Vinh vào thời Đức cha Pet Trần Xuân Hạp. Ngài nói: Trải qua những gian nan thử thách, nhưng gian khổ ấy vẫn không làm nao núng tâm can chúng ta, hạt giống đức tin vẫn âm thầm triển nở trong cảnh bão bùng phong ba của bao biến động thăng trầm. Theo những văn bản để lại ghi rõ, thì từ năm 1991, giữa những cảnh khó khăn cấm đoán, các linh mục không thể về với anh chị em để thăm hỏi, để cử hành các Bí tích, thì Bề trên của hai giáo phận, Đức tổng giám mục giáo phận Huế và Đức cha Pet Trần Xuân Hạp giám mục giáo phận Vinh, đã bàn tính với nhau giao sự quản lý về mặt đạo 4 giáo này cho giáo phận Vinh. Qua những năm dài, với nhiều nỗi lo toan của Bề trên hai giáo phận, quý cha trong địa bàn tỉnh Quảng Bình, đã bàn bạc nhiều lần với chính quyền các cấp từ xã huyện tỉnh tới trung ương. Tới trung tuần tháng 5 năm 2006, chính phủ Việt Nam mới nhất trí cho giáo phận Vinh được quyền điều hành quản lý về mặt đạo các giáo xứ ở phía Nam tỉnh Quảng Bình này. Ngày 25/5/2006 Đức Tổng giám mục giáo phận Huế và Đức GM Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, với sự hiện diện của quý cha, giáo dân tỉnh Quảng Bình, trước sự chứng kiến của các cấp chính quyền tỉnh Quảng Bình, các ngài đã ký bản ghi nhớ bàn giao về mặt đạo các giáo xứ thuộc nam sông Gianh cho giáo phận Vinh coi sóc.

Sau đó, một vị đại diện trong giáo xứ Phúc Tín đọc bản lược sử của giáo xứ mình và nhắc lại đôi dòng căn bản những bước đường chông gai của 3 xứ bạn như cùng chịu chung số phận với Phúc Tín trong chuỗi ngày đầy chông gai qua.

Sau nghi thức khai lễ, Đức Cha Phaolô chính thức trao Quyết định khôi phục hai giáo xứ Phúc Tín và Trung Quán và trao bằng sai cho cha Pet Lê Thanh Hồng quản nhiệm các giáo xứ phía nam Sông Gianh, Quảng Bình.

Trong lời khai lễ, Đức cha Phaolô đã nói: Hôm nay là ngày đặc biệt đối với 4 giáo xứ thuộc nam Quảng Bình. Nếu cha nhớ không sai thì đã hơn 60 năm qua, hôm nay giáo xứ Phúc Tín chúng ta mới có một thánh lễ như thế này. Thánh lễ làm hồi sinh lại những giá trị tinh thần lâu nay đã phần nào bị lớp bụi thời gian và những xáo trộn của lịch sử đất nước làm lu mờ đi những nét đẹp cao quý của đời sống tâm linh con người nơi đây, để cùng với sự khốc liệt, cằn cỗi và hoang tàn của chiến tranh nó đã cướp đi sự bình yên vốn có nơi tâm cảnh và ngoại cảnh của con người và xứ sở thơ mộng này. Tạ ơn Chúa đã thương gìn giữ chúng ta đến ngày hôm nay để lại được vui sống trong sự hồi sinh triển nở, hứa hẹn một mùa sống mới tươi đẹp hơn. Chúng ta tin tưởng chạy đến với thánh cả Giuse quan thầy, nhờ lời bầu cử của ngài, xin Chúa ban cho các giáo xứ chúng ta nơi đây mãi mãi được hưởng một nền hoà bình đích thực, sự phồn vinh hạnh phúc ngự trị nơi mảnh đất yêu dấu này.

"Hơn 60 năm qua chúng ta sống trong 'khổ nạn', và có lẽ ai cũng nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày trong ảo mộng mà thôi. Nhưng có ngờ đâu, tình Chúa vẫn hằng thương dẫn dắt chúng ta đi trên nẻo đưởng bình an, ý Chúa nhiệm mầu đã tác thành nên những điều ngỡ như trong mơ tưởng của tâm thức con người. Và kỷ niệm biến cố này gợi cho chúng ta một niềm xác tín rằng, chính trong đau thương mất mát, trong bầm dập tang thương có một sự sống rón rén cựa quậy nhú mầm. Niềm xác tín ấy là động lực chính hướng dẫn và bảo đảm sự vĩnh tồn của đời sống đức tin chúng ta, như lời nhắc nhớ của một người mẹ đối với vị thống soái của Trung Hoa xưa bằng chính câu khắc sau lưng người con mình thời trai trẻ: Tận trung bảo quốc. Trung thành với Chúa để bảo vệ nước Chúa, bảo vệ Giáo hội và làm thăng tiến đời sống chúng ta về mọi mặt. Hôm nay, thế hệ trẻ các con đang mang trên mình gánh nợ với các bậc tiền nhân đã dày công vun đắp và giữ gìn truyền thống sống đạo kiên trung của các con. Bởi vậy, để không phụ lòng đối với các thế hệ cha ông, các con cần học tập đức tính kiên tâm nhẫn nại và đào luyện nhân cách con người theo khuôn mẫu của Thầy Giêsu chí ái, để chính các con sẽ cầm lái con tàu Giáo hội đến bến bờ bình an" (Bài giảng của Đức cha Phaolô).

Đón nhận hồng ân khôi phục giáo xứ, chúng ta hiệp lời tạ ơn Chúa đã thương dẫn dắt giáo xứ vượt qua bao thử thách trên hành trình đức tin. Xin Chúa tiếp tục đồng hành với chúng con, để cùng với dân Chúa, chúng con can đảm sống đạo và nhiệt thành truyền bá tình thương Chúa đến với mọi người. Đó là lời nguyện chung mà cộng đoàn giáo dân nơi đây sốt sắng dâng lên Thiên Chúa, một lần nữa nói lên nguyện ước của thế hệ hôm nay sống xứng với những công lao của cha ông trong công cuộc bảo vệ đức tin tinh tuyền của mình.

Lời cám ơn của một vị đại diện cho 4 cộng đoàn giáo xứ: Phúc Tín, Hoành Phổ, Trung Quán và Bình Thôn sau thánh lễ nói lên sự biết ơn sâu xa đối với mẹ giáo phận Huế đã cưu mang giáo xứ trong hành trình dõi bước theo Chúa. Và đó cũng chính là tình yêu Chúa đã hướng dẫn dìu dắt, sắp xếp mọi sự để tạo cho 4 giáo xứ nơi đây có được ngày hôm nay, cùng với sự quan tâm dìu dắt của giáo phận Vinh: một thánh lễ long trọng, sốt sắng, kết tinh của ngàn chuỗi hồng ân - tình Chúa quan phòng sở định, tình người ấm áp thân thiện, tình trời đất giao duyên.

Và sau cùng là những lời cám ơn, lời huấn thị của Đức tổng Giám mục Stêphanô gửi đến toàn thể quý cộng đoàn hiện hiện nơi đây, đặc biệt là lời cám ơn của Đức tổng Stêphanô gửi đến Đức cha và quý cha giáo phận Vinh đã cưu mang những cơ sở xứ đạo này trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của một giáo phận rộng lớn, đông giáo dân. Cám ơn các cấp chính quyền đã tạo điều kiện để Giáo hội Công giáo nói chung có được những điều kiện tốt nhất làm bổn phận con Chúa cho phải đạo, để thay cho bao người chưa nhận biết Chúa trong việc đền bù phạt tạ những lỗi lầm của phận người phàm hèn, cách này hay cách khác, đã xúc phạm đến trái tim từ ái của Người. Sự sống con người không thể bị giản lược và cắt tỉa chỉ còn lại trơ trọi có phần con - phần vật chất - mà thôi. Hạnh phúc con người, theo nghĩa chung nhất, đầy đủ nhất, còn có phần hồn muôn lần phong phú nữa. Vì thế để đảm bảo hạnh phúc con người, thiết nghĩ cần phải biết nỗ lực xây dựng đời sống tâm linh tôn giáo. Một chính quyền biết quan tâm đến hạnh phúc của nhân dân phải là một chính quyền biết tôn trọng những quyền căn bản thiết thân này. Ngài nói: "Chúng con cùng hiệp với Đức Cha Phaolô và quý cha giáo phận Vinh cám ơn chính quyền các cấp từ tỉnh huyện xã, đã quan tâm đến hạnh phúc của người Công giáo. Chính quyền cũng như Giáo hội đã lo cho hạnh phúc của nhân dân, vì hạnh phúc của người dân Công giáo là hạnh phúc toàn diện, không chỉ vật chất mà còn về phần thiêng liêng, phần đạo đức. Cám ơn quý vị đã tạo điều kiện cho có được ngày hôm nay và nhất là đã chấp nhận lời yêu cầu của giáo dân trong việc khôi phục lại các giáo xứ trong vùng này".

Nhắn gửi đến cộng đoàn giáo dân 4 giáo xứ, Đức tổng Stêphanô đã ân cần nhắc nhớ: Người Công giáo chúng ta có đức tin là món quà cao quý nhất, vì thế mặc cho bao sóng gió khó khăn trong những tháng ngày qua nhưng anh chị em vẫn bảo toàn đức tin, phát triển đức tin trong mọi hoàn cảnh, bởi vì đó là kho tàng quá quý mình không thể nào hủy bỏ được. Dù không có nhà thờ, nhưng đền thờ trong chính tâm hồn mình vẫn luôn luôn canh cánh với cuộc sống mình, cho nên trong những năm tháng không có nhà thờ, không có cha xứ, anh chị em vẫn giữ vững đức tin, và đó cũng là do ơn Chúa và do chính nỗ lực của anh chị em. Tuy vậy, đức tin người Công giáo không chỉ như một món quà hay một thứ trang sức trang điểm cho riêng mình mà phải lan tỏa ra, đem món quà vô giá này biếu tặng cho đồng bào, những người sống quanh ta, tức là hướng về việc truyền đạo bằng chính cách sống yêu thương, phục vụ, bác ái, tình làng nghĩa xóm. Và người Công giáo làm sao phải sống cho có văn minh, văn hóa, vì chúng ta đang sống trong xã hội với một Giáo hội lữ hành cùng chia sẻ những điều kiện sống của cộng đồng xã hội". Đức tổng Stêphanô đã tặng hai giáo xứ Trung Quán và Phúc Tín tượng Đức Mẹ La Vang, như là món quà thể hiện lòng biết ơn và ghi dấu những chặng đường sống trong tình nghĩa Cha Con của giáo phận Huế và hai giáo xứ.

Thánh lễ kết thúc vào hồi 12 giờ 30. Sau bận cơm trưa, hai phái đoàn của hai giáo phận đã đến thăm những cơ sở khác: Trung Quán, Hoành Phổ và Bình Thôn. Điều mà Đức tổng Stêphanô luôn nhắc đến trong những lời nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện nơi những ngôi nhà tạm trong giáo dân là: Xin trao cho Chúa các bạn trẻ, những thế hệ kế tục bước đi của cha ông, để Chúa thương chúc lành cho họ biết học tập gương sống đạo của tiền nhân mà xây dựng Giáo hội, xây dựng Nước Chúa và góp phần kiến tạo một xã hội phồn vinh hạnh phúc trọn vẹn nhất, đầy đủ nhất.

Chúng tôi xin mượn những lời ca nguyện của Thánh vương David để hát mừng tạ ơn Chúa từ nhân cùng với cộng đoàn giáo xứ nơi đây trong ân nghĩa vô lượng mà chính Thiên Chúa Tình Yêu tuôn đổ xuống cho mọi người:

Con muốn đồng ca cùng vũ trụ

Những mong hợp tấu với Thiên Thần

Giữa triều thần thánh ôi vinh dự

Muôn thuở hát mừng Chúa từ nhân./.

(Hoành Phổ)
 
Đại Hội Acies Legio Mariae Sydney.
Diệp Hải Dung
16:45 28/03/2009
Đại Hội Acies Legio Mariae Sydney.

Sáng thứ Bảy 28/3/2009 các anh chị em hội viên Hoạt Động và Tán Trợ thuộc các Giáo Bankstown, Cabramatta, Fairfiled, Granville, Lakemba, Marrickville, Miller, Mt. Pritchard, Plumpton, và Revesby đã đến nhà thờ St. Therese Lakemba tham dự ngày Đại Hội Acies hàng năm của Legio Mariae. Sau khi chấm dứt giờ đền tạ dâng lên Đức Mẹ chuỗi Mân Côi Mùa Vui. Cha Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Tuyết Linh Hướng đã ban huấn từ và chia sẽ với các anh chị em Hội Viên về ý nghĩa của ngày Đại Hội, sau đó anh Trưởng Legio Mariae Trần Khôi Việt lên báo cáo những hoạt động của Hội Đồng Legio Maria Curia Nữ Vương Mân Côi TGP Sydney trong năm qua như thăm viếng những bệnh nhân ở bệnh viện và tư gia, thăm viếng những người già yếu trong Viện Dưỡng Lão, thăm viếng các gia đình không Công Giáo, ngoài ra Hội còn đảm trách những việc dạy Giáo Lý cho Thiếu Nhi và Tân Tòng, chia sẽ công tác Cộng Đồng và Giáo Đoàn v.v..

Kế tiếp là nghi thức tuyên thệ dâng mình cho Đức Mẹ, tất cả các Hội Viên tiến lên trước bàn thờ Đức Mẹ đặt tay lên Vesilium Quân Kỳ của Legio Maria đọc lời tuyên thệ. Sau khi chấm dứt nghi thức tuyên thệ, Thánh lễ cử hành gồm quý Cha Nguyễn Văn Tuyết, Cha Cựu Linh Hướng Nguyễn Thái Hoạch và Cha Cựu Linh Hướng Mai Đào Hiền cùng đồng tế. Trong bài giảng Cha Nguyễn Văn Tuyết đã dẫn thuật những thánh đức gương sáng của Đức Mẹ luôn khiêm cung và đồng hành với Chúa Giêsu Con Chí Thánh của Mẹ, Cha cũng khuyến khích tất cả các Hôi Viên hãy noi gương Đức Mẹ và luôn cầu nguyện chạy đến núp dưới bóng cờ của Mẹ Maria Vị Nữ Tướng Tối Cao của quân binh Legio Mariae.

Trước khi kết thúc Thánh lễ, anh Trưởng Trần Khôi Việt lên ngỏ lời cám ơn quý Cha, quý Sơ và tất cả mọi người đã đến tham dự ngày Đại lễ Acies, quý ân nhân và ca đoàn thanh niên Legio Maria đã đóng góp lời ca tiếng hát trong Thánh lễ thêm phần trang nghiêm sốt sắng. Sau khi chấm dứt Thánh lễ mọi người đều ở lại qua bên hội trường của nhà thờ tham dự bữa ăn trưa thân mật và cùng thưởng lãm văn nghệ cây nhà lá vườn do các hội viên Legio trình diễn. Sau đó chấm dứt vào lúc 2pm.
 
Một thoáng Nghi Lộc
JB. Cao Xuân Hưng
16:59 28/03/2009
Một thoáng Nghi Lộc

1. Theo sử sách, hạt giống Tin Mừng được gieo vào mảnh đất Nghi Lộc vào khoảng năm 1780. Mãi đến năm 1860, dưới thời Đức cha Ngô Gia Hậu (Gauthier, 1810-1877), họ đạo Nghi Lộc mới được thiết lập, thuộc xứ mẹ Hội Yên. Tên gọi "Nghi Lộc" bắt nguồn từ câu danh Nho:

Khánh vô bất nghi
Thọ thiên bách lộc


(Thụ hưởng muôn ơn Trời, vui mừng vì làm việc gì cũng thành công mĩ mãn)

Năm 1881, giáo họ được chuyển nhập vào giáo xứ Đông Thành (Phi Lộc ngày nay). Ngày 10.7.1929, giáo xứ Nghi Lộc được chính thức thành lập, với khoảng 800 nhân danh. Vị linh mục tiên khởi cai quản giáo xứ là cha Phêrô Nguyễn Đình (1929-1933). Kế tiếp là các cha: Giuse Nguyễn Đôn (1933-1939), Phêrô Bùi Nhật Nghiệm (1939-1952 và 1954-1960), Phêrô Vinh (1952-1954), Gioan Bùi Trọng Đề (1960-1973), Phêrô Hà Ngọc Cai (1973-1981), Giuse Nguyễn Đức Bảo (1982-1985), Phaolô Nguyễn Minh Trí (1985-1990), Phaolô Cao Đình Thuyên (1990-1991, nay là Giám mục đương kim giáo phận Vinh), Phêrô Nguyễn Sĩ Nho (1991-1995), Gioan Baotixita Nguyễn Xuân Huyền (1995-1999), Giuse Nguyễn Đình Linh (1999, kiêm nhiệm).

2. Nghi Lộc có một lịch sử lâu dài và bi hùng. Nổi bật là biến cố Thiêu sát năm Giáp Tuất 1874 và sự kiện Di cư năm 1955 - những mốc thời gian khó phai trong lòng mỗi người dân Nghi Lộc. Vào thời Văn Thân (bắt đầu từ năm 1864, kết thúc năm 1886), lúc bấy giờ Nghi Lộc là một xóm đạo nhỏ bé, chìm khuất giữa các làng ngoại đạo của huyện Đông Thành (nay là huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An). Ngày 6.3.1874, hơn 4000 quân Văn Thân với gươm đao, súng ống bắt đầu bao vây tấn công Nghi Lộc. Gần 200 người dân trong làng đã anh dũng chống lại và đẩy lùi được bọn Văn Thân. Nhưng nhận thấy thế cô, sợ khó thắng nổi khi chúng trở lại phục thù, nên một số bà con đã phải chạy nạn ra Thuận Nghĩa, Quỳnh Lưu. Qủa nhiên, sáng ngày 8.3.1874, Văn Thân trở lại tàn sát những người không kịp lánh nạn. Hậu quả là 77 người bị giết (kể cả 30 người bị giết trên đường chạy nạn), toàn làng bị đốt phá bình địa. Biến cố này đã được cố quản Phạm Đường ghi lại đầy đủ trong bản “DÂN KHỔ KHIẾU” gửi Đức cha Ngô Gia Hậu, Giám mục tiên khởi giáo phận Nam Đàng Ngoài - tức giáo phận Vinh ngày nay.

3. Sau Hiệp định Genève 21.7.1954, trước những biến động của thời cuộc và những lý do khác nhau, cùng với làn sóng di cư ồ ạt vào Nam, rất nhiều bà con trong giáo xứ Nghi Lộc đã rời bỏ quê hương vào miền Nam lập nghiệp. Theo một danh sách đầy đủ, chi tiết, số giáo dân di cư là 169 gia đình, với 751 nhân khẩu, chiếm hơn 2/3 tổng giáo dân toàn xứ. Số người còn lại chỉ vỏn vẹn khoảng 300. Phần lớn những người di cư tập trung về Trại Định cư Bình Giã, được thành lập vào tháng 10 năm 1955, thuộc địa phận huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngày nay, Bình Giã gồm 3 làng, với 3 giáo xứ: giáo xứ Vinh Hà, giáo xứ Vinh Châu, giáo xứ Vinh Trung. Trong đó, giáo xứ Vinh Châu là trung tâm, với 5801 giáo dân (năm 2004), mà Nghi Lộc là họ trị sở. Vì thế, khi nói đến giáo xứ Nghi Lộc, nhiều người vẫn gọi chung là giáo xứ Nghi Lộc – Vinh Châu cho thân tình, trìu mến.

4. Vốn giỏi kinh doanh, người dân Nghi Lộc ở trong Nam cũng như ngoài Bắc luôn đi đây đi đó buôn bán, làm ăn. Cho nên, hiện nay, con cái Nghi Lộc đã sống rải rác khắp bốn phương. Trong nước thì có mặt ở Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Thuận, Ban Mê Thuột, TP. Hồ Chí Minh, Đà Lạt, Phan Rang..; ngoài nước thì đặt chân đến Hoa Kỳ, Australia, Canada, Italia, Bỉ, Đức, Anh, Nga, …Trong đó, những cộng đoàn Nghi Lộc hải ngoại đông đảo nhất vẫn là ở Hoa Kỳ. Cũng nên thêm rằng, “phong trào di cư” này xem ra vẫn chưa dừng lại ở đó. Tuy xa cố hương, nhưng nhiều người con Nghi Lộc ở các nơi rất tích cực đóng góp phần mình xây dựng xứ sở quê mẹ.

5. Nhà thờ giáo xứ Nghi Lộc tuy không to lớn, bề thế, nhưng là một công trình kiến trúc vào loại cổ và đẹp hiếm có ở giáo phận Vinh hiện nay. Ước mong về một ngôi thánh đường được thai nghén từ thời cha già Phêrô Nguyễn Đình (1929-1933), và được chuẩn bị nguyên vật liệu từ thời cha Giuse Nguyễn Đôn (1933-1939). Tuy nhiên, phải đến đầu năm 1943, công trình mới được chính thức khởi công, với sự lao động tích cực của hết thảy bà con trong xứ, dưới sự thiết kế và điều khiển của linh mục, kiến trúc sư tài ba Phêrô Bùi Nhật Nghiệm. Chỉ trong một thời gian ngắn, công trình đã nhanh chóng được hoàn thành vào tháng 10 cùng năm, mà hầu hết chi phí đều do giáo dân đóng góp. Thánh đường dài 37m, rộng 13m, tháp chuông cao 25m, được xây dựng theo kiến trúc Roman Tây phương, nhưng vòm và cửa sổ có những phá cách rất độc đáo, mỹ thuật. Đến cả kiến trúc sư nổi tiếng người Liên Xô trước đây là ông Alêxây Brucôp, trong một lần công tác ở Việt Nam năm 1970, cũng phải tìm đến chiêm ngưỡng, chụp hình lưu niệm, và phát biểu: “Công trình này phải là một kiến trúc sư cừ khôi mới thiết kế được!”. Đến nay, tuy đã gần bước vào tuổi “trung thọ” rồi nhưng ngôi nhà thờ vẫn hiên ngang, sừng sững với thời gian.

Do nhu cầu và mục đích phụng vụ, từ tháng 12.2008 giáo xứ Nghi Lộc đã khởi công dự án mở rộng cung thánh, hai cánh gà và xây đôm cho nhà thờ. Hy vọng với một dáng vẻ mới khi hoàn thành, công trình sẽ không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng tăng của các tín hữu, mà còn lưu giữ được những nét kiến trúc xinh xắn ban đầu.

6. Cha ông ta xưa đã từng nói: “địa linh nhân kiệt”. Mảnh đất “địa linh” Nghi Lộc quả đã sinh ra và cống hiến cho Giáo hội không ít “nhân kiệt” là các linh mục, tu sĩ. Theo thống kê, đến nay đã có khoảng 30 linh mục gốc Nghi Lộc, gốc Nghi Lộc cha mẹ di cư, quê nội ngoại ở Nghi Lộc, hay mới gia nhập, đó là các linh mục: JB. Ngô Ngân, FX. Nguyễn Phước, Gregorio Vũ Duy Khiêm, JB. Lê Xuân Hoa (Đức ông, Tổng Đại diện giáo phận Phan Thiết), Pet. Vũ Văn Giáo, FX. Nguyễn Sơn Miên, FX. Lê Quang Diễn, FX. Đinh Tiên Đường, JB. Đinh Tiến Hướng, Paul Đinh Huỳnh Hoa, FX. Nguyễn Xuyên, JB. Đinh Thanh Sơn, Paul Lê Quang Luân, FX. Nguyễn Thanh Đương, Anton Nguyễn Đình Thăng, FX. Đinh Huỳnh Phùng, JB. Phan Kế Sự, Gioan Vũ Minh Nghiệm, Jos. Đinh Vĩ Đại, Pet. Đinh Đình Chiến, Paul Nguyễn Đức Châu, JB. Nguyễn Đức Tuân, Phêrô Tự Nguyễn Tín, FX. Đinh Văn Quỳnh, Anton Đinh Bá Cẩn, Anton Nguyễn Qúy Hải, Jos. Nguyễn Văn Hiệu, Pet. Nguyễn Đình Dung, Paul Vũ Xuân Quế, FX. Đặng Hùng Tân, FX. Nguyễn Thanh Huy…; nhiều tu sĩ nam nữ trong và ngoài giáo phận cũng như ở hải ngoại. Ngoài ra hiện có hai thầy đang theo học ở Đại chủng viện Vinh Thanh, một thầy tu sinh.

7. Ngày nay, tuy là một giáo xứ trung bình về dân số, với khoảng 2500 giáo dân, nhưng Nghi Lộc lại rất vang xa về danh tiếng. Cách thị trấn Diễn Châu 4km về phía tây, sau khi đi qua những cách đồng lúa, ngô, cây cảnh xanh mướt, trù phú, rẽ trái vào làng Nghi, du khách sẽ dễ dàng nhận ra sự khởi sắc nơi giáo xứ Nghi Lộc thân yêu. Nhà cửa xây dựng khang trang, hàng quán mọc lên san sát, xe cộ đi lại tấp nập, nam thanh ăn mặc lịch sự, nữ tú nói năng ngọt ngào: tất cả cho thấy sự giàu có, hiện đại, năng động nơi giáo xứ vùng quê này. Phong trào học tập văn hóa, giáo lý, thi đua văn nghệ – thể thao trong giáo xứ rất được quan tâm, đẩy mạnh. Vào các dịp lễ trọng, đặc biệt là lễ Giáng Sinh hàng năm, Nghi Lộc vẫn được xem là một điểm đến của nhiều du khách. Bà con giáo dân cũng như các ân nhân không tiếc hầu bao, bỏ ra hàng trăm triệu đồng để trang hoàng nhà thờ, nhà xứ, khuôn viên, hang đá, lễ đài Đức Mẹ, ao cá, trường Thiên Khải Đường; hoặc “chịu chơi” hơn, mời luôn cả những dàn nhạc sống, những đoàn diễn viên, ca sĩ về biểu diễn: rất hoành tráng và ấn tượng. Câu cửa miệng “nhất Thiên đàng, nhì làng Nghi” ra đời cũng một phần xuất phát từ đó.

8. Cách đây gần 10 năm, cha Phaolô Cao Đình Thuyên (khi ấy còn là Tổng Đại diện kiêm Quản lý Nhà chung) được cử phụ trách giáo xứ Nghi Lộc trong vòng một năm. Chúa nhật hàng tuần ngài đều vượt hơn 30 km từ Tòa Giám mục Xã Đoài đến dâng lễ cho bà con. Hôm nay, Chúa nhật IV Mùa Chay năm 2009, về lại Nghi Lộc trong cương vị Giám mục giáo phận vào dịp Tuần Chầu lượt của giáo xứ, Đức cha Phaolô Maria không khỏi bồi hồi, xúc động khi được ngắm lại những hình ảnh thân thương ngày nào; đồng thời ngài cũng hết sức vui mừng, phấn khởi về sự đổi thay không ngừng của “chốn xưa”. Ngỏ lời với cộng đoàn trong thánh lễ, Đức cha đã đi sâu phân tích những ý nghĩa sâu xa trong 7 lời trăng trối cuối cùng của Chúa Giêsu lúc hấp hối trên thánh giá, đó là: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34), “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc 23, 43), “Thưa Bà, đây là con của Bà… Đây là Mẹ của anh” (Ga 19, 26-27), “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mt 27, 46), “Tôi khát” (Ga 19, 28), “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19, 30), “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46). Đặc biệt, với lời thứ 5 của Chúa Giêsu: “Tôi khát” (Ga 19, 28), Đức cha đã “mạc khải” rằng: cái “khát” của Chúa Giêsu không đơn thuần chỉ là cơn khát vật chất như chúng ta khát nước, nhưng là cái “khát” tình yêu nhân loại, khát linh hồn chúng sinh. Vì thế, Ngài thêm rằng: “Không chỉ con người chẳng thể sống thiếu tình yêu của Thiên Chúa, mà ngay cả Thiên Chúa cũng rất “cần” đến tình yêu của con người. Bởi vậy, anh chị em hãy hết lòng yêu mến Chúa, ăn năn quay trở về với Ngài, nhất là trong Mùa Chay thánh này, vì Ngài là hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của chúng ta. Có như thế thì chúng ta mới công bằng với Ngài…”.

Tạm biệt Nghi Lộc, vị Chủ chăn giáo phận không quên căn dặn và mong muốn con cái trong giáo xứ ổn định cuộc sống, đoàn kết, đồng lòng góp phần xây dựng Nghi Lộc ngày càng thăng tiến hơn nữa.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Tường trình phiên tòa phúc thẩm
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải, CSsr
14:18 28/03/2009
Linh mục Phê rô Nguyễn Văn Khải, phát ngôn nhân cho giáo xứ Thái Hà, gọi bản án phúc thẩm ngày 27/3 tại Hà Nội đối với tám giáo dân là "bất công."

Trong phiên sơ thẩm tháng 12 năm 2008 các tín đồ công giáo này đã bị tòa buộc tội phá hoại tài sản và gây rối trật tựcông cộng.

Tại phiên phúc thẩm, vốn nhận được sự quan tâm của dư luận và ủng hộ tinh thần của hơn 1000 giáo dân xung quanh địa điểm xét xử, tòa đã y mức án dành cho những người này.

Linh mục (LM) Khải cho rằng lý lẽ và bằng chứng đưa ra tại phiên tòa để kết tội giáo dân là không đủ cơ sở.

Theo lý lẽ và bằng chứng mà luật sư bên bị trình trước tòa, linh mục Khải cho rằng tòa cần tuyên bố vô tội cho các bị cáo.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài BBC sau phiên phúc thẩm, linh mục Khải giải thích bản chất vô tội của các giáo dân này.

Câu đầu tiên Ngài nhận xét về tinh thần làm việc của Hội đồng xét xử và của thẩm phán tại phiên tòa ngày 27/3.

LM Phêrô Nguyễn Văn Khải: Xét về mức độ ứng xử tôi thấy vị thẩm phán hôm thứ Sáu cùng Hội đồng Xét xử đã rất kiên nhẫn, bởi vì giáo dân họ bức xúc họ có nói những lời gay gắt, nhưng vị thẩm phán có thái độ kiên nhẫn.

Rồi ông ta cũng tuân thủ chặt chẽ thủ tục tố tụng tại tòa và cho các bị cáo quyền được phát biểu.

Tôi có thiện cảm với vị thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử hôm thứ Sáu, 27/3.

Cùng với các cán bộ công an làm nhiệm vụ trong tòa.

BBC: Thế còn quyền được phát biểu của các bị cáo, quyền được tranh luận của luật sư bên bị có được thực hiện đầy đủ tại tòa hay không, thưa linh mục?

LM Phêrô Nguyễn Văn Khải: Điểm này tôi thấy chưa được thực hiện đầy đủ tại tòa. Nhất là khi các bị cáo hay luật sư biện hộ trình bày đến những vấn đề, đưa ra những lý lẽ hay những bằng chứng liên quan đến vụ án, theo hướng bảo vệ quyền lợi cho các bị cáo. Tức có lợi cho bị cáo và bất lợi cho phía nhà nước, thì vị thẩm phán liền bác ngay cái quyền trình bày của luật sư cũng như của các bị cáo trong phiên tòa.

Tòa cho Công tố viên hoặc đại diện Viện Kiểm sát trình bày, đưa ra những lý lẽ liên quan đến mảnh đất để biện hộ cho phía nhà nước, họ được nói vô tư thoải mái.

Luật sư của chúng tôi nói ngay tại phiên tòa là không có sự công bằng trong khi trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án.

Lỗi này tôi không thể đổ tội cho cá nhân vị thẩm phán được và tôi biết ở Việt Nam nó thế.

Bằng chứng

BBC: Phía Tòa nói rằng các bị cáo có ý đồ phá hoại tài sản và gây rối trật tự công cộng. Và họ y án sơ thẩm. Tám giáo dân không nhận hai tội danh này. Thưa ngài lý lẽ của họ ra sao?

LM Phêrô Nguyễn Văn Khải: Ví dụ như tội phá hoại tài sản chẳng hạn. Phía nhà nước giám định bảo rằng thiệt hại ba triệu bốn trăm bảy mươi mấy ngàn gì đấy, tức là chưa đến ba triệu rưỡi. Số tiền này chia ra cho bảy bị cáo thì mỗi bị cáo làm thiệt hại chưa đến 500.000 nghìn. Chưa đến năm trăm nghìn thì chưa đủ cái mức giới hạn về thiệt hại vất chất.

Cạnh đó các giáo dân nói rằng họ dỡ bỏ có ba mét tường, chứ không phải sáu mét tường như chính quyền nói. Vả lại chúng ta cần đặt câu hỏi là cái bức tường ấy nó có phải là tài sản hay không? Và là tài sản của ai? Bức tường đó xây từ ngày xửa ngày xưa rồi, đã bị hư hoại gần hết rồi. Bằng chứng trước tòa cho thấy cái bức tường đó nó hư hoại đến mức tự đẩy nó cũng đổ. Xét theo thời gian và trừ khấu hao về vật chât cái bức tường đó nó không còn giá trị bao nhiêu nữa và không gọi nó là tài sản được.

Vả lại các giáo dân không có ý định phá vỡ bức tường. Nó dài cả một trăm mét chứ không ít. Họ chỉ dỡ lấy lối đi vào cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ thôi. Chứ họ không có ý định phá hoại. Thế cho nên không thể kết án họ được.

Và lý lẽ

BBC: Thế còn tội danh gây rối trật tự công cộng, trình bày của giáo dân khác với quan điểm của tòa như thế nào?

LM Phêrô Nguyễn Văn Khải: Thì thứ nhất thế nào là trật tự công cộng. Ở chỗ đấy nó không phải là nơi công cộng. Ở chỗ đấy, về phương tiện pháp lý chặt chẽ, đấy là của nhà thờ chúng tôi. Và khu vực nội sự chúng tôi liên tục có giầy tờ sở hữu tám mươi năm nay rồi. Trên thực tế thì Công ty may Chiến Thắng họ chiếm dụng và bỏ hoang. Bỏ hoang cả mười mấy ngàn mét vuông đất mênh mông ở trong đấy, cây cối mọc um tùm, nhà cửa để cho mục nát sập xệ. Thế thì đấy không phải là nơi công cộng. Mà là nội sự của chúng tôi.

Bảo là gây rối thì pháp luật phải chi phối hành vi của từng cá nhân một. Họ chỉ có đến và dỡ bức tường đó một đoạn để cầu nguyện. Và khi cầu nguyện họ xếp hàng đi cùng với những người khác. Họ xếp hàng họ chắp tay họ cầu nguyện trong vòng 20 phút. Họ không kích động ai, không gây rối loạn cho ai. Và họ không làm gì mất ổn định an ninh trật tự trong khu vực ấy cả. Về phương diện pháp lý thì hành vi của họ không đủ yếu tố cấu thành gây rối. Nếu gây rối thì gây rối ai? Và cụ thể là người nào. Và gây rối lúc nào? Tòa không chỉ ra được. Thêm nữa là gây hậu quả cho người nào? Tòa không chỉ ra được.

Nguồn: BBCvietnamese.com
 
Sự thật đã được phơi bầy
Song Hà
14:46 28/03/2009
Mọi người đều biết rằng: với nhà cầm quyền độc tài cộng sản, việc đòi hỏi Sự thật – Công lý – Hoà bình là một điều hết sức khó khăn, nhiều khi là chuyện không tưởng.

Nếu Sự thật được thực thi, Công lý được áp dụng, Hoà bình được thực hiện, thì hiển nhiên đã không thể tồn tại Chủ nghĩa Cộng sản và chế độ Cộng sản. Chế độ Cộng sản sở dĩ vốn còn tồn tại được là dựa vào bạo lực, súng đạn, nhà tù, sự dối trá và sự sợ hãi của người dân.

Chúng ta không hi vọng những phiên toà của nhà nước Cộng sản lại có thể độc lập, khách quan trong xét xử.

Nhưng giáo dân Thái Hà và người yêu chuộng sự thật nói chung vẫn kiên trì theo đuổi dựa trên những điều khoản của nhà cầm quyền Hà Nội đưa ra nhưng rồi không thực hiện, để buộc họ phải có phiên xử phúc thẩm ngày 27/3/2009 đối với 8 giáo dân của mình.

Chúng ta không hi vọng một bản án tuyên vô tội hay giảm nhẹ cho những anh chị em của chúng ta, bởi nhà cầm quyền cộng sản vốn kiêu ngạo và bất chấp sự thật sẽ không bao giờ muốn nương tay với anh chị em, đặc biệt khi người công giáo đã cả gan ngăn chặn âm mưu tham nhũng, chiếm đoạt đất đai, tài sản của nhân dân, của tôn giáo để biến thành tài sản riêng của mình.

Vì vậy, việc các giáo dân Hà Nội, cùng hiệp thông với Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng như những người yêu chuộng Hoà bình, Công lý và Sự thật đòi hỏi có phiên toà xử phúc thẩm 8 giáo dân – nạn nhân của nhà cầm quyền Hà Nội là nhằm để một lần nữa, đoàn kết tất cả mọi người nói lên nguyện vọng của mình với những giá trị tối thiểu của con người, xã hội và đất nước.

Dù chần chừ, sợ hãi và lúng túng muốn nhanh chóng ỉm đi vụ án vô lý và hèn hạ này nhưng trước sự kiên trì, anh dũng và hiểu biết của các giáo dân, các luật sư và nhất là sự đoàn kết hi sinh của cộng đồng, nhà cầm quyền Hà Nội đã phải đưa các giáo dân này ra toà phúc thẩm ngày 27/03/2009.

Trước đó cả tháng trời, nhà cầm quyền đã phải hao công, tốn của, tốn nhiều sức lực và tiền bạc của nhân dân để chuẩn bị cho phiên toà này.

Chiến dịch truyền thông Nhà nước bóp méo sự thật! Báo chí VN với chức năng nô lệ của mình đã huy động tổng lực nhằm vu cáo, bôi nhọ, nhục mạ các giáo sĩ, tu sĩ giáo xứ Thái Hà cũng như các nạn nhân. Họ tưởng rằng làm như vậy, các giáo dân sẽ chùn bước, sẽ sợ hãi và quần chúng nhân dân sẽ tin tưởng họ.

Các linh mục đã không ngừng đồng hành và củng cố tinh thần của giáo dân, dù liên tục bị bị vu cáo và bôi nhọ bằng nhiều hình thức.

Sự kiện hiển nhiên đầy kịch tính là báo chí Nhà nước, các cơ quan thuế vụ, luật sư đoàn, cảnh sát, an ninh, đã cùng liên kết đánh hội đồng cá nhân Luật sư Lê Trần Luật và các cộng sự của ông, nhằm ngăn chặn ông đứng về phía giáo dân bảo vệ Công lý – Sự thật.

Cũng trước đó, họ đã nhiều lần mời “đi làm việc”, gây nhiều khó khăn cũng như quấy rối những người có tâm huyết bảo vệ sự thật, công lý và hoà bình, những người có thiện tâm giải quyết vấn đề cách ôn hoà và chống lại sự kỳ thị chia rẽ cộng đồng tôn giáo như ông J.B Nguyễn Hữu Vinh. Ngay ngày xử án, những cá nhân đó bị cô lập, bị triệu tập “đi làm việc” với những lý do hết sức buồn cười chỉ có trong chế độ cộng sản VN.

Trước khi xử án, các phường, xã quận ở Hà Nội và một số nơi công an, cán bộ đến đe nẹt, khuyên răn, dụ dỗ đến từng người, từng gia đình Công giáo và cả các linh mục, chức sắc không đến dự phiên toà phúc thẩm.

Nhà cầm quyền quyết định đưa giáo dân về xử tại Hà Đông, nơi cách xa giáo xứ, cách Hà Nội cả chục cấy số nhằm làm nản những người muốn đến dự phiên toà.

Ngay trước ngày xử, khu vực Toà án bị phong toả. Trong ngày xử án, tất cả trường học, chợ búa, cửa hàng kinh doanh đã bị buộc ngừng hoạt động. Các khách sạn, nhà nghỉ bị cấm hoạt động, nhà dân thì được khuyên là nên đóng cửa, không được cho khách tạm trú qua đêm. Các hàng ăn khu vực Hà Đông bị cấm nhận đặt cơm…

Họ tưởng làm như vậy, người Công giáo sẽ hoang mang, sức mạnh đoàn kết sẽ suy giảm, các nạn nhân sẽ bị bỏ rơi, các giáo dân và những người yêu chuộng sự thật sẽ khiếp sợ.

Nhưng họ đã lầm.

Những hành động đê tiện như trên đã không mảy may làm nản lòng những người chân chính. Trái lại, chính nhà nước Cộng sản VN đã tự bôi trát vào mặt mình - những người luôn vỗ ngực cho mình là “đại diện nhân dân” là “trí tuệ nhân loại”, là “lương tâm thời đại” những mớ bùn ngàn năm không thể nào tẩy rửa.

Diễn biến của phiên toà cho thấy sự mất lòng tin của nhân dân vào hệ thống chính trị, quan chức nhà nước đến mức nào.

Hàng ngàn người diễu hành cả chục cây số với sự tự tin, kiêu hãnh đến với nạn nhân với cành Thiên tuế trên tay, với tấm hình Đức Mẹ Công lý trước ngực, giơ cao các khẩu hiệu đòi Sự thật – Công lý – Hoà bình và những tiếng nói hiệp thông trên các băng rôn từ các giáo xứ đã nói lên khát vọng của họ to lớn đến mức nào.

Hàng chục linh mục, tu sĩ đã sát cánh cùng giáo dân, cùng những nạn nhân và những người cần lao đã chứng minh hình ảnh đốn mạt, dối trá và bạo ngược của hệ thống quan chức vốn luôn miệng tư xưng là “đầy tớ nhân dân” nhưng chỉ nhằm “ông chủ” sơ hở là ăn cắp, là ức hiếp và cướp.

Hàng ngàn người đối diện với súng đạn, dùi cui, xe đặc chủng… đã không hề tỏ ra khiếp sợ, đã làm cho chính quyền sợ hãi, lúng túng và bất lực.

Hàng ngàn thanh niên, sinh viên, quần chúng diễu hành trên phố đến trước Thị uỷ Hà Đông, đến trước cổng Công an Hà Nội để nói lên sự ủng hộ với các giáo dân, với Thái Hà đã làm các cơ quan này khiếp sợ mà chui vào đóng cổng như những đám chuột ngày.

Hàng vạn người tham dự Thánh lễ Tạ ơn ngay sau phiên toà, đã là một bằng chứng hùng hồn cho sức mạnh của sự đoàn kết, sức mạnh của niềm tin vào Thiên Chúa là - Sự thật – Công lý – Hoà bình.

Và tất cả đó cũng là một bằng chứng để chứng minh bản chất của một chế độ xã hội bất nhân, bạo ngược và dối trá.

Phiên toà đã kết thúc không ngoài dự kiến đối với các nạn nhân. Quan toà Cộng sản không thể kết tội nặng hơn cho các nạn nhân, đã phải y án với những lời nhân nghĩa giả trá.

Nhưng đã có một phiên toà, mà ở đó người dân đã có dịp để thể hiện khát vọng của mình.

Đã có một phiên toà, mà ở đó sức mạnh của súng đạn, dùi cui và nhiều khí cụ man rợ khác đã phải thúc thủ đầu hàng trước khí cụ bình an của Chúa - giáo dân tay không.

Đã có một phiên toà mà ở đó những giáo dân đã nhận được sự đồng cảm và kính phục của những người yêu chuộng Hoà bình, sự thật và công lý ở ngoài công giáo, trong xã hội.

Đã có một phiên toà xử ngược lại, mà ở đó sự tối tăm bị đẩy lùi, ánh sáng được chiếu dọi từ những người giáo dân đơn sơ và tay không hoàn toàn bất bạo động.

Đã có một phiên toà, mà ở đó các thế lực đen tối phải sợ hãi trước ánh sáng của Tình yêu thương, những thành quả lớn lao này đã là niềm khích lệ cho mọi người trong cuộc chiến này - cuộc chiến không cân sức với các thế lực đen tối nhằm tìm kiếm Sự thật – Công lý – Hoà bình.

Ngày 28/3/2009
 
Đâu là chiến thắng của giáo xứ Thái Hà?
Alfonso Hoàng Gia Bảo
15:10 28/03/2009
Trong bài “Hồi kết vở kịch công lý” (http://vietcatholic.net/News/Html/65523.htm) của tác giả ‘Thập Giá’ (có lẽ là một linh mục?) có một đoạn khiến người đọc phải suy nghĩ, nguyên văn như sau:

Khi biết kết quả về vụ xử phúc thẩm, một số giáo dân gọi điện hỏi tôi: “ như vậy chúng ta thua rồi sao?” Không ! cho dù tòa tuyên án thế nào thì chúng ta vẫn là người chiến thắng, hãy xem những hình ảnh của đoàn người sáng hôm nay, sự lúng túng của cán bộ công an khi họ làm trái lương tâm, làm trái luật pháp … chúng ta sẽ hiểu chiến thắng của chúng ta quan trọng như thế nào. Chiến thắng không nằm nơi lời tuyên án vô tội ( tuy đó là điều mọi người mong đợi ) nhưng nằm ở cách chúng ta ra tòa, cách chúng ta đòi công lý. (hết trích) . Vâng, “cách giáo dân ra tòa” chính xác là như vậy!

Việc này cũng tương tự như nếu hôm qua trong lúc vài ngàn giáo dân đang hớn hở kéo về nhà thờ Hà Đông để dâng Lễ Tạ Ơn sau phiên tòa, có ai đó ghé tai ta hỏi nhỏ “Ủa, chứ tòa xử ‘huề vốn’ như vậy thì có gì đáng để quí vị tạ ơn với ăn mừng chứ?” một câu hỏi “cắc cớ” nhưng dễ làm chúng ta ú ớ lắm chứ chẳng chơi! Tưởng đơn giản nhưng hoàn toàn không dễ trả lời chút nào, nếu người được hỏi sực nhớ ra phiên xử này không ai trong số tám giáo dân trên đã phải đến tòa từ trại tạm giam như lần trước. Vậy đâu là chiến thắng của Thái Hà?

Như bao người ở xa chẳng được diễm phúc tận mắt chứng kiến quang cảnh phiên xử hôm qua, nhưng thật may nhờ có internet, chúng ta mới có được cơ hội chia sẻ những thông tin “nóng hổi” hết sức quí giá, và cũng cực kỳ nhanh nhạy mà tôi chắc rằng ngay cả phóng viên các báo lớn trên thế giới họ cũng chỉ cập nhật live nhanh tới đó là cùng, và những đoạn video và hình ảnh “biết nói” gởi đi từ phiên tòa chính là đáp án cho câu hỏi trên.

Vì ngoài việc giúp chúng ta cảm thấy yên lòng và hân hoan khi biết rằng tám giáo dân gặp nạn đã được hàng ngàn đồng đạo hộ tống ra tòa, để họ khỏi lâm vào cái cảnh bị thiên hạ bắt nạt như một số những vụ án tôn giáo trước đây như vụ LM Nguyễn Văn Lý đã từng nếm mùi, chúng còn đem lại cho ta cái cảm giác thật là lạ mắt khi xem.

Đơn giản chỉ vì sau mấy chục năm sống trong ‘thiên đường’ XHCN ngột ngạt, nhiều người thế hệ 5x chúng tôi tóc nay đã bắt đầu đổi màu, vậy mà đã có mấy ai được diễm phúc chứng kiến một đám đông khoảng vài ngàn con người tụ tập đâu đó không phải do đảng csvn triệu tập để tâng bốc chế độ, mà để ngợi ca ‘SỰ THẬT - CÔNG LÝ’ như các giáo dân Hà Nội vừa làm sáng qua?

Chẳng những tụ tập không cần xin phép, họ còn hiên ngang trương ‘băng rôn’ miệng hô vang các khẩu hiệu là lời kinh thánh thay vì hô tên Hồ Chí Minh, toàn là những thứ gây chướng tai gai mắt đối với nhà cầm quyền, mà lại diễn ra ngay trước mặt các quan rất ư là khí thế.

Nếu đưọc phép chấm tôi sẽ cho tấm ảnh đính kèm kế bên điểm 10 tối đa. Bởi dân Sàigòn chúng tôi trước giờ rất ám ảnh với cái nón cối bộ đội, nhưng ở tấm ảnh này lại thấy ‘chú’ bộ đội của “SỰ THẬT SẼ GIẢI THOÁT TÔI” kia sao mà quá đáng yêu!

Càng đáng khâm phục biết bao sau hơn nửa thế kỷ bị nhà cầm quyền chèn ép đủ thứ, đức tin của họ chẳng những không mai một mà có khi còn vững mạnh hơn cả dân miền Nam chúng tôi.

Tấm hình này cùng rất nhiều tấm khác thoạt nhìn mới chỉ thấy nó rất là lạ mắt nhưng nếu chịu khó ‘giải mã’ thêm, chúng ta mới nhận ra hết cái sự phi thường của chúng: Kể từ 1975 đến nay ngoài đảng cộng sản đang nắm quyền ra, đã có tổ chức nào có thể làm được những điều phi thường tụ tập đông người “quấy rối nơi công cộng” chẳng cần xin xỏ ai mà chẳng thấy chú công an, cảnh sát cơ động nào đụng đến như giáo dân Hà Nội vừa làm chưa?

Cho dẫu việc tụ tập này hoàn toàn không nhằm mục đích chính trị, nhưng chúng ta cũng cần biết cách nay chưa lâu vài trăm em sinh viên yêu nước tụ tập nhau chống TQ xâm lăng Hoàng sa chứ chẳng phải chống đảng, ấy vậy mà họ đã bị nhà cầm quyền đánh cho tan tác.

Do vậy, cảnh hàng ngàn giáo dân rong ruổi suốt đoạn đường hơn chục cây số và tụ họp trước tòa sáng nay, nếu nó đã để lại trong lòng các tầng lớp dân chúng những ấn tượng và suy nghĩ tích cực, thì đối với nhà cầm quyền tôi tin từ sau phiên tòa chẳng còn dám hăm hở ‘lôi cổ’ giáo dân này ra tòa “trị tội” như vừa qua.

Có những dấu hiệu cho thấy nhà cầm quyền Hà Nội đã nhận ra ‘cái dại’ của họ khi tạo điều kiện cho đám đông giáo dân hàng ngàn người qui tụ lại với nhau như vậy, và họ đã bắt đầu cảm thấy lo ngại khi có người đã cho biết “…trong phiên toà phúc thẩm lần này, nhà cầm quyền lại lấy làm lo sợ trước sức mạnh của giới trẻ biết đứng về phía công lý như thế. Một số vị lãnh đạo đã cho các linh mục có mặt trong phiên toà hôm nay biết, họ quan ngại về việc những người trẻ không chịu ngồi yên một chỗ mà lại cứ căng băng rôn đỏ: Công lý- Sự thật, đi dạo quanh phố phường !!!”

Rõ ràng để xảy ra cảnh hàng ngàn giáo dân tụ tập ‘xuống đường’ như sáng qua là chuyện cực chẳng đã chẳng có chính thể độc tài nào muốn thấy chứ chẳng riêng gì nhà cầm quyền Hà Nội. Ngay từ khi phong trào dân oan rục rịch bùng phát cách dưới thời ông Phan Văn Khải VN đã ban hành một nghị định rất ư là “thất đức” (nên tôi cũng chẳng buồn để ý tên và số) nghiêm bất kỳ cuộc tụ tập nào trên 10 người ở những nơi công cộng, kể cả công viên mà không xin phép. Dựa vào nó, công an đã thoải mái bắt dân và oan quẳng lên xe như quẳng những con heo!

Nhưng khi truy tố tám giáo dân ra tòa nhà cầm quyền lại chẳng lường trước nổi cái cảnh bị can ăn mặc đẹp đẽ, sạch sẽ mặt mày ai nấy hớn hở, vừa đi vừa ca hát líu lo như thể trẩy hội hay đi picnic! Mà ai nghe và thấy cứ ngỡ như mình đang xem truyện thần thoại vì nó đã xảy ra trên một đất nước mà xưa nay dân chúng nghe nói đến chuyện tù tội ai nấy đều hãi hùng.

Có thể vì không muốn thấy cảnh tụ họp này kéo dài mà nhà cầm quyền đã biến phiên tòa 27/3 hôm qua thành phiên tòa… ma đuổi! Tuyên bố của các báo trong nước sau phiên tòa thì “Hội đồng xét xử nhận định, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây hậu quả nghiêm trọng” ấy thế mà phiên tòa chỉ diễn ra vỏn vẹn có 6 giờ, chủ và tớ ‘đánh vật’ với nhau liên tục chỉ được nghỉ 10 phút giải lao. Một phiên tòa xứng đáng ghi vào sách kỷ lục.

Phải xử nhanh là bởi nếu cứ tiếp tục để cái đám đông kia đứng đó hoài, dễ khiến cho dân chúng thủ đô dễ bị “tiêm nhiễm” cái cảnh tụ họp, xuống đường kiểu này thì thử hỏi còn gì tai họa hơn cho chế độ?

Có người nói với tôi rằng, mỗi lần để xảy ra một phiên tòa như Thái Hà tuổi thọ của chế độ độc tài này lại bị phong trào dân chủ “cướp” đi mất một tuổi. Nếu anh này nói đúng, vậy là sau hai chuyến ra tòa vừa qua, giáo dân Thái Hà đã giúp cho hơn 80 triệu dân Việt bớt đi được hơn 700 ngày đêm phải sống thiếu CÔNG LÝ - SỰ THẬT và tôi cho rằng đó chính là chiến thắng của giáo xứ Thái Hà.

(Kính tặng giáo dân xứ Thái Hà – Hà Nội) Sàigòn, 28/3/2009
 
Luận chứng bào chữa phiên tòa phúc thẩm xử 8 giáo dân Thái Hà
Luật sư Huỳnh văn Đông
16:10 28/03/2009
LUẬN CỨ BÀO CHỮA Phiên phúc thẩm xử 8 giáo dân Thái Hà

Thưa HĐXX

Theo yêu cầu của bà Ngô Thị Dung, Nguyễn Thị Việt, Lê Quang Kiện, Lê Thị Hợi, Phạm Chí Năng, Nguyễn Đắc Hùng, Thái Thanh Hải, Nguyễn Thị Nhi. Tôi, LS Huỳnh Văn Đông - Người được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận người bào chữa số 29/HS-GCNBC ngày 12/2/2009 đảm nhiệm bào chữa cho các bị cáo tại phiên xử phúc thẩm. Hôm nay, tôi sẽ bào chữa đối với tội danh “gây rối TTCC”, còn tội danh “hủy hoại tài sản” sẽ do đồng nghiệp của tôi là Luật sư Hoàng Cao Sang trình bày.

Thưa HĐXX

Bản án hình sự số 605/2008/HSST ngày 08/12/2008 của TAND Quận Đống Đa đã tuyên xử Bị cáo Ngô Thị Dung, Nguyễn Thị Việt, Lê Quang Kiện, Lê Thị Hợi, Phạm Chí Năng, Nguyễn Đắc Hùng, Thái Thanh Hải về tội “Gây rối TTCC” và tội “Hủy hoại tài sản” trên cơ sở áp dụng khoản 1 điều 245 (Đ.a, K2 điều 245- đối với bị cáo Nguyễn thị Nhi), khoản 1 điều 145 BLHS, theo đó đã xử phạt:

(Xem bản án)

Nhận định và Đánh giá chứng cứ:

Điều đầu tiên chúng tôi khẳng định rằng, bản án HSST số 605 ngày 08/12/2008 của TAND Quận Đống Đa đã kết luận các bị cáo phạm “gây rối trật tự công cộng” là không có cơ sở vì bản án đã không xác định hành vi phạm tội dựa vào yếu tố cấu thành tội phạm như luật định và các chứng cứ được áp dụng tại bản án sơ thẩm đã không mang đầy đủ những thuộc tính vốn có của nó.

Bởi lẽ:

Thứ 1 Điều 245 quy định:“Người nào gây rối TTCC gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tôi này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.

Theo nội dung của điều luật thì gây rối TTCC là hành vi làm náo loạn trật tự nơi công cộng và một người chỉ bị truy cứu TNHS về hành vi gây rối TTCC khi và chỉ khi người đó có hành vi “gây rối” và hành vi gây rối này phải gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Theo Từ điển Tiếng việt phát hành năn 2006 của NXB Từ Điển Bách Khoa, chúng tôi thấy động từ gây rối được hiểu là “gợi ra chuyện không hay”.

Đối chiếu với các hành vi của các bị cáo theo cáo buộc tại bản cáo trạng so 178a/KSĐT ngày 11/11/2008 của VKSND Quận Đống Đa và bản án số 605/HSST ngày 08/12/2008 của TAND Quận Đống Đa chúng tôi không hề thấy các bị cáo đã có hành vi “gợi ra những chuyện không hay” hay làm náo động trật tự nơi công cộng. Vậy căn cứ vào đâu, vào cái gì mà TAND Quận Đống Đa đưa ra phán quyết như nêu trên ?

Hành vi “gây rối” được hiểu tại bản án số 605 như sau: “các bị cáo đã tụ tập cùng nhiều người khác, tập trung không đúng nơi thờ tự, dùng loa phóng thanh để cầu kinh.” Cách hiểu này mang tính suy diễn và áp đặt, tôi đề nghị tòa án cấp phúc thẩm cần quan tâm và xem xét lại.

Tại hồ sơ vụ án cũng như kết quả thẩm tra công khai tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố đã không chứng minh được các bị cáo (có mặt hôm nay) đã “dùng loa phóng thanh để cầu kinh”. Việc “dùng loa phóng thanh để cầu kinh”, nếu có, thì lại là hành vi của người khác, không liên quan đến các bị cáo. Còn cáo buộc “các bị cáo đã tụ tập cùng nhiều người khác, tập trung không đúng nơi thờ tự” là cáo buộc vô căn cứ, bởi lẽ không có quy định nào quy định giáo dân chỉ được tập trung ở trong nhà thờ mà không được tập trung ở nơi khác. Mặt khác, tại khu vực 178 Nguyễn Lương Bằng chưa bao giờ là nơi có đặt biển “cấm người” đến đó.

Như chúng ta đã biết, tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo là quyền căn bản của con người, hiến pháp nước CHXHCNVN cũng ghi nhận quyền này tại điều 70. Mọi hành vi xâm phạm đến các quyền cơ bản của con người về tín ngưỡng, tôn giáo là hành vi vi phạm pháp luật. Theo Kinh Thánh của người Công giáo thì “Thiên chúa ở khắp mọi nơi”, và việc cầu nguyện của những giáo dân có thể diễn ra bất cứ nơi nào không phải là khu vực cấm, và rõ ràng pháp luật cũng không thể cấm việc cầu nguyện của họ. Tại đây, tôi cũng xin được nói thêm rằng: có nhiều hình thức để cầu nguyện: có thể là cầu nguyện thầm kín, đọc kinh, hát thánh ca… và mục đích của việc cầu nguyện là nhằm xin đấng thiêng liêng - mà theo tín ngưỡng của người Công giáo đó là xin Thiên chúa ban cho họ được toại nguyện các điều chính đáng mà họ mong ước. “Điều chính đáng” ở đây có thể là cho bản thân họ, gia đình họ, tập thể của họ, đất nước của họ, thậm chí cho cả thế giới. Vì thế, hành vi xuất phát từ sự nhiệt thành, mong muốn những điều tốt đẹp cho cả đất nước, cho toàn thế giới không thể bị coi là hành vi gây rối.

Bản án nhận định mục đích của việc cầu nguyện là nhằm đòi lại đất. Cách hiểu này chưa đúng với bản chất của nó. Mục đích lớn lao hơn trong việc cầu nguyện của các giáo dân ở đây là cầu xin Thiên chúa soi sáng, chỉ rõ cho cá nhân, cho tổ chức có trách nhiệm nhận thấy những sai trái, thiếu sót của mình trong việc giải quyết các vấn đề đất đai nhằm để điều chỉnh lại hành vi cho phù hợp với pháp luật và đạo lý, chứ bản thân Thiên chúa không tự ban hành quyết định trả lại đất cho giáo xứ, giáo dân Thái Hà. Trải qua một thời gian rất dài, các Linh Mục và giáo dân giáo xứ Thái Hà đã có đơn khiếu nại để đòi lại khu đất 178 Nguyễn Lương Bằng vốn dĩ thuộc quyền quản lý, sử dụng của giáo xứ Thái Hà từ ngày 26.9.1928 cho đến ngày 30.1.1961 bị Sở quản lý nhà đất Hà Nội chiếm đoạt giao cho Xí nghiệp thảm len Hà Nội sử dụng bằng quyết định 76/QL-NĐ nhưng không hề có 1 văn bản thu hồi nào. Việc khiếu nại bằng văn bản theo quy định của pháp luật đã không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết một dứt khoát và đến nơi đến chốn nên đã tạo ra tâm lý lo lắng, mất niềm tin vào pháp luật, vì thế họ đã chọn giải pháp cầu nguyện. Họ cầu nguyện cho mục tiêu cao cả, cho pháp luật Việt Nam được ban hành bởi Việt Nam được thực thi trên đất nước Việt Nam. Cầu nguyện cho công lý được thực thi trên quê hương Việt Nam, và có phải vì thế, sau những cuộc cầu nguyện của giáo dân mà Hà Nội đã có thêm 02 Công viên cho mọi người nghĩ ngơi, thư giản như nhiều người đã nói?

Những hành động ấy, xuất phát từ mục đích tốt đẹp như thế liệu rằng có thể gây ra “bất bình trong dư luận xã hội, ảnh hưởng uy tín và danh dự của những bà con Công giáo khác” như nhận định của tòa án cấp sơ thẩm? (Bản án trang 16). Chúng tôi cho là không. Việc làm của các bị cáo chỉ có thể bị coi là tạo ra “bất bình trong dư luận xã hội, ảnh hưởng uy tín và danh dự của những bà con Công giáo khác” khi hành động đó bị bóp méo, xuyên tạc như lời phát biểu của ngài Tổng Giám mục đáng kính đã bị bóp méo, cắt xén nhằm xuyên tạc như mọi người có và còn lương tri đã thấy.

Thứ 2: Chứng cứ mà tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng là những chiếc “băng đĩa ghi lại hình ảnh đập phá tài sản, tập trung đông người gây huyên náo mất trật tự trị an”( trang 14 của bản án).

Cáo trạng số 178a/KSĐT ngày 11/11/2008 của Viện Kiểm sát quận Đống Đa ghi rõ “Tang vật: Không” (Trang 17), vậy 2 đĩa hình ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 720/2008/HSST-QĐ ngày 21/11/2008 của Tòa Án quận Đống Đa lấy ở đâu ra? 2 đĩa hình này đã được cơ quan chuyên môn nào giám định tính trung thực, tính nguyên bản của nó chưa? Hay nó chỉ là những hình ảnh được cắt xén lắp ghép? Khoản 1 Điều 64 BLTTHS quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”. 2 đĩa hình ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 720/2008/HSST-QĐ của Tòa Án quận Đống Đa đã không được thu thập đúng quy định nhưng Tòa Án quận Đống Đa coi đó là “vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa” là trái với khoản 1 Điều 64 BLTTHS vì đã sử dụng hai đĩa hình chưa được giám định, không được thu thập theo trình tự luật định để kết tội các bị cáo là việc làm hết sức tùy tiện, bất chấp quy định của TA cấp sơ thẩm. Vì vậy, chúng tôi đề nghị HĐXX không được xem 2 đĩa hình này là vật chứng.

Thứ 3: Hành vi gây rối (nếu có) phải gây ra hậu quả nghiêm trọng - và giữa hành vi và hậu quả phải có mối liên hệ nhân quả với nhau. Ở vụ án này chúng ta có thể loại ra ngay từ đầu trường hợp các bị cáo đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm như quy định tại điều luật. Vậy hậu quả nghiêm trọng mà các bị cáo đã gây ra bằng hành vi “gây rối” trong vụ án này là gì?

Bản án sơ thẩm đã nhận định bằng hành vi “cầu kinh” trong nhiều ngày của các bị cáo đã “gây mất trật tự trị an xã hội, cản trở hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, gây thiệt hại nghiêm trọng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần may chiến thắng”.

Kết luận như trên là không có cơ sở vì không có một chứng cứ cụ thể nào đủ sức thuyết phục để chứng minh rằng: Việc “cầu nguyện” của các bị cáo mà đã gây ra những thiệt hại to lớn như thế. Cản trở hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế là cản trở như thế nào? Bình thường Công ty may Chiến Thắng hoạt động ra sao, nó không hề có một tài liệu rõ ràng nào để chứng minh cho những thiệt hại đó và điều lạ kỳ là, Cty cho rằng các bị cáo đã gây ra thiệt hại cho công ty gần 1.1tỷ đồng nhưng lại không yêu cầu các bị cáo bồi thường. (cần lấy giả dụ).

Bản án đã dựa vào báo cáo doanh thu của hai tháng 8 và tháng 9 năm 2008 của Công ty bị giảm doanh thu là 1.059.708.000đ, danh sách chi tiền cho 308 người với lý do “chi tiền phục cấp cho công nhân làm tại 178 Nguyễn Lương Bằng do giáo dân gây rối làm ảnh hưởng đến Năng suất lao động”, danh sách chi tiền trực bảo vệ cho 137 người với số tiền là 191.196.000đ.

Chúng tôi thấy rằng, thiệt hại mà công ty Chiến Thắng đưa ra là những con số hết sức khôi hài và trái luật. Doanh thu trong hai tháng 8 và 9 bị giảm sút chúng tôi thấy chẳng có liên quan gì đến các bị cáo. Ông bà xưa đã dạy: “Tiên trách kỹ, hậu trách nhân”, trước tiên phải xem xét lại năng lực quản lý, điều hành của mình. Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 không ảnh hưởng gì đến công ty may Chiến Thắng? Năng lực quản lý điều hành công ty yếu kém không ảnh hưởng hoạt động của Công ty? Hơn nữa, con số này cũng chưa được thẩm tra tại phiên tòa thì liệu nó có thể làm căn cứ để chứng minh cho thiệt hại của công ty?

Thông qua các danh sách mà Công ty may chiến thắng cung cấp cho Tòa án, chúng ta có thể thấy rằng: công ty Chiến thắng đã chi tiền một cách vô tội vạ, việc chi như thế, chúng ta dễ dàng nhận thấy: Hoặc cách “chi tiền” của Công ty Chiến thắng từ trước đến nay vẫn vô nguyên tắc thế, hoặc Công ty đã “lợi dụng” tình hình - vụ việc để hợp thức hóa những khoản chi bất hợp pháp hay những khoản tiền “lỡ lọt” vào túi cá nhân, tổ chức nào đó; dù kết luận nó thuộc giả thuyết nào thì cả hai điều này đều không thể chấp nhận được.

Thậm chí cái gọi là “thiệt hại” hơn 1 tỷ đồng do Công ty May Chiến Thắng khai vống lên (không có tài liệu chứng minh thuyết phục) mà đại diện Công ty May Chiến Thắng không hề yêu cầu bị cáo bồi thường là việc hết sức phi lý. Bởi lẽ Công ty May Chiến Thắng là doang nghiệp Nhà nước, thiệt hại (nếu có) là tài sản Nhà nước-tức Tổng Công ty Dệt May Việt Nam, cán bộ nào gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, đại diện Công ty May Chiến Thắng lại không yêu cầu bồi thường số tiền to như thế thì chỉ có thể hiểu rằng hoàn toàn không có thiệt hại xảy ra. Không có thiệt hại xảy ra, bị cáo chưa bị xử lý hành chính, chưa có tiền sự mà vẫn bị truy tố, xét xử thì rõ ràng là các bị cáo đã bị truy tố, xét xử oan.

Ngoài các chứng cứ mà tôi vừa nêu trên, bản án còn “căn cứ vào lời khai của các nhân chứng Nguyễn Đức Trọng, Đinh Hồng Phong, Trần Tiến Hùng, lời khai của 6 người phụ nữ Mường đã tham gia đánh cồng chiêng”. Những lời khai này có ý nghĩa như thế nào trong việc xác định hành vi của các bị cáo? Chúng tôi không thấy một lời khai nào chỉ đích danh các bị cáo đã có hành vi gây rối, có chăng theo bản cáo trạng thì bà Việt có hành vi “nhặt cỏ, dọn dẹp ở khi vực bể nước nơi đặt tượng Đức Mẹ, nhặt gạch san lấp chỗ trống…” rõ ràng các hành vi này không thể gây ra hậu quả nghiêm trọng. Đối chiếu với BLHS Việt Nam, không ai có thể nghĩ ra rằng, hành vi trên lại là hành vi vi phạm pháp luật và bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nhận xét và Kết luận

Thưa HĐXX

Trong khi cáo trạng nhận định các bị cáo hành động là do sự kích động, lôi kéo của Linh mục Vũ Khởi Phụng, Lm Nguyễn Ngọc Nam Phong, Lm Nguyễn Văn Khải, Lm Nguyễn Văn Thật, nhưng tại sao những Linh mục này không ai bị xử phạt hành chính (không có quyết định xử phạt hành chính), trong khi chính họ là những người khởi xướng, cầm đầu? Điều này cho thấy rõ ràng không có hành vi phạm tội nào xảy ra như kết luận của bản án sơ thẩm. Các bị cáo chỉ đóng vai trò thứ yếu lại bị đưa ra xử lý bằng biện pháp hình sự. Vì vậy, chúng tôi thấy bất hợp lý và bất công đối với 8 bị cáo, và như thế, vụ án đã có biểu hiện bất công ngay từ đầu, nên họ kháng cáo kêu oan là hoàn toàn có cơ sở.

Tám bị cáo đứng trước vành móng ngựa hôm nay là những người có đầy đủ năng lực, nhận thức và điều khiển hành vi. Họ ý thức được hành động việc làm của họ. Họ có bổn phận trách nhiệm với bản thân, tập thể và xã hội đó mới là công dân đúng nghĩa. Cầu nguyện trong ôn hòa, bất bạo động nhưng lại bị khởi tố, bắt tạm giam và bị xét xử để lãnh án trong khi những kẻ có dấu hiệu phạm tội thật sự thì cho đến nay vẫn ung dung ngoài vòng pháp luật. Đêm 31/8/2008 có kẻ đã lẫn vào đám đông giáo dân đang cầu nguyện để xịt hơi cay gây náo loạn, đánh người già trẻ em đến bất tỉnh và đổ máu, tôi cũng không biết bình xịt hơi cay ở đâu mà những người này có?

Đêm 15 rạng 16/11/2008, một nhóm người xông vào nhà thờ Thái Hà đòi đập đền thánh Giê-Ra-Đô, họ hô hào và tự đuổi nhau nhưng điều đáng buồn hơn cả là trong đám lộn xộn này người ta lại thấy có những vị Chính quyền phường Quang Trung và lực lượng Công an mặc cảnh phục lẫn thường phục, nhưng những vị này không làm gì cả để ngăn chận tình trạng gây rối lộn xộn nói trên. Chúng tôi không nói chính quyền quận Đống Đa bao che hay đồng lõa cùng với nhóm người này, nhưng đến nay chúng tôi vẫn chưa thấy vụ án được khởi tố dù chỉ để trấn an dư luận, cho nên, nhiều người cho rằng luật pháp của chúng ta đã không được áp dụng nghiêm minh cho tất cả công dân là có lý do của nó.

Kính thưa quý vị, người tín hữu Công giáo đều biết rằng: Không ai có thể làm hại được các vị nếu các vị nhiệt thành làm điều thiện, điều đúng? Mà nếu các vị chịu khổ vì sống công chính thì các vị thật có phúc. “Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ bang quý vị vì quý vị ăn ở ngay thẳng (trong Đức KiTô) thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống (…) Bởi lẽ, thà chịu khổ vì làm việc lành còn hơn làm điều ác”. Quý vị đã và hãy hành động như những người tự do, không phải như những người lấy tự do làm màn che cho sự gian ác. Quý vị đã và hãy không sợ những kẻ chỉ có thể giết chết thân xác quý vị, mà không thể giết chết linh hồn của quý vị. Thật anh dũng, và quý vị đã có phần thưởng được dọn sẳn rồi.

Từ những phân tích cơ bản như tôi đã trình bày trên đây, tôi đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo không phạm tội “gây rối TTCC”.

Xin cảm ơn mọi người đã lắng nghe tôi trình bày.
 
Giáo dân Bắc Hà, đến chốn pháp đình hay đi trẩy hội ?
Hoa Lan
16:37 28/03/2009
Giáo dân Bắc Hà, đến chốn pháp đình hay đi trẩy hội ?

Quá cảm xúc! Không còn lời nào để diễn tả cái cảm xúc khi chứng kiến toàn cảnh ngoại cảnh bên ngoài phiên xử phúc thẩm vụ tám giáo dân của giáo xứ Thái Hà. Ai đó đã nói rất đúng, có lẽ trên thế giới này chưa từng có trong lịch sử nhân loại một phiên tòa nào như thế.

Bởi niềm tin tuyệt đối về sự vô tội của các đồng đạo, giáo dân Bắc Hà đã hiên ngang tiến đến chốn pháp đình trong trạng thái tự tin, hân hoan, đông vui như thể đang đi trẩy hội. Cách hành xử của giáo dân thể hiện sự có tổ chức chặt chẽ, khoa học và hướng thiện. Rất đúng, họ đã "đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm...". Họ đã kết hợp một cách tuyệt vời giữa niềm tin tôn giáo và cái dũng khí, sự khẳng khái, bản tính thanh lịch của người Tràng An xưa khi đến chốn đọa đày. Không một chút lo sợ, hằn hộc, nhếch nhát. Họ đoàn kết, vui cười, ca hát, cầu nguyện trong trật tự. Đẹp quá! Thật phúc cho ai có cơ hội tham gia vào sự kiện này.Và nếu chúng tôi không lầm, ngoài phiên toà xử Chúa Giêsu cách đây 2000 năm với câu nói để đời "Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm", thì chưa có một phiên tòa nào trên thế giới lại diễn ra trong điều kiện bị cáo lại "đem yêu thương vào nơi oán thù". Nơi oán thù đó là các quan tòa, là các cảnh sát với chó săn dùi cui, là cả một chế độ với luật lệ rừng rú.

Quả thật, sự gian manh mưu mô chỉ có thể lừa gạt được kẻ tham lam hay người ngu ngốc. Nó không thể lừa lọc được những con người liêm chính đầy quyết tâm và được soi sáng bởi Thánh Linh. Nhà cầm quyền tính toán sai lầm rằng, họ dời địa điểm xử án ra xa trung tâm Hà Nội sẽ triệt tiêu được tình trạng đoàn người rồng rắn kéo về nơi xử án. Họ đánh giá ngây thơ rằng, với cự ly gần chục cây số, giáo dân không đủ kiên nhẫn để làm một cuộc diễu hành bách bộ. Ngược lại, nếu dùng đến phương tiện giao thông, giáo dân sẽ tự xoá bỏ khả năng tập hợp diễu hành trong điều kiện lưu thông hiện nay. Rõ ràng, kẻ thiếu đức tin và lòng nhân ái thường xa vào lối suy nghĩ sai lầm. Việc duy chuyển với một cự ly xa có thể làm hao tốn sức lực, nhưng khi tinh thần dấn thân lên cao thì điều đó không phải là trở ngại. Thậm chí nó lại chính là cơ hội ngàn năm cho giáo dân Bắc Hà đi...trẩy hội. Trong cuộc chuẩn bị hành trình về nước Chuá xa xôi, các giáo dân đã được trang bị đầy đủ đức tin, lòng hướng thiện và sự quả cảm, huống hồ chỉ một đoạn đường được đo đếm bằng chục cây số. Kết quả ra sao thì ai cũng thấy, giới cầm quyền sẽ còn ngồi lại với nhau để gặm nhấm thêm một lần mưu mô thâm độc bị thất bại một cách đau đớn. Giờ đây họ phải hiểu thế nào là sự khao khát chân lý của người dân. Phiên tòa phúc thẩm 8 giáo dân vừa qua là một thất bại nghiêm trọng cho đảng cộng sản Việt Nam.

Dù đang sống trong bất công, bạo tàn và sự cơ cực. Nhưng thêm một sự kiện nữa khiến cho chúng ta có nhiều hy vọng. Hy vọng vào một ngày đất nước hanh thông, bởi chúng ta là một dân tộc luôn giữ được bản chất thông minh - hướng thiện - quả cảm.
 
Lại thêm lần...
Hiền Thạch
17:03 28/03/2009
LẠI THÊM LẦN. ..

Lại thêm lần chúng ta cùng. . trẩy hội !
Ngày sự thật công lý réo khắp nơi
Ngày tái diễn trò "giả nai" của sói
Ngày hiệp nhất tải đạo vào giữa đời

Lại thêm lần chúng ta lên. .. Thánh Điện
Là phạm trường của cọng sản Việt Nam
Nơi sự thật chỉ toàn là. .. dối trá !!
Nơi " công lý " mang bản chất vô luân

Lại thêm lần chúng ta được thâm tín:
Nhờ thần khí hiện hữu giữa công đường
Làm bẽ mặt lũ cầm cân bất chính
Càng lòi đuôi bọn lãnh tụ bất lương

Lại thêm lần đi giữa chiều nghịch chướng
Càng cất cao tiếng nói của lương tri
Nỗi oan khuất bay bốn phương tám hướng
Động lòng Trời cho lịch sử khắc ghi

Lại thêm lần sự thật và công lý
Cùng đồng hành với dân tộc Việt Nam
Chính niềm tin biến thành điều kì vĩ
Quất vào mặt quyền-lực-của-tối-tăm

Lại thêm lần chúng ta được đồng cảm
Của "CON NGƯỜI " trong ngoặc kép viết hoa
Bởi nhân dân bị "búa liềm" siết, hãm. .. !!
Cùng đồng thuận mà chẳng dám nói ra

Lại thêm lần chúng ta vác Thánh Giá
Làm lễ vật dâng tiến giữa mùa chay
Để công lý, sự thật diệt man trá
Giục chúng ta. .." Vác " tiếp! từ hôm nay. Amen
 
Tòa án bịt mồm - Không có công lý và công bằng cho giáo dân Thái Hà
Trà Mi/RFA
23:05 28/03/2009
Đến 10 giờ tối cùng ngày, BTV Trà Mi của Ban Việt Ngữ liên lạc được với Luật sư Huỳnh Văn Đông, một trong hai người bảo vệ pháp lý cho các giáo dân Thái Hà tại phiên phúc thẩm ngày 27/3/2009.

Sự đoàn kết của giáo dân

Ls. Huỳnh Văn Đông (người ôm hoa) trong vòng vây người hâm mộ
LS Huỳnh Văn Đông: Chúng tôi muốn nói một điều rằng cái thành công ngoài sức tưởng tượng, đó là sự đoàn kết của những người yêu công lý, yêu hòa bình. Các giáo dân của giáo xứ Thái Hà, giáo dân của giáo phận Hà Nội và giáo dân của những giáo phận lân cận đã về và ủng hộ chúng tôi. Điểm đáng lưu ý nhất là chúng tôi thấy đó là sự đoàn kết. Thái độ của các bị cáo đứng trước vành móng ngựa, họ không coi mình là bị cáo nữa mà họ coi mình là người đấu tranh đi tìm công lý.

Trà Mi: Vâng. Thế còn nội dung phiên phúc thẩm thì ông thấy có điểm gì đặc biệt?

Không bất ngờ

LS Huỳnh Văn Đông: Cũng như là chúng tôi đã từng dự liệu trước đó thì kết quả không có gì bất ngờ.

Trà Mi: Những chứng cớ, những lý luận được đưa ra để kháng án là gì, thưa ông?

LS Huỳnh Văn Đông: Chúng tôi không đưa ra một chứng cứ mới nào để kháng án. Chúng tôi kháng án là kháng án kêu oan bởi vì phiên xử sơ thẩm đã không xem xét lời trình bày của luật sư biện hộ là ông Lê Trần Luật cũng như của các bị cáo, thì tại phiên xử phúc thẩm này hội đồng xét xử cấp phúc thẩm họ vẫn làm như thế.

Không được nói

Trà Mi: Thế có nghĩa là Luật Sư trong phiên phúc thẩm này đã có cơ hội trình bày hết những lập luận của mình hay không?

LS Huỳnh Văn Đông: Tòa án cố gắng giải quyết vụ này trong một ngày Thứ Sáu hôm nay mà thôi thì rõ ràng là những gì mà chúng tôi muốn trình bày, chúng tôi muốn nói rõ bản chất của vụ việc, thế nhưng nhiều vấn đề chúng tôi không được nói. Có lẽ là hội đồng xét xử cấp phúc thẩm muốn giải quyết vụ án này một cách nhanh chóng cho nên những gì chúng tôi muốn trình bày đều bị vị chủ tọa phiên tòa cắt.

Trà Mi: Ông nói là có những điều mà luật sư không được nói, vậy ông có thể cho biết chi tiết cụ thể những điều đó?

LS Huỳnh Văn Đông: Tôi lấy thí dụ, khi chúng tôi chứng minh hành vi của bị cáo, nguyên nhân từ đâu, chính là cách làm việc của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết vụ tranh chấp đất đai của giáo xứ Thái Hà, thì chúng tôi muốn nói về nguồn gốc đất cũng như quá trình giải quyết các việc khiếu nại của giáo xứ Thái Hà. Thì những vấn đề đó chúng tôi không được trình bày.

Vấn đề thứ hai là chúng tôi muốn có sự so sánh, rõ ràng là những thân chủ của chúng tôi họ cầu nguyện trong ôn hòa nhưng họ đã bị truy tố, bị đưa ra xét xử. Trong khi những người có hành vi gây rối và có những dấu hiệu tội phạm thật sự thì không bị khởi tố, thì tôi muốn nói đến những việc đó để so sánh và chứng minh rằng hành động của các bị cáo không nguy hiểm, nhưng những lời nói đó của chúng tôi không được trình bày.

Trà Mi: Ngoài những điều không được trình bày tại tòa, những lập luận mà luật sư đưa ra tại tòa thì được tòa phản hồi như thế nào?

LS Huỳnh Văn Đông: Hoàn toàn không có sự phản hồi. Khi chúng tôi yêu cầu Viện Kiểm Sát đối đáp lại những gì chúng tôi cần làm sáng tỏ thì Viện Kiểm Sát cũng không có đối đáp lại được. Và như thế là vụ án khép lại.

Trà Mi: Theo chỗ chúng tôi được biết thì Luật sư Lê Trần Luật không được phép tiếp cận hồ sơ vụ án trước phiên tòa này, sau năm lần bảy lượt liên hệ với tòa đều bị từ chối. Không biết là Luật Sư Đông và Luật Sư Sang thì như thế nào?

LS Huỳnh Văn Đông: Tôi và LS Sang thì được Tòa Án Nhân Dân TP.Hà Nội tạo điều kiện để nghiên cứu hồ sơ trước 10 ngày.

Không có công lý

Trà Mi: Là người đại diện bảo vệ pháp lý cho các giáo dân, ông có nhận xét gì về kết quả của phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay?

LS Huỳnh Văn Đông: Đến bây giờ chúng tôi vẫn cho rằng các bị cáo là hoàn toàn không có tội cho nên cái bản án được đưa ra là không thuyết phục đối với chúng tôi về công lý, về luật pháp. Mong muốn của chúng tôi là được hội đồng xét xử phúc thẩm lần này xem xét và tuyên bị cáo không phạm tội, tuy nhiên, các bị cáo cuối cùng vẫn bị tuyên y án sơ thẩm. Chúng tôi thấy rằng công lý - công bằng cho các bị cáo chưa có.

Trà Mi: Các giáo dân cũng bất bình về kết quả của phiên phúc thẩm và họ cho biết là họ sẽ theo đuổi vụ kiện đến tòa tối cao. Ông sẽ tiếp tục đồng hành với họ chứ?

LS Huỳnh Văn Đông: Vâng. Tôi đã tham gia và tôi sẽ đồng hành với họ cho đến cuối cùng.

Trà Mi: Chúng tôi xin chân thành cảm ơn LS Đông đã dành thời gian cho buổi trao đổi này.

LS Huỳnh Văn Đông: Xin cảm ơn chị.
 
Vài câu chuyện nhỏ bên ngoài tòa án
Ngọc Huỳnh
23:16 28/03/2009
* Công lý…ngược
Một cụ ông cầm trên tay tờ giấy in đậm hai chữ CÔNG LÝ. Nhưng cụ lại cầm ngược, cắm đầu chữ xuống đất. Mấy người tưởng cụ không để ý, bèn nhắc cụ.
Cụ bảo: Ở Việt Nam mình bây giờ, chỉ có công lý… ngược thôi!
Và suốt ngày, cụ cứ cầm ngược tờ giấy như vậy.
Người Hà Nội thật thâm thuý.

* Cậu là phóng viên báo Đảng đấy à?
Một nhóm trẻ đang ngồi hát thánh ca.
Một bạn nam làm nhăn một tờ giấy đang cầm trong tay.
Bạn nữ ngồi bên nói: Ơ, sao cậu lại làm nhàu nát sự thật như vậy? Cậu là phóng viên của báo Đảng đấy à?!
Trên tờ giấy ấy in hai chữ SỰ THẬT.

* Bốn phương trời ta về đây…
Một nhóm các bà các chị đang vỗ tay hát rất sôi động. Điệu nhạc nghe rất quen, nhưng ca từ thì hơi lạ. Tôi lắng nghe:
“Bốn phương trời ta về đây kêu oan,
Trong tin yêu và đức can trường,
Cùng nắm tay ta kêu cầu Thiên Chúa
Cho anh em chúng mình được cứu oan”.

Một người trong nhóm cho biết: ban đầu, hai chữ cuối là “giải oan”, nhưng các bà cụ không luyến được thanh hỏi của chữ “giải” khi hát, nên họ sửa thành “cứu oan”. Cả nhóm cười nắc nẻ.
Xem vậy thì biết tinh thần các giáo dân hôm nay rất vui.

* Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam
Một ông cụ vừa say sưa hát cùng với cộng đoàn vừa rưng rưng lệ nơi khoé mắt:
“Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam: trời u ám, bất công lan tràn; Mẹ hãy đưa tay ban phúc bình an, cho Việt Nam qua phút nguy nan”.
Hát một hồi, cụ quay sang bảo tôi: Mấy chục năm rồi “người ta” cấm không cho hát bài này. Bây giờ được hát, lại được sửa lời theo đúng hoàn cảnh, thật cảm động quá! Nhưng chắc “người ta” cũng nổi da gà khi nghe chúng ta hát bài này ấy nhỉ?!

* Không ngủ
Một bạn sinh viên kể với một linh mục rằng đêm hôm qua anh ta hầu như không ngủ. Linh mục hỏi lý do.
Thay cho câu trả lời, anh lại hỏi: Thưa Cha, đêm thứ năm trước ngày Chúa bị đưa ra toà Philatô, Đức Mẹ với mấy thánh Tông Đồ có ngủ được không Cha?
Tuyệt vời!

* Ai xui khiến?
Phân tích những bài báo được đăng trên báo chí nô lệ của nhà cầm quyền Hà Nội mấy ngày trước phiên xử, ai cũng hiểu “người ta” đang cố tìm cách giáng hoạ trên các linh mục ở Thái Hà, bằng cách dụ dỗ hoặc ép buộc các nạn nhân vì công lý nhận rằng mình đã bị các vị ấy sai khiến và xúi giục gây rối.
Một bà cụ cười bảo: Họ chẳng bắt được người xui khiến chúng tôi đòi công lý đâu. Ông ấy chết hơn hai ngàn năm rồi!
Một bà cụ khác thêm vào: Và đã sống lại hiển vinh!
Không biết chính quyền cộng sản có hiểu điều các bà cụ ấy nói với nhau không nhỉ? Chắc là hiểu, nhưng không lường được sức mạnh của những điều ấy.

* Gửi xe
Một chị phụ nữ trạc 50, dáng vẻ lam lũ, dắt chiếc xe đạp cũ, trên ngực đeo ảnh Nữ Vương Công Lý, trên tay cầm cành lá thiên tuế. Chị ghé vào mấy điểm gửi xe ở Hà Đông, nhưng người ta không cho chị gửi xe. Chị cất tấm ảnh và chiếc lá thiên tuế vào giỏ. Gửi được xe, chị hỏi anh giữ xe: Sao hồi nãy không nhận xe tôi? Anh trả lời: Chị thông cảm, “người ta” đã ra lệnh như thế!

* Không dễ in hai chữ CÔNG LÝ lên giấy
Một nhóm sinh viên đã có sáng kiến in và phân phát cho mọi người các tờ giấy A4 có in các chữ CÔNG LÝ, SỰ THẬT… Đêm trước ngày toà xử phúc thẩm, họ chạy quanh tìm các tiệm phô tô những tờ giấy ấy. Nhưng không phô tô được. Nhiều tiệm phô tô sợ CA.
Hơn 11giờ đêm. Mấy bạn sinh viên tìm được một tiệm phô tô. Họ xin chị chủ tiệm giúp phô tô 300 tờ giấy ghi hai chữ HOÀ BÌNH. Chị khép cửa tiệm lại. Chạy máy. Hết 300 tờ. Các bạn lại thuyết phục chị phô tô tờ giấy ghi hai chữ SỰ THẬT. 300 tờ giấy chạy qua máy. Lại xin phôtô 300 tờ CÔNG LÝ. Thoáng chút ngập ngừng, chị lại bấm máy. Rồi cuối cùng là 300 tờ CÔNG LÝ – HOÀ BÌNH – SỰ THẬT.
Bên ngoài, xe cảnh sát vẫn chạy quanh phố.

* Tìm người cầm đầu nhóm sinh viên diễu hành trên phố
Một nhóm, chủ yếu là sinh viên, kéo nhau diễu hành mấy vòng trên phố, miệng hô vang những tiếng CÔNG LÝ, SỰ THẬT, THÁI HÀ VÔ TỘI…
Mấy “sếp lớn” bên CA đứng ngồi không yên: dẹp không được, mà không dẹp cũng không xong. Một “sếp lớn” muốn dùng biện pháp mạnh để “xử lý” nhóm diễu hành. Mấy “sếp” khác tìm gặp các linh mục NNP, NTH.
Một linh mục được họ đề nghị đi nói với “người cầm đầu” nhóm diễu hành ấy đừng tiếp tục diễu hành nữa. Hai anh CA chìm lập tức bám sát vị linh mục.
Không biết vị linh mục nghĩ gì, chỉ thấy ngài lang thang khắp nơi để nói với giáo dân đừng diễu hành trên phố nữa. Có điều, những người mà ngài gặp để dặn dò như thế đều toàn là những nhóm các cụ bà từ sáng tới giờ cứ ngồi yên đọc kinh và hát thánh ca. Không thấy ngài tiếp xúc với bất cứ bạn trẻ nào để nói họ đừng diễu hành nữa.
Phải gần một tiếng đồng hồ sau, hai anh CA chìm kia mới thôi bám sát ngài. Không biết họ có nghi ngờ bà cụ nào trong số các bà cụ già kia là “người cầm đầu” nhóm diễu hành và hô khẩu hiệu trên các tuyến phố hôm nay hay không. Chỉ biết là mấy bạn trẻ cũng đã thôi không diễu hành.

* Ai mạnh hơn ai?
Thường khi, cảnh sát cơ động bị dân oan căm ghét hoặc sợ hãi. Nhưng hôm nay, nhiều lúc người ta thấy mấy anh cảnh sát cơ động trẻ tuổi cứ đỏ ửng mặt và cười tươi. Sao vậy nhỉ? Thì ra có mấy cô gái con nhà có Đạo đang bắt chuyện với họ! Không biết các cô nói gì, song chắc chắn không phải là những lời oán ghét hay những lời van vỉ sợ hãi.

* Nhặt rác
Các Cha báo tin: Toà đang tuyên án. Tức là việc xử án sắp kết thúc rồi.
Vài chị đứng dậy, tay cầm mấy cái bao khá lớn, có vẻ vội vàng. Tôi hỏi: Có việc gì vậy các chị? Một chị đáp: Chúng tôi đi gom rác. Rồi nhanh nhẹn và hăng hái, các chị tươi cười đi dọn vệ sinh.
Chợt nhớ đến cảnh dân chúng cướp hoa ở thủ đô cách đây vài tháng.
 
Tin Đáng Chú Ý
Ngành xây dựng cảnh báo về nhà thầu ngoại: Hàng vạn công nhân Trung Quốc đã vào Việt Nam?
BBC
19:20 28/03/2009
Ngành xây dựng cảnh báo về nhà thầu ngoại: Hàng vạn công nhân Trung Quốc đã vào Việt Nam?

Báo Tuổi Trẻ vừa có bài tường thuật tọa đàm hôm 27/03 của Tổng hội Xây dựng Việt Nam, trong có đưa ra cảnh báo về thực trạng 'lấn sân' của nhà thầu Trung Quốc.

Báo này cho hay vấn đề lớn được bàn luận tại hội thảo của các chuyên gia và giới chức ngành xây dựng là việc "rất nhiều dự án lớn đã triển khai nhưng hàng hóa VN không thể tiêu thụ được vì trúng thầu là các nhà thầu ngoại, chủ yếu là Trung Quốc".

Báo Tuổi Trẻ vừa có tổng biên tập mới, ông Phạm Đức Hải, từ ngày 26/03.

Ông Trần Ngọc Hùng, chủ tịch Tổng hội Xây dựng VN, được trích lời nói tại cuộc tọa đàm về kích cầu trong xây dựng rằng nhiều công trình trọng điểm về điện, xi măng, hóa chất... đều về tay nhà thầu Trung Quốc.

Hơn mười công trình xây dựng nhà máy xi măng, nhiều công trình xây dựng nhà máy điện lớn, đều đang do công ty Trung Quốc thực hiện.

Ông Hùng cho hay: "Nhà thầu Trung Quốc thường đem theo hàng ngàn công nhân và đem cả thiết bị của họ sang, trong khi những thiết bị đó VN hoàn toàn có thể sản xuất được."

Một quan chức có mặt tại tọa đàm đã xác nhận mỗi công trình, "công nhân TQ sang đến 2.000 người".

Được biết doanh nghiệp TQ được hỗ trợ của nhà nước về nhiều mặt, như giảm thuế, nên giá bỏ thầu thường thấp hơn hẳn các công ty nước ngoài khác. Do vậy, khả năng trúng thầu của họ cao hơn.

Tuy nhiên, giới xây dựng VN cảnh báo tình trạng nhà thầu ngoại chỉ dùng công nhân và nguyên vật liệu của nước họ dẫn tới việc "triệt tiêu nội lực".

Giải quyết thất nghiệp

Việc Trung Quốc đưa công nhân vào Việt Nam đã từng được đề cập tới trong bức thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hồi đầu năm.

Nhà thầu Trung Quốc thường đem theo hàng ngàn công nhân và đem cả thiết bị của họ sang, trong khi những thiết bị đó VN hoàn toàn có thể sản xuất được.

Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam Trần Ngọc Hùng

Trong bức thư yêu cầu dừng dự án bauxite Tây Nguyên, Tướng Giáp viết: "Trong tháng 12/2008 đã có hàng trăm công nhân Trung Quốc đầu tiên có mặt trên công trường (dự kiến cao điểm sẽ lên tới vài nghìn tại một dự án)".

Thực ra, chủ trương đưa người lao động ra các nước ngoài đã được Trung Quốc thực hiện một vài năm nay như một biện pháp giúp giải quyết công ăn việc làm và kích cầu kinh tế cho bản thân nước này.

Trong riêng năm 2007, có tới 750.000 công nhân Trung Quốc đã theo các dự án của Trung Quốc sang châu Phi, hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực xây dựng, nông nghiệp và khai khoáng, vốn cần nhân công.

Tình trạng thất nghiệp đang đe dọa xã hội Trung Quốc, với ước tính mười triệu người mất việc vì kinh tế khó khăn.

Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc Trần Đức Minh từng nói với BBC hồi tháng Hai 2009 rằng thất nghiệp là "thách thức lớn nhất mà Trung Quốc đang đối diện".

"Kinh tế sụt giảm cũng là khi nguy cơ bất ổn xã hội gia tăng."

Tuy nhiên Việt Nam cũng đang phải đối phó với tỷ lệ thất nghiệp ngày càng cao, dù chưa có cơ chế để thống kê con số thực tế. Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội trong một báo cáo ước tính có tới 400.000 người mất việc trong năm nay.
 
Báo Tàu: ''Trung Quốc cần có căn cứ quân sự tại Trường Sa''
BBC
19:25 28/03/2009
Tờ Hoàn Cầu Thời báo tại Trung Quốc trong số mới nhất 18/3 vừa có bài của tác giả Đới Hy kêu gọi thiết lập căn cứ quân sự tại Trường Sa. BBCVietnamese.com xin trích giới thiệu cùng quý vị.

Bài bình luận có tựa đề "Quân đội của chúng ta cần thiết lập căn cứ quy mô lớn tại Nam Sa để bảo vệ việc phát triển nguồn tài nguyên Nam Hải" bắt đầu bằng nhận định rằng nguyên tắc nền tảng của Trung Quốc trong xử lý các tranh chấp lãnh thổ là 'Gạt bất đồng để cùng phát triển'.

"Tuy nhiên, với tình hình hiện tại Nam Hải (Biển Đông), chúng ta đã luôn luôn 'gạt bất đồng' nhưng chưa đủ nỗ lực trong tham gia 'cùng phát triển'.

Không giống Philippines hay một số nước khác tìm phương cách luật pháp để xung đột với Trung Quốc, nhiều quốc gia lại dùng các biện pháp kín để lặng lẽ rút dần tài nguyên từ quần đảo Nam Sa (Trường Sa).

Chúng ta chỉ có thể đạt được một sự công nhận (chủ quyền) rõ ràng nếu thúc đẩy phát triển và khai thác nguồn tài nguyên ở Nam Hải.

Trung Quốc vẫn chưa có một giếng dầu hay mỏ khí nào ở Nam Hải

Theo ước tính của các cơ quan chức năng, trữ lượng dầu khí của khu vực bồn trũng chính ở Nam Hải là hàng chục tỷ tấn. Vào cuối thập niên 1990, các nước láng giềng đã hợp tác cùng các tập đoàn dầu khí quốc tế để khoan hơn một ngàn giếng trong vùng biển Nam Sa, phát hiện hơn 200 điểm có dầu khí và khai thác hơn 180 mỏ.

Các xung đột và tranh chấp trong Đông Hải và Nam Hải, cùng khủng hoảng qua eo biển Đài Loan tiếp tục làm mỗi con người Trung Quốc day dứt. Nói tương lai Trung Quốc nằm trong các vùng biển đảo là không hề phóng đại.

Năm 1999, sản lượng dầu hàng năm của các nước này đạt trên 40 triệu tấn và sản lượng khí đốt là 31 tỷ mét khối, tức lớn hơn sản lượng dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc là 2,5 và 7 lần.

Tin cho hay, một nước chiếm nhiều đảo của Trung Quốc tại Nam Sa nhất đã chia vùng biển quanh quần đảo này thành hàng trăm lô mời thầu và tiếp tục ký hợp đồng với Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Anh, Đức cùng các nước khác để thăm dò và khai thác dầu khí.

Mỗi năm, nước này thu nhập hơn 10 tỷ đôla từ dầu khí. Vào cuối 2004, Việt Nam đã xây đường băng trên đảo Trường Sa để phi cơ loại vừa có thể hạ cánh.

Vậy mà Trung Quốc vẫn chưa có lấy một giếng dầu hay mỏ khí nào hoạt động tại Nam Hải.

Một số nguồn tin trong ngành nói đó là vì hệ thống quyền lực cục bộ giữa giới chức trung ương và địa phương.

Tương lai của Trung Quốc nằm tại các vùng biển đảo

Không chú ý đúng mức tới các vùng biển đảo sẽ dẫn tới hậu quả trầm trọng. Chúng ta đã có bài học sâu sắc trong lĩnh vực này.

Tới nay, các xung đột và tranh chấp trong Đông Hải và Nam Hải, cùng khủng hoảng qua eo biển Đài Loan tiếp tục làm mỗi con người Trung Quốc day dứt.

Nói tương lai Trung Quốc nằm trong các vùng biển đảo là không hề phóng đại.

Không có nguồn lợi biển và không bảo đảm an ninh được cho các tuyến giao thương hàng hải, Trung Quốc sẽ dựa vào đâu để mà hồi sinh?

Tất cả chúng ta cần hiểu rõ tính cấp bách trong việc phát triển Nam Hải. Cần chạy đua với các nước láng giềng, áp dụng các chính sách ưu đãi đặc biệt, khuyến khích các địa phương và các công ty, các cá nhân để phát triển và khai thác nguồn dầu khí; nhằm tăng khí thế của toàn dân trong việc khai thác Nam Hải.

Thiết lập căn cứ quy mô lớn tại Nam Hải

Nguồn tài nguyên Nam Hải không chỉ giới hạn trong dầu và khí đốt, bởi vậy việc phát triển Nam Hải cần được hoạch định với tính toán và sử dụng các biện pháp đa dạng, cân nhắc mọi yếu tố.

Phát triển dầu và khí đốt phải là hoạt động chính trong bước tiếp theo.

Một căn cứ quy mô lớn phải được thiết lập tại Nam Hải, nơi mà vị trí chiến lược của tuyến hàng hải quốc tế phải được sử dụng để cung cấp các dịch vụ toàn diện cho các tàu của Trung Quốc và nước ngoài.

Căn cứ này sẽ là tiền đề cho sự hiện diện ngoài khơi của Trung Quốc trên thế giới.

Một khi dây chuyền hàng hải bao gồm các ngành đánh cá, sinh học biển, dầu khí, vận tải, du lịch dịch vụ vv.. được thiết lập, nó sẽ trở thành động lực kinh tế to lớn cho tỉnh Hải Nam và cả nước.

Khi đã có quan tâm lợi ích của cả nước, sự tham gia của hải quân là điều tất yếu.

Song song với việc phát triển nguồn tài nguyên Nam Hải, cần thiết lập căn cứ (quân sự) trên quần đảo Nam Sa, với các cơ sở dành cho máy bay, trực thăng và các loại hình tác chiến khác. Hải phận và không phận rộng lớn ở đây sẽ trở thành địa điểm huấn luyện quân sự... không chỉ bảo vệ phát triển kinh tế của toàn Nam Hải mà còn thúc đẩy hiện đại hóa quân đội.

Tác giả Đới Hy là đại tá không quân và là một nhà bình luận có tiếng về các vấn đề chiến lược. Tờ Hoàn cầu Thời báo là ấn bản bổ sung của cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc - Nhân dân Nhật báo, ra mỗi tuần hai lần bằng tiếng Trung.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Ngược Xuôi
Lm. Tâm Duy
05:10 28/03/2009

NGƯỢC XUÔI



Ảnh của Lm. Tâm Duy

Lênh đênh ba bốn thuyền kề

Thuyền ra Kẻ Chợ, thuyền về sông Dâu

(Ca dao)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền