Ngày 18-03-2014
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Powerpoint Chúa Nhật Thứ 3 Mùa Chay Năm A - 3rd Sunday of Lent Year A
Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng sdb
00:29 18/03/2014
 
''Nước hằng sống''chính là Chúa Giêsu
Jos. Vinc. Ngọc Biển
09:48 18/03/2014
“NƯỚC HẰNG SỐNG” CHÍNH LÀ ĐỨC GIÊSU

(Chúa Nhật 3 Mùa Chay, A)

Trong kiếp nhân sinh của con người, phát sinh từ sự thiếu thốn, thèm muốn, mong mỏi và hy vọng được thỏa mãn, nên người ta thường khao khát một điều gì đó tốt hơn những gì đang sở hữu. Có những khát khao làm cho cuộc sống của con người tốt hơn sau khi đạt được. Nhưng cũng không thiếu gì những thỏa mãn làm cho tình trạng của con người trở nên tồi tệ hơn.

Trình thuật của thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe cho thấy có một thứ khát khao mà theo lẽ thường thì ít ai nghĩ tới, đó là khát khao “Nước Hằng Sống”. Một khi đã được thỏa mãn niềm khát khao quan trọng nhất này, thì mọi khát khao khác cũng được trở nên dư đầy.

1. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu

Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari. Một cuộc gặp gỡ hiếm có và xem ra rất bất thường, hy hữu và đặc biệt giữa một bên là người Dothái, bên kia là người Samari.

Hy hữu, bất thường, bởi vì từ trước đến nay giữa người Samari và người Dothái không hề có sự liên lạc, giao thương và luôn trong trạng thái nghi kỵ, khinh khi. Ấy vậy mà hôm nay, Đức Giêsu là người Dothái, người phụ nữ là người Samari lại có buổi gặp nhau thân tình. Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu rời Giuđê để đi Galilê. Trên hành trình đó Ngài đã chọn con đường tắt, nhanh nhất để đi. Con đường đó phải băng qua làng Samari. Chính khi băng qua đây, mà Ngài gặp gỡ người phụ nữ Samari. Đây là cuộc gặp hy hữu và bất thường.

Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc gặp gỡ đặc biệt vì: ban đầu, Đức Giêsu là người chủ động xin nước nơi chị phụ nữ Samari từ giếng Giacóp, Ngài lên tiếng: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4,7). Người phụ nữ quá ngỡ ngàng bởi lẽ giữa người Dothái và Samari đã từ lâu, họ không đội trời chung, và người Samari luôn bị người Dothái khinh miệt, không thèm tiếp xúc... Nhưng Đức Giêsu đã đi bước trước để phá vỡ rào cản mà lâu nay vẫn trói buộc giữa hai bên, bằng việc Ngài bắt chuyện và chủ động xin nước uống. Hành động này của Đức Giêsu làm cho người phụ nữ không khỏi ngạc nhiên, vì thế, chị ta thốt lên: "Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" (Ga 4,9). Nhưng Đức Giêsu đã trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống" (Ga 4, 10); và như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu đã nói trực tiếp chính Ngài là nguồn mạch nước hằng sống, thứ nước ấy uống vào sẽ không còn khát nữa. Khi nghe thấy thế, Người đàn bà đã tha thiết xin Đức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước" (Ga 4, 15).

Thật vậy, qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Cách mạng về khoảng cách địa lý, về vai vế để đi đến một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cách mạng tâm hồn. Nhờ cuộc cách mạng tâm hồn này, mà từ nay, giữa người Dothái và người Samari được sống và sống dồi dào khi thờ phượng Chúa không chỉ ở trên núi này hay núi nọ, mà ngay tại trong tâm của mình qua Thần Khí và sự thật.

2. Đức Giêsu là Nước Hằng Sống

Khi nói về cuộc cách mạng tâm hồn nơi chị phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, tưởng cũng nên nhắc lại: trước kia giữa người Dothái và người Samari, họ có chung một nguồn gốc. Nhưng do cuộc sống thay đổi và vì thời cuộc..., nên người Samari có những giao thương với ngoại bang, từ đó người Do thái cho là lai căng, thậm chí là bội giáo, và thường khinh thị, không muốn giao tiếp.

Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã vượt qua ranh giới của cái gọi là “ta và địch”, trong truyền thống để đến với anh chị em của mình.

Khi Ngài chủ động đến với chị ta như thế, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng nhằm cải hóa tâm hồn chị. Tâm trạng và thái độ của người đàn bà này có thể nói là một cuộc diễn biễn tiệm tiến trong ân sủng và đức tin.

Thật vậy, thoạt tiên, sự xuất hiện của Đức Giêsu trước mặt chị chẳng hơn gì một “tên Dothái”. Đây là lối nghĩ miệt thị nhau, vì đã có mâu thuẫn từ nhiều thế hệ. Nhưng sau đó, chị ta đã “thưa ông”. Tiếp theo, khi được Đức Giêsu mặc khải cho biết chị ta đã 5 đời chồng rồi, lúc đó, chị đã gọi Ngài là một vị “ngôn sứ” là Đấng “Mêsia”. Cuối cùng, chị đã tôn vinh Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian.

Qua câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã mặc khải hai điều:

Trước tiên, Đức Giêsu mặc khải cho người phụ nữ biết rằng: Ngài chính là Đấng Kitô, là Mêsia mà muôn dân mong đợi từ lâu. Ngài chính là nguồn mạch phát sinh sự sống, nên gặp được Ngài là gặp được chính nguồn sự sống bất diệt: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời" (Ga 4, 13-14). Như vậy, Đức Giêsu chính là “Nước Hằng Sống”.

Thứ đến, Đức Giêsu mặc khải thêm: đã đến lúc không còn chuyện phân biệt rằng Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của chị nữa. Không còn chuyện cùng một Thiên Chúa chúng ta thờ, nhưng lại chỉ thờ ở đây mà không thờ chỗ khác. Vì thế, Đức Giêsu cất tiếng nói: "Nhưng giờ đã đến - và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 23).

Như vậy, điều mà Đức Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ khi xưa, cũng chính là điều mà Ngài muốn mặc khải cho chúng ta ngày hôm nay.

3. Sứ điệp Lời Chúa

Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao nhu cầu hưởng thụ. Thượng tôn vật chất... Tuy nhiên, vẫn còn đó những thiếu thốn khi trong nhà có nhiều tiền. Vẫn còn đó sự bất an, khi quyền lực có trong tay. Và, vẫn còn đó, một khoảng cách giữa người với người ngay trong cùng một căn nhà...

Vì thế, trong cuộc sống hiện thời, con người luôn khắc khoải và có những khát vọng như:

Khát vọng chân lý, công bằng khi phải đối diện với sự gian dối, bất công. Hoặc sống trong cảnh thù hận, ích kỷ...người ta khao khát tình thương, lòng bao dung, sự tha thứ. Còn sống trong chiến tranh, loạn lạc, đau khổ và bất an, thì người ta mong muốn có hòa bình, hạnh phúc và an vui...

Như vậy, con người vẫn luôn mong được hạnh phúc. Nhưng có biết bao người càng tìm càng mất. Tại sao vậy? Thưa, vì họ tìm và gắn bó vào những thực tại trần thế như: quyền, tiền, danh vọng, nhục dục... nên không bao giờ họ được khỏa lấp nỗi khát vọng trong sâu thẳm tâm hồn của mình. Tình trạng của người Phụ nữ bên bờ giếng là một minh họa. Chị ta ngồi ngay bên miệng giếng, nhưng tâm hồn vẫn khát. Chị ta cứ ngỡ rằng khi lao mình vào những thú vui nhục dục... thì sẽ được hạnh phúc. Không phải thế! Chị ta đã lầm khi đặt lý tưởng, mục đích của cuộc đời chị sai chỗ, nhầm đối tượng. Chỉ khi gặp được Đức Giêsu, chị ta mới hết khát và thỏa mãn. Thật vậy: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Hay như thánh Augustinô cũng phải thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

Thật vậy, theo bản năng của con người, ai trong đời mà lại không mong muốn đạt được chân, thiện, mỹ. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng không khác gì Dân Itrael khi xưa. Luôn đi tìm những thứ nhất thời, mau qua. Họ được Chúa cứu và giải thoát ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập, nhưng không bao lâu, người ta lên tiếng trách mọc Chúa và nhớ những củ hành củ tỏi bên Aicập. Họ đã lầm! Đang có Chúa ở bên, nhưng vẫn không nhận ra.

Cũng vậy, khi chưa cảm nhận được Chúa thực sự, con người luôn sống hình thức và phụ thuộc vào những chuyện bên ngoài. Vì thế, vẫn còn đó những anh chị em sốt sắng đi lễ nhà thờ, nhưng sẵn sàng cãi vã to tiếng với những người sống chung quanh chỉ vì con chó, con mèo, hay mấy đứa trẻ chơi với nhau... Cũng vẫn còn đó khi làng này và làng bên kia có những khúc mắc từ lâu, nên hôm nay có lễ ở làng bên thì bên này làng tỏ vẻ ngần ngại không muốn đi, chỉ vì sự nghi kỵ trước kia lại nổi lên.

Mong sao, với sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta sẽ khao khát đi tìm chân lý, sự sống. Đi tìm chính Chúa và sống với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng bỏ qua khoảng cách kỳ thị để đến được với nhau. Bởi vì Chúa là Chúa của mọi người chứ không chỉ riêng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết vượt lên trên những rào cản của kỳ thị, ghét ghen, để xây dựng sự hiệp nhất. Luôn biết mở lòng ra để đón nhận chính Chúa vào trong cuộc đời, hầu chúng con đáng được hưởng hạnh phúc viên mãn. Amen.

 
Đấng xin nước là Nguồn Nước Hằng Sống
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
09:50 18/03/2014
Đấng xin nước là Nguồn Nước Hằng Sống

Suy niệm Chúa Nhật III Mùa Chay – năm A (Ga 4, 5 - 42)

Lộ trình phụng vụ Mùa Chay năm A dẫn đưa chúng ta sống con đường của các anh chị em dự tòng đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm sống dậy trong chúng ta ơn Thánh Tẩy.

Giáo Hội luôn kết hợp lễ Vọng Phục Sinh với việc cử hành bí tích Rửa tội trong đó hiện thực mầu nhiệm cao cả của cuộc sống kitô: chết đi cho tội lỗi, tham dự vào sự sống mới trong Chúa Kitô phục sinh và nhận lấy Chúa Thánh Thần, Ðấng đã cho Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại (x. Rm 8,11).

Thế nên, Chúa Nhật thứ nhất gọi là Chúa Nhật cám dỗ, vì giới thiệu các cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu trong sa mạc, và mời gọi chúng ta đứng về phía Chúa Giêsu để chống lại các cám dỗ. Chúa Nhật này sau khi nghe chứng tá của các cha mẹ đỡ đầu, Giáo Hội cử hành việc tuyển chọn những người sẽ được nhận lãnh bí tích Rửa Tội trong đêm Vọng Phục Sinh.

Chúa Nhật thứ hai gọi là Chúa Nhật của tổ phụ Abraham và Chúa Nhật Hiển Dung. Bí Tích Rửa tội là bí tích của đức tin và thiên chức làm con Thiên Chúa: theo Abraham tin tưởng vào Chúa và ra đi để trở nên con cái Chúa.

Bước vào Chúa Nhật thứ ba, chúng ta nghe lại cuộc đối thoại nổi tiếng của Ðức Giêsu với người thiếu phụ Samaria, được tường thuật bởi Thánh Sử Gioan. Người thiếu phụ hằng ngày đi lấy nước từ một giếng nước cổ xưa, có từ thời của tổ phụ Giacóp. Và ngày hôm ấy, chị gặp Ðức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một chặng hành trình đường xa (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là nước hằng sống, Ngài làm cho con người đỡ khát, nước Chúa Thánh Thần. Chúa Nhật này Giáo Hội cử hành việc bỏ phiếu các tân tòng lần thứ nhất và trong tuần trao cho họ Kinh Tin Kính.

Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống

Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nới « nước hằng sống » biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô là chính Nguồn Nước ấy (9). Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin và khát sự sống đời đời. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Ngài xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là nước hằng sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này. Câu hỏi được đặt ra :

Phải chăng Đức Kitô khát nước ?

Vâng, Ngài khát, nhưng Ngài không khát nước trên mặt đất này, hay khát thức uống của con người, mà khát sự cứu chuộc nhân loại. Thánh Ephrem viết : “Khi khát nước, Chúa chúng ta đã ngó đầu vào miệng giếng; Ngài xin người đàn bà nước uống. Từ giếng nước, Ngài đã câu được một tâm hồn. Nhưng tâm hồn ấy đã lại câu tiếp được cả dân trong thành” (Thánh Thi Giáng sinh số 4, 43-44).

Tại sao Chúa Giêsu lại xin người đàn bà xứ Samaria nước uống khi bà đến kín đầy vò nước, không những thế, Ngài còn khẳng định rằng, Ngài có thể trao ban mạch nước dồi dào hơn từ giếng thiêng liêng nếu ai đến xin Ngài ?

Câu trả lời là vì dân Samaria thờ ngẫu tượng, nên Ngài khát đức tin của người đàn này. Chúa Giêsu nói : “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà : ‘xin cho toi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống (...) Tất cả những ai uống nước này sẽ còn khát : nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa ; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 10-14). Đúng như lời Kinh Tiền Tụng thánh lễ hôm nay diễn tả : “Lạy Chúa là Cha chí thánh ... Khi người phụ nữ xứ Sa-ma-ri cho nước uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Chúa…”

Hình ảnh người tân tòng

Người đàn bà xứ Samaria là hình ảnh của người tân tòng, còn đang chịu sự ràng buộc của ma quỷ, năm đời chồng bà đã từ bỏ, người đàn ông thứ sáu đang sống với bà là tượng trưng. Giếng nước Giacóp thể hiện tiệc cưới của tâm hồn bà cử hành với Thiên Chúa đã được thanh tẩy bằng nước Rửa tội. Theo M. Dulaey thì : “Giữa thế kỷ thứ III, Origène giải thích rằng, giếng nước này là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người và hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa.”, từ nay bà tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người và đi loan báo Đức Kitô cho dân làng bà, kết quả là : “Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng : Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Theo Origène “Vị Hôn Phu đích thực là Chúa Kitô (Ga 13, 181). Một khi người đàn bà này tìm thấy Ngài, bà liền chạy về loan báo cho dân làng biết : kể từ Origène, người đàn bà này là hình ảnh của người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình.”

Nguồn suối cứu độ là chính Đức Kitô

Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là nguồn nước, từ cạnh sườn bên phải Ngài, tuôn trào dòng nước xót thương; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng nước hằng sống ấy. Thật ngưỡng mộ biết bao : một người phụ nữ nhẹ nhàng đến giếng Samaria kín nước, bà lấy nước từ dòng nước Giêsu ! Tìm được nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Chúa Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Kitô và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành ; vai nhẹ bớt, bà trở về tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.

Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời, nước này không phải là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá đó sao ? Đây không phải là các bí tích của Giáo Hội mà Phép rửa trình bầy mầu nhiệm của nước ấy, để ám chỉ rằng nước đó phát sinh từ cái chết cứu độ của Đấng Cứu Thế đó hay sao? Trong mọi trường hợp, các Giáo phụ thấy nước tuôn chảy từ tảng đá do Môisen đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của nước chẩy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.

Mỗi người chúng ta đều có thể nhìn thấy chính mình nơi hình ảnh của người thiếu phụ Samari: Ðức Giêsu chờ đợi chúng ta, nhất là trong thời điểm của Mùa Chay này, để đối thoại với chúng ta, để nói với con tim của chúng ta. Chúng ta hãy dừng lại trong một khoảnh khắc thinh lặng, tại căn phòng của chính chúng ta, tại một ngôi thánh đường, hay tại một nơi nào đó trong ngôi nhà của chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe âm vang lời Ngài nói với chúng ta: “Nếu bạn nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban... ”

Lạy Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, xin giúp chúng con để chúng con không đánh mất cơ hội gặp gỡ này, là nơi chúng con có thể kín múc nguồn hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Thánh Giuse: Bảo vệ công trình của Thiên Chúa
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
21:10 18/03/2014
Từ tạo thiên lập địa Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho thế giới và đặc biệt cho con người. Thiên Chúa sáng tạo mọi sự và thấy hài lòng vì mọi sự tốt đẹp. Nhưng chẳng bao lâu ma quỉ gieo sự xấu vào thế giới. Con người hư hỏng vì nghe lời ma quỉ chống lại Thiên Chúa. Vì thế lâm vào cảnh khốn cùng. Nhưng Thiên Chúa không từ
bỏ ý định yêu thương nên quyết định sai Con Một xuống cứu độ trần gian. Và Thiên Chúa chọn thánh Giuse làm người bảo vệ Đấng Cứu Thế và bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Thánh Giuse đã hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ, đưa công trình cứu chuộc của Thiên Chúa đến thành công.

Ngài bảo vệ chính mình khi sống công chính. Công chính là công bình và chính trực. Chính trực là thẳng ngay. Công bình là của ai trả cho người ấy. Chỉ nhận những gì thuộc về mình. Tin mừng hôm nay xưng tụng thánh Giuse là công chính vì đã không dám nhận Đức Mẹ làm bạn và nhận Chúa Giêsu làm con. Vì thánh nhân biết đây là công trình của Thiên Chúa. Chỉ khi Thiên Chúa truyền ban ngài mới dám lãnh nhận. Từ đó ngài quan tâm bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu.

Ngài bảo vệ sự sống của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Nếu không có thánh Giuse, Đức Mẹ có thể bị kết án tử hình, bị ném đá theo luật Do thái. Và Chúa Giêsu khó thoát khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê bạo chúa.

Ngài bảo vệ công trình cứu chuộc khi phát triển sự sống của Chúa Giêsu. Dưới mái nhà đơn sơ Nagiarét, Chúa Giêsu càng khôn lớn càng khỏe mạnh, càng thông minh và càng giầu ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa. Để có thể trưởng thành, hoàn thành công cuộc cứu chuộc nhân loại.

Ngài tiếp tục bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Nhiệm vụ của thánh nhân chưa kết thúc. Vì công trình của Thiên Chúa vẫn đang tạo dựng một thế giới tốt đẹp. Nhưng ma quỉ vẫn luôn gieo rắc sự xấu, tàn phá công trình của Thiên Chúa. Vũ trụ bị tàn phá. Thiên nhiên bị tàn phá. Sinh vật bị tàn phá. Nhưng trầm trọng nhất là con người bị tàn phá. Tàn phá từ thể chất đến tinh thần. Nguy hiểm nhất là tàn phá về đạo đức. Con người được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Nhưng con người đang bị tàn phá đến độ biến dạng không còn phản ánh vinh quang của Thiên Chúa nữa. Đáng sợ nhất khi con người không còn lương tâm, không còn phân biệt được phải-trái, thiện-ác, tốt-xấu. Vì thế hôm nay chúng ta cần đến sự bảo vệ của thánh Giuse.

Và chúng ta cần phải noi gương Thánh Cả, tiếp tay với ngài trong công cuộc bảo vệ công trình của Thiên Chúa.

Trước hết là bảo vệ chính mình khỏi ô nhiễm thói đời để sống công chính. Ngày nay người ta dễ dàng nhận những gì không phải của mình. Vì nhận những gì không phải của mình nên người ta sẵn sàng chiếm đoạt của người khác. Từ của cải đến chức quyền. Từ danh dự đến uy tín. Thậm chí chiếm đoạt cả quyền tự do và quyền sống nữa. Trong một bầu khí như thế, cần rất nhiều đời sống công chính. Chỉ nhận những gì của mình. Và trả lại cho tha nhân những gì của họ.

Không những bảo vệ chính mình, ta còn phải bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Thế giới hôm nay bắt đầu ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Nhưng ít có ai bảo vệ con người là trọng tâm của công trình của Thiên Chúa. Trong sứ điệp mùa chay năm 2014 này, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, tự trở nên nghèo để anh em được trở nên giầu có.

Đức Thánh Cha nói thế giới hôm nay còn rất nhiều người nghèo. Tuy nhiên nghèo chưa đáng sợ bằng lầm than khốn khổ. Lầm than khốn khổ là nghèo mà bị bỏ rơi, không được ai quan tâm đoái hoài. Ngài phân biệt ba loại lầm than khốn khổ. Lầm than khốn khổ về vật chất là nghèo mà không được ai quan tâm giúp đỡ, bị bỏ rơi, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Lầm than khốn khổ về tinh thần. Là những người bị áp bức, bất công, bị bóc lột, bị chà đạp. Mà cũng bị bỏ rơi, không có ai bênh vực, không có ai khích lệ, an ủi. Lầm than khốn khổ về luân lý. Là những người rơi vào tội lỗi, tệ nạn. Nhưng cũng không được ai quan tâm giúp đỡ.

Ngài kêu gọi chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, trở nên nghèo khi đến với những anh chị em lầm than khốn khổ. Có lẽ ta đã nghĩ đến giúp người nghèo khổ vật chất. Nhưng ta ít nghĩ đến giúp những người đang bị áp bức bất công, bị bóc lột, bị tước mất những quyền cơ bản của con người như quyền được sống, quyền được tự do, tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự do phát biểu. Và cả những người vì bênh vực quyền lợi chính đáng mà bị tù tội, bị ám hại, và bị mọi người sợ hãi xa tránh.

Công trình của Thiên Chúa mọi sự đều tốt đẹp. Tất cả nhằm mục đích đem sự sống và hạnh phúc cho con người. Nhưng công trình của Thiên Chúa cần được bảo vệ. Mừng lễ thánh Giuse, ta hãy cầu xin ngài tiếp tục bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Và chúng ta hãy tiếp tay với ngài bảo vệ công trình của Thiên Chúa. Bảo vệ vũ trụ. Bảo vệ thiên nhiên. Bảo vệ súc vật. Bảo vệ môi trường sống. Và quan trọng nhất bảo vệ chính sự sống. Bảo vệ con người. Bảo vệ hạnh phúc của con người. Chính khi bảo vệ công trình của Thiên Chúa ta xây dựng một xã hội tốt đẹp. Và đem hạnh phúc cho mọi người.

Lạy thánh Giuse xin bảo vệ con người, bảo vệ Giáo Hội và bảo vệ thế giới. Amen.

Bài giảng Lễ Thánh Giuse: 19/3/2014
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Vị giám mục Dòng Tên, lãnh đạo của cộng đồng Công giáo “thầm lặng” Trung Quốc qua đời
Chỉnh Trần, S.J. chuyển ngữ
09:05 18/03/2014
Vị giám mục Dòng Tên, lãnh đạo của cộng đồng Công Giáo “thầm lặng” Trung Quốc qua đời

Đức Giám Mục Giuse Phạm Trung Lương (范忠良, Fan Zhong-liang), Dòng Tên, giám mục Thượng Hải, 96 tuổi, Chủ tịch Hội đồng Giám mục của Cộng đồng Công Giáo “thầm lặng” Trung Quốc, và là người lãnh đạo cộng đồng Công Giáo “thầm lặng” tại Thượng Hải, đã qua đời tại Thượng Hải hôm Chúa Nhật 16-03 vừa qua, sau một thời gian dài lâm bệnh.

Đức Cha Giuse sinh năm 1918 và được rửa tội lúc 14 tuổi. Ngài được nhận vào nhà tập Dòng Tên Thượng Hải năm 1938, thụ phong linh mục năm 1951. Năm 1955 ngài bị bắt, bị khép vào "tội phản cách mạng" và bị kết án 20 năm tù giam ở tỉnh Thanh Hải. Tuy nhiên đến năm 1979, cha Phạm Trung Lương đã được trả tự do.

Năm 1985, ngài được bí mật tấn phong Giám mục phụ tá giáo phận Thượng Hải. Năm 2000, ngài được Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa Thượng hải nhưng không được chính quyền Trung Quốc công nhận. Trong nhiều năm qua Đức Cha Lương bị bệnh mất trí nhớ, sống ẩn dật trong một căn hộ và vẫn bị quản chế.

Sau khi nghe tin Đức Cha Giuse qua đời, Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân, cũng là một người gốc Thượng Hải đã chia sẻ rằng: “Người tôi tớ trung tín và người mục tử tốt lành này đã hoàn tất 'đường thập giá' của mình và nay trở về nhà Cha. Chúng ta nhớ đến ngài như một mẫu gương và chúng ta chắc chắn rằng từ thiên quốc ngài sẽ bảo vệ đoàn chiên của mình”.

Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc có khoảng 8 – 12 triệu tín hữu và bị phân chia thành 2 cộng đồng. Cộng đồng thứ nhất được nhà nước công nhận và do Hội Công Giáo yêu nước (không được Vatican công nhận) lãnh đạo. Hội Công Giáo yêu nước này tự ý bổ nhiệm giám mục mà không có phép của Tòa Thánh. Cộng đồng thứ hai không được nhà nước công nhận và thường được gọi là cộng đồng “thầm lặng” hoặc cộng đồng “hầm trú”. Các giám mục thuộc cộng đồng “thầm lặng” được Tòa thánh bổ nhiệm nhưng không được chính quyền công nhận. Các ngài thường bị bắt bớ, quản thúc và không được phép thi hành sứ vụ giám mục.

Giáo Hội Công Giáo tại Thượng Hải cũng có hai cộng đồng: cộng đồng "công khai" và cộng đồng "thầm lặng". Cả hai cộng đồng này có khoảng 150.000 tín hữu với hơn 100 linh mục.

Trước khi Đức Cha Aloysius Kim Lỗ Hiền, Dòng Tên, giám mục giáo phận Thượng Hải, qua đời năm 2013, ngài đã truyền chức giám mục cho Đức Cha Tađêô Mã Đạt Khâm (được cả Vatican và chính quyền Trung Quốc công nhận) để kế nhiệm ngài chăm sóc giáo phận. Tuy nhiên, Đức Giám Mục Mã Đạt Khâm đã bị chính quyền quản thúc tại gia từ khi ngài công khai tuyên bố rút khỏi Hội Công Giáo Yêu nước, ngay sau khi được tấn phong giám mục vào ngày 07-07-2012.

Chỉnh Trần, S.J.
 
ĐGH danh dự bình luận cuộc phỏng vấn của ĐGH Phanxicô
Nguyễn Long Thao
13:42 18/03/2014
VATICAN CITY (AP) — Nữ ký giả Nicole Winfield của hãng thông tấn AP viết bài báo có tựa đề ĐGH nghỉ hưu Bênêđict bình luận về cuộc phỏng vấn của ĐGH Phanxicô.

Nữ ký giả này viết rằng vị bí thư làm việc cho cả hai vị Giáo Hoàng là Đức Ông Georg Gaenswein cho biết ĐGH danh dự Bênêđictô XVI đã viết một bài dài 4 trang bình luận về cuộc phỏng vấn lịch sử của ĐGH Phanxicô dành cho một tờ báo của Dòng Tên.

Đức Ông Georg Gaenswein tuyên bố với đài phát thanh ZDF của Đức rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã xin ý kiến của ĐGH Bênêđict về nội dung trả lời cuộc phỏng vấn

Cha Antonio Spadaro, dòng Tên, người đã thực hiện cuộc phỏng vấn này cho biết bài phỏng vấn trước khi in đã được đệ trình cho ĐGH Phanxicô đọc và ĐTC Phanxicô đã gửi bản này cho ĐGH danh dự Bênêđictô để xin bình luận.

Những lời bình luận của ĐGH danh dự đã không ảnh hưởng gì tới nội dung bài phỏng vấn của ĐTH Phanxicô. Điều đó, theo giới quan sát tại Tòa Thánh, chứng tỏ là đã có sự hợp tác đặc biệt giữa hai vị Giáo Hoàng. Hai vị đã thường xuyên liên lạc với nhau bằng điện thoại, hay gặp mặt, hay bằng thư từ qua lại nhờ Đức Ông bí thư Gaenswein.

Đức Ông Gaenswein cũng cho biết khi ĐGH Phanxicô gửi bản sao cuộc phỏng vần cho ĐGH danh dự thì 3 ngày sau ĐGH Phanxicô nhận được phúc đáp với 4 trang bình luận.

Theo Đức Ông Gaenswein, bình luận của ĐGH danh dự không có gì khác với nội dung của ĐGH Phanxicô, chỉ có một vài điều là cần bổ túc hoặc có thể đề cập đến trong một dịp khác.. Đức Ông bí thư cũng cho biết ĐGH Phanxicô cũng cậy trông vào những khuyến cáo khôn ngoan của ĐGH tiền nhiệm, đồng thời Ngài cũng muốn ĐGH tiền nhiệm giảm bớt sinh hoạt nghỉ hưu, tham gia vào sinh hoạt đời sống Giáo Hội.
 
Bill Gates đang rón rén bước vào Đạo Công Giáo
Vũ Văn An
18:00 18/03/2014
Hemant Mehta vừa lần rở lại hành trình rón rén bước vào Đạo Công Giáo của người giầu thứ hai trên thế giới, chủ tịch Microsoft Bill Gates.

Trong cuộc phỏng vấn của PBS năm 1995, Bill Gates phát biểu rằng: “Tôi không phải là người đi nhà thờ thường xuyên. Các yếu tố chuyên biệt của Kitô Giáo không phải là những điểu khiến tôi tin nhiều. Trong các khía cạnh luân lý của tôn giáo, có rất nhiều giá trị. Tôi nghĩ giá trị này có thể có tác dụng hết sức, hết sức tích cực… Về phương diện hành sự, tôi chấp nhận cách tiếp cận có tính khoa học nhiều hơn đối với lý do tại sao sự việc đã xẩy ra và chúng xẩy ra cách nào. Tôi không biết liệu có thần minh hay không, nhưng tôi nghĩ các nguyên tắc tôn giáo đều rất có giá trị”.

Năm 1997, trong cuộc phỏng vấn của Time, Bill Gates tâm sự rằng: Melinda (vợ ông) là người Công Giáo, đi nhà thờ thường xuyên và muốn dưỡng dục Jennifer cách đó. “Nhưng nàng đề nghị với tôi một điều: nếu tôi chịu đi nhà thờ, gia đình tôi vốn theo giáo phái Congregationalist (Công Lý Hội), thì Jennifer có thể được dưỡng dục trong bất cứ tôn giáo nào tôi chọn”. Gates công nhận rằng ông bị lôi cuốn bởi đề nghị này vì ông thích con gái ông có một tôn giáo “ít thần học và mọi chuyện” hơn Đạo Công Giáo, nhưng ông đã không theo đề nghị ấy. Ông giải thích “Về phương diện dành tài nguyên thì giờ mà thôi, tôn giáo không hiệu năng bao nhiêu. Có nhiều điều tôi có thể thực hiện được hơn vào sáng Chúa Nhật”.

Năm 2010, bích chương của Liên Minh Sinh Viên Duy Tục Illini có đăng hình Bill Gates với những dòng chữ sau: Người giầu thứ hai trên thế giới đã hiến tặng hơn 26 tỷ cho bác ái. Bill Gates là người tốt mà không cần có Thiên Chúa (good without God). Bạn thì sao?

Năm 2014, trên tập san Rolling Stone, tức tập san gần đây có hình và bài về Đức Phanxicô trên trang bìa, Bill gates cho rằng “Tôi nghĩ: các hệ thống luân lý của tôn giáo đều siêu quan trọng. Chúng tôi từng dưỡng dục con cái mình theo cung cách tôn giáo; chúng vốn đi nhà thờ Công Giáo, nơi Melinda thường đi và tôi cũng tham gia. Tôi vốn may mắn và do đó đã hết sức cố gắng giảm thiểu các bất công trên thế giới. Và đó là một thứ tín ngưỡng tôn giáo. Tôi muốn nói, ít nhất đó cũng là niềm tin luân lý…

Tôi đồng ý với những người như Richard Dawkins (nhà vô thần nổi tiếng) rằng nhân loại cảm thấy nhu cầu phải có những huyền thoại về tạo dựng. Trước khi thực sự hiểu bệnh tật và thời tiết và những điều tương tự như thế, ta đi tìm các lối giải thích lầm lẫn về chúng. Bây giờ, khoa học đã giải thích đầy đủ một số lãnh vực này, không phải tất cả, những lãnh vực mà trước đây tôn giáo vẫn giải thích. Nhưng mầu nhiệm và vẻ đẹp của thế giới là điều cực kỳ lạ lùng, và hiện chưa có giải thích khoa học nào đối với việc chúng xẩy ra cách nào. Nói rằng chúng tình cờ phát sinh ra hình như, ông thấy đó, là một điều thiếu bác ái (cười). Tôi nghĩ rằng tin Thiên Chúa là điều có nghĩa, nhưng quyết định nào khác trong đời bạn cần đưa ra vì thế thì tôi không biết chính xác”.

Như thế… ở một thời điểm nào đó trong thập niên qua, xem ra Bill Gates đã tìm thấy tôn giáo. Có lẽ thế. Ông không thẳng thừng nhìn nhận mình tin Thiên Chúa hơn là điều ông vẫn cho là mình không tin Thiên Chúa.

Tuy nhiên, xem ra ta không thể bao gồm ông vào hàng ngũ vô tôn giáo được nữa.

Frank Weathers cũng cùng một nhận định như trên, căn cứ vào hai câu hỏi cuối cùng trong cuộc phỏng vấn của Rolling Stone, mà câu trả lời đã được Mehta thuật lại trên đây. Weathers tin rằng nơi Bill Gates đang có sự thay đổi về quan điểm tôn giáo, một cách huyền nhiệm nhờ công trình của Chúa Thánh Thần. Nghĩa là không do thời khóa biểu của bất cứ ai mà là của Thiên Chúa.

Dĩ nhiên ta không quên sự kiện này ông bà Gates đang có những ý kiến và có những hành động đi ngược lại giáo huấn Công Giáo. Nhưng xét cho cùng có ai trong chúng ta thực sự xứng đáng được kể vào hàng con cái Giáo Hội? Trước khi có Giáo Hội, Thánh Vịnh Gia từng chỉ rõ:

“Từ vực thẳm con kêu lên Chúa, lạy Chúa; Xin nghe tiếng con, hỡi Chúa! Xin tai Chúa chăm chú lắng nghe lời con kêu van thương xót. Lạy Chúa, nếu Chúa chấp tội, nào ai đứng vững? Nhưng Chúa có sự tha thứ và vì thế Chúa được kính tôn”.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo xứ Việt nam Paris mừng lễ thánh Giuse bổn mạng
Thanh Hương
13:55 18/03/2014
Giáo xứ Việt nam Paris mừng lễ thánh Giuse bổn mạng

Paris, 16.03.2014, Giáo xứ Việt nam Paris mừng lễ Thánh Giuse bổn mạng, mừng 30 năm thành lập Hội Đồng Mục Vụ và mừng 30 năm phát hành báo “Giáo xứ Việt nam”, gắn huy chương và trao bằng khen cho 9 giáo dân trong giáo xứ do Đức Giáo Hoàng Phanxicô trao ban.

1. Lễ thánh Giuse, bổn mạng

Các em thiếu nhi Thánh thể rước đoàn đồng tế tiến lên bàn thờ. Chủ tế là Đức Cha Soubrier, Nguyên giám mục phụ tá Paris. Cùng đồng tế với ngài, có Đức Ông Rambaud, Giám đốc Sở các cộng đoàn và các linh mục sinh viên ngoại kiều Paris, Cha Nguyễn Kim Sang, Tổng Tuyên Úy các cộng đoàn Công Giáo Việt nam tại Pháp, bốn cha và 3 phó tế trong Ban Giám Đốc giáo xứ là Đức Ông Mai Đức Vinh, Cha Đinh Đồng Thượng Sách, cha Trần Anh Dũng cha Vũ Minh Sinh, thầy Phạm Bá Nha, thầy Tạ Đình Chung và thầy Nguyễn Sơn và khoảng 20 linh mục khách và sinh viên.

Chia sẻ Lời Chúa, Đức Cha Soubrier nhắc lại Tin Mừng thánh Mat-Thêu (Mt, 1; 16,18-21, 23) và đặc biệt tôn vinh ba tư cách nổi bật của Thánh Giuse : người công chính, người phục vụ và người tỉnh thức. Rồi nghĩ đến các giáo dân dấn thân phục vụ Chúa và Giáo Hội trong Cộng đoàn Giáo xứ qua Hội đồng Mục vụ, Đức Cha bảo rằng họ đã và đang theo gương thánh Giuse.

2. Gắn huy chương và trao bằng khen “Pro Ecclesia et Pontifice” cho 9 giáo dân

Hôm nay Giáo xứ Việt nam Paris vui mừng cử hành Đại Lễ của mình : Lễ thánh quan thầy Giuse, Lể mừng 30 năm thành lập Hội Đồng Mục Vụ, 1983-2013 và Lễ mừng 30 năm phát hành báo “Giáo Xứ Việt Nam”, 1984-2014. Trong dịp này, giáo xứ rất vui mừng chia sẻ niềm vui với 9 người trong giáo xứ được lãnh huy chương và bằng khen “PRO ECCLESIA ET PONTIFICE”, do Đức Giáo Hoàng Phanxicô trao ban, qua tay Đức Cha Soubrier, Đức Ông Rambaud và cha Nguyễn Kim Sang. Chín người, đều đã được Ban Giám Đốc đồng thuận đề nghị, đó là :

1. Ông Alphongsô Nguyễn Văn Tài, 1922-, Đại diện Ban Báo “Giáo xứ Việt nam”

2. Bà Maria Phạm Thị Huệ, 1926-, Niên trưởng nhóm “Tự nguyện - Ẩm thực”

3. Ông Phêrô Nguyễn Ngọc Tốt, 1934-, Niên trưởng “Tự nguyện Khuôn viên, Cơ sở”

4. Bà Anne Marie Nguyễn Văn Sâm, 1935- Hội các bà mẹ Công Giáo

5. Ông Joachim Nguyễn Xuân Cần, 1937- Hội yểm trợ ơn gọi, ban báo giáo xứ

6. Ông Giuse Nguyễn Văn Thơm, 1943- Ban Thường vụ và Liên đới nghề nghiệp

7. Ông Giuse Nguyễn Minh Dương-, Phong trào Cursillo, Liên Đới Nghề Nghiệp

8. Ông Giuse Trần Huynh, 1945- Hội Legio, ban báo giáo xứ

9. Bà Micheline Trần Kim Chi, 1947-, Ban Thường Vụ, Liên Đơi Nghề Nghiệp

“Đây là niềm vui chung của giáo xứ chúng ta. Cũng như những người đã lãnh nhận huy chương và bằng khen trước đây, 11 người năm 1997, 3 người năm 2007, chín vị lãnh nhận lần này, không phải lãnh nhận riêng cho mình, nhưng cho toàn thể giáo xứ, cách riêng cho các thành viên của Hội Dồng Mục Vụ và cho những người góp phần trong việc nuôi dưỡng tờ báo từ 30 năm qua. Đúng như lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Ai là người có công? Ai là người thu hoa lợi? Vậy, người gieo kẻ gặt, hãy vui lên niềm vui chung” (Ga,4, 35-36). Hôm nay, Chúa cũng muốn nói với Cộng Đoàn Giáo Xứ chúng ta như vậy”. (trích Thông báo mục vụ, số 396, 16.03.2014, Lễ kính thánh Giuse)

Sau lễ, mọi người đã được mời qua Hội Đường dùng cơm trưa, xem triển lãm, thưởng thức văn nghệ và nghe trình bày về những thành tích trong 30 năm qua của Hội Đồng Mục Vụ, của tờ báo “Giáo xứ Việt nam” và của Ban Tu thư.

Paris, ngày 16 tháng 03 năm 2014

Thanh Hương
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Lời nguyện tín hữu có là bắt buộc trong Thánh lễ ngày thường hoặc Thánh lễ an táng không?;
Nguyễn Trọng Đa
09:52 18/03/2014
Giải đáp phụng vụ: Lời nguyện tín hữu có là bắt buộc trong Thánh lễ ngày thường hoặc Thánh lễ an táng không?; Được phép chúc bình an trước phần dâng lễ vật không?

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Thưa cha, được phép bỏ qua Lời nguyện tín hữu trong Thánh Lễ ngày thường hoặc Thánh lễ an táng không? Được phép chúc bình an trước phần dâng lễ vật không? - J. R., San Antonio, Texas, Mỹ.


Đáp: Về việc tái lập Lời nguyện tín hữu vào phụng vụ, trong năm 1963 Công Đồng chung Vatican II tuyên bố như sau trong Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, số 53:

"Phải tái lập “Lời nguyện chung” hay “Lời nguyện tín hữu”, sau bài đọc Tin Mừng và bài giảng, nhất là vào các Chúa Nhật và lễ buộc, để giáo dân cùng hợp chung lời cầu nguyện cho Hội Thánh, cho các nhà cầm quyền, cho những ai đang gặp khó khăn trước những nhu cầu cần thiết, cho tất cả mọi người, và cho phần rỗi của toàn thế giới" (Bản dịch của Hội Đồng Giám mục Việt Nam)

Hai năm sau, vào năm 1965, Tòa Thánh đã được hỏi: "Liệu trong các Thánh lễ có giáo dân tham dự, Lời nguyện tín hữu có là bắt buộc trong các ngày thường không?"

Câu trả lời trong phong cách điển hình vắn tắt của Tòa Thánh là: "Không buộc đọc Lời nguyện tín hữu vào các ngày thường". Sau đó, Tòa thánh xác nhận và đưa câu trả lời này vào các tài liệu khác, với sự qui chiếu đặc biệt tới Hiến chế Sacrosanctum Concilium.

Vì vậy, mặc dầu Lời nguyện tín hữu có thể được sử dụng cách hữu ích trong các ngày thường, nó chỉ là buộc trong Thánh lễ Chúa Nhật và các ngày lễ buộc mà thôi.

Tuy nhiên, đáng chú ý là các tài liệu gần đây nhất không có sự phân biệt rõ giữa các ngày lễ trọng và ngày thường, nhưng chỉ mô tả cấu trúc Lời nguyện tín hữu. Điều này cho phép sử dụng Lời nguyện trong mọi dịp thích hợp, mà không đưa ra việc buộc.

Do đó, Qui chế Tổng Quát Sách Lễ Rôma (GIRM ) nói:

“69. Trong lời nguyện cho mọi người, cũng gọi là lời nguyện tín hữu, chính dân Chúa, sau khi tiếp nhận trong đức tin, đáp lại Lời Chúa và thực thi chức tư tế do phép rửa của mình mà cầu cho hết mọi người. Lời nguyện này thường nên thực hiện trong các Thánh Lễ có giáo dân tham dự, để họ cầu cho Hội Thánh, cho các nhà cầm quyền, cho những người đang gặp đủ thứ khó khăn, cho hết mọi người và cho toàn thế giới được ơn cứu độ.

“70. Thứ tự những ý nguyện thường là:

a. Cho các nhu cầu của Hội Thánh;

b. Cho các người trong chính quyền và cho toàn thế giới được an bình;

c. Cho các người đang gặp bất cứ khó khăn nào;

d. Cho cộng đoàn địa phương.

Nhưng trong một buổi lễ cử hành đặc biệt nào đó, như là Thêm Sức, Hôn Phối, An Táng, thì thứ tự ý nguyện có thể dành ưu tiên cho trường hợp đặc biệt đó.

“71. Chính vị chủ tế điều khiển việc cầu nguyện từ ghế. Ngài vắn tắt mời tín hữu cầu nguyện và đọc lời nguyện để kết thúc. Các ý nguyện nêu ra cần phải chừng mực, được soạn thảo với sự tự do khôn ngoan và ngắn gọn, diễn tả lời nguyện của toàn thể cộng đoàn.

Thầy phó tế, hoặc một ca viên, hay độc viên hay một giáo dân khác xướng các ý nguyện từ giảng đài hay một nơi nào khác xứng hợp.

Còn toàn thể cộng đoàn đứng biểu lộ lời nguyện của mình, hoặc bằng những lời kêu cầu chung sau mỗi ý nguyện được xướng lên, hoặc bằng cách cầu nguyện trong thinh lặng” (bản dịch của cha Phanxicô Xavier Nguyễn Chí Cần, giáo phận Nha Trang).

Về Thánh Lễ cầu cho người qua đời, Qui chế Tổng quát Sách Lễ Rôma nói:

"385. Trong việc sắp xếp và chọn lựa các phần của Thánh Lễ cầu cho người quá cố, nhất là lễ an táng, là những phần có thể thay đổi (ví dụ: các lời nguyện, bài đọc, lời nguyện tín hữu), phải có trước mắt các lý do mục vụ liên quan đến người chết, gia đình và những người hiện diện” (bản dịch, như trên).

Điều này có nghĩa rằng, trong khi Lời nguyện tín hữu có thể được bỏ qua cách hợp lệ trong thánh lễ an táng, điều quan trọng là quan tâm đầy đủ đến các nhu cầu mục vụ của tang quyến, trước khi quyết định làm như vậy.

Liên quan đến câu hỏi thứ hai, Huấn thị Redemptionis Sacramentum, số 71, nói:

“71. Phải duy trì thông lệ của Nghi Lễ Rôma là chúc bình an trước khi Rước Lễ một chút, như được dự liệu trong Nghi thức Thánh Lễ. Quả nhiên, theo truyền thống của Nghi Lễ Rôma, thông lệ này không bao hàm ý nghĩa hoà giải, cũng không có ý nghĩa xoá tội, nhưng đúng hơn nó có mục đích biểu lộ sự bình an, sự hiệp thông và lòng bác ái, trước khi lãnh nhận Thánh Thể. Trái lại, hành động sám hối ở đầu Thánh Lễ, nhất là khi nó được thực hiện theo công thức thứ nhất, có đặc tính diễn tả sự hoà giải này giữa các anh em" (Bản dịch của Hội Đồng Giám mục Việt Nam).

Ngay cả sau tài liệu này, và đặc biệt là trong Thượng Hội Đồng Giám mục về phép Thánh Thể năm 2005, khả năng dời thời điểm chúc bình an đã được tranh luận sôi nổi. Cuối cùng, các Giám mục chỉ đơn giản đề nghị nghiên cứu thêm nữa.

Từ những gì tôi đã có thể thu thập được, một nghiên cứu chuyên sâu đã được thực hiện, nhưng với các kết quả chưa thuyết phục. Nói chung, các chuyên gia phụng vụ phản đối việc thay đổi thời điểm chúc bình an, và các Giám mục trên thế giới chia rẽ nhau về việc này. Cho đến nay, chưa có quyết định chính thức nào được đưa ra.

Khó khăn chủ yếu liên quan đến sự thay đổi đề xuất này, ít nhất là như tôi hiểu, đã được nhấn mạnh trong Huấn thị Redemptionis Sacramentum. Việc thay đổi chúc bình an vào phần dâng lễ vật sẽ đòi hỏi một sự thay đổi về ý nghĩa của chính nghi thức, không còn đúng như ý nghĩa chúc bình an đến với chúng ta từ Chúa Kitô trên bàn thờ, hướng đến ý nghĩa của hòa giải hoặc tha tội.

Tuy nhiên, nếu điều này được thực hiện, ý nghĩa nào sẽ có khi làm một cử chỉ hòa giải ở phần đầu của Thánh Lễ? Liệu chúng ta không hòa giải với anh chị em của mình, để tham dự vào bàn tiệc Lời Chúa cũng như bàn tiệc Thánh Thể sao?

Đúng là một số phụng vụ Đông phương không có nghi thức chúc bình an trong phần dâng lễ vật. Nhưng trong các nghi lễ này, bánh và rượu đã được chuẩn bị một trọng thể trước Thánh lễ, để cho ý nghĩa của việc chúc bình an của Chúa Kitô là tương tự như trong nghi thức Rôma.

Nghi thức Ambrosian đáng kính, được sử dụng trong Tổng Giáo Phận Milan (Ý), cũng có chúc bình an ở phần dâng lễ vật, nhưng đây là một sự mới lạ tương đối ngay cả đối với nghi thức này.

Một số nhóm Công Giáo cũng đã được Toà Thánh cho phép có sự thay đổi thời điểm chúc bình an, trong bối cảnh của một cuộc hành trình tâm linh đặc biệt, vốn không nhất thiết phải áp dụng cho tất cả mọi người .

Vì vậy, trong kết luận, ngoại trừ trong các trường hợp được Tòa Thánh ban phép chuẩn đặc biệt, không được phép thay đổi thời điểm của việc chúc bình an.

Luôn được phép bỏ qua việc chúc bình an, vì nó là một nghi thức tùy chọn, chứ không là một nghi thức bắt buộc. (Zenit.org 11-3-2014)

Nguyễn Trọng Đa
 
Từ điển Việt-Bồ-La giúp hiểu rõ ý nghiã một số kinh đọc thường ngày
Sr Minh Thùy
09:30 18/03/2014
TỪ ĐIỂN VIỆT – BỒ - LA
GIÚP HIỂU RÕ Ý NGHĨA
MỘT SỐ KINH ĐỌC THƯỜNG NGÀY


Ngày 18/01/2014 vừa qua, Dòng Tên Việt Nam đã tổ chức lễ Khai mạc năm thánh mừng 400 các Cha Dòng Tên đến Việt Nam rao giảng Tin Mừng. Các cha đã góp phần làm cho mảnh đất Việt Nam thấm đẫm hạt giống Lời Chúa. Bên cạnh đó, một điều mà xã hội Việt Nam không thể phủ nhận đó là các Ngài đã đóng góp nhiều công sức giúp phát triển xã hội Việt Nam qua việc sáng tạo Chữ Quốc Ngữ. Khi kể đến công ơn này, không ai lại không nhắc đến cha Alexandre de Rhodes (Cha Đắc Lộ) người đã có công thu tập thành quả nghiên cứu của thế hệ thừa sai Dòng Tên đi trước và các tín hữu học thức trong 31 năm đầu tức là từ năm 1615 (ba Thừa Sai đầu tiên tới Việt Nam) cho tới 1646 (khi Cha Đắc Lộ bị trục xuất vĩnh viễn), biên soạn và cho xuất bản Từ điển Việt – Bồ - La năm 1651.

Từ điển Việt – Bồ - La là cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ. Đây là cuốn từ điển đầu tiên ở Việt Nam lấy từ tiếng Việt làm mục từ, đối chiếu với tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Latin. Về hình thức đây là dạng từ điển đối chiếu đa ngữ. Mặt khác, Từ điển Việt - Bồ - La còn mang tính chất của một từ điển giải thích, vì các từ ngữ khó hiểu được giải thích cách tỉ mỉ kèm theo những ví dụ thuyết minh, chỉ có điều là ngôn ngữ giải thích là tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Latin chứ không phải tiếng Việt. Lần đầu tiên, ở Việt Nam, trên một cuốn từ điển, các từ ngữ tiếng Việt đã được ghi lại bằng các chữ cái ghi âm tố mà chúng ta gọi là Chữ Quốc Ngữ.

Các nhà nghiên cứu Việt ngữ học đã xác định, Từ điển Việt – Bồ - La có khoảng trên dưới 550 từ ngữ mà nay đã trở thành từ ngữ cổ: là những từ ngữ đã từng tồn tại trước đây nhưng hiện nay không còn trong đời sống ngôn ngữ toàn dân nữa, hoặc chỉ còn làm thành tố trong những kết cấu ngôn ngữ rất hạn chế nào đó, hoặc chỉ còn sử dụng rất hạn chế trong một cộng đồng xã hội nào đó.

Khi đọc các kinh thường ngày, chúng ta nhận thấy trong một số kinh có một vài từ ngữ không còn rõ nghĩa nữa, khiến một số người trong chúng ta hoặc những người ngoài Công Giáo nghe chúng ta đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu. Khi ấy, nếu dùng các từ điển tiếng Việt hiện đại để tra cứu, chúng ta sẽ thấy các từ ngữ ấy hoặc không có, hoặc có nhưng nghĩa không phù hợp nếu gắn vào các kinh đọc thường ngày của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta dùng Từ điển Việt - Bồ - La để tra cứu, thì từ điển sẽ soi sáng giúp chúng ta hiểu rõ nghĩa một số các từ ngữ ấy. Bởi vì những từ ngữ ấy là những từ ngữ cổ, chỉ còn được sử dụng hạn chế trong các cộng đồng tín hữu Công Giáo, trong các kinh đọc được biên soạn từ khi đạo Công Giáo mới được truyền vào Việt Nam, dù đã được sửa một lần vào năm 1924. Xin đơn cử vài ví dụ trong các kinh sau đây:

1. Kinh lạy Nữ Vương[1]

Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy, thân lạy Mẹ! Chúng con, con cháu E-và ở chốn khách đày kêu đến cùng Bà, chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương. Hỡi ôi! Bà là chúa bầu chúng con, xin ghé mặt thương xem chúng con. Đến sau khỏi đày, xin cho chúng con được thấy Đức Chúa Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Ôi khoan thay! nhân thay! dịu thay! Thánh Maria trọn đời đồng trinh. Amen.

- Cụm từ “thân lạy Mẹ!”, nếu tra từ điển tiếng Việt hiện đại[2] chúng ta sẽ thấy từ “thân” không có nét nghĩa nào phù hợp với kinh đọc này. Đây là một từ cổ đã được Từ điển Việt – Bồ - La ghi nhận, “thân” nghĩa là: “Cách nói để bày tỏ lòng tôn kính với những người cao trọng dưới vua chúa; thân ông, thân đức ông, thân ông già muôn tuổi : là những kiểu xưng hô tương đương với: tâu vua, dộng chúa, bạch thày, chiềng ông : đó là những kiểu xưng hô đáng giá.” Từ điển từ cổ[3] chú thích nghĩa của từ “thân” là: thưa, bẩm. Như vậy, “thân lạy Mẹ!” là một từ ngữ dùng xưng hô cho dành Mẹ là đấng đáng kính trọng về mặt nghĩa cổ của nó. Chúng ta cũng bắt gặp từ này trong “kinh Đức Thánh Thiên Thần”: “Con thân Đức Thánh Thiên Thần” từ “thân” trong câu ngày cũng có nghĩa như trong “Kinh lạy Nữ Vương”.

- Cụm từ “Bà là chúa bầu chúng con”, đọc câu kinh này chúng ta thấy nghĩa có vẻ tối và khó hiểu. Từ điển Việt – Bồ - La ghi nhận: baù (bầu) chủ, baù mình nghĩa là: “Kẻ bàu chủ, kẻ bàu lĩnh (bảo lãnh); baù ai: xin vua cho con được chức tước gì”. Câu kinh “Bà là chúa bầu chúng con”: vừa có nghĩa tung hô Mẹ là “Bà Chúa” cách nói dùng tung hô người nữ có quyền chức sau vua mà Từ điển Việt - Bồ - La cũng ghi nhận, vừa xác tín rằng Mẹ là người bảo lãnh cho chúng ta.

- Cụm từ “Ôi khoan thay! nhân thay! dịu thay!”. Từ điển tiếng Việt hiện đại giải thích: “thay” là từ biểu thị sự tác động mạnh mẽ đến tình cảm người nói của một điều đạt đến mức độ rất cao như: may thay, đẹp thay, đau đớn thay. Nhưng nếu chỉ hiểu nghĩa của từ “thay” theo tiếng Việt hiện đại, thì ý nghĩa của câu kinh sẽ không rõ. Tác giả Từ điển Việt - Bồ - La ghi nhận “thay” nghĩa là: nhiều, lắm, rất; tốt thay : rất tốt; khoan thay : rất nhân từ; nhân thay: rất đạo hạnh; dịu thay: rất dịu hiền. “Ôi khoan thay! nhân thay! dịu thay!”: là lời ca khen Mẹ rất nhân từ, rất đạo hạnh, rất dịu hiền.

2. Kinh Bởi Lời

Lạy Ðức Chúa Giêsu xưa bởi lời mà xuống thế gian ba mươi ba năm cùng chịu những sự thương khó cho các linh hồn thiên hạ được rỗi. Thì rày chúng con xin Cha rất nhân lành hay thương vô cùng, xin tha phần phạt cho các linh hồn đã cầu nguyện hôm nay, hoặc còn giam nơi lửa luyện tội thì xin mở cửa tù rạc ấy cho ra mà đem đến chốn hưởng vui thật là nước thiên đàng vì công nghiệp Chúa con đã chịu nạn chịu chết vì chúng con. Amen.

- Trong kinh này chúng ta thấy từ “tù rạc” với nét nghĩa mờ nhạt, nếu tra cứu Từ điển tiếng Việt hiện đại, chúng ta sẽ không thấy từ này trong Từ điển. Tuy nhiên, Từ điển Việt - Bồ - La ba lần nói đến từ “tù rạc” với nghĩa là nhà giam, nhà tù. Với nghĩa này, chúng ta có thể hiểu câu kinh rõ ràng hơn, “luyện tội” hay “luyện ngục” là hình thức bị giam giữ mất tự do như bị tù ngục.

3. Kinh Ông Thánh Giuse Bầu Cử

Lạy ơn Ông Thánh Giuse. Chúng con chạy đến cùng Người, trong cơn gian nan chúng con mắc phải...

- Khi bắt đầu kinh đọc này, một số người đã thắc mắc tại sao lại là “lạy ơn ông Thánh Giuse” mà không là “lạy Thánh Giuse”, hóa ra là chúng ta chỉ quan tâm đến “ơn ông Thánh Giuse” ban, chứ không quan tâm đến Thánh Giuse. Từ điển Việt – Bồ - La sẽ giúp chúng ta hiểu rõ lời kinh hơn. Trong Từ điển Việt – Bồ - La chúng ta thấy cụm từ đầu mục “lạy ơn Đức Chúa blời (Trời)” xuất hiện hai lần và được giải thích nghĩa là: “tạ ơn Chúa Trời”. Ý nghĩa của cụm từ này soi sáng cho chúng ta khi đọc các kinh “lạy ơn ông Thánh Giuse”, “lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần”[4], “lạy ơn Đức Chúa Giêsu”[5], các câu kinh này không có nghĩa là chúng ta chỉ quan tâm đến ơn ban của các Ngài, mà có nghĩa là lời tạ ơn, lời cám ơn đầu tiên của chúng ta trước khi chúng ta cầu xin điều gì tiếp theo.

- Tiếp tục “kinh Ông Thánh Giuse Bầu Cử” chúng ta thấy câu: “Chúng con xin vì nhân đức kính mến, mà Người làm Bạn cùng Rất Thánh Đồng Trinh là Mẹ Chúa Trời,...” Từ “làm Bạn” khiến chúng ta hiểu không rõ nghĩa của câu kinh. Nếu tra cứu Từ điển tiếng Việt hiện đại, chúng ta chỉ thấy giải thích nghĩa “bạn” như là tình bạn bình thường. Nhưng Từ điển Việt – Bồ - La giải thích khác. Ở mục từ “bạn” Cha Đắc lộ lấy thêm ví dụ là cụm từ “có bạn chăng” rồi giải thích là: “bạn đã kết hôn chưa ? đó là cách hỏi thanh nhã bất cứ người con trai hay con gái nào”. Với cách giải thích này chúng ta có thể hiểu từ “làm Bạn” nghĩa là kết hôn. Cha còn chú thích thêm đây là “cách hỏi thanh nhã”. Ở chỗ khác trong Từ điển Cha lấy ví dụ “chẳng có bạn” và giải thích là: “được giải thoát khỏi vợ, không kết hôn”. Như vậy, qua cứ liệu của Từ điển Việt - Bồ - La, chúng ta có thể hiểu câu kinh cách rõ ràng hơn.

* Từ điển Việt – Bồ - La của Cha Đắc Lộ được soạn thảo cách đây gần 400 năm, nhưng giá trị của nó không hề giảm hoặc mất theo thời gian. Không một nhà nghiên cứu Việt ngữ học nào lại không một lần đọc Từ điển Việt – Bồ - La. Từ điển Việt – Bồ - La có giá trị về lịch sử, nhưng nó cũng có giá trị trong đời sống hiện tại.

400 năm hạt giống Lời Chúa được rao truyền thì cũng gần 400 năm đóng góp của Cha Đắc Lộ được ghi nhận đã đem lại nhiều hoa trái. Nói kiểu của Từ điển Việt – Bồ - La là Giáo Hội Việt Nam “bưng ơn”, “đội ơn”, “cám ơn”, “tạ ơn” Cha Đắc Lộ “thay thảy” “làu làu”.



Sr.Minh Thùy (còn tiếp)

1 cả các kinh, được trích từ các trang web sau :
- http://www.conggiao.org/dao-cong-giao/tat-ca-cac-kinh/
- http://www.giaoxudenver.org/kinh/cackinh.htm
[2] Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Nxb Từ điển Bách Khoa, 2010, được xác định là cuốn Từ điển tiếng Việt hiện đại đầy đủ và quy mô nhất hiện nay.
[3] Từ điển từ cổ của Vương Lộc, Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà Nẵng, 2002 trang 154.
[4] Kinh Đức Chúa Thánh Thần.
[5] Kinh cầu cho các linh hồn.
 
Những khác biệt căn bản giữa Công giáo, Chính thống giáo và Tin Lành
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
09:51 18/03/2014
NHỮNG KHÁC BIỆT CĂN BẢN GIỮA Công Giáo, CHÍNH THỐNG GIÁO VÀ TIN LÀNH

Hỏi: Trong bài trước cha đã nói đến các Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng khác nhau về nhiều mặt thần học, tín lý, giáo lý, bí tích, phụng vụ. v. v Xin cha nói rõ hơn về những khác biệt này giữa Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành.

Trả lời: như đã giải thích trong bài trước, cả ba Nhánh Kitô Giáo trên đây, từ đầu, đều thuộc Đạo Thánh của Chúa Kitô gọi chung là Kitô Giáo (Christianity). Nhưng theo dòng thời gian, đã có những biến cố gây ra tình trạng rạn nứt hay ly giáo (schisms) hoặc những cải cách (reformations) đáng tiếc xảy ra khiến Kitô Giáo bị phân chia thành 3 Nhánh chính trên đây. Ngoài ra, còn một nhánh Kitô Giáo nữa là Anh Giáo (Anglican Communion) do vua Henri VIII (1491-1547) của nước Anh chủ xướng năm 1534 để lập một Giáo Hội riêng cho Nước Anh, tách khỏi Rôma chỉ vì Tòa Thánh La Mã (Đức Giáo Hoàng Clement VII) không chấp nhận cho nhà vua ly di để lấy vợ khác.

Cho đến nay, các nhóm ly khai trên vẫn chưa hiệp thông được với Giáo Hội Công Giáo vì còn nhiều trở ngại chưa vượt qua được. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng giới hạn trong câu hỏi được đặt ra, tôi chỉ xin nên sau đây những dị biệt căn bản giữa ba Nhánh Kitô Gíáo lớn trên đây mà thôi.

I- Chính Thống (orthodoxy) khác biệt với Công Gíáo La Mã (Roman Catholicism) ra sao?

Trước hết, danh xưng Chính Thống "Orthodoxy", theo ngữ căn (etymology) Hy lạp “orthos doxa", có nghĩa là "ca ngợi đúng (right-praise), "tin tưởng đúng” (right belief). Danh xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các giáo đoàn đã tham dự các Công Đồng đại kết (Ecumenical Councils) Nicêa I (325) Ephêsô (431) và nhất là Chalcedon (451) trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân chính (sound doctrines)’ tinh tuyền của Kitô Giáo để chống lại những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (heresy). Do đó, trong bối cảnh này, từ ngữ "orthodoxy” được dùng để đối nghịch với từ ngữ “heresy” có nghĩa là tà thuyết hay lạc giáo. Nhưng sau biến cố năm 1054 khi hai Giáo Hội Kitô Giáo Hy Lạp ở Constantinople (tượng trưng cho Đông Phương) và Giáo Hội Công Giáo LaMã (Tây Phương) đã xung đột và ra vạ tuyệt thông cho nhau (anthemas=excommunications) ngày 16 tháng 7 năm 1054 giữa Michael Cerularius, Thượng Phụ Constantinople và Đức cố Giáo hoàng Leo IX vì có những bất đồng lớn về tín lý, thần học và quyền bính, thì danh xưng "Chính Thống” (orthodoxy) lại được dùng để chỉ Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople đã ly khai không còn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã. Sau này, Giáo Hội "Chính Thống” Hy Lạp ở Constantinople đã lan ra các quốc gia trong vùng như Thổ nhĩ Kỳ, Nga, Albania, Estonia, Cyprus, Finland, Latvia, Lithuania, Rumania, Bulgaria, Serbia, Ukraine. . . Vì thế, ở mỗi quốc gia này cũng có Giáo Hội Chính Thống nhưng độc lập với nhau về mọi phương diện. Nghĩa là không có ai là người lãnh đạo chung của các Giáo Hội này, mặc dù họ có tên gọi chung là các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) tách khỏi khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã. (Tây Phương)

Tuy nhiên, hiện nay Thượng Phụ (Patriarch) Giáo Hội Chính Thống Thổ Nhĩ Kỳ ở Istanbul được coi là Thượng Phụ Đại Kết (Ecumenical Patriarch) của các Giáo Hội Chính thông Đông Phương. Cách nay 2 năm Đức Thánh Cha Bê-nê-đich tô 16 đã sang thăm Đức Thượng phụ Giáo Chủ Chính Thống Thổ để tỏ thiện chí muốn đối thoại, đưa đến hiệp thông giữa hai Giáo Hội anh em. Riêng Giáo Hội Chính Thống Nga, cho đến nay, vẫn chưa tỏ thiện chí muốn xích gần lại với Giáo Hội Công Giáo La Mã, vì họ cho rằng Công Giáo muốn "lôi kéo” tín đồ Chính Thống vào Công Giáo sau khi chế độ cộng sản ở Nga tan rã, tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo Hội Chính Thông Nga hành Đạo.

Trước khi xẩy ra cuộc ly giáo năm 1054, hai Nhánh Kitô giáo lớn ở Đông và Tây phương (The Greek Church and the Holy See=Rome) nói trên vẫn hiệp thông trọn vẹn với nhau về mọi phương diện vì cả hai Giáo Hội anh em này đều là kết quả truyền giáo ban đầu của các Thánh Tông Đồ Phêrô và Anrê. Lịch sử truyền giáo cho biết là Thánh Phêrô đã rao giảng Tin mừng ở vùng đất nay là lãnh địa của Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roma) trong em ngài, Thánh Anrê (Andrew) sang phía Đông để rao giảng trước hết ở Hy lạp và sau đó trong phần đất nay là Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Như thế, cả hai Giáo Hội Kitô Giáo Đông Phương Constantinople và Tây Phương Rôma đều có nguồn gốc Tông đồ thuần túy (Apostolic succession).

Sau đây là những điểm gây bất đồng khiến đi đến ly giáo (schism) Đông Tây:

1- về tín lý, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương- tiêu biểu ban đầu là Giáo Hội Hy Lạp ở Constantinople - bất đồng với Giáo Hội Công Giáo La Mã về từ ngữ “Filioque” (và Con) thêm vào trong Kinh Tin Kính Nicêa tuyên xưng “Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha, và Chúa Con mà ra”.

Giáo Hội Chính Thông Đông Phương cũng không công nhận các tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai (Immaculate Conception) và Lên Trời cả hồn xác (Assumption) mặc dù họ vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos). Sở dĩ thế, vì họ không công nhận vai trò lãnh đạo Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng, nên đã bác bỏ mọi tín điều được các Đức Giáo Hoàng công bố với ơn bất khả ngộ (Infallibility) mà Công Đồng Vaticanô I (1870) đã nhìn nhận.

Chính vì họ không công nhận quyền và vai trò lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ của Đức Giáo Hoàng Rôma, nên đây là trở ngại lớn nhất cho sự hiệp nhất (unity) giữa hai Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo cho đến nay, mặc dù hai bên đã tha vạ tuyệt thông cho nhau sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Constantinople là Athenagoras I năm 1966.

Giáo Hội Chính Thống có đủ bảy bí tích hữu hiệu như Công Giáo. Tuy nhiên, với bí tích rửa tội thì họ dùng nghi thức dìm xuống nước (immersion) 3 lần để nhấn mạnh ý nghĩa tái sinh vào đời sống mới, trong khi Giáo Hội Công Giáo chỉ dùng nước đổ trên đầu hay trán của người được rửa tội để vừa chỉ sự tẩy sạch tội nguyên tổ và các tội cá nhân (đối với người tân tòng) và tái sinh vào sự sống mới, mặc lấy Chúa Kitô.

2-Về phụng vụ, Giáo Hội Chính Thống dùng bánh có men (leavened bread) và ngôn ngữ Hy lạp khi cử hành phung vụ trong khi Giáo Hội Công Giáo dùng bánh không men (unleavened bread) và tiếng Latinh trong phụng vụ thánh trước Công Đồng Vaticanô II, và nay là các ngôn ngữ của mọi tín hữu.

3-Sau hết, về mặt kỷ luật giáo sĩ: Giáo Hội Chính Thông cho phép các phó tế và linh muc được kết hôn trừ Giám mục, trong khi kỷ luật độc thân (celibacy) lại được áp dụng cho mọi cấp bậc trong hàng giáo sĩ và tu sĩ Công Giáo, trừ phó tế vĩnh viễn (pernanent deacons).

Đó là những khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và Giáo Hội Công Giáo La Mã.

Tuy nhiên, dù có những khác biệt và khó khăn trên đây, Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương đều rất gần nhau về nguồn gốc tông đồ và về nền tảng đức tin, giáo lý, bí tích và Kinh thánh. Vì thế, giáo lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng: “Đối với các Giáo Hội Chính thống, sự hiêp thông này sâu xa đến nỗi “chỉ còn thiếu một chút là đạt được mức đầy đủ để có thể cho phép cử hành chung phép Thánh Thể của Chúa Kitô” (x. SGLGHCG, số 838).

II- Tin lành (Protestantism) và những khác biệt với Công Giáo.

Như đã nói trong bài trước, Tin lành, nói chung, là Nhánh KitôGíao đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo sau những cuộc cải cách tôn giáo do Martin Luther, một linh mục Dòng thánh Augustinô, chủ xướng vào năm 1517 tại Đức và lan sang Pháp với John Calvin và Thụy sỹ với Ulrich Zwingli và các nước Bắc Âu sau đó.

1-Ở góc độ thần học, Những người chủ trương cải cách (reformations) trên đã hoàn toàn bác bỏ mọi nền tảng thần học về bí tích và cơ cấu tổ chức giáo quyền (Hierachy) của Giáo Hội Công Giáo. Họ chống lại vai trò trung gian của Giáo Hội trong việc hòa giải con người với Thiên Chúa qua bí tích tha tội hay hòa giải (reconciliation) vì họ không nhìn nhận bí tích truyền chức thánh (Holy Orders) qua đó Giám mục, Linh mục được truyền chức thánh và có quyền tha tội nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi) cũng như thi hành mọi sứ vụ (ministry) thiêng liêng khác. (rửa tội, thêm sức, thánh thể, Xức dầu thánh, chứng hôn).

Điểm căn bản trong nền thần học của Tin Lành là con người đã bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành thiện rồi (làm việc lành), nên mọi nỗ lực cá nhân để được cứu rỗi đều vô ích và vô giá trị. Chỉ cần tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô dựa trên Kinh Thánh là được cứu rỗi mà thôi. (Sola fide, sola scriptura). Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo tin rằng con người vẫn có trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi. Nói khác đi, muốn được cứu độ, con người phải cậy nhờ trước hết vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng cũng phải có thiện chí công tác với ơn thánh để sống và thực thi những cam kết khi được rửa tội. Nếu không, Chúa không thể cứu ai được như Chúa Giêsu đã nói rõ: “không phải bất cứ ai thưa với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ có ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. ” (Mt 7:21).

Nói khác đi, không phải rửa tội xong, rồi cứ hát Alleluia và kêu danh Chúa Kitô là được cứu độ. Điều quan trong hơn nữa là phải sống theo đường lối của Chúa, nghĩa là thực thi những cam kết khi được rửa tội: đó là mến Chúa, yêu người và xa lánh tội lỗi. Nếu không, rửa tội và kêu danh Chúa thôi sẽ ra vô ích.

Anh em tin lành không chia sẻ quan điển thần học này, nên họ chỉ chú trọng vào việc đọc và giảng kinh thánh nhưng không nhấn mạnh đến phần đóng góp của con người như Chúa Giêsu đòi hỏi trên đây. Ngoài phép rửa và kinh thánh, họ không tin và công nhận một bí tích nào khác. Điển hình, vì không công nhận phép Thánh Thể, nên họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong hình bánh và rượu, mặc dù một số Giáo phái Tin lành có nghi thức bẻ bánh và uống rượu nho khi họ tụ họp để nghe giảng kinh thánh. Sứ vụ quan trọng của họ chỉ là giảng kinh thánh vì họ chỉ tin có Kinh Thánh (Sola Scriptura) mà thôi.

2- Nhưng Kinh Thánh được cắt nghĩa theo cách hiểu riêng của họ, nên có rất nhiều mâu thuẫn hay trái ngược với cách hiểu và cắt nghĩa của Giáo Hội Công Giáo.

Thí dụ, câu Phúc Âm trong Matthêu 22 : 8-9 trong đó Chúa Giêsu dạy các tông đồ “không được gọi ai dưới đất là cha là thầy vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời” mà thôi. Vì họ hiểu câu này hoàn toàn theo nghĩa đen (literal meaning) nên đã chỉ trích Giáo Hội Công Giáo là ‘lạc giáo=heretical” vì đã cho gọi Linh mục là “Cha” (Father, Père, Padre)!.

Thật ra, Giáo Hội cho phép gọi như vậy, vì căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý này, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium đã dạy rằng; “Linh mục phải chăm sóc giáo dân như những người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh ra họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn. ” (1 Cor 4: 15; LG. số 28).

Một điểm sai lầm nữa trong cách đọc và hiểu kinh thánh của Tin lành là câu Phúc Âm Thánh Marcô kể lại một ngày kia Chúa Giêsu đang giảng dạy cho một đám đông người thì Đức Mẹ cà các môn đệ của Chúa đến. Có người trong đám đông đã nói với Chúa rằng: “Thưa Thầy có mẹ và anh em, chị em của Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy. ” (Mc 3:32). Anh em tin lành đã căn cứ vào câu này để phủ nhận niềm tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh của Công Giáo và Chính thống, vì họ cho rằng Mẹ Maria đã sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là họ chỉ tin Đức Mẹ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Thật ra cụm từ “anh chị em “trong ngữ cảnh (context) trên đây chỉ là anh chị em theo nghĩa thiêng liêng (spiritual brotherhood, sisterhood) và đây là cách hiểu và giải thích Kinh Thánh của Công Giáo và Chính Thống, khác với Tin lành.

Sau hết, về mặt quyền bình, các giáo phái Tin lành đều không công nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Người trên trần thế.

3- về bí tích: Tất cả các nhóm Tin Lành đều không có các bí tích quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Sức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ (Apostolic succession) do đó, không có chức linh mục và giám mục hữu hiệu để cử hành các bí tích trên.

Đa số các nhóm này chỉ có phép rửa(Baptism) mà thôi. Nhưng nếu nhóm nào không rửa tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi (The Trinitarian Formula) thì không thành sự (invalidly). Do đó, khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, tín hữu Tin Lành nào không được rửa tội với nước và công thức trên thì phải được rửa tội lại như người tân tòng. (catechumen). Nếu họ được rửa tội thành sự thì chỉ phải tuyên xưng đức tin khi gia nhập Công Giáo mà thôi.

Đó là những khác biệt căn bản giữa Công Giáo và Tin Lành nói chung. Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn hướng về các anh em ly khai này và mong ước đạt được sự hiệp nhất với họ qua nỗ lực đại kết (ecumenism) mà Giáo Hội đã theo đuổi và cầu nguyện trong nhiều năm qua.

Chúng ta tiếp tục cầu xin cho mục đích hiệp nhất này giữa những người có chung niềm tin vào Chúa Kitô nhưng đang không hiệp thông (communion) với Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội duy nhất Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng các Tông đồ.
 
Thông Báo
Phân ưu & Cáo phó: Bà cố Maria Hoàng Thị Hoa, thân mẫu của Lm Giuse Đinh Thanh Bình SDB qua đời
Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng SDB
20:32 18/03/2014
PHÂN ƯU

NHẬN ĐƯỢC TIN

Cụ Cố Quả Phụ

Đinh Khắc Thắng

Nhũ Danh: MARIA HOÀNG THỊ HOA

Sinh tại Việt Nam 07/2/1926

Qua đời tại Melbourne 16/03/2014

Xin chia buồn cùng Lm Đinh Thanh Bình

cùng tất cả tang quyến.

Nguyện xin Chúa và Mẹ Maria đón nhận cụ cố

vào trong Vương quốc Chúa

Đồng phân ưu

ĐGM phụ tá Vincent Nguyễn Văn Long

Ban giám đốc Vietcatholic.net

Tuyên Úy Đoàn và CĐCG VN Úc Châu và Melbourne

Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu

& Gia đình Salesian VN Úc Châu

Chương trình an táng như sau:

- Thứ Tư 19/3/2014 lúc 6.30 tối: Thánh lễ phát tang tại nhà thờ St Joseph’s Springvale

(dành riêng cho gia đình và dòng tộc họ hàng)

- Thứ Sáu 21/3/2014 lúc 11 giờ sáng: Thánh lễ an táng

nhà thờ St Joseph’s Springvale

sau đó linh cửu được di quan về nghĩa trang

Springvale Botanical Cemetery
 
Văn Hóa
Thư ngỏ gửi Đức Cha Chủ Tịch Uỷ Ban Giáo Dục Công Giáo
Một sinh viên Đại Học Sư Phạm
09:33 18/03/2014
THƯ NGỎ GỬI Đức Cha CHỦ TỊCH ỦY BAN GIÁO DỤC Công Giáo

Kính thưa Đức Cha,

Sau khi đọc và suy ngẫm bức thư của Đức Cha đã gửi cho chúng con là các sinh viên, học sinh Công Giáo nhân dịp Mùa Chay 2014, con xin được trình bày một vài suy nghĩ, tâm tư nhỏ hèn của mình. Ý niệm của con viết những dòng thư này là mong sao phần nào đáp lại tình cảm quan tâm, yêu thương của Ủy ban Giáo dục Công Giáo, cách riêng là Đức Cha Giuse dành cho chúng con; và cũng nhờ đó, con có dịp để trình bày suy nghĩ của bản thân, mong sao quý Cha sẽ hiểu và đồng hành với sinh viên chúng con ngày càng sâu đậm, thắm thiết hơn nữa trong tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.

Qua bức thư, Cha đã gửi đến cho chúng con những điểm cốt yếu của Sứ điệp Mùa Chay mà Đức Thánh Cha Phanxicô gửi toàn thể Hội Thánh, mời gọi chúng con mở lòng, mở trí quan tâm đến những sự lầm than cơ cực của nhiều người và phải hành động để phần nào làm cho những nỗi cơ cực của họ vơi nhẹ đi.

Trong xã hội hôm nay, hay cụ thể hơn ngay trong chính khu xóm, khu trọ mà chúng con đang sống (ở thành phố Hồ Chí Minh), vừa bước ra đường có thể gặp được những cảnh lầm than cơ cực ấy, lầm than về vật chất, tinh thần. Như hình ảnh các em nhỏ quần áo rách rưới, dơ bẩn, không được học hành phải đi xin tiền ở các ngã tư; các cụ già bán vé số, hàng rong nắng nôi cả ngày trời; hay các thanh niên không chịu học hành, làm việc mà tụ nhóm ăn chơi, quậy phá dẫn đến các tệ nạn xã hội. Tệ hại hơn, là trong giới sinh viên chúng con cũng có một phần không nhỏ sống trong các nỗi lầm than ấy: lầm than về luân lý và thiêng liêng. Vì thế, là những người sinh viên Công Giáo, hưởng ứng lời mọi gọi của Đức Cha, chúng con phải biết hành động cụ thể để giảm thiểu những lầm than đó ngay chính trong Mùa Chay thánh này.

Trước tiên, đối với bản thân chúng con – các sinh viên, cách riêng con đây, mình phải là người không bị vướng các cảnh lầm than ấy, nhất là lầm than luân lý và lầm than thiêng liêng, từ đó mới có thể đem lại cho người khác niềm vui và sự hy vọng. Vì không ai có thể cho người khác cái mà mình không có cả. Chính vì thế, con tự hứa với bản thân và với Chúa, trong từng phút giây của hiện tại, phải biết rèn luyện bản thân mình, rèn luyện các nhân đức, từ bỏ các thói hư tật xấu, sẽ không rượu chè, cờ bạc,… để khỏi sa vào cảnh lầm than luân lý. Đồng thời, luôn kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để không bị xa lánh Thiên Chúa, chối bỏ Ngài,… dẫn đến sự lầm than thiêng liêng, qua các việc cụ thể như tham dự thánh lễ thường xuyên hơn, đọc kinh cầu nguyện, lần hạt để xin Chúa phù trợ, ban sự bình an, niềm vui trong tâm hồn. Như Đức Cha đã dạy chúng con, theo gương Chúa Giêsu, tâm hồn của các con phải thấm nhuần tình thương yêu múc nguồn từ chính tình yêu của Chúa. Một tình yêu vô vị lợi, chỉ mong xây đắp mà không tính toán, chỉ cho đi mà không trông chờ đáp đền.

Từ đó, chúng con sẽ thể hiện tình yêu này qua việc giúp đỡ, cảnh thức, cảm thông, chia sẻ với những anh chị em xung quanh chúng con đang gặp phải những cảnh lầm than mà chính họ cũng không muốn hay không ý thức nhận ra được điều đó. Cụ thể bằng các hành động như Đức Cha khuyến khích: tham gia các hoạt động tình nguyện của trường đại học chúng con (như mùa hè xanh, tiếp sức mùa thi, hiến máu nhân đạo, thăm các trại mồ côi, tàn tật,…), hay trong khu xóm, phòng trọ thì sống thân tình, thật thà, siêng năng, chăm chỉ trong học tập và rèn luyện, đào tạo,… Qua nhiều cuộc tham gia tình nguyện, bản thân con đã cảm thấy thật vui, hạnh phúc khi giúp đỡ người khác, tạo cho họ được niềm vui, tiếng cười, sự quan tâm, chia sẻ. Tuy không phải là những điều lớn lao, nhưng con tin qua những điều nhỏ bé ấy, chúng con làm với tất cả niềm tin yêu của mình, thì mình đã góp phần làm cho nỗi lầm than của họ vơi đi, mang tình yêu của Chúa đến với mọi người. Con xin trích câu thơ nổi tiếng của Chesterton mà con rất thích, đã khuyến khích con dấn thân:

Ở đâu có người Công Giáo ở đó có mặt trời mọc,

Có nhiều tiếng cười cùng với rượu ngon.

Thiên Chúa luôn ban cho dư đầy.

Chúng ta hãy chúc tụng Chúa!


Trong Mùa Chay năm nay, con hứa sẽ cố gắng hoàn thiện bản thân hơn nữa, qua sự hướng dẫn của Đức Cha: làm việc bác ái và cầu nguyện, khơi lên bầu khí yêu thương và cảm thông, bầu khí tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa; và chúng con sẽ được cử hành Đại lễ Chúa Phục Sinh với lòng hân hoan và vui mừng. Con mong sao Ủy Ban Giáo Dục Công Giáo, cách riêng là Đức Cha Giuse sẽ mãi đồng hành với sinh viên chúng con, hướng dẫn, vun đắp để chúng con sống đời đức tin Kitô hữu cách vững mạnh, tốt đẹp như lòng Chúa mong ước trong một xã hội đầy cám dỗ, lầm than này.

Lời cuối cùng con xin chân thành cám ơn Đức Cha rất nhiều, đã gửi thư cho sinh viên, học sinh chúng con vào các dịp lễ, đặc biệt là trong Mùa Chay Thánh; điều đó rất có ý nghĩa và thiết thực đối với chúng con.

Nguyện xin Thiên Chúa, qua lời cầu bầu của Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse, ban cho Đức Cha trong Mùa Chay thánh này thật nhiều ơn lành hồn xác và luôn được ơn khôn ngoan, thánh đức.

Chúa Nhật I Mùa Chay, ngày 9 tháng 03 năm 2014

Một sinh viên Đại Học Sư Phạm TPHCM.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Chiêm Niệm
Joseph Nguyễn Tro Bụi
21:25 18/03/2014
CHIÊM NIỆM
Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi
Ngước nhìn Thập giá Chúa tôi
Lòng trào thổn thức, bồi hồi, kính yêu,
Ôi tình Chúa thật huyền siêu…
(Joseph Nguyễn Tro Bụi)