Ngày 16-03-2016
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Chia sẻ với em: Đôi cánh hạnh phúc của linh mục
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:00 16/03/2016
CHIA SẺ VỚI EM
ĐÔI CÁNH HẠNH PHÚC
CỦA LINH MỤC


ĐÔI CÁNH HẠNH PHÚC
CỦA LINH MỤC


Linh mục là người hạnh phúc nhất trong con cái loài người, nhưng cũng là người vô phúc nhất nếu các ngài không sống như lòng Chúa mong muốn, mà lòng Chúa mong muốn nơi các linh mục của Ngài là trở nên mục tử hiền hậu, mục tử yêu thương, mục tử phục vụ và chu toàn bổn phận thánh của mình trong cuộc sống hằng ngày.

Linh mục là người hạnh phúc nhất là bởi vì các ngài được Thiên Chúa tuyển chọn giữa con cái loài người, là con cóc xấu xí được chọn giữa bầy sư tử kiêu hùng, là con chim sẻ nhỏ được chọn giữa bầy phượng hoàng đẹp đẽ cao sang, do đó mà nói linh mục là người hạnh phúc nhất cũng không phải là lời nói điêu ngoa, mà là sự thật là như thế.

Không một ai nói linh mục là người bất hạnh cả, chỉ có những linh mục tự mình tách khỏi Giáo Hội, tách khỏi tình yêu của Thiên Chúa sống trong kiêu căng mới là người bất hạnh nhất mà thôi, bởi vì “càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan”, danh vọng thì đi liền với chức vụ, mà thiên chức linh mục càng đưa người linh mục lên cao trong danh vọng, tức là đưa các ngài lên cao tới tận cửa thiên đàng, nhưng nếu các ngài không trở nên chim phượng hoàng bay cao, thì sẽ trở nên con cóc xấu xí suôt đời lầm lũi trên mặt đất, trở thành nỗi buồn cho Giáo Hội, cho giáo dân, cho những người đặt tất cả hy vọng vào linh mục.

CHIM ĐẠI BÀNG HẠNH PHÚC
Hạnh phúc của linh mục được ví như đôi cánh mạnh mẻ của chim đại bàng khi bay vút lên cao tận trời xanh: đôi cánh hạnh phúc ấy của linh mục là cám ơn và chúc phúc.

Thật vậy, chim đại bàng rất hạnh phúc khi bầu trời to lớn là của nó, nó tung mình bay lượn trên không trung với đôi cánh khỏe mạnh của mình, đôi cánh đã nâng nó lên tận mây xanh và cũng chính đôi cánh ấy giữ nó bồng bềnh trên những đám mây giữa trơi cao, thật đúng là hạnh phúc.

Cũng vậy, hạnh phúc chỉ có được khi chúng ta –linh mục- biết cám ơn mỗi giây phút trong cuộc sống, hạnh phúc chỉ có được khi chúng ta biết dùng bàn tay đã được xức dầu thánh hóa của mình để chúc phúc cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ, yếu đuối và cô đơn bất hạnh. Cuộc sống đầy cám ơn và hạnh phúc làm cho cuộc sống của người linh mục thêm phong phú và ý nghĩa hơn, thêm thi vị và dồi dào tình Chúa tình người hơn trong cuộc sống của mình và cho tha nhân.

CHIM ĐẠI BÀNG: CÁNH CHÚC PHÚC
Biết ơn người đã ban ơn cho mình, đó chính là căn bản của đạo làm người, bởi vì con người có một quả tim bằng thịt biết yêu thương và biết nhớ ơn, như lời thánh Phao-lô tông đồ đã nhắn nhủ với giáo dân của giáo đoàn Cô-rin-tô: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Ki-tô Giê-su.” (1Cr 1, 4)

Nhưng chỉ có “cánh cám ơn” mà thôi thì chưa trọn vẹn, cần phải có thêm “cánh chúc phúc” nữa thì hạnh phúc của linh mục mới được trọn vẹn.

Trong thánh lễ thụ phong linh mục, Đức Giám Mục đã dùng dầu thánh xức đầy tràn trên hai bàn tay của tiến chức và nói: “Xin Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng mà Chúa Cha đã xức dầu bằng sức mạnh và Chúa Thánh Thần , gìn giữ con để thánh hóa giáo dân và hiến dâng lễ tế lên Thiên Chúa“ (1). Thánh hóa giáo dân cũng chính là linh mục dùng chính đôi bàn tay của mình, để chúc phúc lành của Thiên Chúa trên những giáo dân của mình. Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô không ngần ngại đưa tay chúc lành cho mọi người, cho các em nhỏ, cho các bệnh nhân và cho tất cả những ai xin ngài chúc lành, bởi vì bàn tay khi chúc lành của linh mục cũng chính là bàn tay chúc lành của Đức Chúa Giê-su. Đó là sự giàu có vô cùng của linh mục mà đôi khi chúng ta không muốn hoặc không dám chúc lành cho người khác khi họ xin các ngài chúc lành ngoài thánh lễ.

“Gìn giữ con để thánh hóa giáo dân...”
Chúc phúc là thay mặt Thiên Chúa, nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi tuôn đổ ơn lành của Ngài xuống trên người nhận, đó chính là chúc phúc và ban phúc lành cho giáo dân của mình. Linh mục là người được Chúa chúc phúc, và do đó mà linh mục phải đem phúc lành của Chúa đi chúc phúc cho người khác. Ai là người nhận được nhiều ơn lộc bởi trời và bởi những con người, đó không phải là những linh mục sao ? Chính các ngài chứ không ai khác, và có thể nói trên trần gian này không ai nhận được nhiều ơn lành của Thiên Chúa và sự yêu thương của con người cho bằng các linh mục của Giáo Hội Công Giáo, do đó mà chính các linh mục phải đem những ơn lành này chia sẻ với mọi người, nhất là với những người bất hạnh trong xã hội.

Đôi bàn tay được xức dầu thánh hiến, trước hết là để thánh hóa con, tức là thánh hóa bản thân của người linh mục, để ngài trở thành một công cụ chúc phúc lành của Chúa trên đoàn dân của Ngài là những người Ki-tô hữu và những người yêu mến các linh mục, đôi lúc họ là những người không cùng tôn giáo với các ngài.

Phải thánh hóa mình trước rồi mới đến thánh hóa tha nhân, như lời của Đức Chúa Giê-su đã nói với thánh Phê-rô: “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 31-32). Sự yếu đuối của người linh mục được Đức Chúa Giê-su tiên liệu, nên Ngài đã nhắc nhở cho thánh Phê-rô biết để khi nhìn thấy anh chị em sa ngã thì nâng đỡ giúp họ đứng lên, vì đó chính là kinh nghiệm của ngài.

Để mình thật sự trở thành con người hạnh phúc, thì linh mục phải trở thành người tôi tớ phục vụ tha nhân, trở thành người luôn chúc lành chứ không chúc dữ (chửi rủa, khinh bỉ, cao ngạo...), là người ban ơn lành của Chúa chứ không nhận sự bảo trợ ấm no của người đời, do đó mà các linh mục của Chúa cần phải thánh hóa mình trước trước khi thánh hóa người khác, cần phải sửa đổi cuộc sống của mình trước rồi dạy dỗ người khác sau, bởi vì khi trong tâm hồn không có sự bình an thì không thể chúc lành hoặc thánh hóa ai cả.

Thật vậy, đôi bàn tay đã được thánh hóa bằng việc xức dầu thánh của linh mục, đã làm cho các ngài trở thành Alter Christus –Chúa Ki-tô thứ hai- để trở thành những người ban phát ơn lành của Chúa cho nhân loại.

“Hiến dâng lễ tế lên Thiên Chúa”
Đôi tay của linh mục đã được xức dầu thánh hiến là để thánh hóa giáo dân và “hiến dâng lễ tế lên Thiên Chúa”, do đó mà ngoài linh mục ra, thì không một người nào trên trần gian này được cầm lấy bánh và rượu để hiến tế đọc lời truyền phép, để cho bánh rượu ấy được trở nên Mình Thánh và Máu Thánh của Đức Chúa Giê-su, bởi vì sẽ không có linh mục thì sẽ không có Đức Chúa Giê-su trên bàn thờ, và dĩ nhiên là không có của lễ hiến tế dâng lên Thiên Chúa Cha.

Chúc phúc là dùng đôi bàn tay của mình đặt trên đầu của người được chúc phúc, đó là việc làm phổ thông của mọi người, nhưng đối với các linh mục, chúc phúc chính là dùng bàn tay đã được xức dầu thánh vẽ hình Thánh Giá trên người được chúc phúc nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi.

Hiến dâng tế lễ lên Thiên Chúa, trước hết người linh mục phải hiến dâng toàn vẹn cuộc sống con người của mình cho Thiên Chúa, đó chính là những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống của mình, bởi vì một khi chưa cảm nghiệm được thế nào là hiến tế đời mình cho Thiên Chúa, thì người linh mục sẽ trở thành một công cụ vô hồn khi hiến dâng thánh lễ, nghĩa là các ngài cử hành thánh lễ cách máy móc khô khan và như một diễn viên bất đắc dĩ trên bàn thờ, hoặc khi chúc lành cho giáo dân thì các ngài không cảm nghiệm phúc lành của Thiên Chúa nên huơ tay vẽ qua vẽ lại cho có.

“Cánh chúc phúc” là đem người linh mục bay thẳng vào cung lòng yêu thương của Thiên Chúa, bởi vì ai ở trong tâm khảm của yêu thương thì mới cảm nhận được tình yêu thương cao quý và cần thiết như thế nào. Chúc phúc không chỉ là đưa tay lên ban phép lành hay đặt tay trên đầu, nhưng còn là lôi kéo ơn Chúa xuống trên giáo dân, trên người được chúc lành, như lời Đức Chúa Giê-su đã nói với các tông đồ: “Vào nhà nào anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy” (Mt 10, 12), chúc bình an chính là chúc phúc lành của Thiên Chúa cho họ, nhà nào người nào cũng cần được đôi bàn tay của linh mục chúc phúc, chứ không chỉ có một vài người thân thiết ưu tiên, nhưng ưu tiên nhất chính là những trẻ em, người bất hạnh, đau khổ và bị người khác khinh rẻ. Do đó mà người giáo dân luôn kính trọng các linh mục bởi vì họ biết rằng, mọi ơn sủng của Thiên Chúa đều qua bàn tay của linh mục khi ngài cử hành hy tế Tạ Ơn (thánh lễ) và các bí tích thánh, và ngay trong cuộc sống đời thường các ngài cũng đều có thể nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi chúc lành cho mọi người.

“Cánh chúc phúc” cũng chính là sự hiệp thông giữa con người linh mục với Thiên Chúa Ba Ngôi, bởi vì khi tách lìa khỏi Thiên Chúa thì người linh mục sẽ là công cụ của ma quỷ, và trở thành đối đầu với ân sủng; bởi vì khi tách lìa khỏi Thiên Chúa thì người linh mục sẽ là một cái xác vô hồn, lạnh ngắt yêu thương, cứng đờ con tim, vô cảm trước những đau khổ của người khác, nhất là đau khổ của những giáo dân trong giáo xứ của mình khi họ không thấy sự cảm thông và chúc lành của cha sở, mà chỉ thấy ngài chỉ biết dâng thánh lễ và nhận tiền lễ, chứ không thấy ngài năng động tổ chức các đoàn thể sinh hoạt hổ trợ cho công cuộc truyền giáo trong giáo xứ.

Qua sinh hoạt đoàn thể trong giáo xứ, người giáo dân mới nhận ra được ai là mục tử hết mình vì đàn chiên của mình, và ai là chủ nhân ông chỉ biết ra lệnh và hưởng thụ như người làm công, bởi vì chỉ là người làm công nên đàn chiên sợ hãi không dám đến gần chủ chiên, bởi vì chỉ là người làm công nên các ngài không lo cho việc nhà xứ được phát triển, mà chỉ lo cho bản thân mình no ấm là được rồi, thế là giáo dân không thấy ngài đưa tay ra bắt tay thăm hỏi giáo dân, vì thánh lễ vừa chấm dứt là ngài cũng biến luôn, có khi giáo dân không biết ngài đi đâu.

Linh mục là người hạnh phúc nhất, vì ngài được quyền tế lễ Thiên Chúa qua việc Truyền Phép bánh miến và rượu nho để trở nên Mình và Máu Thánh của Đức Chúa Giê-su, qua việc các ngài được thông phần vào chức tư tế đời đời của Ngài, cho nên, giáo dân rất mong muốn được linh mục chúc phúc lành của Chúa Giê-su cho họ, hạnh phúc của giáo dân cũng chính là hạnh phúc của linh mục vậy.

CHIM ĐẠI BÀNG: CÁNH CÁM ƠN

a. Cám ơn Thiên Chúa .
Thánh Phao-lô tông đồ sau khi giải thích ý nghĩa của lý do việc bãi bỏ lề luật cũ giữa chức tư tế Lê-vi theo phẩm trật A-a-ron cha truyền con nối (Dt 7, 15-16), và đề cao chức tư tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê không cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh của một đời sống bất diệt, như lời chứng nhận: “Con là thượng tế theo phẩm trật Men-ki-sê-đê” (Dt 7, 16-17), tuy rằng câu nói này chỉ về Đức Chúa Giê-su là Đấng Thượng Tế đời đời, nhưng chức thượng tế này đã được Ngài trao cho các môn đệ của mình trong bữa ăn tối trước khi chịu nạn, khi Ngài cầm lấy bánh chúc tụng và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19-20).

Được tuyển chọn làm linh mục của Chúa Giê-su, tức là trở thành thượng tế đời đời theo phẩm trật Men-ki-sê-đê, người linh mục phải là người hạnh phúc hơn tất cả mọi người, bởi vì chính các ngài đã là nguồn hạnh phúc cho mọi người khi đưa tay chúc lành của Thiên Chúa trên đoàn dân của Ngài.

Hình tượng chim đại bàng bay vút lên trời cao với đôi cánh mạnh mẽ dang rộng giữa bầu trời, là hình ảnh linh mục của Đức Chúa Giê-su, đôi tay của các ngài được xức dầu và thánh hiến nên trở nên có thần lực của ân sủng, đưa các ngài bay vút lên cao trong đời sống thánh thiện đầy ân sủng của Thiên Chúa, chính đôi tay đã được xức dầu thánh hiến này sẽ cầm lấy Bánh Thánh tinh tuyền là Đức Chúa Giê-su, và nâng cao cho mọi người thờ lạy sau khi truyền phép bánh miến và rượu nho trở thành Mình và Máu Thánh của Chúa Giê-su, do đó mà sự cám ơn của linh mục đối với Thiên Chúa thì vô cùng tận, bởi vì từ trong đống bùn nhơ Thiên Chúa đã chọn các ngài.

Thật vậy, chim đại bàng sẽ không thể bay vút lên trời cao nếu không có đôi cánh rộng và mạnh mẻ, nó cũng sẽ không thể vỗ cánh tung bay giữa trời cao lộng gió, nếu không có một sức mạnh kinh hồn từ trong mình nó. Cũng vậy, người linh mục của Đức Chúa Giê-su cũng sẽ không thể trở thành người bảo vệ đức tin cho các giáo hữu, nếu các ngài không có đôi tay thánh hiến, miệng lưỡi khôn ngoan, hành vi thoát tục, để không những bảo vệ mà còn hướng dẫn đoàn chiên đi theo đường lối của Thiên Chúa chỉ dạy qua Hội Thánh của Ngài.

Cho nên, cám ơn Thiên Chúa là việc làm từng giây phút trong cuộc sống của người linh mục, bởi vì chính linh mục là người lãnh nhận quá nhiều hồng ân của Chúa hơn bất cứ người nào trên thế gian này, do đó mà thánh Gioan Maria Vianney linh mục đã nói: linh mục là Chúa Giê-su thứ hai (alter Christus), bởi vì chính ngài đã sống và đã cảm nghiệm được những ơn lành mà Chúa ban cho ngài qua thiên chức linh mục, cho nên phải biết cám ơn mỗi giây mỗi phút trong cuộc sống của mình, cám ơn Thiên Chúa Đấng đã chọn mình vào hàng công hầu khanh tướng của Ngài, không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và phục vụ chính là niềm hạnh phúc nhất của các linh mục, như chính Đức Chúa Giê-su đã đến để phục vụ chứ không phải đến để được người khác phục vụ.

b. Cám ơn mọi người.
“Cánh cám ơn” không chỉ dừng lại ở việc cám ơn Thiên Chúa vì những ơn lành đặc biệt của Ngài đã ban cho người linh mục mà thôi, nhưng “cánh cám ơn” này đặc biệt phải được tỏ hiện với những người hảo tâm bằng vật chất hay bằng tinh thần, đã giúp đỡ mình trên con đường tận hiến cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, chúng ta gọi những người ấy là các ân nhân.

Nếu người linh mục không biết cám ơn những người đã làm ơn cho mình, thì chính các ngài sẽ không xứng đáng đón nhận những ơn lành mà Thiên Chúa ban cho, bởi vì chính các linh mục hiểu rõ hơn ai hết lòng biết ơn và cám ơn chính là điều căn bản tạo nên nhân cách trưởng thành của bản thân mình, và nguy hiểm hơn, là các linh mục sẽ không tìm được hạnh phúc trong đời sống linh mục và phục vụ của mình, nếu các ngài sống vô ơn với chính những người đã từng nâng đỡ mình trong hành trình đời tu.

Từ ngày bước chân vào chủng viện, dòng tu, các linh mục tương lai đã nhận rất nhiều sự giúp đỡ của gia đình, bà con, bè bạn và giáo dân, họ, cách này hay cách khác, dùng tiền bạc vật chất hoặc lời cầu nguyện của mình để giúp sức, nâng đỡ các linh mục tương lai, những giúp đỡ ấy bao gồm cho Giáo Hội nói chung và cho các linh mục tương lai nói riêng.

Không một chủng sinh nào, không một linh mục nào có thể phủ nhận vai trò của giáo dân trong quá trình tu trì theo ơn gọi của mình, sự quảng đại và lòng yêu mến của giáo dân đối với Giáo Hội và đối với các linh mục thật to lớn, và với đức tin sâu sắc, họ -các giáo dân- không mong các linh mục đền đáp, nhưng sự đền đáp cao quý nhất mà các linh mục sẽ làm để cám ơn họ, đó chính là các linh mục sống trở thành những mục tử chân chính, những mục tử hiền lành thánh thiện như lòng Chúa mong muốn, và khi các linh mục đã sống đúng như thế thì các ngài đã bày tỏ lòng cám ơn của mình đối với họ rồi vậy.

Thật vậy, lòng biết ơn được tỏ hiện qua thái độ và hành động của người chịu ơn, đó chính là hai tiếng cám ơn ngắn ngủi, nhưng bao hàm cả một tấm lòng khiêm tốn và yêu thương của các linh mục đối với Thiên Chúa, đối với Giáo Hội và giáo dân, chính “cánh cám ơn” này đã nảy sinh rất nhiều những linh mục tương lai khác cho Giáo Hội...

Hạnh phúc của đời linh mục không chỉ là thành công trong công tác mục vụ, không chỉ là có những bài giảng hùng hồn thu hút nhiều người, nhưng chính là có tấm lòng biết ơn và cám ơn được thể hiện qua cung cách sống khiêm tốn của các linh mục.

Có những linh mục giảng rất hùng hồn trên tòa giảng, nhưng ngài không hề đụng đến bốn chữ “uống nước nhớ nguồn” hoặc nói đến hai chữ “cám ơn”, bởi vì chính các ngài khi đã trở thành linh mục rồi thì không còn nhớ đến ai cả, chỉ nhớ đến bản thân mình và gia đình mình mà thôi, làm thế nào để xây được căn nhà cho cha mẹ, làm thế nào để có tiền mua xe đời mới cho “phù hợp” với sự giàu có hưởng thụ của mình, để rồi các ngài trở thành ông chủ của giáo xứ, hạch họe những giáo dân chân lấm tay bùn đến gặp ngài để xin làm phép chuẩn hôn phối cho con mình, hoặc đến gặp ngài để xin giải tội.v.v...

Lòng cám ơn được thể hiện cách chân thành là ở đó, tiếp đón niềm nở các giáo dân đến với mình, vì chính họ -tuy là không có vật chất để giúp đỡ các linh mục tương lai- nhưng bằng lời cầu nguyện và những hy sinh của họ, thì hôm nay chúng ta –các linh mục- mới trở thành những mục tử của Chúa.

Hạnh phúc của linh mục là ở đó và hạnh phúc của giáo dân cũng ở đó, họ rất hạnh phúc khi thấy, khi nghe các các linh mục của mình sống thánh thiện và nhiệt thành với bổn phận mục tử của mình.

KẾT
Hạnh phúc của linh mục chỉ đạt được khi các ngài thực sự hiểu được căn tính linh mục của mình, căn tính này được phát xuất từ Đức Chúa Giê-su linh mục đời đời, căn tính đó chính là yêu thương và phục vụ, bởi vì chính Đức Chúa Giê-su đã làm như thế khi Ngài công khai rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, và đặc biệt trước khi vào bàn ăn tiệc Vượt Qua với các môn đệ của mình. Đức Chúa Giê-su sau khi đã rửa chân cho các môn đệ thì nói với các ông rằng:
“Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà con rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15), đó chính là mẫu gương phục vụ của Chúa Giê-su với các môn đệ của mình. Và trong bối cảnh tiệc Vượt Qua ấy, sau khi rửa chân Ngài đã ban cho các môn đệ giới luật mới, đó là luật yêu thương, Ngài nói:
“Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết
Anh em là môn đệ của Thầy:
Là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 15)

Do đó mà chúng ta hiểu ra rằng, không phải ngẫu nhiên mà Đức Chúa Giê-su đã có hành động rửa chân cho các môn đệ và ban giới luật yêu thương cho các ông, bởi vì yêu thương chính là chúc lành và phục vụ chính là cám ơn.

Yêu thương và phục vụ quan trọng trong đời sống tu đức của linh mục như thế nào, thì sự chúc lành và nói lời cám ơn cũng quan trọng cuộc sống đời thường của các ngài như thế, nó không thể tách rời khỏi linh mục trong bất cứ hoàn cảnh nào, bởi vì đó chính là hai nét căn bản làm nên đời sống tu đức của linh mục, bởi vì đó chính là hạnh phúc đích thực của linh mục vậy.

(1) Sách Các Phép của Hồng Y GM Trịnh Văn Căn.

Taiwan, Mùa chay thánh 2016
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

-------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Dân Do thái và trẻ em tung hô Chúa
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
06:57 16/03/2016
Chúa Nhật LỄ LÁ, năm C
Lc 19,28-40

DÂN DO THÁI VÀ TRẺ EM DO THÁI TUNG HÔ CHÚA…

Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa, Giáo Hội muốn cho chúng ta nhận ra Dung Mạo của Chúa đầy lòng thương xót. Hôm nay, Mùa Chay đặc biệt của Năm Thánh Lòng Chúa xót thương, đoạn Tin Mừng của thánh Luca chúng ta vừa nghe đọc có một số chi tiết cho thấy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Ngài báo trước việc sẽ xảy ra và sự việc, biến cố xảy ra đúng y như lời Ngài loan báo.

Vâng, Chúa Giêsu tự xưng mình bằng danh “ Chúa “, là ngôn từ được áp dụng cho Ngài sau biến cố Phục Sinh, sau khi Chúa Giêsu được tôn vinh là Chúa. Ngài tỏ mình ra cho nhân loại, cho mọi người là là vua, vị vua đáng được tôn vinh, ca ngợi. Bởi vì nếu con người, loài người không tung hô, không nhìn nhận Ngài thì đến những viên đá cũng sẽ nhìn nhận Ngài và la lên :” Ngài là vua “.

Do đó, Chúa Giêsu là Thiên Chúa ngày hôm nay ngự đến để khai mạc Triều Đại Thiên Chúa, Vương Quyền Nước Thiên Chúa, khai mở kỷ nguyên mới, làm vinh danh Thiên Chúa. Đối với nhiều người đặc biệt những người Do Thái tưởng rằng kỷ nguyên mới trong đó Thiên Chúa giải phóng Ít-ra-en khỏi đế quốc Roma và mở ra một nếp sống thong dong thoải mái, dân chúng tha hồ vui chơi, thỏa thích vv…hoặc là nhiều người đã ngao ngán những Pharisêu, Biệt Phái nên thầm mong một chế độ luân lý cởi mở nhẹ nhàng hơn.Tuy nhiên đối với Đức Giêsu kỷ nguyên mới chính là lấy lại cương vị làm Con Thiên Chúa, không còn sống theo xác thịt, nếp sống cũ kỹ của trần gian mà sống địa vị mới làm Con Thiên Chúa: làm vua muôn loài, làm vua bản thân mình, làm vua cả thế gian tội lỗi nữa. Mới có nghĩa là tái lập trật tự và bình an cho nhân loại, để làm vinh danh Thiên Chúa.

Giờ đây chúng ta cùng bước theo Chúa Giêsu trên con đường khai trương kỷ nguyên mới của Nước Thiên Chúa qua các nghi thức Tuần Thánh năm nay, năm đặc biệt vì Đức Thánh Cha Phanxicô đã mở Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa. Chúng ta cùng bước theo Đức Kitô không phải tiến vào Giêrusalem như Chúa đã làm khi xưa mà là tiến vào Vương Quốc Nước Trời, Giêrusalem trên Trời. Chúng ta phải có tinh thần mới, con tim mới, tâm hồn mới để sống Năm Thánh Lòng Thương Xót của Chúa với tất cả lòng tin, với lòng yêu mến Chúa…

BÀI GIẢNG SAU BÀI THƯƠNG KHÓ

Thực thảm thương, nếu chúng ta chỉ nhìn Chúa với nhãn giới con người. Bởi vì Chúa Giêsu, vị Vua nhân từ mới đi vào thành Thánh Giêrusalem oai phong, lẫm liệt, được dân chúng tung hô, trẻ con hát mừng vv…Trong vụ án, Chúa Giêsu bị kết án tử hình dù rằng không có bất cứ tội nào, Ngài bị treo trên thập giá. Vụ án này làm nản lòng những người Do Thái. Họ nhìn nhau dè bỉu, bởi vì cho rằng họ đã quá dại khờ tin vào ông Giêsu, người Nagiarét là Đấng Mêsia, hoặc họ dè bỉu những kẻ rất ư nhẹ dạ chạy theo ông Giêsu trong nhiều tháng qua. Họ xem vụ án này như một vụ án đắng cay. Họ nản, tuyệt vọng không biết bao giờ họ mới có một Vị Cứu Tinh thực sự ?

Chúa Giêsu đã không đáp ứng những kỳ vọng của người Do Thái theo như cái nhìn trần tục của họ. Họ tưởng rằng Chúa sẽ đến để giải phóng họ khỏi ách nô lệ của Đế quốc Roma, nhưng Ngài đã thực hiện một cuộc giải phóng, cuộc giải phóng này quý hơn cuộc Xuất Hành khỏi Ai Cập xưa. Ngài đã mang lại cuộc hy vọng, một tương lai sáng lạn, một tương lai tươi sáng hơn nhiều. Cuộc giải phóng đem lại hạnh phúc, trật tự, an bình: một cuộc giải phóng đẩy xa tội lỗi con người ra khỏi cuộc đời của họ. Cuộc giải phóng đem người trộm lành vào Nước Thiên Chúa, ngay hôm nay, ngay chính giờ này. Cuộc giải phóng vô tiền khoáng hậu con người không thể nào làm được.

Chúa Giêsu giải phóng nhân loại khỏi tội lỗi, khỏi gông cùm của cái chết do tội gây nên, để đưa con người vào Nước Trời, vào cõi trường sinh, vào cõi vĩnh hằng. Người trộm lành, và mọi người chúng ta, khi hiểu được điều này, phải sung sướng biết chừng nào. Vì không ơn nào, cuộc giải phóng nào quý hơn ơn cứu chuộc chứa chan nơi Chúa.

Tuy nhiên để thực hiện được điều này, Chúa Giêsu phải hy sinh từ bỏ, phải thí mạng sống để làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Người Tôi Tớ đau khổ của Giavê ma ngôn sứ Isaia đã loan báo trước, sẽ đem lại hạnh phúc nghĩa là Ơn Cứu Độ cho mọi người.

Mọi người chúng ta hãy sốt sắng chiêm ngắm Đức Giêsu trong suốt Tuần Thánh này để cùng với Ngài hưởng nếm kỷ nguyên mới và sự mới mẻ Thiên Chúa mang lại cho con người, cho loài người.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Kỷ nguyên mới Chúa đem lại là gì ?
2.Cuộc thương khó của Chúa Giêsu nói gì cho Ông Bà Anh Chị em ?
3.Kẻ trộm lành được gì ?
4.Năm Thánh Lòng Thương Xót của Chúa nói gì cho chúng ta ?
 
Niềm vui - thập giá - và ơn cứu độ
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
08:43 16/03/2016
NIỀM VUI - THẬP GIÁ – VÀ ƠN CỨU ĐỘ

Suy niệm Lễ Lá

(Lc 22, 14-23, 56)

Với Chúa Nhật Lễ Lá, khai mạc Tuần Thánh, trung tâm của toàn thể Năm Phụng Vụ, trong Tuần này chúng ta dõi theo hành trình thương khó của Chúa Giêsu, chết và sống lại.

Niềm vui

Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! (x. Ga 12, 12-16)

Nghe đọc những lời trên lúc mở đầu nghi thức làm phép kiệu lá, tưởng nhớ tới sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng rủ nhau ra mà đón : “Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19, 36-38). Giờ đây mỗi người cầm cành lá trong tay vừa đi vừa hát “Hoan hô...” thấy thật là vui.

Đám đông dân chúng đón rước Chúa lúc đó hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm được khi tái cử hành biến cố năm xưa hôm nay. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà Đavít tiến vào Giêrusalem đã khơi dậy lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trong xã hội. Người thấu hiểu và cảm thông cảnh lầm than khốn khổ của họ, cúi mình xuống chữa lành những vết thương thể xác cũng như tâm hồnvà tỏ lòng từ bi đối với họ.

Đúng như lời ngôn sứ I-sai-a nói : “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Đó là tình thương cao cả của Chúa Giêsu, Người đã mang tình thương ấy đi vào thành Giêrusalem. Chúng ta thật vui mừng và tràn đầy hy vọng, vì thế giới chúng ta sống đang rất cần tình thương đó.

Thập giá

Niềm vui của dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa, sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá bao trùm, những lời của Tiên tri Isaia, bài tường thuật của thánh sử Marcô, và những bài đọc phụng vụ khác dẫn đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu. Isaia mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã (x. Isaia 50, 6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?” giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá (Lc 23,44-45). Nơi bài đọc II, thánh Phaolô tông đồ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm Vượt Qua: Chúa Giêsu, “dù là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự” (Phil 2, 6- 8).

Một vị Vua cưỡi trên con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực tiến vào thành Giêrusalem là Chúa Giêsu. Người không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Người vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã tiên báo (x. Is 50,6); Người vào để chịu đội mão gai và mặc áo choàng đỏ, vương quyền của Người là đối tượng cho sự nhạo cười; Người vào để bước lên đồi Canvê vai vác khổ giá; Người vào thành Giêrusalem để chịu chết trên Thập giá. Thập giá là ngai vàng của Người, Người mang lấy Thập giá trên mình, mang vào mình sự ác, cùng với sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế và cả tội chúng ta nữa. Với lòng từ bi và tình thương của Thiên Chúa, Người lấy máu mình mà tẩy rửa cho sạch. Vì thế, Thập giá được Chúa Giêsu đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ.

Sống Tuần Thánh

Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội cùng với con cái mình dõi theo Chúa Giêsu trên hành trình tiến lên đồi Canvê với thập giá và sự sống lại của Người. Sống Tuần Thánh là đi vào tình thương hiến thân của Chúa Giêsu hầu mang lại sự sống cho con người

Lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã rong ruổi trên khắp nẻo đường, với lòng tin, Người đã chọn gọi 12 người đơn sơ để họ ở với và tiếp tục sứ mạng yêu thương của Người. Trong Tuần Thánh chúng ta sống trọn vẹn cuộc hành trình này. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để thi hành sứ mạng yêu thương ấy.

Chúa Giêsu không sống cách thụ động tình thương dẫn đến hy sinh, hoặc như một định mệnh không thể tránh được; Người không che giấu sự sao xuyến sâu xa như một con người trước cái chết dữ dằn, nhưng phó thác hoàn toàn nơi Chúa Cha. Chúa Giêsu tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết, để chứng tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với thế gian. Thánh Phaolô cảm nghiệm được rằng, trên Thập giá, Chúa Giêsu “đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Mỗi người chúng ta có thể nói: Người đã yêu thương tôi và đã phó nộp mình vì tôi.

Nhìn vào Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chúng ta khám phá ra những đau khổ của nhân loại nói chung và những đau khổ của chính cá nhân mình nói riêng. Chúa Giêsu, dù vô tội, đã nhận mang lấy vào thân điều mà con người không thể chịu được như : sự bất công, sự dữ, tội lỗi, hận thù, đau khổ và cuối cùng là sự chết. Trong Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa phải chịu nhục nhã và đau khổ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả, tha thứ cho tất cả và mang đến cho con người ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống.

Mỗi năm, với Tuần Thánh, Giáo Hội bước vào trong Mầu nhiệm Vượt Qua, Mầu nhiệm tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Chính nhờ sức mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua mà Giáo Hội có thể công bố cho thế giới bằng lời nói và bằng những việc làm tốt của những con cái mình rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh hiển” (Phil 2,11). Phải, Chúa Giêsu Kitô là Chúa, Người là Chúa của thời gian và của lịch sử; là Ðấng Cứu Chuộc con người; Người là Ðấng Cứu Thế! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Hosanna!

Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy xin với Mẹ là Ðấng đã theo Chúa Giêsu Con Mẹ trong suốt chặng đường dẫn tới Canvê trong đức tin, giúp con cái Mẹ vác thập giá với niềm thanh thản và yêu thương bước theo Chúa, để đạt được niềm vui của lễ Phục Sinh. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:47 16/03/2016
12. VƯƠNG BI ĂN VỎ.

Đại đô đốc Vương Bi có tính thanh liêm, nhưng do tính thanh liêm đó mà khiến cho khách khứa thường lúng túng.

Lúc trấn thủ ở Hà Đông, triều đình phái đến một sứ giả, Vương Bi mời khách, vì sứ giả đem những chỗ bị cháy của bánh tráng khô vứt đi rồi mới ăn, Vương Bi bèn nói:

- “Cày cấy thu hoạch trăm ngàn đắng cay, từ khi bóc vỏ xay bột cho đến khi thành cái bánh càng không phải nhất thời mà thành, ngài bới móc chọn lựa như thế, nhất định là không đói.”

Nói xong liền ra lệnh cho tả hữu đem bánh tráng xuống, sứ giả bị “chơi” rất là khó chịu.

Lại có một ngày, cùng ăn dưa với khách, khách cắt bỏ đi vỏ dưa dày sát tận cùi bên trong, Vương Bi “thương xót” không thôi, bèn vội vàng lấy vỏ gặm cùi.

(Bắc sử)

Suy tư 12:

Lãng phí và hợp vệ sinh thì là hai chuyện không nhằm nhò chi với nhau, nhưng nó ảnh hưởng trên nhau.

Có lần vì sợ lãng phí và tiếc công làm rẫy, đến mùa thu hoạch bắp (ngô) tôi đã ăn những trái bắp mà chuột đã ăn hết một nửa trái, rốt cuộc bị đau bụng và mùi hôi của chuột để lại trên trái bắp đã làm cho tôi mấy năm sau mới dám ăn lại bắp, bây giờ nghĩ lại mới thấy là mình ngu.

Cái lãng phí đáng sợ nhất chính là lãng phí những ân sủng của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, có người nói ân sủng của Chúa chính là các bí tích và thánh lễ, giữ trọn thánh lễ và tham dự các bí tích thì lấy gì mà lãng phí chứ ? Câu trả lời rất đúng, nhưng vẫn còn thiếu, vì sức khỏe cũng là ân sủng Chúa ban cho, tài năng là ân sủng Chúa ban cho, có khuôn mặt đẹp là ân sủng Chúa ban cho, cha mẹ còn sống là ân sủng Chúa ban cho.v.v... tắt một lời, mọi thứ chúng ta có đều là ân sủng Chúa ban cho.

Sức khỏe là ân sủng nhưng đem sức khỏe quăng vào những cuộc nhậu thâu đêm, ăn chơi trác táng, chính là lãng phí ân ủng; tài năng là ân sủng nhưng đem tài năng đi làm những việc hại người, đó không những là lãng phí ân sủng mà còn mắc tội; có khuôn mặt đẹp dễ thương khả ái là ân sủng mà không thấy một nụ cười thân thiện, tươi vui, ngày ngày cứ kênh kiệu trên trời, coi ai cũng không đẹp bằng mình thì cũng là lãng phí ân sủng của Chúa vậy; cha mẹ còn sống là ân sủng của Chúa ban để chúng ta có dịp trả hiếu đền đáp công nghĩa sinh thành, nhưng lại coi cha mẹ như là một gánh nặng cho mình, thì chính là lãng phí ân sủng rồi chứ còn gì nữa. Có, mà lãng phí không dùng như ý Chúa, thì một ngày nào đó nếu “ân sủng không đơm hoa kết trái” thì cũng sẽ bị lấy lại và đem cho người khác.

Trong cuộc đời của tôi, tôi đã nhận rất nhiều ân sủng của Thiên Chúa ban cho, nhưng cũng có rất nhiều lần vì tính ích kỷ hà tiện và chiều theo tính xác thịt, tôi đã lãng phí ân sủng cao quý mà Chúa đã vì yêu thương mà ban tặng cho tôi.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư


------------

http://www.vietcatholic.net

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://nhantai.info
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:46 16/03/2016

4. Suy nghĩ thật kỷ bức tranh tử thi, thì có thể ngăn ngừa được tà ý.

(Thánh Gregorius))

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")

-----------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Bênêđíctô XVI trả lời phỏng vấn của nhật báo Avvenire
Vũ Văn An
22:06 16/03/2016
Theo tin LifeSiteNews.com, ngày 16 tháng Ba vừa qua, Đức Bênêđíctô XVI đã dành cho nhật báo Avvenire của Hội Đồng Giám Mục Ý một cuộc phỏng vấn, trong đó, ngài đề cập tới “cuộc khủng hoảng sâu xa hai mặt” mà Giáo Hội đang phải đương đầu sau Công Đồng Vatican II.

Ngài nhắc để ta nhớ tới xác tín trước đây của người Công Giáo: họ tin rằng ta có thể mất phần rỗi hay có thể xuống hỏa ngục: Các nhà truyền giáo thế kỷ 16 tin chắc rằng những người không rửa tội bị trầm luân đời đời. Sau Vatican II, niềm xác tín ấy hoàn toàn bị bác bỏ. Kết quả: ta có cuộc khủng hoảng hai mặt, rất sâu xa. Không có sự lưu ý tới phần rỗi, Đức Tin mất hết nền tảng.

Ngài cũng nói tới “sự biến hóa sâu xa của tín điều” nhất là tín điều: không có cứu rỗi ở bên ngoài Giáo Hội. Theo Đức Bênêđíctô XVI, sự biến hóa của tín điều này dẫn tới việc mất hết nhiệt tình truyền giáo trong Giáo Hội: “mọi động lực đối với dấn thân truyền giáo trong tương lai đều bị tháo gỡ”.

Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI hỏi nhiều câu hỏi sâu sắc về sự thay đổi thái độ rõ ràng ấy trong Giáo Hội: “Tại sao bạn còn cần phải cố gắng thuyết phục người ta chấp nhận đức tin Kitô Giáo khi họ có thể được cứu rỗi mà không cần có nó?”

Còn đối với các hậu quả khác của thái độ trên trong Giáo Hội, theo Đức Giáo Hoàng Hưu Trí, chính những người Công Giáo cũng ít gắn bó hơn đối với đức tin của họ: Nếu có những người có thể cứu linh hồn họ bằng các phương tiện khác, thì “tại sao các Kitô hữu lại cần phải gắn bó với việc nhất thiết phải có Đức Tin Kitô Giáo và nền luân lý của nó?” Và ngài kết luận: “Nhưng nếu Đức Tin và Sự Cứu Rỗi không còn liên lập với nhau nữa, thì đến Đức Tin cũng trở nên kém động viên hơn”.

Đức Bênêđíctô XVI cũng bác bỏ cả ý niệm “Kitô hữu nặc danh” do Karl Rahner khai triển, cũng như ý niệm dửng dưng (indifferentism) cho rằng mọi tôn giáo đều có giá trị và hữu hiệu như nhau để đạt được sự sống đời đời.

Ngài nói: “Càng ít chấp nhận được hơn là giải pháp do các lý thuyết đa nguyên về tôn giáo đề xuất, theo đó, mọi tôn giáo, theo cách riêng, đều là đường đưa tới cứu rỗi và, theo nghĩa này, phải được coi là tương đương về hiệu quả”. Trong bối cảnh này, ngài cũng đề cập tới các ý niệm có tính thăm dò của vị Hồng Y Dòng Tên là Henri de Lubac, về việc “đền tội thay” gần như chính thức; ngày nay, các ý niệm này cần được suy nghĩ thêm.

Liên quan tới mối tương quan của con người với kỹ thuật và tình yêu, Đức Bênêđíctô XVI nhắc ta nhớ tới sự quan trọng của xúc cảm con người; ngài nói rằng: tâm hồn con người vẫn mong “được người Samaria Nhân Hậu đến cứu giúp”.

Ngài nói tiếp: “trong cảnh khắc nghiệt của thế giới kỹ thuật, trong đó, cảm xúc không còn đáng kể nữa, niềm hy vọng có được một tình yêu cứu vớt đang lớn dần, một tình yêu được ban cho một cách tự do và đại lượng”.

Đức Bênêđíctô XVI cũng cho hay: “Giáo Hội không phải tự mình mà có, nó được Thiên Chúa tạo nên và liên tục được người tạo hình. Điều này tìm được biểu thức trong các Bí Tích, nhất là Phép Rửa: tôi gia nhập Giáo Hội không phải bằng một hành vi bàn giấy, nhưng với sự giúp đỡ của Bí Tích này”.

Cuộc phỏng vấn trên do Cha Jacques Servais, một thần học gia Dòng Tên, thực hiện. Trong cuộc phỏng vấn này, Đức Bênêđíctô XVI cũng đã mạnh mẽ ủng hộ việc Đức Phanxicô nhấn mạnh tới lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì theo ngài, dù gì, “vẫn còn nhận thức này là tất cả chúng ta đều cần ơn thánh và sự tha thứ”. Thừa nhận việc này chính là chủ đề chính của triều giáo hoàng Gioan Phaolô II và hiện nay được triều giáo hoàng Phanxicô tiếp nối.

Ngài giải thích: “chính lòng thương xót lái chúng ta về hướng Thiên Chúa, trong khi đức công bằng khiến ta run sợ trước nhan Người. Tôi tin điều này cho thấy: bên dưới lớp sơn tự tin và tự coi mình công chính, nhân loại ngày nay đã dấu không cho thấy sự hiểu biết sâu xa về các thương tích và bất xứng của mình trước mặt Thiên Chúa. Nhân loại đang mong chờ lòng thương xót”.

Nói về bản chất đức tin Kitô Giáo, Đức Bênêđíctô XVI cho rằng đức tin bản thân nối kết chặt chẽ với Giáo Hội: “một đàng, đức tin là cuộc thông đạt có tính bản thân sâu sắc với Thiên Chúa, một cuộc thông đạt liên hệ tới cốt lõi con người tôi và đặt tôi vào thế trực tiếp giao tiếp với Thiên Chúa hằng sống đến nỗi tôi có thể nói với Người và bước vào hiệp thông với Người. Đồng thời, kinh nghiệm có tính bản thân cao độ này có liên hệ mật thiết với cộng đồng: trở thành một trong con cái của Thiên Chúa trong cộng đồng các anh chị em hành hương là một phần của yếu tính đức tin”.

Đoạn đáng lưu ý trong cuộc phỏng vấn này là đoạn sau đây liên quan đến việc công chính hóa:

“Trên hết, tôi phải nhấn mạnh một lần nữa điều tôi đã viết trên tạp chí Communio năm 2000 về vấn đề công chính hóa. Đối với con người thời nay, liên quan tới thời Luther và tầm nhìn cổ điển về đức tin Kitô Giáo, theo một nghĩa nào đó, sự việc quả đang bị đảo ngược, hay hiện không còn ai tin rằng họ cần phải biện minh trước mặt Thiên Chúa, nhưng đúng hơn, họ cho rằng Thiên Chúa phải tự biện minh vì tất cả những điều khủng khiếp hiện nay trên thế giới và đứng trước những khốn cùng của con người, mọi sự mà phân tích đến cùng đều tùy thuộc Người”.

Về vấn đề này, ngài nói rằng điều đáng lưu ý là có một thần học gia Công Giáo dám cho rằng “Chúa Kitô có lẽ không chịu khổ hình vì tội lỗi con người, nhưng đúng hơn, có thể nói, Người triệt tiêu các sai lầm của Thiên Chúa. Ngay lúc này, đa số các Kitô hữu không ủng hộ việc đảo ngược đức tin như thế…”
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang Oregon tĩnh tâm mùa chay
Phan Hoàng Phú Quý
08:39 16/03/2016
Để cho tâm tình Mùa Chay được sốt sáng, quý linh mục và Ban Thượng Vụ Hội Đồng Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang Oregon đã mời linh mục Nguyễn Trọng Tước (Bút hiệu Nguyễn Tầm Thưòng) thuộc dòng Tên đến thuyết giảng trong 3 ngaỳ tỉnh tâm tại Giáo Xứ.

Chương trình được tóm lược như sau :

Thứ Năm ngày 10-3-2016

Đề tài I : Năm Thánh và Ơn Toàn Xá

Thứ Sáu ngày 11-3-2016

Đề tài II : Thời Gian tìm lại căn Tính Chính mình

Thứ Bảy ngày 12-3-2016

Đề tài III : Những bước chân sau cùng của Chúa trong tuần Thánh.

Mỗi đề tài đều được linh mục hướng dẫn chia sẽ rất tâm tình và sống động nên đã thu hút được rất nhiều người đến tham dự mặc dù đây là lần thứ 5 ngài đến giảng phòng tại giáo xứ .

Chiều thứ Bảy ,sau 3 ngày tỉnh tâm , tôi dọn mình nhận Bí tích Hòa giải, trên đường lái xe về nhà lòng miên mang suy gẫm về những lãnh hội trong 3 ngày tỉnh tâm, cần cầu nguyện, hãm mình, hy sinh và làm việc bác ái để được Ơn toàn xá trong Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa. Muốn làm người con ngoan của Chúa thì phải biết phụng sự Chúa cách chu toàn, không đi trể về sớm, không bon chen ich kỷ, một ngày chan chứa niềm vui và hạnh phúc nếu chúng ta biết cầu nguyện, nhớ lại những hình ảnh tại Thánh Địa Giêrusalem, từ Núi ÔLiu, vườn Giếtsimani, Tổng trấn Philatô, thành vua Hêrôđê , những nơi mà dấu chân Chúa đã đi qua, tôi cất cao bài thánh ca :

Lạy Chúa con đường nào Chúa đã đi qua

Con đường nào Ngài ra pháp trường

Mão gai nào hằn sâu trên trán

Lạy Chúa thánh giá nào Ngài vác trên vai

Đau thương nào phủ kín tâm tư

Đường tình đó Ngài dành cho con

Lạy Chúa xin cho con bước đi với Ngài

Xin cho con cùng vác với Ngài

Thập giá trên đường đời con đi

Lạy Chúa xin cho con đóng đinh với Ngài

Xin cho con được chết với Ngài

Để được sống với Ngài vinh quang .

Phan Hoàng Phú Quý
 
Giáo xứ Lào Cai làm từ thiện tại bản Phìn Giàng
Lm. Giuse Nguyễn Văn Thành
19:00 16/03/2016
Giáo xứ Lào Cai làm từ thiện tại bản Phìn Giàng

Thánh Phêrô Kim Ngôn, giám mục đã nói: “Có ba việc giúp cho đức tin được đứng vững, lòng đạo được chắc chắn và nhân đức được bên bỉ. Ba việc đó là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc. Cầu nguyện là gõ cửa, ăn chay là được nhận lời, làm phúc là nhận lãnh. Cầu nguyện, ăn chay và làm phúc: ba việc ấy chỉ là một và bổ túc lẫn cho nhau”. Trong tinh thần đó, thứ Tư, ngày 09/3/2016, giáo xứ Lào Cai đi làm từ thiện tại bản Phìn Giàng, xã Bảo Nhai, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai.

Xem Hình

Đoàn từ thiện có linh mục Giuse Nguyễn Văn Thành quản xứ Lào Cai, linh mục Antôn Lê Văn Thi phụ tá, thầy Giuse Nguyễn Văn Bắc, Ban hành giáo (BHG) Cốc Lếu, BHG Bảo Nhai và một số anh chị em giáo dân xứ Lào Cai. Đồ từ thiện gồm có quần áo rét, mỳ tôm và bánh kẹo do một số ân nhân tài trợ và đóng góp của giáo dân trong giáo xứ, đây là những người luôn muốn thăng tiến người nghèo.

Phìn Giàng là bản dân tộc đặc biệt khó khăn thuộc xã Bảo Nhai, gồm 28 gia đình, gần 200 người H’Mông sinh sống. Bản Phìn Giàng cách xa thành phố Lào Cai 65 cây số về hướng Đông Bắc. Người dân hoàn toàn sống bằng ghề nương rãy nên đời sống còn nghèo nàn. Người dân không được chăm sóc y tế và an sinh xã hội nên đời sống còn nhiều hạn chế. Được biết, Phìn Giàng là một trong 5 thôn bản của xã Bảo Nhai, đó là thôn Cốc Cọoc, Bản Dù, Bản Mẹt Thượng, Na Le và Phìn Giàng. Nơi đây, có 11 dân tộc chung sống, trong đó có người H’Mông chiếm phần đa.

Đoàn xuất phát từ nhà xứ Lào Cai lúc 12g30, đến Ủy ban nhân xã Bảo Nhai lúc 14g00. Chúng tôi xuất trình giấy giới thiệu làm từ thiện. Mặc dù đã được báo trước nhưng chúng tôi vẫn phải đợi rất lâu mới được phép đến bản Phìn Giàng. Ủy ban nhân dân xã Bảo Nhai đã cử rất nhiều cán bộ an ninh dẫn đường cho chúng tôi.

Một điều làm chúng tôi ngạc nhiên là họ không báo trước cho ông trưởng bản và người dân ở nhà nhận quà. Khi đoàn đến nơi, người dân chẳng hiểu có chuyện gì mà đông người thế, trong đó có cán bộ xã. Chúng tôi phải đợi khoảng một tiếng đồng hồ mới gặp được ông trưởng bản. Sau một hồi nói chuyện, chúng tôi gửi quà tại nhà ông và nhờ ông trao lại cho từng hộ dân. Đó là điều nằm ngoài ý muốn của chúng tôi.

Chúng tôi chào tạm biệt ông trưởng bản và những người hướng dẫn để trở về nhà vì đường khó đi và trời đã gần tối. Cho dù không tập trung được người dân nhưng những người trong đoàn đều cảm nghiệm được cái nghèo đói của bản dân tộc Phìn Giàng. Họ nói với nhau: “Chúng mình sẽ cố gắng bớt ăn tiêu để làm được cái gì đó cho anh em dân tộc nghèo này”. Họ đã hiểu được lời Kinh Thánh “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Thành
 
Giáo hạt Thuận Nghĩa GP Vinh hành hương năm thánh
Pv. Thuận Nghĩa
19:11 16/03/2016
Giáo hạt Thuận Nghĩa GP Vinh hành hương năm thánh

Hành hương là một trong những việc quan trọng trong Năm Thánh. Vì thế, để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần trong giáo hạt tham gia Hành Hương và đón nhận Ân Sủng trong Năm Thánh Giáo Phận và Năm Lòng Thương Xót, quý Cha trong giáo hạt thống nhất ngày 15 tháng 03 năm 2016 là ngày Hành Hương của Giáo Hạt Thuận Nghĩa.

Xem Hình

Theo chương trình đã ấn định, đúng 8 giờ 15 phút, khoảng 10 ngàn giáo dân thuộc 15 giáo xứ trong giáo hạt Thuận Nghĩa tập trung đầy đủ xung quanh Nhà thờ chính toà Xã Đoài. Đoàn rước nhập lễ bắt đầu khởi hành từ nhà xứ Xã Đoài tiến ra Nhà thờ trong niềm hân hoan vui mừng. Đi đầu là bình hương, thánh giá, đến đoàn kèn Giáo xứ Thanh Dạ và đại biểu của 15 giáo xứ trong giáo hạt, cuối cùng là quý cha đồng tế.

Mở đầu thánh lễ, cha quản hạt Antôn Nguyễn Văn Đính nói lên ý nghĩa của việc hành hương và mời gọi mọi người dọn tâm hồn sốt sắng để được lãnh nhận ơn toàn xá trong thánh lễ đặc biệt này. Chia sẻ trong thánh lễ, Cha quản xứ Thuận Giang giúp cộng đoàn hiểu sâu hơn về ý nghĩa của năm thánh, mục đích của năm thánh, đặc biệt Ngài mời gọi mọi người hãy cảm nghiệm Lòng Thương Xót của Thiên Chúa để ra đi thi thố Lòng Thương Xót đó cho những người xung quanh.

Thánh lễ kết thúc vào lúc 9 giờ 30 phút. Mọi người ra về trong niềm hân hoan phấn khởi, vì ai nấy đều được kín múc ân sủng của năm thánh qua thánh lễ hành hương.

Cầu chúc quý cha và mọi thành phần trong giáo hạt Thuận Nghĩa tràn đầy Lòng Thương Xót Chúa và sống Lòng Thương Xót ấy nơi gia đình, cộng đoàn và mọi môi trường xã hội.

Giáo hạt Thuận Nghĩa hiện có 15 giáo xứ với gần 50 ngàn giáo dân, là giáo hạt có số giáo dân đông nhất Giáo Phận Vinh.

Pv. Thuận Nghĩa
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Chưa bầu đã vu không
Phạm Trần
20:05 16/03/2016
CHƯA BẦU ĐÃ VU KHỐNG

“Một thành viên đoàn giám sát, Tiểu ban an ninh, trật tự, an toàn xã hội của Hội đồng bầu cử Quốc gia đã đưa ra nhận định: Kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND lần này so với năm 2011 có nhiều điểm mới, đã hình thành “phong trào tự ứng cử”. Theo thông tin của tiểu ban an ninh, đứng sau một số trường hợp tự ứng cử có tổ chức phản động trong nước và nước ngoài hỗ trợ, thậm chí cung cấp tài chính để vận động, tranh thủ số phiếu của cử tri.

Thành viên này cũng cho biết sẽ có một số trường hợp tự ứng cử sẽ không có trong danh sách bầu cử sau các vòng hiệp thương.”

Báo chí bên Việt Nam đã đồng loạt đưa tin như thế trong số báo ra ngày 15/03/2016 khi viết về buổi làm việc giữa Đoàn giám sát của Hội đồng bầu cử quốc gia do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc - Phó chủ tịch thường trực Hội đồng dẫn đầu với Thành phố Hà Nội về kết quả triển khai công tác bầu cử.

Tin này cho biết có tất cả 47 người tự ứng cử tại Hà Nội, nhưng “thành viên trong đoàn giám sát” lại “không nêu cụ thể trường hợp nào.”

Ông ta còn được các báo trích lời nói rằng:”Sẽ có một số trường hợp tự ứng cử phải đưa khỏi danh sách sau các vòng hiệp thương….Lúc đó chắc chắn một số trường hợp bị loại sẽ cho là không dân chủ. Họ sẽ vận động, lôi kéo cử tri không tham gia bầu cử hoặc đi bầu cử nhưng không bầu cho ai cả".

Tiết lộ một tin quan trọng liên quan đến tư cách của ứng cử viên Quốc hội khóa 14, sẽ bầu ngày 22/05/2016, như thế mà “không nêu cụ thể trường hợp nào” là phạm tội vu khống vô cắn cứ.

Tội vu khống được quy định, hướng dẫn tại điều 156 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015, cụ thể như sau:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

đ) Đối với người đang thi hành công vụ;

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;

h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Vì động cơ đê hèn;

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên;

c) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Như vậy rõ ràng, lời nói của viên chức đảng, không nêu tên, nhưng là “thành viên đoàn giám sát, Tiểu ban an ninh, trật tự, an toàn xã hội của Hội đồng bầu cử Quốc gia” đã chạm đến nhiều người, hay tất cả 47 người tự ứng cử vào Quốc hội. Nếu ông ta không có bằng chứng trình cho Ủy ban Bầu cử thành phố Hà Nội thì ông ta đã phạm tội vu khống.

Và nếu Hội đồng bầu cử Quốc gia cứ nhắm mắt loại bỏ những người tự ứng cử theo “văn bản miệng” của viên chức này thì từ ông Chủ tịch Hội đồng Nguyễn Sinh Hùng, đương kim Chủ tịch Quốc hội khoá 13, trở xuống cùng phạm động đồng lõa vu khống theo Luật hình sự.

Đây là hành vi vi phạm luật nghiêm trọng chứ không phải là thói quen ăn bừa và nói càn của nhiều viên chức có chức có quyền trong đảng cầm quyền Cộng sản Việt Nam như vẫn xẩy ra mà không hề bị trừng phạt.

Trong trường hợp của những người tự ứng cử đã bị cáo buộc vu vơ thì thì đó là hành động “xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp” của họ.

Người cán bộ của Hội đồng bầu cử Quốc gia (HĐBCQG), nếu không chứng minh được lời tố cáo của mình thì ông ta đã “Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền” là Ủy ban Bầu cử thành phố Hà Nội và HĐBCQG.

Viên chức này cũng đã “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” khi đưa ra lời tố cáo vu vơ như thế. Ông ta cũng đã tiếm quyền của Mặt trận Tổ quốc, cơ quan có trách nhiệm tổ chức “hiệp thương” để chọn người ra tranh cử, khi ông biết trước rằng :”Sẽ có một số trường hợp tự ứng cử sẽ không có trong danh sách bầu cử sau các vòng hiệp thương.”

Ai cho ông cái quyền sinh sát này, hay chính ông đã xác nhận chuyện “hiệp thương” cũng chỉ bầy ra cho có vậy thôi chứ mọi việc đã quyết cả rồi ?

ĐÒI LÀM RÕ-LÊN ÁN QUY CHỤP

Vì vậy, ít nhất cũng đã có 3 người tự ứng cử Quốc hội khóa 14 là Tiến sỹ Nguyễn Quang A, bà Đặng Bích Phượng và

Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện đã gửi thư yêu cầu làm rõ thông tin “Tổ chức phản động đứng sau một số người ứng cử Quốc hội” tới Hội đồng bầu cử Quốc gia và Ủy ban bầu cử thành phố Hà Nội.

Theo tin của Website “Vận động Ứng cử Đại biểu Quốc hội 2016” thì:” Tiên sỹ Nguyễn Quang A đã đến trực tiếp Hội đồng bầu cử Quốc gia số 22 Hùng Vương, để gặp ông Nguyễn Sinh Hùng, ông Nguyễn Xuân Phú, ông Huỳnh Ngọc Sơn để yêu cầu làm rõ thông tin tổ chức phản động họ là ai? Tiểu ban an ninh dựa trên cơ sở nào?, ứng viên nào được tổ chức phản động tài trợ?,.v.v..Theo các ứng viên tự do, không thể quy chụp tất cả các ứng viên như thế được, tiểu ban an ninh, giám sát bầu cử cần phải nó rõ, chỉ ra trường hợp cụ thể.”

Thư khiếu nại của Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện viết: “Tôi là Nguyễn Xuân Diện; CMTND: 011293117, do Công an Hà Nội cấp ngày 16/5/2012; địa chỉ: 201, B8 TT Kim Liên, Quận Đống Đa, TP Hà Nội; một trong 47 người tham gia tự ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, nhiệm kỳ 2016-2021.

Tôi ứng cử đại biểu Quốc hội với mong muốn cống hiến sức lực và trí tuệ của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo hướng trở thành một quốc gia tự do, dân chủ, xã hội công bằng và văn minh.

Thế nhưng, tôi đã rất sốc khi đọc thông tin dưới đây trên trang báo điện tử VnExpress, ngày 15/3/2016, trong bài viết có tựa đề “Tổ chức phản động đứng sau một số người ứng cử Quốc hội”

Là một trong 47 người tự ứng cử tại Hà Nội, tôi rất bức xúc khi đọc các thông tin trên. Tôi tự hỏi, vì sao việc “hình thành phong trào tự ứng cử” lại có thể bị thành viên của Hội đồng Bầu cử Quốc gia nhận định như thế khiến cho “kỳ bầu cử lần này phức tạp hơn”, trong khi đó là một việc rất tốt, rất cần được khuyến khích, bởi nó mở rộng quyền tự do của người dân, đặc biệt là quyền tham gia chính trị?

Tôi cũng tự hỏi, “một số người có sự ủng hộ của tổ chức phản động trong nước, nước ngoài”, là thế nào vậy? Tổ chức phản động đó là tổ chức nào, và một số người có sự ủng hộ đó là những ai?

Trên phương diện luật pháp, điều khoản nào trong luật định nghĩa một tổ chức là phản động? Có những căn cứ pháp lý nào để xếp loại, đánh giá một tổ chức là phản động?

Ông Nguyễn Xuân Diện thắc mắc:”Tôi thật sự không thể hiểu nổi thành viên nọ có động cơ gì khi phát biểu những điều trên với báo chí, một cách hết sức hàm hồ, vô căn cứ, vô luật pháp. Đây là điều không thể chấp nhận được ở một người có vai trò “thành viên đoàn giám sát, Tiểu ban an ninh, trật tự, an toàn xã hội của Hội đồng Bầu cử Quốc gia.

Cách phát biểu hàm hồ như vậy khiến tôi có suy nghĩ: Phải chăng vì e ngại các ứng cử viên độc lập có thể trở thành đại biểu Quốc hội, mà thành viên nọ tìm cách dựng chuyện, chụp mũ chung chung cho các ứng viên, để giảm thiểu khả năng trúng cử của họ.

Với những tâm tư đó, tôi đề nghị Tiểu ban an ninh, trật tự, an toàn xã hội của Hội đồng Bầu cử Quốc gia nêu ra và chỉ rõ:

– Ai, cá nhân nào “có sự ủng hộ của tổ chức phản động trong nước, nước ngoài đứng ra vận động bầu cho họ, thậm chí cung cấp tài chính để vận động” theo như bài báo của VnExpress nêu?

– Tổ chức phản động trong nước, nước ngoài đó là tổ chức nào? Căn cứ vào đâu, cơ sở pháp lý nào mà họ bị đánh giá là “phản động”?

Nhằm đảm bảo thông tin thông suốt, “đảm bảo các điều kiện thuận lợi để mọi công dân thực hiện đầy đủ quyền ứng cử, bầu cử”, “kiên quyết đấu tranh chống mọi luận điệu xuyên tạc, âm mưu, hoạt động phá hoại cuộc bầu cử”… như Chỉ thị 51-CT/TW ngày 04-01-2016 của Bộ Chính trị đã nêu rõ, tôi rất mong đề nghị trên đây của tôi được đáp ứng.

Vẫn theo tin của Website “Vận động Ứng cử Đại biểu Quốc hội 2016” thì trong số những người tự ứng cử đại biểu Quốc hội trên cả nước (Hà Nội, Sài Gòn, Đồng Nai, Đà Nẵng, Đà Lạt...), có những người sau đây đã nộp hồ sơ :

1.Nguyễn Quang A

2.Nguyễn Thị Kim Anh

3.Phan Văn Bách

4.Nguyễn Xuân Diện

5.Hoàng Văn Dũng

6.Nguyễn Đình Hà

7.Nguyễn Thúy Hạnh

8.Nguyễn Việt Hưng

9.Lê Văn Luân

10.Đỗ Việt Khoa

11.Đỗ Nguyễn Mai Khôi

12.Nguyễn Kim Môn

13.Nguyễn Đình Nam

14.Nguyễn Trang Nhung

15.Phan Văn Phong

16.Ngô Xuân Phúc

17.Đặng Bích Phượng

18.Bùi Minh Quốc

19.Kim Tiến

20.Nguyễn Văn Thạnh

21.Nguyễn Tường Thụy

22.Đỗ Anh Tuấn

23.Trần Đăng Tuấn

24.Phạm Văn Việt

25.Nguyễn Công Vượng

Danh sách này được cập nhật vào 17h ngày 13/3/2016 nhưng không đầy đủ, so với con số 47 người tự ứng cử ở Hà Nội và 50 ở Sài Gòn.

TẠI SAO CHỐNG TỰ ỨNG CỬ ?

Nhằm đối phó với phong trào tự ứng cử của những người nổi tiếng đòi dân chủ, tự do cho Việt Nam, báo Quân đội Nhân dân (QĐND) đã đứng đầu chiến dịch chống phá liên tục từ đầu năm 2016.

Trong bài viết “Cần tỉnh táo trước những thủ đoạn phá hoại cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV”, ngày 22/02/2016, QĐND viết:”Cần phải thấy rõ, với họ việc “tự ứng cử” không nhằm tham gia cuộc bầu cử với ý thức trách nhiệm của một công dân, mà chỉ với một mục tiêu duy nhất là gây rối, phá hoại cuộc bầu cử mà thôi. Chính họ cũng đã nói ra điều này, họ viết: Tự ứng cử là nhằm “Thực thi quyền ứng cử của mình, để phá bỏ “các thủ tục”, “mưu mẹo phi dân chủ” được thiết kế trong các khâu của quy định hiện hành như Hội nghị cử tri…”. Thực tế cho thấy tất cả những điều họ tung trên mạng chỉ nhằm xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta nói chung, Hiến pháp và pháp luật về bầu cử của Nhà nước ta nói riêng. Và mục tiêu cụ thể của họ là gây rối cuộc bầu cử vào sắp tới.”

Khi nói về “Trang tin chính thức về kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội Việt Nam 2016” (Vận động Ứng cử Đại biểu Quốc hội 2016) của các Nhà báo tự do trong nước, tờ QĐND đã vạch lá tìm sâu trong bài “Một kiến nghị trái Hiến pháp”, ngày 07-03-2016 như sau:

“ Trên mạng xã hội facebook gần đây xuất hiện một trang tự nhận là “Trang tin chính thức về kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội Việt Nam 2016. Nơi cung cấp các thông tin hữu ích về ứng cử, bầu cử dành cho các ứng viên tự do và cử tri”. Tuy nhiên, trang này không nêu rõ thuộc về một tổ chức hay cá nhân nào, hoạt động vì mục đích gì. Đặc biệt, nội dung của trang gần như trái ngược với tuyên bố của nó là “cung cấp thông tin hữu ích về ứng cử và bầu cử” mà chỉ đăng tải rất nhiều bài viết chứa đựng nội dung xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước.”

Bài của QĐND nói thêm:”Trang này xuyên tạc bầu cử đại biểu Quốc hội. Họ kích động: “Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội 2016 lần này, đứng trên mặt Đảng mà xét, sẽ chẳng có thay đổi gì, vì cơ chế là do Đảng đề ra, luật là do Đảng đề ra, nhân sự, quần chúng cũng là do Đảng chỉ định, thuê mướn để diễn trò”. Họ cho rằng, đây là dịp duy nhất trong vòng 5 năm tới để “tham gia vào nền chính trị của Đảng, không phải để hy vọng sẽ thay thế được Đảng, mà đơn giản là để vạch trần “màn kịch dân chủ của Đảng”. Họ bày tỏ rõ ý định phá hoại cuộc bầu cử: "Hãy tranh cử để ít nhất là làm cho Đảng phải mệt hơn, tốn tiền đối phó”

Trong thực tế đảng CSVN đang bối rối trước cách vận động tranh cử bằng “báo mạng” (facebook) của phong trào tự ra ứng cử ở trong nước.

Từ trước tới nay, những người được đảng chọn cho ra ứng cử qua hình thức “hiệp thương” (hay chọn trước) của Mặt trận Tổ quốc không được phép đi vận động tranh cử như ở các nước dân chủ. Thậm chí họ cũng chẳng cần phải có chương trình tranh cử để vận động cử tri nên người dân đi bầu chỉ biết đảng bảo bỏ cho ai thì bỏ người ấy, chẳng ai dám chống lại.

Đó là hình thức “đảng cử dân bầu” đã nhàm chán, phản dân chủ và đi ngược lại trào lưu tiến hóa của nhân loại. Vì thế, khi phải đối diện với hình thức vận động tranh cử thật sự tự do và dân chủ hơn của những người tự ra ứng cử vào Quốc hội, qua cách dùng Internet để phổ biến rộng rải chương trình tranh cử thì đảng cuống lên lo đối phó.

Báo QĐND ngày 7/3/2016 phê bình:” Thực chất cái gọi là “vận động tranh cử qua mạng”? Cùng với việc tung tin, bài có nội dung xấu thì những trang mạng này còn tiến hành “vận động ứng cử qua mạng” cho một số người tự ứng cử. Trong đó, hoạt động tương đối rầm rộ là “xui” người tự ứng cử thu thập chữ ký ủng hộ hoặc đăng hình ảnh chứng minh thư lên trang cá nhân của người tự ứng cử đề bày tỏ sự ủng hộ.”

Rồi báo này hỏi:”Việc làm này thực chất để làm gì?”

QĐND tự giải thích theo tuồng tích cũ:” Theo đại diện Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, các quy định của pháp luật hiện hành không yêu cầu người ứng cử phải thu thập chữ ký ủng hộ của cử tri hay thu thập thông tin ủng hộ trên mạng.

Ông Nguyễn Hạnh Phúc, Tổng thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, cho biết: Việc vận động bầu cử được tiến hành dân chủ, công khai, bình đẳng, đúng pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, HĐND ở đơn vị nào thì thực hiện vận động bầu cử tại đơn vị bầu cử đó. Thời gian vận động bầu cử được bắt đầu từ ngày công bố danh sách chính thức những người ứng cử (25 ngày trước ngày bầu cử) và kết thúc trước thời điểm bỏ phiếu 24 giờ. Về hình thức vận động bầu cử, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND quy định hai hình thức: Gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri tại hội nghị tiếp xúc cử tri ở địa phương nơi mình ứng cử và thông qua phương tiện thông tin đại chúng chính thống.”

Có nghĩa là chuyện ứng cử và bầu cử đã có “nhà nước lo” từ kênh tổ chức tiếp xúc với cử tri, nhưng có mấy người đến dự, cho đến việc thông tin cũng phải qua báo đài nhà nước cho đúng khuôn phép như trước đây.

Vì vậy báo QĐND đã lên án gắt gao một số người tự ứng cử, qua các cuộc vận động trên Facebook, đã đòi thay đổi Hiến pháp, đặc biệt cần xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp dành độc quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội cho đảng CSVN.

Bài báo viết:”Trang mạng xã hội “Vận động ứng cử đại biểu Quốc hội 2016” chỉ là một trang facebook, không nêu thuộc về một tổ chức hay cá nhân nào nhưng hiện đang hoạt động như một tờ báo điện tử. Trang này còn ngang nhiên tiến hành cử người xưng là “phóng viên” đi phỏng vấn một số người tự ứng cử, trong đó phần lớn là những nhân vật “xã hội dân sự”. Sau khi phỏng vấn, các clip hoặc bài viết sẽ được đăng lên trang như một bài báo và tán phát đi nhiều trang khác, trong đó “cài” vào những nội dung xấu.

Chẳng hạn, trong hai bài phỏng vấn một luật sư tự ứng cử, người xưng là phóng viên đều đặt câu hỏi đại ý: "Theo ông có cần xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp để cho cuộc bầu cử được tiến bộ hơn không?”. Người trả lời, tuy không trực tiếp nêu quan điểm nhưng cũng lòng vòng viện dẫn là phải thay đổi, qua đó thực chất phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng được hiến định trong Hiến pháp.”

Rõ ràng trang báo điện tử của những nhà báo “Lề Dân” ở trong nước đang làm cho Ban Tuyên giáo Đảng điên cái đầu trong cuộc bầu cử Quốc hội vào ngày 22/05/2016.

Do đó, tờ QĐND đã công khai yêu cầu phải điều tra và xử lý “Trang tin chính thức về kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội Việt Nam 2016” (Vận động Ứng cử Đại biểu Quốc hội 2016).

Báo này viết:” Dù trang mạng kia không phải là cơ quan báo chí, cũng không phải là trang tin điện tử tổng hợp nhưng lại hoạt động báo chí, cử người đi phỏng vấn, viết bài, cung cấp nhiều thông tin sai sự thật, có nội dung xấu về bầu cử đại biểu Quốc hội. Đây là sai phạm cần được xác minh, làm rõ, xử lý nghiêm.”

QĐND cũng trích dẫn Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 4-1-2016 của Bộ Chính trị về cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2016-2021 đã chỉ thị phải:”Ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm pháp luật về bầu cử. Kiên quyết đấu tranh chống mọi luận điệu xuyên tạc, âm mưu, hoạt động phá hoại cuộc bầu cử, lợi dụng bầu cử để gây rối an ninh, trật tự.”

Họ còn không ngần ngại kêu gọi:”Các cơ quan chức năng, trực tiếp là cơ quan an ninh cần sớm điều tra, làm rõ các hành vi sai phạm của trang mạng "Vận động ứng cử đại biểu Quốc hội 2016" cùng một số trang khác và các đối tượng liên quan. Trong đó, cần điều tra làm rõ cả động cơ, việc làm của những người xưng là phóng viên, người cộng tác; không để tán phát thông tin xấu, “gây nhiễu” và phá hoại bầu cử.”

Như vậy rõ ràng là tuy Quốc hội chưa bầu mà Nhà nước đã tung ra chiến dịch vu khống để chống những người tự ứng cử vào Quốc hội.

Do đó lời cáo buộc vô căn cứ của đảng nói có “tổ chức phản động trong nước và nước ngoài hỗ trợ, thậm chí cung cấp tài chính để vận động, tranh thủ số phiếu của cử tri” đứng sau lưng những ứng cử viện độc lập, chẳng qua cũng chỉ để hù họa chứ chẳng đánh lừa được ai.

Nỗ lực của đảng, vì vậy, chỉ làm cho cuộc bầu cử ngày 22/05/2016 trơ trẽn thêm. -/-

Phạm Trần

(03/016)
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Cùng với chúa Giêsu, thánh Giuse là cha chúng ta.
Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
09:38 16/03/2016
THÁNH GIUSE - CHA CHÚA GIÊSU - CHA CHÚNG TA

PHẦN II

CÙNG VỚI CHÚA GIÊSU, THÁNH GIUSE LÀ CHA CHÚNG TA.

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông huấn Đấng trông nom Chúa Cứu Thế dạy: “Chúng ta hãy phó thác chính mình để được Thánh Giuse chăm sóc, người mà Thiên Chúa tin tưởng phó thác những kho tàng vĩ đại và quí báu nhất, đồng thời hãy học hỏi nơi Người cách làm đầy tớ phục vụ trong nhiệm cục cứu rỗi. Mong Thánh Giuse trở thành người thầy đặc biệt dạy chúng ta phục vụ sứ mạng cứu rỗi của Chúa Kitô, một sứ mạng mà mỗi người chúng ta và mỗi thành viên của Giáo Hội đều có trách nhiệm: vợ, chồng, cha mẹ, những người sinh sống bằng lao động chân tay hay bất cứ công việc gì, những người được gọi vào đời sống chiêm niệm và những ai làm việc tông đồ” (số 32).

Vâng lời vị Cha chung, chúng ta tìm những lý lẽ thích hợp nhất, giúp chúng ta noi gương đời sống thánh Giuse mà sống đẹp lòng Chúa, xứng danh là người được Chúa Kitô cứu chuộc.

1. Chúa Giêsu gọi thánh Giuse là Cha.

Một trong các lời kinh dâng kính thánh Giuse được Hội Thánh tuyên xưng: “Dưới dòng họ của Ngài (thánh Giuse), Con Thiên Chúa làm người thuộc hoàng tộc Đavit đã âu yếm gọi Ngài là Cha”.

Ngay trang đầu tiên của Tin Mừng, “Gia phả của Chúa Giêsu”, thánh Mathêô khéo léo cho thấy Chúa Giêsu là “con” của thánh Giuse: “Giacob sinh Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (Mt 1, 16).

Bởi thánh Giuse chỉ là người được chỉ định dưỡng nuôi Chúa Giêsu, thánh Mathêô “đành” phải “rẽ ngang” gia phả để nhắc đến Đức Mẹ và gọi Đức Mẹ là “mẹ Đức Giêsu”. Sự khéo léo này như ám chỉ: Chúa Giêsu không được sinh ra từ thánh Giuse, nhưng vẫn là dưỡng tử của thánh Giuse, mang danh dòng họ thánh Giuse. Ngay từ thuở thiếu thời, Chúa Giêsu đã được thánh Giuse thương yêu như người con của mình.

Ngay cách đặt tên cho phần đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Mathêô: “Gia phả Đức Giêsu Kitô”, Hội Thánh cũng đã kín đáo nhìn nhận Chúa Giêsu chọn cho mình một dòng tộc, một người cha, một mái gia đình để sinh ra làm người.

Kể từ đó, Tin Mừng không ngừng nhắc đi nhắc lại vai trò làm con của thánh Giuse, thuộc dòng tộc Đavit, mà Chúa Giêsu đảm nhận: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Mt 13,55; Lc 3,23; 4, 22). “Con vua David” (Mt 9, 27; 21, 9; Mc 12, 35). Chúa Giêsu đã không bao giờ hổ thẹn vì những lời mà người đương thời của Chúa gán cho: Con của bác thợ mộc Giuse.

Truyền thống Hội Thánh vẫn tin rằng, thánh Giuse được Chúa thánh hóa trước khi sinh ra, vì Chúa đã chọn thánh nhân làm cha nuôi của Con Chúa. Bởi: “Khi Thiên Chúa muốn tuyển chọn ai, để nhận lãnh một ơn gọi đặc biệt, hoặc một chức phận cao sang, Chúa luôn ban những ân sủng cần thiết cho người được tuyển chọn để thi hành ơn gọi hay sống chức vụ của mình. Ân sủng của Chúa sẽ tô điểm rất đầy đủ cho người được tuyển chọn ấy” (thánh Bênađô thành Siêna, sách đã dẫn trang 124).

Hội Thánh tin như thế, vì điều đó không đi ngược những gì Thánh Kinh đã cho biết về thánh Giuse. Bởi địa vị của thánh Giuse quá cao trọng: Người được coi là cha của Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Người là bạn của Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Từ đời đời, Thiên Chúa đã tuyển chọn thánh Giuse làm dưỡng phụ của Chúa Giêsu. Người là Đấng gìn giữ Con Thiên Chúa và gìn giữ gia đình thánh tại Nagiareth. Chúa Giêsu là cả kho tàng ơn cứu độ loài người, vì thế, hiểu một nghĩa hạn hẹp nào đó, khi gìn giữ Chúa Giêsu, thánh Giuse cũng là Đấng bảo hộ kho tàng ơn cứu rỗi của chúng ta.

Dù quyền cao chức trọng là thế, nhưng thánh Giuse lại sống âm thầm, giản dị, không khoe khoang, nhưng khiêm nhường rất mực. Đặc biệt, thánh nhân đề cao đức vâng lời trong suốt đời mình. Một lòng vâng theo thánh ý Chúa đến cùng.

Qua tất cả những lần Thánh Kinh đề cập như: đón nhận Đức Trinh Nữ làm bạn trăm năm của mình (x.Mt 1, 18-25); đưa con trốn sang Aicập và lại đưa con trở về sau khi nguy hiểm đi qua (x.Mt 2, 13-23); khi con cử hành nghi lễ cắt bì (x.Lc 2, 21); dâng con trong đền thờ (x.Lc 2, 22-38); tìm và gặp trong đền thờ (x.Lc 2, 41-49)… cho thấy đức vâng lời của thánh Giuse là một nhân đức tuyệt hảo, đáng là chuẩn mực cho sự vâng lời của chúng ta.

Chúng ta không biết ngày qua đời của thánh Giuse. Có lẽ thánh nhân qua đời trước cuộc thương khó của Chúa Giêsu, vì nếu không, thánh Giuse, một người cha đầy từ tâm, lân tuất, chắc chắn đã hiện diện, đã được Tin Mừng nhắc đến trong biết cố đau thương này. Và nếu có thánh Giuse bên cạnh, có lẽ Chúa không trối Đức Maria cho thánh Gioan (?).

2. Trong Chúa Giêsu, chúng ta cũng là con của thánh Giuse.

Nếu Chúa Giêsu là con của thánh Giuse, thì trong Chúa Giêsu, Đấng đã nhận chúng ta như đàn em của Người, chúng ta cũng danh dự được làm con của thánh Giuse.

Không phải vô cớ mà nhiều vùng đất, nhiều cơ sở, nhiều giáo phận, cả Hội Thánh hoàn vũ, nhiều nhà thờ, nhiều cộng đoàn, nhiều cá nhân… chọn thánh Giuse là bổn mạng. Bởi thánh Giuse đúng thật là người cha đầy tinh thần trách nhiệm, không chỉ vì những công trình trần thế mà thánh nhân luôn gìn giữ, nhưng còn vì lời chuyển cầu hiệu quả mà thánh nhân dâng lên trước tòa Chúa đêm ngày, để đoàn con của mình luôn sống trong tình yêu cứu độ của Chúa.

Thánh nhân làm tròn trách nhiệm một người cha, luôn ân cần, tận tụy bảo vệ, chăm sóc đoàn con của mình. Chúng ta, không chỉ tin, mà còn cảm nhận mạnh mẽ, sâu sắc tình yêu của thánh Giuse dành cho từng người, không sót một ai, là tình yêu đại lượng của người cha thánh thiện, luôn dành mọi tâm huyết cho từng người con, miễn là những đứa con ấy, cuối cùng đạt đến bến bờ hạnh phúc.

Trong sách “100 Tích lạ về thánh Giuse” (Lm. Châu Vị Thủy), càng là bằng chứng cho thấy sự bảo trợ của thánh Giuse thật hiệu quả, đến nỗi đoàn con trần thế không ngần ngại đặt vào tay thánh Giuse mọi công trình, cuộc đời mình cách tin trưởng, tín nhiệm.

Một trong 100 tích ấy là truyện “28. Cái mốc đầu tiên”, tác giả kể lại chính kinh nghiệm của mình: “Tháng 6 năm 1954, trên đường vào Nam, tôi qua Quảng-yên đến thăm nhà bác Phạm Thanh Ngạc, người bạn thân cùng làng. Thấy gia đình có vẻ buồn bã, vì đã có năm con gái mà chưa có con trai, nhất là Bác lại còn là trưởng tộc. Tôi bèn khuyên cả nhà cầu khẩn Thánh Giuse, và hôm sau là thứ Tư, tôi làm lễ khấn Ngài tại nhà thờ Quảng yên.

Rồi gia đình đi vào Nam. Chín tháng sau, ngày 7 tháng 3 năm 1955, bà vợ sinh ra một bé trai, đưa đến để tôi rửa tội tại Chí hòa, đặt tên là Giuse Phạm Thanh Nghị. Em này khỏe mạnh, thông minh, học giỏi, nết na, hiện làm kỹ sư tại Toronto, Canada.

Đó là cái mốc đầu tiên trên đường đi lên của tôi đối với Thánh Cả. Từ đó đến nay, những vợ chồng hiếm muộn không con, hoặc có gái không trai, hoặc có trai không gái, đến xin khấn, phần nhiều đã được toại nguyện. Có đến bốn trăm trường hợp được ơn”…

Nhờ công nghiệp và sự chuyển cầu hiệu quả, thánh Giuse đã làm cho gia nghiệp của Chúa Giêsu, là cả Hội Thánh nói chung, và mỗi chúng ta nói riêng, ngày càng trở nên xinh tươi, trổ sinh hoa trái thánh thiện, dày sự bền đổ trong ơn gọi mà Chúa trao cho từng người chúng ta.

Chiêm ngắm cuộc đời và gương sống của thánh Giuse, người cha dấu ái của chúng ta, chúng ta rút ra nhiều bài học quý giá:

- Thánh Giuse dạy ta sống trọn niềm tin tưởng và phó thác cho Chúa bằng một tình yêu toàn vẹn, không gợn chút nghi nan.

- Thánh Giuse dạy ta biết khiêm nhường, biết yêu đời sống thanh vắng để tìm khám phá thánh ý Chúa.

- Thánh Giuse dạy ta tìm sống thinh lặng, sống ẩn mình, sống thanh bần trong niềm bình an nhằm đón nhận tất cả mọi biến cố, mọi cảnh huống rơi vào giữa đời mình, gia đình mình.

- Thánh Giuse còn dạy ta yêu mến Chúa bằng hiến dâng trái tim, linh hồn, cuộc đời để sống lòng yêu mến dành cho Chúa từng phút giây, trọn kiếp sống của mình…

Thánh Giuse còn dạy ta nhiều bài học. Mỗi một người, khi chân thành chiêm ngắm thánh Giuse, đều có thể rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm sống với Chúa và sống với con người.

3. Thánh Giuse yêu chúng ta, vì chúng ta là con của người.

Trong một chia sẻ của mình, Đức Cha Bùi Tuần chia sẻ cảm nghiệm với thánh Giuse đơn sơ, gần gũi, mang đấy chất yêu của một người con biết cha yêu mình. Đức Cha viết:

“…Tôi nhớ tới một lời cầu, mà những năm trước đây, tôi hay nói với Thánh Giuse. Tôi cầu xin thế này: “Tháng Ba là thánh kính Thánh Giuse. Con hơi sợ tháng đó. Bởi vì kinh nghiệm cho con thấy: trong nhiều tháng Ba của đời con, đã có những biến cố xảy ra khiến phải mất người mất của. Con hiểu là những gì đã xảy ra đó đều có mục đích dạy con về sự từ bỏ cần có trong tình yêu cứu độ. Con hiểu, nhưng con sợ. Xin Thánh Giuse thương giúp con”.

Hôm nay, tôi cũng nói lại với Thánh Giuse lời cầu trên đây.

Tôi tin Thánh Giuse là người được Chúa sai vào lịch sử, để làm chứng cho tình yêu Chúa. Ngài đã là một chứng nhân đích thực, ngay chính ở sự Ngài đã rất âm thầm khiêm tốn và từ bỏ mình, hết mình vâng phục thánh ý Chúa.

Xin Thánh Giuse thương cầu xin cho tôi cũng được là nhân chứng như Ngài. Tôi rất yếu đuối hèn mọn, mỗi ngày như bắt đầu lại hướng đi tình yêu. Bắt đầu, rồi lại bắt đầu lại. Chỉ vì yếu đuối. Nhưng trong sự yếu đuối ấy tôi đã gặp được Chúa là tình yêu thương xót. Thánh Giuse đã dạy tôi từng bước nhỏ. Xin cảm tạ Ngài. Trong tay Ngài, tôi phục vụ Hội Thánh và Quê Hương yêu dấu của tôi…”.

Chúng ta hãy đơn sơ như Đức Cha Bùi Tuần, đặt vào tay thánh Giuse muôn ngàn chìm nổi hằng diễn ra trong hành trình đời mình. Chúng ta ngã mình vào tình yêu của thánh Giuse như đứa con trong tay cha nó.

Cuộc đời chúng ta có nhiều gánh nặng, nhiều đổ vỡ. Ngước nhìn tình yêu của thánh Giuse dành cho chúng ta, người nhìn sức chịu đựng mà một đời dâu bể, thánh Giuse đã trải qua, ngước nhìn lòng trung thành yêu mến Chúa dẫu đầy những gập ghềnh chắn lối, chúng ta biết thánh Giuse hiểu mọi vui-buồn-sướng-khổ trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta biết thánh Giuse luôn âm thầm lo lắng quan tâm bằng sự chuyển cầu hiệu quả để chúng ta vượt thắng như chính thánh Giuse đã vượt thắng.

Có người cha nào vui khi con bất hạnh? Có người cha nào không hạnh phúc khi con hạnh phúc? Cuộc đời của chúng ta là một chuỗi dài những vui buồn cộng lại. Chúng ta yên tâm. Chắc chắn thánh Giuse thông chia không sót một nỗi niềm nào. Lòng cha bao giờ mà chẳng ngút ngàn ví như biển, sánh như trời! Hai tiếng “lòng cha”, đủ cho chúng ta niềm ấm áp. Bởi người là cha, chúng ta là con. Người vô cùng đau, khi chúng ta đau. Người vỡ òa hạnh phúc khi chúng ta hạnh phúc.

Tất cả những chịu đựng mà một đời trần thế, thánh Giuse đã đi qua là để thánh nhân gần chúng ta. Càng hiểu cuộc đời, càng nếm trải đau khổ, càng thấu biết niềm vui, thánh nhân càng chia sẻ, và chuyển cầu cho con mình thật nhiều, thật hiệu quả, thật bền bỉ.

Trên hết, tất cả những trải nghiệm trong cuộc đời, là để thánh Giuse ngày càng tỏ ra là người cha đối với những đứa con hằng mong sự ấp ủ, vỗ về. Thánh Giuse là cha của niềm an ủi. Thánh Giuse là cha của nguồn cậy trông. Thánh Giuse là cha của lòng nhân hậu. Thánh Giuse là cha của lòng yêu thương lặng lẽ nhưng hiệu quả.

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG
 
Thánh Giuse - Bạn trăm năm đức trinh nữ Maria
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
18:46 16/03/2016
THÁNH GIUSE – BẠN TRĂM NĂM ĐỨC TRINH NỮ MARIA

Ngày 19.06.2013, Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích công bố một Sắc lệnh đã được Đức hồng y Bộ trưởng Antonius Cañizares Llovera và Đức Tổng giám mục Thư ký Arturus Roche ký vào ngày lễ Thánh Giuse Thợ 01.05.2013. Sắc lệnh quyết định đưa tên Thánh Giuse vào các Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV, sau tên của Đức Trinh Nữ Maria.

Trước đây, tên Thánh Giuse chỉ được đọc trong Kinh nguyện Thánh Thể I (Lễ quy Rôma).

Sắc lệnh viết: “Qua việc làm cha chăm sóc Chúa Giêsu, Thánh Giuse làng Nazareth, khi được đặt lên trông coi gia đình của Chúa, đã hoàn thành nhiệm vụ đã nhận được nhờ ân sủng. Do gắn bó chặt chẽ với các mầu nhiệm khởi đầu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài trở nên mẫu gương về lòng khiêm nhường và nhân ái, những điều làm cho đức tin Kitô giáo có được những phẩm giá cao cả; và thể hiện những nhân đức nhân bản và đơn sơ, cần cho con người trở nên môn đệ tốt lành và đích thực của Chúa Kitô. Nhờ các nhân đức đó, Người Công Chính này, sau khi đã hết sức trìu mến chăm sóc Mẹ Thiên Chúa và vui vẻ tận tình dạy dỗ Chúa Giêsu Kitô, đã trở nên người quản lý kho tàng quý giá của Thiên Chúa Cha và qua các thế hệ được Dân Thiên Chúa không ngừng tôn kính như đấng bảo trợ thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, nghĩa là Hội Thánh” (Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo dịch).

Sắc lệnh ghi nhận rằng các tín hữu trong Hội thánh Công Giáo luôn tỏ lòng sùng mộ Thánh Giuse và không ngừng tôn kính Ngài là Bạn rất thanh khiết của Mẹ Thiên Chúa và là Đấng bảo trợ trên trời của Giáo Hội hoàn vũ. Vì lý do này mà Chân phước Giáo hoàng Gioan XXIII đã truyền đưa thêm tên Thánh Giuse vào Lễ quy Rôma, sau tên của Mẹ Maria (Thánh bộ Lễ nghi, Sắc lệnh Novis hisce temporibus, 13.11.1962).

Sắc lệnh nhắc lại rằng Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nhận được nhiều lời thỉnh cầu đạo đức từ khắp nơi trên thế giới và ngài đã vui lòng chấp thuận, nay lại được Đức Giáo Hoàng Phanxicô tái xác nhận. Điều này diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn với các Thánh, là những người đồng hành với chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế và dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô để liên kết chúng ta với Người.

Nội dung Sắc lệnh cũng ghi rõ các phần Kinh nguyện Thánh Thể (II, III và IV) bằng tiếng Latinh với tên Thánh Giuse đã được thêm vào, chẳng hạn như trong Kinh nguyện Thánh Thể II: “ut cum beata Dei Genetrice Virgine Maria, beato Ioseph, eius Sponso, beatis Apostolis”. Ngoài ra còn có thêm phần phụ lục cho các ngôn ngữ Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức và Ba Lan.Đối với các ngôn ngữ khác, bản dịch sẽ do các Hội đồng Giám mục soạn thảo, theo quy định của luật và được Tòa Thánh phê chuẩn thông qua Bộ Phụng tự (trích: “Phải đọc tên Thánh Giuse trong Kinh Nguyện Thánh Thể II, III và IV”, ‘WHĐ 19.06.2013’).

“Maria đã đính hôn với Giuse” (Mt 1,18). Từ ngày đó, Thánh Giuse đã trở nên Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria. Vui buồn sướng khổ, gian truân thử thách, Thánh Giuse đều đã trải qua. Ngài chính là mẫu gương cho anh em Gia trưởng trong đời sống gia đình.

Kể từ khi hai bên nội ngoại làm lễ đính hôn cho Giuse và Maria, ai ai cũng vui mừng, chúc phúc cho đôi hôn nhân lý tưởng. Họ thương nhau không vì trai tài gái sắc, mà thương nhau vì cả hai đều nết na đức hạnh, cùng có một đức tin tinh tuyền từ gia đình đạo đức. Giuse là Người Công Chính. Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc. Đó là tổ ấm cao sang nhất trong lịch sử nhân loại. Sau ngày làm lễ đính hôn, chỉ chờ lễ cưới.Maria và Giuse vẫn chỉ biết hướng về tương lai, chuẩn bị cho gia đình mới sắp thiết lập.

Thế rồi điều bất ngờ xảy đến với cuộc tình duyên êm đẹp. Thiên Chúa đã can thiệp vào dự án tương lai của Maria và Giuse. Thiên Chúa muốn cả hai thành Đấng Bậc Đồng Trinh để Ngài trao gửi Con Một dấu yêu của mình. Cả hai trở nên cha mẹ của con trẻ Giêsu về pháp lý và Maria ban tặng bản tính nhân loại cho Đấng Cứu Thế.

Thiên Chúa đi từng bước một. Truyền tin cho Đức Maria rồi truyền tin cho Giuse. Giữa hai biến cố trọng đại là cuộc khủng hoảng đối với Giuse.

Thấy Maria có thai, Giuse phải đau khổ lắm. Người hôn thê đạo hạnh mà ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà chồng. Bối rối và khó xử nhưng ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định: “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác: “vì là Người Công Chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Thế rồi, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho ngài biết: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); Thai nhi ấy không chỉ là một con người mà còn là Người Con của Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, được sinh ra, không phải được tạo thành, vì Ngài đã có từ trước muôn thuở. Ngài là Con của Chúa Cha ở trên trời; đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria, và đã làm Người. Và Người Con sẽ sinh ra ấy được Thánh Giuse đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu Dân của Người khỏi tội. Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình” (Mt 1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về” (Mt 1,24).

Thiên Chúa đã đưa Thánh Giuse vào chương trình cứu độ của Ngài. Thánh Giuse đã tích cực góp phần thực hiện chương trình ấy. Ngài được Thiên Chúa chọn, trở thành người cha nuôi của Chúa Giêsu ở trần gian. Vì vai trò làm cha của Chúa Giêsu và làm bạn đời của Mẹ Maria, sống bên cạnh một người nữ trẻ tuổi xinh đẹp là Mẹ Maria, mà theo dự định của Thiên Chúa, sẽ trọn đời đồng trinh, nên các nghệ nhân thường có khuynh hướng hình dung Thánh Giuse như một cụ già. Điều đó không đúng! Thánh Giuse là một thanh niên trẻ trung và đầy sinh lực, có lẽ chỉ lớn hơn Mẹ Maria chừng năm đến bảy tuổi! Nhưng ngài là một người rất nhân đức, được Thiên Chúa chọn để đồng hành với Mẹ Maria đồng trinh trong cuộc đời dâng hiến của Mẹ. Mẹ đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về người trần gian (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).

Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “Người Công Chính”. Mà người công chính, theo lời Kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người Công Chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.

Thánh Giuse là một con người bình thường như mọi người, được Thiên Chúa giao phó thực hiện “những điều cao trọng” trong cuộc đời thường, như làm “cha nuôi của Chúa Giêsu”, làm “bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria”. Ngài đã thực hiện đúng như ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố. Thiên Chúa bảo ngài cưới Mẹ Maria, đưa Mẹ về nhà mình, đưa Mẹ Maria sắp sinh nở về nguyên quán Bêlem để khai lý lịch, đưa Mẹ và hài nhi Giêsu chạy trốn sang Aicập, sau đó đưa gia đình về Nazarét vùng Galilê, Thánh Giuse luôn xin vâng theo Ý Chúa.

Thánh Giuse mạnh dạn đối diện với các vấn đề, đương đầu với các khó khăn, mà không bao giờ trách móc Thiên Chúa hay quy tội cho người khác. Ngài là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn. Từ Nazarét qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ngài đi là ngài đi, bảo ngài về là ngài về, bảo ngài làm thế nào là ngài làm thế ấy, đúng thời gian, đúng địa điểm mà không thắc mắc, không hoài nghi, không cự nự.Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc1,38).

Để luôn hướng về Ý Chúa, Thánh Giuse đã âm thầm đi sâu vào đời sống nội tâm. Trong nội tâm thinh lặng, ngài lắng nghe Chúa. Ngài hiểu tiếng gọi đó là một tình thương đặc biệt. Ngài trả lời như một giao ước, một gắn bó tín trung bền vững. Chúa gọi và chỉ dẫn ở từng chặng đường, ngài nghe và vâng theo. Cho dù gặp khó khăn trắc trở, ngài luôn vững tin ở Đấng đã gọi mình. Vì thế, nơi Thánh Giuse, con đường sống đạo là con đường tin cậy khiêm cung và tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác và nguyện cầu tha thiết.

Ngày nay, Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gũi với Chúa, chia sẻ cuộc đời của Chúa. Ngài giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo Hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.

Anh em Gia trưởng thân mến,

Thánh Giuse - Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ là gương sáng khiết tịnh cho anh em. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.

Anh em là người cha người chồng trong gia đình. Anh em đừng bao giờ coi mình là ông chủ đầy quyền lực trong gia đình, muốn làm gì thì làm. Anh em phải biết tuân theo ý Chúa, phải bình tĩnh, biết quảng đại, hy sinh trong mọi khó khăn của gia đình theo gương Thánh Giuse.

Đứng trước những bối rối, đối diện với nghịch cảnh, gặp những thử thách, Thánh Giuse luôn chia sẻ nỗi lòng với Đức Mẹ, ngài trăn trở những âu lo của Đức Mẹ, ngài chỉ muốn tìm giải pháp ưu việt cho nhất cho gia đình. Anh em gia trưởng cần có lòng tôn kính Thánh Giuse, thường xuyên xin ngài cố vấn cho các hoàn cảnh khó xử của mình. Ngài đã kinh qua tất cả nên ngài hiểu rõ hơn ai hết những nổi niềm của người Gia trưởng. Thánh Cả như một địa chỉ cần thiết, thân quen, anh em cần lui tới chuyện trò với ngài.

Hôn nhân là tổ ấm. Gia đình là chiếc nôi. Con cái đón nhận đời sống thể chất và tinh thần. Mỗi đứa con đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Giáo dục để chúng lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nhiệm vụ giáo dục con cái thật thiêng liêng và cao cả. Thiên Chúa trao cho các Gia trưởng.

Thánh Giuse làm cha. Con của ngài vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa - Đấng Cứu Độ. Con cái của anh em được làm con Thiên Chúa. Cho nên nhiệm vụ nuôi nấng dưỡng dục con cái là sứ vụ cao cả và là hồng ân quý giá Thiên Chúa ban cho anh em. Anh em cần phải biết yêu thương và tôn trọng con cái mình. Hãy trở nên gương mẫu đạo đức thánh thiện cho con cái. Hãy tránh mọi thứ gương mù gương xấu. Từ lời nói đến thái độ sống xấu sẽ là đại họa cho con cái. Tuổi thơ các em đơn sơ như tờ giấy trắng, mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của cha mẹ đều ghi đậm nét trên tờ giấy trắng tâm hồn và in dấu suốt cuộc đời các em. Bởi đó, trách nhiệm của người Gia trưởng đối với các em vô cùng quan trọng. Các em là thánh hay là quỷ tùy vào sự giáo dục và cách ăn nết ở của cha mẹ. Con cái là hoa trái của tình yêu và là niềm hy vọng của cha mẹ. Nguyện xin Thánh Giuse phù trợ cho anh em được trở nên những Gia trưởng thánh thiện, gương mẫu để đem hạnh phúc đến cho gia đình và cho cả xã hội tương lai.

Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho anh em Gia trưởng soi. Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả giá.Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.

Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã biến Thánh nhân thành một vị Đại Thánh. Thánh Cả đã đem cuộc đời mình biến thành một Lời Chúa sống động, ngài xứng đáng là Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An
 
Văn Hóa
Thi ca suy niệm tuần thánh
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
18:39 16/03/2016
Chúa Nhật LỄ LÁ. C

(Lc 19: 28-40)

THÁNH GIÁ

Đường lên núi sọ tới gần,
Thầy sai môn đệ, việc cần phải lo.
Vào làng trước mặt hỏi dò,
Lừa con cột sẵn, thầy trò cần ngay.
Tông đồ trải áo phủ dầy,
Đặt ngồi lên trốc, cùng Thầy bước đi.
Vào Thành trọng vọng uy nghi,
Mọi người nhảy múa, lối đi đền đài.
Áo choàng cành lá trải dài,
Hoan hô vang dậy, Thiên Sai vào đời.
Nhân danh chúc tụng Chúa Trời,
Bình an dưới thế, gọi mời thiện tâm.
Khởi đầu sứ mệnh âm thầm,
Bước vào Tuần Thánh, hương trầm tỏa lan.
Tấm thân đòn vọt nát tan,
Vai mang thánh giá, gian nan khổ hình.
Nhạo cười phỉ báng vô tình,
Con người phản bội, tử hình Chúa Con.
Giang tay chịu chết héo hon,
Thành toàn Thiên Ý, mỏi mòn tấm thân.

Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem trong tiếng hò la vang dậy của các môn đệ và dân chúng. Ngài ngồi trên lưng lừa mẹ, dân chúng với cành lá trong tay đón rước Chúa vào thành. Họ tung hô danh Chúa: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Chúng ta cùng đồng hành với Chúa trong Tuần Thánh này. Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời Kinh Thánh đã loan báo về Ngài. Ngài bắt đầu vào thành Giêrusalem với tiếng tung hô vang dậy và ít ngày sau, Ngài ra khỏi thành vác thánh giá trên vai trong tiếng la ó phỉ báng.

Lễ Lá, chúng ta được nghe trọn hành trình thương khó của Chúa. Chúa đã chịu bao nhiêu nỗi khốn khó dồn dập đổ xuống trên mình cả tinh thần lẫn thể xác. Chúa bị môn đệ thân cận phản bội và bán rẻ. Chúa bị vây bắt như một tên trộm. Bị tông đồ yêu qúi chối bỏ không quen. Bị lên án là tên phạm thượng và bị kết án tử hình. Bị dân chúng thách đố, nhục mạ và cười chê. Sau cùng bị treo trên thập giá giữa hai kẻ trộm. Chúa chấp nhận tất cả mà không hề hé môi than van một lời.

Suy niệm về đường thập giá, chúng ta thấy có nhiều người liên quan kéo phe kết đảng và toa rập để lên án Chúa. Mỗi người chúng ta cũng góp phần giơ tay xin giết Chúa. Những kẻ âm mưu giết Chúa, đại diện tôn giáo là các thầy Thượng tế, Luật sĩ, Biệt Phái, các Đầu mục trong dân và ngoài đời có Philatô, các quân thần, lính tráng và dân chúng. Còn có các Tông đồ như Giuđa phản bội, Phêrô chối Chúa và những tông đồ, môn đệ khác bỏ trốn.

Đám đông dân chúng hùa theo. Họ bị kích thích bởi các nhà lãnh đạo. Họ dựa vào dư luận để rồi lên án Chúa. Họ là những người đã từng chịu ơn, đã được chữa lành bệnh tật, được ăn bánh no nê và được nghe lời giảng dạy. Ấy thế mà trong chốc lát đã thay lòng đổi dạ. Họ đổi lòng có thể vì sợ hoặc không biết. Trước khi tắt thở, Chúa Giêsu đã xin Cha tha cho họ tất cả vì họ lầm chẳng biết.

Truyện kể: Anh Clint Rennis đã một thời xa Chúa. Anh nghe nói trong Tuần Thánh có tổ chức đi Đường Thánh Giá, anh nhập đoàn với mọi người cùng hô to giết đi, giết đi. Có người đến nói với anh, người đóng vai tên trộm chưa đến, anh có thể giúp không? Suy nghĩ một hồi, anh nói: Được. Anh đóng vai người trộm. Đi bên Chúa, có người hỏi anh: Có khi nào anh xin Chúa tha thứ tội cho anh chưa? Anh nói: Chưa. Anh hãy xin Chúa mở rộng tâm hồn và tha thứ. Anh mới ra khỏi tù và tuần qua mới ăn cắp hai chiếc xe. Anh nhận ra ơn Chúa và anh đã thực sự thống hối.

Ngày xưa thiên hạ lầm lẫn vì không biết Chúa, Chúng ta ngày nay đã biết Chúa nhiều hơn nhưng chúng ta vẫn chối Chúa và có khi bán rẻ Chúa nữa. Xin Chúa thương tha thứ. Xin Chúa thương xót chúng con.

THỨ HAI, TUẦN THÁNH
(Ga 12, 1-11).
XỨC DẦU
Sáu ngày trước lễ Vượt Qua,
Bê-ta-ni-á, nơi nhà dấu yêu.
Ghé cùng môn đệ buổi chiều,
Chúa làm phép lạ, ban nhiều phúc ân.
Người ta dọn bữa ân cần,
Ma-ry quỳ gối, sát gần bên chân.
Mar-tha lo việc tiếp tân,
La-gia-rô đó, xác thân phục hồi.
Chị em đón Chúa bồi hồi,
Dầu thơm hảo hạng, khúc nhôi giãi bầy,
Xức dầu chân Chúa tràn đầy,
Hương thơm tỏa ngát, ơn Thầy tri ân.
Tâm tư chia sẻ người thân,
Xức dầu hoan lạc, vọng ngân cao vời.
Gần ngày kết thúc cõi đời,
Vượt Qua sự chết, rạng ngời vinh quang.


THỨ BA, TUẦN THÁNH
(Ga 13, 21-33. 36-38).
THỬ THÁCH
Tâm hồn xao xuyến bồi hồi,
Tông đồ môn đệ, đơn côi lạc đàn.
Một người mắc bẫy Sa-tan,
Bỏ Thầy phản phúc, dối gian gạt người.
Nhìn nhau tự hỏi đôi lời,
Phụ lòng bán Chúa, xin mời ra đi.
Chúa thương rộng lượng từ bi,
Không lời phiền trách, thị phi thói đời.
Ai ngờ quản lý một thời,
Lòng gian dạ ác, nghe lời quỉ ma.
Phản Thầy bỏ bạn đi xa,
Kết cùng cuộc sống, thật là xót thương.
Ba năm huấn luyện tinh tường,
Lời hay lẽ thật, như sương sáng ngày.
Tín trung mời gọi hôm nay,
Kiên trì tin vững, phúc thay tâm hồn.


THỨ TƯ, TUẦN THÁNH
(Mt 26. 14-25).
VƯỢT QUA
Giu-đa ý định nộp Thầy,
Bao nhiêu đồng bạc, xin bầy kế hay.
Mưu tìm thuận dịp ra tay,
Trao Thầy nộp bạn, vào tay kẻ thù.
Vượt Qua lễ hội trong khu,
Thầy trò chia sẻ, đêm thu sầu buồn.
Một người sa ngã mất hồn,
Tâm tư lầm lạc, bán buôn tội tình.
Buồn rầu tự hỏi lòng mình,
Xin Thầy cho biết, thật tình là ai?
Người cùng chấm dĩa công khai,
Lòng đầy thâm độc, một mai phản Thầy.
Giu-đa lòng dạ ác dầy,
Khốn thay kẻ nộp, sa lầy trí tâm.
Cuộc đời hiện hữu sai lầm,
Tiện tâm bán Chúa, âm thầm chết treo.


THỨ NĂM, TUẦN THÁNH
(Mt 13, 1-15).
PHỤC VỤ
Vượt Qua ngày lễ âm thầm,
Thầy trò trao đổi, thâm trầm thâu đêm.
Chúa truyền bài học nhẹ êm,
Lấy khăn cởi áo, bên thềm cúi sâu.
Rửa chân dơ bẩn phục hầu,
Thắt lưng bưng chậu, khẩn cầu rửa chân.
Phê-rô từ chối đôi lần,
Xin Thầy hãy rửa, cả thân con này.
Có người không sạch hôm nay,
Lòng tham ý tiện, khốn thay cuộc đời.
Nêu gương phục vụ mọi người,
Là Thầy là Chúa, đôi lời nhủ khuyên.
Rửa chân phục vụ thường xuyên,
Theo gương Thầy rửa, rao truyền thực thi.
Anh em luôn nhớ khắc ghi,
Thực hành đức ái, đại bi sống đời.


THỨ SÁU, TUẦN THÁNH
(Ga 18, 1-19. 42).
THẬP GIÁ
Giu-đa phản bội nghĩa Thầy,
Ba mươi đồng bạc, một bầy toán quân.
Vệ binh đèn đuốc đi tuần,
Xông vào bắt Chúa, gian truân cực hình.
Tông đồ bỏ trốn cứu sinh,
Một mình Chúa chịu, cung đình xét tra.
Thâu đêm đánh đập xót xa,
Giam trong ngục tối, gian tà bủa vây.
Kết hình tử tội treo thây,
Mạo gai đâm thấu, ngất ngây tủi hờn.
Vai mang thánh giá cô đơn,
Quỵ đau xô ngã, từng cơn mỏi mòn.
Mồ hôi máu chảy héo hon,
Thân tàn thịt nát, đánh đòn không nương.
Đóng đinh thập giá sầu thương,
Hiến thân chịu chết, thiên đường trổ hoa.

THỨ BẨY, TUẦN THÁNH
(Mc 16, 1-8).
MỒ TRỐNG
Thuốc thơm xức xác sẵn sàng,
Hừng đông ngày mới, trên đàng viếng thăm.
Mộ phần cửa lấp xa xăm,
Xác thân tẩm liệm, đặt nằm bên trong.
Ngạc nhiên mồ trống, rối lòng,
Các bà khiếp sợ, ước mong gặp Thầy.
Thiên thần bên phải ngồi đây,
Nhắn lời ‘đừng sợ’, vì Thầy phục sinh.
Hãy đi loan báo thanh minh,
Tông đồ môn đệ, chúng sinh Tin mừng.
Tin yêu chan chứa nổi bừng,
Buồn đau biến mất, vang lừng tâm can.
Chúa nay sống lại khải hoàn,
Niềm tin hy vọng, hân hoan rạng ngời.
Vinh quang sự sống muôn đời,
Chương trình cứu độ, cao vời thánh ân.


Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bronx, New York


 
Lễ thánh cả Giuse : Diệu ca Bạch Huệ
Đinh Văn Tiến Hùng
18:42 16/03/2016
Diệu ca BẠCH HUỆ
( Lễ kính Thánh Cả Giuse 19/3 )

“ Đây là chuyện Đức Giêsu Kitô sinh ra : Maria đã đính hôn với Giuse trước khi Ông Bà về chung sống với nhau, thì Bà đã có thai do tự Chúa Thánh Thần. Giuse Chồng Bà là Người công chính và không muốn tố giác Bà, định âm thầm ly dị. Sau khi Ông đã quyết tâm như vậy, thì Thiên Thần Chúa hiện ra cho Ông trong giấc mộng và bảo rằng : Giuse, con của Đa-vít ! Chớ sợ rước lấy Maria về nhà, thai nơi Bà do tự Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và Ông sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi.”
( Mt.1 : 18- 21 )


*Chọn Người Công chính :

Xuất thân dòng dõi hoàng gia,
Nhưng Ngài không chọn xa hoa sang giàu.
Nuôi trong tâm nguyện từ lâu,
Một đời nghèo khó cúi đầu xin tuân,
Quyền năng Thiên Chúa cao sâu,
Gậy Ngài Huệ nở khoe màu tuyết trinh,
Biểu dương thần khí uy linh,
Chọn Người Công chính tôn vinh muôn đời.

*Một Đời Trầm lặng :

Ngài đã sống âm thầm và dâng hiến,
Vì biết mình nhận trách nhiệm lớn lao,
Làm Cha Nuôi Con Thiên Chúa Tối Cao
Và làm Bạn Ma-ri-a Trinh Nữ,
Nên hiện tại,tương lai cùng quá khứ
Dâng tất cả trong tay Chúa Toàn năng.
Cuộc đời Ngài là một chuỗi hồng ân,
Vượt lên hẳn muôn loài nơi trần thế

*Mẫu gương tuyệt vời:

Vẹn toàn Thiên ý phận làm Cha,
Gương sáng soi chung khắp mọi nhà.
Khấn nguyện âm thầm lời kết ước,
Kiên cường bền vững chốn phong ba.
Tuân hành mộng báo nơi Thiên Sứ,
Dong duổi hành trình với Thánh Gia.
Nhẫn nhục một đời quên khổ cực,
Gậy Ngài Huệ Trắng nở hoan ca.

*Cầu nguyện và Cần lao :

Noi gương Thánh Cả Giu-se,
Cần lao,Cầu nguyện,lời thề khó khăn.
Khi xưa sống nơi gian trần,
Ngài luôn chăm sóc ân cần Thánh Gia,
Nguồn vui nhiệm vụ bao la,
Dưỡng nuôi Con Chúa giao hòa trần gian.
Phúc Âm ghi lại vài hàng,
Một Đời Tâm Niệm hơn ngàn bài ca :
“ ORA ET LABORA “

ĐINH VĂN TIẾN HÙNG

 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Vườn Thiền
Dominic Đức Nguyễn
18:30 16/03/2016
VƯỜN THIỀN
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Vườn trần một bãi phù hoa
Lợi danh phú quí có là phù du ?
Mấy ai vào cõi chân như
Để hồn trầm lắng trong khu vườn thiền.
(Trích thơ của Nghinh Nguyên)
 
VietCatholic TV
Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô 10– 16/03/2016: Câu chuyện Tôi Muốn Con Tôi Sống
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:19 16/03/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Thánh Giá là câu chuyện tình của Thiên Chúa

Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết. Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ Ba ngày 15.03, tại nguyện đường Thánh Marta.

Lịch sử cứu độ được Kinh Thánh thuật lại có nói về một con vật. Con vật ấy được nhắc đến lần đâu tiên trong Sách Sáng Thế và lần cuối cùng là trong Sách Khải Huyền: con rắn. Rắn là loài vật mà theo Kinh Thánh mang một biểu tượng mạnh mẽ của sự nguyền rủa, của tội lỗi và một cách mầu nhiệm cũng là biểu tượng của sự cứu chuộc.

Để giải thích điều này, Đức Thánh Cha Phanxicô trưng dẫn bài đọc một trích sách Dân số và Tin Mừng theo Thánh Gioan: “Bài đọc một tường thuật lại sự kiện khá nổi bật về dân tộc It-ra-en khi họ thực hiện chuyến hành trình trong sa mạc. Họ không muốn đi trong cảnh lương thực ít ỏi như thế nữa. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê. Và ở đây, nhân vật chính là con rắn. Trước hết, nó được Thiên Chúa cho đến để làm hại những kẻ cứng lòng không tin, để gieo rắc sự sợ hãi và cái chết cho đến khi dân chúng biết chạy đến nài xin Mô-sê sự tha thứ. Và sau đó là hình ảnh con rắn đồng. Thiên Chúa nói với Mô-sê: ‘Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.’ Điều nhiệm mầu nằm ở chỗ này: Khi dân hối hận, Thiên Chúa không giết chết các con rắn, nhưng Ngài để chúng đó. Nếu có con rắn nào làm hại dân chúng, chỉ cần họ nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu. Giương cao con rắn lên.

Động từ ‘giương cao’ (innalzare) là trung tâm điểm trong cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và người Pha-ri-sêu như đã được mô tả trong Tin Mừng. Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: ‘Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu.’ ‘Tôi Hằng Hữu’ là tước hiệu mà chính Thiên Chúa đã truyền cho Mô-sê để ông nói lại cho dân Ít-ra-en. Sau này, cụm từ diễn đạt ấy cũng quay trở lại trong dạng thức: ‘giương cao Con Người lên’.

Con rắn tượng trưng cho tội lỗi. Con rắn giết hại người ta nhưng nó cũng chữa lành. Và đó chính là mầu nhiệm của Đức Kitô. Thánh Phao-lô đã nói về mầu nhiệm này như sau: ‘Đức Giêsu đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, đã hạ mình xuống, đã tự hủy mình đi để cứu chúng ta.’ Mạnh mẽ hơn, Thánh Phao-lô còn nói: ‘Đức Giêsu là Đấng chẳng biết tội là gì, thì Thiên Chúa lại biến Người thành hiện thân của tội.’ Như vậy cách nào đó, Đức Giêsu chính là con rắn được giương cao lên. Bài đọc một ngày hôm chất chứa cái nhìn có tính tiên tri: Con Người như là hình ảnh con rắn, ‘hiện thân của tội lỗi’, đã được giương cao lên để cứu độ con người.

Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Đây cũng là chuyện tình của Thiên Chúa. Nếu muốn biết câu chuyện tình ấy, chúng ta hãy ngước nhìn lên cây Thánh Giá: một con người bị tra tấn dã man, một Thiên Chúa đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn vì tội lỗi con người’. Vị Thiên Chúa ấy sẽ hủy diệt vĩnh viễn cái tên xấu xa đích thực của sự dữ mà Sách Khải huyền gọi là ‘con rắn xưa’. Tội lỗi là việc làm của Satan. Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng Satan. Ngài đã tự hạ mình xuống, trở thành hiện thân của tội để nâng con người lên.

Thánh Giá không phải là đồ trang sức, không phải là một công trình nghệ thuật được đính nhiều đá quý và kim cương lấp lánh. Nhưng như chúng ta thấy, Thánh Giá là mầu nhiệm tự hủy của Thiên Chúa vì yêu thương. Con rắn đồng trong sa mặc có ý nghĩa tiền trưng về ơn cứu độ: Nó được giương cao lên và bất cứ ai bị cắn mà nhìn nó, sẽ được chữa lành. Sự chữa lành ấy không được thực hiện bởi một cây đũa thần từ tay của một vị Thiên Chúa ma thuật, nhưng bởi chính sự đớn đau của Con Người, bởi chính khổ hình của Đức Giêsu Kitô.”

2. Noi gương Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ

Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy biểu lộ tình yêu thương qua việc phục vụ lẫn nhau, noi gương Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ Bẩy 12 tháng 3, dành cho 50 ngàn tín hữu hành hương. Đây là buổi tiếp kiến đặc biệt mỗi tháng một lần vào thứ bẩy, nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót.

Trong bài huấn dụ về đề tài “Lòng thương xót và việc phục vụ”, sau khi diễn giải ý nghĩa việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Tình yêu là một việc phục vụ cụ thể chúng ta làm cho nhau. Một việc phục vụ khiêm tốn, làm trong thinh lặng và âm thầm, như Chúa Giêsu đã nói: “Đừng để tay phải biết việc tay trái làm” (Mt 6,3). Việc phục vụ này cũng bao hàm việc đặt để những hồng ân Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta để cộng đoàn có thể tăng trưởng (Xc 1 Cr 12,4-11).”

Đức Thánh Cha nói thêm rằng “việc phục vụ cũng được diễn tả qua sự chia sẻ của cải vật chất, để không ai phải ở trong tình cảnh túng thiếu. Sự chia sẻ và tận tụy dành cho người túng thiếu là một lối sống mà Thiên Chúa cũng gợi ý cho cả những người không Kitô, như con đường tình người đích thực”.

Sau cùng, Đức Thánh Cha nhắc nhủ rằng Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta xưng thú với nhau những khiếm khuyết và cầu nguyện cho nhau để biết thành tâm tha thứ cho nhau.

3. Câu Chuyện: “Tôi Muốn Con Tôi Sống”

“Tôi muốn con tôi sống” đó là lời của bà Suzanna Petrosyan đã thốt ra và được báo chí nhắc lại. Thực ra, có bà mẹ nào lại không muốn con của mình được sống đâu? Thế nhưng trường hợp của bà Petrosyan và đứa con gái 4 tuổi của bà không giống như những trường hợp của nhiều bà mẹ khác, vì hai mẹ con bà này là nạn nhân của cơn động đất khủng khiếp tại Armeni, thuộc liên bang Xô Viết hồi tháng 12 năm 1987.

Sau khi động đất, cũng giống như hàng ngàn người khác, cả hai mẹ con bà Petrosyan đều bị lấp vùi dưới hàng trăm ngàn tấn gạch, đá và xi măng, nhưng họ may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cựa quậy mà thôi. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt và chẳng mấy chốc hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó, cô gái 4 tuổi mới kêu: “Mẹ ơi, con khát quá. Mẹ cho con uống nước”. Nhưng lấy nước đâu bây giờ? Tiếng kêu khát của con cứ tiếp tục làm cho bà mẹ vừa đau lòng vừa lúng túng. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo: đó là lấy những giọt máu cuối cùng của bà cho con uống để cầm cự với tử thần. Lúc đó, người mẹ đáng thương mới lấy tay sờ sẫm và vớ được một miếng kính bể. Bà lấy miếng kính cắt đầu ngón tay trỏ và đút ngón tay vào miệng con bảo con mút. Em bé mút ngón tay của mẹ một lúc rồi nói: “Mẹ cắt một ngón tay nữa cho con mút thêm”. Bà liền cắt một ngón tay nữa nhưng vì trời lạnh quá nên bà không thấy đau đớn gì nữa... Sau khi được cứu sống, người đàn bà thuật lại rằng: “Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống”.

Tấm gương hy sinh cao cả của bà mẹ trên đây có thể gợi lên Tình Yêu của Ðấng đã nói: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống vì người mình yêu”.

Cũng giống như một người mẹ sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để cho đứa con được sống. Chúa Giêsu cũng đã hy sinh chính mạng sống của mình cho con người được sống. Sự sống thần linh mà Chúa Giêsu muốn thông ban cho con người cũng chính là tình yêu của Ngài. Chịu treo trên thập giá, đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, Chúa Giêsu chỉ muốn cho con người được sống và sống trong tình yêu. Ai sống trong tình yêu, người đó đang sống thực sự, bởi vì người đó đang sống trong Chúa.

Nhờ phép Rửa Tội, người Kitô chúng ta đang sống bằng sự sống của Thiên Chúa. Ðó là kết quả của những giọt máu của Ðấng đã chịu chết vì chúng ta trên thập giá... Những giọt máu thần linh ấy một cách nào đó, đang châu lưu trong chúng ta. Máu ngừng chảy, máu không châu lưu, tình yêu không được san sẻ cho người khác, cũng sẽ làm cho con người chết khô cằn... Bao lâu chúng ta khước từ không san sẻ tình yêu cho người khác, chúng ta cũng chối bỏ chính tình yêu của Chúa.

4. Dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng

Một người vô gia cư chết cóng ở Roma, các nữ tu Bác Ái của Mẹ Têrêsa bị giết hại tại Yemen, những người mắc các chứng bệnh hiểm nghèo trong vùng ‘Tam giác Tử thần’ ở phía Nam Italia. Ở nơi đó, việc đốt trái phép các chất thải độc hại đã gây ra những chứng bệnh ung thư và dẫn người ta đến sự tuyệt vọng. Trong thánh lễ sáng thứ Hai ngày 14.03, tại nguyện đường thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gợi nhắc lại những sự kiện bi thương trong thời gian gần đây. Đứng trước những ‘vực thẳm tăm tối’ của thời đại, phương cách duy nhất là chúng ta phải tín thác vào Thiên Chúa. Ngay cả khi không hiểu được sự dữ và đau khổ, chúng ta hãy cứ tín thác vào bàn tay của Thiên Chúa, là Đấng chẳng bao giờ bỏ rơi dân Ngài.

Khởi đi từ bài đọc một trích sách Đa-ni-en, Đức Thánh Cha chia sẻ rằng: “Ngay cả khi chúng ta thấy mình đang bước đi trong vực sâu tăm tối nhưng chúng ta đừng sợ hãi trước sự dữ. Su-san-na, một người phụ nữ công chính, sắp bị ‘ô uế’ bởi ước muốn gian tà của hai vị thẩm phán. Bà đã quyết định tín thác vào Chúa và chọn lựa cái chết trong sạch hơn là sống và làm theo điều mà hai người kia mong muốn.

Những khi con bước đi trong vực sâu tăm tối, Chúa ở đâu?

Thiên Chúa luôn ở đồng hành bên cạnh chúng ta, mong muốn những điều tốt lành cho chúng ta và nhất là không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngày hôm nay, khi chúng ta gặp phải những vực sâu tăm tối, những khó khăn và tai ương; bao nhiêu người chết vì đói khát, vì chiến tranh; bao nhiêu trẻ em bị tàn tật.... Khi hỏi thăm bố mẹ của đứa trẻ, chúng ta mới nhận ra rằng chẳng ai biết căn bệnh ấy là gì. Người ta chỉ biết gọi là bệnh hiếm. Nhưng cũng có những tai ương chúng ta tự gây ra cho mình. Hãy nghĩ tới các chứng bệnh ung thư do đốt các chất thải độc hại ở vùng ‘Tam giác Tử thần’. Khi chứng kiến tất cả những điều này, chúng ta không khỏi thốt lên: ‘Chúa ơi, Chúa đâu rồi? Chúa có còn đồng hành với con nữa không?’ Đây cũng chính là cảm xúc dâng trào nơi tâm hồn đau khổ của bà Su-san-na. Cảm xúc này cũng là của chúng ta khi chứng kiến bốn nữ tu bị sát hại cách tàn bạo. Các chị phục vụ hết mình vì tình yêu nhưng lại bị giết chết bởi sự ghen ghét và hận thù. Khi thấy người ta đóng các cửa biên giới lại và đẩy những người tị nạn ra bên ngoài trong cảnh lạnh lẽo đói khát, chúng ta không khỏi khắc khoải tự hỏi Chúa có còn ở với chúng ta hay không.

Tại sao đứa bé vô tội lại phải chịu đau khổ? Tôi không biết tại sao nhưng tôi tin Chúa

‘Chúa ơi, làm sao con thể tin Chúa khi phải chứng kiến tất cả những nỗi khốn khổ này?’ Vẫn có câu trả lời cho vấn nạn ấy nhưng lại không thể giải thích rõ ràng được. Đứa trẻ có tội tình gì đâu mà phải chịu khổ như thế? Tôi không biết. Với tôi, đó là một mầu nhiệm. Khi chiêm ngắm hình ảnh Đức Giêsu trong Vườn Dầu, tôi được soi sáng ít nhiều để hiểu ra vấn đề, nhưng không phải cái hiểu của trí tuệ mà là cái thấu hiểu của tâm hồn. Đức Giêsu cầu nguyện rằng: ‘Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.’ Đức Giêsu đã tín thác vào thánh ý Cha. Bởi vì Ngài biết mọi sự sẽ không chấm dứt với những đau khổ và cái chết nhục nhằn. Những lời cuối cùng của Đức Giêsu trên Thánh Giá là: ‘Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.’ Sau đó, Ngài trút hơi thở. Tôi tín thác nơi Thiên Chúa, là Đấng luôn đồng hành với tôi, luôn đồng hành với đoàn dân Chúa, luôn đồng hành với Giáo Hội. Đây là một hành vi đức tin. Chúng ta hãy thưa với Chúa: ‘Chúa ơi, con tin Chúa. Con không giải thích được tại sao, nhưng con đặt trọn con người con trong bàn tay Chúa. Bởi vì Chúa biết lý do tại sao.’

Đau khổ và sự dữ sẽ không chấm dứt, nhưng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta

Giáo huấn của Đức Giêsu là: ‘Ai tín thác vào Chúa là Vị Mục Tử Nhân Lành sẽ chẳng thiếu thốn gì.’ Ngay cả khi đang bước đi trong những thung lũng âm u, người ấy cũng nhận ra rằng đó chỉ là một khoảnh khắc thôi và Thiên Chúa luôn ở với anh: ‘Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.’ Đây là một ơn mà chúng ta phải nài xin: ‘Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết tín thác vào bàn tay quyền năng Chúa, biết tín thác vào sự hướng dẫn của Ngài ngay cả trong những khi tối tăm, tệ hại và khi cái chết đang gần kề.’ Vì thế, thật là hữu ích nếu ngày hôm nay chúng ta nhìn lại đời sống của mình, nghĩ về những khó khăn đang gặp phải và xin ơn để đặt trọn con người chúng ta vào bàn tay của Thiên Chúa. Hãy nghĩ đến biết bao nhiêu người chẳng hề được quan tâm và chăm sóc trong những giây phút cuối đời.

Ba ngày trước, một người vô gia cư đã chết bên đường, ngay tại Roma này. Người ấy đã chết cóng vì lạnh giữa một trung tâm phồn hoa, một thành phố có đầy đủ khả năng để cung cấp những trợ giúp cần thiết. Thế nhưng tại sao lại chẳng có sự quan tâm chăm sóc nào cả? ‘Chúa ơi, mặc dù con không hiểu tại sao, nhưng con tin Chúa, vì Chúa chẳng để con phải thất vọng bao giờ. Không hiểu, nhưng con vẫn trao phó cuộc đời con trong tay Chúa.’”

5. Dân chúng mong đợi những mảnh sự sống từ các môn đệ Chúa Giêsu, chứ không phải những mảnh đạo lý

Đó là lời nhắc nhở của cha Ermes Ronchi, vị giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha và các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh.

Cha Ermes Ronchi nói: “Lời mời gọi của Chúa Giêsu: “hãy trở nên muối đất” là lời nhắc nhở các môn đệ của Người, hãy rao giảng niềm hy vọng và sự sống chứ không phải trình bày các vấn nạn tín lý. Nếu chúng ta không là những người quả quyết, không thoát khỏi sự giả dối và sợ hãi, chúng ta sẽ là muối đã bị nhạt.”

Cha Ronchi là một Linh mục người Ý, là giáo sư của phân khoa Thần học của Học viện Giáo hoàng Marianum ở Roma. Ngài đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô chọn giảng tĩnh tâm mùa Chay 2016 cho giáo triều Roma. Cha đã chọn đề tài “Những câu hỏi trần trụi của Tin Mừng”. Tuần tĩnh tâm này được tổ chức ở Ariccia, một thành phố cách Roma 30 cây số về hướng đông nam.

Trong bài giảng sáng ngày 7 tháng 3, cha Ronchi đã nói về sự sợ hãi, điều đã đi vào thế giới sau sự bất tuân của Adam và Eva trong vườn địa đàng. Cha nói, vì lo sợ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, Adam đã trốn tránh Người. Điều này chứng tỏ hậu quả của tội lỗi là làm cho ông xa cách lòng thương xót. Đối với các Kitô hữu, sự lo sợ này tạo nên một cộng đoàn Kitô buồn sầu, và một Thiên Chúa không có niềm vui. Như thế, kẻ thù của sợ hãi không phải là sự can đảm nhưng là đức tin.”

Suy niệm đoạn Tin Mừng theo thánh Mát cô 4,35-41 nói về việc Chúa Giê su làm cho biển yên sóng lặng, cha Ronchi nói: “Sợ hãi khiến cho các môn đệ trên thuyền như là ra lệnh cho Chúa hành động và cứu họ khỏi chìm xuống biển sâu. Tuy nhiên, Thiên Chúa không đưa chúng ta ra khỏi cơn bão táp, nhưng Người nâng đỡ chúng ta trong giông bão”.

Cha Ronchi còn nói với các vị dự tuần tĩnh tâm rằng, trong một thời gian dài, Giáo Hội đã truyền lại một niềm tin pha trộn với sợ hãi. Cha nhấn mạnh: “Do đó, hãy là những thiên thần giải thoát họ khỏi sợ hãi”.

Vào ban chiều, cha đã tập trung vào đoạn Kinh Thánh nói về Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu, trong đó Chúa nói: “Các con là muối cho trần gian. Nếu muối đã bị lạt thì lấy gì ướp lại cho mặn?” Theo Cha Ronchi, hình ảnh của muối, tiêu tan để ướp mặn, phản chiếu sứ mệnh của Giáo Hội, là phải trao ban chính mình và tan biến đi. Muối và ánh sáng không phải để tồn tại mãi mãi cho chính mình nhưng là trao ban. Giáo Hội cũng phải như thế. Tiêu hao không có nghĩa là hủy diệt hay mất đi, nhưng là để làm cho cuộc sống con người tốt đẹp hơn.

Vào ngày thứ 3 của cuộc tĩnh tâm, cha Ronchi suy niệm về “sứ mạng làm chứng thật cho Chúa Giêsu của Giáo Hội.” Từ đoạn Tin Mừng nói về cuộc tuyên xưng đức tin của Phê rô, cha Ronchi nói, câu hỏi của Chúa Giêsu cho các môn đệ “Phần các con bảo Thầy là ai?|” là một câu truy vấn cho tâm hồn chúng ta. Chúa Giêsu không chờ câu trả lời, nhưng là chính con người, không phải là những định nghĩa nhưng là sự dấn thân. Chúa Giêsu không có đang dạy học, Người không gợi ý câu trả lời, nhưng Người nhẹ nhàng dẫn mọi người nhìn vào nội tâm sâu thẳm của chính minh. Cha nói tiếp, câu hỏi của Chúa Giêsu, được hiểu là không dạy đạo lý cho bất cứ ai, cũng không bắt buộc các môn đệ phải trả lời một cách khuôn mẫu. Câu trả lời của Thánh Phêrô “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” là chứng nhân rằng “Chúa Kitô đang sống trong chúng ta”

Cha Ronchi cũng nói: “Tâm hồn chúng ta có thể là máng cỏ hoặc là nấm mồ của Chúa. Lệnh truyền của Chúa Giêsu cho các môn đệ “đừng nói cho ai biết Người là Đấng Mêsia” cũng là lệnh truyền cho Giáo Hội, vì thỉnh thoảng Giáo Hội đã truyền giảng một kinh nghiệm méo mó về Thiên Chúa. Nay Giáo Hội được kêu gọi rao giảng bằng chính chứng từ cá nhân của minh. Những giáo sĩ chúng ta, nhìn ai cũng như nhau: có cùng cử chỉ, các lời nói và y phục. Nhưng mọi người đang yêu cầu chúng ta cho họ kinh nghiệm về Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là những điều chúng ta nói về Người nhưng là điều tôi sống về Người. Chúng ta không phải là trung gian giữa Thiên Chúa và con người, trung gian đích thật chinh là Chúa Giêsu.”
 
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 10 – 16/03/2016: Ba năm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô qua các con số
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
21:56 16/03/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Mẹ Têrêsa Calcutta sẽ được Đức Thánh Cha Phanxicô tôn phong hiển thánh vào Chúa Nhật 4 tháng 9 tới đây.

Trong công nghị Hồng Y diễn ra lúc 10 giờ sáng ngày 15 tháng Ba, Đức Thánh Cha đã quyết định ngày tôn phong hiển thánh cho Mẹ Têrêsa thành Calcutta, đấng sáng lập dòng các nữ tu thừa sai bác ái, là ngày 4 tháng 9 tới đây.

Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, hưởng thọ 87 tuổi, và đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 tuyên chân phước ngày 1910-2003.

Trong công nghị Hồng Y, Đức Thánh Cha cũng quyết định sẽ tuyên thánh cho hai vị Chân Phước khác vào ngày Chúa Nhật 5 tháng 6. Vị thứ nhất là nữ Chân Phước Maria Elisabetta Hesselblad sinh năm 1870. Ngài qua đời tại Roma năm 1957 thọ 87 tuổi và được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 9-4 trong Đại Năm Thánh 2000. Vị thứ hai là cha Stanislao Giêsu Maria, sinh năm 1631. Cha Stanislao Giêsu và Maria qua đời năm 1701, thọ 70 tuổi, và được Đức Gioan Phaolô 2 phong chân phước ngày 16-9 năm 2007 tại Đền thánh Đức Mẹ Lichen, Ba Lan.

Sau khi tuyên thánh cho Mẹ Têrêsa, vào Chúa Nhật 16-10, Đức Thánh Cha sẽ tuyên thánh cho hai vị Chân Phước khác nữa. Vị thứ nhất là Chân Phước thiếu niên Giuse Sanchez Del Río, người Mễ Tây Cơ, tử đạo lúc mới được 14 tuổi. Vị thứ hai là Chân Phước José Gabriel del Rosario Brochero, sinh năm 1840. Cha qua đời vì kiệt lực trong việc chăm sóc cho người nghèo và được phong chân phước ngày 14-9 năm 2013 theo một quyết định trước đó của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 ngày 20-12 năm 2012.

2. Đức Thánh Cha chuyển đổi Giám Mục Đà Nẵng và Lạng Sơn

Hôm 12 tháng 3, Phòng Báo chí Tòa Thánh thông báo: Đức Thánh Cha Phanxicô đã chuyển đổi: Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân về làm Giám Mục Chính Tòa Đà Nẵng và Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri làm Giám Mục Lạng Sơn và Cao Bằng.

Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân năm nay 59 tuổi (16-6-1957), thụ phong linh mục năm 1987 trong Giáo Phận Hà Nội, và được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục Lạng Sơn và Cao Bằng cách đây 9 năm, ngày 12-10 năm 2007. Giáo phận này hiện có hơn 5.800 tín hữu Công Giáo thuộc 22 giáo Xứ.

Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri năm nay 60 tuổi (12-9-1956), thụ phong Linh Mục năm 1989 trong giáo phận Đà Nẵng, và được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục Đà Nẵng cách đây 10 năm, ngày 13-5-2006. Giáo phận này hiện có hơn 68 ngàn tín hữu Công Giáo với 53 giáo xứ.

3. Tòa Thánh ban hành nghị định mới quản lý việc chi tiêu trong các án tuyên thánh

Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn quy định mới quản lý việc chi tiêu các ngân quỹ trong những án tuyên thánh hay tuyên chân phước.

Các quy định mới, được sự chấp thuận của Đức Thánh Cha trong một thời gian thử nghiệm kéo dài ba năm, được thiết kế để bảo đảm trách nhiệm giải trình trong việc thu chi những số tiền liên quan đến tiến trình tuyên thánh hay tuyên chân phước.

Năm ngoái, một cuộc điều tra về tài chính tại Vatican cho thấy cần phải chấn chỉnh và minh bạch hóa việc sử dụng nguồn thu được từ anh chị em giáo dân trong những dịp này.

Các quy định mới sẽ yêu cầu kế toán chi tiết tất cả các chi phí, dưới sự giám sát của các giám mục. Các vị này sau đó sẽ cung cấp báo cáo giải trình cho Vatican. Nếu các quỹ có liên quan đến một ứng cử viên cụ thể không dùng hết khi án được hoàn thành, quy định mới buộc số tiền còn lại phải được xung vào một “quỹ liên đới” để hỗ trợ các chi phí cho những án phong chân phước và phong thánh không nhận được đủ kinh phí.

Các chi phí điều tra án tuyên thánh hay tuyên chân phước thường phải mất hơn 100,000 Mỹ Kim cho việc chuẩn bị một hồ sơ rộng rãi trên cuộc sống của ứng viên, và nghiên cứu tỉ mỉ trên những phép lạ được báo cáo; cùng với các chi phí liên quan đến việc di chuyển, dịch thuật và in ấn. Các quy định mới này nhằm chống lại những chi tiêu quá mức và giảm thiểu cơ hội tham nhũng.

4. Đức Tổng Giám mục Colorado dẫn đầu đoàn rước Thánh Thể tới trung tâm “Kế Hoạch Hóa Gia Đình”

Khoảng 1,800 người đã tham gia vào cuộc kiệu Thánh Thể, do Đức Tổng Giám mục Samuel Aquila dẫn đầu, bên ngoài một cơ sở Planned Parenthood ở Stapleton, Colorado, vào hôm thứ Bảy 5 tháng Ba.

Các nhà tổ chức cuộc rước kiệu Thánh Thể cho biết rằng họ chỉ hy vọng thu hút được 500 đến cùng lắm là 800 người tham gia. Số người tham dự bất ngờ tăng cao “khiến chúng tôi lúng túng, vì 1,800 người là quá đông trên vỉa hè của một khu phố.”

Đức Tổng Giám Mục Aquila nhận xét rằng cuộc rước Thánh Thể này “thực sự là một thời điểm của ân sủng, một khoảnh khắc của hồng ân.”

5. Giám quản Tông Tòa Miền Nam Ả rập gặp gỡ các nữ tu Thừa sai Bác ái sống sót

Đức Cha Phaolô Hinder, Giám quản Tông Tòa Miền Nam Bán Đảo Ả rập đã gặp gỡ các nữ tu Thừa sai Bác ái sống sót sau vụ tấn công tấn công khủng bố vào một viện dưỡng lão ở Aden, Yemen.

Chị Sally “đang phục hồi nhanh chóng”, Đức Cha Phaolô Hinder nói. “Chúng ta có thể hiểu được là chị vẫn còn trong trạng thái kinh hoàng. Chị chắc chắn là kiệt sức bởi những thử thách gặp phải, nhưng tính mạng của chị đã hết nguy hiểm. “

“Hiện nay chị được đưa đến nơi an toàn, điều quan trọng là chúng ta bảo vệ chị ấy khỏi những kẻ thù; và làm sao cho kinh nghiệm khủng khiếp này sớm phai tàn. Chúng tôi cũng bảo vệ chị khỏi các phương tiện truyền thông tò mò, những người muốn có cuộc gặp gỡ với chị ấy chỉ để làm một bài bình luận, hoặc một câu chuyện trên báo chí”.

Đức Giám Mục Hinder nói rằng “cả chính quyền và những người bình thường ở Yemen đã tìm đến chúng tôi để chia sẻ nỗi đau thương này. Ngoại trừ một vài nhóm cực đoan nhỏ, không ai là không thích chúng tôi. Tuy nhiên, những kẻ cực đoan có súng và sẵn sàng sử dụng vũ lực “.

Số phận của Cha Tom Ezhunnalli, một linh mục dòng Salesian bị bắt cóc từ viện dưỡng lão, vẫn chưa được biết, theo một báo cáo của Asia-News.

6. Chương trình chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Kraków, Ba Lan

Hôm thứ Bảy 12 tháng Ba, tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh, Đức Cha Damian Muskus, phụ trách chung Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Kraków, đã mở cuộc họp báo công bố chương trình chi tiết chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Ba Lan trong dịp này.

Thứ Tư 27 Tháng 7, 2016

Chuyến tông du Ba Lan của Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ bắt đầu vào chiều ngày thứ Tư 27 Tháng 7 khi chiếc máy bay của ngài đáp xuống phi trường Kraków. Đức Thánh Cha Phanxicô ngay sau đó sẽ gặp gỡ với tổng thống Cộng hòa Ba Lan, các quan chức nhà nước và các Giám Mục Ba Lan.

Buổi tối cùng ngày - theo truyền thống được bắt đầu bởi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi đến thăm Kraków, và được nối tiếp bởi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 - Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ xuất hiện tại cửa sổ của phòng làm việc của Đức Tổng Giám Mục Kraków nhìn ra con đường Franciszkańska để nói chuyện với những người trẻ tuổi.

Đây sẽ là cuộc gặp gỡ đầu tiên của ngài với những người trẻ ở Kraków. Ban tổ chức hy vọng cuộc gặp gỡ buổi tối này sẽ thu hút đông đảo những người trẻ.

Thứ Năm 28 Tháng 7, 2016

Sáng thứ Năm ngày 28 tháng 7 sẽ được đánh dấu bằng một cuộc hành hương của Đức Thánh Cha đến đền thánh Jasna Góra dành để kính Đức Mẹ tại Częstochowa. Trên đường đi, Đức Thánh Cha sẽ đến thăm các nữ tu dòng Đức Mẹ Dâng Chúa Vào Đền Thánh và gặp gỡ các học sinh tại trường do các nữ tu điều hành. Tại Częstochowa, trong nhà nguyện Đức Mẹ Đen, Đức Thánh Cha sẽ cầu nguyện riêng một lúc. Sau đó, trên cánh đồng Jasna Góra, Đức Thánh Cha sẽ cử hành dịp 1050 năm Phép Rửa đầu tiên tại Ba Lan. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng, chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô tại đền thánh Jasna Góra xảy ra đúng vào dịp kỷ niệm 25 năm ngày Quốc Tế Giới Trẻ đáng nhớ tại Czestochowa khi cộng sản sụp đổ tan tành tại Đông Âu.

Buổi chiều, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chính thức có cuộc gặp gỡ với các bạn trẻ từ khắp nơi trên thế giới. Lễ chào đón Đức Thánh Cha sẽ bắt đầu lúc 05:30 chiều tại công viên Błonia. Địa điểm rộng 48 mẫu tây này, nằm sát bên trung tâm lịch sử của Kraków, được dùng cho lễ khai mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới diễn ra vào ngày thứ Ba 26 tháng 7, cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha và các bạn trẻ, và buổi đi Đàng Thánh Giá.

Chủ đề trong cuộc gặp gỡ này là một thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Hãy đến với Ngài và đừng sợ! Hãy đến với Ngài và nói từ sâu thẳm trái tim mình: ‘Lạy Chúa, con tin tưởng vào Chúa’. Hãy để mình được xúc động bởi lòng thương xót vô biên của Ngài”.

Trong cuộc gặp gỡ này các nhà soạn nhạc nổi tiếng sẽ lần lượt điều khiển một ca đoàn 300 ca viên và một dàn nhạc giao hưởng với hơn 100 nhạc công.

Thứ Sáu 29 Tháng 7, 2016

Buổi sáng thứ Sáu, 29 Tháng Bảy, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến thăm trại tập trung Auschwitz-Birkenau và ngài sẽ đọc một bài phát biểu quan trọng tại đây.

Đàng Thánh Giá Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới sẽ bắt đầu lúc 05:30 chiều tại Błonia do chính Đức Thánh Cha dẫn đầu. Mục đích của sự kiện quan trọng này là để cho những người trẻ ý thức về ý nghĩa của Thánh Giá trong bối cảnh của lòng thương xót. Các bài suy niệm các chặng Đàng Thánh Giá được viết bởi Đức Cha Grzegorz RYS là Giám Mục phụ tá của Kraków,

Chủ đề của buổi tối này là “Phúc thay ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương.” Đó cũng là chủ đề của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Kraków năm 2016.

Thứ Bẩy 30 Tháng 7, 2016

Vào sáng thứ Bảy, Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Đền Thánh Lòng Thương Xót Chúa tại Lagiewniki và nhà nguyện của nữ tu Faustina. Ngài sẽ đi qua các cửa ra Năm Thánh Lòng Thương Xót và cử hành Thánh Lễ với các linh mục, những người sống đời thánh hiến và các chủng sinh Ba Lan. Sau Thánh lễ, Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Thánh đường kính Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Tại đây, Đức Thánh Cha sẽ ngồi tòa giải tội cho những người trẻ bằng tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha và Pháp.

Buởi trưa, tại tòa Tổng Giám Mục Kraków, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ ăn trưa với 12 đại diện của những người trẻ từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có hai người Ba Lan.

Buổi chiều, lúc 07:30, Đức Thánh Cha sẽ khai mạc Đêm Canh Thức với giới trẻ tại Campus Misericordiae, nghĩa là Cánh Đồng Lòng Thương Xót. Địa điểm này nằm cách trung tâm thành phố Kraków 15km về hướng Đông Nam tại thị trấn Brzegi. Chủ đề chính trong cuộc gặp gỡ này là một câu trích từ Nhật ký của Thánh Faustina: “Nhân loại sẽ không có hòa bình cho đến khi nó biết hướng về Lòng Thương Xót với sự cậy trông.”.

Bàn thờ trong đêm Canh Thức được thiết kế bởi kiến trúc sư người Ba Lan Stanisław Niemczyck, được mệnh danh là “Gaudi của Ba Lan”. Nhà thờ Lòng Thương Xót tại Osiedle Oficerskie thuộc Kraków là một trong kiệt tác của ông.

Yếu tố quan trọng nhất trong đêm Canh Thức là buổi Chầu Thánh Thể. Buổi Canh Thức sẽ được kết thúc bằng một buổi hòa nhạc do Adam Sztaba điều khiển dựa trên Kinh Tin Kính.

Chúa Nhật ngày 31 tháng 7 năm 2016

Thánh Lễ bế mạc sẽ bắt đầu lúc 10h sáng tại Campus Misericordiae. Chủ đề chính trong thánh lễ này là Phép Rửa Tội, là bí tích liên kết tất cả chúng ta vào hàng con cái Chúa. Và với phẩm giá được làm con cái Chúa, chúng ta được sai đi đến với muôn dân.

Một câu trong Nhật Ký của Chị Faustina sẽ được coi là câu trích dành cho ngày hôm nay. “Nếu con muốn làm cho Cha luôn hạnh phúc, hãy nói với thế giới về lòng thương xót vĩ đại và không thể thấu hiểu hết của Cha.”

Trong Thánh lễ này, Đức Thánh Cha sẽ công bố nước tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần tới. Tác phẩm âm nhạc “Thánh Lễ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II” của Henryk Jan Betor sẽ được trình diễn. Đây là một kiệt tác âm nhạc được sáng tác đặc biệt cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới. Ban đầu tác phẩm được viết bằng tiếng Latin. Sau đó, bài hát này được dịch sang các ngôn ngữ khác. Tác phẩm này sẽ là một món quà từ Ba Lan cho thế giới, và hy vọng sẽ được hát lên sau Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại các giáo xứ trên toàn thế giới.

Trước khi Đức Thánh Cha rời Ba Lan, ngài sẽ gặp gỡ những người tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới - các tình nguyện viên từ khắp nơi trên thế giới, những người phục vụ trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới, và các tình nguyện viên dài hạn đã giúp đỡ trong vài tháng qua.

Ước tính khoảng 25,000 người trẻ tình nguyện làm việc toàn thời cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Kraków.

Lúc 6:15 lễ nghi từ biệt sẽ diễn ra tại sân bay Kraków.

7. Năm Thánh làm gia tăng số người xưng tội tại Đền Thờ Thánh Phêrô

Năm Thánh đưa nhiều người đến tòa giải tội trong đền thờ Thánh Phê rô hơn, Cha Rocco Rizzo dòng Phanxicô viện tu, trưởng nhóm các cha giải tội tại đền thờ Thánh Phêrô cho biết như thế.

Cha nói với báo Osservatore Romano rằng: “Số người xưng tội trong đền thờ thánh Phê rô gia tăng thấy rõ trong những tháng đầu của năm Thánh Thương xót, nhưng không phải giữa những người nói tiếng Anh, những người có lẽ vì sợ khủng bố nên tránh xa châu Âu”.

Cha cho biết là ngài đã giải tội cho khoảng 2000 người trong đền thờ Thánh Phê rô, kể từ ngày khai mạc Năm Thánh cho đến hết tháng 2, nhưng phần lớn các hối nhân là người Ý. Cha nghĩ là số người ngoại quốc ít đi là do những cảnh báo về khủng bố sau những vụ tấn công ở Paris vào tháng 11 năm ngoái. Đây là lý do các cha giải tội bằng tiếng Anh có ít người xưng tội hơn trong năm nay.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 10 tháng 3, Cha Rizzo cho báo Osservatore Romano biết, ngoài 14 cha Phanxi cô viện tu giải tội thường trực trong đền thờ, thì cũng có thêm 30 cha được gửi đến ngồi tòa trong Năm Thánh. Các cha sẽ giải tội hàng ngày, ban sáng từ 10 giờ sáng đến 1 giờ trưa, và ban chiều, vào mùa đông, từ 3 giờ 30 đến 6 giờ 30 chiều, còn mùa xuân và hè thì các ngài sẽ giải tội cho đến 7 giờ chiều. Ngoài các ngôn ngữ chính như: Ý, Tây ban nha, Anh, Pháp, Đức, Bồ đào nha, và Ba lan, cũng có một số cha có thể ban phép gỉai tội bằng tiếng Hoa, Malta và Cro-át

Cha Rizzo thường giải tội cho khoảng 20 đến 30 người một ngày bằng tiếng Ý và Tây ban nha, nhưng vào dịp cuối tuần thứ 7 và Chúa Nhật, số người đến xưng tội thường tăng lên, và Cha sẽ nghe khoảng 50 người xưng tội.

Cha cũng nói về một hiện tượng đang gia tăng là số người không Công Giáo đến xưng tội. Họ muốn xưng tội để xem nó như thế nào. Cha nói: “Các vị giải tội có thể lắng nghe và khuyên nhủ những người không Công Giáo, nhưng những trường hợp đó không được coi là bí tích giải tội.”

Theo Cha, ngay cả các khách du lich hay nhũng người hành hương Công Giáo thăm viếng đền thờ thánh Phê rô cũng không quen với việc lãnh nhận bí tích hòa giải. Nhiều người trẻ cho biết họ đã không xưng tội từ khi họ rước lễ lần đầu. Cha kể: “Cha đã giải tội cho những ngườì đã phạm tội trọng cách đây 30 hay 40 năm, bây giờ họ nghe những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô và muốn hòa giải với Chúa. Đặc biệt, có những phụ nữ đã từng phá thai, đến xưng tội với Cha. Họ mang vết thương không bao giờ lành nên dù đã xưng tội đó rồi họ vẫn muốn xưng tội lại.”

Trong năm Lòng Thương xót, cha Rizzo và các cha giải tội ở đền thờ thánh Phê rô và các đền thờ lớn ở Roma được ban năng quyền đặc biệt, có thể ban phép giải tội cho cả những trường hợp như phá thai, điều mà bình thường cần tham vấn Giám mục địa phương, hay có khi là Vatican.

Cha Rizzo cho biết thêm: “có một điều thay đổi nữa trong năm Lòng Thương xót, đó là trong phần đền tội, nhiều cha giải tội tại đền thờ đã yêu cầu các hối nhân thể hiện sự thống hối của họ bằng một việc làm cụ thể, thay vì đọc kinh. Các việc làm này có thể là thăm viếng người đau yếu, đi chợ cho người già, trả bill cho những người không có tiền, hoặc là giúp ai đó đi đến nhà thờ.”

8. Đại diện Tòa Thánh tại LHQ kêu gọi tôn trọng quyền sức khỏe

Đại diện Tòa Thánh cạnh các tổ chức LHQ ở Genève, Đức Ông Richard Gyhra, kêu gọi đừng đặt những lợi lộc kinh tế lên trên hết đến độ không còn tôn trọng quyền của dân nghèo được săn sóc sức khỏe.

Đức ông Gyhra hiện xử lý thường vụ Phái bộ quan sát thường trực của Tòa Thánh ở LHQ, Genève. Trong bài tham luận hôm 10-3-2016, ngài kêu gọi tôn trọng quyền sức khỏe của con người như được nhìn nhận trong tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, và đừng chấp nhận một sự kỳ thị nào trong việc cung cấp những dịch vụ sức khỏe, trong đó có việc cung cấp những thuốc men thiết yếu, phân phối công bình các dịch vụ y tế và chấp nhận các chiến lược quốc gia để phòng ngừa và bài trừ bệnh Sida (Aids).

Đức Ông Gyhra nhận xét rằng mặc dù bao nhiêu sáng kiến tích cực đã được thi hành trong 10 năm gần đây để chấm dứt bệnh dịch Sida, nhưng vẫn còn rất nhiều điều cần làm. Trong số các thách đố chính, có thách đố không coi lợi lộc kinh tế do thuốc men và các dụng cụ chẩn bệnh mang lại như một ưu tiên, để tránh tình trạng giá thuốc men quá cao khiến các bệnh nhân không thể mua nổi.

Đức Ông Gyhra nhận xét rằng trong hơn 30 năm, bệnh Sida đã gây ra chết chóc và đau khổ khôn tả cho hàng triệu trẻ em và người lớn, và khiến cho hàng triệu trẻ em mồ côi, đưa các gia đình và cộng đoàn đến tình trạng sụp đổ về mặt xã hội, kinh tế và cảm xúc.

Sau cùng Đức Ông Gyhra kết thúc bài tham luận với lời Đức Thánh Cha Phanxicô tại Trụ sở LHQ ở Nairobi, Kenya ngày 26-11-2015: “Sự lệ thuộc lẫn nhau và hội nhập các nền kinh tế không được gây thiệt hại nào cho hệ thống y tế và bảo vệ xã hội hiện nay, trái lại, nó phải tạo điều kiện dễ dàng cho sự thiết lập và điều hành các hệ thống ấy. Một số vấn đề y tế đòi các giới chức chính trị ưu tiên lưu tâm, vượt lên trên bất kỳ lợi lộc thương mại hoặc chính trị nào.

9. Chính Thống Giáo Mạc Tư Khoa phàn nàn những dị biệt vẫn còn

Chủ tịch ủy ban đại kết của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa nhận xét rằng: “bất chấp cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Thượng Phụ Kirill, vẫn còn những khác biệt nghiêm trọng giữa Tòa Thánh và Giáo Hội Chính Thống Nga.”

Tổng Giám Mục Hilarion nói rằng Mạc Tư Khoa và Rome đã đến gần với nhau trên “nhiều vấn đề quan trọng của tính hiện đại”, nhưng vẫn bị chia cách bởi những bất đồng về các vấn đề khác. Ngài đặc biệt trưng dẫn trường hợp Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, và nói rằng căng thẳng về điểm này “một lần nữa phá hỏng nỗ lực để thiết lập đối thoại, để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và để mang chúng ta lại với nhau.”

Các nhà lãnh đạo Chính thống giáo Nga thường phàn nàn rằng Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương đã “chiếm” các nhà thờ của Chính Thống Giáo Ukraine vào đầu những năm 1990.

Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa chưa bao giờ thừa nhận rằng các nhà thờ này đã từng thuộc về Giáo Hội Công Giáo, nhưng đã bị tịch thu bởi chính phủ cộng sản, và chuyển cho các giáo sĩ Chính Thống ngoan ngoãn hơn.

10. Bề Trên Tổng quyền Hội Thừa Sai Paris được bổ nhiệm làm Giám Mục

Hôm 9 tháng Ba, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm cha Georges Colomb, Bề trên tổng quyền Hội thừa sai Paris, làm tân Giám Mục giáo phận La Rochelle bên Pháp.

Cha Georges Colomb năm nay 63 tuổi, đã học về quản trị khách sạn và quản trị kinh tế và xã hội ở Strabourg, rồi đậu tiến sĩ dân luật năm 1978 ở đại học Jean Moulin ở Lyon, sau đó từ năm 1979 làm thanh tra bưu diện, cho đến khi gia nhập chủng viện thuộc Đại học Công Giáo Paris.

Cha Colomb thụ phong linh mục năm 1987 thuộc hội thừa sai Paris, rồi theo học tại Đại học Công Giáo Paris từ 1987 đến 1988, đậu cử nhân thần học. Sau đó Cha học tiếng Hoa tại Đài Loan, rồi làm giáo sư Pháp ngữ ở Côn Minh và Đại Liên bên Trung Quốc. Từ năm 1998 đến 2004, cha làm phụ tá Bề trên Tổng quyền và sau đó làm tổng đại diện, trước khi làm Bề trên tổng quyền Hội thừa sai Paris từ năm 2010.

Hội Thừa Sai Paris đã giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam và vẫn trợ giúp Giáo Hội này, đặc biệt trong việc giúp học bổng cho nhiều Linh mục Việt Nam theo học tại Pháp.

Theo niên giám 2016 của Tòa Thánh, Hội Thừa Sai Paris hiện còn 229 thành viên, trong đó có 204 linh mục, hoạt động tại 14 nhà.

Giáo phận La Rochelle nơi Đức Cha George Colomb được bổ nhiệm coi sóc có gần 400 ngàn tín hữu Công Giáo.

11. 3 năm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô qua các con số

Nhân dịp kỷ niệm 3 năm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô, mạng internet “Sismografo” ở Italia đã làm tổng kết hoạt động của ngài qua các con số:

Tổng cộng trong hơn 1 ngàn ngày, ngài đã đọc 628 bài diễn văn và 180 bài giảng, công bố 153 sứ điệp, cử hành 382 thánh lễ tại nguyện đường Nhà Trọ Thánh Martha, trong số này con số thánh lễ trong năm ngoái giảm bớt nhiều so với 2 năm trước đó.

Đức Thánh Cha đã thực hiện 124 buổi tiếp kiến chung và tiếp kiến dịp Năm Thánh, ngài chủ sự 168 buổi đọc kinh Truyền tin với các tín hữu tại Roma và các nơi khác, thực hiện 11 chuyến viếng thăm tại Italia và 12 lần viếng thăm tại hải ngoại với gần 2 tháng ở nước ngoài và di chuyển 152 ngàn cây số tức là gần 4 vòng trái đất.

Ngoài Tông Sắc “Khuôn mặt thương xót” (Misiricordiae Vultus) ấn định Năm Thánh ngoại thường, Đức Thánh Cha đã công bố hai thông điệp “Lumen Fidei”, Ánh sáng đức tin, và Laudato sí, Chúc tụng Chúa, một tông huấn Evangelii Gaudium, “Niềm Vui Phúc Âm”. Ngoài ra, Đức Thánh Cha công bố 15 Tông Hiến, 101 thư và 29 Tông thư, 9 Tự Sắc và khoảng 20 kinh nguyện

Để kỷ niệm 3 năm Giáo Hoàng, chiều Chúa Nhật 13 tháng Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dùng bữa với những người vô gia cư tại nhà thờ thánh Lorenzo chỉ cách Vatican 50 mét.

Thánh đường này ở cạnh trung tâm giới trẻ quốc tế, là nơi giữ bản gốc Thánh Giá giới trẻ mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 trao cho giới trẻ nhân dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ lần đầu tiên cử hành cách đây 33 năm (1983).

Bữa ăn tối của Đức Thánh Cha với những người vô gia cư ở khu vực Vatican đã kết thúc sáng kiến “cầu nguyện đường trường 24 tiếng đồng hồ” được khởi xướng để cảm tạ Chúa vì 3 năm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô, đồng thời xin Chúa chúc lành cho bản thân và sứ vụ của Người.

Cuộc cầu nguyện này sẽ được khởi sự lúc 10 giờ tối thứ bẩy, 12-3, với việc Chầu Mình Thánh Chúa và thánh lễ trọng thể lúc 11 giờ đêm. Trưa Chúa Nhật 13-3, các tín hữu đã tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha tại Quảng trường Thánh Phêrô và lúc 2 giờ chiều Chúa Nhật này, có buổi đọc kinh Mân Côi của các trẻ em. Nhiều phong trào và hội đoàn đã đăng ký thay phiên nhau tham gia các giờ cầu nguyện với thánh ca và phần linh hoạt phụng vụ.

12. Bài tĩnh tâm Mùa Chay thứ Tư dành cho giáo triều Rôma của cha Raniero Cantalamessa

Trong bài tĩnh tâm Mùa Chay thứ Tư dành cho giáo triều Rôma hôm thứ Sáu 11 tháng Ba, Đức Thánh Cha Phanxicô và các thành viên trong Giáo triều đã suy tư trên Hiến Chế Mục Vụ “Gaudium et Spes”, nghĩa là Về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay.

Hiến Chế Mục Vụ “Về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay” có mục đích chính là “trình bày sự hiện diện và sinh hoạt của Giáo Hội trong thế giới”

Trong này có lẽ chưa bao giờ Giáo Hội đã nhận thấy cần phải tìm hiểu xã hội loài người chung quanh để tới gần nó, tôn trọng nó một cách chính đáng, nhập vào nó, phục vụ và trao cho nó sứ điệp Phúc Âm. Công Ðồng Vatican II cảm thấy rằng đó là việc khẩn cấp trong thời đại chúng ta.

Cha Raniero Cantalamessa dòng Capuchin Phanxicô, giảng thuyết viên phủ Giáo Hoàng, đã tập trung vào những chỉ dẫn của Hiến Chế này đối với hôn nhân và gia đình.

Phát biểu về các thành viên trong Giáo triều, Cha Raniero Cantalamessa nhận xét rằng các vị đang nghe ngài nói không sống trong đời sống hôn nhân. Tuy nhiên, dù thế thật là quan trọng là các vị nhận biết và hiểu những thách thức mà các cặp vợ chồng và các gia đình phải đối mặt trong thế giới hiện đại.

Sau khi xem xét kế hoạch của Thiên Chúa dành cho hôn nhân như được tìm thấy trong Kinh Thánh, và khào sát thực tế đời sống hôn nhân hiện nay, Cha Cantalamessa đề xuất rằng kế hoạch Thiên Chúa dành cho hôn nhân phải là một lý tưởng cần được các Kitô hữu tái khám phá. Ngài lập luận rằng các Kitô tiên khởi đã thay đổi luật pháp dân sự liên quan đến hôn nhân bằng những thực hành tốt đẹp trong đời sống của họ; và chúng ta cũng phải giới thiệu lại với thế giới sự thật về hôn nhân bằng những gương sáng của chúng ta.

Cha Cantalamessa đã kết luận bài giảng của mình bằng cách quan sát rằng những người sống đời thánh hiến và những người sống bậc vợ chồng có thể giúp đỡ lẫn nhau hiểu kế hoạch của Thiên Chúa cho nhân loại.

Ngài nói rằng “Trong các cộng đồng Kitô hữu, người thánh hiến và người có gia đình có khả năng ‘gây dựng lẫn nhau’. Những cặp vợ chồng được nhắc nhở bởi những người thánh hiến về sự ưu việt của Thiên Chúa và về những gì là vĩnh cửu, họ được giới thiệu để biết yêu mến Lời Chúa bởi những người có khả năng phân tích cho anh chị em giáo dân hiểu sâu sắc hơn. Nhưng người thánh hiến cũng có thể học một cái gì đó từ những người đã lập gia đình về sự quảng đại, tự quên mình, phục vụ sự sống, và những yếu tố ‘nhân bản’ đến từ sự tham gia của họ vào thực tế khó khăn của cuộc sống.”

13. Phúc trình mới nhất nhấn mạnh: bọn khủng bố Hồi Giáo IS phạm tội diệt chủng chống các Kitô hữu

Ngày 10 tháng Ba hôm qua, một phúc trình của hai tổ chức Kitô Giáo có trụ sở tại Hoa Kỳ quả quyết cần phải kể các Kitô hữu Iraq, Syria và Libya vào số các nạn nhân của nạn diệt chủng do ISIS chủ trương.

Phúc trình dầy 278 trang của Hội Hiệp Sĩ Columbus hợp tác với cơ sở “Để Bảo Vệ Các Kitô Hữu”, một cơ quan nghiên cứu và vận động nhằm bảo vệ các Kitô hữu Trung Đông.

Tháng Mười năm ngoái, các viên chức của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gợi ý cho rằng hạn từ “diệt chủng” có thể qui cho bọn khủng bố Hồi Giáo IS, nhưng chỉ áp dụng trong trường hợp thiểu số Yazidi, chứ không phải các Kitô hữu, khiến nhiều nhóm tôn giáo, vận động nhân quyền, và nhiều lực lượng chính trị khác lên tiếng phản đối.

Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng cho rằng các Kitô hữu ít bị nguy hiểm hơn các nhóm khác vì họ có thể đóng thuế tôn giáo theo luật Hồi Giáo có tên là jizya.

Trích dẫn các chuyên viên như học giả chuyên về Trung Đông Alberto Fernandez, phúc trình cho rằng trên thực tế, sắc thuế mà ISIS đòi đóng chỉ là “một trò quảng cáo giât gân”, chứ không phải là một hình thức bảo vệ của luật pháp, và việc thu thứ thuế này thường là khúc dạo đầu cho nhiều hình thức “tống tiền và bạo lực” khác.

Bản tóm tắt của luật sư gửi cho Bộ Trưởng Ngoại Giao John F. Kerry yêu cầu ông này áp dụng hạn từ “diệt chủng” vào các hành động của ISIS. Báo cáo viết: “Nếu Syria và các phần khác của Iraq rơi vào tay bọn khủng bố Hồi Giáo IS, các thế hệ tương lai sẽ thắc mắc tại sao đáng lý ra ông có thể gọi các hành động này bằng tên riêng của chúng là ‘diệt chủng’, nhưng ông đã không làm thế”.

14. Đức Thánh Cha kêu gọi các chức sắc tòa án thi hành luật mới

Đức Thánh Cha kêu gọi các chức sắc và nhân viên tòa án của Giáo Hội đón nhận và đào sâu qui luật mới về việc giải hôn phối.

Sáng 12 tháng Ba, ngài đã tiếp kiến 400 tham dự viên khóa học do Tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma tổ chức về việc áp dụng hai tự sắc mới của Đức Thánh Cha ban hành ngày 15-8 năm 2015 về việc đơn giản hóa thủ tục cứu xét tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Đặc điểm nổi bật trong luật mới là chỉ cần một phán quyết thay vì hai phán quyết của hai cấp tòa án khác nhau để một hôn phối được xác nhận là vô hiệu. Ngoài ra có thủ tục vắn để giải hôn phối, trong đó vai trò của Giám Mục giáo phận được đề cao như vị thẩm phán xét xử.

Đức Thánh Cha nói: “Điều quan trọng là qui luật mới được những chức sắc của các tòa án Giáo Hội đặc biệt đón nhận và đào sâu, trong thực chất và tinh thần, để phục vụ công lý và bác ái cho các gia đình. Đối với bao nhiêu người, đã sống kinh nghiệm hôn phối bất hạnh, việc kiểm chứng xem hôn phối có hiệu lực hay không, đó là một khả thể quan trọng; và những người này cần được giúp đỡ để tiến hành trên con đường này một cách mau lẹ và dễ dàng bao nhiêu có thể. Và đây chính là giá trị của khóa học mà anh chị em đã tham dự. Tôi khuyến khích anh chị em tận dụng những gì đã học trong những ngày nay, và luôn nghĩ đến phần rỗi các linh hồn là qui luật tối thượng của Giáo Hội”.