Ngày 08-02-2017
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Giáo phận Albany đòi công bằng xã hội cho 120,000 lao động nông nghiệp ở bang New York
Nguyễn Long Thao
13:05 08/02/2017
Giáo phận Albany đòi công bằng xã hội cho 120,000 lao động nông nghiệp ở bang New York

Albany (Agenzia Fides) - Trong một cuộc họp báo được tổ chức ngày hôm qua tại tòa nhà lập pháp ở Albany, thủ phủ tiểu bang New York, Đức Giám Mục Edward B. Scharfenberger thuộc giáo phận Albany đã cùng với nhiều nhà lập pháp tiểu bang và công nhân nông nghiệp yêu cầu quốc hội tiểu bang New York chấp thuận luật căn bản bảo đảm công nhân nông nghiệp được hưởng những quyền lợi căn bản giống như tất cả các công nhân khác tại Hoa Kỳ.

Đức Cha Scharfenberger cho biết mình là con và là cháu của người nhập cư. Ngài cho biết Ngài thuộc về gia đình vừa làm nông vừa làm công nhân; Cha của ngài là chủ tiệm nhỏ, chú của ngài là một nông dân. Ngài giải thích: đạo lý của Giáo Hội cũng giống như đạo lý căn bản của loài người. Do vậy, tôi kêu gọi hãy đối xử với những công nhân làm nông nghiệp giống như các công nhân khác của tiểu bang New York, nghiã là họ phải được tông trọng nhân phẩm vì họ cũng là con người. Họ phải được bảo vệ y như là những công nhân khác của tiểu bang New York.

Nguồn tin địa phương cho cơ quan truyền thông Fides biết công nhân nông nghiệp rất cần thiết cho việc sản xuất lương thực ở ngay tại khu vực mà kinh tế thương mại rất phồn vinh như tại New York.

Chỉ nguyên ở Albany có tất cả 3500 nông trại, với 587,000 mẫu đất được 120,000 công nhân chăm lo cầy cấy. Trung bình một người làm 5 mẫu đất.

Mùa Xuân năm ngoái các công nhân nông nghiệp, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các nhà hoạt động cho cộng đồng đã vượt quãng đường 200 dặm đi từ Smithtown, Long Island đên thử phủ Albany để lôi kéo xự chú ý của quần chúng về số phận công nhân nông nghiệp. Cuộc tuần hành đã đến biểu tình trước Tòa Nhà Quốc Hội Hoa Kỳ trong đó có sự tham dự của Đức Hồng Y Timothy Dolan và Đức Giám Mục Scharfenberger.

Được biết hiện nay ở Albany có khoảng 120,000 công nhân nông nghiệp, làm việc từ 60 đến 80 giờ một tuần mà không có ngày nghỉ, không được trả lương khi nghỉ bệnh và làm thêm giờ không được trả lương phụ trội.

Nguyễn Long Thao
 
ĐGH kêu gọi cầu nguyện cho người Hồi Giáo Rohingya ở Miến Điện
Xavier Nguyễn Đông
19:08 08/02/2017


Đức Thánh Cha Phanxicô hôm thứ Tư đã kêu gọi cầu nguyện cho người Rohingya, là nhóm thiểu số Hồi giáo đang bị đàn áp ở Myanmar (Miến Điện).

Lời kêu gọi được đưa ra trước một cử toạ 7000 người tại Hội trường Th. Phaolô VI, Đức Thánh Cha kêu gọi khách hành hương cầu nguyện với Ngài "cho những anh chị em Rohingya của chúng ta đang bị truy đuổi ở Myanmar và đang phải chạy trốn từ nơi này qua nơi khác vì không ai muốn nhận họ."

"Họ là những người tốt, họ không phải là Kitô hữu, họ là những người ôn hòa, họ đều là anh chị em của chúng ta, và trong nhiều năm họ đã bị đau khổ. Họ bị tra tấn và giết hại, đơn giản chỉ vì họ nêu cao đức tin Hồi giáo của họ ", ĐGH nói.

Đức Thánh Cha cũng đánh dấu "Ngày Quốc tế cầu nguyện và nhận thức về nạn buôn bán người" bằng cách kêu gọi các chính phủ phải làm nhiều hơn để chống nạn buôn người trên thế giới, đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên.

"Tôi kêu gọi tất cả những bậc hữu trách trong các chính phủ hãy cứng rắn chống lại tai họa này, hãy nâng cao tiếng nói và phẩm giá cuả những anh chị em bị thương tổn. Hãy dồn mọi nỗ lực để diệt trừ tội phạm đáng xấu hổ và không thể chấp nhận này, " Ngài nói.

Một báo cáo hôm Thứ Sáu của Liên Hợp Quốc đã tố cáo các lực lượng an ninh cuả Myanmar lạm dụng nghiêm trọng chống lại người Rohingya, bao gồm bạo lực tình dục, đánh đập và sát hại trẻ em.

Báo cáo cuả LHQ dựa vào cuộc phỏng vấn hơn 200 người tị nạn Rohingya, đã chạy trốn Myanmar tới Bangladesh.

Cao ủy Nhân quyền Zeid Ra'ad Al Hussein cuả Liên Hiệp Quốc cho biết: "Tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế, với tất cả sức mạnh của mình, tham gia cùng tôi trong việc kêu gọi các nhà lãnh đạo ở Myanmar hãy kết thúc các hoạt động quân sự như vậy."

Có khoảng 1,1 triệu người Rohingya sống ở miền tây bắc Myanmar, nhưng họ không được coi là công dân. Đa số người Miến Điện theo Phật giáo xem họ như là những người nhập cư bất hợp pháp từ Bangladesh, ngay cả khi họ đã có gốc sinh sống ở Miến Điện từ nhiều thế hệ trước.
 
Hội Đồng Giám Mục kennya kêu gọi cứu trợ hạn hán.
Moses Trương Võ
19:27 08/02/2017

Nairobi (Agenzia Fides 2017/08/02) - "Hạn hán phải được tuyên bố là một thảm họa quốc gia". Là lời kêu gọi của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Kenya (KCCB), được công bố qua vị Chủ tịch cuả Hội Đồng là Đức Cha Philip Anyolo, Giám Mục giaó phận Homa Bay.

"Chúng tôi phải hối thúc Chính phủ đưa ra lời tuyên bố trên là để cho cộng đồng quốc tế có thể bước về phía trước mà hỗ trợ người Kenya đang bị lâm vào tình trạng khó khăn này", Đức Cha Anyolo nói như trên tại cuộc họp báo ở Nairobi.

Theo KCCB thì có tới 2,4 triệu người Kenya đang cần giúp đỡ khẩn trương. Trong cuộc họp báo, ngoài Đức Cha. Anyolo còn có Đức Cha Martin Kivuva Musonde, Tổng Giám Mục cuả Mombasa, Đức Cha Cornelius Korir, Giám Mục cuả Eldoret, Đức Cha Anthony Muheria, Giám Mục cuả Kitui, Đức Cha Joseph Mbatia, Giám Mục cuả Nyahururu. Tất cả các vị Giám Mục đều lưu ý rằng báo cáo từ các giáo phận và giáo xứ trong nước cho thấy có nhiều đau khổ, tuyệt vọng, mất mát và sự sống bị đe dọa.

"Mặc dù Chính phủ Kenya, Hội Hồng Thập Tự và các nhóm từ thiện khác đã thực hiện nhiều biện pháp giúp đỡ khác nhau, những vẫn không đủ vì số lượng các gia đình bị ảnh hưởng là rất lớn. Chúng tôi đang ở bờ vực một nạn đói, một thảm họa sắp đổ xuống", các giám mục cho biết và kêu gọi hành động tới tất cả các Giáo Hội và các nhóm xã hội.

Các quận bị nạn hạn hán ảnh hưởng nhiều nhất là: Garissa, Isiolo, Marsabit, Kilifi, Kwale, sông Tana, Lamu, Mandera, Wajir, Samburu, Turkana, West Pokot và Baringo.
 
Đức Phanxicô bình thản khi nghe có những bích chương phản đối ngài tại Rôma
Vũ Văn An
23:26 08/02/2017
Theo tin ngày 6 tháng Hai của CNA/EWTN News, Đức Phanxicô tỏ ra bình thản khi được tường trình rằng chung quanh thành phố Rôma đã có các bích chương phản đối ngài.

Thực vậy, thứ Bẩy tuần rồi, trên nhiều bức tường khắp trong thành phố Rôma, đã xuất hiện chừng 200 bích chương phản đối ngài. Nhưng khi nghe tin ấy, Đức Phanxicô không tỏ ra lúng túng chi và không lưu ý bao nhiêu tới biến cố này. Hãng tin Ý ANSA cho hay: ngài tiếp nhận tin này “một cách bình thản và thờ ơ”.

Với bức hình Đức Phanxicô nghiêm nghị, các bích chương này viết: “Ôi Đức Phanxicô, ngài đã qua mặt các thánh bộ, tống khứ các linh mục, xử trảm Hội Hiệp Sĩ Malta và Dòng Phanxicô Vô Nhiễm, phớt lờ các vị Hồng Y… nhưng lòng thương xót của ngài ở đâu?”

Chỉ sau một thời gian ngắn, nhiều bích chương này đã bị bôi bỏ với hàng chữ “bích chương lăng mạ”. Qua sáng Chúa Nhật, đa số các bích chương này đã bị gỡ bỏ và đến sáng thứ Hai, thì không còn tấm nào nữa.

Câu vắn vỏi trên các bích chương được viết bằng tiếng “Romanaccio”, một thổ ngữ của Rôma, cho thấy nhóm chủ trương là một nhóm ở địa phương. Còn nếu căn cứ vào nội dung, thì nhóm này hẳn thuộc phe bảo thủ, những người xưa nay không đồng ý với nhiều quyết định và đường lối cải tổ của Đức Phanxicô.

Khi nói Đức Giáo Hoàng “xử trảm Hội Hiệp Sĩ Malta”, nhóm chủ trương có ý nói đến vụ gần đây Đức Phanxicô yêu cầu người đứng đầu hội (Grand Master) là Hiệp Sĩ Matthew Festing (người Anh) từ chức và cho người đứng thứ ba (Grand Chancellor) là Albrecht Freiherr von Boeselager (người Đức) được phục chức, một người từng bị người đứng đầu bãi chức. Còn câu nói về việc qua mặt các thánh bộ và tống khứ các linh mục có lẽ muốn nhắc đến các tố cáo gần đây cho rằng Đức Phanxicô sa thải 3 linh mục khỏi Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin mà không thông báo cũng như cho biết lý do. Câu làm ngơ các vị Hồng Y thì rõ ràng ám chỉ lá thư viết hồi tháng Chín của 4 vị Hồng Y yêu cầu ngài làm sáng tỏ 5 điều “hoài nghi” về tông huấn “Amoris Laetitia”. Lá thư này, qua tháng Muời Một, đã được công bố sau khi Đức Phanxicô từ chối trả lời.

Lá thư trên được ký tên bởi Đức Hồng Y Raymond Burke (Người Mỹ), Người Bảo Trợ Hội Hiệp Sĩ Malta, hai Đức Hồng Y người Đức Walter Brandmüller và Joachim Meisner, và Đức Hồng Y người Ý Carlo Caffarra. Tất cả các vị này được nhiều người coi thuộc phe bảo thủ.

Câu nói đến Dòng Phanxicô Vô Nhiễm là có ý nói tới sự kiện: ở đầu triều đại của ngài, Đức Phanxicô đã thực hiện một số thay đổi đối với Dòng này, bằng cách hạn chế việc họ cử hành Thánh Lễ bằng tiếng Latinh vốn được cử hành trước thời Công Đồng Vatican II.

Tuy nhiên, dù việc Đức Giáo Hoàng không bận tâm tới các bích chương có thể làm nhiều người ngạc nhiên, nhưng hồi tháng Mười Một, khi trả lời cuộc phỏng vấn của tờ báo Ý Avvenire, ngài từng nói rằng ngài không hề mất ngủ vì các lời chỉ trích. Trước đó, nhiều lần, ngài cho hay: phản kháng là điều bình thường trong bất cứ cuộc cải tổ nào.

Rồi hồi tháng Mười Hai, trong một bài diễn văn dài trước Giáo Triều, ngài liệt kê ba loại phản kháng và cho hay hiện tượng này “bình thường (và) thậm chí lành mạnh nữa”.

Ngài nói tới “việc phản kháng công khai” thường phát sinh từ “thiện chí và đối thoại thành thực”, nhưng cho hay còn có loại “phản kháng dấu mặt” phát sinh từ “các tâm hồn sợ sệt hay tê cứng tự bằng lòng với sáo ngữ rỗng tuếch về một cuộc cải tổ tinh thần đầy tự mãn”.

Đó là những người “miệng thì nói sẵn sàng thay đổi, nhưng (lòng thì) muốn mọi sự cứ y nguyên như trước”.

Tuy vậy, Đức Giáo Hoàng cũng cho biết loại phản kháng thứ ba mà ngài gọi là “phản kháng ác ý, thường phát sinh từ các tâm trí bị hướng dẫn sai và xuất hiện khi ma qủy gợi hứng các ý xấu”. Ngài bảo loại phản kháng này thường “ẩn phía sau các lời lẽ tự biện minh mình và thường tố cáo (người khác); nó nấp mình trong truyền thống, vẻ bề ngoài, các hính thức trịnh trọng, trong những điều quen thuộc, hoặc trong ý muốn biến mọi sự thành bản vị, mà không phân biệt giữa hành vi, người làm hành vi và hành động”.

Ngài cũng nói rằng không phản ứng “là dấu chỉ sự chết” và vì thế, “các phản kháng tốt, và cả các phản kháng không mấy tốt, đều cần thiết và đáng được lắng nghe, hoan nghênh và khuyến khích để tự nói ra”.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Đọc ''Amoris Laetitia'' theo lối giải thích liên tục sẽ thấy không có thay đổi về tín lý
Vũ Văn An
00:08 08/02/2017
Linh mục Matthew Schneider, người từng viết cả một cuốn “Study Guice” về Tông Huấn "Amoris Laetitia", mới đây viết trên tạp chí Crux, quả quyết rằng nếu đọc tông huấn này theo lối giải thích liên tục (hermeneutic of continuity), thì không hề có thay đổi nào về tín lý đối với các bí tích hôn nhân, hòa giải và Thánh Thể.

Cha cho rằng từ ngày tông huấn được ban hành (tháng Tư, 2016) cho tới nay, rất nhiều cuộc tranh luận đã nổ ra trong Giáo Hội. Bên bênh cũng như bên chống, ít nhất trong thế giới nói tiếng Anh, đều đồng ý cho rằng tông huấn này cho phép người ly dị và tái hôn dân sự được rước lễ trong một số hoàn cảnh. Họ chỉ tranh luận xem điều này tốt hay xấu mà thôi.

Tuy nhiên, nếu ta đọc nó theo cách phải đọc một văn kiện giáo hoàng, nghĩa là nghiền ngẫm trọn bản văn trong ngữ cảnh truyền thống Giáo Hội, thì trọn tiền đề của cuộc tranh luận trên hoàn toàn sai lạc, nghĩa là, Đức Giáo Hoàng Phanxicô không hề mở cửa cho những người nói trên rước lễ.

Ai cũng biết, thuật ngữ “giải thích liên tục”, được Đức Bênêđíctô XVI sử dụng, có ý nói tới cách đọc trọn vẹn và trong truyền thống Giáo Hội một văn kiện huấn quyền. Còn Đức Hồng Y Gerhard Müller, Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, thì cho rằng chỉ có một cách đọc duy nhất đúng đối với "Amoris Laetitia" là cách đọc theo lối giải thích này mà thôi.

Nhưng trước khi đi vào chi tiết, Cha Schneider cho rằng cần phải có một phân biệt chủ yếu sau đây: có một sự khác biệt quan trọng giữa những người hiểu giáo huấn của Giáo Hội mà vẫn quyết định dấn thân vào các liên hệ tính dục trong cuộc hôn nhân thứ hai, và những người không sống theo giáo huấn của Giáo Hội hoặc vì không biết (ignorance) hay vì yếu đuối.

Theo Cha Schneider, Đức Giáo Hoàng Phanxicô xem ra đã đề cập tới sự phân biệt trên một cách rõ ràng hơn các vị giáo hoàng trước đây. Và trọng điểm ở đây là: trái với ý kiến phổ biến, bản văn của "Amoris Laetitia" không cho phép những người trắng trợn hay cố ý có các liên hệ giống như vợ chồng trong “cuộc hôn nhân thứ hai” được xá tội hay rước lễ.

Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh tới lòng thương xót đối với những người hoặc vì không biết hoặc có ý định tiết dục để sống như anh trai em gái nhưng thỉnh thoảng không giữ được ý định này (yếu đuối).

Rào trước đón sau như thế rồi, Cha Schneider cho hay ngài sẽ dựa vào các điều trong bản văn của "Amoris Laetitia" để trình bầy cái nhìn của ngài.

1. Đoạn 300: Trước nhất, Đức Phanxicô nói rõ ràng rằng ngài không có ý đưa ra các qui định mới. “Không ai chờ mong cả Thượng Hội Đồng Giám Mục lẫn văn kiện này đưa ra một số luật lệ tổng quát, có bản chất giáo luật và áp dụng cho mọi trường hợp”. Ngay khi nói đến việc phải từ từ tỏ cho các cặp “vợ chồng” thấy thực tại tội lỗi của họ, Đức Phanxicô cũng vẫn cho rằng “sự biện phân không bao giờ có thể không xét đến các đòi hỏi của Tin Mừng như đã được Giáo Hội đề ra”.

Như thế, bất chấp những gì ngài nói sau đó về biện phân, ngài đã dựng giáo huấn hiện thời của Giáo Hội thành hàng rào quanh điều có thể được biện phân. Biện phân là một diễn trình quyết định phải làm gì về thiêng liêng, như có nên đọc kinh Mân Côi hay Kinh Thần Vụ hàng ngày hay không, nhưng một điều kiện căn bản phải có trước khi biện phân là không thể chọn một điều gì đó ở bên ngoài giáo huấn của Giáo Hội.

Mà giáo huấn của Giáo Hội thì rất rõ ràng nói rằng: việc xá tội trong bí tích và do đó việc Hiệp Lễ không thể nào trao ban cho những người có ý định phạm thêm các tội trọng.Thường thường ta cho rằng ai tới xưng tội đều không ương ngạnh muốn phạm thêm nhiều tội trọng, nhưng nếu vị linh mục biết họ có ý định như thế, ngài sẽ không xá tội cho họ.

Điều trên khác với sự yếu đuối. Trong tòa giải tội, linh mục có thể tha cho một hối nhân tội say sưa rượu chè, dù cả ngài lẫn hối nhân đều biết người này rất có thể sa ngã trở lại; nhưng ngài không thể xá tội cho anh ta nếu anh ta bảo ngài rằng anh ta sẽ say sưa trở lại vào cuối tuần này. "Amoris Laetitia" nói tới tội chuyên biệt làm tình với một người tuy là người phối ngẫu của mình theo dân luật nhưng không phải là người phối ngẫu của mình theo bí tích.

Đoạn 307: tại đoạn này, Đức Giáo Hoàng nhắc lại một lần nữa rằng “Không thể nào Giáo Hội lại bác bỏ việc đề xuất lý tưởng trọn vẹn của hôn nhân, tức kế hoạch của Thiên Chúa trong mọi nét cao cả của nó”.

Từ các đoạn văn trên, điều rõ ràng là những ai sống trong sự bất tuân công khai giới luật trong sạch đối với người ly dị và tái hôn dân sự, như đã được trình bầy trong văn kiện Familiaris Consortio năm 1981 của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II không thể được xá tội hoặc rước lễ.

2. Thứ đến, Đức Giáo Hoàng nói tới sự khác biệt giữa việc sai phạm vì không biết, và tội cố tình (flaunting sin).

Đoạn 297: trong đoạn này, Đức Phanxicô nói rằng “nếu một ai đó phách lối coi một tội khách quan như thể là thành phần của lý tưởng Kitô Giáo, hay muốn áp đặt một điều gì đó khác hơn là điều được Giáo Hội dạy bảo… thì đây là trường hợp nói đến một điều vốn tách biệt người ta khỏi cộng đồng”.

“Tội khách quan” là tội có thể được nhìn thấy qua các hành vi bề ngoài, chưa kể các điều như biết đó là tội và mức độ tham dự của ý chí tự do, và trong bối cảnh này, rõ ràng không ai dám cho rằng ngủ với một người không phải là người phối ngẫu hợp pháp của mình là hợp luân lý cả. “Tách biệt khỏi cộng đồng” có ý nói tách biệt khỏi Giáo Hội, và do đó, khỏi việc rước lễ.

Đoạn 299: Khi đề cập tới việc hội nhập người ly dị và tái hôn dân sự vào Giáo Hội ở đoạn này, Đức Giáo Hoàng nói rằng phải “tránh bất cứ dịp làm gương mù gương xấu nào”. Vì “gương mù gương xấu” có ý nói tới các hành vi rất có thể dẫn dụ một người khác nào đó phạm tội, nên đoạn văn này hẳn phải có nghĩa: một vài hình thức hội nhập một số người ly dị và tái hôn dân sự là có tội nếu có nguy cơ gây gương mù gương xấu.

Điều trên chứng tỏ rằng một số cặp, tức những người cố gắng sống theo giáo huấn của Giáo Hội, có thể được tái hội nhập, trong khi những cặp khác, tức những người cố ý không tuân theo giáo huấn của Giáo Hội, thì chỉ có thể được hội nhập một phần (trong đó, không có rước lễ).

3. Thứ ba, Đức Giáo Hoàng cho rằng trách nhiệm đối với tội thay đổi giữa người yếu đuối và người huênh hoang việc mình bất tuân tông huấn Familiaris Consortio.

Đoạn 302: Trong đoạn này, ngài viết rằng “dù vẫn duy trì qui luật tổng quát, nhưng cần phải thừa nhận rằng trách nhiệm đối với một hành động hay một quyết định nào đó không như nhau trong mọi trường hợp”. Những người có ý định tiếp diễn các liên hệ tính dục đi ngược lại giáo huấn hiện hành của Giáo Hội, và những người sa vào đó trong lúc yếu đuối hay không biết giáo huấn của Giáo Hội, nhất định có mức độ trách nhiệm khác nhau đối với các hành vi của mình.

Đoạn 304: Trong đoạn này, Đức Giáo Hoàng gợi ý rằng ta nên biện phân các hoàn cảnh cụ thể của đời sống cá nhân, chứ không phải chỉ biện phân việc hành động khách quan phải xứng hợp với qui luật chung. Một trong các tập chú lớn đối với hoàn cảnh sống cụ thể là liệu một ai đó có biết giáo huấn của Giáo Hội và cố gắng sống nó hay không.

4. Thứ bốn và cuối cùng, ngài nói tới lòng thương xót trong tòa giải tội đối với những người cố gắng sống giáo huấn của Giáo Hội bao nhiêu có thể.

Đoạn 311: Trong đoạn này, ngài viết: “lòng thương xót không loại trừ công lý và chân lý, nhưng trước hết và trên hết, ta phải nói rằng lòng thương xót chính là sự viên mãn của công lý và là biểu hiện ngời sáng nhất của chân lý Thiên Chúa”. Như thế, lòng thương xót trong toà giải tội không thể bị tách biệt khỏi chân lý và công lý, một điều vốn bao gồm mọi giáo huấn trước đây của Giáo Hội.

Ghi chú 351 nổi tiếng trong "Amoris Laetitia" phải được giải thích trong ngữ cảnh bao quát này.

Khi ghi chú 351 nói rằng “Trong một số trường hợp, [sự trợ giúp đối với những người không sống trọn vẹn theo giáo huấn khách quan của Giáo Hội liên quan tới hôn nhân] điều này có thể bao gồm sự trợ giúp của các bí tích”, một cách hợp luận lý, nó có ý nói tới những người cố gắng sống theo giáo huấn hiện hành của Giáo Hội theo sự hiểu biết tối đa của họ, vì đây chính là bản văn đi trước ghi chú. Điều này áp dụng cả vào những người không hiểu giáo huấn của Giáo Hội về “cuộc hôn nhân thứ hai” lẫn vào những người sai phạm vì yếu đuối của con người.

Từ những điều nói trên và theo truyền thống của Giáo Hội, điều xem ra rõ ràng là “một số trường hợp” này có ý nói tới người không biết và người yếu đuối chứ không có ý nói tới những người cố tình ngủ với một ai đó không phải là người phối ngẫu hợp pháp của mình theo giáo luật.

Ngoài các bản văn đã trích dẫn, nếu ta đọc "Amoris Laetitia" bên trong truyền thống, thì sự mơ hồ phải được đọc theo điều truyền thống dậy chứ không chống lại nó. Nếu một vị giáo hoàng muốn thay đổi một thực hành mục vụ hiện hành, sức nặng của truyền thống buộc ngài phải tuyên bố điều này một cách rõ ràng, chứ không hàm ý bằng một ghi chú hàm hồ.

Đây không phải là lối giải thích mới lạ, mà đã có từ ngày đầu tiên và là lối giải thích có nghĩa nhất trong ngữ cảnh các giáo huấn trước đây. Cha Schneider từng nói đến nó ngay ngày "Amoris Laetitia" được công bố và mấy tuần sau trong cuốn “Study Guide” của ngài, nhưng chưa được giải thích và phân tích đầy đủ.

Nhưng phản biện sau đây có thể có: Đoạn 301 của tông huấn nói rằng không phải mọi người sống trong các hoàn cảnh bất hợp lệ “đều sống trong trạng thái tội trọng và mất ơn thánh hoá”. Điều này dẫn ta tới việc nhìn nhận sự phân biệt giữa các hành vi khách quan và việc qui lỗi chủ quan.

Giáo Hội luôn dậy rằng một tội trọng, tức tội làm ta mất ơn thánh hóa, đòi phải có vấn đề hệ trọng, phải biết đó là tội, và đủ tự do làm điều hệ trọng này. Nhiều người trong các hoàn cảnh bất hợp lệ không hiểu rõ tính bất hợp lệ, hay sai phạm vì thói quen nhưng không hoàn toàn chọn lựa mối liên hệ tính dục (vì yếu đuối chẳng hạn), những người này không phạm tội trọng, và do đó hoàn toàn phù hợp với điều Đức Phanxicô muốn nói.

Đã đành là người ta thấy có sự nhấn mạnh hơi khác khi đọc "Amoris Laetitia". Tuy nhiên, khi đọc nó trong toàn bộ và bên trong truyền thống, Cha Schneider cho rằng không nên đọc "Amoris Laetitia" theo nghĩa nó cho phép những ai đang sống trong “cuộc hôn nhân thứ hai” được rước lễ, vì điều này không hề có trong bản văn và đi ngược lại các tuyên bố khác trong chính bản văn.

Cha thừa nhận rằng ngôn ngữ của tông huấn nên rõ ràng hơn, nhưng ngụ ý có thay đổi tín lý do việc thiếu rõ ràng là điều quá đáng. Tinh thần của một văn kiện không thể mâu thuẫn với các lời lẽ trực tiếp của nó.

Các lời lẽ trực tiếp của "Amoris Laetitia" cho thấy không hề có thay đổi nào đối với giáo huấn của Giáo Hội, nhưng có sự thay đổi đôi chút về nhấn mạnh đối với lòng thương xót những ai hoặc không biết hay cố gắng sống theo giáo huấn của Giáo Hội nhưng đôi lúc sa ngã.

Đức Giáo Hoàng cũng không thể thay đổi

Nói như Cha Schneider thì đâu còn gì để tranh luận nữa. Vì trong cả hai trường hợp vừa nói, người ta có tội gì đâu mà không cho rước lễ. Vấn đề là có những lối giải thích cho rằng kể cả những người hội đủ 3 điều kiện tội trọng mà vẫn có thể được rước lễ. Và hiện Đức Phanxicô không lên tiếng chính thức phủ nhận những lối giải thích này.

Tiện đây, cũng xin lược dịch một số câu trả lời của Đức Hồng Y Gerhard Müller trong cuộc phỏng vấn mới đây của tờ Il Timone:

Hỏi: Có thể có mâu thuẫn giữa tín lý và lương tâm bản thân không?

Trả lời: Không, không thể nào. Thí dụ, người ta không thể nói có những hoàn cảnh theo đó một hành vi ngoại tình không tạo nên một tội trọng. Đối với tín lý Công Giáo, một tội trọng không thể cùng hiện hữu với ơn thánh hóa. Để vuợt qua sự mâu thuẫn phi lý này, Chúa Kitô đã lập ra bí tích thống hối và hoà giải với Thiên Chúa và với Giáo Hội.

Hỏi: Đây là một vấn đề hiện đang được thảo luận rộng rãi liên quan tới cuộc tranh luận chung quanh tông hấn hậu thượng hội Đồng “Amoris Laetitia”.

Trả lời: “Amoris Laetitia” phải được rõ ràng giải thích dưới ánh sáng toàn bộ tín lý của Giáo Hội. […] Tôi không thích, thật không đúng khi khá nhiều giám mục đang giải thích “Amoris Laetitia” theo cách hiểu của họ về giáo huấn của Đức Giáo Hoàng. Việc này không hợp với đường hướng tín lý Công Giáo. Huấn quyền của Đức Giáo Hoàng chỉ được ngài hay qua thánh bộ Giáo Lý Đức Tin giải thích. Đức Giáo Hoàng giải thích các giám mục, chứ các giám mục không giải thích Đức Giáo Hoàng, vì việc này sẽ đảo ngược cơ cấu của Giáo Hội Công Giáo. Với tất cả những người nói quá nhiều, tôi thúc giục họ nghiên cứu trước nhất tín lý [của các công đồng] về ngôi vị giáo hoàng và hàng giám mục. Là thầy dậy Lời Chúa, giám mục phải là người đầu tiên được huấn luyện đầy đủ để không rơi vào nguy cơ người mù dắt người mù. […].

Hỏi: Tông huấn của Thánh Gioan Phaolô II, “Familiaris Consortio”, dự liệu rằng các cặp ly dị và tái hôn nào không thể sống xa nhau, để có thể lãnh nhận các bí tích, phải cam kết sống tiết dục. Đòi hỏi này có còn giá trị hay không?

Trả lời: Dĩ nhiên, nó không thể miễn chuẩn được, vì nó không phải chỉ là luật thực định (positive law) của Đức Gioan Phaolô II, mà ngài còn nói lên một yếu tố có tính yếu tính của nền thần học luân lý Kitô Giáo và nền thần học bí tích. Sự hồ đồ về điểm này cũng liên quan tới việc thất bại, không chấp nhận thông điệp “Veritatis Splendor”, với tín lý rõ ràng về “intrinsece malum” (sự xấu nội tại) [...].Đối với chúng ta, hôn nhân nói lên việc tham dự vào sự hợp nhất giữa Chúa Kitô chàng rể và Giáo Hội, cô dâu của Người. Đây không phải là một loại suy đơn giản mơ hồ, như một số người nói tại Thượng Hội Đồng. Không! Đây là bản chất của bí tích, và không quyền bính nào ở trên trời cũng như ở dưới đất, không thiên thần, không vị giáo hoàng nào, không một công đồng nào, không một luật lệ của các giám mục nào, có khả năng thay đổi nó.

Hỏi: Làm thế nào để giải quyết sự hỗn độn đang phát sinh về các lối giải thích khác nhau đối với đoạn này của "Amoris Laetitia"?

Trả lời: Tôi thúc giục mọi người suy nghĩ, nghiên cứu tín lý của Giáo Hội trước đã, bắt đầu từ Lời Chúa trong Sách Thánh, là sách nói rất rõ về hôn nhân. Tôi cũng có ý kiến đừng đi vào bất cứ thứ giải nghi học (casuistry) nào dễ sinh ra hiểu lầm, nhất là thứ giải nghi học cho rằng nếu tình yêu chết, thì dây hôn phối cũng chết. Đó là thứ ngụy biện: vì Lời Chúa rất rõ và Giáo Hội không chấp nhận việc tục hóa hôn nhân. Nhiệm vụ của các linh mục và giám mục là không tạo hồ đồ, nhưng đem lại sự rõ ràng. Người ta không thể chỉ nhắc tới những đoạn nhỏ trong “Amoris Laetitia”, nhưng phải đọc như một toàn bộ, với mục đích làm cho Tin Mừng hôn nhân và gia đình lôi cuốn hơn với người ta. Không phải “Amoris Laetitia” đã tạo ra lối giải thích hồ đồ, nhưng là một số người giải thích hồ đồ đã tạo ra nó. Tất cả chúng ta phải hiểu và chấp nhận tín lý của Chúa Kitô và của Giáo Hội Người, và đồng thời sẵn sàng giúp người khác hiểu nó và mang nó ra thực hành dù trong những hoàn cảnh khó khăn.
 
Thờ ngẫu tượng
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
09:21 08/02/2017
THỜ NGẪU TƯỢNG

Chuyện con người cúi đầu “xì xụp” trước các sản phẩm do tay mình làm ra không phải là chuyện ngày xửa ngày xưa hay là chuyện của số đông những người kém may mắn không được học hành hay không được tiếp cận với nền văn minh nhân loại mà vẫn như là chuyện của nhiều người hôm nay, kể cả nhiều người có vai vế, học vị cao ngoài xã hội và cả trong các tập thể tôn giáo.

Dẫu cho không ít người chủ quan nhận định cái “tầm” tức là khả năng của Thủ Tướng nước Việt Nam hiện nay “không cao lắm”, thế nhưng ngày 26-12- 2016 tại Hội nghị Tổng kết năm 2016 của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, người đứng đầu Chính Phủ đã có lời phát biểu đáng ngẫm suy: “Thể chế do chúng ta đặt ra, nghĩ ra, nhưng mà chúng ta lại sợ nó. Thể chế ràng buộc sự phát triển thì phải bãi bỏ ngay, đừng để các thể chế đó bắt chúng ta phải chạy theo, phải sợ nó một cách vô lý…”. Trước đó ít ngày, vào ngày 22-12- 2016, Đức Phanxicô đã mạnh mẽ nói với các đấng bậc trong Giáo triều Rôma rằng Giáo Hội “vẫn sống động và vì lý do này luôn cần phải cải cách vì Giáo Hội vẫn còn sống”. Trong một nhận xét gây kinh ngạc cho các nhà lãnh đạo Giáo Triều Rôma, Đức Thánh Cha nói rằng “phản ứng kháng cự lại cải cách là điều bình thường, nhưng một số hình thức chống đối có thể đã được “Satan truyền cảm hứng”.

Dễ dàng nhận ra rằng khi cúi đầu thần phục ảnh tượng các vua chúa làm ra là thờ ngẫu tượng. Dễ dàng nhận biết việc thờ “thần sông, thần núi hay rắn rết, chim cá…” là thờ ngẫu tượng. Cũng không khó để thấy rằng sống quá lệ thuộc vào vật chất, của tiền, đặt tiền của lên đầu lên cổ là thờ ngẫu tượng. Xem ra có phần khó chút xíu để nhận ra việc thờ ngẫu tượng khi thần tượng hóa “siêu sao này, siêu sao kia”. Dĩ nhiên càng khó biết là thờ ngẫu tượng hơn khi quá lệ thuộc vào một vĩ nhân hay một thánh nhân nào đó.

Và theo thiển ý thì thật quả là rất khó để nhận rõ việc thờ ngẫu tượng khi bị lệ thuộc vào một số cơ chế, lề luật, truyền thống do con người làm nên. Việc biện phân đâu là luật của loài người, đâu là luật của Thiên Chúa xem ra không mấy dễ, nhất là khi những người nắm quyền cao thường có khuynh hướng thượng tôn hóa lề luật do mình làm ra như thể là luật lệ của Thượng Đế vậy.

Theo niềm tin Kitô giáo thì luật của Thiên Chúa trong Cựu Ước được tóm lại trong hai điều này: Thờ phượng một Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết cả trí khôn và yêu thương tha nhân như chính mình vậy. Trong Tân Ước thì Chúa Kitô đã minh nhiên truyền dạy giới răn mới là hãy yêu thương nhau như chính Người đã yêu thương chúng ta và đó là dấu chỉ minh chứng những ai là môn đệ của Người (x.Ga 13,34-35).

Cách đây trên dưới 100 năm mấy ai nghĩ là sẽ có Công Đồng Vaticanô II, thế mà đã có. Hoa trái của Công Đồng Vaticanô II là bốn Văn Kiện Hiến Chế cùng với nhiều Sắc Lệnh và Tuyên Ngôn. Từ đó Bộ Giáo Luật mới được ra đời năm 1983 với nhiều canh tân và chỉnh sửa thay cho Bộ Giáo Luật cũ năm 1917. Bên cạnh đó Sách Giáo Lý Công Giáo toàn cầu mới cũng được biên soạn và ban hành năm 1992.

Thử hỏi rằng sẽ có Công Đồng Vaticanô III hay với một cái tên nào đó trong tương lai không? Bản thân xác tín là chắc chắn có. Và nếu có thì cũng chắc chắn sẽ có những Hiến Chế, Sắc Lệnh và Tuyên Ngôn mới. Không biết khi ấy Sách Giáo Lý có phải biên soạn lại hay không nhưng chắc chắn sẽ có nhiều Luật sẽ phải được viết lại. ( Có thể nói rằng các “Thượng Hội Đồng Giám Mục” trong Giáo Hội Công Giáo như hiện nay là một hình thức Công Đồng thu nhỏ ).

Thế thì cớ sao vẫn còn đó nhiều người cũng như không ít đấng bậc hoặc vô tình hoặc vì lý do nào đó mà vẫn còn “THỜ NGẪU TƯỢNG” !

Giữ mình xa tránh vòng xoáy của chủ nghĩa tương đối và gỡ mình ra khỏi hình thức thờ ngẫu tượng cách bảo thủ là điều thật không dễ dàng chút nào.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
 
Văn Hóa
Chuyến thăm đảo Aruba trong vùng biển Caribbean
John
12:39 08/02/2017
ORANJESTAD, ARUBA - Hòn đảo lộng gió Aruba của Hoà Lan nằm ngoài khơi cách bờ biển Venezuela 25 dặm thực là một thế giới khác biệt. Dân số chỉ có trên 100.000 người, nhưng lôi cuốn khách du lịch vì tính cách văn hóa sung mãn và đặc biệt nơi đây. Dân chúng ở đây cũng giống như ở Carucao đều nói 4 ngôn ngữ: Anh, Hòa Lan, Tây ban nha và Papiemento. Hướng dẫn viên du lịch cho biết 70% dân chúng ở 3 đảo thuộc Hòa Lan là Aruba, Curacao và Bonaire là Công Giáo.

Hình ảnh

Ở đây có những bãi biển hoang sơ ngoạn mục, nước biển trong xuất như pha-lê và luôn cuồn cuộn sóng vì gió lộng quanh năm. Tính hoang sơ của đảo cũng vì có rất nhiều loại xương rồng và những hàng cây nổi tiếng bên bờ biển đã bị gió uốn cong lâu đời.

Gió trên hòn đảo là một phần của sức hấp dẫn vì nó giữ cho độ ẩm, mưa và sức nóng được điều hòa trong vùng biển nóng Caribbean. Thực vậy chúng tôi đến đây trong một ngày nắng chang chang với nhiệt độ trên 83% nếu đi thăm phố mà không có những cơn gió thỏi luôn hồi vào mặt thì sẽ thấy nồng nực biết bao!

Cảng Oraqnjestad là thành phố thủ đô của Aruba và các con đường nối nhau như một mê cung còn mang kiến trúc Hà Lan thời thuộc địa, mầu sắc các nhà cửa ở đây không chói chang như ở Curacao nhưng có mầu phấn nhạt biểu trưng miền Caribbean. Có một số di tích lịch sử đáng chú ý và vô số các cửa hàng, các cửa hàng lớn bán mọi loại đồ vật lưu niệm, đặc biệt đồ trang sức, đồng hồ và vàng. Trong thực tế, vàng đã được khai thác ở đây trong thế kỷ 19.

Sau khi đi thăm khu trung tâm thành phố và bãi biển nhộn nhịp tôi đã tới thăm nhà thờ chính tòa Co-Cathedral of St. Francis of Assisi. Nhà thờ cách bãi biển trung tâm thành phố chừng 1 cây số. Nhà thờ mới được tân trang rất rộng rãi và thoáng đãng. Trong nhà thờ có bàn thờ bên tay trái trên đó có hình Đức Mẹ Lộ Đức tuyệt đẹp. Gian cung thánh rộng rãi và tôn nghiệm. Nhìn xuống cuối nhà thờ có 3 cửa sổ kính mầu: hình Thánh Phanxicô Assisi ỡ giữa, bên phải là hình Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II, và bên trái là thánh Têrêsa Hài Đồng.

Tại Oranjestad người ta nói có tới 200 tiệm ăn và có các show bắt chước kiểu La Vegas… Đi dọc theo bãi biển, hướng dẫn viên cho biết có cả một kho tàng các nhà hàng hải sản tuyệt vời,

Đi về cuối phố chính xa hơn là ngọn hải đăng, có di tích mỏ vàng và kỳ quan thiên nhiên phản ánh sự hấp dẫn đặc biệt của Aruba.

Chiêm ngưỡng cảnh quan tuyệt đẹp những con sóng đâm đầu vào bãi cát trắng vập vào gió cuốn bung lên những bọt biển trắng xóa. Tiếp theo là những cảnh quan ở Casibari những triền đá lớn bị gió và cát xoáy mòn lâu đời tạo thành những hình hài kỳ thú, tại đây bạn có thể leo lên các khu vườn đá vào lên hằn trên đỉnh tảng đá cao nhất.

Một trong những tour du lịch lôi cuốn là thi thăm khám phá đáy biển ở Antilla: vào tầu lặn và xuống xem con chở hàng của Đức dài 440 feet bị nổ vỡ làm đôi Thế chiến II. Captain tầu lặn khéo léo lái tầu ngầm ngắt nghéo vào trong các khoảng con tàu đắm lớn nhất của vùng biển Caribbean.

Vào buổi hoàng hôn, nếu bạn còn giờ hãy leo lên một chiếc thuyền buồm catamaran. Đi thuyền buồm qua những bãi biển nổi tiếng của Aruba, dọc theo bờ biển phía nam và về phía tây để ngắm hoàng hôn Caribbean ngoạn mục. Kinh nghiệm du thuyền buồm tạo cơ hội cho du khách chụp những bức ảnh hoàn hảo khi lướt qua thảm nước màu ngọc lam trong suốt ở Palm Beach nổi tiếng nơi đây.
 
Tìm hiểu về vai trò và trách nhiệm của vị Tuyên Úy trên tầu du lịch
LM Trần Công Nghị
10:36 08/02/2017
Tìm hiểu về vai trò và trách nhiệm của vị Tuyên Úy trên tầu du lịch

Năm vừa qua 2 lần tôi tham gia làm Tuyên úy cho tầu du lịch và năm nay hiện đang làm tuyên úy trên chiếc tầu Veendam của hãng Holland America trong chuyến thăm các đảo vùng Bahamas và Caribbean và thăm một số quốc gia Nam Mỹ. Một số độc giả hỏi làm Tuyên úy Biển có gì đặc biệt và trách nhiệm ra sao? Cha đi nhiều như vậy ai trả tiền cho cha và có tốn phí nhiều không? Linh mục muốn tham gia làm Tuyên úy Biển thì phải nộp đơn ở đâu?...

Tuyên úy Biển hay đa số là làm Tuyên Úy trên Tầu Du Lịch (Cruise Ship Priest) là thành phần của tổ chức Apostleship of the Sea of the United States of America (AOS-USA). Cũng có loại Tuyên úy Biển tại một vài cảng lớn trên thế giới, chẳng hạn như tại Long Beach thuộc TGP Los Angeles hay San Francisco, nơi đây vị Tuyên úy không đi theo tầu du lịch nhưng đảm nhận trách nhiệm cung ứng nhu cầu mục vụ cho thủy thủ đoàn và các một số các công tác xã hội cho nhân viên thủy thủ khi họ cập bến nghỉ ngơi.

Trên toàn thế giới hiện nay có chừng trên 500 vị Tuyên úy Biển được chứng nhận (certified) và được giáo quyền địa phương cho phép tham gia tổ chức (AOS-USA). Mỗi năm các Tuyên úy Biển đều phải xin giấy phép mới từ Tòa Giám Mục của mình cho chứng nhận hạnh kiểm tốt và khả năng mục vụ đầy đủ cho việc tham gia AOS-USA và mỗi vị Tuyên úy cũng đóng một lệ phí tối thiểu là $100US làm hội viên AOS-USA.

Quãng từ 15 năm về trước thì linh mục hay mục sư có thể trực tiếp và tự xin làm tuyên úy trên tầu du lịch, hay nếu là khách du lịch và là linh mục trên chuyến tầu thì vị Giám đốc sinh hoạt của tầu sẽ cho phép linh mục hay mục sư đó làm tuyên úy và được phép làm lễ hay các phép bí tích.

Với những thay đổi xã hội hiện đại và những thay đổi về luật pháp liên quan đến mục vụ và nhất là trách nhiệm bị liên đới khi bị kiện tụng thì ngày nay các tầu du lịch chỉ nhận những vị Tuyên úy được chỉ định và có bảo chứng làm tuyên úy trên tầu mà thôi. Cơ quan AOS-USA là tổ chức Tuyên Úy được Hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ công nhận và là tổ chức đứng ra thâu nạp các vị tuyên úy mới và là cơ quan mà các tầu du lịch liên lạc để sắp xếp và chỉ định vị Tuyên úy cho tầu du lịch. Cách đây hơn một năm trên chuyến tầu thăm Địa Trung Hải, có một Giám mục và chừng 10 linh mục cùng lớp với ngài cùng đi du lịch kỷ niệm 25 năm linh mục, tuy nhiên ngày đầu các ngài chỉ đến tham dự thánh lễ mà thôi. Sau thánh lễ tôi mới được biết và được giới thiệu như vậy. Hỏi ra mới biết rằng nhân viên trách nhiệm trên tầu cho biết nếu các vị muốn đồng tế hay dâng thánh lễ thì cần phải có ý kiến và phép của tôi là Tuyên uý chính thức trên tầu. Sau khi tìm hiểu và biết về các ngài ở đâu, ngày hôm sau tôi đã xin phép để Đức Giám Mục chủ tế và sau đó cùng đồng tế.

Mỗi năm hiện có chừng trên 3000 chuyến tầu du lịch thuộc nhiều hãng du lịch khác nhau, tuy nhiên chỉ có hãng Holland America là có Tuyên úy thường xuyên trên mỗi chuyến tầu của họ. Còn các hãng tầu du lịch khác thường chỉ ký hợp đồng có Tuyên úy vào Mùa Giáng Sinh và Mùa Phục Sinh mà thôi.

Do vậy đa số người Công Giáo biết rằng muốn tham dự thánh lễ hằng ngày và Lễ Chúa Nhật thì đi tầu Hãng Holland America. Hãng này có trên 500 chuyến du hành khắp thế giới mỗi năm. Mỗi chuyến du lịch kéo dài ngắn thì 1 tuần, dài thì 1 tháng. Tuy nhiên có những chuyến du hành lớn gọi là Grand Voyage kéo dài từ 3 tháng hoặc là 6 tháng và đôi khi có chuyến đi vòng quanh thế giới đi du lịch đến tất cả những nơi danh tiếng nhất trên thế giới.

Đa số các vị Tuyên úy Biển là các linh mục đã hưu dưỡng vì có thì giờ và còn khỏe mạnh để đảm nhận công tác mục vụ trên tầu và thường chuyến tầu kéo dài 2 hay 3 tuần là lý tưởng cho các vị. Tuy nhiên đôi khi vì các ngài có tuổi nên có một số trường hợp đã ghi danh và được chỉ định làm tuyên úy, nhưng vào tuần cuối thì bị ốm đau hay vì lý do nào đó không thể tham gia được, lúc đó tổ chức AOS-USA sẽ tìm người thay thế khẩn cấp. Trường hợp này xẩy ra năm vừa qua tôi thế chân cho vị Tuyên úy bên Úc và chuyến du hành hiện nay tôi cũng đang thế chỗ cho vị linh mục đã được chỉ định nhưng ngài bị bệnh và phải đi mổ.

Là tuyên úy cho tầu du lịch không thực sự hẳn là một kỳ nghỉ hoàn toàn, nhưng là cơ hội truyền giáo và dấn thân cung cấp nhu cầu thiêng liêng cho khách du lịch và cả cho thủy thủ đoàn nữa. Do vậy, đôi khi sự dấn thân cho một chuyến tầu kéo dài cũng là một sự hy sinh vì nhu cầu mục vụ của giáo dân, chẳng hạn chuyến đi này không có trong lịch trình của tôi, nhưng khi được mời gọi trong trường hợp khẩn cấp vì họ biết tôi mới hưu dưỡng nhưng vẫn còn nhỏ tuổi hơn các vị khác, nên tôi sẵn sàng nhận lời.

Là tuyên úy trên tầu cũng ví như một linh mục xứ đạo có trách nhiệm thiêng liêng cho nhu cầu mục vụ, và khách du lịch cũng được coi là giáo dân của mình. Trung bình một chuyến tầu có chừng 2.200 khách du lịch và chừng 800 nhân viên phục vụ (Có một số tầu mới có sức chứa tới 6 tới 8 ngàn người). Như vậy cũng là một con số tiểu biểu cho một giáo xứ trung bình. Vị tuyên úy coi tất cả các hành khách trên chuyến tầu là giáo dân của mình, họ là gia đình là giáo xứ của mình trong thời gian mình phục vụ trên tầu.

Vị tuyên úy dâng thánh lễ mỗi ngày trên tầu, ngày thường ở một phòng nhỏ hơn trung bình có chừng 15-30 người tham dự. Thánh lễ Chiều thứ Bãy hay sáng Chúa Nhật ở phòng lớn hơn thường là rạp hát của tầu, trung bình có vài trăm người tham dự.

Ngoài ra vị Tuyên úy Công Giáo cũng có trách nhiệm cử hành Nghi lễ tôn giáo cho người Tin Lành mỗi Chúa Nhật và ngay cả nghi lễ Cầu nguyện cho người Do thái (vì hãng Holland America chỉ ký hợp đồng với AOS-USA của Công Giáo mà thôi. Do vậy nếu mình biết có vị mục sư hay giáo sĩ riêng trên tầu thì mình sẽ dàn xếp để họ cử hành nghi thức của họ). Tối ngày Chúa Nhật có thánh lễ riêng cho thủy thủ đoàn sau khi họ làm xong các công tác phục vụ trên tầu.

Ngoài việc dâng thánh lễ mỗi ngày, vị linh mục có thể đi thăm và xức dầu bệnh nhân trên tầu, ban bí tích hòa giải, hướng dẫn thiêng liêng nếu có ai cần tới, và khi trường hợp emergency xẩy ra, sẽ đáp ừng kịp thời các công tác mục vụ cần thiết.

Là tuyên úy cũng là người nêu gương mẫu sống đức tin, nên thường vị tuyên úy:

  • - Không tham gia vào bất kỳ sự kiện nào có giải thưởng tiền bạc.
  • - Không đánh bạc trong Casino hoặc tham gia trong Bingo.
  • - Không ngồi tại các quầy bar uống rượu mạnh.
  • - Khi có ai đó cần tham vấn, vị tuyên úy nên tìm một nơi nào thuộc một khu vực công cộng, chứ không tại phòng riêng.


Tuyên Úy Biển có được trả lương không? Và chi phí như thế nào?

Tuyên úy Biển hay Tuyên úy trên tầu không được trả lương, vì đây là công tác tự nguyện và vì nhu cầu mục vụ mà Giáo Hội muốn các linh mục có hoàn cảnh và thì giờ dấn thân.



Là Tuyên úy thì được tham gia chuyến tầu du lịch miễn phí (vé tầu, tiền phòng và các bữa ăn), tuy nhiên vị tuyên úy sẽ phải trả chi phí tiền máy bay từ chỗ mình cư ngụ đến bến tầu khởi hành chuyến đi và sau đó vế máy bay từ bến tầu kết thúc về nơi cư ngụ của mình, thêm vào đó các phụ trội như tiền tip cho người dọn phòng, người dọn đồ lễ, và các chi phí phụ trên tầu như tiền internet, bia rượu, và các chi phí khác. Vị tuyên úy cũng được khuyên nên mua bảo hiểm sức khỏe trong thời gian du lịch và bảo hiểm an toàn vì Hãng tầu không chịu trách nhiệm bảo hiểm sức khỏe cho tuyên úy. Tuy dù vị tuyên úy được coi là staff nhân viên phục vụ trên tầu, nhưng chính thức là một thiện nguyện viên, do vậy hãng tầu cũng gửi ra thư chỉ dẫn là không chịu trách nhiệm bất cứ về thiệt hại nào cho vị Tuyên úy hay liên quan đến trách nhiệm mục vụ của Tuyên Úy.

Khi tham gia vào tổ chức AOS-USA, linh mục được mời gọi dấn thân chăm sóc tinh thần và mục vụ của người du lịch tầu biển và dân biển. Tổ chức AOS gửi các tài liệu hướng dẫn và huấn luyện cách thức và những quy định cho một Tuyên úy Biển. Mỗi năm cũng có Khóa huấn luyện riêng biệt cho những ai muốn tham gia và có các buổi Hội thảo về kiến thức và nhu cầu mục vụ biển. Mỗi tháng có những Thư Mục vụ nhằm cập nhật kiến thức và nhu cầu mới.

Một khi có phép của Đức Giám Mục bản quyền và đóng lệ phí và được tổ chức AOS-USA công nhận thì làm thế nào để chọn các chuyến tầu du lịch mà mình thích?

Mỗi năm vài lần văn phòng AOS-USA sẽ gửi ra ít nhất là 1 năm trước hằng 100 chuyến tầu với các lộ trình khác nhau để các tuyên úy chọn. Đề nghị là chọn 3 ưu tiên, vì có thể nhiều tuyên uý chọn cùng chuyến tầu thì sẽ chỉ định ưu tiên 2 hay 3. Sau đó văn phòng sẽ xác định với vị tuyên úy là chuyến tầu và ngày giờ đó được chỉ định cho vị đó.

Vì tầu du lịch cũng có thể đổi lộ trình hay ngày giờ (ít xẩy ra) cho nên văn phòng khuyên vị tuyên úy không nên mua vé máy bay trước 6 tháng.

Đôi khi gần đến ngày lên tầu mà vị Tuyên úy được chỉ định bị ốm hay kẹt không tham gia được, lúc đó văn phòng sẽ gửi thư emergency mời gọi sự hy sinh đặc biệt của các Tuyên úy khác. Việc này cũng xẩy ra vài tháng 1 lần.

Có người hỏi tại sao tôi tham gia làm Tuyên úy Biển?

Có vài lý do và hoàn cảnh thúc đẩy như sau: Như qúi vị và anh chị em đều đã biết rằng trước đây tôi bị chính quyền Việt Nam cho vào sổ đen không cho về nước vì thời làm Tuyên úy sinh viên du học bên Mỹ (1972-1975) và đã viết những bài báo chống Cộng sản, rồi tham gia trong Ủy ban Phong 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam và sau này điều hành VietCatholic. Cách đây 15 năm nhân dịp phái đoàn Đức Hồng Y Sepe thăm Việt Nam, tôi đánh liều xin visa từ Tòa đại sứ Việt Nam bên Mexicô và đã nhận được visa về Việt Nam, nhưng khi về đến phi trường Nội Bài, họ đã giữ tôi lại và bắt lên máy bay về lại Hoa Kỳ không cho nhập cảnh, tôi hỏi anh công an trách nhiệm phi trường “Tại sao tôi có visa mà không được vào”. Anh ta trả lời rằng “Ông không được welcome”.

Do vì không còn có cơ hội trở về thăm quê hương thế thì mùa nghỉ Hè nên làm gì đây… Tôi đã quyết định sẽ đi chu du thăm các quốc gia trên thế giới. Và đó là lý do đầu tiên tôi quyết định gia nhập làm Tuyên úy Biển.

Trong thời gian được giáo phận Xuân Lộc gửi đi du học tại Roma, Italia, và bên Paris bên Pháp từ năm 1967 cho tới 1971, trong các mùa Hè tôi đã có dịp đi du lịch nhiều nơi đề khám phá và học hỏi về lịch sử và văn hóa của các quốc gia Âu châu. Tiếp theo sau khi thụ phong Linh mục tôi đã được gửi sang du học tiếp tại Hoa Kỳ từ năm 1971. Từ thời gian đó tôi đã tổ chức nhiều chuyến Hành Hương đi khắp nơi. Dù có những nơi đã thăm viếng dăm ba lần nhưng vẫn không chán. Mỗi lần đi là một lần học hỏi thêm, khám phá và đào sâu kho tàng văn hóa và nghệ thuật thế giới.

Riêng với tôi khi làm Tuyên úy và mỗi ngày khi tầu du lịch cập bến thăm các địa danh thì tôi coi là cơ hội rất tốt để tôi được tham quan và tìm hiểu thêm về nơi chốn đó. Tôi thường tham gia các tour du lịch do tầu điều hành đề học hỏi thêm về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, phong tục và nếp sống của dân địa phương và nơi chốn đó, với mục đích ghi lại để chia sẻ với mọi người trên VietCatholic. Tôi coi đây cũng là một sứ vụ văn hóa quan trọng vì có rất nhiều người không có cơ hội đi đây đó thì qua cái nhìn và sự tìm tòi tra cứu của tôi cộng thêm với các hình ảnh tham quan, anh chị em khắp khắp nơi có thể biết phần nào về các địa danh nêu trên.

Có người nói: “Cha đi mãi mà không chán à?” Tôi không chán... vì có mục tiêu rõ rệt và vì ích chung, coi đây như một công tác thông tin và truyền giáo.

Tôi có thể coi mình là người diễm phúc và may mắn vì từ ngày du học Âu châu tới nay tôi đã đặt chân tới gần 60 quốc gia trên thế giới. Mỗi lần tới thăm một thành phố nào hay một địa danh nào tôi cố gắng tìm hiểu về lịch sử và nếp sống văn hóa xã hội tôn giáo của họ. Tôi luôn bị thu hút bởi những nét đặc thù và sinh động tạo nên môi trường sống và những gì hình thành nếp sống đó. Trước đây khi còn là sinh viên, mỗi lần đi du lịch là mỗi vất vả và tốn phí, ngay cả khi tổ chức phải đoàn hành hương cũng phải bận tâm rất nhiều về đủ “thứ lỉnh kỉnh” cho khách hành hương, nên đâu có giờ thư giãn và thưởng thức như bây giờ.

Nay thì khác, mình muốn đi đâu thì đi, phương tiện đầy đủ và tiện nghi, mình theo tour du lịch nhưng hầu như cũng đã biết rất đầy đủ về nơi chốn đó, vì hoặc mình đã thăm đây trước hay đã tìm hiểu trước qua sách vở và internet, đến địa danh này là cốt ý nhìn lại và tìm những góc cạnh tốt nhất đề chụp những tấm hình tiểu biểu nói lên lịch sử và sắc mầu của địa danh đó mà thôi.

Giáo Hội quan tâm tới nhu cầu thiêng liêng của người đi biển:

Trong hơn 80 năm qua, Giáo Hội đã lưu tầm với việc chăm sóc mục vụ và hỗ trợ cho các thuyền viên Công Giáo, ngư dân, hành khách biển, công nhân dầu mỏ ngoài khơi và gia đình họ.

Công đồng Vatican II khẳng định trách nhiệm của mỗi giám mục giáo phận có trách nhiệm việc chăm sóc mục vụ của người dân biển qua tự sắc "Dominus Christus" như sau: "Cần quan tâm đặc biệt cho những người mà vì hoàn cảnh riêng phải xa gia đình. Trong nhóm này là đa số người di cư, những người lưu vong và người tị nạn, người đi biển, du khách, Gypsies, và những người khác thuộc loại hình này".

Tự sắc về việc tông đồ Hằng hải "Stella Maris - Sao Biển" từ lâu cũng kêu gọi bảo vệ quyền lợi thiêng liêng của họ như sau: "Giáo Hội đồng hành với thuyền viên, chăm sóc cho những nhu cầu tâm linh đặc biệt cho nhu cầu của những người sống và làm việc trong thế giới hàng hải. Để đáp ứng các yêu cầu trợ giúp mục vụ đặc biệt cho những người tham gia vào việc vận chuyển thương mại và đánh cá cũng như gia đình của họ, nhân viên cảng và tất cả những người đi du lịch bằng đường biển".

Về quan tâm Tông Đồ Hàng Hải và Tuyên úy Biển, Tòa thánh lưu ý rằng: Trong mỗi Hội Đồng Giám Mục đối với lãnh thổ hàng hải của mình cần đặt một vị Giám Mục có trách nhiệm thúc đẩy Tông Đồ Hàng hải.

Hội đồng Giáo hoàng về Chăm sóc Mục vụ Di dân và người Di chuyển đã định hướng Mục vụ Tông Đồ Hàng hải các nhiệm vụ chủ yếu như sau:

  • 1- cung cấp các hướng dẫn cần thiết liên quan đến sứ vụ mục tử cho những người đi biển,
  • 2- đảm bảo rằng mục vụ này được thực hiện theo quy định của giáo luật và trong cách thế trang nghiêm và hiệu quả;
  • 3- thúc đẩy một tinh thần đại kết trong thế giới hàng hải, đồng thời quan tâm rằng điều này được thực hiện trong sự hòa hợp trung thành với giáo huấn và kỷ luật của Giáo Hội;


Muốn tham gia làm Tuyên úy Biển thì điều kiện ra sao?

Tổ chức Tông đồ Biển của Hoa Kỳ (AOS-USA) đánh giá cao mục vụ của Linh mục Tuyên uý tầu du lịch nhằm chăm sóc tinh thần và mục vụ của người đi biển và dân biển. Một khi vị linh mục nhận làm Tuyên uý của AOS-USA Cruise Ship Priest, vị tuyên uý không còn đơn thuần là người du lịch nữa là vai trò là linh mục “Tuyên úy” cho chuyến tầu đó. Linh mục mang một sứ vụ và trách nhiệm. Đây là một sứ vụ tông đồ mà Giáo Hội Công Giáo đặt nặng trên vai các vị tuyên úy để nhờ đó, các người đi biển, thủy thủ đoàn, người du lịch và nhân viện phục vụ được tìm thấy chỗ dựa tinh thần, lãnh nhận các bí tịch và nhất là tham dự các thành lễ, như nguồn ơn sủng đồi dào cho đời sống đức tin của mình.

Các linh mục Việt Nam muốn tham gia làm Tuyên úy Du lịch hay Tuyên úy Biển có thể liên lạc với tôi để được hướng dẫn JohnNghi@yahoo.com

Khi tham gia không nhất thiết là mỗi năm phải đi làm tuyên úy một chuyến tầu nào, chỉ khi nào mình có giờ rảnh và muốn tham gia một chuyến tầu thăm những nơi mình ưng ý và chọn trước.

Điều kiện để làm Tuyên úy:

  • 1/ Giấy phép của Giám mục bản quyền và chứng nhận Good standing Priest.
  • 2/Gia nhập làm hội viên của AOS-USA và đóng lệ phí.
  • 3/ Cam kết thi hành những chỉ dẫn của AOS-USA và những điều lệ Tuyên úy của Holland America.
  • 4/ Sự dấn thân tự nguyện làm mục vụ cho những người người đi biển và người biển.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hoa Lan Mùa Đông
Vũ Đình Huyến, Lm
20:54 08/02/2017
HOA LAN MÙA ĐÔNG
Ảnh của Vũ Đình Huyến, Lm. (CMC)
Ngoài kia tuyết lạnh ngập trời
Trong nhà ấm áp tuyệt vời hoa lan.
(bt)
 
VietCatholic TV
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 02-08/02/2017: Viễn tượng của chính nghĩa phò sinh tại Pháp và Hoa Kỳ
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
14:05 08/02/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Ứng cử viên Pháp Francois Fillon và vợ bị điều tra

Trong một xã hội thế tục hóa sâu nặng như Pháp, các chính trị gia thường tránh đề cập đến căn cước tôn giáo của mình. Tuy nhiên, đó không phải là trường hợp của cựu thủ tướng Francois Fillon. Ông tự hào mình là người Công Giáo và sẵn sàng trình bày các vấn nạn của xã hội Pháp hiện nay dưới ánh sáng đức tin Công Giáo và các học thuyết xã hội Công Giáo.

Francois Fillon là một ứng cử viên tổng thống rất được ưa chuộng và có nhiều khả năng trở thành Tổng thống Pháp trong nhiệm kỳ sắp. Tuy nhiên, trong một diễn biến phức tạp mà ông Francois Fillon gọi là “một chiến dịch bôi nhọ chuyên nghiệp” chống lại cá nhân ông, tạp chí Canard Enchaine của Pháp đã cáo buộc là bà Penelope, vợ ông đã được trả nửa triệu euro từ quỹ nhà nước cho công việc là bí thư tại Quốc Hội cho ông và người kế nhiệm ông, nhưng bà Penelope không thực sự làm công việc đó.

Hôm 30 tháng Giêng, cựu Thủ tướng Francois Fillon và vợ là Penelope đã bị cảnh sát thẩm vấn trong năm giờ. Một cuộc tìm kiếm tại quốc hội Pháp cũng đã diễn ra vào ngày hôm sau 31 tháng Giêng.

Trong một tuyên bố, ông Fillon bác bỏ cáo buộc của tạp chí Canard Enchaine, và cho rằng đây là một phần trong một chiến dịch nhằm hủy hoại danh tiếng của mình, và khuynh đảo cuộc bầu cử tổng thống vào tháng Tư và tháng Năm sắp tới. Ông cho biết ông đã cung cấp cho các nhà điều tra các thông tin nhằm giúp “thiết lập sự thật về các công việc được thực hiện bởi bà Fillon.”

Ông nói thêm ông sẽ từ bỏ việc tranh cử tổng thống nếu ông bị đặt dưới sự điều tra hình sự chính thức. Nếu điều đó xảy ra thì thật đáng tiếc, vì thời gian không còn nhiều cho đảng Cộng hòa bảo thủ lựa chọn ứng cử viên khác. Ngày 22 tháng 3 là thời hạn chót để đề cử ứng cử viên tổng thống.

2. Tổng thống Donald Trump giữ lời hứa bổ nhiệm thẩm phán phò sinh

Việc bổ nhiệm thẩm phán Gorsuch là một tin tốt lành cho các tín hữu Kitô tại Mỹ. Tổng thống Donald Trump đã giữ đúng lời hứa bổ nhiệm một vị thẩm phán phò sinh vào Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ. Trong buổi công bố việc bổ nhiệm này hôm thứ Ba 31 tháng Giêng, tổng thống nói:

“Khi thẩm phán Scalia qua đời đột ngột vào tháng Hai năm ngoái, tôi đã hứa với nhân dân Hoa Kỳ là nếu tôi được bầu làm tổng thống, tôi sẽ tìm một thẩm phán tốt nhất tại quốc gia này cho Tối Cao Pháp Viện. Tôi đã hứa chọn một người tôn trọng luật pháp của chúng ta, người đại diện cho Hiến Pháp chúng ta, yêu mến Hiến Pháp chúng ta, và là người sẽ diễn dịch những điều luật như đã được viết ra.

Đây có thể là một trong sự lựa chọn thẩm phán minh bạch nhất trong lịch sử. Mấy tháng trước, trong tư cách là một ứng cử viên tổng thống, tôi đã công khai đưa ra một danh sách hoàn chỉnh những người ưu tú cho cử tri Hoa Kỳ và cam kết sẽ chọn từ danh sách này. Hàng triệu cử tri nói rằng đây là vấn đề quan trọng duy nhất đối với họ khi họ bầu cho tôi làm tổng thống. Tôi là người giữ lời hứa. Tôi sẽ làm điều tôi nói, là điều mà người Mỹ đã hằng đòi hỏi nơi Washington trong một thời gian, rất, rất là dài. Hôm nay, tôi giữ một lời hứa khác với nhân dân Hoa Kỳ, bằng cách bổ nhiệm thẩm phán Neil Gorsuch vào Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ.”

Trong hơn một thập kỷ qua trong tư cách là một thẩm phán liên bang, Gorsuch đã là một người bảo vệ đáng tin cậy cho quyền tự do tôn giáo theo hiến pháp và luật định. Đáng chú ý nhất, là ông đã chống lại việc chính quyền Obama từ chối xem cộng đoàn các nữ tu dòng Chị em Bé Mọn của Người Nghèo là một tổ chức tôn giáo, và buộc họ phải trả tiền cho các dịch vụ ngừa thai trong bảo hiểm sức khoẻ. Gorsuch cũng là tác giả của một cuốn sách chống lại an tử và việc cho phép các bác sĩ trợ tử, trong đó ông kiên định với nguyên tắc cơ bản là “tất cả mọi người tự bản chất đều có giá trị”. Tuy là người Tin Lành nhưng quan điểm của ông Gorsuch rất gần gũi với đức tin Công Giáo và các học thuyết xã hội Công Giáo.

Theo trình tự pháp lý, việc bổ nhiệm ông Neil Gorsuch còn phải được Thượng Viện Hoa Kỳ thông qua. Hiện nay, đảng Cộng Hòa chiếm được 52 ghế tại Thượng Viện khóa 115. Đảng Dân Chủ chỉ có 46 ghế và phe độc lập 2 ghế. Việc thông qua sẽ không khó khăn gì.

Sau cái chết đột ngột của thẩm phán Antonin Scalia, ngày 16 tháng Ba năm ngoái 2016, Obama bổ nhiệm thẩm phán liberal Merrick Garland. Lúc đó, Thượng Viện khóa 114 với 54 ghế trong tay đảng Cộng Hòa đã quyết định không đưa ra bỏ phiếu vì cho rằng sắp hết nhiệm kỳ, không có nhiều giờ để bàn bạc. Thật ra, còn tới 293 ngày mới hết nhiệm kỳ! Chiến thuật “cù nhầy” đã mang lại thắng lợi. Giấc mơ vào Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ của thẩm phán liberal Merrick Garland tan theo Quốc Hội khóa 114. Do đó, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ vẫn còn trống một chỗ để ông Gorsuch có cơ hội thay thế thẩm phán Antonin Scalia.

Thẩm phán Gorsuch năm nay mới 49 tuổi, có nghĩa ông sẽ ngồi ở Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ còn lâu lắm. Không ai biết trước ngày về hưu hay qua đời của một trong các thẩm phán liberal lớn tuổi, những người ủng hộ “hôn nhân đồng tính”, phá thai, an tử và trợ tử. Nếu một biến cố như thế xảy ra trong thời gian ông Trump còn làm tổng thống thì một tỷ lệ các thẩm phán phò sinh đáng tin cậy ở Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ có thể là 5-4 hay thậm chí 6-3. Và tỷ lệ tốt lành đó kéo dài hàng thập kỷ. Thật quá là tốt lành.

3. Căng thẳng tôn giáo tại Miến Điện tiếp tục tăng

Một cố vấn pháp lý cho đảng cầm quyền Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ của Miến Điện đã bị bắn chết bên ngoài một sân bay tấp nập nhất của thủ đô Yangon.

Cảnh sát bắt giữ một tay súng đã giết chết Ko Ni 65 tuổi, một thành viên nổi bật của người Hồi giáo thiểu số tại Miến Điện.

Vụ ám sát xảy ra giữa lúc căng thẳng càng ngày càng tăng cao tại Miến Điện, nơi Phật giáo chiếm đa số, trong khi lãnh tụ Aung San Suu Kyi đang bị áp lực quốc tế sau các hoạt động quân sự quá nặng tay trong một khu vực ở phía tây bắc Miến Điện nơi dân cư chủ yếu là người Hồi giáo.

San Naing, trợ lý của ông Ko Ni, là nhân chứng có mặt tại hiện trường cho biết như sau:

“Một tay súng đã bắn vị luật sư ở phía trước nhà ga chính của Sân bay quốc tế Yangon vào khoảng 5:00 chiều Chúa Nhật.”

Cô cho biết thêm: “Một người đàn ông mặc chiếc áo sơ mi màu hồng, quần short, đi dép cầm một khẩu súng lục bắn vào đầu của ông Ko Ni từ phía sau khi ông đang bế một đứa trẻ trên tay.”

San Naing cho biết là ông Ko Ni lúc đó đang bế đứa cháu nội của mình.

Một người lái xe taxi đã cố gắng ngăn chặn tay súng này cũng đã bị giết chết.

Một quan chức cảnh sát nói với Reuters rằng nghi phạm là một công dân Miến Điện 53 tuổi sống ở trung tâm thành phố Mandalay.

Ông Ko Ni chết khi đang ôm đứa cháu nội của mình khi bước ra khỏi nhà ga sân bay trở về từ Jakarta. Ko Ni, một chuyên gia về luật hiến pháp, đã lên tiếng chống lại vai trò quá áp đảo của quân đội, mặc dù các tướng lãnh đã bàn giao quyền lực cho chính quyền dân sự Suu Kyi vào tháng Tư năm ngoái.

Ko Ni đã cùng Bộ trưởng Thông tin Pe Myint đến thăm Indonesia nơi người Hồi giáo chiếm đa số như là một cơ hội để chia sẻ kinh nghiệm hòa giải dân tộc. Phái đoàn bao gồm một số các nhà lãnh đạo Hồi giáo Miến Điện, và cả một số đại diện của dân tộc thiểu số Rohingya.

Đặc phái viên về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc tại Miến Điện, là bà Yanghee Lee, đã gặp Ko Ni trong một chuyến thăm nước này hồi tháng Giêng năm nay.

4. Rodrigo Duterte đình chỉ các vụ hành quyết liên quan đến ma túy

Duterte đã đụng độ rất mạnh với các nhà lãnh đạo Giáo Hội trong thời gian qua. Ông đã thành lập một đội hành quyết bắn bỏ bất cứ ai bị nghi ngờ có dính líu đến việc mua bán ma túy. Các Giám Mục Phi Luật Tân lên án hành động này vì quá nhiều người chết, nhiều người chết oan, và nhiều người tuy có tham gia vào việc mua bán ma túy nhưng chỉ là cò con, còn những tay trùm ma túy vẫn ung dung sống ngoài vòng pháp luật. Các Giám Mục tin rằng những người dính líu đến ma túy, tuy có tội, vẫn phải được xét xử cẩn thận, chứ không thể bị giết một cách phi pháp như thế.

Sau khi đã có hơn 7,000 người thiệt mạng sau khoảng 2,250 cuộc hành quân của cảnh sát, Duterte ra lệnh đình chỉ các hoạt động chống ma tuý vì cho rằng cảnh sát Phi Luật Tân “tham nhũng đến tận căn”.

Duterte, từ chỗ kiên định hỗ trợ cho các hành động của cảnh sát, đã quay ra cáo buộc là khoảng 40 phần trăm lực lượng này là một bọn tham nhũng, “tồi tệ không thua gì các tên trùm ma túy”.

Biến cố này đã xảy ra sau khi biệt đội hành quyết của cảnh sát bị cáo buộc đã bắt cóc, đòi tiền chuộc và giết hại một doanh nhân Hàn Quốc để thủ tiêu các tang chứng. Ông Jee Ick-joo, 53 tuổi, đã bị bắt vào tháng 10 năm ngoái và được tin là đã bị biệt đội hành quyết của cảnh sát giết chết. Vụ này đã tạo ra căng thẳng trong quan hệ ngoại giao giữa Phi Luật Tân và Nam Hàn.

Tổ chức Human Rights Watch có trụ sở tại New York đã cáo buộc rằng việc đình chỉ chiến dịch chống ma túy chỉ là một động tác giả và lực lượng cảnh sát Phi Luật Tân đã bị đưa ra làm một diễn viên chết thế trong quan hệ với công chúng của Duterte. Tổ chức này nói Duterte phải nhận trách nhiệm về làn sóng các vụ giết người liên quan đến ma túy được tung ra sau khi ông nhậm chức cách đây bảy tháng.

Cuộc chiến ma túy đã đánh động nhiều quốc gia phương Tây. Các nhóm nhân quyền cáo buộc Duterte phải chịu trách nhiệm về làn sóng các vụ giết người ngoài vòng pháp luật của cảnh sát.

5. Một cậu bé Yazidi được đoàn tụ với gia đình sau khi bị bọn khủng bố Hồi Giáo IS bán

Một cậu bé Yazidi đã bị bọn khủng bố Hồi Giáo IS bắt cóc và bán lại tại Mosul, đã được đoàn tụ với gia đình của mình sau hai năm lưu lạc.

Một gia đình tan nát vì chiến tranh đã có niềm vui được nhìn thấy đứa cháu trai của họ một lần nữa. Nhưng một cặp vợ chồng khác lại phải đau lòng. Bé trai Ayman là người Yazidi. Chú bé bị bọn khủng bố Hồi Giáo IS bắt cóc lúc mới 4 tuổi. Trong hai năm qua, cậu bé này đã sống chung với một đôi vợ chồng người Hồi giáo tại Mosul, dưới sự kiểm soát của bọn khủng bố Hồi Giáo IS.

Họ đã đấu giá mua lại cậu bé từ một trại trẻ mồ côi, nơi các chiến binh bán trẻ em. Họ đã phải trả 500 Mỹ kim. Bà Umm Ahmed, mẹ nuôi của cậu nói

“Chúng tôi đã lấy nhau được một thời gian dài nhưng chúng tôi không có con, vì vậy tôi muốn nhận một đứa trẻ làm con nuôi, và đặc biệt là một đứa trẻ trong tình huống này, một cậu bé Yazidi, trong một tình huống bi thảm. Tôi muốn làm giảm bớt những đau khổ của nó.”

Nhưng hiện nay hai vợ chồng này lại phải chịu đau khổ khi cậu bé được họ yêu thương và bảo vệ trong một thời gian dài không còn trong căn nhà của họ nữa. Umm Ahmed cho biết:

“Từ ngày nó về với gia đình, tôi đã khóc, cả vào ban đêm”

Khi lực lượng Iraq tái chiếm được Mosul. Hai ông bà Ahmed đã muốn Ayman được đoàn tụ lại với gia đình. Họ đã nhờ các tổ chức Liên Hiệp Quốc tìm kiếm gia đình cậu.

Ayman còn trẻ để hiểu lý do tại sao cậu phải ra đi. Trên đường đến gặp gia đình thật của mình, cậu đã yêu cầu cha mẹ nuôi của mình cùng đi. Cha mẹ thực sự của Ayman vẫn đang mất tích. Cậu hiện sống với người chú và ông bà ngoại.

6. Bên trong khách sạn lớn nhất tại Mosul

Khách sạn Ninivê là khách sạn 5 sao lớn nhất tại Mosul. Khi chiếm được khách sạn này, bọn khủng bố Hồi Giáo IS biến nơi này thành nơi cư ngụ của bọn cầm đầu sau khi nhận ra các máy bay của liên quân vì một lý do nào đó đã không oanh kích vào tòa nhà này. Tại đây cũng diễn ra những bữa tiệc gọi là lễ cưới của các chiến binh thánh chiến Hồi Giáo với những người phụ nữ bị bắt làm nô lệ tình dục. Bên cạnh đó, nơi đây cũng được dùng làm cơ sở để chế tạo các loại bom mìn và vũ khí.

Từ khách sạn này nhìn ra là sông Tigiris. Bờ bên kia, chỉ cách khách sạn này không quá 200m, vẫn còn trong vòng kiểm soát hoàn toàn của bọn khủng bố Hồi Giáo IS. Các taay súng bắn tỉa của IS, thỉnh thoảng vẫn nhắm bắn vào bất cứ ai chúng trông thấy nơi các cửa sổ của khách sạn này.

Quân Iraq đang thu dọn khách sạn này. Mặc dù chính thức bọn khủng bố Hồi Giáo IS cấm không được hút thuốc, trong các phòng ốc người ta thấy đầy những bao thuốc lá. Bên cạnh đó là đống rác rưởi và các tử thi của quân khủng bố bốc lên mùi tử khí rất khó chịu.

Giai đoạn hai của chiến dịch giải phóng Mosul được tin là có nhiều khó khăn. Phần phía Tây của thành phố chằng chịt các ngõ hẻm rất nhỏ mà các xe quân sự không thể đi vào. Bên cạnh đó, bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã dành nhiều nỗ lực chuẩn bị phòng thủ trong khu vực này.

Lực lượng an ninh Iraq tại miền Đông Mosul khó có thể vượt sông Tigris để tấn công bởi vì tất cả năm chiếc cầu đã bị hư hỏng nặng nề. Các cuộc tấn công sẽ phải xuất phát từ phía nam và phía tây.

7. Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk kêu gọi các tín hữu Kitô cầu nguyện cho Ukraine.

Hôm thứ Năm mùng 2 tháng Hai, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk, là Thượng Phụ Công Giáo Nghi Lễ Đông Phương tại Ukraine, đã kêu gọi gia tăng áp lực toàn cầu đối với Nga vì phiến quân do Mạc Tư Khoa hậu thuẫn và lực lượng chính phủ đã đụng độ dữ dội xung quanh thị trấn Avdiivka ở phía Đông Ukraine khiến ít nhất 25 người đã bị thiệt mạng.

Phiến quân đã bắn đạn súng cối và tên lửa vào thị trấn Avdiivka nằm ở phía chính bắc của thành phố Donetsk, là nơi phiến quân thân Nga đã chiếm làm thủ đô.

Việc bùng phát bạo lực từ hôm Chúa Nhật 29 tháng Giêng đã khơi lại nỗi sợ hãi một cuộc chiến tranh toàn diện ở phía đông Ukraine sau một thời gian tạm lắng sau 33 tháng đổ máu ở Ukraine.

Đức Tổng Giám Mục cũng kêu gọi các tín hữu gia tăng lời cầu nguyện. Ngài nói: “Ukraine cần hòa bình. Chúng ta biết rằng hòa bình đích thực chỉ có thể được Cha trên trời ban cho chúng ta, nhưng không có sự tham gia của chúng ta trong lời cầu nguyện và trong các hỗ trợ tinh thần, không có sáng kiến nào có thể đạt được các mục tiêu đề ra.”

Cho đến nay đã có hơn 10,000 người thiệt mạng trong cuộc chiến đòi ly khai của các phiến quân do Nga ủng hộ.

8. Tổng thống Ukraine bày tỏ quan ngại về các hoạt động leo thang chiến tranh của Nga tại Ukraine

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Việc pháo kích vào Avdiivka khiến hơn 20,000 người không có điện và gas sưởi ấm trong thời tiết băng giá mùa đông. Các hoạt động cứu trợ của các cơ quan Liên Hiệp Quốc cũng gặp nhiều khó khăn và trở nên nguy hiểm cho các nhân viên cứu trợ.

Cuộc chiến mới nhất tại Ukraine đã xảy ra vào một thời điểm bước ngoặt khi Ukraine mưu tìm sự hỗ trợ của tân Tổng thống Mỹ Donald Trump nhằm chống lại các hành động gây hấn của Vladimir Putin.

Mạc Tư Khoa và Kiev đã đổ lỗi cho nhau trong vòng bạo lực mới nhất này. Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko cho biết trong một tuyên bố rằng:

“Thế giới cần phải tích cực hơn nữa trong việc gây sức ép với Nga để kết thúc các cuộc pháo kích”.

Tham mưu trưởng quân đội Ukraina cũng kêu gọi các đại diện của nhóm siêu cường G7 và các vị đại sứ thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc chú ý đến tình trạng bạo lực mới nhất tại Ukraine.

“Mạc Tư Khoa đang đặt Avdiivka trên bờ vực của một thảm họa nhân đạo,” ông Poroshenko nói.

Thành phố công nghiệp Avdiivka đã bị phiến quân ly khai thân Nga chiếm khi cuộc xung đột bắt đầu vào tháng Tư năm 2014, sau cuộc lật đổ nhà lãnh đạo thân Nga tại Kiev. Tuy nhiên, quân đội Ukraine đã chiếm lại được thành phố này vài tháng sau đó.

Thị trấn có một nhà máy than cốc khổng lồ, một nhà máy sản xuất khí đốt tự nhiên để tạo ra nhiệt và điện và cũng có đường giao thông quan trọng.

9. Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc lên án hành động gây hấn của Nga ở Ukraine.

Cũng liên quan đến cuộc chiến tại Ukraine, tân Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc là bà Nikki Haley đã lên án “hành động gây hấn” của Nga ở Ukraine.

Bà Nikki Haley nói:

“Tôi thấy thật không may khi vào lần xuất hiện đầu tiên của tôi ở đây, tôi phải lên án các hành động hiếu chiến của Nga”

“Nó không nên xảy ra như thế, hay không nên như thế. Chúng tôi muốn cải thiện mối quan hệ của chúng tôi với Nga. Tuy nhiên, tình hình nghiêm trọng ở miền đông Ukraine là một trong những đòi hỏi cần lên án rõ ràng và mạnh mẽ các hành động của Nga. “

Nhận xét của bà Haley đã được đưa ra trong bối cảnh có những suy đoán về ý định của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đối với Mạc Tư Khoa. Nhiều lần ông Trump đã ca ngợi Tổng thống Vladimir Putin của Nga và bày tỏ mong muốn quan hệ được cải thiện giữa hai nước.

Bà Haley cũng đã liên kết những căng thẳng tại Đông Ukraine với lệnh trừng phạt Mạc Tư Khoa vì vụ sáp nhập Crimea vào Nga ba năm trước đây. Bà nói:

“Đông Ukraine tất nhiên không phải là phần duy nhất của quốc gia này đang chịu đau khổ vì hành động hung hăng của Nga. Hoa Kỳ tiếp tục lên án và kêu gọi chấm dứt ngay lập tức sự chiếm đóng của Nga tại Crimea”.

“Crimea là một phần của Ukraine. Lệnh trừng phạt của chúng tôi liên quan đến Crimea sẽ được duy trì cho đến khi Nga trả lại quyền kiểm soát bán đảo này cho Ukraine”.

Hoa Kỳ và các cường quốc phương Tây khác đã áp đặt lệnh trừng phạt Nga vào năm 2014 khi Mạc Tư Khoa sáp nhập bán đảo Crimea vào Nga và hỗ trợ cho người ly thân Nga ở miền đông Ukraine.

10. Đức Tổng Giám Mục Erbil bị ảnh hưởng bởi lệnh cấm nhập cảnh của ông Trump

Đức Tổng Giám Mục Bashar Warda của Công Giáo nghi lễ Canđê tại Erbil đã buộc phải hoãn chuyến thăm Hoa Kỳ đã được dự kiến trước sau lệnh cấm nhập cảnh tạm thời của Tổng thống Donald Trump.

Hôm thứ Sáu 27 tháng Giêng, ông Trump đã ra lệnh cấm công dân của bảy quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo là Iraq, Iran, Syria, Sudan, Somalia, Libya và Yemen không được nhập cảnh vào Hoa Kỳ ít nhất trong vòng 90 ngày tới.

Tân Tổng thống cũng đình hoãn chương trình tị nạn sang Mỹ trong 120 ngày và cấm việc nhập cảnh từ Syria vào Mỹ vô thời hạn.

Theo dự trù, Đức Tổng Giám Mục Bashar Warda sẽ có các cuộc họp với Đức Cha John Kozar, chủ tịch Hiệp hội Phúc lợi cho Công Giáo vùng Cận Đông, và dân biểu Chris Smith để thảo luận về tình trạng bị khủng bố của các Kitô hữu Iraq.

Tuy bị ngăn trở không thể sang Hoa Kỳ, Đức Tổng Giám Mục Bashar Warda đã hoan nghênh chính sách mới trong sắc lệnh của Tổng thống Trump nhằm ưu tiên cho các tôn giáo thiểu số khi nộp đơn xin tị nạn.

Đức Tổng Giám mục của Erbil nói rằng chính sách ưu đãi này là một lợi ích cho các tín hữu Kitô đau khổ ở Trung Đông. Tuy nhiên, ngài nói thêm chính sách này chỉ thật sự hữu ích nếu Hoa Kỳ hỗ trợ cho tất cả các tôn giáo thiểu số, chứ không chỉ các Kitô hữu. Đầu tuần này, Đức Thượng Phụ Louis Raphael Sako, bày tỏ lo ngại rằng việc ưu đãi các Kitô hữu cuối cùng lại có thể làm hại các Kitô hữu, vì những chính sách như thế có thể làm tăng lên sự oán ghét trong lòng những người láng giềng Hồi giáo của họ.

Đức Tổng Giám mục Warda nói rằng Kitô hữu Iraq “vui mừng khi thấy ông Trump thắng cử”, và hy vọng rằng nhà lãnh đạo mới của Mỹ sẽ thay đổi chính sách từ trước đến nay của Mỹ là phớt lờ những đau khổ của các Kitô hữu Trung Đông.

11. Thánh lễ kính thánh Gioan Bosco tại Turinô

Quý vị và anh chị em đang theo dõi những hình ảnh trong thánh lễ kính thánh Don Bosco tại đền thánh Đức Mẹ Phù Hộ các tín hữu tại thành phố Turinô vào ngày 31 tháng Giêng vừa qua. Thánh lễ đã do Đức Tổng Giám Mục Cesare Nosiglia. Lễ kính thánh nhân tại quê hương của ngài luôn được tổ chức tại đền thánh Đức Mẹ Phù Hộ. Và đây là lý do.

Bình thường mỗi khi nghe nói đến tên thánh Don Bosco, sinh năm 1815 và qua đời năm 1889, người ta nghĩ ngay về ngài như là một nhà sự phạm tài ba và một người cha đầy nhân từ và thánh thiện của thanh thiếu niên. Nhưng rất ít người biết được rằng thánh Don Bosco là một vị Tông đồ nhiệt thành của Mẹ Maria, là một vị Linh Mục có lòng tôn sùng Mẹ Maria các đặc biệt.

Trong bài giảng Đức Tổng Giám Mục Cesare Nosiglia đã tóm lược lại tiểu sử ngài như sau: Don Giovanni Bosco sinh ngày 16 tháng 8 năm 1815 ở Becchi thuộc thành phố Turinô bên Ý. Gia đình Bosco là một gia đình nông dân nghèo, chất phác. Vì thế, Gioan đã phải trải qua một tuổi trẻ đầy thiếu thốn chật vật trong đủ mọi lãnh vực. Nhưng tất cả những khó khăn thiếu thốn đó đã không thể ngăn cản cậu trên con đường tiến tới lý tưởng làm Linh Mục mà cậu hằng ấp ủ: Ngày 6 tháng 6 năm 1841 thầy Gioan được thụ phong Linh Mục, một ngày hạnh phúc nhất của đời thầy. Từ nay, cha Don Gioan Bosco được sống gần gũi và kết hiệp với Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể hơn và qua đó cha càng yêu mến Mẹ Maria hơn, vì như xưa trong mái nhà Na-da-rét, Chúa Giêsu luôn có Mẹ Thánh của Người bên cạnh, thì nay trong Nhà Tạm trên bàn thờ, Chúa Giêsu Thánh Thể cũng luôn có Mẹ Maria bên cạnh.

Sau khi chịu chức Linh Mục, cha Don Bosco đã hoàn toàn dấn thân cho công tác giáo dục các thanh thiếu niên bị bỏ rơi, sống vất vưỡng lang thang trên các đường phố. Năm 1846 cha đã sử dụng chính ngôi nhà của mình để làm chỗ nuôi dạy các trẻ em mà ngài thu gom được khắp các đường phố. Nhưng để cho công cuộc giáo dục các thanh thiếu niên bất hạnh được bảo đảm lâu bền, cha Don Bosco đã thành lập Tu Hội Salêdiêng vào năm 1859, chọn thánh Phanxicô Salêsiô làm Đấng Bảo Trợ, và năm 1874 cha lại lập thêm một ngành dành riêng cho phái nữ lấy tên là Maria Hilf - (Đức Mẹ Hằng cứu giúp). Ngày nay công tác giáo dục của các Tu Sĩ Dòng Don Bosco lan rộng đến hầu như khắp các nước trên các châu lục và đã, đang và còn tiếp tục đóng góp vào chương trình giáo dục của các nước sở tại một cách hết sức hiệu quả về cả các phương diện trí dục lẫn đức dục, văn hóa, kỹ thuật. Vì thế, vào thế kỷ 9, thánh Don Bosco được coi là một nhà giáo dục vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại và một vị thánh thời đại quan trọng nhất của Giáo Hội.

Ngày 31 tháng Giêng năm 1888, Linh Mục Don Giovanni Bosco đã qua đời trong hương thơm thánh thiện tại thành phố Turinô, giữa tiếng khóc thương của hàng ngàn thanh thiếu niên, những đứa con tinh thần mà ngài đã suối đời thương yêu, tận tụy chăm sóc nuôi nấng và giáo dục.

Nhưng điểm đặc biệt và nổi bật nhất trong đời sống thiêng liêng của thánh Gioan Bosco, là lòng sốt sắng tôn sùng Đức Mẹ một cách sâu xa. Chính vì yêu mến Mẹ Maria quá tha thiết, nên thánh nhân càng yêu thương các thanh thiếu niên hơn, nhất là những trẻ em đường phố, những trẻ em bị bỏ rơi bất hạnh.

12. Ngân hàng trung ương Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục chống trả sự sa sút của đồng lira

Kinh tế của Thổ Nhĩ Kỳ phụ thuộc mạnh vào kỹ nghệ du lịch. Nước này có một loạt các di tích lịch sử, trong đó phần lớn là các di tích Kitô Giáo như đền thờ Đức Mẹ Yên Giấc, Vương Cung Thánh Đường Thánh George của Tòa Thượng Phụ Chính Thống Giáo Constantinople, và có những khu nghỉ mát nổi tiếng bên bờ biển Aegean, Địa Trung Hải, và Biển Đông. Ở đỉnh cao vào năm 2014, Thổ Nhĩ Kỳ thu hút khoảng 42 triệu khách du lịch nước ngoài, được xếp hạng thứ 6 trong những nơi thu hút mạnh khách du lịch trên thế giới.

Tuy nhiên con số này đã giảm xuống còn khoảng 36 triệu vào năm 2015 và xuống thấp hơn nữa trong năm 2016, do sự gia tăng bạo lực chính trị, các căng thẳng chính trị với Nga, và các cuộc tấn công khủng bố.

Đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ, do đó, đã bị mất giá liên tục. Hiện nay, đồng lira là một trong những đồng tiền tệ hại nhất trên thế giới với hối suất sụt giảm liên tục trong 7 năm qua.

Ngân hàng trung ương Thổ Nhĩ Kỳ đã tuyên bố sẽ tiếp tục các biện pháp không chính thống để chống lại sự sụt giảm của đồng lira. Ngân hàng này nói rằng việc cố ý hạ giảm lãi suất của họ đang có tác động và họ sẽ tiếp tục làm như thế cho đến khi tình trạng lạm phát được cải thiện.

Thống đốc ngân hàng trung ương Thổ Nhĩ Kỳ, là Murat Cetinkaya, đã từ chối không tăng nhưng còn cố ý hạ giảm lãi suất ngân hàng. Đây là một biện pháp đang gây tranh cãi tại Thổ Nhĩ Kỳ. Ông tin tưởng phương pháp không chính thống của mình góp phần chống lại việc đồng lira đang rơi tự do.

Ông Murat nói “Các bước mà chúng tôi đã thực hiện, bao gồm chính sách phản ứng của chúng tôi trong tháng Giêng cho thấy các ngân hàng đã đưa ra một mô hình quản lý hiệu quả cho sự ổn định tài chính và ổn định giá.”

Trong thực tế, bất chấp những gì ông Murat tuyên bố, đồng lira đã giảm hơn 7 phần trăm chỉ trong Giêng này.

13. Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Ngày Đời Sống Thánh Hiến

Chiều mùng 2 tháng Hai, Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh và cũng là Ngày Thế giới về đời sống thánh hiến lần thứ 31, Đức Thánh Cha đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô và kêu gọi các tu sĩ tránh cám dỗ tìm cách “sinh tồn” bằng mọi giá.

Đồng tế với Đức Thánh Cha có Đức Hồng Y João Aviz de Braz, người Brazil, Tổng Trưởng Bộ các dòng tu, Đức Tổng Giám Mục Tổng thư ký José Rodríguez Carballo, dòng Phanxicô, các chức sắc của Bộ này, một số các cha Bề trên Tổng quyền, và các linh mục dòng, trước sự hiện diện của hàng ngàn tu sĩ nam nữ và giáo dân.

Buổi lễ bắt đầu với nghi thức làm phép nến và đi rước tiến lên bàn thờ, do 50 tu sĩ nam nữ, đại diện cho các hình thái khác nhau của đời sống Thánh Hiến, đảm trách.

Trong bài giảng, sau khi bình luận bài ca hy vọng của cụ già Simeon và nữ ngôn sứ Anna tín thác nơi lời hứa của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Thiên Chúa không đánh lừa, niềm hy vọng nơi Ngài không làm chúng ta thất vọng, Chúa đến gặp gỡ dân Ngài.

Đức Thánh Cha nói thêm:

“Thái độ ấy làm phong phú chúng ta, nhất là giữ gìn chúng ta khỏi một cám dỗ có thể làm cho đời sống thánh hiến của chúng ta trở nên khô cằn, son sẻ, đó là ‘cám dỗ sinh tồn’. Đó là một tai ương có thể dần dần lẻn vào và ở lại trong chúng ta. Thái độ sinh tồn làm cho chúng ta phản ứng chống lại những thay đổi; sợ sệt, và dần dần âm thầm khép kín mình trong nhà, trong các khuôn khổ của mình. Nó phóng dội chúng ta về đằng sau, vào những cử chỉ vinh quang, nhưng thuộc về quá khứ, thay vì khơi lên tinh thần sáng tạo ngôn sứ, xuất phát từ những giấc mơ của các vị sáng lập dòng của chúng ta. Nó làm cho chúng ta tìm những con đường tắt để trốn chạy những thách đố đang gõ cửa nơi chúng ta”.

Đức Thánh Cha cũng cảnh giác rằng: “Tâm lý sống còn tước đoạt sức mạnh các đoàn sủng của chúng ta vì nó làm cho chúng ta thuần hóa các đoàn sủng ấy, làm cho các đoàn sủng vừa tầm tay chúng ta, nhưng không còn sức mạnh sáng tạo để làm chúng ta bùng lên.. Cám dỗ sinh tồn khiến chúng ta quên đi ơn thánh, làm cho chúng ta trở thành những nhà chuyên nghiệp về thánh thiêng chứ không phải là những người cha, người mẹ, người anh em của niềm hy vọng mà chúng ta được kêu gọi loan báo”.

Đức Thánh Cha nói thêm rằng: “Tất cả chúng ta đều ý thức về sự biến đổi đa văn hóa chúng ta đang trải qua, không ai nghi ngờ về điều đó. Vì thế, điều quan trọng là những người thánh hiến phải được tháp nhập với Chúa Giêsu trong cuộc sống, trong trọng tâm của những biến đổi lớn. Sứ mạng, theo mỗi đoàn sủng riêng, nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta được sai đi để trở thành men, làm cho khối lượng cụ thể này được dậy men. Dĩ nhiên là có thể có những “bột” tốt hơn, nhưng Chúa mời gọi chúng ta hãy làm dậy men ở đây và trong lúc này, với những thách đố được đề ra cho chúng ta. Không phải với một thái độ tự vệ, để cho sự sợ hãi thúc đẩy, nhưng là tra tay cầm cầy, tìm cách làm cho hạt giống được tăng trưởng giữa những cỏ lùng cỏ dại. Đặt Chúa Giêsu ở giữa dân Ngài có nghĩa là có một con tim chiêm niệm, có khả năng nhìn nhận cách thức Chúa bước đi qua những nẻo đường trong thành thị chúng ta, nơi đất nước chúng ta, trong các khu phố của chúng ta. Đặt Chúa Giêsu ở giữa dân Ngài có nghĩa là đảm trách và muốn giúp vác đỡ thánh giá của anh chị em chúng ta, muốn động chạm đến các vết thương của Chúa Giêsu trong các vết thương của thế giới, đang bị thương và khao khát, cầu mong được sống lại”.

14. Đức Hồng Y Gerhard Müller nói: Cho người tái hôn rước lễ là chống lại luật Thiên Chúa

Đức Hồng Y Gerhard Müller, Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã đưa ra một khẳng định mạnh mẽ nhất của ngài từ trước đến nay liên quan đến vấn đề gây tranh cãi là việc rước lễ của người ly dị rồi tái hôn.

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí Il Timone của Ý, Đức Hồng Y Müller được hỏi là liệu các giáo huấn đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tái khẳng định trong Familiaris Consortio có còn giá trị nữa không.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho rằng những người ly dị và tái hôn không thể rước lễ, trừ khi họ cố gắng để sống “tiết dục hoàn toàn”.

Đức Hồng Y Müller cho biết điều kiện này: “Tất nhiên, vẫn giữ nguyên giá trị, bởi vì nó không chỉ là một luật của Đức Gioan Phaolô II, nhưng ngài đã trình bày một yếu tố thiết yếu của thần học luân lý Kitô giáo và thần học về các bí tích.”

Trong Familiaris Consortio, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng việc cấm rước lễ trong trường hợp những người ly dị và tái hôn được dựa trên Kinh Thánh và các liên kết nội tại giữa Thánh Thể và hôn nhân vì người ấy đang sống trong một mối quan hệ tình dục “mâu thuẫn một cách khách quan với sự kết hiệp trong tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội được biểu thị và chi phối bởi Thánh Thể”.

Đức Hồng Y nói với tờ Il Timone rằng điều này khiến cho việc rước lễ của những người đã ly dị và tái hôn là không thể được: “Đối với chúng ta, hôn nhân là biểu hiện cho sự dự phần trong sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô là chú rể, và hiền thê của Ngài là Giáo Hội. Đây không phải là một sự tương đồng mơ hồ, như một số người đã phát biểu trong Thượng Hội Đồng. Không! Đây là bản chất của bí tích, và không có quyền lực ở trên trời hay dưới đất, dù là thiên thần, hay giáo hoàng, dù là một công đồng, hay một Hội Đồng Giám Mục cũng không có năng quyền để thay đổi.”

Một phần của cuộc phỏng vấn đã được Matthew Sherry dịch sang tiếng Anh và đăng trên tờ L'Espresso. Trong đó, Đức Hồng Y Müller cũng nói rằng Tông huấn Amoris Laetitia của Đức Giáo Hoàng phải được đọc “trong ánh sáng toàn bộ giáo lý của Giáo Hội Công Giáo”.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một trong vài vị giáo hoàng, trong đó có Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, đã tái khẳng định học thuyết về việc cấm rước lễ đối với người ly dị và tái hôn. Điều này cũng đã được giảng dạy bởi các nhà thần học, các Giáo Phụ, các Công Đồng tiên khởi, và trong những thập kỷ gần đây bởi Bộ Giáo lý Đức tin.

Gần đây, hai giám mục trên đảo Malta nói rằng, những người ly dị và tái hôn cứ việc rước lễ nếu họ thấy rõ rằng họ đã “hòa giải với Thiên Chúa”. Hai vị này tuyên bố rằng ý kiến của họ được dựa trên Amoris Laetitia. Các giám mục Đức, trong tài liệu về Amoris Laetitia - vừa được phê chuẩn, cũng cho những người ly dị và tái hôn được rước lễ trong một số trường hợp.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức Hồng Y Müller nói: “Amoris Laetitia rõ ràng phải được giải thích dưới ánh sáng của toàn bộ giáo lý của Giáo Hội.” Ngài nói thêm: “Thật là không đúng khi nhiều giám mục tuỳ tiện giải thích Amoris Laetitia theo cách họ hiểu giáo huấn của Đức Giáo Hoàng. Điều này không phù hợp với giáo lý Công Giáo.”

Đức Hồng Y nói thêm là nhiều người cần phải học hỏi nhiều hơn về học thuyết của Giáo Hội đối với chức giám mục, chức vụ ấy không phải là để cung cấp các diễn dịch mới lạ về huấn quyền của giáo hoàng. Ngài nói: “Các giám mục, như là thầy dạy Lời Chúa, trước tiên phải là những người được đào tạo tốt để tránh rơi vào nguy cơ người mù dẫn người mù,”. Ngài cũng cảnh báo chống lại những kẻ “ngụy biện” và những “người nhiều quỉ kế” đang cố hạ giảm giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân.

15. Cảnh sát Đức khám xét một đền thờ Hồi Giáo bắt giữ một tên khủng bố nguy hiểm

Sáng sớm ngày thứ Tư mùng 1 tháng Hai, lực lượng cảnh sát đặc biệt của Đức đã khám xét ngôi đền thờ Hồi Giáo Bilal tại Frankfurt. Một người Tunisia tị nạn, 36 tuổi, đã bị bắt giữ vì nghi ngờ có dính líu đến một kế hoạch tấn công khủng bố ở Đức và một chương trình tuyển mộ các chiến binh thánh chiến Hồi Giáo.

Các quan chức Đức cho biết, trong cuộc điều tra sau đó, họ phát hiện ra nghi can này chính là kẻ đã gây ra vụ khủng bố đẫm máu vào năm 2015 tại viện bảo tàng của thủ đô Tunis, là nơi rất được khách du lịch phương Tây ưa chuộng.

Trong một tuyên bố đưa ra hôm 3 tháng Hai, văn phòng công tố viên của Frankfurt cho biết các nguồn tin tình báo của Đức nghi ngờ người tị nạn Tunisia này, từ tháng Tám năm 2015, đã tuyển dụng các chiến binh thánh chiến cho bọn khủng bố Hồi Giáo IS ở Đức để đưa sang chiến đấu tại Syria và Iraq. Y cũng bị cáo buộc đã xây dựng một mạng lưới những người ủng hộ quân khủng bố Hồi Giáo IS với mục đích thực hiện các cuộc tấn công khủng bố.

Tờ báo Đức Die Welt nêu danh tính người Tunisia này là Haikel. Y đã sống tại Đức suốt một thập kỷ cho đến năm 2013, trước khi hồi hương về Tunisia. Tháng Ba, 2015 y tham gia vào vụ tấn công khủng bố tại viện bảo tàng Bardo ở thủ đô Tunis của Tunisia, giết chết 21 du khách nước ngoài. Năm tháng sau đó, tháng Tám năm 2015, y tái nhập cảnh vào Đức để xin tị nạn. Đơn xin tị nạn của y đã được thông qua dễ dàng vì y đã từng sống nhiều năm tại Đức và nói tiếng Đức rất trôi chảy.