Ngày 08-02-2015
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các Giám Mục Canada thất vọng trước phán quyết của Tối Cao Pháp Viện về trợ tử
Nguyễn Việt Nam
23:26 08/02/2015
Chủ tịch của Hội Đồng Giám Mục Canada nhận định rằng quyết định đồng thanh của Tòa án tối cao tại Canada bãi bỏ lệnh cấm các bác sĩ trợ tử cho thấy rõ xu hướng văn hóa "đặt quyền lợi cá nhân lên trên bất kỳ xem xét nào khác"

Đức Tổng Giám mục Paul-André Durocher cho biết các giám mục Công Giáo của Canada "rất thất vọng" trước quyết định này của Tòa án tối cao đưa ra hôm thứ Sáu 6 tháng 2, "mở rộng cửa" cho các bác sĩ trợ tử.

Tòa án cho biết việc cấm các bác sĩ trợ tử hạn chế quyền hiến định của một người về cuộc sống, quyền tự do và an ninh cá nhân của họ. Tòa án nói rằng một người lớn đang những bệnh tật không thể chữa được là nguyên nhân khiến họ "đau khổ trầm trọng và không thể chấp nhận được" có quyền yêu cầu bác sĩ trợ giúp tự tử.

Đức Tổng Giám mục Durocher cho biết:

"Chúng tôi đã hy vọng tòa án sẽ không chọn đi theo con đường này, một con đường mà chúng ta thấy rất nguy hiểm."

"Quyết định này chắc chắn là chiến thắng của quyền cá nhân trên bất kỳ xem xét nào khác. Tôi thấy nó là một phương pháp tiếp cận của pháp luật trong đó chỉ xem xét vấn đề một cách riêng lẻ, độc lập với các khía cạnh xã hội và cộng đồng khác.”

“Tất nhiên, theo truyền thống Công Giáo, chúng tôi rất ý thức, nhạy cảm, đến chiều kích xã hội của tất cả quyết định cá nhân. Chúng ta không phải là những hòn đảo, tách biệt với nhau. Chúng ta tạo thành một dân tộc và các quyết định đều ảnh hưởng đến tất cả những người khác.”

Kinh nghiệm ở các nước cho phép trợ tử như Bỉ và Hoà Lan, phần lớn những người xin trợ tử không hề tự nguyện. Họ bị bắt buộc phải làm như thế để tránh trở thành gánh nặng cho gia đình.
 
Các Giám Mục Slovakia thất vọng trước thái độ hờ hững của người Công Giáo trong cuộc trưng cầu ý kiến về gia đình
Nguyễn Việt Nam
23:37 08/02/2015
"Không phải tất cả các thế hệ đều có cơ hội để quyết định tương lai của quê hương họ." Các giám mục Slovakia đã đưa ra lời kêu gọi trên những tấm panô lớn có hình Đức Giáo Hoàng Phanxicô được dựng khắp mọi nơi trong một chiến dịch vận động rất tốn kém để mời gọi các tín hữu tích cực tham gia vào cuộc trưng cầu ý kiến về hôn nhân và cuộc sống gia đình hôm 07 tháng Hai.

Quốc gia Trung Âu này có tới 74% Công Giáo trong tổng số 5.4 triệu dân.

Một luật mới ở Slovakia đòi hỏi một số người đi bầu tối thiểu là 50% cũng như một đa số phiếu để thông qua định nghĩa hôn nhân như sự kết hợp của một người đàn ông và một người phụ nữ và cấm các cặp vợ chồng đồng tính không được nhận con nuôi.

Luật này cũng quy định rằng "trường học sẽ không yêu cầu trẻ em tham gia vào giáo dục tính dục hay trợ tử nếu cha mẹ hay con cái không đồng ý".

Dự luật thất bại vì chỉ có 21.4% cử tri đi bầu dù rằng hầu hết những người đi bầu đều ủng hộ dự luật.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Món Quà Mùa Xuân cho các em học sinh nghèo ở Lào Cai
Lm. Nguyễn Văn Thành
10:44 08/02/2015
Chỉ còn ít ngày nữa là hoa đào hoa mai nở rộ trên khắp quê hương yêu dấu, báo hiệu mùa xuân ấm áp đã đến nhưng cái rét vẫn còn đeo bám vùng Tây Bắc cho tới bây giờ. Các em học sinh các trường tiểu học vùng núi này vẫn phải chịu cảnh nghiệt ngã của mùa đông. Những hạt mưa lăn tăn đến từ dãy núi Hoàng Liên Sơn hùng vĩ càng làm cho dư âm của mùa đông còn đọng lại nơi bản làng nhiều hơn.

Hình ảnh

Cảm thương với những hoàn cảnh khó khăn về đời sống kinh tế, về điều kiện để khắc phục thời tiết khắc nghiệt, ngày 28/01/2015 giáo xứ Lào Cai tổ chức đi làm việc bác ái cho các trường Mầm non và Tiểu học tại các điểm dọc theo quốc lộ 70 thuộc huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Món quà chúng tôi chia sẻ với các em học sinh dân tộc nghèo là 400 chiếc áo ấm.

Lần này, chúng tôi đến chia sẻ với các em học sinh nghèo thuộc 4 trường: Trường Tiểu học Bản Phiệt, xã Bản Phiệt; Trường Mầm non và Tiểu học thôn Vi Mã Trên, thị trấn Phong Hải; Trường Tiểu học Phong Hải, thị trấn Phong Hải; Trường Tiểu học và Trung học Cơ sở Phong Niên. Tất cả những trường dành cho người dân tộc này đều nằm trong huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

Một điều đáng chú ý là sự phối hợp cách nhịp nhàng giữa giáo xứ Lào Cai và chính quyền huyện Bảo Thắng trong việc làm bác ái. Cả hai đều muốn làm cho các em bớt lạnh nhân dịp xuân về.

Tham gia trực tiếp vào chương trình “Món Quà Mùa Xuân” gồm:

Về phía giáo xứ Lào Cai có:
- Cha Giuse Nguyễn Văn Thành, quản xứ Lào Cai;
- Cha Giuse Vũ Văn Nguyên, phó xứ Lào Cai, đặc trách giáo xứ Phố Lu (Gx Phố Lu thuộc huyện Bảo Thắng);
- Cha Phêrô Nguyễn Đình Thái, phó xứ Lào Cai;
- Quý Ban hành giáo xứ Lào Cai và Phố Lu;
- Các bạn giới trẻ giáo xứ Lào Cai;
- Và đại diện các gia đình tài trợ cho chương trình “Món Quà Mùa Xuân” này.

Về phía chính quyền có:
- Ông phó phòng Nội Vụ huyện Bảo Thắng;
- Đại diện phòng Giáo Dục huyện Bảo Thắng;
- Chủ tịch các xã và các ban ngành có trường ở đó.

Theo chương trình, 8g00 chúng tôi xuất phát từ nhà xứ Lào Cai thuộc phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai để đến trường Tiểu học Bản Phiệt, cách khoảng 15km nhưng đường đèo khó đi. Cả trường có 245 em nhưng nhà trường chọn 100 em nghèo nhất để nhận quà áo ấm thuộc các sắc tộc: H’Mông, Dao đỏ, Tày, Dáy, Nùng. Các em đi chân đất đến trường vì không có dép. Một số em thì mặc áo thay cho mặc quần. Mặc dù trời đang mưa rét nhưng các em vẫn coi đó là chuyện bình thường vì “không mặc gì” đã quen rồi. Một phụ huynh nói: “Chiếc áo ấm này là món quà rất quí đối các cháu. Từ hôm nay, các cháu có áo ấm đến trường và chắc chắn các cháu giữ gìn thật cẩn thận để đón Tết nữa”.

Tạm biệt trường Tiểu học Bản Phiệt chúng tôi men theo quốc lộ 70 để đến với trường Mầm non và Tiểu học thôn Vi Mã Trên thuộc thị trấn Phong Hải, cách thành phố Lào Cai khoảng 30km về hướng đông bắc. Vào tới nơi mà chúng tôi vẫn không biết đó là trường học, vì trường học là nhà văn hóa thôn. “Trường” này chỉ vỏn vẹn 3 phòng. Học cả sáng chiều thì được 3 lớp, còn các lớp khác thì học ở trường Mầm non gần đấy. Phần lớn các em được cha mẹ gửi xuống trường để họ đi làm nương rẫy chứ không hẳn là gửi xuống để đi học! Hoàn cảnh của các em ở đây thật đáng thương, mùa đông khắc nghiệt như vậy mà các em chủ yếu là đi chân đất, khá hơn một chút là có đôi dép tổ ong. Mỗi em được phát một cái áo mới. Các em tự tay mặc hay các bạn mặc cho nhau. Niềm vui thấy rõ trên khuôn mặt các em khi có chiếc áo ấm mới.

Điểm trường tiếp theo chúng tôi tới là trường Tiểu học Phong Hải, trường Tiểu học và Trung học Cơ sở Phong Niên. Ở 2 trường này, cách xa thành phố Lào Cai khoảng 40km về hướng đông bắc, các em dân tộc thiểu số H’Mông học bán trú. Điều kiện ăn và học của các em nơi đây dưới mức trung bình khá xa. Khi hỏi thăm các thầy cô giáo chúng tôi mới biết khẩu phần ăn của học sinh xã cho một phần, còn một phần là các gia đình tự đóng góp. Đó là một sự khó khăn ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi vì dân tộc H’Mông rất nghèo, ăn không xong thì lấy đâu đóng góp.

Chia tay các thầy cô và các em trường Tiểu học và Trung học Cơ sở Phong Niên, chúng tôi không ít ngậm ngùi vì điều kiện và hoàn cảnh ở vùng cao và vùng xa này. Ước gì các nhà hảo tâm luôn mở rộng tình thương để chia sẻ cho những mảnh đời bất hạnh đang phải chịu cảnh cơ bần gần bên chúng ta. Vì thế, món quà mà giáo xứ Lào Cai chia sẻ cho các em học sinh nghèo chỉ là 400 chiếc áo ấm thôi. Tuy số lượng áo ấm không nhiều nhưng cũng đem đến cho các em rất nhiều niềm vui bởi không chỉ 400 em nhận áo vui mà còn phụ huynh các em vui, các thầy cô giáo tại các trường đó vui, chính quyền của các xã Bản Phiệt, thị trấn Phong Hải và xã Phong Niên thuộc huyện Bảo Thắng vui. Đó chính là “Món Quà Mùa Xuân”.

Chúng tôi cám ơn các nhà hảo tâm đã chia sẻ tấm lòng với các em trong mùa đông giá rét. Ước gì tinh thần của người Samaria nhân hậu vẫn luôn được thể hiện nơi mọi người chúng ta.
 
Hội Đồng Mục Vụ Giáo xứ và Ban Điều hành Đoàn thể trong Giáo Phận Đà Nẵng họp mặt
Toma Trương Văn Ân
10:49 08/02/2015
ĐÀ NẴNG - Lúc 9 giờ sáng thứ bảy ( 7.2.2015), Ban Thường Vụ- Hội Đồng Mục vụ (BTV- HĐMV) Giáo xứ và Ban Điều hành các đoàn thể Giáo phận Đà Nẵng cùng quây quần quanh ĐGM Giáo phận và Cha Tổng Đại diện tại hội trường Tòa Giám mục. Mục đính các thành viên trong gia đình Giáo phận gặp gỡ nhau, mặc dù hoàn cảnh và điều kiện khác nhau nhưng luôn sống trong tình hiệp thông một thân thể mầu nhiệm Chúa Ki-tô là Giáo Hội, và cùng Chầu Mình Thánh tạ ơn Thiên Chúa, vì muôn ơn Ngài đã ban cho Giáo phận và từng thành viên trong năm vừa qua.

Hình ảnh

Anh GB Nguyễn Vinh Thiên – Trưởng BTV- HĐMV Giáo xứ Hội An (Giáo xứ Niên Trưởng, 400 năm của Giáo Hội Việt Nam), Đại diện các Giáo xứ và các đoàn thể cấp Giáo phận, cám ơn Chúa, cám ơn Đức Cha Giuse, Cha Tổng. Trong năm qua các Ngài đã hy sinh rất nhiều, chăm lo Mục vụ cho tất cả cộng đoàn và Giáo xứ. Anh và mọi người hiện diện cùng hiệp dâng lời nguyện: xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành xuống cho Đức Cha và Cha Tổng. Một giỏ quà kính dâng lên Đức Cha, tượng trưng cho rất nhiều quà và đăc sản tất cả các Giáo xứ và Đoàn thể mang đến, tỏ lòng hiếu thảo và biết ơn Vị cha chung.

Trong dịp này, ĐGM cám ơn mọi thành phần Dân Chúa đã cộng tác với Giáo phận trong thời gian qua, nhất là trong Năm Thánh Kép, Lễ 50 năm thành lập Giáo phận và 400 năm đón nhận hạt giống Tin Mừng… và mới gần đây đón Đức Hồng Y Fernando Filoni – Tổng Trưởng Thánh Bộ Loan báo Tin Mừng, qua ĐHY tỏ lòng yêu mến Đức Thánh Cha. Cám ơn Chúa, dư âm còn lại trong mỗi người chúng ta là nỗ lực canh tân đời sống để trở thành nhân chứng Tin Mừng trong môi trường mình đang sống, đang làm việc.

ĐGM thông báo cho cộng đoàn các kết quả tốt đẹp và những khó khăn về mọi vấn đề của Giáo phận. Ngài cũng nêu những chương trình dự kiến cho tương lai trong thời gian gần và xa, Ngài mời gọi sự cộng tác một cách triệt để nơi mỗi người Tín hữu trưởng thành bằng việc đóng góp cách thiết thực về nhân lực, trí lực vật lực và tài lực cho Giáo Hội địa phương là Giáo xứ và Giáo phận, trong đó có vấn đề lạc quyên tạo ngân quỹ cho hoạt động Mục vụ của Giáo phận.

Tiếp đó, Đại diện các Giáo xứ và đoàn thể nêu lên những ý kiến về tất cả các vấn đề khúc mắc khó khăn để ĐGM và cộng đoàn cùng lắng nghe, cầu nguyện và giải gút tháo gỡ….. Trong đó có vấn đề cơ sở hạ tầng, đất đai và xây dựng tại một số Giáo xứ; vấn đề hội nhập văn hóa, Tin Mừng hóa phong tục tập quán truyền thống của dân tộc, những cái hay cần phát huy, những cổ hủ cần loại bỏ và Chương trình Thăng tiến Hôn nhân tại các Giáo xứ, vì gia đình là tế bào gốc của Giáo Hội và xã hội.

Lúc 11 giờ, cộng đoàn cùng Chầu Mình Thánh Chúa, xin Chúa chúc lành và ban bình an cho Hội Thánh, ĐTC và mọi thành phần Dân Chúa. Tạ ơn Chúa vì muôn ơn Ngài đã thương ban, tạ lỗi vì những thiếu sót lỡ lầm và dâng lên Thiên Chúa tương lai của Giáo xứ, đoàn thể mình đang sống, đang làm việc và Giáo phận trong tâm tình tin yêu phó thác, hiệp nhất với nỗ lực đồng trách nhiệm cộng tác hết mình.

Một bữa cơm thắm tình gia đình Giáo phận kết thúc ngày gặp gỡ của Ban Thường Vụ HĐMV và Ban Điều hành các đoàn thể cấp giáo phận.
 
Lễ xức dầu thánh và mừng thọ tại Phủ Cam Huế
Trương Trí
18:57 08/02/2015
“Nhân sinh thất thập cổ lai hy”: Tuổi 70 xưa nay là hiếm. Vì vậy Giáo xứ Chính tòa Phủ Cam có thông lệ là hằng năm tổ chức lễ Xức Dầu và Mừng Thọ các cụ cao niên vào dịp Tết Nguyên Đán.

Hình ảnh

Tuy nhiên, những năm trở lại đây, số cụ được mừng thọ quá đông nên Giáo xứ đã qui định lại chỉ mừng thọ từ 75 tuổi trở lên. Vậy mà năm nay số cụ được mừng thọ cũng lên đến 254 người, trong đó có 45 nữ tu thuộc Hội Dòng Mến Thánh giá Huế.

Sáng hôm nay 8/2/2015, Giáo xứ long trọng tổ chức Thánh lễ xức Dầu và mừng thọ cho 254 cụ già trong giáo xứ. Thông thường Thánh lễ Chúa Nhật bắt đầu lúc 5giờ30, nhưng để bảo đảm sức khỏe cho các cụ vì thời tiết giá rét nên Thánh lễ bắt đầu lúc 6giờ. Trong số 254 cụ thì có 27 cụ thượng thọ trên 90 tuổi được cài hoa Hồng đỏ trên ngực, 135 cụ trên 80 tuổi được cài hoa Hồng vàng, các cụ dưới 80 tuổi thì cài hoa màu hồng. Cụ cao tuổi nhất là 97 tuổi.

Trong bài giảng lễ, Cha Tổng Đại diện Antôn Dương Quỳnh, Quản xứ Chính tòa chia sẻ: tất cả mọi người trên trần gian này đều phải trải qua đau khổ, có nhiều người vì quá tuyệt vọng nên có lúc đã nghĩ đến cái chết.

Ngài nêu lên trường hợp ông Gióp trong Cựu ước: ông Gióp là một người công chính, hết lòng thờ phượng Chúa. Vậy mà cuộc đời ông trải qua nhiều đau thương, nhà cửa tan nát, con cái thì chết, vợ con nguyền rủa. Bản thân ông bị lỡ loét cả người, giòi bọ rúc rĩa. Người đời nguyền rủa và cho rằng ông bị Thiên Chúa quỡ phạt.

Trong Tân ước thì có một đám người bệnh tật nan y, họ thất vọng và chán nãn vì phải sống trong cảnh tối tăm, họ hằng mong ước sẽ được ai đó chữa lành bệnh tật, nhưng không ai có đủ khả năng.

Ông Gióp vẫn luôn hướng tâm hồn mình đến với Chúa, luôn trung thành với Đức Tin. Những người bệnh tật thì luôn tin tưởng rằng chỉ có Thiên Chúa mới có uy quyền để cho họ lành được bệnh.

Ông Gióp đã được Chúa nhậm lời, vì Chúa thử thách Đức Tin của ông, và cũng để làm gương sáng cho mọi người. Chúa đã cho ông của cải dư đầy hơn trước. Đám người bệnh tật thì được chính Chúa Giêsu ra tay chữa lành bệnh tật.

Những sự kiện trên đây cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của Đức Tin. Trong những lúc đau khổ bệnh tật mà sinh ra chán nãn, mất lòng tin vào Chúa thì sự đau khổ đó vẫn còn đeo bám mãi. Còn những ai vẫn tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa thì Chúa sẽ nâng đỡ.

Năm mới mở ra một lo toan mới, chúng ta phải kiên trung với Đức Tin để được Thiên Chúa ban ơn vượt qua mọi gian nan thử thách.

Lễ Mừng Thọ và Xức Dầu để làm vơi đi những ưu tư, buồn phiền, bệnh tật của tuổi già. Chúng ta kính trọng và yêu thương các cụ, vì các cụ là những tấm gương sáng cho con cháu noi theo. Lúc còn trẻ các cụ đã dày công vun đắp xây dựng Giáo xứ ngày càng vững mạnh, lúc tuổi già các cụ dâng lời cầu nguyên cho Giáo xứ và cho mỗi một người chúng ta.

Giáo xứ cũng xin tri ân các nữ tu Dòng Mến Thánh giá, là những người đã cộng tác với Giáo xứ trong công việc mục vụ.

Cha Quản xứ và 2 Cha Phó cùng xức dầu cho các cụ hiện diện trong Thánh lễ với một lòng quý trọng.

Kết thúc Thánh lễ, Giáo xứ đã trao tặng cho các cụ mỗi người 1 phần quà mừng tuổi. Tổng số kinh phí đã là 26 triệu đồng.
 
Văn Hóa
Truyện Ngắn: Phố ABỒ
Nguyễn Trung Tây
10:26 08/02/2015
□ Nguyễn Trung Tây
Truyện Ngắn: Phố ABỒ



Alice Springs? Gớm! Cái phố nhỏ như mắt muỗi, có đốt đuốc cháy mười ngày cũng chẳng nom thấy đâu trên bản đồ nước Úc.

Chẳng bù lại cho Sydney, tòa nhà con sò Opera trắng toát kim cương, lấp lánh bạc vàng. Cầu Harbour bắc ngang lung linh soi bóng màu xanh biêng biếc đại dương. Đêm giao thừa, pháo bông bắn chạy dọc ngang đốt sáng rực một cõi thiên thai. Tuyệt vời! Thiên đàng hạ giới!

Melbourne, thành phố văn hóa một ngày bốn mùa duyên dáng như cô gái tuổi hai mươi lăm, không quá trẻ để mà ngớ ngẩn ăn nói vô duyên mất lòng thiên hạ, mà cũng không đã toan về già tàn phai nhan sắc.

Brisbane, khu phố Việt rộn ràng hàng quán. Muốn dựa mận thịt chó hả? Cứ kín đáo ghé vào nói nhỏ mấy câu thôi. Nhớ! Đừng có ồn ào tuồng như chợ trời Dandenong, thiên hạ Úc Châu biết, người ta cười cho vào mặt. Ừ, nói nho nhỏ thôi. Bồi bàn trong bếp khệ nệ bưng ra ngay tô medium, bốc khói thơm mùi mẻ cười cười nói khẽ dựa mận kangaroo chính hiệu con nai vàng Úc Châu.

Adelaide và Perth nào chịu thua kém, bên tám bên mười, tiết canh lòng lợn, mỗi phố một vẻ mười phân vẹn mười. Tới đi, biết liền. Bảo đảm thịt chó chính hiệu Kiếm Đen Ông Tạ! Nếu không hài lòng với đặc sản, chủ quán đích thân lái xe Bimmơ đi thẳng một mạch tới quầy móc túi hoàn trả lại bằng tiền tươi.

Nhỏ nhất phố cảng Darwin. Nhưng nhắc tới tên ai mà lại không biết thị trấn Nhất Kiếm Trấn Ải. Phố Darwin nhiệt đới nổi danh xoài tượng chấm mắm tôm, nhãn tiến vua hột bé đầu kim bán từng chùm dọc vỉa hè phố Việt! Buồn buồn, muốn bay về Việt Nam, JetStar bán vé khứ hồi Darwin-Sài Gòn, rẻ như bèo! 90 đồng một vé. Ngủ bốn tiếng trên phi cơ. Mở mắt ra, Sài Gòn hoa lệ chớp sáng dưới chân.

Đấy!

Ai đâu như cái chấm đen Alice Springs! Thiên hạ có mấy người biết. Hỏi thăm hàng xóm Việt Nam xa gần,

— Này, này, có biết cái phố Alice Springs ở đâu không?

— Ai mà biết! Hình như Alice Springs hàng xóm, sát nách Darwin đấy…

Khổ! Hỏi han khô cả nước miếng mà người Việt nào có mấy người biết… Lên trang mạng Google đánh đại vào hai chữ Alice Springs cầu may. Khi đó mới tá hỏa tam tinh. Chết chửa! Alice Springs nằm ngay giữa nước Úc, toàn là dân Abồ (Aboriginal), thổ dân Úc Châu chính hiệu. Thành thật thú nhận, nói chung dân Úc gốc Việt không biết nhiều về phố sa mạc Alice Springs. Có gọi cứ như gọi đò sang sông mà cũng chẳng có ma nào ghé viếng thăm phố…thì thôi… xin phép, cứ gọi là phố Abồ. Cho tiện!

Phố Abồ trên dưới ba mươi ngàn dân. Mùa hè tháng Chạp trời nắng cháy đỏ quăn tin tít mái tóc, thiên hạ rủ nhau chạy trốn xuống phương nam phố Adelaide tránh hạn. Khi đó Abồ vắng hoe tựa phố ma ám! Nhưng đừng có nhìn mặt mà bắt hình dong! Sau tháng Giêng, gió hây hây thổi mát lòng người, dân phố Abồ lườm lượt rủ nhau “cóc chết ba năm, quay đầu về núi!”. Khi đó phố vắng lại đông tựa như hồn ma ngày cúng cô hồn! Phố Abồ nhỏ đến nỗi dạo chơi thong thả khoảng ba mươi phút là hết nhẵn. Khu phố chính, giời ạ! đếm được đúng hai con đường, một, Hartley, hai, Todd Mall. Hartley, công sở, thương xá và chợ búa; dân địa phương và khách du lịch dập dìu ban ngày. Todd Mall, ngược lại, rộn ràng khoe sắc về đêm. Mặt trời vừa biến mất sau rặng núi xa xa, quán sá tuần tự hú nhau bật đèn, soi đường dẫn lối du khách rủng rỉnh túi tiền vào ăn tối. Trong quán tiếng Đức tiếng Pháp trộn lẫn tiếng Tàu tiếng Hàn xì xà xì xào. Ngoài đường quân ta chính gốc Abồ hét tiếng thổ. Thế là nguyên hình phố Abồ phơi ra. Hợp Chủng Quốc thứ hai! Đủ sắc dân, đủ loại người!



oOo

Hôm nay trưa tháng Giêng, phố Abồ nóng kinh hồn! Nhiệt độ mùa hè chỉ cao con số 42 đỏ bầm tiết canh! Thiên hạ nhăn mặt nhăn mũi, trốn hết. Nhưng lạ chưa, cha xứ nhà thờ Abồ đang ngồi ăn trưa tỉnh bơ trong quán. Mặt ông đỏ bừng bừng, chẳng biết tại rượu vang đỏ hay tại trời nắng gắt. Người tinh mắt kháo với nhau cha xứ nhà mình hồi xưa đeo bông tai. Không tin, bữa nào cứ làm bộ kéo ghế ngồi sát sát phía bên tay trái. Lỗ xỏ nhìn vẫn còn rõ mồn một.

Nhiều người không ưa cha xứ nhà thờ Abồ bởi nhiều lý do. Thứ nhất, ông làm cha mà chẳng ra vẻ cha cụ tí nào. Mở miệng là có tiếng đệm, tiếng Đan Mạch um xùm tựa dân trà đá, xích lô,

— Con bà nó!...

Thiên hạ khó chịu cự nự rùm trời,

— Cha cụ thời nay, đố có ai hiểu!

Y phục xứng kỳ đức! Cha cụ Kangaroo, mặc dù không cổ trắng áo chùng thâm đen như cha cụ Việt Nam, nhưng ai nấy đều có cây thánh giá nho nhỏ cài cổ áo. Nhìn biết liền cha cụ. Cha xứ nhà thờ Abồ… Well, xin lỗi, năm thì mười họa cài được cây thánh giá vào áo. Nhưng kiếng hiệu Versace, ông có hai, một kiếng râm, một kiếng cận. Đồng hồ Longines nhận hột kim cương nổi cồm cộm tay trái. Tối tối mười hai con số phát sáng dạ quang nhìn đẹp rực rỡ như bầu trời sa mạc lấp lánh sao đêm. Quần, áo, giầy, ông chơi toàn đồ hiệu, CK, Giorgio Armani, Kenneth Cole. Không thiếu! Đủ cả! Thiên hạ không nhịn được, bĩu môi, buông nhời,

— Hèn chi giáo xứ nghèo! Ván lễ nào cũng hai ba lần quyên góp!

Nhưng cái rắc rối khiến ông nổi tiếng nhất vùng là bởi thằng Quasimodo. Khổ! Ông nuôi thằng bé gần mười lăm năm nay rồi. Hồi đó ông nói với giáo dân mẹ nó người Abồ chết vì ung thư. Trước khi nhắm mắt qua đời, ông kể chuyện, người phụ nữ thều thào,

— Cả đời con chưa bao giờ mở miệng ăn mày nhà thờ...

Nhắm đôi mắt đã gần lạc thần, người đàn bà thổ dân bập bẹ đôi môi nứt nẻ,

— Giờ, con chỉ xin Chúa, xin nhà thờ một chuyện mà thôi...

Ông nói ông bị đặt vào tình thế bỏ thì thương mà vương thì tội. Trước mặt một người đang hấp hối, chẳng lẽ cương quyết lắc đầu? Ai nỡ! Nhưng làm cha cụ, trông coi một giáo xứ hẳn hoi, giờ mang thằng nhỏ về nuôi, thật đúng đẽo cầy giữa chợ. Thiên hạ bàn ra tán vào, ông chịu sao thấu!

Nghe ông kể chuyện, có người không kiêng nể, cắc cớ hỏi thẳng thừng,

— Vậy bố nó đâu? Sao không giao thằng bé cho bố đẻ nó nuôi?

Ông sa sầm nét mặt, chép miệng, nói mà như than, nói mà như đang nói với chính mình,

— Khổ! Nào có biết bố nó ở đâu!

Ông thểu não bổ túc chi tiết như người khai cung,

— Tôi có hỏi nhà thương, nhưng họ nói không biết... Đơn nhập viện, cô ấy để trống tên bố thằng nhỏ!

Có người hỏi tới,

— Sao cha không tới làng của cô ấy mà hỏi cho ra lẽ…

Ông thở dài sườn sượt,

— Biết! Tôi cũng đã cất công lái hơn ba tiếng đồng hồ đường đất tới đó. Nhưng ai cũng nói cô ấy bỏ đi lâu lắm rồi. Nghe nói nấu bếp cho ai đó… Mấy tháng trước ôm thằng con trai mấy tháng về nền đất cũ, dựng lại túp lều… Rồi đổ bệnh…

Vuốt lại đôi mắt cho người một thời nấu bếp cho nhà xứ, ông bế thằng nhỏ về nhà xứ. Mấy hôm sau ông làm giấy khai sinh, đặt tên John, nhưng vẫn giữ nguyên họ mẹ. Thiên hạ cắc cớ thì thào truyền miệng gọi thằng nhỏ Quasimodo, tên của nhân vật thằng gù nhà thờ Đức Bà. Riết, cái tên đẹp đẽ, chẳng ai nhớ. Mở miệng ra là,

— Quasimodo… Mày đâu rồi, Quasimodo?

Mà thằng bé lành như Bụt. Nghe thiên hạ gọi Quasimodo, cũng quay lại, miệng cười tươi, nhe hai hàm răng trắng bóc người Abồ. Thế là chết tên!

Quasimodo giờ cũng đã lớn tướng. Mười ba tuổi rồi. Thiên hạ thì thào,

— Khéo vẽ! Làm bộ dựng chuyện mẹ nó dân Abồ, chết vì ung thư.

— Ừ! Nhìn mặt nó đi, ai dám biểu dân Abồ…

Mà cũng khó trách thiên hạ lời ong tiếng ve. Quasimodo người Abồ, nhưng trắng tươi màu da Viễn Đông, tóc không quăn tít, nhưng thẳng, cứng, đen, sợi tóc dầy và bóng…

— Thì cứ đợi đi...

— Đợi cái gì?

— Thì còn đợi cái gì? Đợi nó lớn hẳn hoi, ắt biết!

— Biết cái gì?

Người đàn ông gắt gỏng,

— Ơ hay! Biết cái gì? Thì biết ai là bố đẻ của nó ngay chứ còn biết cái gì…

Người kia càu nhàu,

— Vẽ chuyện. Cần gì phải đợi. Cứ thử DNA thì lòi ra ngay. Việc gì phải chờ! Rách việc!

Người kia không vừa, tay chỉ về phía nhà xứ,

— Ông nói hay lắm. Sao không tới thẳng nhà thờ, gõ cửa, nói với ông ấy…con nhờ cha dẫn thằng Quasimodo tới phòng Lab lấy máu thử nghiệm… Chỉ được cái tài tán hươu tán vượn!

Ngoài vụ thằng Quasimodo, thiên hạ gặp nhau hay tụm ba tụm bẩy thì thào,

— Ổng gặp đàn bà con gái là miệng cứ tươm tướp…

— Nè, ăn nói phải cho cẩn thận. Ở đây tai vách mạch rừng. Dầu sao người ta cũng người tu hành…

— Tu hành cái mốc xì! Bụt ngồi trên chùa, gà nào mổ mắt! Nhìn mặt biết liền thầy chùa thịt chó!

— Sao chị biết?

— Tối thứ Ba, ghé vào tiệm Paradise. Thấy liền… Lộ nguyên hình!

Người kia nhăn đôi chân mày kẻ chì nét nhỏ xíu, mặt ngớ ngẩn hỏi lại,

— Paradise? Tiệm nào vậy cà?

— Bà nội! Kỳ này đổi tánh rồi hay sao? Melbourne, bà là chuyên viên sòng bài cơ mà…

Người phụ nữ cự nự,

— Chị, cái tật cứ ưa nói quá! Tiền đâu mà sòng bài với sòng bạc. Bỏ lên phố Abồ là nương nhờ cửa chùa, xuống tóc đi tu rồi.

Người kia gật gật đầu, nhìn người đối diện, ánh mắt nghi ngờ,

— Để coi! Anyway… Paradise là tiệm ăn của sòng bài lớn nhất phố. Bữa nào quởn quởn, tui dẫn tới đó ăn tối cho biết.

— OK. Nói, nhớ giữ lời. Ủa, nhưng đang nói chuyện ông cha cơ mà, giờ sao đổi đài nói chuyện tôi bà nội!

— Ừa hén, quên! Chiện là như thế này. Có mấy lần thứ Ba, tui ghé vào Paradise ăn tối. Tối thứ Ba, Paradise on sale. Mua hai phần ăn, người thứ ba được ăn free. Cho nên tối thứ Ba quán ăn đông nghẹt. Ta nói lần nào cũng vậy, bước chân tới quán là thấy ổng ấy xúm xít với mấy bà mấy cô, nhất là gái Phi... Ông thần, thiệt hết nước nói!

Người đàn bà thì thào,

— Mà nói cái này, chỉ có bà chị nghe thôi. Đừng có oang oang cái miệng. Tới tai ổng, ổng cự tui tắt đài.

Người phụ nữ mặt khẩn trương,

— Có mấy lần tui còn thấy ổng ấy kéo máy. Lấp lấp trong xó, sợ người nhìn thấy. Nhưng có mà thoát được cặp mắt của tui.

Bà ta bĩu môi,

— Nhà thờ thì nghèo, giáo dân toàn dân Abồ, tiền lương được mấy đồng! Cái này chắc là lại ngứa ngáy tay chân, móc tiền nhà thờ táy máy kéo máy...

Bà ta bồi một cú chót,

— Bài giảng Chúa Nhật, Chúa Mẹ không thấy nhắc nhở, cứ mở miệng là tiền. Trăm lần cả trăm. Không thiếu lần nào! Ai cũng ngáp, chán ngấy như cơm nếp nát!

Người phụ nữ gốc Melbourne như chợt nhớ ra, thắc mắc,

— Sao bà không đi lễ nhà thờ khác?…

Người kia bĩu môi, dài cả tấc,

— Có mà đi lễ nhà thờ khác!

— Ủa! Sao vậy?

— Nhìn đi! Quanh đây có nhà thờ nào khác cho người ta shop around...

Đúng là như vậy! Ngẩng lên hướng bắc, nhà thờ Tennant Creek, 508 cây số đường trường. Chẳng lẽ gia đình con cái túm tụm dẫn nhau lái xe năm tiếng đồng hồ thánh lễ cuối tuần. Được một ván lễ, mất toi mười tiếng lái xe. Có mà khùng! Quay xuống hướng nam, ngót nghét 650 cây số dẫn tới nhà thờ hầm Coober Pedy, đường xa vạn dậm. Ngó sang hướng đông có nhà thờ thổ dân nhỏ bằng cái lỗ mũi, đường đất đỏ đá sỏi góc cạnh 80 cây số. Lái khoảng một tiếng, banh-ta-lông luôn cả cái xe đời mới. Nhìn về hướng tây, đồng không mông quạnh. Thôi, đành chịu phận cá nằm trên thớt!

Đó, nom cho kỹ đi. Ông bà mình nói, “Ba mặt một nhời”… Đó! Quán Gardens nổi tiếng trên đường Todd Mall, ông cha xứ vẫn còn đang ngồi với mấy người thân, người xấu miệng gọi đó là tay chân, lính của ổng. Tiếng cười tiếng nói râm ran, cứ như chợ phiên Todd Mall họp cuối tuần.

Thiên hạ đang nhăn nhăn mặt nhìn, bất ngờ tiếng chân chạy huỳnh huỵch trên mặt đường nhựa nổi lên lôi kéo nhiều người chuyển hướng. Tưởng ai, hóa ra thằng Quasimodo. Mặt nó tái xanh! Sợi tóc lòe xòe bay phất phới theo bước chân chạy. Nó thì thào vào tai ông cha xứ mấy câu. Tới phiên ông, mặt đang đỏ bừng bừng, chuyển sang xanh tái. Ông kêu to, “Chúa ơi!” Ông vội vàng đứng dậy, hốt hoảng bỏ đi. Thiên hạ hiếu kỳ, xếp hàng rồng rắn nối đuôi theo sau.

Chuyện chi vậy cà?

Từ quán ăn về tới nhà xứ trên dưới năm phút. Một đoạn đường ngắn. Vượt qua cánh cửa nhà thờ lúc nào cũng mở rộng, mọi người hốt hoảng nhìn lên tượng Đức Mẹ Abồ. Người người hốt hoảng nhận ra thánh nữ đồng trinh máu đỏ ngấn tròn con mắt trái!!! Dưới chân tượng, những hạt máu đọng lại vẫn còn đỏ tươi…

Thiên hạ người người rú lên!

Một người bình tĩnh bước tới, giơ ngón tay quẹt nhè nhẹ vào giọt máu dưới chân tượng. Ông đưa ngón tay lên mũi ngửi ngửi. Mặt ông tái xanh, miệng nói ngay, “Mùi máu tanh nồng!”. Người đàn ông nhìn qua khung cửa, bầu trời xanh ngăn ngắt bỗng dưng vần vũ kéo mây đen. Ông quỳ thụp xuống ngay dưới chân tượng, trái tim thép nguội từ bao lâu nay bỗng dưng mềm nhũn, đôi môi ông thầm thì lời kinh! “Kính mừng Maria! Đầy ơn phúc”…

Tiếng đồn vang xa, chẳng mấy chốc cả phố Abồ kéo tới chật ních sân giáo đường. Vòng trong vòng ngoài người san sát. Người Abồ, dân Úc, người Ấn Độ, Phi Luật Tân, đủ cả, dân địa phương cũng như du khách, tất cả sát sát… Tiếng người đọc kinh, tiếng người thì thào, tiếng khóc sụt sùi, tiếng đấm ngực thùm thụp, tiếng khóc nức nở! Tất cả trộn lại, tưởng như tận thế đã tới, bắt đầu từ phố Abồ…!



oOo

Cha xứ Abồ rút lui vào trong phòng, không quên treo ngoài khung cửa nhà xứ bảng chữ to tướng, “Closed”!

Ông suy nghĩ, không hiểu chuyện gì đã xảy ra! Tượng thạch cao Đức Mẹ Abồ đứng ở đó cả chục năm nay rồi. Từ những ngày đầu tiên khi đặt chân tới phố Abồ nhận nhiệm sở mới, ông đã nhìn thấy tượng đứng cao trên bệ, góc trái nhà thờ, ngay dưới chân cột trụ của gác ca đoàn. Giáo dân nhiều người như một thói quen thường lệ, sau thánh lễ, hay dừng một bước chân trước tượng đài đốt nến cầu xin. Tiếng đồn Đức Mẹ Abồ linh thiêng vang xa, bởi nhiều người đã nhận được ơn. Bởi thế, tượng đài hương khói nghi ngút. Sáng sớm, lái xe tới công sở, giáo dân dừng lại một bước chân, ghé vào đốt nến, đọc một lời kinh. Chiều, tan sở, người người ghé vào, lại đốt nến cầu xin. Ban ngày có người Abồ, đôi tay chắp lại đầu cúi xuống. Chiều tối du khách lời kinh râm ran một góc nhà thờ. Thông thường, tượng đài chỉ vắng bóng người sau khi ông đóng cửa nhà thờ lúc 8 giờ tối. Vào giây phút đó, chính ông cũng đã nhiều lần đốt nến, quỳ xuống đọc những lời kinh cho mẹ ông và người thân. Hoặc vào những lúc bối rối, tượng đài là nơi ông ghé vào. Ông quỳ đó, đầu cúi xuống, suy nghĩ và cầu nguyện…

Cũng bởi tượng đài linh thiêng, đã rất nhiều lần ông mở cửa văn phòng, chỉ đế tiếp đón những người khách hoàn toàn lạ mặt. Nói chuyện được mấy câu, ông mới biết họ người Sydney, Melbourne, và cả từ khắp nơi trên thế giới. Qua một lần dừng lại nghỉ ngơi tại phố Abồ, nghe đồn tượng đài linh thiêng, Công Giáo cũng như không Công Giáo, họ đến trước tượng đài, đốt nến cầu nguyện với Đức Mẹ Abồ. Ơn trời tuôn đổ, người hiếm muộn, về tới nhà, tự nhiên thụ thai, sinh con, mà lại sinh đôi, một trai một gái đề huề. Ông nhớ, trưa hôm đó, người triệu phú Hong Kong một thời hiếm muộn vừa khóc vừa nói lời cám ơn Đức Mẹ, tay đưa ra hộp quà nho nhỏ nói, xin phép, kính tặng nhà thờ. Ông để món quà trên ghế, rồi cũng quên đi. Mấy ngày sau, thằng Quasimodo vô tình nhìn thấy. Nó cầm lấy, gõ cửa đưa cho ông. Ông hờ hững mờ ra coi. Cả ông và thằng Quasimodo khi đó mới giật mình nhận ra đồng hồ Longines nhận hạt kim cương hột to, mười hai con số dạ quang sáng lấp lánh!?

Cứ thế, giữ chùa ăn oản, ông sở hữu bao nhiêu hàng hiệu nổi tiếng của du khách từ khắp năm châu ghé vào tạ ơn Đức Mẹ và nhà thờ. Tuần một lần, lái xe vô buôn làng người Abồ công tác, ông mang theo quần áo hàng hiệu chia đều. Người Abồ ghé vào nhà thờ gặp ông xưng tội, ông dẫn tới tủ của hội bác ái Vinnies, lấy đồ ra tặng. Tùy trường hợp, có khi đôi giầy Kenneth Cole, khi cái áo CK.

Làm cha xứ nhà thờ Abồ, hai điều khiến ông hằn sâu vết nhăn là tệ nạn đánh bạc và hiện tượng ăn sương của phố nhỏ. Sòng bài nổi tiếng giữa phố, lúc nào cũng dập dìu giáo dân của ông, đông nhất người Phi Luật Tân, kế tiếp dân Abồ. Làm được bao nhiêu tiền, con chiên của ông ghé vào sòng bài, nướng hết! Có những lần nhận được bản tin, biết là dễ bị mang tiếng thị phi, nhưng ông liều, đi thẳng tới khu kéo máy, năn nỉ giáo dân của ông đứng lên, đổi tiền, đi về nhà. Nể mặt cha xứ, nhiều người ngần ngại bỏ đi. Mà thiệt tình, không về cũng không được với ông, bởi ông cứ đứng đó, nói tới nói lui. Đánh bạc mà có người đứng cạnh lải nhải như ma âm phủ, dù có đang là vận đỏ cũng hóa đen thui! Thua là cái chắc!

Nhưng ông lỳ, có người còn lỳ hơn ông! Gia đình người này, năm mặt con thơ. Nhưng khổ! Tiền lương, hai vợ chồng nướng sạch! Năn nỉ hoài, không được! Ông đứng bên cạnh máy kéo, lôi ra tràng hạt đọc kinh Mân Côi. Ông to tiếng cầu nguyện với Đức Mẹ Abồ. Không biết tại Đức Mẹ Abồ linh thiêng hay bởi ông lỳ lợm, hai vợ chồng nhà này đứng dậy, bỏ đi thẳng một mạch. Từ ngày hôm đó, họ không ghé vào sòng bạc nữa. Ai nói gì thì nói, ông, ông tin Đức Mẹ Abồ đã hoán đổi tâm hồn đôi vợ chồng.

Riêng cái vụ ăn sương! Chuyện là như thế này… Abồ là phố du lịch. Thiên hạ từ khắp nơi trên thế giới nườm nượp đổ về phố nghỉ qua đêm, sáng hôm sau lái xe thêm năm tiếng nữa thăm viếng hòn đá Uluru hoàng hôn đổi màu rực rỡ. Du khách năm châu kéo về, tình hình kinh tế phố Abồ vững vàng như kiềng ba chân. Nhà hàng năm sao, khách sạn mười tầng, văn phòng du lịch dựng cao bảng hiệu phục vụ túi tiền du khách. Nhưng kỹ nghệ du lịch cũng dẫn tới kỹ nghệ ăn sương. Nhiều người phụ nữ, sau một đêm trắng tay với sòng bạc, liều lĩnh bán mình cho khách du lịch. Tối thứ Ba nhà hàng Paradise là nơi khách ghé vào chọn lựa hàng hóa: Úc Châu tóc vàng, Abồ ngăm ngăm, đủ cả, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu. Tiền trao ra, cháo múc liền! Tú bà tú ông cứ thế ngồi đếm tiền mỏi tay!

Làm cha cụ, thấy cảnh cờ bạc sa cơ lỡ bước dẫn tới cùng đường liều lĩnh của giáo dân, chẳng lẽ ông nhắm mắt làm lơ? Mai này trước tòa Chúa, ông biết ăn nói ra sao. Một lần nữa, cực chẳng đã, tối thứ Ba, ông lại phải ghé vào nhà hàng rảo mắt trông chừng, dù biết có nhiều ánh mắt chăm chú theo dõi, những đôi môi thì thào khi thấy ông tự động kéo ghế ngồi chung bàn với những người phụ nữ, cũng chính là giáo dân của ông…

— Hi, Linda…

— Wow! Father! What a surprise!… What’re you doing here?

— What am I doing here? Well, I just want to have dinner.


Cứ thế.

Ông chép miệng, ông không vào địa ngục, ai sẽ vào? Đã có mấy lần, ông kịp thời xuất hiện khuyên răn người phụ nữ dừng bước trước khi lún sâu vào trong vũng bùn.

Tú bà tú ông giận lắm! Bởi ông hốt đi gần hết những miếng mồi thơm. Còn lại được mấy mạng, nhăn nheo tóp tép, chẳng ma nào nhòm! Bởi thế, có lần nửa đêm về sáng, chuông điện thoại trong phòng ngủ reo inh ỏi. Ông lồm cồm ngồi dậy, tưởng nhà thương gọi xức dầu. Nhưng không, đầu giây bên kia giọng nghèn nghẹt như người lấy hai ngón tay kẹp lỗ mũi. Hăm dọa nổi lên,

— Còn léo hánh tới Paradise phá đám, ông cắt…cho mày chừa… Lúc đó đừng trách không báo trước…

Bởi ông lì đòn, tình hình giáo xứ mấy năm nay đã tạm yên. Giáo dân bớt đi hoang… Ngày Chúa Nhật cuối tuần người người tấp nập kéo về thánh đường tham dự thánh lễ sốt sắng. Sòng bạc giữa phố vắng teo, ế như chùa Bà Đanh!

Mặc dù biết cờ bạc là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều tệ đoan xã hội, nhưng từ bao nhiêu lâu nay chính quyền Abồ vẫn không làm chi được. Nay thấy ông cha xứ thành công dẹp tiệm sòng bài, giải tán băng đảng ăn sương, nhiều lần chính quyền Northern Territory và phố Abồ ghé vào nhà xứ kín đáo nói cám ơn.

Chỉ riêng có cái vụ thằng Quasimodo, cha xứ nhà thờ Abồ lắc đầu, vẫn là mối bận tâm lớn, ông chưa biết giải quyết ra sao. Nó càng lớn, tóc càng đen, khuôn mặt Á Châu càng rõ nét, ông lại càng ngong ngóng chờ… Càng chờ, ông càng băn khuăn, tối tối ông hay quỳ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ Abồ...

Ông nhớ chiều hôm đó, Sở Di Trú từ Darwin ghé vào văn phòng nhà xứ. Qua câu chuyện, ông mới biết hiện tượng thuyền nhân Việt Nam, tưởng đã chấm dứt từ lâu, nhưng không. Nhân viên Sở Di Trú lần đó nhờ ông bay lên trạm cấm tỵ nạn Darwin làm thông dịch viên cho một gia đình Việt Nam. Thuyền gỗ nhổ neo, lênh đênh mặt biển hơn hai tuần lễ. Cuối cùng bị cảnh sát biên phòng Úc Châu chặn bắt ngoài khơi. Gia đình gồm hai vợ chồng, và mấy người con. Ông chồng đánh cá, một thời sống ở thành phố, tướng người lanh lợi, mặt mũi sáng sủa, dẻo miệng, trong khi đó cô vợ nhu mì hiền lành, người thấp nhỏ. Về sau ông mới biết, sau một lần vụng trộm, gia đình đằng gái phải vừa gả vừa dúi vào tay ông con rể đào hoa mấy lạng vàng cho xong chuyện. Nhận lời mời của Sở Di Trú, cha xứ Abồ bay lên Darwin, ghé trại cấm, thường xuyên thăm viếng. Khi cả gia đình được nhận tái định cứ tại Úc, cũng chính Sở Di Trú mở miệng nhờ ông ký giấy bảo lãnh. Ông nhận lời, mang cả gia đình tỵ nạn về phố Abồ…

Người chồng làm Bõ coi sóc nhà thờ, đốt nến, đóng cửa. Được hơn một năm, gia đình ông Bõ rời phố Abồ, dọn nhà về Springvales, phố Melbourne. Giáo dân ngạc nhiên nhận ra cùng thời gian đó, người bếp gốc Abồ, tự nhiên biến mất. Nhiều người hỏi, nhưng cha xứ nhà thờ Abồ yên lặng hoặc lơ lơ lãng sang chuyện khác…

Đã gần mười lăm năm nay…

Ông cha xứ ngước nhìn qua khung cửa sổ. Trời chiều mùa hè chạng vạng, nhọ nhem mặt người. Ông nhìn đồng hồ treo tường, gần chín giờ tối. Ông đứng dậy, đầu óc vẫn còn rối bời. Liếc nhìn qua khung cửa, ông nhận ra mặc dù hai cánh cửa sắt nhà thờ đã khóa chặt, một vài bóng dáng giáo dân quen thuộc còn đang chờn vờn đi tới đi lui trên sân nhà thờ. Từ chiều tới giờ, chuông điện thoại liên tục reo vang, nhưng ông quyết định không trả lời.

Ông thắc mắc không hiểu ai là tác giả câu chuyện lạ. Có thể sòng bài Paradise kiếm cách phá ông. Một lần ông nhận được bưu kiện, tưởng chi, mở ra, bên trong nguyên cây thánh giá bằng gỗ, bị bẻ gẫy đôi! Ông biết họ muốn nói gì. Rồi cũng chính sòng bài nhiều lần tung tin đồn ông lăng nhăng. Có lần họ trả tiền giáo dân viết thư lên Tòa Giám Mục tố ông thậm thụt tiền nhà thờ đi đánh bài và bao gái. Nhưng nếu sòng bài muốn triệt hạ ông, tại sao họ lại dựng lên hiện tượng thánh nữ đồng trinh khóc chảy máu?

Bước ra khỏi cửa phòng, ông nhìn mùa hè còn rơi rớt trên sân vườn nhà xứ những tia nắng thoi thóp. Ông quyết định bước thẳng tới cánh cửa bên hông nhà thờ. Tay vặn chià khóa, ông đẩy cánh cửa gỗ sang một bên. Ông nhìn cung thánh, tay làm dấu, rồi quay sang hướng tay phải. Tượng thánh nữ đồng trinh vẫn đứng đó, im lìm. Ông bước tới, chăm chú nhìn lên khuôn mặt Đức Mẹ Abồ. Máu đỏ của con mắt trái to tròn đã khô. Ông nhìn xuống dưới chân tượng, những hạt máu đỏ khô vẫn còn đó. Ông cúi xuống thấp, ngửi ngửi… Đúng mùi máu! Ông lại ngước lên nhìn. Khuôn mặt thánh thiện Đức Mẹ Abồ vẫn hướng lên cao… Ông ngước lên nhìn theo. Ông nhận ra phía trên là căn gác lửng, nơi ca đoàn tập hát và hát lễ Chúa Nhật. Ông bước từng bước chậm lên thang gỗ ọp ẹp dẫn lên gác… Trên gác đàn, lờ mờ trong bóng đêm đen, ông nhận ra vẫn là những hàng ghế gỗ lặng lẽ im lìm. Ông đã quay lui, tính bước xuống…

…Nhưng bóng người sau cây đàn dương cầm bất ngờ lù lù đứng dậy! Ông giật mình, nghẹt thở, trái tim co lại như bị người bóp chặt. Tay che miệng, ông ú ớ, muốn hét to…

— Chúa tôi!

Bóng đen vội vàng cúi đầu,

— Con chào cha…

Trong bóng đêm mờ mờ của căn gác, khuôn mặt người đàn ông dần dần hiện ra…

— Con, con là ông Bõ… Cha quên con rồi sao?

Ông trợn mắt nhìn… Hơi thở cha xứ nhà thờ Abồ bỗng dưng nặng nề, dồn dập, như người lên cơn suyễn,

— …Thì ra là anh…

Ông Bõ năm xưa chỉ vào bắp chân, thì thào,

— Con vượt trại tù, bị cảnh sát bắn. Tới được nhà thờ, con trốn lên gác ca đoàn. Lúc lết lên bực thang, máu từ vết thương nhỏ rớt xuống… Con xin lỗi!!!

Ông thở hắt ra, hai tay ôm ngực! Hóa ra là vậy! Ông yên lặng nhìn người đối diện, chậm rãi điều hòa lại hơi thở… Trong bóng đêm, ông đã nhận ra ông Bõ năm xưa, giờ này đầu cạo nhẵn bóng, áo tù màu xanh lờ mờ con số và tên họ, AS 201 Nguyen… Người đàn ông cúi đầu, hít sâu, ngần ngại nói,

— Con buôn hàng “trắng”! Ra tòa, phạt tù chung thân. Con bị giam hơn mười năm rồi. Tháng trước, họ chuyển con lên đây…

Bóng đen nhìn ông, mắt long lanh,

— Con xin lỗi cha. Con biết con có lỗi!!!

Người đàn ông hít sâu vào buồng ngực,

— Cháu, cháu, chắc nó lớn lắm rồi...

Ông cha xứ vẫn đứng đó, yên lặng, nhưng lần này ông thở mạnh, hơi thở hắt ra! Ông nghe được tiếng trái tim đập dồn dập... Ác mộng năm xưa nay lại về, mang theo nguyên vẹn hình dáng! Đây chính là người đã từng làm ông mang tiếng hơn mười lăm năm nay. Hôm đó ông không hiểu tại sao ông Bõ tự dưng gõ cửa xin phép dọn đi. Gần một tháng sau, ông thấy cô bếp có nhiều triệu chứng lạ. Ói mửa lung tung! Lại hay ợ chua! Người thân ghé tai ông nói nhỏ, “Cô ấy có bầu”. Nhận được bản tin, ông tưởng sét đánh ngang tai! Ông là cha xứ, giờ tự nhiên người bếp độc thân có thai. Làm sao ông ăn nói với giáo dân! Không còn chọn lựa nào khác, ông đành phải dứt lòng cho người bếp nghỉ việc. Hai năm sau, cô ta quay về lại phố Abồ. Trước khi chết, cô trối lại thằng Quasimodo cho ông… Tiếng đồn thằng bé con ông bay tới tai bề trên. Ông bị gọi vào, khiển trách, không ý tứ, để nhà thờ mang tiếng! Ông không nói chi, yên lặng ngậm bồ hòn đắng nghét trái tim! Ông biết, khi thiên hạ có thành kiến, có nói gì cũng thế! Ông để thời gian trả lời; nhưng sâu thẳm trong lòng, ông cảm thấy như bị người thân đâm lén một nhát sau lưng, vết thương chí mạng!

Ông đã tới địa chỉ tại Springvales, nhưng hàng xóm nói người đàn ông đã dọn nhà… Thế là ông trở thành bố thằng Quasimodo.

Những lần nghe thiên hạ xì xào, ông giận muốn nghẹt thở! Mặt ông nóng bừng. Ông tự trách mình vớ vẩn, dễ tin, giờ rước họa! Chỉ được một cái Quasimodo lớn nhanh mà lại ngoan, không lêu bêu đầu đường xó chợ, sáng chiều giật chuông nhà thờ, chăm chỉ giúp lễ. Quasimodo, đứng trên cung thánh giúp lễ, hai tay chắp lại nhìn thánh thiện như thiên thần. Nó hay nói lớn lên con sẽ đi tu làm cha nhà thờ. Nghe nó nói như vậy, ông cũng tạm nguôi ngoai, cảm thấy được an ủi.

Nhìn ông Bõ năm xưa mở miệng xin lỗi, khuôn mặt thành khẩn, cha xứ nhà thờ Abồ hít vào thật sâu, thở ra nhè nhẹ… Cơn giận âm ỉ trong lòng bao nhiêu lâu nay chầm chậm bốc hơi, tan loãng! Ông bỗng dưng thấy cả một cõi lòng nhẹ tênh, thanh thản. Những vết nhăn trên trán dãn ra khi nhớ tới thằng Quasimodo, ông nói chầm chậm,

— Nó lớn tướng rồi. Ngoan lắm…

Nhìn sâu vào khuôn mặt người đối diện, ông nửa đùa nửa thật,

— Càng lớn càng giống bố như hai giọt nước!

Lần đầu tiên từ lúc bất ngờ hội ngộ trên gác đàn, người tù nhân toét miệng cười, nụ cười thằng Quasimodo được thừa hưởng,

— Thật hả cha…

Tiếng pháo giao thừa bất chợt nổ vang… Giờ này đã nửa đêm. Tiệm Tàu dưới phố đốt pháo đón Xuân…

Ông cha xứ đưa tay ra nắm bàn tay ông Bõ năm xưa,

— Thôi, đi vô nhà bếp, bóc bánh chưng ăn mừng năm mới!

Người tù bước đi nhanh nhanh, mặc cho vết thương bắp chân còn đang ri rỉ máu. Ông lắp bắp, vừa nói vừa hỏi,

— Vâng, vâng! Nhưng xin cha cho con nhìn mặt thằng bé trước. Nó, nó tên gì vậy hả cha?

□ Nguyễn Trung Tây
Alice Springs, NT, Australia
www.nguyentrungtay.webs.com
 
Dê trắng Dê đen
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
10:37 08/02/2015
Trong 12 con Giáp, Dê đứng hàng thứ 8. Tháng Sáu thuộc tháng Mùi. Giờ Mùi từ 13 -15 giờ. Dê là vật nuôi gần gũi và thân thuộc với cuộc sống con người. Dê đực có sừng, dê cái thì không. Nét đặc trưng là cả dê đực và dê cái đều có râu. Dê là dương, tượng trưng của mặt trời, sự thịnh vượng và ánh sáng. Dê được xem là biểu tượng của tính ôn hòa, thuần hậu. Dê là một trong những thần vật được người Ai Cập sùng bái. Một số dân tộc còn dùng Dê làm vật tế thần. Theo văn hóa Đông phương, Dê thuộc “tam sinh, lục súc”. Tam sinh là ba thứ lễ vật đặc biệt để cúng tế thần thánh: dê, heo và bò; lục súc là sáu gia súc thông dụng nhất: dê, gà, chó, heo, ngựa và trâu. Theo văn hóa Tây phương, Dê nằm trong 12 cung hoàng đạo với hình tượng Ma Kết.

Xuân Ất Mùi đang về, tản mạn ngụ ngôn “Dê đen - Dê trắng” và tính cách người tuổi Mùi.

1. Ngụ ngôn Dê đen và Dê trắng

Một gia đình nông dân nọ có nuôi một đàn dê, trong đó có một chú Dê đen. Các con Dê trắng rất kiêu ngạo vì bộ lông trắng phau như tuyết, thường tỏ ra coi thường Dê đen, mô tả dê đen “giống như một kẻ nghèo hèn với
chiếc áo bẩn thỉu”.Ngay cả ông chủ cũng coi thường Dê đen, ông ta chỉ cho Dê đen ăn những loại cỏ kém chất lượng, thỉnh thoảng còn đánh đập Dê đen vì “tội” tranh ăn với Dê trắng. Dê đen rất đau lòng khi phải sống những ngày tháng cô đơn vì bị mọi người phân biệt đối xử, ghét bỏ và xa lánh.Một ngày đầu Xuân, cả đàn dê cùng ra ngoài ăn cỏ, chúng đi rất xa. Đột nhiên trời đổ một trận mưa tuyết lớn, cả đàn đành nấp vào một bụi cây. Một lúc sau, xung quanh bụi cây đã phủ đầy tuyết trắng. Do tuyết dày nên cả đàn dê không sao ra được, chỉ còn cách ngồi chờ chủ đến cứu.Ông chủ lên núi tìm đàn dê của mình, nhưng vì xung quanh toàn tuyết trắng, nên ông không sao phát hiện ra đàn dê ở đâu. May mắn thay, từ xa ông nhìn thấy có một đốm đen. Khi chạy tới, quả nhiên cả đàn dê đang bị kẹt ở đó, và đốm đen kia chính là Dê đen.Ông chủ ôm lấy Dê đen và thốt lên: “May mà nhờ có mày, nếu không cả đàn đã chết cóng vì tuyết rồi”. Các Dê trắng cũng ôm lấy Dê đen và cảm ơn rối rít. (x. Ephata 640, Bản dịch của Trầm Thiên Thu).

Ngụ ngôn “Dê trắng và Dê đen” gợi nhớ câu chuyện Phúc Âm: hai người lên Đền Thờ cầu nguyện (Lc 18,10-14). Sự tương phản giữa hai thái độ của con người. Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đức ái hơn nguời khác. Người thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát, khinh chê.Hai mẫu người đối lập cùng bước vào Đền thờ và làm cùng một công việc là cầu nguyện. Tại đây, sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét khi tâm tính và thái độ sâu kín được bộc bạch trước nhan Thiên Chúa. Người Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa, con cảm tạ Chúa vì con không giống các người khác, không tham lam, không bất công, không ngoại tình hay như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng một phần mười thu nhập của con. Người Biệt phái đang báo cáo thành tích. Ông nói điều ông đã làm và những gì ông làm thì không chê vào đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối chồng, không đam mê tội lỗi, thậm chí về phần đạo đức bác ái, ông còn làm quá điều luật dạy.Thường người ta chỉ ăn chay một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông ăn chay hai ngày trong tuần. Luật buộc các nông dân nộp một phần mười sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân tất cả thu nhập của ông. Đây là lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Không thấy ông xin gì cho bản thân. Lời cầu nguyện chỉ là lời tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân: Vì tôi không như bao người khác, tôi không như tên thu thuế kia. Rõ ràng người Biệt phái tốt lành quảng đại nhưng lại tự phụ khoe khoang, khinh người. Đây là biểu tượng cho hạng người hay chúc tụng, tôn thờ bản thân mình. Thật đúng, kiêu căng đứng trước trong danh sách bảy mối tội đầu.

Người thu thuế đến thú tội, anh ý thức mình là tội nhân nên run rẩy xấu hổ, đầu cúi xuống chẳng dám ngước lên. Anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người Pharisiêu (hay như tên thu thuế kia), nên anh thấy khỏi cần cáo tội mình. Anh chỉ còn đặt mình trước nhan Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hoà với anh em. Anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình bất xứng. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi anh ngọt ngào biết bao. Anh cảm thấy đầy niềm tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì anh biết rằng: dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, dù thủ đoạn như vua Đavít đã cướp vợ giết chồng người khác nhưng họ đã hết lòng ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã sẵn lòng tha thứ; dẫu rằng cả toàn dân bỏ Chúa và bị bắt lưu đày Babylon, lại bị thủ tướng Aman ra tay diệt trừ nhưng trong cơn cùng khốn như thế, hoàng hậu Ette cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ; hay tội lỗi như dân ngoại Ninivê, Thiên Chúa còn thương, bắt buộc Ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ biết cải tà qui chính, Thiên Chúa liền tha thứ cho họ khi họ sám hối chân thành. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung cùa Thiên Chúa, anh càng đấm ngực hết lòng ăn năn.

Đức Giêsu kết luận: Người thu thuế trở nên công chính còn người biệt phái thì không được…. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.

Người thu thuế ra về và được tha hết mọi tội, tâm hồn thành trắng trong.Người biệt phái ra về tội lỗi vẫn cứ còn đó.Cái tôi nặng quá nên còn phải gánh thêm sức nặng của tội lỗi nữa, thật đáng thương cho đời một người quá tự kiêu tự mãn.

Tội lỗi hay hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho bằng tính tự mãn thói kiêu căng. Người thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi nên đã làm mất đi sự công chính, nhưng hành động khiêm tốn biết nhìn nhận mình tội lỗi và hết lòng thống hối nên được công chính trước Thiên Chúa. Khiêm nhường có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính.Trái lại, kiêu ngạo tự mãn có thể biến điều tốt thành điều xấu. Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, là gốc rễ của các nhân đức. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã nói: Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và gái điếm, nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hoả ngục có cả Hồng Y, Giám Mục nhưng không có người khiêm nhường.

Khiêm nhường bao nhiêu cũng không đủ, chỉ một chút kiêu ngạo cũng quá nhiều. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở tâm hồn ra để đón nhận. Tội lỗi hay công đức đều có thể làm người ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa.

2. Năm Dê và người tuổi Mùi

Ngụ ngôn “Dê đen và Dê trắng” gợi lên ý tưởng sống đẹp. Trong một nhóm, một hội đoàn, một tổ chức…mỗi người một tài năng, mỗi người một tính cách “bá nhân bá tánh”, ai cũng có sở trường và sở đoản, không ai bất tài vô dụng và cũng chẳng ai toàn diện tài giỏi về mọi lĩnh vực. Vì vậy mình không nên thiển cận, đừng thành kiến và không đánh giá người khác theo hình thức bề ngoài. Cuộc sống luôn luôn cần tình yêu thương trong lối nhìn lối nghĩ về tha nhân.

Người tuổi Mùi sinh vào năm 1943,1955, 1967, 1979, 1991, 2003. Năm Ất Mùi cầm tinh con Dê là con vật dịu dàng và ôn hòa. Người tuổi Mùi vui vẻ, chân thật, thân thiết, sâu sắc, tốt bụng, dễ động lòng trắc ẩn với nỗi bất hạnh của người khác. Do đó, họ cũng được người khác quan tâm. Cần phát huy hết sở trường, người tuổi Mùi có tâm hồn nghệ sĩ, có năng khiếu thẩm mỹ, có thể trở thành những nghệ nhân có tính sáng tạo cao. Ngược lại, nếu không có những thành công về sự nghiệp, người tuổi Mùi có thể trở thành người bi quan, chán nản, yếm thế, vì họ là dạng người đa sầu đa cảm.Tính cách của người tuổi Mùi là hiền lành, bẽn lẽn, dễ mắc cở, nhưng hòa đồng. Họ hướng nội, sống khép kín, không thích chống đối, không thích đấu tranh, không muốn “đụng chạm”. Tuy nhiên, người tuổi Mùi vẫn gặp may mắn trong sự nghiệp và tài chính.Người tuổi Mùi không thích bị bó buộc, thích cuộc sống phẳng lặng. Thái độ làm việc của người tuổi Mùi có thể khiến người ta khó chịu, nhưng biết sao được vì đó là thuộc tính của họ. Khi gấp, người khác có thể cuống cuồng, nhưng người tuổi Mùi vẫn từ từ, thản nhiên. Với đặc tính ôn hòa, người tuổi Mùi có thể kết bạn với những người mạnh mẽ, biết “khống chế” họ. Họ cần ở những nơi có nội quy nghiêm khắc để phát huy hết sở trường.

Con Dê có những đặc tính tốt như vui tươi, lanh lẹ và dễ nuôi. Cầu chúc mỗi người bước vào năm mới Ất Mùi luôn hân hoan, nhanh nhẹn và dễ dàng sống thích nghi hoà hợp với mọi người.

Xuân đến, ánh thái dương của tiết trời nắng ấm toả xuống chan hoà cho trái đất hồi sinh, cây cỏ xanh tươi, muôn hoa đua nở khoe sắc tỏa hương, lòng người phấn khởi, vui tươi hạnh phúc, ai cũng chúc cho nhau những lời tốt đẹp: sức khỏe, an khang, thành công, may lành. Trên mọi lời chúc, tuyệt vời nhất chính là lời chúc của Đức Giêsu Kitô: “Bình an cho anh em”(Ga 20,19). Gặp nhau, đến thăm nhau những ngày Tết, mỗi người ghi nhớ Lời Chúa: “Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy” (Mt 10,12).
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hoa Sứ Ngày Xưa
Diệp Hải Dung, Australia
22:14 08/02/2015
HOA SỨ NGÀY XƯA
Ảnh của Diệp Hải Dung, Australia
Hoa sứ buồn ủ rũ.
Lạnh ướt một bàn tay.
Hoa vẫn ngát hương bay.
Như ngày nào gặp gỡ..
(Trích thơ của Thanh Trắc Nguyễn Văn)
 
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu: 03/02 – 09/02/2015: Tình trạng tự do tôn giáo tại Miến Điện
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
05:58 08/02/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Công bố Sách giáo lý Công Giáo bằng tiếng Ba Tư

Khoảng 100 triệu người trên thế giới nói tiếng Farsi, tức là ngôn ngữ chính thức của người Iran hay còn gọi là Ba Tư. Giờ đây, Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã có một phiên bản bằng ngôn ngữ này. Đó là một bản dịch đã mất 12 năm để hoàn thành bởi khoảng 1,000 chuyên gia.

Trong buổi ra mắt tại Vatican hôm 31 tháng Giêng, Đại sứ Mohammed Taher Rabbani của Iran nói:

"Công việc này được thực hiện bởi Đại học Tôn giáo của Iran, nhằm thúc đẩy đối thoại giữa các tôn giáo, đặc biệt là giữa các tôn giáo độc thần."

Đức Hồng Y Jean-Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Đối thoại Liên tôn, đã trình bày với báo chí về cuốn sách. Ngài hy vọng cuốn Giáo lý này sẽ cải thiện sự sống chung giữa các tôn giáo ở Trung Đông.

Đức Hồng Y nói:

"Người không Công Giáo có thể mở cuốn sách và tự mình thấy được những yếu tính của đạo Công Giáo."

Vatican hy vọng rằng ấn phẩm mới sẽ trở thành một tài liệu hữu ích cho người Công Giáo trong khu vực. Tiếng Ba Tư được nói chủ yếu ở Iran và các nước láng giềng như Afghanistan và Uzbekistan.

2. Sứ thần Tòa Thánh tại Venezuala bị mưu sát, 4 nhà thờ bị tấn công

Bốn nhà thờ Công Giáo bị trúng bom xăng và thậm chí Sứ thần Tòa Thánh, là Đức Tổng Giám Mục Aldo Giordano, đang ở thăm thành phố Mérida, đã là mục tiêu của các cuộc tấn công.

Sự việc xảy ra vào lúc bình minh sáng 31 tháng Giêng theo báo cáo của cha Luis Sánchez, linh mục giáo xứ El Llano, trong khu vực quận El Llano ở Merida.

Thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc cũng đã nhận được báo cáo của Villca Fernández, thuộc phong trào Hiệp Thông và Giải Phóng Venezuela, người đã lên án "các cuộc tấn công là ghê tởm và hèn nhát" chống lại Giáo Hội

"Các cuộc tấn công này cố gắng gieo rắc nỗi kinh hoàng và sợ hãi trong dân chúng Mérida. Một cuộc tấn công chống lại một nơi thờ phượng là một cuộc tấn công vào quyền tự do tôn giáo và chống lại các di sản lịch sử của Mérida ".

Đại học Movement, thông qua các mạng xã hội, đã ngay lập tức kêu gọi một buổi cầu nguyện trước nhà thờ El Llano để bày tỏ sự ủng hộ đối với Tòa Thánh và lên án các hành vi bạo lực.

Đức Tổng Giám Mục Aldo Giordano được báo cáo là bình an vô sự.

3. Tòa Thánh kêu gọi Liên Hiệp Quốc bảo vệ các thiếu nữ và phụ nữ trong những vùng đang có xung đột

Hàng trăm ngàn phụ nữ và thiếu nữ Iraq và Syria bị bắt cóc và bị bán như nô lệ tại Trung Đông hay bị buộc làm nô lệ tình dục cho các chiến binh Hồi Giáo. Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York đã tố cáo như trên hôm thứ Sáu 30 tháng Giêng và cảnh báo về những nguy hiểm gây ra cho dân thường vô tội, đặc biệt là phụ nữ và thiếu nữ trong các cuộc xung đột vũ trang.

Đức Tổng Giám Mục Janusz Urbańczyk nói:

"Trong bối cảnh các cuộc xung đột, phụ nữ và thiếu nữ dễ bị tổn thương hơn vì não trạng xem thường nữ giới và vì họ là những mục tiêu bị tấn công trực tiếp như là một phần trong chiến thuật làm dân chúng khiếp sợ".

Ngài nói tiếp:

"Phái đoàn của tôi vẫn quan ngại về việc tiếp tục thiếu sự quan tâm và ưu tiên bảo vệ phụ nữ và thiếu nữ là những mục tiêu của các vụ tấn công hoàn toàn chỉ vì đức tin mà họ tuyên xưng. Sự thiếu chú ý và ưu tiên bảo vệ cho họ đang gây khó khăn trầm trọng cho các tín hữu Kitô là những người đang phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng ở một số vùng trên thế giới và trong những khu vực khác nơi các nữ sinh Kitô đang là mục tiêu của các cuộc tấn công."

4. Tổng thống Ai Cập kêu gọi các nhà lãnh đạo Hồi Giáo thực hiện "cuộc cách mạng tôn giáo" trong thế giới Hồi giáo

Hồi giáo có thực sự là một tôn giáo hòa bình hay không? Tổng thống Ai Cập dường như không nghĩ như vậy. Phát biểu tại hội nghị phát triển trong các quốc gia Hồi Giáo Trung Đông tại Abu Dhabi hôm thứ Năm 29 tháng Giêng, tổng thống Abdel Fattah el-Sisi của Ai Cập đã kêu gọi các nhà lãnh đạo Hồi giáo can đảm thực hiện một "cuộc cách mạng tôn giáo" trong thế giới Hồi giáo.

Ông nhận thấy rằng người Hồi giáo đang "làm mếch lòng cả thế giới." Và ông buộc tội không chỉ đơn thuần là một vài chiến binh, nhưng trên "toàn bộ umma" – nghĩa là toàn thế giới các tín hữu Hồi giáo.

Đây là những từ ngữ mạnh mẽ, đặc biệt những từ ngữ này đến từ nhà lãnh đạo của một quốc gia Hồi giáo. Thông thường, nhiều nhà lãnh đạo Hồi giáo chỉ dám đi xa đến mức đưa ra những cáo buộc theo đó các chiến binh thánh chiến đang xuyên tạc và lợi dụng những lời giáo huấn của "một tôn giáo hòa bình."

Một sự thật chắc chắn rằng các thành phần bạo lực chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số những người Hồi giáo trên thế giới. Nhưng mà thực tế này tự nó không làm người ta yên tâm. Robert Royal, viết trên tờ The Catholic Thing, rằng ngay cả một thiểu số nhỏ của người Hồi giáo trên thế giới cũng có nghĩa là giờ đây thế giới này đang đứng trước nguy cơ gây ra bởi "hàng chục triệu, hay hàng trăm triệu những kẻ khủng bố sống trên khắp thế giới."

Tổng thống al-Sisi đã đề cập đến một câu hỏi mà một thiểu số các nhà lãnh đạo và người Hồi giáo cũng như vài nhà lãnh đạo Công Giáo đã thẳng thắn đề cập đến sau khi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 nêu vấn đề này ra tại Đại Học Regensburg năm 2006. Đó là Hồi giáo có vấn đề với bạo lực.

Bước tiếp theo là vấn đề bạo lực này liệu có thể được giải quyết thông qua những cải cách hay cách mạng, như tổng thống al-Sisi đề nghị hay không? Hay xu hướng bạo lực là một khía cạnh nội tại của đức tin Hồi giáo?

5. Các nhà lãnh đạo Công Giáo Phi Luật Tân kêu gọi tái tục các đàm phán hòa bình với Mặt Trận Hồi Giáo

Các nhà lãnh đạo Công Giáo Phi Luật Tân đã lên tiếng kêu gọi tái tục tiến trình đàm phán hòa bình giữa chính phủ và một nhóm Hồi giáo đòi ly khai sau một cuộc chạm súng giữa hai bên ở phía Nam nước này.

Cuộc giao tranh kéo dài 12 giờ hôm 25 tháng Giêng đã xảy ra trong một giai đoạn quan trọng trong nỗ lực xây dựng hoà bình giữa các phiến quân của Mặt trận Giải phóng Hồi giáo Moro (MILF) và chính phủ.

Các quan chức Phi Luật Tân cho biết 44 quân nhân và khoảng một chục phiến quân đã thiệt mạng khi một lực lượng cảnh sát đặc biệt đang truy nã hai kẻ bị tình nghi khủng bố đụng độ với một số chiến binh Hồi Giáo tại thị trấn Mamasapano ở tỉnh Maguindanao.

Chính phủ và quân nổi dậy đang tiến hành những cuộc điều tra về nguyên nhân xảy ra sự việc. Biến cố này xảy ra chỉ một ngày trước cuộc điều trần của Quốc hội nhằm thông qua một dự luật hình thành một khu vực tự trị Hồi giáo tại quần đảo Mindanao.

Đức Tổng Giám Mục Antonio Ledesma của Cagayan de Oro, một trong các giáo phận trên quần đảo Mindanao, gọi cuộc chạm súng này là một "vụ việc rất đáng tiếc." Ngài nói với Catholic News Service, "Từ quan điểm nhìn xa hơn chúng tôi nghĩ là nên tiếp tục thúc đẩy tiến trình hòa bình vì bạo lực sẽ còn xảy ra nhiều hơn nếu thoả thuận này không được thông qua."

6. Liên Hiệp Quốc chỉ trích hòa thượng Ashin Wirathu Miến Điện

Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc về nhân quyền đã kêu gọi chính phủ Miến Điện lên án một hòa thượng Phật giáo đã dùng những từ hạ cấp để gọi một đặc phái viên của Liên Hiệp Quốc.

Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc về nhân quyền Zeid Ra'ad Al Hussein cho biết ý kiến của hoà thượng Ashin Wirathu có tính chất "kích động hận thù".

Ông nói:

"Tôi kêu gọi các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị ở Miến Điện phải dứt khoát lên án mọi hình thức kích động hận thù bao gồm cả những hình thức tấn công cá nhân đáng ghê tởm này".

Kể từ khi kết thúc chế độ quân sự ở Miến Điện, vào năm 2011, chủ nghĩa dân tộc Phật giáo, phần lớn là do các nhà sư bao gồm Wirathu chủ xướng, đã phát triển mạnh tại nước này.

Năm 2012, nhiều người bị giết và hàng ngàn người bị mất nhà cửa sau khi bạo lực nổ ra giữa Phật giáo và người Hồi giáo ở bang Rakhine, chủ yếu là trong vùng Rohingya. Bạo lực chống Hồi giáo đã bùng lên nhiều lần kể từ đó.

Bà Yanghee Lee, một người Đại Hàn, đã là đặc phái viên của Liên Hiệp Quốc trong chuyến đi 10 ngày tới quốc gia Đông Nam Á này. Trong cuộc họp báo hôm 21 tháng Giêng tại Yangon, bà Lee tố cáo sự kỳ thị có hệ thống chống lại người Hồi Giáo, những vụ tấn công khủng bố nhằm thanh trừng tôn giáo và điều kiện sống tồi tệ của người Hồi Giáo trong những trại tạm cư của Miến Điện.

Một ngày sau đó, hòa thượng Wirathu đã phát biểu tại một cuộc biểu tình trong đó ông chỉ trích sự can thiệp của Liên Hợp Quốc và tấn công bà Lee. Ông gọi bà là “chó má” và “phường điếm đàng”.

Wirathu sinh năm 1968. Bỏ học để xuất gia vào năm 14 tuổi. Năm 2001, vị hoà thượng này bắt đầu nổi tiếng vì tham gia trong nhóm 969 – là một nhóm Phật Giáo cực đoan chủ trương tận diệt Hồi Giáo. Năm 2003, Wirathu bị bắt và bị giới quân nhân cai trị nước này kết án 25 năm tù vì tội kích động hận thù tôn giáo, nhưng được trả tự do 7 năm sau đó, tức là năm 2010. Hòa thượng Wirathu hiện rất nổi tiếng tại Miến Điện. Ông đăng những bài thuyết pháp trên YouTube và có hơn 37,000 người theo dõi trên account Facebook của mình.

7. UNICEF và các tổ chức bác ái Công Giáo mở chiến dịch quyên góp cho các trẻ em nạn nhân chiến cuộc

10% trẻ em sống tại Trung Đông và vùng sa mạc Sahara đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh, thiên tai hoặc các tình trạng khẩn cấp nghiêm trọng. Con số này đã lên đến ít nhất là 230 triệu trẻ em. Trước tình trạng bi đát này UNICEF và các tổ chức bác ái Công Giáo mở chiến dịch quyên góp 2,7 tỷ euro để giúp đỡ trẻ em đang sống trong những tình huống bi thảm.

Gần 900 triệu Euro sẽ được sử dụng tại Syria, nơi cuộc nội chiến đã làm hơn 6 triệu trẻ em trở thành những người tị nạn trong đó hơn 1 triệu em đã phải ngưng hoàn toàn việc học. Số tiền này sẽ được sử dụng để hỗ trợ các nhu cầu cơ bản như chăm sóc y tế, giáo dục và nước uống.

500 triệu sẽ được gửi đến Tây Phi, nơi Ebola đã khiến hàng nghìn trẻ em trở thành trẻ mồ côi và bị xã hội xa lánh.

Tại châu Âu, số tiền cứu trợ sẽ tập trung vào Ukraine với 30 triệu Euros sẽ được sử dụng để giúp 2 triệu trẻ em sống sót sau cuộc xung đột tàn khốc vẫn đang tiếp diễn tại nước này.

Tại Nigeria, nơi bạo lực gây ra bởi nhóm Hồi Giáo cực đoan Boko Haram đã khiến hơn một triệu người phải di dời, hầu hết là chạy sang các nước láng giềng như Chad, UNICEF sẽ dành ra 26 triệu Euros.

Một ngân sách đáng kể sẽ được dành cho những khu vực khác, nơi mà bạo lực và tình trạng thiếu thốn lương thực đã gây ra những bất ổn như tại Cộng hòa Trung Phi, quốc gia nghèo thứ 7 trên thế giới.

Thật không may, danh sách các cuộc khủng hoảng trên thế giới tiếp tục được kéo dài ra thêm. UNICEF cho biết có đến 71 quốc gia nơi trẻ em đang cần sự trợ giúp khẩn cấp.

8. Nhà thờ làm hoàn toàn từ những tảng băng

Các linh mục và mục sư của nhiều hệ phái Kitô khác nhau đã làm phép một nhà thờ được làm hoàn toàn từ các tảng băng. Nhà thờ này chính thức hoạt động ngay từ Chúa Nhật 1 tháng Hai.

Ngôi nhà thờ này được xem là một biểu tượng xuất sắc về phong cách kiến trúc; và cũng là một biểu tượng về khoan dung tôn giáo.

Nhà thờ băng đá này được xây dựng trên một ngọn núi ở phía tây bắc của thủ đô Bucarest. Người ta phải dùng cáp treo ở độ cao 2,000 mét để đến được nhà thờ. Đây chủ yếu là nơi cử hành các đám cưới và thánh lễ cho các khách du lịch.

Nhà thờ đã được thiết kế giống hệt như một ngôi nhà thờ cổ ở Transylvania, được làm bằng những khối đá đã được cắt và hàn với nhau bằng nước và tuyết.

9. Đức Giáo Hoàng Phanxicô chia buồn với Mễ Tây Cơ về vụ nổ ở nhà thương phụ sản ở Mexico City

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bày tỏ nỗi buồn sâu sắc của ngài đối với các nạn nhân của một vụ nổ tại một bệnh viện phụ sản ở thành phố Mexico giết chết hai trẻ sơ sinh và một y tá. Hơn 70 người khác bị thương, hầu hết đều là trẻ sơ sinh.

Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, đã gởi điện tín chia buồn với Đức Hồng Y Norberto Rivera Carrera, Tổng Giám Mục của thủ đô Mexico.

Trước đó, Đức Thánh Cha đã gửi một tweet trên tài khoản twitter xin anh chị em tín hữu cầu nguyện cho các nạn nhân và gia đình của họ và xin Chúa ban cho họ sức mạnh và bình an.

Một cuộc điều tra về nguyên nhân gây ra vụ nổ hôm thứ Năm 29 tháng Giêng cho thấy đã có sự rò rỉ trong đường ống của một chiếc xe tải cung cấp khí đốt cho nhà bếp của bệnh viện, biến chiếc xe này thành một quả bom khổng lồ, gây ra một vụ nổ chấn động hàng nhiều dặm xung quanh.